Moria Parker bước về phía phòng đánh máy và tắt chiếc đài bán dẫn được đặt chông chênh trên chồng danh bạ điện thoại.
‘Hey!’ Annie Jessop phản đối. ‘Em đang nghe mà.’
‘Không nên nghe nhạc trẻ to như vậy trong văn phòng,’ Moria kiên quyết. ‘Ngài Stirling không muốn bị phân tán bởi những tiếng nhạc đinh tai đó. Đây là nơi làm việc.’ Đây là lần thứ tư trong tuần việc này diễn ra.
‘Chẳng khác gì trong một đám ma. Thôi nào, Moria. Vậy thì bật nhỏ vậy. Nó giúp một ngày làm việc trôi qua nhanh hơn.’
‘Làm việc chăm chỉ sẽ giúp một ngày trôi qua nhanh.’
Bà nghe tiếng cười khúc khích chế giễu và bà hất cao cằm. ‘Rồi dần dần cô sẽ biết để tiến xa được ở công ty Acme Mineral and Mining cần một thái độ làm việc chuyên nghiệp.’
‘Và một chiếc quần rộng thùng thình co giãn được,’ có tiếng thì thầm sau lưng bà.
‘Xin lỗi ai vừa nói gì nhỉ?’
‘Không có gì, bà Parker. Vậy chúng ta chuyển sang kênh Những bài hát hay thời chiến? Nó có làm bà hài lòng hơn không? “Chúng ta chuẩn bị phơi đồ trên Chiến tuyến Sieried…”’ Một tràng cười khác vọng lại.
‘Tôi sẽ để chiếc đài này vào phòng Ngài Stirling. Nếu muốn cô có thể hỏi ông ấy thích nghe gì hơn.’
Bà nghe thấy những lời càu nhàu không vừa ý khi bà tiếp tục đi ngang qua văn phòng và bà tảng lờ như không nghe thấy gì. Công ty càng lớn thì những chuẩn mực áp đặt cho nhân viên càng bị phớt lờ nhiều hơn. Thời nay không ai còn tôn trọng cấp trên của họ, coi trọng đạo đức nghề nghiệp và những gì ông Stirling đã đạt được. Đôi khi có cảm giác như chỉ có bà, ông Stirling – và có thể bà Kingston làm ở phòng Kế toán – là biết cách ứng xử.
Còn quần áo! Những bình hoa di động như họ tự gọi mình, thật không có cách gọi nào phù hợp hơn. Chải chuốt và làm dáng, vô công rồi nghề và trẻ con, những cô nàng đánh máy dành cả ngày để nghĩ về việc họ trông như thế nào, về những chiếc váy ngắn cũn cỡn, những bộ đánh mắt kỳ dị, mà chẳng nghĩ gì về những tài liệu họ chuẩn bị đánh. Chiều qua bà đã phải trả lại tới ba văn bản. Đánh máy cẩu thả, sai chính ta, quên dòng ngày tháng năm, thậm chí ở chỗ bà đã viết rõ là ‘Trân trọng’ thì họ đánh thành ‘Thân mến’. Khi bà chỉ những lỗi này cho Sandra, cô ta chỉ nhìn lên trần nhà và không cần quan tâm bà đang nhìn cô ta.
Moria thở dài, cầm chiếc đài trên tay và thoáng nhớ rằng văn phòng ông Stirling hiếm khi đóng cửa vào giờ ăn trưa, bà đẩy cửa bước vào.
Marie Driscoll đang ngồi trước mặt ông – không phải trên chiếc ghế bà vẫn hay ngồi khi bà cần gặp ông mà là ngay trên bàn ông. Một hình ảnh khiến bà sửng sốt tới mức bà phải mất mấy giây để nhận ra ông đột ngột bước lùi lại khi thấy bà bước vào.
‘A, Moria.’
‘Xin lỗi ông Stirling. Tôi không biết còn có người nữa trong phòng.’ Bà phóng một cái nhìn sắc lạnh về phía cô gái. Cô ta nghĩ cô ta là cái quái quỷ gì ở đây vậy? Tất cả mọi người đều đang phát rồ hay sao? ‘Tôi – tôi cầm theo chiếc đài này. Các cô gái đã bật nó quá to trong văn phòng. Tôi nghĩ nếu ông yêu cầu họ giải thích, chắc họ sẽ phải suy nghĩ cẩn thận hơn khi bật nó lên.’
‘Tôi hiểu.’ Ông ngồi xuống.
‘Tôi lo nó sẽ làm ông bị phân tán.’
Một sự im lặng kéo dài. Marie dường như không có ý định rời đi, cô ta mải mê vân vê một cái gì đó trên váy. Moria đợi cô ta bước ra.
Ông Stirling cắt lời. ‘Bà tới thật đúng lúc. Tôi có một chút việc riêng muốn trao đổi với bà. Cô Driscoll., cho tôi vài phút được không?’
Hơi một chút lưỡng lự, cô gái tụt xuống khỏi bàn và lướt qua trước mặt Moria, thậm chí còn nhìn lại bà khi đi ngang qua. Cô ta xức quá nhiều nước hoa, Moria nghĩ. Cửa đóng sau lưng họ, và chỉ còn lại hai người. Bà thích như thế.
Ông Stirling đã làm tình với bà thêm hai lần nữa kể từ lần đầu tiên mấy tháng trước. Có lẽ nói ‘làm tình’ thì hơi quá: vì cả hai trường hợp ông đều ở trong tình trạng say khướt và ông quan hệ như một thói quen chứ không phải như lần đầu tiên, và đến ngày hôm sau thì ông chẳng còn nhớ gì về nó.
Mặc dù bà luôn tìm cách để ông biết rằng ông không hề bị bà khước từ – những chiếc bánh sandwich bà để trên bàn ông, cách bà chải tóc thật điệu đà – nhưng ông đã không làm thêm lần nào nữa. Mặc dù vậy, bà biết bà là người đặc biệt đối với ông, là người nắm giữ những bí mật riêng tư trong khi những người khác trong văn phòng bàn tán về ông trong căn-tin. Bà hiểu những căng thẳng mà một cuộc tình vụng trộm có thể gây ra cho ông, và ngay cả khi bà mong muốn mọi chuyện khác đi, bà vẫn rất tôn trọng sự tự kiềm chế đáng ngưỡng mộ ở ông. Một vài lần hiếm hoi, Jennifer Stirling có tạt qua văn phòng, tuy nhiên bà không còn cảm thấy bị choáng ngợp bởi vẻ đẹp quyến rũ ấy nữa. Nếu cô là một người vợ tử tế, chắc chắn ông ấy đã không bao giờ phải quay sang tôi. Bà Stirling chắc chắn không bao giờ có thể biết những gì đang xảy ra trước mắt cô.
‘Ngồi xuống đi, Moria.’
