Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Gatsby Vĩ Đại

Chương VIII

Tác giả: F. Scott Fitzgerald

Suốt đêm tôi không sao ngủ nổi. Tiếng còi chỉ đường cho tàu trong sương cứ rền rĩ không dứt ngoài Eo. Tôi như người ốm dở, chao đảo giữa thực tế lố bịch và những cơn mê khủng khiếp, man rợ. Khoảng gần sáng tôi nghe có tiếng xe tắc-xi lăn bánh vào đường xe chạy trong vườn nhà Gatsby. Ngay lập tức, tôi nhảy khỏi giường và mặc quần áo – tôi thấy có điều cần phải báo cho anh biết, cần phải nhắc anh đề phòng, sợ để đến sáng thì muộn mất.

Đi tạt ngang qua thảm cỏ nhà Gatsby, tôi thấy cổng trước vẫn để ngỏ và Gatsby đang tựa người vào một chiếc bàn trong gian tiền sảnh, vẻ hết sức ủ rũ vì chán nản hoặc mất ngủ.

– Không xảy ra chuyện gì cả, – Gatsby uể oải nói. – Tôi chờ, và đến khoảng bốn giờ sáng thì nàng ra cửa sổ, đứng độ vài phút rồi tắt đèn.

Toà nhà của anh tôi thấy chưa bao giờ nó mênh mông như trong đêm hôm ấy khi chúng tôi đi tìm thuốc lá qua các gian phòng rộng lớn. Chúng tôi gạt những tấm rèm cửa to như những cánh buồm, sờ soạng trên không biết bao nhiêu thước tường tối đen để tìm nút bật đèn – một lần tôi vấp ngã xoài người trên hàng phím của một chiếc đàn dương cầm ma quái. Chỗ nào cũng đầy bụi, bụi rất nhiều, không hiểu ở đâu ra. Các gian phòng có mùi ẩm mốc và bí, như thể đã bao nhiêu lâu chúng không được thông gió. Tôi thấy hộp thuốc không để đúng chỗ trên một chiếc bàn, trong hộp còn hai điếu thuốc đã mất mùi và mốc meo. Mở tung cánh cửa sổ dài của phòng khách, chúng tôi ngồi xuống hút thuốc, nhả khói vào trong bóng tối.

– Anh phải đi đi, – tôi nói. – Chắc chắn rồi họ sẽ tìm ra xe anh.

– Đi ngay bây giờ ư, hả người anh em?

– Đến ở một tuần tại Atlantic City hay lên ở Montreal.

Gatsby chắc sẽ không nghe theo lời khuyên của tôi. Anh thực không thể nào rời bỏ Daisy mà đi được chừng nào chưa biết nàng sẽ làm gì. Anh cố bám lấy tia hi vọng cuối cùng và tôi không đành lòng bứt anh ra.

Chính trong đêm ấy Gatsby kể cho tôi nghe câu chuyện lạ lùng về thời thơ ấu của anh với Dan Cody – anh kể ra với tôi vì “Jay Gatsby” đã vỡ tan ra như thuỷ tinh khi đụng phải sự độc địa tàn nhẫn của Tom và trò đùa rồ dại thầm kín kéo dài kia đã kết thúc. Tôi tưởng bây giờ anh sẽ thú nhận hết, không giấu giếm điều gì, nhưng anh chỉ muốn nói về Daisy.

Nàng là cô gái “con nhà” đầu tiên mà anh được biết từ trước đến giờ. Anh đã từng được tiếp xúc với hạng người như vậy với những tư cách khác nhau mà anh không nói ra, nhưng bao giờ ở giữa cũng có một hàng rào dây thép gai vô hình. Anh thấy nàng thật đáng say mê khao khát. Anh đến nhà nàng, đầu tiên

cùng đi với các sĩ quan khác ở doanh trại Taylor, sau đến một mình. Ngôi nhà làm anh choáng ngợp – anh chưa bao giờ được đặt chân vào một ngôi nhà nào tráng lệ đến vậy. Nhưng sở dĩ ngôi nhà ấy gây cho người ta một cảm xúc mãnh liệt đến nghẹt thở, chính là vì có Daisy. Nàng sống ở đó cũng tự nhiên thoải mái như anh sống trong túp lều của anh tại doanh trại vậy. Ngôi nhà này mang trong lòng nó một điều bí ẩn đầy sức hấp dẫn như một quả cây chín mọng, nó làm cho ta tưởng tượng ra những buồng ngủ trên gác lộng lẫy và dịu mát hơn mọi buồng ngủ khác, những trò nghịch ngợm diễn ra suốt dọc các hành lang, những chuyện tình lãng mạn không khô héo và bị xếp xó như những cánh hoa ép, mà tươi tắn, rộn rã hơi thở, thơm mùi những chiếc xe hơi mới choáng lộn và những điệu nhảy đi kèm với những bông hoa chẳng mấy khi héo tàn. Một điều nữa cũng kích thích anh là đã có nhiều người yêu Daisy rồi – nó càng làm tăng giá trị của nàng đối với con mắt anh. Anh cảm thấy sự có mặt của đám người ấy ở khắp mọi nơi trong nhà, và không gian còn tràn ngập hình bóng và tiếng vọng của những cảm xúc hãy còn sống động.

Nhưng anh hiểu rằng anh có mặt ở nhà Daisy là do một sự tình cờ lớn. Dù cho tương lai của anh dưới cái tên Jay Gatsby có rực rỡ đến đâu, hiện tại anh vẫn chỉ là một kẻ hai bàn tay trắng, không gốc gác và bất kì lúc nào cái vỏ bảo vệ vô hình là bộ quân phục của anh cũng có thể tuột khỏi vai anh. Vì vậy anh phải tận dụng đến mức cao nhất thời gian của mình. Anh chiếm đoạt lấy những gì có thể chiếm đoạt, vồ lấy mà ngấu nghiến, không đắn đo cân nhắc – cuối cùng anh đã chiếm đoạt được Daisy vào một đêm tháng Mười êm ả, chiếm đoạt nàng vì lẽ thực ra anh không có quyền động đến dù chỉ bàn tay nàng.

Lẽ ra anh phải khinh bỉ mình, vì chắc chắn anh đã chiếm đoạt nàng bằng cách lừa dối. Tôi không có ý nói anh đã khoe khoang những triệu đồng tiền ma của anh, nhưng anh đã cố ý gây cho Daisy một cảm nghĩ yên tâm: anh làm cho nàng tưởng lầm rằng anh là người cùng một tầng lớp với nàng, rằng anh hoàn toàn có khả năng trông nom chăm sóc nàng. Thực ra, anh tuyệt nhiên không có những khả năng đó, – anh không có một gia đình sung túc để hỗ trợ cho mình, anh bị lệ thuộc vào tính khí bất thường của một chính phủ không cá tính có thể đẩy anh đến bất cứ nơi nào trên thế giới.

Nhưng Gatsby đã không khinh bỉ mình và tình hình đã không diễn ra như anh tưởng tượng. Có lẽ anh chỉ có ý định chiếm đoạt lấy những gì có thể chiếm đoạt được, xong rồi bỏ đi – nhưng nay anh nhận ra mình đã lao vào việc theo đuổi một mục tiêu vô vọng. Anh biết rằng Daisy là khác thường, nhưng anh chưa hiểu nổi một cô gái “con nhà” thực ra có thể khác thường đến đâu. Nàng tan biến vào trong ngôi nhà giàu sang của nàng, vào trong cuộc sống giàu sang, đầy đủ của nàng, và bỏ lại cho Gatsby một cõi hư vô. Anh như cảm thấy mình đã kết hôn với

nàng, tất cả chỉ có vậy.

Hai hôm sau, khi gặp lại nhau, chính Gatsby lại là người bàng hoàng, như có phần nào bị phản bội. Hàng hiên nhà nàng lấp lánh những đồ xa xỉ mua được của các ngôi sao trời, chiếc xôpha bằng mây phát ra tiếng cót két xa hoa khi nàng ngoảnh mặt về phía anh để anh hôn lên khoé miệng kì cục và đáng yêu kia. Nàng bị cảm khiến giọng nàng càng khàn hơn và càng quyến rũ hơn bao giờ hết, và Gatsby ngột ngạt nhận ra vẻ tươi trẻ và bí ẩn chứa đựng và gìn giữ trong cảnh giàu sang, sự tươi mát của biết bao nhiêu quần áo, và Daisy, óng ánh như giát bạc, yên ổn và kênh kiệu bên trên những cuộc vật lộn gay gắt của người nghèo.

– Tôi không mô tả nổi với anh tôi đã kinh ngạc đến đâu khi nhận ra tôi đã yêu nàng, người anh em ạ. Tôi thậm chí có lúc mong rằng nàng sẽ ruồng rẫy tôi, nhưng nàng đã không ruồng rẫy vì nàng cũng đem lòng yêu tôi. Nàng tưởng tôi biết rộng vì tôi hiểu biết những điều khác với nàng… Đấy, lúc bấy giờ tôi như thế, xa rời các hoài bão của tôi, mỗi giây phút càng ngụp sâu hơn vào trong tình yêu, và thế rồi đột nhiên tôi thây kệ. Làm những việc to tát để mà làm gì nếu như tôi có thể sống những giờ phút sung sướng hơn khi kể với nàng những việc tôi sẽ làm?

