Cái bàn ăn sáng đã chất đầy các loại ngũ cốc và những lọ mứt. Bắt chước cung cách của bố mình, Louis đọc báo trong khi Emily xem lại bài học lịch sử. Sáng nay cô bé có giờ kiểm tra. Cô bé rời mắt khỏi cuốn sách của mình và thấy Louis đang đeo trên mũi cặp kính mà thỉnh thoảng Mathias vẫn sử dụng. Bằng một cái búng nhẹ, nó bật một miếng bánh mì nhỏ vào người cậu ta. Cửa trên gác kẹt mở. Emili nhảy bật ra khỏi ghế của mình, mở cửa tủ lạnh và lấy chai nước cam. Cô bé rót đầy một cốc và đặt trước bộ đồ ăn của Antoine, vừa làm xong, cô bé lại với ngay bình cà phê và rót đầy tách. Louis bỏ cuốn tạp chí để đến trợ lực thêm, cậu bỏ hai lát bánh mì vào trong lò nướng bánh, ấn nút khởi động và cả hai quay nhanh lại chỗ ngồi của mình như thể chẳng có chuyện gì xảy ra.
Antoine bước xuống cầu thang, mặt vẫn còn ngái ngủ; anh nhìn ra xung quanh mình và cám ơn lũ trẻ đã chuẩn bị bữa điểm tâm.
– Không phải bọn cháu đâu, Emily nói, mà là bố cháu đấy, bố vừa leo lên tắm rồi.
Kinh ngạc, Antoine lấy những lát bánh mì nướng và đến ngồi vào vị trí của mình. Mười phút sau, Mathias đi xuống, anh khuyên Emily nhanh nhanh lên. Cô bé ôm hôn Antoine và cầm cặp sách của mình ở cửa ra vào.
– Cậu có muốn tớ dẫn Louis đi luôn không? Mathias hỏi.
– Nếu cậu thích, tớ cũng đâu biết dù chỉ một tí rằng cái ô tô của tớ được đậu ở cái xứ sở nào!
Mathias lục túi áo vét, đặt lên mặt bàn chùm chìa khoá và một biên lai phạt.
– Thật đáng tiêc, hôm qua tớ đã đến quá muộn, cậu đã dính một chưởng rồi!
Anh ra hiệu cho Louis rảo chân, và cùng bọn trẻ đi ra. Antoine cầm tờ phạt lên và chăm chú đọc. Phạt do đậu xe trên phần đường ra vào của xe cứu hoả trên khu đại lộ Kensington High Street vào lúc 0 giờ hai mươi lăm phút.
Anh đứng lên để rót cho mình một tách cà phê, nhìn đồng hồ trên lò nướng rồi chạy nhanh lên lầu sửa soạn đi làm.
* * *
– Con không quá căng thẳng vì buổi kiểm tra đấy chứ? Mathias hỏi con gái trong lúc bước vào sân trường.
– Nó hay là chú hả? Louis xen vào với vẻ ma mãnh.
Emily gật đầu trấn an bố mình. Cô bé dừng lại ở vạch giới hạn sân bóng rổ trên mặt đất. Vạch đỏ không chỉ vạch ra vùng để ghi điểm nữa mà là đường biên để bắt đầu từ đó bố cô bé phải trả lại tự do cho cô. Các bạn cùng lớp chờ cô trong sân chơi. Mathias thoáng thấy cô giáo Morel thực sự đang đứng dựa vào một thân cây.
– Chúng ta đã ôn kĩ bài vào ngày nghỉ cuối tuần rồi, con đã chiếm mất vị trí tốt nhất của bố rồi (nguyên bản: Pole position: trong giải đua xe Thể thức 1, pole position là vị trí tốt nhất cho cuộc đua chính thức mà tay đua đạt được trong lần chạy thử – thường diễn ra vào hôm trước của ngày diễn ra cuộc đua chính thức), Mathias muốn nói để khích lệ.
Emily đứng sững ngay trước mặt bố nó.
– Đây không phải là cuộc đua xe Công thức 1, bố ạ!
– Bố hiểu… nhưng dù sao chúng ta cũng nhắm đến vị trí quán quân chứ hả?
Cô bé đi xa dần cùng với Louis, bỏ lại ông bố đứng một mình giữa sân trường. Anh nhìn con gái đi khuất hẳn vào phía sau cửa lớp học và trở ra, vẻ lo lắng.
Khi tới phố Bute Street, anh thoáng thấy Antoine đã yên vị ở hiên quán Coffee Shop, anh liền đi tới ngồi bên cạnh bạn.
– Cậu có nghĩ con bé sẽ phải ra ứng cử trong kỳ bầu lớp trưởng hay không? Mathias hỏi trong lúc nếm thử cốc cappuccino của Antoine.
– Điều đó tuỳ thuộc vào việc cậu có tính đăng kí cho nó vào danh sách hội đồng hành chính địa phương hay không, tớ không ưa việc kiêm nhiệm nhiều chức vụ cùng một lúc.
– Các anh không thể đợi được đến kì nghỉ hè mới cãi nhau à, Sophie nói vui trong lúc đến nhập bọn với họ.
– Nhưng có ai cãi nhau đâu, Antoine ngay lập tức tiếp lời.
Cuộc sống đã bừng dậy trong khu Bute Street, và cả ba người đều tận hưởng điều đó bằng cách điểm xuyết cho bữa sáng của họ những bình phẩm tếu táo về những khách bộ hành đi qua, và câu chuyện cứ như thế mà giòn giã.
Sophie phải chia tay họ, có hai người khách đứng đợi trước cửa hiệu của cô.
– Tớ cũng phải đi đây, đã đến giờ phải mở cửa hiệu sách,Mathias vừa nói vừa đứng lên. Đừng động đến tờ thanh toán này nhé, tớ bao.
– Cậu có ai đó nữa phải không? Antoine hỏi.
– Cậu có thể diễn đạt cụ thể chính xác điều cậu muốn nói vơi “ai đó nữa” không? Bởi vì đúng thế, tớ thề với cậu rằng cậu đang làm tớ lo lắng đấy!
Antoine lấy tờ thanh toán trong tay Mathias và đặt vào đó biên lai phạt mà bạn anh đã để lại cho anh trong bếp.
– Chẳng có gì cả, quên hết đi, thật là nực cười, Antoine nói với giọng buồn buồn.
– Tối qua, tớ cần đi dạo, không khí trong nhà hơi nặng nề. Có gì đó không ổn hả Antoine? Mặt cậu cứ ngây đuỗn ra từ hôm qua tới giờ.
– Tớ nhận được thư của Karine, cô ấy không thể chăm con được trong kỳ nghỉ Phục sinh. Điều kinh khủng nhất là cô ấy muốn chính mình phải giải thích cho Louis hiểu tại sao cô ấy không có cách nào khác, còn tớ thì chẳng biết phải làm thế nào để thông báo tin này cho thằng bé.
– Với cô ấy thì cậu đã nói gì rồi?
– Karine cứu cả nhân loại cơ mà, cậu muốn tớ nói gì với cô ấy hả?
Louis sẽ thất vọng lắm đây, và chính tớ phải tự xoay xở với chuyện ấy, Antoine tiếp tục, giọng run lên.
Mathias ngồi lại bên Antoine. Anh đặt cánh tay lên vai bạn rồi ghì chặt vào mình.
– Tớ có một ý này, anh nói. Thế nếu vào kỳ nghỉ Phục sinh, chúng ta dẫn bọn trẻ đi săn ma ở Scotland thì sao nhỉ? Tớ đã đọc một bài báo về một chuýên du lịch theo đoàn, có đến thăm những lâu đài cổ bị ma ám đấy.