Bà lựa chọn tư thế ngồi đúng đắn hơn cô nàng Driscoll rất nhiều, hai chân bà cẩn thận khép chặt, bà bỗng thấy ân hận vì đã không diện chiếc váy đỏ. Ông đã rất thích chiếc váy đó, một vài lần ông nói với bà như vậy. Bà nghe một tràng cười to từ phía ngoài phòng ông vọng lại và tự hỏi không lẽ mấy cô nàng đó lại có một cái đài khác. ‘Tôi sẽ bảo những cô gái đó biết cách cư xử hơn,’ bà nói khẽ. ‘Tôi chắc họ khiến ông rất phiền lòng.’
Có vẻ như ông không nghe thấy bà nói gì. Ông dọn dẹp đống giấy tờ trên bàn. Khi nhìn lên ông như muốn tránh không nhìn thẳng vào bà.
‘Tôi sẽ thuyên chuyển Marie, có hiệu lực ngay từ bây giờ__’
‘Ồ, tôi nghĩ ông đã thật sáng suốt khi__’
‘__về làm trợ lý riêng cho tôi.’
Cả hai rơi vào im lặng. Moria cố không thể hiện cảm xúc. Đúng là gần đây công việc nhiều hơn, bà tự nhủ. Cũng dễ hiểu nếu ông muốn có thêm một người nữa. ‘Nhưng cô ta sẽ ngồi đâu?’ bà hỏi. ‘Khu vực đó chỉ đủ kê một cái bàn.’
‘Tôi biết.’
‘Tôi nghĩ ông có thể để Maisie ngồi ở__’
‘Điều đó không cần thiết. Tôi đã quyết định sẽ giảm bớt việc cho bà. Bà sẽ… chuyển tới ngồi ở khu vực đánh máy chung với những người khác.’
Bà không hiểu ông nói gì. ‘Khu vực đánh máy?’
‘Tôi đã bảo bộ phận Kế toán là bà sẽ được giữ nguyên mức lương cũ vì vậy việc thuyên chuyển này sẽ có lợi hơn cho bà, Moria. Bà sẽ có nhiều thời gian hơn cho bản thân và cho cuộc sống bên ngoài văn phòng.’
‘Nhưng tôi không cần thời gian cho bản thân.’
‘Bà đừng nghiêm trọng hóa vấn đề. Tôi đã nói bà sẽ được giữ nguyên mức lương cũ, và bà vẫn sẽ là nhân viên kỳ cựu nhất ở đây. Tôi sẽ nói rõ với tất cả mọi người ở đây về điều đó. Bà cũng có nói là những cô gái ngồi ở đó cần một người quản lý.’
‘Nhưng tôi không hiểu…’ Bà đứng dậy, khớp ngón tay trắng xanh vì giữ chiếc đài bán dẫn. Một nỗi hoảng sợ đè lên ngực bà. ‘Tôi đã làm gì sai? Vì sao ông lại không để tôi làm công việc bao năm tôi đã quen làm?’
Ông có vẻ giận dữ. ‘Bà không làm gì sai cả. Bất kỳ tổ chức nào cũng sẽ thỉnh thoảng thay đổi vị trí nhân sự của họ. Thời thế đang thay đổi và tôi muốn làm tươi mới đội ngũ.’
‘Làm tươi mới?’
‘Marie hoàn toàn có thể làm điều đó.’
‘Marie Driscoll sẽ đảm nhiệm công việc của tôi? Nhưng cô ta không biết một chút gì về công việc văn phòng. Cô ta không biết gì về hệ thống lương kiểu Rhodesia, về danh bạ điện thoại, và cũng không biết cách đặt vé máy bay. Cô ta không biết sắp xếp tài liệu. Một nửa thời gian cô ta vào phòng vệ sinh để trang điểm. Và cô ta còn chuyên đi muộn! Lúc nào cũng đi muộn! Tuần này đã hai lần tôi phải cảnh cáo cô ta vì đi muộn. Đã bao giờ ông kiểm tra giờ giấc đi làm qua hệ thống vân tay chưa?’ Những từ ngữ vội vã bật ra từ miệng bà.
‘Tôi tin cô ấy có thể học. Đó chỉ là những công việc thư ký, bà Moria.’
‘Nhưng__’
‘Tôi thực sự không có thời gian để tranh cãi về vấn đề này. Làm ơn chuyển vật dụng của bà ra khỏi ngăn tủ trong chiều nay, để ngày mai chúng ta có thể bắt đầu một ngày mới hoàn toàn.’
Ông cho tay vào hộp đựng xì gà, báo hiệu cuộc nói chuyện đã kết thúc. Moria đứng dậy, chống tay lên cạnh bàn để giữ thăng bằng. Cơn giận đã lên tới tận cổ, thậm chí có thể thấy rõ mạch máu đập mạnh hai bên tai. Có cảm giác như cả văn phòng này đang đổ sập lên bà, từng viên gạch một.
Ông ngậm điếu xì gà lên miệng và bà có thể nghe rõ tiếng ông dùng dao cắt phần đầu mũi xì gà.
Bà bước từ từ về phía cửa và ngay khi bà mở cửa ra, tiếng trò chuyện bên ngoài đột ngột im bặt và bà hiểu tất cả mọi người trong văn phòng đã biết về điều này trước khi bà được biết.
Mắt bà bắt gặp cặp chân của Marie Driscoll duỗi thẳng dưới gầm bàn của bà. Cặp chân dài khẳng khiu trong đôi tất với màu sắc kỳ lạ. Làm sao trên đời này có người lại có thể đi một đôi tất chân màu xanh hải quân tới công ty và coi đó là việc bình thường?
Bà vơ vội chiếc túi để trên bàn và đi về phía khu vực các cô nàng đánh máy, cảm nhận rõ những cái nhìn soi mói tò mò và những nụ cười mãn nguyện hơn là cảm thông phóng theo chiếc áo len xanh của bà.
‘Moria! Họ đang chơi bản nhạc chị thích này! “Không Thể Quen Với Việc Đã Đánh Mất Anh”…’
‘Ồ, đừng có ích kỷ như thế, Sandra.’ Một tràng cười khác phụ họa và cánh cửa phòng thay đồ đóng sập sau lưng bà.
Jennifer đứng giữa khu vườn vui chơi lạnh lẽo, dõi theo những người trông giữ trẻ đang tán chuyện bên những chiếc xe đẩy trẻ nhỏ, nghe tiếng la hét của bọn nhỏ đang chạy đuổi và ngã dúi vào nhau như những con ky của trò bowling.