Buổi chiều cuối cùng trước ngày Gatsby lên đường đi chiến đấu ở bên kia đại dương, anh ngồi ghì chặt Daisy trong vòng tay, lặng yên giờ lâu. Đó là vào một ngày thu lạnh lẽo, trong phòng đốt lửa và má nàng đỏ bừng. Thỉnh thoảng nàng nhúc nhích và anh hơi dịch tay một chút, và có một lần anh hôn vào mái tóc bóng sẫm của nàng. Buổi chiều hôm ấy làm họ trầm lắng được một lúc, như để ghi sâu vào trong lòng họ kỉ niệm về cuộc chia li dài sẽ đến hôm sau. Trong một tháng yêu nhau chưa bao giờ họ cảm thấy gần gũi nhau như bây giờ, chưa bao giờ họ ngỏ lòng với nhau sâu sắc bằng lúc đôi môi im lặng của nàng cọ vào vai áo anh hoặc khi anh nhẹ nhàng chạm vào đầu ngón tay nàng, như thể nàng đang ngủ.

*

* *

Gatsby đã chiến đấu rất xuất sắc trong chiến tranh. Với chức đại uý trước khi ra chiến trường, anh đã được thăng chức thiếu tá sau các trận giao chiến ở Argonne và được cử chỉ huy các khẩu đại liên của sư đoàn. Sau ngày đình chiến anh ra sức tìm cách xin giải ngũ về nước, nhưng do có chuyện rắc rối hay hiểu nhầm gì đó, anh lại được gửi đến Oxford. Lúc này anh đang lo lắng – những bức thư của Daisy để lộ một tâm trạng bồn chồn tuyệt vọng. Nàng không hiểu tại sao anh không trở về. Nàng cảm thấy sức ép của thế giới bên ngoài, và nàng muốn gặp anh, muốn có anh bên cạnh để cảm thấy yên lòng là những việc mình

làm là đúng.

Bởi vì Daisy còn trẻ, mà trong cái thế giới giả tạo của nàng thì tràn ngập những hoa phong lan và những thói đời hợm hĩnh chỉ biết đến cười cợt đùa vui, những dàn nhạc ấn định nhịp điệu cho từng năm, ghi lại nỗi buồn và hình ảnh của cuộc đời thành những khúc nhạc mới. Suốt đêm, các cây kèn xắc-xô nức nở lời than vãn tuyệt vọng của bản nhạc “Điệu blue phố Beale” trong khi hàng trăm đôi dép vàng dép bạc làm tung lên lớp bụi óng ánh. Vào những giờ uống trà mờ tối, luôn luôn có những gian buồng chìm đắm liên miên trong cơn sốt nhè nhẹ êm dịu này trong khi những khuôn mặt tươi tắn trôi giạt đây đó như những cánh hồng bị hơi thổi của những cây kèn co buồn bã làm tung bay khắp sàn nhà.

Trong cái thế giới tranh tối tranh sáng ấy, Daisy lại bắt đầu giao tiếp khi mùa xuân đến. Đột nhiên nàng lại nhận lời mỗi ngày gần chục buổi hẹn hò với gần một chục chàng trai để rồi ngủ thiếp đi vào lúc bình minh với những chuỗi hạt trai và những tấm áo dạ hội nhàu nát vứt bừa bãi dưới sàn bên cạnh giường cùng với những cánh hoa lan tàn héo. Trong thời gian ấy luôn luôn có một nỗi niềm nào đó trong người thôi thúc nàng phải đi đến một quyết định. Nàng muốn cuộc sống của mình phải được định hình từ bây giờ, không chậm trễ. Mà làm được việc ấy phải là một sức mạnh nào đấy ở ngay cạnh nàng – sức mạnh của tình yêu, của tiền bạc, một sức mạnh hoàn toàn có giá trị thiết thực.

Cái sức mạnh ấy hiện ra vào giữa mùa xuân với Tom Buchanan. Con người anh, địa vị anh, có một cái gì đồ sộ, vững chãi, và Daisy lấy làm hãnh diện. Chắc cũng có diễn ra một sự giằng co nhất định nhưng cũng đi đến một tâm trạng nhẹ nhõm. Bức thư đến tay Gatsby khi anh đang ở Oxford.

*

* *

Ở Long Island bây giờ trời đã rạng, chúng tôi đi mở nốt các cửa sổ ở tầng dưới để cho ánh sáng chỗ thì nhờ nhờ xám, chỗ đã hoe hoe vàng ùa vào trong nhà. Bóng một thân cây ngả dài cắt ngang lớp sương đêm và những con chim như những bóng ma bắt đầu cất lên tiếng hót giữa đám lá còn nhuốm màu xanh lam. Trong không khí có một sự xao động nhè nhẹ dễ chịu, chưa hẳn là một làn gió, hứa hẹn một ngày mát mẻ và thú vị.

– Tôi không tin nàng đã có lúc nào yêu hắn, – Gatsby quay lưng lại cửa sổ, nhìn tôi với vẻ như thách thức – Anh phải nhớ rằng chiều hôm qua nàng bị khích động mãnh liệt. Hắn kể ra những chuyện ấy với nàng với dụng ý làm nàng khiếp sợ – làm tôi trông như một kẻ bất lương hèn mạt. Kết quả là nàng hầu như không hiểu mình nói gì.

Gatsby ngồi xuống, nét mặt u tối.

– Tất nhiên, có thể nàng đã yêu hắn trong chốc lát, hồi hai người mới lấy nhau –

để rồi sau đấy nàng lại yêu tôi hơn, anh hiểu không?

Bỗng nhiên anh đưa ra một nhận xét kì quặc.

– Dù sao, đó chỉ là chuyện riêng.

Qua câu ấy ta có thể hiểu như thế nào, nếu không phải ngờ rằng trong ý nghĩ của anh có một nỗi niềm day dứt mãnh liệt không lấy gì mà đo nổi?

Gatsby ở Pháp trở về lúc Tom và Daisy còn đang đi nghỉ tuần trăng mật. Anh đã dốc nốt số tiền lương sĩ quan còn lại cho một cuộc hành trình thảm thương không thể đừng được, đến Louisville. Anh ở lại thành phố này một tuần, đi trên những đường phố nơi tiếng chân của họ đã vang lên bên nhau trong suốt đêm tháng Một năm ấy và thăm lại những nơi hẻo lánh mà hai người đã tới bằng chiếc xe hơi trắng của nàng. Cũng như ngôi nhà của Daisy bao giờ đối với anh cũng bí ẩn và vui tươi hơn mọi ngôi nhà khác, ý nghĩ của anh về thành phố này, dù nay đã vắng bóng nàng, vẫn thắm đượm một vẻ đẹp u buồn.

Gatsby rời khỏi thành phố với cảm nghĩ giá anh cố công tìm kiếm có lẽ anh đã tìm thấy nàng, và nay thì anh đang bỏ lại nàng ở đằng sau. Toa xe hạng ba – túi anh bây giờ không còn một xu – rất nóng. Anh ra chỗ đầu toa ngỏ cửa, ngồi xuống một chiếc ghế gấp. Nhà ga lùi dần và mặt sau các toà nhà loang loáng lướt qua mắt anh. Khi tàu ra đến các cánh đồng mùa xuân, một chiếc xe điện vàng chạy theo nó trong một phút với những hành khách có lẽ đã từng thấy sắc thái huyền ảo của gương mặt nàng tình cờ trên đường phố.

Đường tàu lượn vòng. Giờ đây con tàu chạy quay lưng lại mặt trời đang lặn mỗi lúc một thấp hơn và dường như trải dài ra ban phước lành cho thành phố đang khuất dần, cái thành phố đã đem lại hơi thở cho nàng. Anh tuyệt vọng đưa tay ra như muốn thu lấy dù chỉ là một chút không khí, như muốn vớt vát lấy một mảnh nhỏ của xứ sở mà vì anh nàng đã biến thành mĩ lệ. Nhưng tất cả bây giờ đều lướt qua quá nhanh đối với con mắt đã nhoà tối của anh và anh biết rằng mình đã vĩnh viễn mất đi rồi mảnh đời ấy, mảnh đời tươi mát nhất và đẹp đẽ nhất của mình…

Ăn điểm tâm xong thì đã chín giờ sáng, chúng tôi ra ngoài thềm. Đêm đã làm thời tiết thay đổi hẳn và không gian nay đã có hương sắc mùa thu. Người làm vườn, người cuối cùng còn lại trong số các gia nhân cũ của Gatsby, đến chỗ chân thềm, thưa:

– Bẩm ông, hôm nay tôi sẽ tháo nước ở bể bơi. Lá sắp rụng, đến khi ấy ống tháo nước dễ bị tắc lắm.

– Đừng tháo hôm nay vội, – Gatsby đáp. Anh quay sang tôi giải thích. – Anh biết không, tôi chưa một lần dùng đến bể bơi suốt mùa hè.

Tôi xem đồng hồ và đứng dậy.

– Còn mười hai phút nữa là đến chuyến tàu tôi đi.

Tôi không muốn ra thành phố. Tôi không đủ sức làm việc gì cho ra hồn, nhưng không phải chỉ có thế – tôi không muốn rời Gatsby. Tôi đã lỡ chuyến tàu, rồi lại chuyến tiếp theo nữa, sau mới bứt mình đi nổi.

– Tôi sẽ gọi điện thoại cho anh, – cuối cùng tôi nói.

– Anh gọi nhé.

– Tôi sẽ gọi cho anh vào khoảng trưa.

– Tôi chắc Daisy cũng sẽ gọi điện thoại cho tôi, – anh nhìn tôi lo lắng như hi vọng tôi sẽ hậu thuẫn cho ý kiến ấy.

– Tôi cũng chắc vậy.

– Thôi tạm biệt anh nhé.

Chúng tôi bắt tay nhau và tôi đi. Gần tới bờ giậu, tôi nhớ ra điều gì, quay người lại.

– Bọn họ chỉ là một lũ không ra gì, – tôi hét to qua thảm cỏ. – Mình anh còn đáng giá bằng mấy lũ ấy gộp lại.