– Cậu không nghĩ là chúng vẫn còn hơi bé, chúng có thể sẽ sợ à?
– Chính cậu mới cả đời lúc nào cũng sợ sệt thì có.
– Thế cậu có thể bỏ hiệu sách đi được à?
– Vào các kỳ nghỉ của học sinh thì rất vắng khách, tớ sẽ đóng cửa năm ngày, chẳng phải là ngày tận thế đâu mà.
– Cậu thì biết gì về các kỳ nghỉ với cả khách hàng kia chứ, cậu đã bao giờ ở đây vào dịp này đâu?
– Tớ biết là được rồi, thế thôi. Tớ sẽ chịu trách nhiệm mua vé và đặt phòng khách sạn. Còn tối nay, việc của cậu sẽ là báo tin cho bọn trẻ.
Anh nhìn Antoine, cho đến khi thấy rằng anh bạn đã tìm lại được nụ cười.
– A! Tớ quên một chi tiết quan trọng. Nếu chúng ta thật sự chạm trán một con ma, thì chính cậu sẽ là người phải chịu trách nhiệm, vì vốn tiếng Anh của tớ chỉ có thế thôi! Gặp lại sau nhé!
Mathias để lại biên lai phạt lên mặt bàn và lần này thì đi thẳng về phía hiệu sách của mình.
* * *
Trong bữa ăn, dưới ánh mắt đồng loã của Mathias, khi Antoine tiết lộ nơi họ đã chọn để đi nghỉ hè, thì Emily và Louis sung sướng đến nỗi thì chúng đã ngay lập tức lên danh sách những thứ cần phải đem theo để đối mặt với tất cả những nguy hiểm có thể gặp phải. Tuyệt đỉnh của giây phút hạnh phúc đó diễn ra khi Antoine bày ra trước mặt chúng hai chiếc máy ảnh chỉ sử dụng một lần, mỗi chiếc được trang bị một loại đèn flash đặc biệt để chiếu sáng những tấm vải liệm.
Những đứa trẻ đã đi ngủ, Antoine bước vào phòng con trai và đến nằm bên cạnh nó.
Antoine quả thật đang rất khó chịu; anh phải thông báo cho Louis biết một vấn đề khiến anh phải bận tâm: mẹ của nó sẽ không thể đến Scotland cùng họ được. Anh đã thề là sẽ chẳng nói gì cả, nhưng thôi mặc kệ: sự thật chính là do mẹ sợ ma lắm. Và sẽ không phải là hay nếu áp đặt cho mẹ một chuyến du lịch như vậy. Louis suy nghĩ một lúc về vấn đề này và đồng ý rằng đúng là không được hay lắm. Thế là, để mẹ thứ lỗi vì đã bỏ rơi mẹ lần này, họ cùng nhau hứa rằng Louis sẽ đi nghỉ suốt cả tháng Tám với mẹ bên bờ biển. Antoine kể chuyện buổi tối và khi hơi thở đều đều của cậu bé chưng tỏ chắc chắn rằng nó đã ngủ, thì bố nó nhón nhân bước ra khỏi phòng.
Đúng lúc Antoine nhè nhẹ khép cửa lại, anh chợt nghe thấy tiếng con trai hỏi lại với một giọng vừa đủ nghe rằng, liệu mẹ nó có thật là trở về từ châu Phi vào tháng Tám hay không.
* * *
Tuần lễ của Antoine và Mathias trôi đi nhanh vùn vụt, còn tuần lễ của hai đứa trẻ đang tính từng ngày còn lại chia cắt chúng với toà lâu đài Scotland, thì trôi đi chậm hơn nhiều. Cuộc sống trong nhà từ nay đã hiện ra những lằn ranh rõ rêt. Ngay cả khi Mathias thường xuyên ra khỏi nhà vào buổi tối, để hưởng gió trong vườn, điện thoại dính chặt vào tai, thì Antoine cũng cố tránh không đặt một câu hỏi nào.
Thứ bảy đúng là một ngày xuân thật sự, tất cả mọi người quyết định đi dạo quanh hồ Hyde Park. Sophie, đã đến nhập hội với họ, cố gắng gây thiện cảm với một con diệc. Trước sự thích thú vô biên của bọn trẻ, con chim lảng ra xa ngay khi cô tiến lại gần nó và lại quay trở ra khi cô đã ra xa.
Trong khi Emily ném chiếc bánh bích quy của nó, được bóp vụn hết ra mà không cần so đo, cho bọn ngỗng Canada, thì Louis có nhiệm vụ cứu chữa cho lũ vịt Trung Quốc khỏi chứng khó tiêu nhãn tiền, bằng cách chạy đuổi theo sau chúng. Trong suốt cuộc đi dạo, Antoine và Sophie sánh vai đi bên nhau, Mathias đi sau họ vài bước chân.
-Thế nào? Anh chàng nhận những bức thư, tình cảm của chàng đến đoạn nào rôi? Antoine hỏi.
– Cũng phức tạp lắm. Sophie trả lời.
– Thế ra em đã biết những chuyện tình đơn giản rồi hả?… Em có thể kể với anh được đấy, em biết mà, em là cô bạn thân nhất với anh, anh sẽ không phán xét gì em đâu. Chàng ta có gia đình rồi chứ?
– Đã ly dị!
– Thế gì cái gì giữ chân anh ta chứ?
– Những kỉ niệm của anh ấy, em nghĩ thế.
– Đó là một sự hèn mạt trong số những hèn mạt khác mà thôi. Một bước lên trước, một bước về phía sau, người ta lẫn lộn giữa nguyên nhân thật và cái cớ bịa và người ta nghĩ ra những cái lí để cấm mình được sống với hiện tại.
– Nếu là từ anh, Sophie bẻ lại, thì đó là một ý kiến hơi nghiêm khắc đấy, anh không thấy thế sao?
– Anh thấy em bất công quá. Anh làm nghề mà anh thích, anh nuôi dạy con trai anh, mẹ nó đã ra đi kể từ năm năm trước đây, anh cho là đã làm điều cần phải làm để quay lưng lại với quá khứ.
– Bằng cách sống cùng nhà với anh bạn trai thân nhất hay bằng cách phải lòng miếng bọt thấm lau rửa hả? Sophie vừa nói tiếp vừa cười.
– Thôi đừng nói nữa, đừng có mà dựng nó thành một huyền thoại.
– Anh là anh bạn thân nhất của em, vậy em có quyền nói với anh tất tật. Hãy nhìn thẳng vào mắt em xem anh có dám nói rằng anh có thể ngủ yên hay không khi cái bếp của anh vẫn còn chưa được ngăn nắp hả?
Antoine làm rối tung mái tóc của Sophie lên.
– Em đúng là một con mụ đanh đá!
– Không đúng, nhưng mà anh thì đúng là một tên gàn!
Mathias đi chậm lại. Cho là mình đã ở cách xa tương dối, anh giấu điện thoại di động của mình trong lòng bàn tay rồi nhắn một mẩu tin và gửi đi ngay tức thì.
Sophie bám vào cánh tay Antoine.
– Em đảm bảo nếu bọn mình làm thế này thì chỉ ba mươi giây thôi là Mathias quay lại ngay.
– Em nói gì thế, cậu ta ghen hả?
– Vì tình bạn của chúng ta ư? Đương nhiên rồi, Sophie tiếp tục, thế anh không nhận thấy à? Dạo anh ấy còn ở Pariss và khi anh ấy gọi cho em vào buổi tối để hỏi thăm tình hình của em…
– Cậu ấy đã gọi cho em vào buổi tối để hỏi thăm tình hình của em ư? Antoine hỏi, cắt ngang lời Sophie.