Bà Cordoza ngỏ ý mang theo Esme, nhưng Jennifer nói với bà cô muốn hít thở không khí ngoài trời. Bốn tám tiếng vừa rồi cô không biết phải làm gì, cơ thể cô vẫn còn vương vấn với những động chạm của anh, đầu óc cô quay cuồng với những gì vừa xảy ra. Cô có thể cảm nhận sự mất mát lớn lao. Cô không thể dùng những viên Valium để ru mình chìm đắm trong nỗi đau: cô phải chấp nhận nó. Con gái cô nhắc cô rằng cô đã làm điều đúng đắn. Cô vẫn còn muốn tâm sự với anh thêm nữa. Ngay cả khi cô tự nhủ cô tới gặp anh không phải để cám dỗ anh, cô biết mình đang nói dối. Cô muốn lưu lại dù chỉ một chút gì đó của anh, một kỷ niệm đẹp đáng nhớ để cô có thể mang theo mình. Làm sao cô biết trước là cô sẽ mở chiếc hộp Pandora kỳ bí như trong thần thoại Hy Lạp. Tệ hơn, làm sao cô tưởng tượng nổi việc mở chiếc hộp đó lại khiến anh đau lòng như vậy?
Tối hôm đó tại bữa tiếc của đại sứ quán, anh trông rất tuyệt vời. Anh không bị ảnh hưởng nhiều như cô đã bị ảnh hưởng; anh không phải trải qua cái cảm giác như cô đã từng trải qua. Anh mạnh mẽ hơn cô nghĩ. Nhưng giờ cô không thể ngừng nghĩ về anh, về sự tổn thương của anh, về tương lai tươi đẹp anh vẽ ra cho hai người. Và cái cách anh nhìn theo cô khi cô đi từ sảnh khách sạn về phía đứa bé. Cô nghe tiếng gọi của anh, thống thiết và đau khổ, vọng dọc theo hành lang sau lưng cô: Đừng làm thế, Jennifer! Anh không thể chờ đợi em thêm bốn năm nữa!
Hãy tha thứ cho em, cô nói với anh trong im lặng, mỗi ngày hàng ngàn lần. Laurence sẽ không bao giờ để em mang con bé theo. Và anh không thể đề nghị em rời bỏ con bé. Anh, hơn ai hết, phải hiểu điều đó.
Thỉnh thoảng cô lấy tay dụi khóe mắt khi những cơn gió lạ bằng cách nào đó đã thổi cát vào mặt cô. Cô thấy lạnh, rất nhạy cảm với những thay đổi nhỏ nhất của thời tiết.
Laurence không phải là một người đàn ông tồi, cô tự nhủ không biết bao nhiêu lần. Ông là một người cha tốt, theo cách của ông. Nếu ông thấy không thể đối xử tử tế hơn với Jennifer, thì cũng không thể trách ông. Có mấy người có thề tha thứ cho vợ mình khi cô ta yêu người khác? Đôi khi cô tự hỏi nếu cô không có bầu nhanh như thế, liệu ông có chán cô và bỏ cô không. Nhưng cô không tin điều ấy: Laurence có thể không còn yêu cô nữa, nhưng ông không thể thỏa hiệp với ý nghĩ cô sẽ tồn tại ở đâu đó không có ông bên cạnh.
Và con bé là niềm an ủi duy nhất. Cô đẩy con gái trên chiếc xích đu, nhìn đôi chân nhỏ xíu tung trên cao, những lọn tóc xoăn bay theo gió. Cô có quá nhiều mà một người phụ nữ có thể đòi hỏi. Như Anthony đã từng bảo cô, dù sao cũng được an ủi khi biết rằng cô đã làm những điều đúng đắn.
‘Mẹ!’
Dorothy Moncrieff làm rớt chiếc mũ, dòng suy nghĩ của Jennifer bị gián đoạn khi phải tìm mũ cho cô bé. Hai cô bé cùng cô lục lọi bên chiếc xích đu, bên vòng xoay trò chơi, ngó xuống dưới ghế cho tới khi họ cùng phát hiện chiếc mũ đã ở trên đầu môt đứa bé khác.
‘Thật xấu khi lấy trộm mũ,’ Dorothy nói một cách đau khổ khi họ bước trở về khu vườn trò chơi.
‘Đúng vậy,’ Jennifer nói, ‘nhưng cô nghĩ cậu bé đó không lấy trộm đâu. Chỉ là cậu không biết chiếc mũ đó là của cháu.’
‘Nếu một người nào đó không biết làm thế nào là đúng, làm thế nào là sai, thì họ là một kẻ ngốc nghếch,’ Dorothy nói dõng dạc.
‘Ngốc nghếch,’ Esme phụ họa theo, đầy hào hứng.
‘Đúng vậy, cũng có thể,’ Jennifer nói. Cô buộc lại khăn quàng cổ cho con gái và đẩy chúng trở lại khu trò chơi, lần này là vào khu nghịch cát, không quên dặn chúng không được tung cát vào mặt nhau.
Boot thân yêu, cô viết, một trong hàng ngàn bức thư tưởng tượng cô đã viết ttong hai ngày qua. Xin đừng giận em. Anh biết rằng nếu có bất kỳ cách nào trên thế giới có thể giúp em đi cùng anh, em chắc chắn sẽ đi…
Cô đã không gửi đi bức thư nào. Còn gì để nói nữa, những gì cần nói cô cũng đã nói rồi. Rồi một lúc nào đó anh sẽ tha thứ cho cô, cô tự nhủ. Anh sẽ có một cuộc sống tốt.
Cô cố gắng không nghĩ tới những câu hỏi khác dành riêng cho cô: rồi cô sẽ sống ra sao? Làm sao cô có thể tiếp tục sống, sau khi cô biết những điều vừa rồi? Mắt cô lại đỏ hoe. Cô rút từ túi ra chiếc khăn mùi xoa và trộm lau khóe mắt, cô quay đi để không thu hút sự chú ý của mọi người. Có lẽ cô nên ghé bác sĩ. Chỉ cần một chút trợ giúp để cô sống qua những ngày tháng này.
Cô chợt để ý tới một người phụ nữ vận chiếc áo khoác bằng vải tuýt đang băng qua thảm cỏ xanh về phía khu trò chơi. Những sải chân của bà kiên quyết và đều đặn, mặc cho lớp cỏ khá lầy lội. Jennifer ngạc nhiên nhận ra đó chính là thư ký của chồng cô.
Moria Parker bước thẳng đến chỗ cô và đứng sát cô tới mức cô phải lùi lại một bước. ‘Bà Parker?’
Môi bà mím chặt, mắt mở to. ‘Người quản gia nói với tôi là cô ở đây. Tôi có thể trao đổi nhanh một chút với cô không?’
‘Um… vâng. Tất nhiên.’ Cô quay sang bọn trẻ. ‘Các con? Dottie? Esme? Mẹ ở đây nhé.’
Bọn trẻ nhìn lên rồi lại mải miết nghịch cát.