Cho đến nay tôi vẫn mừng là đã nói ra câu ấy. Đó là lời khen ngợi duy nhất mà tôi nói với anh, bởi vì từ đầu đến cuối tôi đã không tán thành anh. Thoạt tiên, Gatsby gật đầu nhã nhặn sau gương mặt anh sáng lên thành một nụ cười rạng rỡ và thông cảm, như thể chúng tôi lúc nào cũng ăn ý với nhau về mặt này. Bộ quần áo hồng của anh, nay chỉ còn là một mớ vải nhàu nát lộng lẫy, nổi lên thành một vệt sáng trên những bậc thềm đá trắng làm tôi nhớ đến đêm đầu tiên tôi đến toà nhà cổ kính của anh ba tháng về trước. Ngoài vườn và trên lối đi đêm ấy lúc nhúc những bộ mặt những kẻ dò đoán về sự đồi bại của anh – và anh đã đứng trên những bậc thềm này, che giấu ước mơ không gì xua tan nổi của mình khi anh vẫy tay tiễn chào họ.

Tôi cảm ơn anh về lòng mến khách của anh. Chúng tôi – tôi cũng như những kẻ khác – bao giờ cũng cảm ơn anh về tấm lòng đó.

– Tạm biệt, – tôi gọi to. – Cảm ơn anh về bữa điểm tâm nhé, anh Gatsby.

*

* *

Ra đến thành phố tôi để một lúc ghi lại thời giá vào một bảng dài dằng dặc các cổ phiếu rồi ngủ thiếp đi trên chiếc ghế xoay. Gần giữa trưa, chuông điện thoại đánh thức tôi, tôi giật mình tỉnh dậy, mồ hôi vã trên trán. Đó là Jordan Baker. Cô ta thường gọi tôi vào giờ này vì cô ta hay đi lại thất thường giữa các khách sạn, các câu lạc bộ và các nhà riêng cho nên khó có thể tìm được cô ta bằng cách khác. Thường thường, giọng Jordan truyền qua đường dây vọng đến tươi mát như một mảnh đất còn dính một túm cỏ bị cái chày đánh gôn màu xanh đánh bật lên và văng đến cửa sổ phòng làm việc của tôi, nhưng sáng nay giọng

ấy xem chừng thô nhám và khô khốc.

– Em đã rời nhà Daisy đi rồi, – Jordan nói. – Em hiện đang ở Hempstead và chiều nay em sẽ xuống Southampton.

Có lẽ rời khỏi nhà Daisy là khéo xử, nhưng việc ấy làm tôi bực mình và câu nói tiếp của Jordan thì làm tôi dửng dưng.

– Tối qua anh không tử tế với em chút nào.

– Nó có quan trọng gì vào một lúc như lúc ấy?

– Tuy nhiên, em muốn gặp anh.

– Tôi cũng muốn gặp cô.

– Ví thử em không đi Southampton nữa mà ra New York chiều nay thì sao?

– Đừng, tôi thấy chiều nay không nên.

– Thôi vậy.

– Chiều nay thì không thể được. Những…

Chúng tôi nói chuyện như vậy được một lúc, và rồi bỗng dưng không nói nữa. Không biết trong hai chúng tôi ai đã bỏ máy xuống kêu đánh cách một cái, nhưng tôi biết là tôi chẳng cần quan tâm làm gì. Hôm ấy tôi không có lòng nào ngồi nói chuyện với cô ta bên một bàn trà cho dù tôi sẽ không bao giờ lại có dịp nói chuyện với cô ta nữa trên đời này.

Mấy phút sau, tôi gọi điện thoại đến nhà Gatsby nhưng đường dây bận. Tôi gọi lại bốn lần, cuối cùng Tổng đài phát bực lên bảo cho tôi biết đường dây bị giữa cho một cuộc nói chuyện đường dài từ Detroit gọi đến. Lấy ra bảng giờ tàu, tôi khoanh một vòng tròn nhỏ xung quanh chuyến tàu ba giờ năm mươi. Sau đó tôi ngả người trong ghế, cố suy nghĩ. Lúc ấy vừa đúng giữa trưa.

*

* *

Khi tàu chạy qua chỗ những gò đất tro sáng hôm ấy, tôi đã cố ý chuyển sang ngồi phía bên kia toa. Tôi đoán chắc sẽ có một đám người tò mò xúm xít quanh đó suốt ngày, những đứa trẻ dò tìm những vật đen đen trong lớp bụi đường và một kẻ ba hoa nào đó kể đi kể lại những sự việc đã xảy ra cho đến khi những lời kể ấy càng ngày càng xa lại cả đối với gã đến nỗi gã không thể kể tiếp được nữa, và sự kết thúc bi thảm của Myrtle Wilson thế là bị rơi vào trong lãng quên. Bây giờ tôi muốn đi ngược lại thời gian một chút và kể những gì đã diễn ra tại hiệu sửa chữa xe sau khi chúng tôi đi khỏi đấy đêm trước.

Mãi người ta mới tìm được cô em, cô Catherine. Cô ta đêm ấy chắc đã vi phạm nguyên tắc của mình là không uống rượu vì khi đến nơi cô ta còn mụ người vì hơi men và không hiểu nổi là xe cứu thương đã đi Flushing rồi. Đến khi người ta giúp cho cô hiểu ra thì cô ngất xỉu, y như thể đó lại là đoạn không thể chịu đựng

nổi trong sự việc này. Có ai đó, vì tử tế hay hiếu kì, dìu cô lên xe mình và đưa cô đi theo thi hài chị cô.

Quá nửa đêm khá lâu, đám người vẫn không ngừng tụ tập trên bậu cửa nhà sửa chữa xe, hết người này đi lại có người khác đến, trong khi Wilson cứ đu người ngật ngưỡng trên chiếc ghế trong nhà. Cửa buồng vẫn để ngỏ một lúc, và ai bước vào nhà xe cũng không thể không dòm mắt nhìn vào trong. Cuối cùng có người bảo như thế thật nhục nhã và đóng cửa lại. Michaelis cùng với mấy người đàn ông khác ở lại bên Wilson, thoạt đầu là bốn năm người, sau còn lại hai ba người. Mãi sau, Michaelis nhờ người lạ mặt cuối cùng chờ ở đó thêm mười lăm phút nữa để anh về nhà pha lấy một cốc cà phê. Sau đó Michaelis ở lại một mình với Wilson cho đến rạng sáng.

Đến khoảng ba giờ sáng, Wilson bớt nói lảm nhảm – ông dịu đi và bắt đầu nói đến chiếc xe màu vàng. Wilson bảo là ông có cách tìm ra người chủ chiếc xe ấy, rồi ông ta nói lộ là cách đây hai tháng vợ ông đi New York về mặt mày bị thâm tím và mũi sưng vù.

Nhưng tự nghe mình kể đến đây, Wilson im bặt và lại rên rỉ “Ối giời ôi!” bằng một giọng thảm thiết. Michaelis vụng về cố hỏi chuyện cho ông khuây khoả.

– Ông lập gia đình đã lâu chưa, ông George? Nghe đây nào, cố ngồi yên một tí và trả lời nào. Ông lập gia đình bao nhiêu lâu rồi?

– Mười hai năm.

– Ông có con chưa? Thôi nào, ông George, ngồi yên nào. Tôi hỏi ông một câu. Ông đã có con bao giờ chưa?

Những con bọ cánh cứng màu nâu cứ đâm đầu vào ánh sáng mờ đục, và mỗi khi nghe thấy một chiếc xe hơi chạy vụt trên đường, Michaelis lại tưởng chừng đó là chiếc xe đã không đỗ lại cách đây mấy giờ. Anh không muốn vào nhà xe vì bàn máy bị dây máu chỗ đã đặt xác, vì vậy anh cứ loay hoay trong phòng giấy, – trời chưa sáng rõ Michaelis đã thuộc hết tất cả đồ đạc trong phòng – và thỉnh thoảng ngồi xuống bên cạnh Wilson cố làm cho ông dịu đi thêm.

– Ông có chọn một nhà thờ nào để thỉnh thoảng đi lễ không, ông George? Dù là nhà thờ ông đã lâu không đến. Tôi gọi điện thoại mời một linh mục đến nói chuyện với ông nhé, được không?

– Tôi không theo một nhà thờ nào cả.

– Lẽ ra phải theo một nhà thờ chứ, ông George, để cho những lúc như bây giờ. Trước kia hẳn ông đã đi nhà thờ rồi chứ? Thế ông không cưới ở nhà thờ à? Nghe này, ông George, nghe tôi hỏi này. Ông có cưới ở nhà thờ không?

– Lâu lắm rồi.

Wilson cố trả lời khiến người ông đu đưa – ông ngồi im một lúc. Rồi lại vẫn cái vẻ dở tỉnh dở mê hiện trên đôi mắt nhàn nhạt của ông.

– Xem trong ngăn kéo kia kìa, – Wilson chỉ vào bàn giấy.

– Ngăn nào?

– Ngăn kia kìa.

Michaelis rút chiếc ngăn kéo gần tay mình nhất. Trong ngăn kéo không có gì ngoài một sợi dây buộc cổ chó nhỏ xíu và đắt tiền, làm bằng da và sợi bạc tết lại. Cái dây có vẻ còn mới.

– Cái này ấy à? – Michaelis giơ cái dây lên. Wilson trừng trừng nhìn cái dây, gật đầu.
– Tôi thấy nó chiều hôm qua. Bà nhà tôi cố giải thích, nhưng tôi biết là có chuyện ám muội.

– Ông muốn nói là bà nhà đã mua cái dây này à?

– Bà ấy gói nó trong giấy lụa để trên bàn phấn.