– Vâng, hai ba lần một tuần, à, mà em đang nói với anh rằng khi anh ấy gọi điện cho em để hỏi thăm tình hình…
– Cậu ấy gọi cho em hai ngày một lần à? Antoine lại ngắt lời cô một lần nữa.
– Anh để em nói hết câu đã, có được không hả?
Antoine đồng ý bằng một cái gật đầu, Sophie tiếp tục nói.
– Nếu em nói với anh ấy rằng em không thể nói chuyện với anh ấy được bởi em đang điện thoại với anh rồi, thì cứ mười phút anh ấy lại gọi cho em để xem bọn mình đã dập máy chưa.
– Nhưng mà thật phi lý, em có chắc về những gì em đang nói chứ?
– Anh không tin em à? Nếu em tựa đầu vào vai anh, em đánh cuộc với anh rằng chỉ trong hai giây thôi, anh ấy sẽ đến bên chúng ta ngay.
– Nhưng mà chuyện này nực cười thật đấy, Antoine thì thầm, tại sao cậu ta lại có thể ghen vì tình bạn của hai chúng ta được nhỉ?
– Bởi lẽ trong tình bạn cũng thế, người ta có thể thích được độc quyền, và anh hoàn toàn có lí, đúng là nực cười thật.
Antoine cạo cạo mũi giày của mình lên mặt đất.
– Em có tin là cậu ta có gặp ai đó ở London không? Anh hỏi.
– Ý anh muốn nói đến một bác sĩ tâm lí ấy à?
– Không… một phụ nữ!
– Anh ấy chẳng nói gì với em cả!
– Cậu ấy không nói với em hay là em không muốn thú thật với anh rằng cậu ấy đã nói gì đó với em hả?
– Dẫu sao đi nữa, nếu như anh ấy có gặp ai đó, thì cũng là một tin vui chứ, đúng không hả?
– Đương nhiên rồi! Anh sẽ điên lên vì vui cho cậu ta, Antoine kết luận.
Sophie sững người nhìn anh. Họ dừng lại trước một quầy hàng bán rong. Louis và Emily chọn kem, Antoine chọn bánh tráng còn Sophie lấy một chiếc bánh kẹp. Antoine ngó tìm Mathias, người đang đi cách đó vài bước, mắt đang dán vào màn hình điện thoại.
– Dựa đầu em vào vai anh để xem thế nào, anh quay lại và nói với Sophie.
Cô mỉm cười và thực hiện điều Antoine vừa yêu cầu.
Mathias đứng sững trước mặt họ.
– Thôi được, cơ mà… bởi mọi người hoàn toàn chẳng để ý đến việc tôi có mặt ở đây hay không cả, nên tôi sẽ để cho hai bạn tự do! Nếu bọn trẻ khiến các bạn bực mình, thì đừng ngần ngại gì mà hãy quẳng béng chúng xuống hồ. Tôi đi làm đây, ít ra thì điều ấy cũng gây cho tôi cảm giác là tôi đang tồn tại!
– Cậu đi làm cả chiều thứ Bảy à? Hiệu sách của cậu đóng cửa rồi còn gì, Antoine tiếp tục.
– Có một cuộc bán đấu giá sách cổ, tôi đã đọc thấy nó trong tờ báo sáng nay.
– Cậu bây giờ lại buôn bán cả sách cổ nữa à?
– Thôi được, nghe này Antoine, nếu một ngày nào đó nhà Christie’s rao bán những chiếc ê-ke hoặc com-pa cũ, thì tôi cho cậu một bức vẽ nhé!Và nếu như bởi một sự ngẫu nhiên hết sức vô tình nào đó mà các bạn nhận ra rằng tối nay tôi không có mặt ở bàn ăn tối thì đó chắc chắn là do tôi đã ở lại cho tới tận đêm đấy.
Mathias ôm hôn con gái, ra hiệu với Louis và lẩn đi ngay thậm chí không thèm chào Sophie.
– Chúng ta đã đánh cuộc cái gì ấy nhỉ? Cô hỏi, vẻ đắc thắng.
* * *
Mathias chạy xuyên qua công viên, anh ra khỏi đó theo lối Hyde Park Corner, ngoắc một chiếc taxi và phát âm địa chỉ nơi cần đến của mình trong một thứ tiếng Anh rõ là hết sức cố gắng. Trong sân cung điện Buckingham đang diễn ra một phiên thay gác. Như thường lệ, vào tất cả các ngày nghỉ cuối tuần, tình trang giao thông ở xung quanh đây bị rối loạn bởi vô số khách bộ hành rình xem lính gác của Nữ hoàng diễu bình.
Một hàng kỵ binh đi nước kiệu ngược lên Birdcage Walk. Sốt ruột, Mathias thò cánh tay ngoài cửa sổ và đập mạnh lên cửa xe.
– Đây là xe taxi, thưa ông, chứ không phải là một con ngựa, người tài xế nói và ném một cái nhìn tối sầm trong gương chiếu hậu.
Từ xa, những bức đắp nổi của Nghị viện nổi bật lên trên nền trời. Ước lượng độ dài của dãy xe ô tô kéo dài tới tận cầu Westminster, anh chắc sẽ chẳng bao giờ đến đúng giờ được. Khi Audrey nhắn tin trả lời, bảo anh đến gặp cô ở chân tháp đồng hồ Big Ben, cô đã nói rõ rằng sẽ chỉ đợi anh trong nửa giờ thôi, không hơn.
– Đây là con đường duy nhất à? Mathias cầu khẩn.
– Từ xa nhìn thì là đẹp nhất, người tài xế trả lời và chỉ tay về phía những lối đi dạo phủ đầy hoa của công viên St James Park.
Do họ nói về hoa, Mathias thú nhận rằng anh đang có một cuộc hẹn hò yêu đương, rằng từng giây một đều rất quan trọng, nếu anh mà đến muộn thì tất cả sẽ tiêu tan đối với anh.
Người tài xế ngay lâp tức quay ngược xe. Len lỏi qua những con hẻm nhỏ trong khu các cơ quan Bộ, chiếc taxi tới đúng điểm đỗ.Big Ben điểm ba giờ, Mathias chỉ đến chậm có năm phút. Anh cám ơn người tài xế bằng một khoản tiền boa hậu hĩnh và chạy như bay xuống các bậc dẫn tới phía kè sông. Audrey ngồi chờ anh trên một chiếc ghế băng, nàng đứng dây và lao ngay vào vòng tay anh. Một cặp nam nữ đi ngang qua mỉm cười nhìn thấy họ ôm ghì lấy nhau.
– Anh không phải đi cùng với bạn bè ngày hôm nay à?
– Có chứ, nhưng anh không thể chịu nổi nữa, anh muốn gặp em, suốt cả buổi chiều anh đã cứ như một thằng bé mười lăm tuổi vậy.
– Đó là một tuổi hợp với anh đấy, cô vừa nói vừa hôn anh.
– Thế còn em, em không phải làm việc chiều nay à?
– Có chứ, thật là chán… Chúng ta chỉ có nửa giờ ở cùng nhau thôi.
Bởi cô đang ở London, kênh truyền hình nơi cô làm đã yêu cầu thực hiện thêm một phóng sự nữa về những trung tâm du lịch hấp dẫn nhất của thành phố.
– Anh chàng cameraman của em đã phải tức tốc đến khu xây dựng Trung tâm Thế vận hội Olympic tương lai, còn em phải tự xoay sở một mình. Em có ít nhất mười cảnh phải quay nhưng thậm chí không biết phải bắt đầu từ đâu, thế mà tất cả phải xong để gửi về Pariss vào sáng thứ Hai.
Mathias thì thầm vào tai cô ý tưởng tuyệt vời mà anh vừa nghĩ ra. Anh nhặt cái máy quay phim dưới chân rồi cầm tay Audrey.