Họ đi thêm vài bước, về phía một góc khuất. Jennifer chọn chỗ đứng làm sao cô vẫn có thể nhìn thấy bọn trẻ. Cô đã hứa với người giữ trẻ nhà Moncrieff là cô sẽ đưa Dorothy về lúc bốn giờ, mà giờ đã là bốn giờ kém mười lăm rồi. Cô cố gắng nở nụ cười xã giao. ‘Có chuyện gì vậy, bà Parker?’
Moria thò tay vào chiếc túi to trầy xước và lấy ra một tập tài liệu dày.
‘Cái này là cho cô,’ bà nói một cách cộc cằn.
Jennifer cầm lấy. Cô mở ra và ngay lập tức phải lấy tay chặn tập tài liệu lại khi những cơn gió chỉ chực thổi tung chúng lên.
‘Đừng để mất.’ Đó là một mệnh lệnh.
‘Tôi xin lỗi… tôi không hiểu. Đây là gì vậy?’
‘Danh sách những người nhận tiền bồi thường.’
Thấy Jennifer vẫn chưa hiểu gì, Moria tiếp tục. ‘U trung biểu mô. Bệnh phổi. Đó là những công nhân nhận tiền bồi thường từ chồng cô vì ông muốn che giấu thực tế là làm việc cho ông có thể khiến họ ốm tới chết ở giai đoạn cuối đời.’
Jennifer đưa một tay lên đầu. ‘Gì cơ?’
‘Chồng cô. Tên những người đã chết nằm ở cuối danh sách. Gia đình những người này phải ký vào một chứng từ cam kết sẽ không kiện tụng gì, bù lại họ được trợ cấp một số tiền.’
Jennifer cố hiểu người phụ nữ đối diện cô đang nói gì. ‘Chết? Không kiện tụng?’
‘Ông ấy buộc họ phải xác nhận là ông không chịu trách nhiệm gì. Ông trả tiền cho họ để làm điều đó. Những người Nam Phi hầu như không được gì. Công nhân nhà máy ở đây đắt hơn ở đó.’
‘Nhưng a-mi-ăng không gây hại gì. Chỉ là những người chuyên phá quấy ở New York tìm cách đổ lỗi cho ông. Laurence đã bảo tôi thế.’
Moria có vẻ không muốn nghe. Bà đưa tay chỉ dọc theo danh sách. ‘Họ được sắp xếp theo vần chữ cái. Cô có thể nói chuyện với những gia đình này, nếu cô muốn. Địa chỉ của họ ở ngay đầu danh sách. Ông ấy rất sợ nếu chuyện này bị báo chí phanh phui.’
‘Đó chỉ là các nghiệp đoàn… Ông ấy bảo tôi…’
‘Các công ty khác cũng gặp vấn đề tương tự. Tôi nghe được một vài cuộc hội thoại của ông với công ty Goodasbest ở Mỹ. Họ cùng tài trợ một cuộc nghiên cứu để chứng minh chất a-mi-ăng không gây hại gì tới sức khỏe.’
Bà nói nhanh tới mức đầu óc Jennifer quay cuồng. Cô liếc nhìn sang hai đứa trẻ, hai tay chúng bốc đầy cát ném vào nhau.
Moria đi thẳng vào vấn đề. ‘Cô biết là nếu những tài liệu này bị lộ ra ngoài, sự nghiệp và cuộc sống của chồng cô sẽ bị hủy hoại. Trước sau gì mọi người cũng biết, cô cũng biết đấy. Mọi việc sẽ phải như thế.’
Jennifer cầm tập tài liệu một cách cẩn trọng, như thể bản thân chúng cũng có thể gây ô nhiễm. ‘Vì sao bà lại đưa tôi những thứ này? Vì sao bà nghĩ tôi có thể làm một điều gì đó để gây hại cho chồng mình?’
Biểu hiện trên khuôn mặt của Moria Parker thay đổi và hơi một chút tội lỗi. Môi bà mím lại thành một đường đỏ mỏng. ‘Vì cái này.’ Bà rút ra một mẩu giấy nhàu nát và dúi vào tay Jennifer. ‘Tôi có nó chỉ vài tuần sau khi cô gặp tai nạn. Những năm vừa rồi. Ông ấy không biết là tôi vẫn giữ nó.’
Jennifer mở tờ giấy, gió thổi giật trên tay cô. Cô nhận ra mẫu chữ viết tay này.
Anh đã thề sẽ không liên lạc với em nữa. Nhưng sáu tuần trôi qua rồi anh vẫn không cảm thấy khá hơn. Một cuộc sống không có em – cách xa em hàng dặm – quả là một cực hình. Thực tế của việc anh không còn bị ám ảnh bởi sự gần gũi với em, không còn bị ám ảnh bởi việc không thể đạt được điều anh muốn, lại chẳng giúp anh vui hơn. Nó khiến mọi việc còn tồi tệ hơn. Trước mặt anh là một tương lai trống rỗng và ảm đạm.
Anh không biết anh đang định nói gì nữa Jenny. Chỉ muốn em hiểu rằng nếu lúc nào đó em cảm thấy mình đã quyết định sai, cánh cửa này vẫn luôn rộng mở đón em.
Và nếu em nghĩ quyết định của mình là đúng đắn thì ít nhất anh cũng muốn em hiểu: rằng ở một nơi nào đó trên thế giới này luôn có một người yêu em, hiểu em quý giá, tốt bụng và thông minh đến nhường nào. Một người luôn yêu em, và cho dù chuyện gì xảy ra, cũng sẽ luôn yêu em.
Người yêu của em.
B
Jennifer vẫn không rời mắt khỏi bức thư khi máu dồn lên mặt cô. Cô nhìn ngày đề trên thư. Đúng gần bốn năm trước. Chỉ sau ngày xảy ra tai nạn một thời gian ngắn. ‘Có phải bà bảo Laurence biết bức thư này?’
Moria Parker nhìn xuống đất. ‘Ông ấy yêu cầu tôi làm thủ tục đóng hòm thư lại.’
‘Ông ấy biết là Anthony vẫn còn sống?’ Cô run rẩy.
‘Tôi không biết chuyện đó.’ Moria Parker dựng thẳng cổ áo. Bà cố nhìn tránh đi chỗ khác.
Một cục đá lạnh đè lên tim Jennifer. Cô cảm thấy toàn cơ thể căng cứng.
Moria Parker kéo khóa túi xách lại. ‘Cô muốn làm gì với đông giấy tờ này thì làm. Ông ta có bị treo cổ tôi cũng không quan tâm.’
Cô vẫn chưa hết bàng hoàng khi bước trở lại phía khu trò chơi. Jennifer thả phịch người trên ghế, tảng lờ hai đứa trẻ đang rất thích thú lấy cát chà lên tóc của nhau. Cô đọc lại bức thư lần nữa.