Michaelis không thấy có gì lạ trong việc này, anh dẫn ra với Wilson hàng chục lí do khiến vợ ông cần mua một cái dây buộc chó. Nhưng có lẽ Wilson đã từng được nghe Myrtle nói ra một số lời giải thích giống như vậy rồi nên ông lại bắt đầu rên rỉ “Ối giời ôi” khiến người an ủi ông đành bỏ dở những lời giải thích khác.

– Thế rồi nó giết chết bà ấy, – Wilson nói. Cằm ông bỗng sệ xuống.

– Ai giết?

– Tôi có cách tìm ra.

– Đừng lẩn thẩn nữa, ông George, – Michaelis khuyên. – Ông bị choáng váng nên không còn biết mình nói gì. Thôi, cố ngồi yên cho đến sáng.

– Nó đã giết bà ấy.

– Đây là một tai nạn, ông George ạ.

Wilson lắc đầu. Mắt ông nheo lại, mồm hé mở và một tiếng “Hứ” thốt ra khỏi miệng ông rồi tắt vụt ngay.

– Tôi biết, – Wilson nói dứt khoát. Tôi là người cả tin, không làm hại ai bao giờ, nhưng đã biết chuyện gì thì tôi biết đích xác. Nó là đứa lái chiếc xe ấy. Bà ấy chạy ra để nói với nó nhưng nó không chịu đỗ lại.

Michaelis cũng đã chứng kiến cảnh ấy nhưng anh không nghĩ nó có một ý nghĩa gì đặc biệt. Anh tin rằng bà Wilson chỉ cốt chạy xa chồng chứ không định chặn lại một chiếc xe nào.

– Bà ấy làm thế để làm gì cơ chứ?

– Bà nhà tôi là người kín đáo, – Wilson nói, như trả lời cho câu hỏi. – A-a-a…

Wilson lại bắt đầu đung đưa người và Michaelis đứng vặn vẹo cái dây dắt chó trong tay.

– Chắc ông có bạn chứ, ông George? Có ai không nào để tôi gọi dây nói báo cho.

Một hi vọng viển vông – Michaelis hầu như biết chắc Wilson không có bạn bè

nào cả – ngay cả vợ, ông cũng còn chưa đáp ứng đủ. Sau đó, Michaelis hơi mừng thấy có một sự biến đổi trong gian phòng: một màu xanh lam lan nhanh trên các ô cửa sổ và không lâu nữa là đến sáng. Khoảng năm giờ, trời bên ngoài sáng khá rõ để có thể tắt đèn.

Cặp mắt trân trân của Wilson quay về phía những gò đất tro ở đó những cụm mây xám nhỏ có những hình dáng kì quái và bị làn gió yếu ớt buổi sớm mai xua đi tan tác.

– Tôi đã bảo với bà ấy, – Wilson lẩm bẩm sau một lúc lâu im lặng, – tôi đã bảo với bà ấy là bà có thể lừa dối được tôi nhưng bà không lừa dối Chúa được đâu. Tôi kéo bà ấy đến bên cửa sổ, – ông gắng đứng dậy và đến chỗ cửa sổ trông ra đằng sau, chúi người áp mặt vào cửa sổ, – và tôi bảo: “Chúa biết hết những việc bà làm, mọi việc bà làm. Bà có thể lừa dối được tôi, nhưng bà không lừa dối Chúa được đâu”.

Đứng sau Wilson, Michaelis kinh hoàng thấy ông đang nhìn vào hai con mắt của bác sĩ T. J. Eckleburg vừa mới từ trong màn đêm đang tan dần hiện ra khổng lồ và nhợt nhạt.

– Chúa nhìn thấy mọi sự, – Wilson nhắc lại.

– Biển quảng cáo đấy mà – Michaelis trấn an Wilson. Song tự nhiên anh không dám nhìn tiếp ra qua cửa sổ và quay mặt vào trong phòng. Nhưng Wilson cứ đứng đó một lúc lâu, mặt sát ô kính cửa sổ, gật đầu với ánh sáng nham nhở.

*

* *

Đến sáu giờ sáng thì Michaelis mệt nhoài: anh mừng rỡ nghe thấy có tiếng xe hơi đỗ bên ngoài. Đó là một trong những người ngồi canh đêm qua hẹn trở lại. Michaelis sửa soạn bữa điểm tâm cho ba người nhưng sau chỉ có anh với người kia ăn. Wilson bây giờ đã dịu hơn nên Michaelis về nhà ngủ. Bốn giờ sau, tỉnh dậy, Michaelis vội vã sang bên hiệu sửa chữa xe thì Wilson đã đi đâu mất rồi.

Về sau, lần theo dấu vết Wilson – ông toàn đi bộ – người ta được biết ông đã đến Port Roosevelt rồi đến Gad’s Hill, tại đó ông mua một cái bánh mì cặp thịt nhưng không ăn, và một tách cà phê. Wilson chắc mệt và đi chậm vì đến tận trưa ông mới tới Gad’s Hill. Cho đến giờ ấy, tính xem Wilson đã dùng thời gian như thế nào không khó – vài đứa trẻ đã nhìn thấy một người “lang thang như người điên”, và vài người lái xe đã gặp ông đứng bên vệ đường đưa mắt nhìn theo họ trừng trừng. Nhưng sau đó thì ông biến đi đâu mất không rõ khoảng ba giờ đồng hồ. Căn cứ vào những lời Wilson đã nói với Michaelis: “Tôi có cách tìm ra”, cảnh sát cho rằng trong thời gian ấy ông đã mò đến từng nhà xe một để tìm chiếc xe hơi màu vàng. Tuy nhiên, các chủ nhà xe không có một ai báo là đã

trông thấy Wilson. Vậy có lẽ Wilson có một cách tìm dễ dàng hơn, chắc chắn hơn, để biết cái điều ông muốn biết. Đến hai giờ rưỡi thì Wilson xuất hiện ở West Egg, tại đó ông hỏi thăm một người đường đi đến nhà Gatsby. Vậy là đến lúc ấy Wilson đã biết tên Gatsby.

*

* *

Khoảng hai giờ chiều, Gatsby mặc quần áo tắm và dặn người hầu phòng là nếu có ai gọi điện thoại đến cho anh thì lại bể bơi báo anh. Gatsby tạt qua nhà để xe lấy cái đệm hơi vẫn dùng làm phao bơi mà dạo hè khách khứa nhà anh rất thích. Người lái xe bơm cái phao bơi giúp anh. Sau đó Gatsby dặn anh ta rằng bất kì thế nào cũng không được lôi chiếc xe mui trần đó ra khỏi nhà – lời dặn kể cũng lạ vì lá chắn đằng trước của xe bị móp ở mé phải cần được đưa ra hiệu nắn lại.

Gatsby vác cái đệm hơi lên vai đi về phía bể bơi. Anh dừng lại một lần để xốc đệm trên vai. Người lái xe đến xin mang đỡ cho anh nhưng anh lắc đầu, và một lúc sau anh mất hút giữa những bụi cây lá đang ngả vàng.

Không có ai gọi điện thoại, nhưng người hầu phòng vẫn không đi ngủ trưa mà cứ chờ cho đến bốn giờ chiều – tức là quá cái giờ không còn ai để mà báo, cho dù có người gọi đến. Tôi cho rằng chính Gatsby cũng không tin là sẽ có người gọi điện thoại cho anh, hoặc có lẽ anh chẳng thiết nghĩ đến nữa. Nếu quả đúng thế thì chắc Gatsby phải cảm thấy anh đã mất hẳn rồi cái thế giới ấm áp xưa kia và anh đã phải trả bằng một giá đắt vì đã sống quá lâu với một ước mơ duy nhất. Chắc anh đã ngửa đầu nhìn lên một bầu trời xa lạ qua những vòm lá thật đáng sợ, và rùng mình khi nhận ra những bông hồng mới kì cục làm sao và ánh nắng rọi lên lớp cỏ mọc nhu nhú mới sống sượng làm sao. Một thế giới mới, vật chất đấy mà lại không có thật, nơi những bóng ma khốn khổ đáng thương, thở bằng mơ ước thay cho không khí, trôi giạt vô định… như cái hình người nhợt nhạt, ma quái, đang trườn về phía anh giữa các hàng cây bất thành hình kia.

Người lái xe – nằm trong số đám tay chân của Wolfshiem – nghe thấy tiếng nổ súng. Về sau anh ta chỉ khai được rằng anh ta không nghĩ là đã xảy ra chuyện gì nghiêm trọng. Tôi xuống ga là về thẳng ngay nhà Gatsby, và dáng điệu hấp tấp lo lắng của tôi khi bước vội mấy bậc thềm lại là sự việc đầu tiên báo động cho họ. Nhưng tôi tin chắc là đến lúc ấy họ đã biết sự thể rồi. Hầu như câm lặng, bốn người chúng tôi – người lái xe, người hầu phòng, người làm vườn và tôi – vội vã chạy về phía bể bơi.

Mặt nước chuyển động thật nhè nhẹ, hầu như khó nhận thấy, bởi luồng nước mới từ đầu bể đổ về cửa tháo nước cuối bể. Làn nước lăn tăn chưa hẳn thành sóng đẩy chiếc đệm chở nặng trôi không đều về phía dưới bể bơi. Chỉ một ngọn

gió nhẹ làm hơi răn mặt nước đã đủ để xáo động con đường đi vô tình của nó với cái gánh nặng vô tình của nó. Một đống lá nhỏ chạm vào nó cũng làm nó chầm chậm xoay tròn, vạch ra như một mũi com-pa một đường tròn đỏ mảnh mai trên nước.

Chúng tôi đem Gatsby đi về phía toà nhà rồi người làm vườn mới phát hiện ra xác Wilson trong lùm cỏ cách đó một quãng, và cuộc huỷ diệt thế là trọn vẹn.