– Anh thề với em là anh thực sự biết căn hình chứ?
– Nếu em xem những bộ phim mà anh đã làm trong những kỳ nghỉ hè, thì em sẽ há hốc miệng ra cho coi.
– Và anh cũng biết khá rõ thành phố này?
– Kể từ khi anh sống ở đây!
Tin rằng có thể trông chờ một phần vào khả năng của lái xe taxi London, Mathias chẳng thấy sợ khi nhận lấy vai trò của một hướng dẫn viên- nhà báo-cameraman trong suốt phần còn lại của buổi chiều.
Gần thì làm trước, phải bắt đầu bằng việc quay những đường cong bề thế của dòng Tamise và những cảnh rực rỡ màu sắc của những cây cầu nhô lên trên cao. Anh say mê khi nhận thấy, dọc theo con sông, những toà nhà mênh mông, thành quả của nền kiến trúc hiện đại, đã hoà quyện tuyệt vời vào khung cảnh đô thị. Hơn hẳn những đô thành anh em của nó ở châu Âu, London không phải bàn cãi đã tìm lại vẻ tươi trẻ hơn tuôi thật của nó đến hai thập kỷ. Audrey muốn làm vài cảnh cung điện của Nữ hoàng, nhưng Mathias cố nài nỉ để cô tin vào kinh nghiệm của anh: vào thứ Bảy, những khu lân cận Buckingham thì khó mà quay được cảnh đẹp. Không xa nơi họ đứng, vài khách du lịch Pháp đang lưỡng lự giữa việc thăm khu Tate Gallery mới hay đi xem những vụng phụ cân của nhà máy điện Battersea, mà bốn cái ông khói được in hình trên bìa một album của ban nhạc Pink Ployd.
Người cao tuổi nhất trong sô họ mở cuốn hướng dẫn để đọc to tất cả những sự hấp dẫn của nơi đó. Mathias dỏng tai và kín đáo lại gần bọn họ. Trong khi Audrey đứng cách xa để nói chuyện với nhà sản xuất của cô qua điện thoại, những vị khách du lịch thật sự lo lắng về sự hiện diện của người đàn ông kỳ quặc cứ bám nhằng nhẵng bọn họ. Nỗi sợ hãi bị móc túi khiến họ lảng ra xa đúng lúc Audrey cất điện thoại di động của cô vào túi.
– Anh có một vấn đề quan trọng hỏi em cho tương lai của hai ta, Mathias thông báo. Em có thích Pink Ployd không?
– Có chứ, Audrey trả lời. Nó quan trọng với tương lai hai chúng ta ở điểm nào vậy?
Mathias cầm lại máy quay phimvà nói với cô rằng lịch trình kế tiếp của họ ở xa hơn một chút về phía thượng lưu dòng sông.
Đến được chân toà lâu đài, nhắc lại từng từ một những gì anh đã nghe được, Mathias nói với Audrey rằng Sir Gilbert Scot, vị kiến trúc sư đã xây cất toà nhà này, cũng chính là người tao ra mẫu những trạm điện thoại trứ danh đỏ rực.
Máy quay phim trên vai, Mathias giải thích rằng việc xây dựng trạm phát điện Power Station Battersea được bắt đầu vào năm 1929 để rồi kết thúc vào mười năm sau đó. Audrey bị thu hút bởi những hiểu biết của Mathias, anh hứa với cô rằng tới điểm đến tiếp theo mà anh lựa chọn cô sẽ còn thấy thích hơn nữa.
Lúc đi băng qua bãi đất phía trước, anh chào đoàn du lịch người Pháp cũng đi theo hướng của anh, và nháy mắt với người cao tuổi nhất trong số họ. Vài phút sau, một chiếc taxi đưa họ về hướng Tate Modern.
Mathias đã lựa chọn rất tốt, đây là lần thứ năm Audrey thăm nhà bảo tàng, là nơi có bộ sưu tập lớn nhất của nghệ thuật hiện đại Anh quốc mà cô không bao giờ thấy chán. Cô gần như biết tất cả mọi ngõ ngách nơi đây. Ở cửa ra vào, người gác cổng yêu cầu họ gởi lại hết tất cả đồ đạc máy quay tại nơi giữ đồ. Tạm từ bỏ trong chốc lát việc làm phóng sự, Audrey cầm tay Mathias và kéo anh lên các tầng trên. Chiếc thang máy đưa họ đến một khoảng trống, nơi trưng bày toàn bộ tác phậm của nhiếp ảnh gia người Canada Jeff Wall. Audrey đi thẳng đến phòng số 7 và dừng lại trước một bức ảnh có khổ rộng ba trên bốn mét.
– Anh xem này, cô nói với Mathias, vẻ kinh ngạc và thán phục.
Trên bức ảnh hoành tráng, một người đàn ông đang nhìn những tờ giấy bay lượn trên đầu mình, chúng bị gió kéo tung ra từ tay một người đang bước đi. Những trang giấy của một tập bản thảo hỏng làm thành một vêt cong của một đường chim lượn.
Audrey nhận ra sự xúc động trong mắt Mathias, thấy sung sướng được chia sẻ khoảnh khắc này. Tuy nhiên, không phải là bức ảnh hoành tráng khiến anh động lòng, mà là cô, trong lúc ngắm nhìn cô.
Cô đã tự hứa với mình là không được la cà lâu nhưng khi họ ra khỏi nhà bảo tàng, thì ngày hầu như đã cạn tới đáy của nó. Họ tiếp tục con đường của mình, bước đi tay trong tay dọc theo dòng sông về hướng tháp Oxo.
* * *
– Em ở lại ăn tối chứ?Antoine hỏi khi họ tới cửa nhà.
– Em mệt lắm, bây giờ muộn rồi, Sophie trả lời.
– Cả em nữa, em cũng phải đến dự một buổi bán đấu giá hoa khô à…
– Nếu như đó là cách để không chịu đựng sự cáu kỉnh của anh, em thậm chí còn có thể đi mở lại cửa hàng và bán cả tối nữa kia.
Antoine cúp mắt xuống và đi vào trong phòng khách.
– Anh làm sao vậy? Anh không ngừng nghiến răng kể từ lúc chúng ta rời công viên tới giờ.
– Anh có thể nhờ em một vịêc được không? Antoine thì thầm. Em có thể đừng để anh lại một mình với bọn trẻ tối nay được không?
Sophie bỗng ngạc nhiên vì nỗi buồn cô đọc được trong mắt của anh…
– Với một điều kiện duy nhất, cô nói, anh không được đặt chân vào trong cái bếp của anh và anh để em dẫn cả tất cả bọn anh đi ăn nhà hàng.
– Mình tới nhà hàng của Yvonne chứ?
– Chắc chắn là không rồi! Anh sẽ thoát khỏi thói thường ngày của anh một chút, em biết một chỗ trong khu Chinatown, một quán ăn tầm tầm với lối trang trí ghê người, nhưng lại là nơi làm món vịt quay Bắc Kinh ngon nhất thế giới.
– Thế cái quán ăn tầm tầm của em cũng sạch sẽ chứ hả?
Sophie thậm chí chẳng thèm trả lời, cô gọi bọn trẻ và thông báo với chúng rằng chương trình chán ngắt của buổi tối vừa mới được thay đổi hoàn toàn so với dự kiến ban đầu của nó. Cô vẫn còn chưa nói hết câu thì Louis và Emily đã đến ngồi vào chỗ của chúng ở phía sau chiếc Austin Healey.
Khi bước xuống thềm nhà, cô lẩm bẩm nhại lại Antoine “Thế cái quán ăn tầm tầm của em cũng sạch sẽ chứ hả?”