Cô đưa Dorothy Moncrieff về nhà và nhờ bà Cordoza đưa Esme tới tiệm kẹo ngọt. ‘Mua cho con bé một cái kẹo que hoặc một phần tư ký kẹo mật.’ Cô đứng trên cửa sổ nhìn xuống đường, nghe tiếng bước chân của con bé đầy hào hứng trên đường. Đợi cho cả hai đi khuất, cô mở cửa phòng làm việc của Laurence, nơi cô rất hiếm khi bước vào, nơi Esme bị cấm không được bén mảng tới, ông sợ những ngón tay nhỏ bé của nó có thể làm hư những đồ vật quý giá ở đây.
Cô cũng không biết vì sao cô lại vào đây. Cô luôn ghét căn phòng này: những giá sách màu gụ tối tăm, chất chật kín những cuốn sách ông chưa bao giờ đụng tới, mùi xì gà vẫn còn luẩn quẩn trong phòng, cúp lưu niệm và bằng chứng nhận thành tích cô chẳng thể nhận ra như – Doanh nhân Thành đạt của Năm, Xạ thủ Xuất sắc nhất, Thợ săn Hươu vùng Cowbridge 1959, Tay gôn Xuất sắc 1962. Ông ít khi dùng tới căn phòng này: đó chỉ là một nơi để trưng bày, một nơi các ông khách nam có thể tới trú ẩn mỗi khi muốn ‘trốn thoạt’ khỏi người đàn bà của họ, một nơi ẩn náu mỗi khi ông muốn tìm sự bình yên.
Hai chiếc ghế bành to để hai bên lò sưởi, chỗ ngồi của nó hiếm khi lõm xuống. Tám năm rồi lò sưởi này chưa hề nổi lửa. Ở chiếc tủ cạnh đó, những chiếc cốc vại bằng kính hoa văn chưa bao giờ được rót whisky từ bình rượu để cạnh. Các bức tường được trang trí bằng những tấm ảnh chụp Laurence bắt tay với các doanh nhân khác, những nhà chức sắc quyền cao, Bộ trưởng Thương mại Nam Phi, Công tước xứ Edinburgh. Đó là nơi để mọi người chiêm ngưỡng, và cũng là để những người đàn ông hâm mộ ông. Laurence Stirling, một kẻ may mắn.
Jennifer đứng ngay ở khung cửa, cạnh bộ chơi gôn đắt tiền. Ngực cô quặn thắt như có viên đá to và cứng chặn lại, ngay chỗ khí quản nơi không khí có thể lưu thông qua để tới lồng ngực. Cô thấy mình không thể thở. Cô nhặt một chiếc gậy đánh gôn và bước vào giữa phòng. Một âm thanh khẽ thoát ra từ cổ họng cô, như tiếng thở hắt của một người mới chạy xong một quãng đường dài. Cô vung gậy qua đầu, hệt như một cú đánh hoàn hảo, và dùng hết sức lực đập vào bình rượu. Các mảnh vỡ bắn tung tóe khắp phòng, rồi cô lại vung gậy lên, tiếp tục đánh vào tường, vào các bức hình treo trên đó, những chiếc cúp vỡ tan khỏi đế. Cô đập những cuốn sách bọc da, những chiếc gạt tàn thuốc lá bằng thủy tinh dày cộp. Cô đập một cách giận dữ nhưng có hệ thống, cơ thể mảnh khảnh của cô run lên vì tức giận, cơn tức giận ngày càng lớn khi cô đập phá.
Cô phá nát những cuốn sách đang để trên giá, khung ảnh rơi loảng xoảng xuống dưới nền. Cô hạ gậy chơi gôn xuống như đang cầm một chiếc rìu, đập vỡ vụn chiếc bàn kiểu Georgia. Cô vung tới mức tay cô như gẫy đôi, cơ thể cô ướt đẫm mồ hôi, cô thở gấp gáp, dồn dập. Cuối cùng, khi không còn gì để đập nữa, cô đứng giữa phòng, giày cô nghiến lên những mảnh thủy tinh vỡ. Cô gạt một vài sợi tóc vương trước trán khi cô nhìn lại những gì mình vừa làm. Bà Stirling dễ thương, bà Stirling hiền hòa. Điềm đạm, đoan trang. Ngọn lửa trong cô đã tắt.
Jennifer Stirling buông chiếc gậy đã bị cong ngay dưới chân. Rồi cô lau tay vào váy, nhặt một mảnh thủy tinh vỡ và để lại ngay ngắn trên sàn. Cô rời phòng, đóng cửa lại.
Bà Cordoza đang ngồi ở trong phòng bếp cùng Esme. Jennifer thông báo ngắn gọn là họ sẽ ra ngoài lần nữa. ‘Con bé không uống trà sao? Nó sẽ rất đói.’
‘Con không muốn đi nữa,’ Esme phụ họa theo.
‘Chúng ta đi sẽ không lâu đâu, con yêu,’ cô nói một cách bình tĩnh. ‘Bà Cordoza, bà có thể nghỉ sớm chiều nay.’
‘Nhưng tôi__’
‘Tôi nói nghiêm túc. Như thế là tốt nhất.’
Cô bế con gái lên, xách theo chiếc va li cô vừa gói ghém và bọc kẹo trong túi giấy màu nâu, tảng lờ bà giúp việc đang vô cùng bối rối. Cô đã nhanh chóng ở ngoài đường và vẫy được một chiếc taxi.
Cô nhìn thấy ông khi vừa bước qua cánh cửa lớn vào sảnh tòa nhà văn phòng của ông. Ông đứng ở ngay cửa phòng, trao đổi gì đó với một cô gái trẻ đang ngồi ở bàn làm việc của ông. Cô nghe thấy ai đó chào mình, nghe thấy tiếng mình chào lại và hơi ngạc nhiên là cô vẫn còn đủ tỉnh táo để làm những việc chào hỏi rất đơn giản này.
‘Bé gái lớn quá rồi!’
Jennifer nhìn con gái đang mải mê nghịch chuỗi hạt đeo ở tay và nhìn sang cô gái vừa chào cô. ‘Sandra phải không nhỉ?’ cô hỏi.
‘Dạ, thưa bà Stirling.’
‘Làm ơn cho Esme lại chỗ cô ngồi nghịch máy đánh chữ trong lúc tôi nói chuyện với chồng tôi.’
Esme vui mừng vì được nghịch máy đánh chữ, vây quanh con bé là các cô nàng thư ký thích thú vì có cơ hội không phải làm việc một cách chính đáng. Jennifer vuốt tóc cho ngay ngắn và bước vào phòng làm việc của chồng. Cô đi về phía khu vực thư ký nơi chồng cô đang đứng.
‘Jennifer.’ Ông nhướn mày ngạc nhiên. ‘Anh không nghĩ em tới đây.’
‘Nói chuyện một chút được không?’ cô hỏi.
‘Anh phải đi có việc lúc 5 giờ.’
‘Sẽ không lâu đâu.’