Suốt đêm tôi không sao ngủ nổi. Tiếng còi chỉ đường cho tàu trong sương cứ rền rĩ không dứt ngoài Eo. Tôi như người ốm dở, chao đảo giữa thực tế lố bịch và những cơn mê khủng khiếp, man rợ. Khoảng gần sáng tôi nghe có tiếng xe tắc-xi lăn bánh vào đường xe chạy trong vườn nhà Gatsby. Ngay lập tức, tôi nhảy khỏi giường và mặc quần áo – tôi thấy có điều cần phải báo cho anh biết, cần phải nhắc anh đề phòng, sợ để đến sáng thì muộn mất.

Đi tạt ngang qua thảm cỏ nhà Gatsby, tôi thấy cổng trước vẫn để ngỏ và Gatsby đang tựa người vào một chiếc bàn trong gian tiền sảnh, vẻ hết sức ủ rũ vì chán nản hoặc mất ngủ.

– Không xảy ra chuyện gì cả, – Gatsby uể oải nói. – Tôi chờ, và đến khoảng bốn giờ sáng thì nàng ra cửa sổ, đứng độ vài phút rồi tắt đèn.

Toà nhà của anh tôi thấy chưa bao giờ nó mênh mông như trong đêm hôm ấy khi chúng tôi đi tìm thuốc lá qua các gian phòng rộng lớn. Chúng tôi gạt những tấm rèm cửa to như những cánh buồm, sờ soạng trên không biết bao nhiêu thước tường tối đen để tìm nút bật đèn – một lần tôi vấp ngã xoài người trên hàng phím của một chiếc đàn dương cầm ma quái. Chỗ nào cũng đầy bụi, bụi rất nhiều, không hiểu ở đâu ra. Các gian phòng có mùi ẩm mốc và bí, như thể đã bao nhiêu lâu chúng không được thông gió. Tôi thấy hộp thuốc không để đúng chỗ trên một chiếc bàn, trong hộp còn hai điếu thuốc đã mất mùi và mốc meo. Mở tung cánh cửa sổ dài của phòng khách, chúng tôi ngồi xuống hút thuốc, nhả khói vào trong bóng tối.

– Anh phải đi đi, – tôi nói. – Chắc chắn rồi họ sẽ tìm ra xe anh.

– Đi ngay bây giờ ư, hả người anh em?

– Đến ở một tuần tại Atlantic City hay lên ở Montreal.

Gatsby chắc sẽ không nghe theo lời khuyên của tôi. Anh thực không thể nào rời bỏ Daisy mà đi được chừng nào chưa biết nàng sẽ làm gì. Anh cố bám lấy tia hi vọng cuối cùng và tôi không đành lòng bứt anh ra.

Chính trong đêm ấy Gatsby kể cho tôi nghe câu chuyện lạ lùng về thời thơ ấu của anh với Dan Cody – anh kể ra với tôi vì “Jay Gatsby” đã vỡ tan ra như thuỷ tinh khi đụng phải sự độc địa tàn nhẫn của Tom và trò đùa rồ dại thầm kín kéo dài kia đã kết thúc. Tôi tưởng bây giờ anh sẽ thú nhận hết, không giấu giếm điều gì, nhưng anh chỉ muốn nói về Daisy.

Nàng là cô gái “con nhà” đầu tiên mà anh được biết từ trước đến giờ. Anh đã từng được tiếp xúc với hạng người như vậy với những tư cách khác nhau mà anh không nói ra, nhưng bao giờ ở giữa cũng có một hàng rào dây thép gai vô hình. Anh thấy nàng thật đáng say mê khao khát. Anh đến nhà nàng, đầu tiên

cùng đi với các sĩ quan khác ở doanh trại Taylor, sau đến một mình. Ngôi nhà làm anh choáng ngợp – anh chưa bao giờ được đặt chân vào một ngôi nhà nào tráng lệ đến vậy. Nhưng sở dĩ ngôi nhà ấy gây cho người ta một cảm xúc mãnh liệt đến nghẹt thở, chính là vì có Daisy. Nàng sống ở đó cũng tự nhiên thoải mái như anh sống trong túp lều của anh tại doanh trại vậy. Ngôi nhà này mang trong lòng nó một điều bí ẩn đầy sức hấp dẫn như một quả cây chín mọng, nó làm cho ta tưởng tượng ra những buồng ngủ trên gác lộng lẫy và dịu mát hơn mọi buồng ngủ khác, những trò nghịch ngợm diễn ra suốt dọc các hành lang, những chuyện tình lãng mạn không khô héo và bị xếp xó như những cánh hoa ép, mà tươi tắn, rộn rã hơi thở, thơm mùi những chiếc xe hơi mới choáng lộn và những điệu nhảy đi kèm với những bông hoa chẳng mấy khi héo tàn. Một điều nữa cũng kích thích anh là đã có nhiều người yêu Daisy rồi – nó càng làm tăng giá trị của nàng đối với con mắt anh. Anh cảm thấy sự có mặt của đám người ấy ở khắp mọi nơi trong nhà, và không gian còn tràn ngập hình bóng và tiếng vọng của những cảm xúc hãy còn sống động.

Nhưng anh hiểu rằng anh có mặt ở nhà Daisy là do một sự tình cờ lớn. Dù cho tương lai của anh dưới cái tên Jay Gatsby có rực rỡ đến đâu, hiện tại anh vẫn chỉ là một kẻ hai bàn tay trắng, không gốc gác và bất kì lúc nào cái vỏ bảo vệ vô hình là bộ quân phục của anh cũng có thể tuột khỏi vai anh. Vì vậy anh phải tận dụng đến mức cao nhất thời gian của mình. Anh chiếm đoạt lấy những gì có thể chiếm đoạt, vồ lấy mà ngấu nghiến, không đắn đo cân nhắc – cuối cùng anh đã chiếm đoạt được Daisy vào một đêm tháng Mười êm ả, chiếm đoạt nàng vì lẽ thực ra anh không có quyền động đến dù chỉ bàn tay nàng.

Lẽ ra anh phải khinh bỉ mình, vì chắc chắn anh đã chiếm đoạt nàng bằng cách lừa dối. Tôi không có ý nói anh đã khoe khoang những triệu đồng tiền ma của anh, nhưng anh đã cố ý gây cho Daisy một cảm nghĩ yên tâm: anh làm cho nàng tưởng lầm rằng anh là người cùng một tầng lớp với nàng, rằng anh hoàn toàn có khả năng trông nom chăm sóc nàng. Thực ra, anh tuyệt nhiên không có những khả năng đó, – anh không có một gia đình sung túc để hỗ trợ cho mình, anh bị lệ thuộc vào tính khí bất thường của một chính phủ không cá tính có thể đẩy anh đến bất cứ nơi nào trên thế giới.

Nhưng Gatsby đã không khinh bỉ mình và tình hình đã không diễn ra như anh tưởng tượng. Có lẽ anh chỉ có ý định chiếm đoạt lấy những gì có thể chiếm đoạt được, xong rồi bỏ đi – nhưng nay anh nhận ra mình đã lao vào việc theo đuổi một mục tiêu vô vọng. Anh biết rằng Daisy là khác thường, nhưng anh chưa hiểu nổi một cô gái “con nhà” thực ra có thể khác thường đến đâu. Nàng tan biến vào trong ngôi nhà giàu sang của nàng, vào trong cuộc sống giàu sang, đầy đủ của nàng, và bỏ lại cho Gatsby một cõi hư vô. Anh như cảm thấy mình đã kết hôn với

nàng, tất cả chỉ có vậy.

Hai hôm sau, khi gặp lại nhau, chính Gatsby lại là người bàng hoàng, như có phần nào bị phản bội. Hàng hiên nhà nàng lấp lánh những đồ xa xỉ mua được của các ngôi sao trời, chiếc xôpha bằng mây phát ra tiếng cót két xa hoa khi nàng ngoảnh mặt về phía anh để anh hôn lên khoé miệng kì cục và đáng yêu kia. Nàng bị cảm khiến giọng nàng càng khàn hơn và càng quyến rũ hơn bao giờ hết, và Gatsby ngột ngạt nhận ra vẻ tươi trẻ và bí ẩn chứa đựng và gìn giữ trong cảnh giàu sang, sự tươi mát của biết bao nhiêu quần áo, và Daisy, óng ánh như giát bạc, yên ổn và kênh kiệu bên trên những cuộc vật lộn gay gắt của người nghèo.

– Tôi không mô tả nổi với anh tôi đã kinh ngạc đến đâu khi nhận ra tôi đã yêu nàng, người anh em ạ. Tôi thậm chí có lúc mong rằng nàng sẽ ruồng rẫy tôi, nhưng nàng đã không ruồng rẫy vì nàng cũng đem lòng yêu tôi. Nàng tưởng tôi biết rộng vì tôi hiểu biết những điều khác với nàng… Đấy, lúc bấy giờ tôi như thế, xa rời các hoài bão của tôi, mỗi giây phút càng ngụp sâu hơn vào trong tình yêu, và thế rồi đột nhiên tôi thây kệ. Làm những việc to tát để mà làm gì nếu như tôi có thể sống những giờ phút sung sướng hơn khi kể với nàng những việc tôi sẽ làm?