Chiếc xe hơi phóng nhanh đi trên phố Old Brompton, Antoine bỗng đạp mạnh lên bàn phanh.
– Ta nên để lại mấy lời cho Mathias để cậu ấy biết ta ở đâu, cậu ấy có nói chắc chắn sẽ về muộn đâu.
– Buồn cười thật đấy, Sophie thì thầm, khi anh nói về dự án đưa anh ấy đến London, anh đã sợ là anh ấy sẽ bám chặt lấy anh. Anh có chắc là anh sẽ qua được một buổi tối mà không có anh ấy chứ?
– Chuyện đó hả, thì vẫn còn phải nghi ngờ, Louis và Emily đồng thanh trả lời.
* * *
Khu đất trống bao quanh tổ hợp Oxo trải dài đến tận bờ sông. Từ bên này đến bên kia toà tháp lớn bằng kính, một dãy những tiệm buôn bán nhỏ và xưởng trưng bày trong tủ kính những bộ sưu tầm vải vóc, đồ gốm, đồ gỗ và phụ kiện trang trí. Quay lưng lại phía Audrey, Mathias cầm điện thoại di động trong tay và ấn một cách máy móc lên bàn phím:
– Mathias, em xin anh đấy, cầm máy quay lên và quay hình em đi nào, trời sắp tối rồi.
Anh đút nhẹ điện thoại vào túi, quay về phía cô, và gắng cười tươi đến mức có thể.
– Ổn chứ? Cô hỏi.
– Ổn mà, mọi chuyện đều ổn cả. Vậy là mình đến đâu rồi nhỉ?
– Anh để điểm ngắm ở bên bờ đối diện và ngay khi em bắt đầu nói thì anh thu hẹp khung cảnh lại tập trung vào em. Phải chú ý quay chân em trước rồi mới quay lên mặt nhé.
Mathias bấm nút ghi hình. Động cơ may quay đã hoạt động. Audrey giở bài viết của mình ra, giọng nói của cô đã thay đổi và câu của cô liền có cái nhịp trúc trắc mà hình như nhà đài luôn áp đặt cho tất cả các ông các bà làm việc ở đó. Bỗng nhiên, cô dừng lại.
– Anh chắc chắn là anh biết quay phim chứ hả?
– Đương nhiên là anh biết chứ! Mathias vừa trả lời vừa kéo ống ngắm ra xa khỏi mắt, sao em lại hỏi thế?
– Bởi vì anh vừa đang lia ống zoom, lại vừa kích hoạt vòng tránh ánh sáng.
Mathias xem lại kính ngắm và đặt lại máy quay phim lên vai.
– Thôi được rồi, cứ quay em đi vậy, mình bắt đầu lại ở câu cuối cùng.
Nhưng lần này, chính Mathias lại ngừng quay.
– Chiếc khăn quàng cổ của em khiến anh khó quay quá, gió thổi làm nó bay tung lên mặt em.
Anh tiến lại gần Audrey, thắt lại chiếc khăn quàng cổ, hôn cô rồi quay lại chỗ mình. Audrey ngẩng đầu lên, ánh sáng buổi tối đã chuyển thành màu vàng cam, chếch về hướng tây, bầu trời đã biến sang màu đỏ.
– Cho qua đi, muộn quá rồi, cô nói với một giọng tiếc nuối.
– Nhưng trong kính ngắm, anh vẫn nhìn em rất rõ cơ mà!
Audrey đi về phía anh và tháo những dụng cụ cồng kềnh trên người anh ra.
– Có thể, nhưng khi anh xem tivi thì sẽ chỉ nhìn thấy một vệt tối om to đùng mà thôi.
Cô kéo anh đến bên một chiếc ghế băng, gần bờ sông.Audrey xếp gọn đồ đạc của mình, cô đứng lên và xin lỗi Mathias.
– Anh là một hướng dẫn viên cừ khôi đấy, cô nói.
– Xin cám ơn thay cho anh ta, Mathias trả lời ngắn gọn.
– Anh ổn chứ hả?
– Ừ, anh lí nhí trả lời.
Cô ngả đầu mình lên vai anh, và cả hai người cùng im lặng ngắm nhìn một chiếc tàu thuỷ đi qua, chậm rãi trôi ngược trên dòng sông.
– Em biết không, anh cũng đang nghĩ đến chuyện đó, Mathias thì thầm.
– Thế anh đang nghĩ tới chuyện gì vậy?
Họ cầm tay nhau, những ngón tay của họ đùa giỡn với nhau.
– Chính anh cũng thấy mình sợ sệt, Mathias tiếp tục, nhưng sợ sệt thì chẳng có gì là nghiêm trọng cả. Đêm nay, chúng mình sẽ ngủ cùng nhau và đó sẽ là một vụ thất bại; ít ra thì bây giờ, ta đều biết rằng người kia cũng đã biết, vả lại bây giờ thì anh biết được rằng em cũng đã biết…
Để làm cho anh im, Audrey đặt môi mình lên môi anh.
– Em nghĩ là em đói rồi, cô nói và đứng lên.
Cô bám vào cánh tay anh và hướng anh về phía toà tháp. Ở tầng trên cùng, những khung cửa sổ bằng kính rộng lớn của một nhà hàng sẽ tặng cho họ một tầm nhìn vô tiền khoáng hậu xuống toàn bộ thành phố…
Audrey nhấn một nút và ca-bin chạy lên cao. Thang máy bằng kính trường lên trong môt khoang trong suốt. Cô chỉ cho anh cái bánh xe quay khổng lồ ở phía x; ở khoảng cách này, ta có cảm giác còn cao hơn cả nó. Nhưng khi Audrey quay lại, cô phát hiện mặt Mathias còn trắng nhợt hơn cả khăn liệm.
– Anh ổn chứ? Cô hỏi, giọng lo lắng.
– Chẳng ổn tý nào! Mathias trả lời với một giọng chỉ thoáng nghe được.
Bị co cứng, anh đăt máy quay phim xuống và để cả người trượt dài xuống, dọc theo vách thang máy. Trước khi anh bị xỉu đi, Audrey ôm ngang người anh, ghì chặt đầu anh vào vai mình để ngăn không cho anh nhìn thấy khoảng không.Cô ôm lấy anh trong vòng tay che chở của mình.
Cái chuông nhỏ kêu thánh thót và cửa thang máy mở ra trên tầng trên cùng, đối diện với quầy tiếp tân của nhà hàng. Một người quản lí lịch lãm ngạc nhiên quá cỡ khi nhìn thấy một đôi trai gái đang bị cuốn đi trong một nụ hôn vừa say mê vừa dịu dàng đến thế kia, chỉ riêng đó thôi cũng đã hứa hẹn những ngày tuyệt vời về sau. Ông chủ nhà hàng nhướng mày, cái chuông lại thánh thót kêu và thang máy trườn xuống. Lát sau, một chiếc taxi lao vội về hướng Brick Lane, mang theo trong mình hai kẻ đang yêu, vẫn đang quấn chặt lấy nhau.
* * *
Chiếc khăn phủ giường quấn quanh cô lên tới tận hông. Mathias đùa giỡn với mái tóc cô. Cô ngả đầu mình lên bụng anh.
– Anh có thuốc lá không? Audrey hỏi.
– Anh không hút.
Cô cúi xuống, hôn lên gáy anh và mở ngăn kéo bàn ngủ ra. Thọc sâu tay vào trong, cô nhón được một bao thuốc lá cũ nhăn nhúm và một hộp quẹt.
– Em đã chắc chắn là hắn có hút thuốc, tên bịp này.
– Tên bịp này là ai vậy?