Ông dẫn cô về chỗ ngồi của ông và chỉ về cái ghế ông muốn cô ngồi. Không hài lòng khi thấy cô từ chối ngồi, ông thả phịch người xuống chiếc ghế da của ông. ‘Có chuyện gì vậy?’
‘Tôi đã làm gì để anh căm thù tôi đến vậy?’
‘Gì cơ?’
‘Tôi biết về những lá thư.’
‘Lá thư nào cơ?’
‘Lá thư anh đã chặn của tôi ngay tại bưu điện cách đây bốn năm.’
‘Ồ, là lá thư đó,’ ông nói một cách thô bạo. Ông mang cái vẻ mặt của một người vừa được ai đó nhắc nhở rằng ông để quên một món đồ tại cửa hàng bán rau củ.
‘Anh biết, vậy mà anh vẫn luôn để tôi nghĩ rằng anh ấy đã chết. Anh khiến tôi nghĩ chính tôi là người chịu trách nhiệm.’
‘Anh thực sự nghĩ có thể anh ta đã chết. Nhưng dù sao cũng là quá khứ rồi. Anh không nghĩ phải đào bới chuyện cũ lên làm gì.’ Ông vươn người về phía trước và rút ra một điếu xì gà từ chiếc hộp bằng bạc để trên bàn.
Cô thoáng nghĩ tới chiếc gạt tàn bị đập nát trong thư phòng của ông ở nhà. ‘Vấn đề là, Laurence, anh đã trừng phạt tôi ngày này qua ngày khác, anh để tôi tự trừng phạt mình. Tôi đã làm gì anh để bị anh đối xử như vậy?’
Ông vứt que diêm vào chiếc gạt tàn. ‘Cô biết hơn ai hết những gì cô đã làm với tôi.’
‘Ông nhồi nhét vào đầu tôi cái ý nghĩ chính tôi là người giết anh ấy.’
‘Những gì cô đang nghĩ không liên quan gì tới tôi cả. Dù sao thì, như tôi nói, mọi chuyện đã qua rồi. Tôi thấy không có lý do gì để__’
‘Chưa. Mọi chuyện chưa qua. Anh ấy đã quay lại.’
Cuối cùng cô cũng làm ông phải chú ý. Cô thoáng mơ hồ nhận ra nữ thư ký riêng của ông đang nghe lỏm ngoài cửa vì vậy cô hạ thấp giọng. ‘Đúng vậy. Và tôi sẽ chuyển đến sống với anh ấy. Tất nhiên cùng với cả Esme.’
‘Đừng có cư xử kỳ cục như vậy.’
‘Tôi không đùa đâu.’
‘Jennifer, không một tòa án nào trên thế giới cho phép người mẹ ngoại tình được nuôi con mình – một người mẹ không thể sống nổi qua ngày nếu thiếu thuốc. Ông Hargreaves hoàn toàn có thể làm chứng là cô đã dùng bao nhiêu thuốc cho tới thời điểm này.’
‘Chúng không còn nữa. Tôi đã vứt hết đi rồi.’
‘Thật sao?’ Ông nhìn đồng hồ. ‘ Xin chúc mừng. Vậy là cô có thể đứng vững… suốt hai mươi tư tiếng đồng hồ mà không cần viên thuốc nào ư? Tôi tin chắc tòa án sẽ rất ngạc nhiên trước nỗ lực này của cô.’ Ông phá lên cười, hài lòng vì sự phản pháo.
‘Thế ông có nghĩ họ cũng sẽ rất ngạc nhiên khi đọc tập hồ sơ về bệnh lao phổi hay không?’
Cô nhận thấy quai hàm ông đột ngột bạnh ra và một thoáng choáng váng trên khuôn mặt.
‘Cô bảo gì?’
‘Bà thư ký cũ của ông đưa tôi. Tôi có tên của từng nhân viên làm việc cho ông bị ốm và chết trong vòng mười năm qua. Nó là bệnh gì vậy?’ Cô cố ý đánh vần từng từ. ‘U-trung-biểu-mô’
Mặt ông biến sắc nhanh tới mức cô nghĩ ông sắp ngất xỉu tới nơi. Ông đứng dậy, bước ngang qua người cô về phía cửa. Ông mở nó ra rồi lại đóng lại cẩn thận. ‘Cô vừa nói gì?’
‘Tôi có toàn bộ thông tin, Laurence. Tôi còn có cả biên lai chuyển tiền của ngân hàng chứng nhận số tiền ông đã trả cho họ.’
Ông mở mạnh ngăn kéo tủ và quờ tay lục lọi. Khi ông ngẩng đầu lên, toàn thân ông run lập cập. Ông bước lên một bước về phía cô, buộc cô phải nhìn vào mắt ông. ‘Nếu cô hại tôi, Jennifer, có nghĩa là cô hủy hoại cả cuộc đời cô.’
‘Anh nghĩ tôi thực sự quan tâm tới điều đó ư?’
‘Anh sẽ không bao giờ ly dị em cả.’
‘Tốt thôi,’ cô nói, sự quyết tâm của cô càng được củng cố bởi nỗi lo lắng hiện rõ trên nét mặt ông. ‘Chúng ta thống nhất thế này. Esme và tôi sẽ kiếm một chỗ ở gần đó và anh vẫn có thể tới thăm con. Tôi và anh sẽ chỉ là vợ chồng trên danh nghĩa. Hàng tháng anh sẽ đưa tôi một khoản tiền nhất định, đủ để tôi nuôi con. Bù lại tôi sẽ đảm bảo những tài liệu này sẽ không bao giờ lại thất thoát ra ngoài.’
‘Cô đang tống tiền tôi đấy à?’
‘Ồ, không, còn lâu tôi mới dám làm thế, Laurence, như anh đã nhắc tôi vô số lần trong những năm vừa rồi. Không, tôi chỉ muốn nói với anh về cuộc sống tương lai của mẹ con tôi. Anh có thể giữ lại bên mình nhân tình của anh, ngôi nhà, sự nghiệp và… danh tiếng của anh. Sẽ không một đồng nghiệp nào biết về những việc này. Và tôi cũng sẽ không bao giờ đặt chân lên ngôi nhà của anh một lần nào nữa.’
Ông hoàn toàn bất ngờ về việc cô biết về tình nhân của ông. Cô nhận ra sự giận dữ bất lực đan xen lẫn lo lắng trên khuôn mặt ông. Nhưng rất nhanh chóng chúng được che giấu bởi một nụ cười hòa hoãn. ‘Jennifer, anh biết em đang tức giận. Sự xuất hiện trở lại của người bạn cũ chắc hẳn khiến em rất sửng sốt. Vì sao chúng ta không về nhà và cùng ngồi lại nói chuyện?’
‘Tôi đã gửi tập tài liệu cho một người. Nếu có chuyện gì tình cờ xảy ra với tôi, anh ta sẽ biết phải làm gì.’