Buổi chiều cuối cùng trước ngày Gatsby lên đường đi chiến đấu ở bên kia đại dương, anh ngồi ghì chặt Daisy trong vòng tay, lặng yên giờ lâu. Đó là vào một ngày thu lạnh lẽo, trong phòng đốt lửa và má nàng đỏ bừng. Thỉnh thoảng nàng nhúc nhích và anh hơi dịch tay một chút, và có một lần anh hôn vào mái tóc bóng sẫm của nàng. Buổi chiều hôm ấy làm họ trầm lắng được một lúc, như để ghi sâu vào trong lòng họ kỉ niệm về cuộc chia li dài sẽ đến hôm sau. Trong một tháng yêu nhau chưa bao giờ họ cảm thấy gần gũi nhau như bây giờ, chưa bao giờ họ ngỏ lòng với nhau sâu sắc bằng lúc đôi môi im lặng của nàng cọ vào vai áo anh hoặc khi anh nhẹ nhàng chạm vào đầu ngón tay nàng, như thể nàng đang ngủ.

*

* *

Gatsby đã chiến đấu rất xuất sắc trong chiến tranh. Với chức đại uý trước khi ra chiến trường, anh đã được thăng chức thiếu tá sau các trận giao chiến ở Argonne và được cử chỉ huy các khẩu đại liên của sư đoàn. Sau ngày đình chiến anh ra sức tìm cách xin giải ngũ về nước, nhưng do có chuyện rắc rối hay hiểu nhầm gì đó, anh lại được gửi đến Oxford. Lúc này anh đang lo lắng – những bức thư của Daisy để lộ một tâm trạng bồn chồn tuyệt vọng. Nàng không hiểu tại sao anh không trở về. Nàng cảm thấy sức ép của thế giới bên ngoài, và nàng muốn gặp anh, muốn có anh bên cạnh để cảm thấy yên lòng là những việc mình

làm là đúng.

Bởi vì Daisy còn trẻ, mà trong cái thế giới giả tạo của nàng thì tràn ngập những hoa phong lan và những thói đời hợm hĩnh chỉ biết đến cười cợt đùa vui, những dàn nhạc ấn định nhịp điệu cho từng năm, ghi lại nỗi buồn và hình ảnh của cuộc đời thành những khúc nhạc mới. Suốt đêm, các cây kèn xắc-xô nức nở lời than vãn tuyệt vọng của bản nhạc “Điệu blue phố Beale” trong khi hàng trăm đôi dép vàng dép bạc làm tung lên lớp bụi óng ánh. Vào những giờ uống trà mờ tối, luôn luôn có những gian buồng chìm đắm liên miên trong cơn sốt nhè nhẹ êm dịu này trong khi những khuôn mặt tươi tắn trôi giạt đây đó như những cánh hồng bị hơi thổi của những cây kèn co buồn bã làm tung bay khắp sàn nhà.

Trong cái thế giới tranh tối tranh sáng ấy, Daisy lại bắt đầu giao tiếp khi mùa xuân đến. Đột nhiên nàng lại nhận lời mỗi ngày gần chục buổi hẹn hò với gần một chục chàng trai để rồi ngủ thiếp đi vào lúc bình minh với những chuỗi hạt trai và những tấm áo dạ hội nhàu nát vứt bừa bãi dưới sàn bên cạnh giường cùng với những cánh hoa lan tàn héo. Trong thời gian ấy luôn luôn có một nỗi niềm nào đó trong người thôi thúc nàng phải đi đến một quyết định. Nàng muốn cuộc sống của mình phải được định hình từ bây giờ, không chậm trễ. Mà làm được việc ấy phải là một sức mạnh nào đấy ở ngay cạnh nàng – sức mạnh của tình yêu, của tiền bạc, một sức mạnh hoàn toàn có giá trị thiết thực.

Cái sức mạnh ấy hiện ra vào giữa mùa xuân với Tom Buchanan. Con người anh, địa vị anh, có một cái gì đồ sộ, vững chãi, và Daisy lấy làm hãnh diện. Chắc cũng có diễn ra một sự giằng co nhất định nhưng cũng đi đến một tâm trạng nhẹ nhõm. Bức thư đến tay Gatsby khi anh đang ở Oxford.

*

* *

Ở Long Island bây giờ trời đã rạng, chúng tôi đi mở nốt các cửa sổ ở tầng dưới để cho ánh sáng chỗ thì nhờ nhờ xám, chỗ đã hoe hoe vàng ùa vào trong nhà. Bóng một thân cây ngả dài cắt ngang lớp sương đêm và những con chim như những bóng ma bắt đầu cất lên tiếng hót giữa đám lá còn nhuốm màu xanh lam. Trong không khí có một sự xao động nhè nhẹ dễ chịu, chưa hẳn là một làn gió, hứa hẹn một ngày mát mẻ và thú vị.

– Tôi không tin nàng đã có lúc nào yêu hắn, – Gatsby quay lưng lại cửa sổ, nhìn tôi với vẻ như thách thức – Anh phải nhớ rằng chiều hôm qua nàng bị khích động mãnh liệt. Hắn kể ra những chuyện ấy với nàng với dụng ý làm nàng khiếp sợ – làm tôi trông như một kẻ bất lương hèn mạt. Kết quả là nàng hầu như không hiểu mình nói gì.

Gatsby ngồi xuống, nét mặt u tối.

– Tất nhiên, có thể nàng đã yêu hắn trong chốc lát, hồi hai người mới lấy nhau –

để rồi sau đấy nàng lại yêu tôi hơn, anh hiểu không?

Bỗng nhiên anh đưa ra một nhận xét kì quặc.

– Dù sao, đó chỉ là chuyện riêng.

Qua câu ấy ta có thể hiểu như thế nào, nếu không phải ngờ rằng trong ý nghĩ của anh có một nỗi niềm day dứt mãnh liệt không lấy gì mà đo nổi?

Gatsby ở Pháp trở về lúc Tom và Daisy còn đang đi nghỉ tuần trăng mật. Anh đã dốc nốt số tiền lương sĩ quan còn lại cho một cuộc hành trình thảm thương không thể đừng được, đến Louisville. Anh ở lại thành phố này một tuần, đi trên những đường phố nơi tiếng chân của họ đã vang lên bên nhau trong suốt đêm tháng Một năm ấy và thăm lại những nơi hẻo lánh mà hai người đã tới bằng chiếc xe hơi trắng của nàng. Cũng như ngôi nhà của Daisy bao giờ đối với anh cũng bí ẩn và vui tươi hơn mọi ngôi nhà khác, ý nghĩ của anh về thành phố này, dù nay đã vắng bóng nàng, vẫn thắm đượm một vẻ đẹp u buồn.

Gatsby rời khỏi thành phố với cảm nghĩ giá anh cố công tìm kiếm có lẽ anh đã tìm thấy nàng, và nay thì anh đang bỏ lại nàng ở đằng sau. Toa xe hạng ba – túi anh bây giờ không còn một xu – rất nóng. Anh ra chỗ đầu toa ngỏ cửa, ngồi xuống một chiếc ghế gấp. Nhà ga lùi dần và mặt sau các toà nhà loang loáng lướt qua mắt anh. Khi tàu ra đến các cánh đồng mùa xuân, một chiếc xe điện vàng chạy theo nó trong một phút với những hành khách có lẽ đã từng thấy sắc thái huyền ảo của gương mặt nàng tình cờ trên đường phố.

Đường tàu lượn vòng. Giờ đây con tàu chạy quay lưng lại mặt trời đang lặn mỗi lúc một thấp hơn và dường như trải dài ra ban phước lành cho thành phố đang khuất dần, cái thành phố đã đem lại hơi thở cho nàng. Anh tuyệt vọng đưa tay ra như muốn thu lấy dù chỉ là một chút không khí, như muốn vớt vát lấy một mảnh nhỏ của xứ sở mà vì anh nàng đã biến thành mĩ lệ. Nhưng tất cả bây giờ đều lướt qua quá nhanh đối với con mắt đã nhoà tối của anh và anh biết rằng mình đã vĩnh viễn mất đi rồi mảnh đời ấy, mảnh đời tươi mát nhất và đẹp đẽ nhất của mình…

Ăn điểm tâm xong thì đã chín giờ sáng, chúng tôi ra ngoài thềm. Đêm đã làm thời tiết thay đổi hẳn và không gian nay đã có hương sắc mùa thu. Người làm vườn, người cuối cùng còn lại trong số các gia nhân cũ của Gatsby, đến chỗ chân thềm, thưa:

– Bẩm ông, hôm nay tôi sẽ tháo nước ở bể bơi. Lá sắp rụng, đến khi ấy ống tháo nước dễ bị tắc lắm.

– Đừng tháo hôm nay vội, – Gatsby đáp. Anh quay sang tôi giải thích. – Anh biết không, tôi chưa một lần dùng đến bể bơi suốt mùa hè.

Tôi xem đồng hồ và đứng dậy.

– Còn mười hai phút nữa là đến chuyến tàu tôi đi.

Tôi không muốn ra thành phố. Tôi không đủ sức làm việc gì cho ra hồn, nhưng không phải chỉ có thế – tôi không muốn rời Gatsby. Tôi đã lỡ chuyến tàu, rồi lại chuyến tiếp theo nữa, sau mới bứt mình đi nổi.

– Tôi sẽ gọi điện thoại cho anh, – cuối cùng tôi nói.

– Anh gọi nhé.

– Tôi sẽ gọi cho anh vào khoảng trưa.

– Tôi chắc Daisy cũng sẽ gọi điện thoại cho tôi, – anh nhìn tôi lo lắng như hi vọng tôi sẽ hậu thuẫn cho ý kiến ấy.

– Tôi cũng chắc vậy.

– Thôi tạm biệt anh nhé.

Chúng tôi bắt tay nhau và tôi đi. Gần tới bờ giậu, tôi nhớ ra điều gì, quay người lại.

– Bọn họ chỉ là một lũ không ra gì, – tôi hét to qua thảm cỏ. – Mình anh còn đáng giá bằng mấy lũ ấy gộp lại.