– Một tên phó nháy, chính kênh truyền hình đã thuê cho hắn căn hộ này. Hắn đã đi châu Á sáu tháng để làm một phóng sự.
– Thế khi hắn không ở châu Á thì em gặp hắn thường xuyên chứ, anh bạn em ấy.
– Chỉ là một anh bạn thôi mà, Mathias! Cô vừa nói vừa ra khỏi giường.
Audrey đứng lên. Cái bóng dài của cô tiến tới tận cửa sổ. Cô đưa điếu thuốc lên môi và ngọn lửa từ hộp quẹt lung linh chao đảo.
– Anh đang nhìn gì vậy? Cô hỏi, mắt dán chặt vào khung cửa sổ.
– Những lọn khói.
– Vì sao?
– Chẳng vì sao cả, Mathias trả lời.
Audrey quay lại giường, cô nằm dài, áp sát người Mathias và vuốt ve viền môi anh.
– Có một giọt nước mắt dưới mi của anh, cô nói và dùng đầu lưỡi của mình đón nhận nó.
– Em đẹp vô cùng, Mathias thì thầm.
* * *
Antoine rùng mình, anh kéo chăn đắp lên người, thì ngay lập tức hai chân hở ra. Anh mở mắt, rét run lập cập. Cả phòng khách chìm trong ánh sáng lờ mờ; Sophie không còn ở đó nữa. Anh tha tấm chăn đi; khi tới trên hành lang cầu thang, anh mở hé phòng Mathias và nhận thấy rằng cái giường vẫn còn nguyên vẹn. Anh bước vào phòng còn trai, trườn xuống dưới cái chăn to sụ và ngả đầu lên gối. Louis quay lại và, không hề mở mắt, nó quàng tay ôm chặt bố nó; và cứ thế, đêm qua đi.
* * *
Ánh sáng làm rạng rỡ căn phòng, Mathias nheo mắt và vươn vai. Tay anh lần mò trên giường. Anh phát hiện một tờ giấy nhỏ được đặt trên vỏ gói, bèn nhỏm dậy và giở ra đọc.
Em đi tìm mua băng cassette mới, anh ngủ ngon như thiên thần vậy. Em sẽ cố hết sức để về sớm. Thương yêu, Audrey.
T.B: Giường chỉ cách mặt đất có năm mươi xăng-ti-mét thôi, vụ này chắc chắn đấy!
Anh đặt mẩu giấy đó lên bàn ngủ và ngáp một cái rõ dài. Sau khi nhặt lại quần jean vứt lăn lóc dưới chân giường, anh tìm thấy áo sơ mi ở chân bàn, quần lót vắt trên cái ghế không xa đó, và bắt đầu tìm kiếm đồ đạc còn lại của mình. Trong phòng tắm, anh ngờ vực ngó nghiêng những chiếc bàn chải đánh răng có cán dài khẳng khiu vắt chéo nhau trong một cái cốc. Anh lấy kem đánh răng, để cái chỗ kem đầu tiên chảy ra khỏi tuýp vào bồn rửa, rồi sau đó phủ kem lên đầu ngón tay trỏ của mình.
Anh lục lọi khắp trong bếp, nhưng cũng chỉ tìm thấy hai hộp trà chỉ còn một nửa trong một chiếc tủ hộc, một gói bánh bit-cốt lấu ngày trong một xó chạn, một gói bơ mặn trên một cái vỉ trong tủ lạnh và đôi tất của anh nằm dưới gầm bàn.
Muốn kiếm cho thật nhanh một nơi nào đó để họ có thể phục vụ anh bữa sáng theo đúng nghĩa của nó, anh bèn hối hả mặc quần áo.
Audrey đã để lai chùm chìa khoá ngay trên chiếc bàn tròn.
Ước lượng kích cỡ của chúng thì tất cả không thể vừa được với ổ khoá căn hộ này. Chúng hẳn là để mở cái căn hộ nhỏ mà Audrey trú ngụ tận Pariss, nơi cô đã tả cho anh tối qua.
Anh để những sợi dây mảnh mai của túm đeo chìa khoá được ngoắc vào cái vòng nhỏ trượt đi trên ngón tay. Trong lúc ngắm nhìn nó, anh bắt đầu nghĩ đến sự may mắn mà vật này có được. Anh hình dung nó nằm trong tay Audrey, lúc nào cũng ở trong túi sát bên cô, tất cả những lần cô đùa nghịch với nó, khi nói chuyện điện thoại, rồi được nghe những lời tâm tình của cô với một cô bạn. Khi ý thức được rằng hình như mình đang ghen với cả một túm đeo chìa khoá, thì anh vội trấn tĩnh lại. Thật sự đã đến lúc phải đi kiếm chút gì đó cho vào bụng rồi.
* * *
Bao quanh vỉa hè là những ngôi nhà nhỏ xây bằng gạch đỏ. Hai tay xỏ túi áo và miệng huýt sáo, Mathias cất bước về phía ngã ba nằm ở chỗ hơi cao hơn của khu phố. Qua vài ngã rẽ, anh vui sướng vì cuối cung cũng tìm được nguồn hạnh phúc của mình.
Như tất cả các sáng Chủ Nhật,khu chợ Spitalfields tấp nập hoạt động; những gian hàng chất đầy các loại quả khô và gia vị tới từ tất cả các tỉnh lỵ của Ấn Độ. Xa hơn một đoạn, những ông chủ cửa hàng vải trưng ra những súc vải nhập về từ Madras, từ Kasmir hay từ Pashmina. Mathias ngồi lại trên hiên quán cà phê đầu tiên mà anh tìm thấy, rồi hớn hở chào đón người bồi bàn đến chỗ anh.
Người bồi bàn, xuất thân từ vùng ngoại ô Calcutta ngay lập tức phát hiện ra cách phát âm của Mathias và nói với anh rằng anh ta yêu thích nước Pháp biết mấy. Trong suốt quá trình học tập của mình, anh ta đã chọn tiếng Pháp là ngoại ngữ thứ nhất, thậm chí còn trước cả tiếng Anh. Anh ta đang theo một kì (thường là hai năm) đại học về kinh tế thế giới tại trường BritishSchoolAcademy. Anh ta đã rất muốn được theo học ở Pariss, nhưng cuộc sống đôi khi không tặng cho ta tất cả mọi sự lựa chọn. Mathias chúc mừng anh ta đã có vốn từ vựng mà theo anh là rất đáng nể. Tận dụng dịp may được diễn đạt thoải mái mà không gặp chút khó khăn nào, anh gọi một bữa sáng hoàn chỉnh và cả một tờ báo nữa, nếu như may mắn lại có một tờ nằm vương gần quầy trả tiền.
Anh bồi cúi gập người để cám ơn vì món anh gọi khiến anh ta thật vinh hạnh rồi lẩn đi ngay. Sắp được khoái khẩu đến nơi, Mathias xoa xoa bàn tay, hạnh phúc vì tất cả những khoảnh khắc bất ngờ này mà cuộc đời đã tặng cho anh, hạnh phúc được ngồi trên mảnh hiên tràn đầy ánh nắng này, hạnh phúc với ý nghĩ rằng chẳng bao lâu nữa anh sẽ được gặp lại Audrey, và cuối cùng thì, ngay cả khi anh không hề có ý thức vê điều đó, hạnh phúc vì được hạnh phúc.