Chưa bao giờ ông nhìn cô với ánh mắt căm thù như vậy. Tay cô nắm chặt quai túi.
‘Cô là một con điếm,’ ông nghiến răng.
‘Với anh tôi đúng là như thế,’ cô nói nhẹ nhàng. ‘Chắc chắn là như thế vì tôi ở bên anh mà không hề yêu anh.’
Có tiếng gõ cửa, cô thư ký mới của ông bước vào. Cái cách cô gái đưa mắt nhìn hai người càng khẳng định suy nghĩ của Jennifer và cho cô thêm can đảm. ‘Đó là tất cả những gì em cần nói với anh. Em đi đây, chào anh thân yêu,’ cô nói và bước về phía ông, hôn ông vào má. ‘Em sẽ liên lạc với anh. Tạm biệt, cô…’ Cô dừng lại.
‘Driscoll,’ cô gái nói.
‘Driscoll.’ Cô cười mỉm. ‘Tất nhiên rồi.’
Cô bước qua trước mặt cô thư ký, đi ra đón con gái, tim cô vẫn còn đập giận dữ. Cô mở cửa chính, thoáng nghe tiếng chồng cô đuổi theo đằng sau và tiếng bước chân ông ngay sau cô. Cô nhanh chóng bước xuống hai dãy đầu thang và bắt một chiếc taxi.
‘Chúng ta đi đâu nữa mẹ?’ Esme hỏi khi được mẹ nhấc lên ngồi cạnh. Con bé cầm trong tay một đống kẹo, chiến lợi phẩm thu được từ các cô thư ký của bố.
Jennifer vươn người về phía trước, mở cánh cửa sổ nhỏ và hét to vào tai người tài xế át đi tiếng ồn ào của xe cộ. ‘Làm ơn tới Khách sạn Regent. Nhanh nhất có thể.’
Sau này nhớ lại quãng đường dài hai mươi phút đó, cô nhớ mình đã ngắm nhìn con đường tấp nập bên cạnh, nhìn những cửa hiệu được trang hoàng bắt mắt hai bên đường như thể một khách du lịch, một nhà báo nước ngoài lần đầu tiên tới thăm thành phố. Cô hiểu đây là một bước ngoặt rất quan trọng trong cuộc đời cô. Cuộc đời của cô mà cô từng biết trước đây đã không còn nữa, cô muốn hát vang.
Đây là cách Jennifer Stirling nói lời chia tay với cuộc đời cũ, với những ngày tháng cô bước đi chính trên con đường này với những chiếc túi mua sắm chứa đầy thứ chẳng có ý nghĩa gì với cô. Mỗi lần tới khúc ngoặt này, gần đường Marylebone, là cô lại bị ám ảnh bởi sự ngột ngạt của cuộc sống tại cái ngôi nhà mà cô đang về gần tới nơi, đúng hơn đó không còn là nhà, đó chỉ là nơi cô hàng ngày phải sám hối vì tội lỗi mình gây ra.
Cái quảng trường tấp nập này thực sự là một điểm sáng bất ngờ so với căn nhà tẻ nhạt gần đó, nơi cô luôn phải thu mình sống một cuộc sống nội tâm, biết rằng cô chẳng thể chia sẻ với ai, chẳng thể làm gì mà không vấp phải sự chỉ trich từ người đàn ông mà cô đã đem lại đau khổ và cho rằng có quyền trừng phạt cô bằng một sự im lặng, sự coi thường một cách tàn nhẫn và một không khí luôn khiến cô cảm thấy vô cùng lạnh lẽo, ngay cả vào mùa hè.
Một đứa trẻ có thể cứu vãn cuộc sống tẻ nhạt đó, nhưng không thể kéo dài mãi. Có thể cái việc sắp làm đây sẽ khiến những người xung quanh nhìn cô bằng ánh mắt coi thường và ruồng bỏ, nhưng đó cũng là cách cô chỉ cho con gái rằng mình vẫn có thể sống một cuộc sống khác. Một cuộc sống nơi mình không phải tự ru ngủ mình. Một cuộc sống không phải để cả đời trả nợ như một lời xin lỗi.
Cô nhìn sang bên đường, nơi những cô gái bán hoa đang đứng chào hàng bên trong cửa sổ; những cô gái trước đây đã chuyển đi chỗ khác. Hy vọng các cô sẽ có một cuộc sống tốt hơn, cô nhủ thầm. Hy vọng các cô được giải thoát khỏi bất kể cái gì đã níu chân các cô ở đây. Mọi người đều xứng đáng hưởng những cơ hội như thế.
Esme vẫn đang nhai kẹo ngon lành và nhìn đường phố một cách thích thú. Jennifer vòng tay qua người con bé và kéo nó sát vào mình. Con bé lại bóc một cái kẹo nữa và bỏ vào miệng. ‘Mẹ, chúng ta đi đâu vậy?’
‘Đến gặp một người bạn của mẹ, và sau đó sẽ là một cuộc phiêu lưu, con thân yêu ạ,’ cô trả lời, đột nhiên thấy vô cùng phấn khích.
Cô không có gì cả, cô chợt nghĩ. Không có gì cả.
‘Một cuộc phiêu lưu?’
‘Đúng vậy. Một cuộc phiêu lưu lẽ ra phải tiến hành từ rất rất lâu trước đây.’
Bài viết trên trang bốn về những cuộc đàm phán phi quân sự có vẻ không đáng để làm bài chính của trang, Don Franklin nghĩ trong khi cấp phó của ông đang tìm một bài thay thế. Ông hy vọng vợ ông không cho quá nhiều hành sống vào bánh sandwich kẹp xúc xích gan vì nó luôn khiến ông bị đau bụng. ‘Nếu chúng ta chuyển mẫu quảng cáo kem đánh răng này về một phía thì chúng ta có thể cho toàn bộ bài viết về những linh mục nhảy múa vào đây, anh nghĩ sao?’ cấp phó của ông gợi ý.
‘Tôi ghét câu chuyện đó.’
‘Thế bài viết phê bình sân khấu thì sao?’
‘Đã đặt vào trang mười tám rồi.’
Franklin ngẩng đầu lên khi thấy một phụ nữ vội vàng bước vào tòa soạn. Cô mặc một chiếc áo choàng đi mưa ngắn màu đen, tay dắt đứa trẻ tóc vàng. Thấy một đứa trẻ trong tòa soạn báo khiến Don cảm thấy không thoải mái, giống như khi thấy một người lính trong váy lót đàn bà. Có cái gì đó không hợp lý. Người đàn bà dừng lại hỏi Cheryl một cái gì đó, Cheryl chỉ cô về hướng của ông.
Đầu bút chì bị ngậm nát trong góc miệng ông khi cô gái đi về phía ông. ‘Xin lỗi đã làm phiền, nhưng tôi cần nói chuyện với Anthony O’Hare,’ cô nói.