Cho đến nay tôi vẫn mừng là đã nói ra câu ấy. Đó là lời khen ngợi duy nhất mà tôi nói với anh, bởi vì từ đầu đến cuối tôi đã không tán thành anh. Thoạt tiên, Gatsby gật đầu nhã nhặn sau gương mặt anh sáng lên thành một nụ cười rạng rỡ và thông cảm, như thể chúng tôi lúc nào cũng ăn ý với nhau về mặt này. Bộ quần áo hồng của anh, nay chỉ còn là một mớ vải nhàu nát lộng lẫy, nổi lên thành một vệt sáng trên những bậc thềm đá trắng làm tôi nhớ đến đêm đầu tiên tôi đến toà nhà cổ kính của anh ba tháng về trước. Ngoài vườn và trên lối đi đêm ấy lúc nhúc những bộ mặt những kẻ dò đoán về sự đồi bại của anh – và anh đã đứng trên những bậc thềm này, che giấu ước mơ không gì xua tan nổi của mình khi anh vẫy tay tiễn chào họ.

Tôi cảm ơn anh về lòng mến khách của anh. Chúng tôi – tôi cũng như những kẻ khác – bao giờ cũng cảm ơn anh về tấm lòng đó.

– Tạm biệt, – tôi gọi to. – Cảm ơn anh về bữa điểm tâm nhé, anh Gatsby.

*

* *

Ra đến thành phố tôi để một lúc ghi lại thời giá vào một bảng dài dằng dặc các cổ phiếu rồi ngủ thiếp đi trên chiếc ghế xoay. Gần giữa trưa, chuông điện thoại đánh thức tôi, tôi giật mình tỉnh dậy, mồ hôi vã trên trán. Đó là Jordan Baker. Cô ta thường gọi tôi vào giờ này vì cô ta hay đi lại thất thường giữa các khách sạn, các câu lạc bộ và các nhà riêng cho nên khó có thể tìm được cô ta bằng cách khác. Thường thường, giọng Jordan truyền qua đường dây vọng đến tươi mát như một mảnh đất còn dính một túm cỏ bị cái chày đánh gôn màu xanh đánh bật lên và văng đến cửa sổ phòng làm việc của tôi, nhưng sáng nay giọng

ấy xem chừng thô nhám và khô khốc.

– Em đã rời nhà Daisy đi rồi, – Jordan nói. – Em hiện đang ở Hempstead và chiều nay em sẽ xuống Southampton.

Có lẽ rời khỏi nhà Daisy là khéo xử, nhưng việc ấy làm tôi bực mình và câu nói tiếp của Jordan thì làm tôi dửng dưng.

– Tối qua anh không tử tế với em chút nào.

– Nó có quan trọng gì vào một lúc như lúc ấy?

– Tuy nhiên, em muốn gặp anh.

– Tôi cũng muốn gặp cô.

– Ví thử em không đi Southampton nữa mà ra New York chiều nay thì sao?

– Đừng, tôi thấy chiều nay không nên.

– Thôi vậy.

– Chiều nay thì không thể được. Những…

Chúng tôi nói chuyện như vậy được một lúc, và rồi bỗng dưng không nói nữa. Không biết trong hai chúng tôi ai đã bỏ máy xuống kêu đánh cách một cái, nhưng tôi biết là tôi chẳng cần quan tâm làm gì. Hôm ấy tôi không có lòng nào ngồi nói chuyện với cô ta bên một bàn trà cho dù tôi sẽ không bao giờ lại có dịp nói chuyện với cô ta nữa trên đời này.

Mấy phút sau, tôi gọi điện thoại đến nhà Gatsby nhưng đường dây bận. Tôi gọi lại bốn lần, cuối cùng Tổng đài phát bực lên bảo cho tôi biết đường dây bị giữa cho một cuộc nói chuyện đường dài từ Detroit gọi đến. Lấy ra bảng giờ tàu, tôi khoanh một vòng tròn nhỏ xung quanh chuyến tàu ba giờ năm mươi. Sau đó tôi ngả người trong ghế, cố suy nghĩ. Lúc ấy vừa đúng giữa trưa.

*

* *

Khi tàu chạy qua chỗ những gò đất tro sáng hôm ấy, tôi đã cố ý chuyển sang ngồi phía bên kia toa. Tôi đoán chắc sẽ có một đám người tò mò xúm xít quanh đó suốt ngày, những đứa trẻ dò tìm những vật đen đen trong lớp bụi đường và một kẻ ba hoa nào đó kể đi kể lại những sự việc đã xảy ra cho đến khi những lời kể ấy càng ngày càng xa lại cả đối với gã đến nỗi gã không thể kể tiếp được nữa, và sự kết thúc bi thảm của Myrtle Wilson thế là bị rơi vào trong lãng quên. Bây giờ tôi muốn đi ngược lại thời gian một chút và kể những gì đã diễn ra tại hiệu sửa chữa xe sau khi chúng tôi đi khỏi đấy đêm trước.

Mãi người ta mới tìm được cô em, cô Catherine. Cô ta đêm ấy chắc đã vi phạm nguyên tắc của mình là không uống rượu vì khi đến nơi cô ta còn mụ người vì hơi men và không hiểu nổi là xe cứu thương đã đi Flushing rồi. Đến khi người ta giúp cho cô hiểu ra thì cô ngất xỉu, y như thể đó lại là đoạn không thể chịu đựng

nổi trong sự việc này. Có ai đó, vì tử tế hay hiếu kì, dìu cô lên xe mình và đưa cô đi theo thi hài chị cô.

Quá nửa đêm khá lâu, đám người vẫn không ngừng tụ tập trên bậu cửa nhà sửa chữa xe, hết người này đi lại có người khác đến, trong khi Wilson cứ đu người ngật ngưỡng trên chiếc ghế trong nhà. Cửa buồng vẫn để ngỏ một lúc, và ai bước vào nhà xe cũng không thể không dòm mắt nhìn vào trong. Cuối cùng có người bảo như thế thật nhục nhã và đóng cửa lại. Michaelis cùng với mấy người đàn ông khác ở lại bên Wilson, thoạt đầu là bốn năm người, sau còn lại hai ba người. Mãi sau, Michaelis nhờ người lạ mặt cuối cùng chờ ở đó thêm mười lăm phút nữa để anh về nhà pha lấy một cốc cà phê. Sau đó Michaelis ở lại một mình với Wilson cho đến rạng sáng.

Đến khoảng ba giờ sáng, Wilson bớt nói lảm nhảm – ông dịu đi và bắt đầu nói đến chiếc xe màu vàng. Wilson bảo là ông có cách tìm ra người chủ chiếc xe ấy, rồi ông ta nói lộ là cách đây hai tháng vợ ông đi New York về mặt mày bị thâm tím và mũi sưng vù.

Nhưng tự nghe mình kể đến đây, Wilson im bặt và lại rên rỉ “Ối giời ôi!” bằng một giọng thảm thiết. Michaelis vụng về cố hỏi chuyện cho ông khuây khoả.

– Ông lập gia đình đã lâu chưa, ông George? Nghe đây nào, cố ngồi yên một tí và trả lời nào. Ông lập gia đình bao nhiêu lâu rồi?

– Mười hai năm.

– Ông có con chưa? Thôi nào, ông George, ngồi yên nào. Tôi hỏi ông một câu. Ông đã có con bao giờ chưa?

Những con bọ cánh cứng màu nâu cứ đâm đầu vào ánh sáng mờ đục, và mỗi khi nghe thấy một chiếc xe hơi chạy vụt trên đường, Michaelis lại tưởng chừng đó là chiếc xe đã không đỗ lại cách đây mấy giờ. Anh không muốn vào nhà xe vì bàn máy bị dây máu chỗ đã đặt xác, vì vậy anh cứ loay hoay trong phòng giấy, – trời chưa sáng rõ Michaelis đã thuộc hết tất cả đồ đạc trong phòng – và thỉnh thoảng ngồi xuống bên cạnh Wilson cố làm cho ông dịu đi thêm.

– Ông có chọn một nhà thờ nào để thỉnh thoảng đi lễ không, ông George? Dù là nhà thờ ông đã lâu không đến. Tôi gọi điện thoại mời một linh mục đến nói chuyện với ông nhé, được không?

– Tôi không theo một nhà thờ nào cả.

– Lẽ ra phải theo một nhà thờ chứ, ông George, để cho những lúc như bây giờ. Trước kia hẳn ông đã đi nhà thờ rồi chứ? Thế ông không cưới ở nhà thờ à? Nghe này, ông George, nghe tôi hỏi này. Ông có cưới ở nhà thờ không?

– Lâu lắm rồi.

Wilson cố trả lời khiến người ông đu đưa – ông ngồi im một lúc. Rồi lại vẫn cái vẻ dở tỉnh dở mê hiện trên đôi mắt nhàn nhạt của ông.

– Xem trong ngăn kéo kia kìa, – Wilson chỉ vào bàn giấy.

– Ngăn nào?

– Ngăn kia kìa.

Michaelis rút chiếc ngăn kéo gần tay mình nhất. Trong ngăn kéo không có gì ngoài một sợi dây buộc cổ chó nhỏ xíu và đắt tiền, làm bằng da và sợi bạc tết lại. Cái dây có vẻ còn mới.

– Cái này ấy à? – Michaelis giơ cái dây lên. Wilson trừng trừng nhìn cái dây, gật đầu.
– Tôi thấy nó chiều hôm qua. Bà nhà tôi cố giải thích, nhưng tôi biết là có chuyện ám muội.

– Ông muốn nói là bà nhà đã mua cái dây này à?

– Bà ấy gói nó trong giấy lụa để trên bàn phấn.