Có lẽ nên báo cho Antoine biết anh có thể sẽ không về nhà trước cuối buổi chiều, và trong lúc suy nghĩ về lí do biện hộ cho sự vắng mặt của mình, anh lục túi tìm điện thoại di động. Anh chắc hẳn đã để nó trong túi áo vest. Vả lại anh còn nhìn thấy rõ mồn một nó, được cuộn tròn thành khối đặt trên tràng kỷ trong căn hộ của Audrey. Lát nữa, anh sẽ gửi cho Antoine một tin nhắn vậy, người bồi bàn đã quay trở lại, trên vai mang một chiếc khay to tướng. Anh ta đặt trên bàn một loạt các món với một số báo ra từ hôm trước của tờ Calcutta Press và một số ra từ hôm trước nữa của tờ Times of India; những tờ nhật báo được in bằng tiếng Bengan à tiếng Hinđi.
– Cái gì thế này? Mathias hốt hoảng nói và chi tay vào món súp đậu lăng đang bốc khói trước mặt anh.
– Món dlal, người bồi bàn trả lời, và món halwa suri, ngon lắm! Cốc sữa chua mặn, chính là món lassi đấy anh ta nói thêm. Một bữa điểm tâm hoàn toàn… Ấn Độ. Anh sẽ ăn ngon miệng cho mà xem.
Và người bồi bàn quay vào phòng, hân hoan vì đã làm hài lòng vị khách của mình.
* * *
Họ đã có cùng một ý tưởng mặc dù không hề nói với nhau, trời thật là rạng rỡ, nó thu hút rất nhiều khách du lịch đến khi Bute Street. Trong lúc người nay ra hiên mở cửa hàng ăn thì người kia sắp dọn trước cửa hiệu.
– Cả cháu cũng làm việc chủ nhật hả? Yvonne hỏi Sophie.
– Cháu thích ở đây hơn là lê lết ở nhà mình!
– Cô cũng đã nghĩ đúng như thế đấy!
Yvonne tiến lại gần Sophie.
– Khuôn mặt nhàu nhĩ này là do cái gì thế hả? Bà vừa hỏi vừa đưa tay vuốt má Sophie.
– Một đêm tồi tệ, chắc là trăng sắp tròn rồi đấy.
– Nếu như nó không quyết định tròn liền hai lần trong một tuần, trăng của cháu ấy mà, thì cháu sẽ phải tìm một lời giải thích khác đấy.
– Thế thì có thể nói là cháu đã mất ngủ.
– Cháu không gặp bọn đàn ông hôm nay à?
– Bọn họ túm tụm cùng gia đình.
Sophie nâng một cái bình lớn lên.Yvonne giúp cô chuyển nó vào bên trong cửa hàng. Cái chậu lớn đã kê đúng chỗ, bà cầm lấy tay Sophie và kéo cô ra ngoài cửa hàng.
Thôi, để lũ hoa của cháu ở đấy một lát, chúng sẽ không héo ngay đi đâu, sang hiên nhà cô uống cà phê đi, cô có cảm giác cô cháu mình có chuyện để kể cho nhau nghe đây.
– Cháu cắt xong cây hồng này cháu sang ngay lập tức, Sophie, đã tìm lại được nụ cười, trả lời.
* * *
Cái kéo cắt cây đang chọn lựa cành. John Glover chăm chú ngắm nhìn bông hoa. Tràng hoa đã gần to bằng đoá mẫu đơn, những cánh hoa của nó thì xoăn lại một cách tuyệt diệu, khiến cho bông hồng của ông có một dáng vẻ hoang dã mà ông đã từng mơ tưởng. Phải công nhận kết quả lai ghép được thực hiện trong nhà kính năm ngoái vượt quá tất cả sự kỳ vọng của ông. Khi ông giới thiệu bông hồng này vào mùa tới trong dịp hội chợ hoa ở Chelsea, ông chắc chắn sẽ giật được giải đặc biệt. Với John Glover, bông hoa này không chỉ đơn giản là một bông hồng, mà nó đã trở thành sự trớ trêu kỳ lạ nhất mà ông phải đối mặt. Nơi ngườiđàn ông xuất thân từ một gia đình tầm cỡ ở Anh này, tính nhún nhường gần như là một thứ tín ngưỡng. Giàu có do một người cha đã vinh quang tử trận trong cuộc chiến, ông đã uỷ quyền sự điều hành gia sản của mình cho người khác. Và chưa một ai trong số những khách hàng đên hiệu sách nhỏ bé nơi ông đã từng làm vịêc ngần ấy năm, lẫn bất kì một người hàng xóm nào, lại có thể tưởng tượng rằng người đàn ông đơn độc này, cái người luôn sống ở cái chỗ nhỏ nhất trong một ngôi nhà mà ông là chủ sở hữu, lại có thể giàu có nhường ấy.
Bao nhiêu những khu nhà bệnh viện hẳn đã có thể đề tên ông trên mặt tiền của chúng, cũng như bao nhiêu hội và quỹ hẳn đã có thể vinh danh ông, nếu như ông muốn áp đặt chuyện đó như là điều kiện duy nhất cho sự hào phóng của mình, vậy mà lòng hào hiệp của ông vẫn mãi chỉ là vô danh. Dẫu vậy, ở tuổi bảy mươi, đối diện với một bông hoa giản dị, ông lại không thể cưỡng lại được ý muốn đặt cho nó cái tên của mình.
Bông hồng có cánh hoa nhạt màu sẽ được gọi là Glover. Lý do duy nhất mà ông đưa ra là do ông không có người nối dõi. Đó rốt cuộc là cách duy nhất nà ông tìm thấy để cho cái tên của ông sống mãi.
John cắm bông hoa vào cái lọ độc hoa và đem nó đặt trong nhà kính. Ông ngắm mặt tiền màu trắng của ngôi nhà thôn dã của mình, và thấy hạnh phúc sau nhiều năm làm việc được về đây hưởng một cuộc đời hưu trí xứng đáng. Khu vườn lớn đón chào mùa xuân với tất cả sự lộng lẫy của nó. Nhưng giữa bao nhiêu vẻ đẹp ấy, thì người phụ nữ duy nhất mà ông yêu mến, cũng sống kín đáo như ông, lại chẳng có ở đây. Một ngày nào đó, Yvonne sẽ đến Kent với ông.
* * *
Antoine bị lũ trẻ làm cho thức giấc. Cúi xuống lan can cầu thang, anh nhìn xuống phòng khách phía dưới. Louis và Emily đã tự chuẩn bị bữa sáng và chúng đang ngồi ngay dưới chân tràng kỷ nghiến ngấu hết sức ngon miệng. Chương trình phim hoạt hình chỉ vừa mới bắt đầu, cũng còn khối thời gian cho Antoine được yên một mình. Lùi lại một bước về phía sau để khỏi bị phát hiện, anh đã mơ được ngủ luôn thêm một giấc nữa Trước khi thả mình xuống giường, anh bước vào phòng Mathias và nhìn cái giường vẫn còn nguyên vẹn. Từ phòng khách, tiếng cười của Emily vọng lên tận tầng gác. Antoine dở tung drap giường, lấy bộ pyjama treo trên móc áo phòng tắm rồi đặt ngay trên mặt ghế. Anh kín đáo khép cửa và quay trở lại phòng mình.
* * *
Không có áo vest, thì anh sẽ không có cả ví lẫn điện thoại di động; lo lắng, Mathias lục tung các túi quần, tìm kiếm cái có thể thanh toán số tiền mà người bồi bàn đưa cho anh. Anh cảm thấy ngón tay mình như chạm vào một tờ tiền. Thở phào, anh chìa tờ hai mươi bảng cho người bồi bàn và đợi lấy tiền lẻ.
Chàng trai trẻ trả lại anh mười lăm đồng cành cạch và lấy lại tờ báo, rồi hỏi Mathias tin tức có gì hay không. Mathias vừa đứng dậy vừa trả lời rằng anh chỉ đọc được tiếng tamun (thứ tiếng của dân tộc Ta-mun nằm ở miền nam Ấn Độ) thôi, còn tiếng Hinđi đối với anh vẫn còn hơi khó tiếp cận.