‘Cô là?’
‘Jennifer Stirling. Tôi là bạn của anh ấy. Tôi vừa tới khách sạn nơi anh ấy ở, nhưng họ bảo anh ấy đã trả phòng,’ mắt cô lộ vẻ lo lắng.
‘Có phải cô là người chuyển cho anh ấy tờ tin nhắn cách đây mấy ngày không,’ Cheryl nhớ lại.
‘Đúng vậy. Là tôi.’
Ông để ý thấy Cheryl nhìn cô từ đầu xuống chân. Đứa trẻ cầm trong tay chiếc kẹo mút dở và làm rớt một vệt đường lên tay áo mẹ nó. ‘Cậu ta đã đi Châu Phi rồi,’ ông trả lời.
‘Gì cơ?’
‘Đi Châu Phi rồi.’
Cô đứng sững người, đứa bé cũng vậy.’ Không.’ Giọng cô vỡ vụn. ‘Điều đó là không thể. Anh ấy vẫn chưa quyết định là có nên đi hay không.’
Don rút chiếc bút chì ra khỏi miệng và nhún vai. ‘Tin tức không thể chờ một ai. Cậu ấy đã rời đây ngày hôm qua, trên chuyến bay đầu tiên. Cậu ấy sẽ liên tục di chuyển trong những ngày tới.’
‘Nhưng tôi cần nói chuyện với anh ấy.’
‘Không thể liên lạc với cậu ta.’ Ông có thể thấy cách Cheryl đang nhìn ông. Hai cô thư ký khác cũng đang thì thầm to nhỏ.
Người đàn bà đứng trước mặt ông mặt tái xạm. ‘Chắc chắn phải có cách nào liên lạc với anh ấy chứ. Anh ấy không thể đi đâu lâu được.’
‘Cậu ta có thể ở bất kỳ đâu. Đó là nước Congo mà. Họ không có đường dây điện thoại. Cậu ấy sẽ gửi điện tín về lúc nào có thể.’
‘Congo? Vì cái quái quỷ gì mà anh ấy phải đi sớm vậy?’ Giọng cô lạc đi.
‘Làm sao tôi biết được?’ Ông nhìn thẳng vào cô. ‘Có thể cậu ta muốn giải thoát khỏi thành phố này.’ Ông nhận thấy Cheryl vẫn tiếp tục lảng vảng quanh chỗ họ nói chuyện, giả vờ sửa soạn một chồng tài liệu cạnh đó.
Người đàn bà dường như không thể suy nghĩ được gì nữa. Cô đưa tay lên che mặt. Trong một giây phút đau khổ, ông nghĩ có thể cô ta sắp khóc. Nếu như còn một điều tồi tệ hơn việc có một đứa trẻ ở trong tòa soạn thì đó chính là việc có một người phụ nữ khóc bên cạnh đứa trẻ.
Cô thở thật sâu để tự trấn an mình. ‘Nếu anh tình cờ nói chuyện với anh ấy, làm ơn nhắn anh ấy gọi điện cho tôi, được không ạ?’ Cô đưa tay vào túi lấy ra một tập tài liệu, vài chiếc phong bì sờn góc, cô do dự một lúc rồi đẩy chúng vào sâu bên trong chiếc bàn. ‘Làm ơn đưa cho anh ấy cái này luôn. Anh ấy sẽ biết nó là cái gì.’ Cô xé một tờ giấy trắng từ quyển sổ ghi nhớ của cô, viết lên trên đó vài lời nhắn rồi để nó vào trong tập tài liệu. Cô để lại tập tài liệu trên bàn trước mặt ông.
‘Tất nhiên rồi.’
Cô nắm chặt cánh tay ông. Trên ngón tay cô lấp lánh chiếc nhẫn có viên kim cương kích thước bằng viên kim cương Koh-i-noor nổi tiếng. ‘Ông hứa là sẽ đưa nó cho anh ấy nhé? Đó là tài liệu quan trọng. Cực kỳ quan trọng.’
‘Tôi hiểu. Giờ, mong cô thông cảm, tôi phải tiếp tục công việc. Đây là thời điểm bận rộn nhất trong ngày. Chúng tôi phải chạy đua với tiến độ.’ Cô lúng túng. ‘Ồ, tất nhiên, xin lỗi. Xin ông nhớ đưa cho anh ấy hộ tôi.’
Don gật đầu.
Cô chần chừ, mắt vẫn không rời ông, như thể muốn đảm bảo với bản thân rằng ông hiểu những gì cô vừa nói. Rồi, sau khi liếc một vòng quanh chỗ cô đứng, để chắc chắn anh không trốn cô ở một góc nào đó, cô cầm tay con gái. ‘Xin lỗi đã làm phiền ông.’
Cô trông nhỏ bé hơn so với lúc cô vừa bước vào, cô chầm chậm bước ra ngoài, như thể cô không biết mình sẽ đi đâu tiếp nữa. Một vài nhân viên đang vây quanh bàn phó ban biên tập nhìn theo cô.
‘Congo,’ Cheryl nói, sau một tiếng gõ.
‘Tôi cần làm cho xong trang bốn.’ Don nhìn chằm chằm xuống bàn. ‘Hãy dừng bài viết về những thầy tu nhảy múa.’
Phải tới ba tuần sau đó mới có một người ngó ngàng tới bàn làm việc của phó ban biên tập khi thấy cái bàn khá bừa bộn. Trong đống lộn xộn các bản in chữ và giấy than là một tập tài liệu sờn cũ.
‘B là ai vậy?’ Dora, nữ thư ký tập sự, mở tờ tin nhắn. ‘Có phải tài liệu gởi cho Bentinck không? Chẳng phải anh ta đã đi cách đây hai tháng rồi?’
Cheryl, đang tranh cãi chi phí đi lại với ai đó trên điện thoại, nhún vai và không hề quay lại. Cô nàng bịt một đầu điện thoại càu nhàu. ‘Nếu cô không biết tài liệu đó của ai, hãy mang cất vào thư viện. Tôi làm như thế với bất cứ tài liệu nào mà tôi không biết của ai. Don sẽ không có lý do gì để la cô cả.’ Cô dừng lại một lúc. ‘Thực ra, ông ấy vẫn có thể la. Nhưng ít nhất không phải vì cái tôi lưu sai chỗ.’
Cặp tài liệu được vứt lên chiếc xe đẩy chuyên dành cho đồ lưu kho, trong đó có mấy bản lưu cũ của tờ Who’s Who và sẽ được chuyển xuống kho chứa tài liệu nằm sau dưới tòa nhà.
Nó sẽ còn nằm ở đó trong gần như bốn mươi năm nữa.
Phần 3
Em và tôi đã hết rồi.
Tin nhắn người đàn ông gửi cho người đàn bà.