Michaelis không thấy có gì lạ trong việc này, anh dẫn ra với Wilson hàng chục lí do khiến vợ ông cần mua một cái dây buộc chó. Nhưng có lẽ Wilson đã từng được nghe Myrtle nói ra một số lời giải thích giống như vậy rồi nên ông lại bắt đầu rên rỉ “Ối giời ôi” khiến người an ủi ông đành bỏ dở những lời giải thích khác.

– Thế rồi nó giết chết bà ấy, – Wilson nói. Cằm ông bỗng sệ xuống.

– Ai giết?

– Tôi có cách tìm ra.

– Đừng lẩn thẩn nữa, ông George, – Michaelis khuyên. – Ông bị choáng váng nên không còn biết mình nói gì. Thôi, cố ngồi yên cho đến sáng.

– Nó đã giết bà ấy.

– Đây là một tai nạn, ông George ạ.

Wilson lắc đầu. Mắt ông nheo lại, mồm hé mở và một tiếng “Hứ” thốt ra khỏi miệng ông rồi tắt vụt ngay.

– Tôi biết, – Wilson nói dứt khoát. Tôi là người cả tin, không làm hại ai bao giờ, nhưng đã biết chuyện gì thì tôi biết đích xác. Nó là đứa lái chiếc xe ấy. Bà ấy chạy ra để nói với nó nhưng nó không chịu đỗ lại.

Michaelis cũng đã chứng kiến cảnh ấy nhưng anh không nghĩ nó có một ý nghĩa gì đặc biệt. Anh tin rằng bà Wilson chỉ cốt chạy xa chồng chứ không định chặn lại một chiếc xe nào.

– Bà ấy làm thế để làm gì cơ chứ?

– Bà nhà tôi là người kín đáo, – Wilson nói, như trả lời cho câu hỏi. – A-a-a…

Wilson lại bắt đầu đung đưa người và Michaelis đứng vặn vẹo cái dây dắt chó trong tay.

– Chắc ông có bạn chứ, ông George? Có ai không nào để tôi gọi dây nói báo cho.

Một hi vọng viển vông – Michaelis hầu như biết chắc Wilson không có bạn bè

nào cả – ngay cả vợ, ông cũng còn chưa đáp ứng đủ. Sau đó, Michaelis hơi mừng thấy có một sự biến đổi trong gian phòng: một màu xanh lam lan nhanh trên các ô cửa sổ và không lâu nữa là đến sáng. Khoảng năm giờ, trời bên ngoài sáng khá rõ để có thể tắt đèn.

Cặp mắt trân trân của Wilson quay về phía những gò đất tro ở đó những cụm mây xám nhỏ có những hình dáng kì quái và bị làn gió yếu ớt buổi sớm mai xua đi tan tác.

– Tôi đã bảo với bà ấy, – Wilson lẩm bẩm sau một lúc lâu im lặng, – tôi đã bảo với bà ấy là bà có thể lừa dối được tôi nhưng bà không lừa dối Chúa được đâu. Tôi kéo bà ấy đến bên cửa sổ, – ông gắng đứng dậy và đến chỗ cửa sổ trông ra đằng sau, chúi người áp mặt vào cửa sổ, – và tôi bảo: “Chúa biết hết những việc bà làm, mọi việc bà làm. Bà có thể lừa dối được tôi, nhưng bà không lừa dối Chúa được đâu”.

Đứng sau Wilson, Michaelis kinh hoàng thấy ông đang nhìn vào hai con mắt của bác sĩ T. J. Eckleburg vừa mới từ trong màn đêm đang tan dần hiện ra khổng lồ và nhợt nhạt.

– Chúa nhìn thấy mọi sự, – Wilson nhắc lại.

– Biển quảng cáo đấy mà – Michaelis trấn an Wilson. Song tự nhiên anh không dám nhìn tiếp ra qua cửa sổ và quay mặt vào trong phòng. Nhưng Wilson cứ đứng đó một lúc lâu, mặt sát ô kính cửa sổ, gật đầu với ánh sáng nham nhở.

*

* *

Đến sáu giờ sáng thì Michaelis mệt nhoài: anh mừng rỡ nghe thấy có tiếng xe hơi đỗ bên ngoài. Đó là một trong những người ngồi canh đêm qua hẹn trở lại. Michaelis sửa soạn bữa điểm tâm cho ba người nhưng sau chỉ có anh với người kia ăn. Wilson bây giờ đã dịu hơn nên Michaelis về nhà ngủ. Bốn giờ sau, tỉnh dậy, Michaelis vội vã sang bên hiệu sửa chữa xe thì Wilson đã đi đâu mất rồi.

Về sau, lần theo dấu vết Wilson – ông toàn đi bộ – người ta được biết ông đã đến Port Roosevelt rồi đến Gad’s Hill, tại đó ông mua một cái bánh mì cặp thịt nhưng không ăn, và một tách cà phê. Wilson chắc mệt và đi chậm vì đến tận trưa ông mới tới Gad’s Hill. Cho đến giờ ấy, tính xem Wilson đã dùng thời gian như thế nào không khó – vài đứa trẻ đã nhìn thấy một người “lang thang như người điên”, và vài người lái xe đã gặp ông đứng bên vệ đường đưa mắt nhìn theo họ trừng trừng. Nhưng sau đó thì ông biến đi đâu mất không rõ khoảng ba giờ đồng hồ. Căn cứ vào những lời Wilson đã nói với Michaelis: “Tôi có cách tìm ra”, cảnh sát cho rằng trong thời gian ấy ông đã mò đến từng nhà xe một để tìm chiếc xe hơi màu vàng. Tuy nhiên, các chủ nhà xe không có một ai báo là đã

trông thấy Wilson. Vậy có lẽ Wilson có một cách tìm dễ dàng hơn, chắc chắn hơn, để biết cái điều ông muốn biết. Đến hai giờ rưỡi thì Wilson xuất hiện ở West Egg, tại đó ông hỏi thăm một người đường đi đến nhà Gatsby. Vậy là đến lúc ấy Wilson đã biết tên Gatsby.

*

* *

Khoảng hai giờ chiều, Gatsby mặc quần áo tắm và dặn người hầu phòng là nếu có ai gọi điện thoại đến cho anh thì lại bể bơi báo anh. Gatsby tạt qua nhà để xe lấy cái đệm hơi vẫn dùng làm phao bơi mà dạo hè khách khứa nhà anh rất thích. Người lái xe bơm cái phao bơi giúp anh. Sau đó Gatsby dặn anh ta rằng bất kì thế nào cũng không được lôi chiếc xe mui trần đó ra khỏi nhà – lời dặn kể cũng lạ vì lá chắn đằng trước của xe bị móp ở mé phải cần được đưa ra hiệu nắn lại.

Gatsby vác cái đệm hơi lên vai đi về phía bể bơi. Anh dừng lại một lần để xốc đệm trên vai. Người lái xe đến xin mang đỡ cho anh nhưng anh lắc đầu, và một lúc sau anh mất hút giữa những bụi cây lá đang ngả vàng.

Không có ai gọi điện thoại, nhưng người hầu phòng vẫn không đi ngủ trưa mà cứ chờ cho đến bốn giờ chiều – tức là quá cái giờ không còn ai để mà báo, cho dù có người gọi đến. Tôi cho rằng chính Gatsby cũng không tin là sẽ có người gọi điện thoại cho anh, hoặc có lẽ anh chẳng thiết nghĩ đến nữa. Nếu quả đúng thế thì chắc Gatsby phải cảm thấy anh đã mất hẳn rồi cái thế giới ấm áp xưa kia và anh đã phải trả bằng một giá đắt vì đã sống quá lâu với một ước mơ duy nhất. Chắc anh đã ngửa đầu nhìn lên một bầu trời xa lạ qua những vòm lá thật đáng sợ, và rùng mình khi nhận ra những bông hồng mới kì cục làm sao và ánh nắng rọi lên lớp cỏ mọc nhu nhú mới sống sượng làm sao. Một thế giới mới, vật chất đấy mà lại không có thật, nơi những bóng ma khốn khổ đáng thương, thở bằng mơ ước thay cho không khí, trôi giạt vô định… như cái hình người nhợt nhạt, ma quái, đang trườn về phía anh giữa các hàng cây bất thành hình kia.

Người lái xe – nằm trong số đám tay chân của Wolfshiem – nghe thấy tiếng nổ súng. Về sau anh ta chỉ khai được rằng anh ta không nghĩ là đã xảy ra chuyện gì nghiêm trọng. Tôi xuống ga là về thẳng ngay nhà Gatsby, và dáng điệu hấp tấp lo lắng của tôi khi bước vội mấy bậc thềm lại là sự việc đầu tiên báo động cho họ. Nhưng tôi tin chắc là đến lúc ấy họ đã biết sự thể rồi. Hầu như câm lặng, bốn người chúng tôi – người lái xe, người hầu phòng, người làm vườn và tôi – vội vã chạy về phía bể bơi.

Mặt nước chuyển động thật nhè nhẹ, hầu như khó nhận thấy, bởi luồng nước mới từ đầu bể đổ về cửa tháo nước cuối bể. Làn nước lăn tăn chưa hẳn thành sóng đẩy chiếc đệm chở nặng trôi không đều về phía dưới bể bơi. Chỉ một ngọn

gió nhẹ làm hơi răn mặt nước đã đủ để xáo động con đường đi vô tình của nó với cái gánh nặng vô tình của nó. Một đống lá nhỏ chạm vào nó cũng làm nó chầm chậm xoay tròn, vạch ra như một mũi com-pa một đường tròn đỏ mảnh mai trên nước.

Chúng tôi đem Gatsby đi về phía toà nhà rồi người làm vườn mới phát hiện ra xác Wilson trong lùm cỏ cách đó một quãng, và cuộc huỷ diệt thế là trọn vẹn.

Bình luận