Đã đến lúc phải trở về, Audrey có lẽ đang đợi anh ở nhà cô. Anh quay lại bằng con đường mà anh đã đến, cho đến lúc anh hiểu ra, ngay ở chỗ rẽ đầu tiên, rằng anh đã hoàn toàn bị lạc. Trong lúc quay xung quanh để tìm kiếm một tấm biển chỉ đường hay một khu nhà mà anh có thể nhận ra được,thì anh lại hiểu ra rằng, đến đây vào ban đêm, một lần được Audrey dẫn đường, một lần khác bằng xe taxi, anh chẳng có cách nào để tìm được địa chỉ của cô cả.
Anh cảm thấy cơn hoảng loan đang xâm chiếm mình bèn cầu cứu một người khách qua đường. Người đàn ông, lịch sự, có một bộ râu trắng và một cái khăn đội đầu nổi bật quấn cẩn thận trên trán. Nếu như Peter Sellers trong La party có một người em trai, thì người đó hẳn đang ở ngay trước mặt anh.
Mathias tìm kiếm một ngôi nhà ba tầng, mặt tiền xây bằng gạch đỏ; người đàn ông bảo anh nhìn xung quanh mình. Tất cả các khu phố cạnh đó đều được bao quanh bởi những ngôi nhà xây gạch đỏ, và như rất nhiều thành phố ở Anh, tất cả chúng trông đều hoàn toàn giống nhau.
– I am so lost (Câu tiếng Anh: Tôi đã bị lạc quá mất rồi), Mathias nói, vẻ chán nản.
– Oh, yes, sir, người đàn ông trả lờ trong lúc nuốt đi các âm “r”, don’t worry too much, we are all lost in this big world (Chớ có lo lắng quá, tất cả chúng ta đều bị lạc trong thế giới rộng lớn này)…
Ông ta tặng cho anh cái vỗ vai thân thiện rồi tiếp tục bước đi.
* * *
Antoine ngủ bình thản, chí ít thì cũng đến tận lúc hai viện đạn cối dội xuống giường anh. Louis kéo cánh tay trái, Emily kéo cánh tay phải.
– Bố cháu không ở đây à? Cô bé gái hỏi.
– Không, Antoine vừa trả lời vừa nhỏm dậy, sáng nay bố đã đi làm từ rất sớm, chính ta sẽ trông coi lũ quỷ sứ ngày hôm nay.
– Cháu biết rồi, Emily nói tiếp, cháu đã tới phòng bố xem, bố thậm chí còn chưa dọn giường.
Emily và Louis xin phép được đi xe đạp trên vỉa hè và thề sẽ không di xuống lòng đường và sẽ rất thận trọng. Xe ôtô chỉ hoạn hoằn lắm mới đi vào trong con phố nhỏ này, Antoine đồng ý cho phép chúng đi.Và trong lúc chúng chạy xuống cầu thang, thì anh xỏ bộ pyjama và đi sửa soạn bữa sáng cho mình. Anh vẫn có thể theo dõi chúng qua cửa sổ nhà bếp.
* * *
Trơ trọi giữa khu Brick Lane, với một ít tiền lẻ còn lại trong đáy túi, Mathias cảm thấy bị lạc thật sự. Ở góc phố, một chiếc ca-bin điện thoại đã cứu rỗi anh. Anh lao vội vào bên trong chúng vào khe trả tiền. Trong tuyệt vọng, anh nhấn số điện thoại duy nhất mà anh thuộc lòng ở London.
* * *
– Hượm tí đã, cậu có thể giải thích chính xác rằng cậu làm gì ở Brick Lane nào? Antoine hỏi trong lúc tự rót cho mình một tách cà phê.
– Vậy thì nghe này, ông bạn, thật sự đây không phải là lúc tra vấn những kiểu câu hỏi như vậy, tớ gọi cho cậu từ một buồng điện thoại công cộng, mà nó thì hình như chưa được ăn gì từ sáu tháng nay hay sao ấy và nó vừa nuốt chửng liền một lúc ba đồng cành cạch, không gì ngoài việc để chào cậu, và tớ không còn nhiều tiền đâu.
– Cậu đã nói chào tớ đâu, mà cậu chỉ nói: “Tớ đang cần cậu” Antoine nói tiếp, trong lúc chầm chậm phết bơ lên miếng bánh của mình, vậy tớ nghe đây…
Không biết nói gì, Mathias nhẫn nhục hỏi bạn xem anh có thể chuyển máy cho con gái anh không.
– Không được, tớ chịu, nó đang ở ngoài đường đạp xe đạp cùng với Louis. Cậu có biết hộp mứt sơ-ri để ở đâu không?
– Tớ đang gặp rắc rối to đây này, Antoine ạ, Mathias thú nhận.
– Tớ có thể làm gì được cho cậu?
Mathias xoay người trong buồng điện thoại, vừa đủ thời gian nhận ra một dãy người Ấn đã xếp hàng trước cửa.
– Chẳng gì cả, cậu chẳng thể làm được gì, anh thì thầm trong lúc đánh giá tình hình mà anh đã phải đối mặt.
– Thế thì tại sao cậu lại gọi cho tớ?
– Chẳng tại gì cả, một phản xạ thôi… Hãy nói với Emily rằng tớ phải ở lại chỗ làm vịêc và hôn nó thay tớ nhé.
Mathias đặt lại máy lên kệ.
* * *
Ngồi phệt trên vỉa hè, Emily ôm lấy cái đầu gối trầy xước của mình và, những giọt nước mắt to mọng đã chảy trần trên má. Một phụ nữ băng qua phố để giúp cô bé. Louis chạy thẳng về nhà, nhảy xổ lên người bố nó và dùng hết sức mình kéo quần pyjama của Antoine.
– Đi nhanh lên nào, Emily bị ngã, nhanh lên!
Antoine hối hả theo sau con trai chạy ngược lên phố.
Ở đằng kia, người phụ nữ ngồi gần Emily đang khua khoắng tay và phẫn nộ hết toáng lên:
– Thế mà bà mẹ đi đâu rồi không biết!
– Đây! Bà mẹ ấy đây! Antoine nói khi tới ngang chỗ bà ta.
Người phụ nữ nhìn bộ pyjama Scotland (Pyjama Ecosse: giống như váy của phụ nữ) của Antoine với vẻ ngờ vực, bà ta ngước mắt nhìn lên trời và bỏ đi mà không nói thêm một lời nào.
– Mười lăm ngày nữa chúng tôi sẽ đi săn mà kìa!Antoine gào lên khi người phụ nữ đó đi xa dần, tôi cũng có quyền mua một bộ quần áo hợp kiểu với chỗ đó chứ hả?
* * *
Mathias ngồi trên một chiếc ghế băng, vỗ vỗ vào gờ trụ. Một bàn tay đặt lên gáy anh.
– Anh làm gì ở đây thế? Audrey hỏi. Anh đợi lâu rồi phải không?
– Không, anh đi dạo, Mathias trả lời.
– Một mình à?
– Ừ… à, một mình, thế thì sao nào?
– Em đã về nhà, gọi cửa nhưng anh không trả lời, em không có chìa khoá để vào, em đã rất lo lắng.
– Anh thực sự không hiểu tại sao em lại lo lắng chứ? Anh bạn nhà báo của em cũng đi một mình tới Tadjikistan thì anh dẫu gì cũng có thể đi dạo trong khu Brick Lane mà không cần phải báo động với Europe Assistance (Trung tâm trợ giúp giải đáp thắc mắc Châu Âu) chứ.
Audrey nhìn anh và mỉm cười.
– Anh đã bị lạc bao lâu rồi?