Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Một Phát Một Mạng

Chương 15

Tác giả: Lee Child

“Trong trường hợp tôi bị bắt.”

“Ông sẽ bị bắt. Tôi sẽ biết là ông thực hiện chuyện đó.”

Reacher mỉm cười, “Cô khai tôi ra à?”

Helen đáp, “Tôi sẽ phải làm thế.”

“Nếu cô là luật sư của tôi thì không. Cô không thể hé môi.”

“Tôi không phải là luật sư của ông.”

“Tôi có thể thuê cô.”

“Rosemary cũng sẽ biết, và cô ta sẽ khai ông ra ngay thôi. Và Franklin. Ông ta đã nghe ông kể câu chuyện.”

Reacher gật đầu.

Ông lại nói, “Tôi không biết mình sẽ làm gì đây.”

“Chúng ta làm thế nào để tìm ra kẻ này?”

“Như cô vừa nói xong, tại sao tôi lại phải làm điều đó?”

“Bởi vì tôi không nghĩ ông vừa lòng với nửa ổ bánh mì.”

Reacher không nói gì.

Helen nói, “Tôi nghĩ là ông muốn sự thật. Tôi không nghĩ là ông thích người ta dùng vải bịt mắt ông lại. Ông không thích bị chơi như một thằng khờ.”

Reacher không nói gì.

Helen nói, “Vả lại, vụ này thật là kinh tởm. Có sáu nạn nhân ở đây. Năm người bị giết và chính Barr nữa.”

“Cái định nghĩa mới về nạn nhân này hơi rộng quá đối với tôi.”

“Bác sĩ Niebuhr nghĩ chúng ta sẽ tìm ra một mối quan hệ từ trước. Chắc là mối quan hệ mới đây. Một người bạn mới. Chúng ta có thể tiếp cận theo cách đó.”

Reacher nói, “Barr nói với tôi là hắn không có bạn mới nào cả. Chỉ có một hay hai bạn cũ thôi.”

“Hắn có nói thật không?”

“Tôi nghĩ là có.”

“Vậy thì Niebuhr sai.”

“Niebuhr chỉ đoán thôi. Ông ta là bác sĩ tâm lý. Họ chỉ làm mỗi một việc là đoán.”

“Tôi có thể hỏi Rosemary.”

“Liệu cô ấy có biết bạn của hắn không?”

“Chắc biết. Họ rất gần gũi nhau.”

Reacher nói, “Vậy hãy lấy danh sách đi.”

“Bác sĩ Mason cũng đang đoán à?”

“Không nghi ngờ gì. Nhưng trong trường hợp của bà ta thì tôi nghĩ là bà đoán đúng.”

“Nếu Niebuhr sai về chuyện bạn bè, thì chúng ta làm gì đây?”

“Chúng ta phải đánh phủ đầu.”

“Bằng cách nào?”

“Chắc chắn có một gã theo tôi tối hôm qua và tôi biết chắc là có một gã theo tôi sáng nay. Tôi nhìn thấy gã bên ngoài quảng trường. Vì thế lần sau gặp lại, tôi sẽ có đôi lời với gã. Gã sẽ cho tôi biết gã đang làm việc cho ai.”

“Chỉ đơn giản như thế sao?”

“Người ta thường nói cho tôi biết những gì tôi muốn biết.”

“Vì sao?”

“Bởi vì tôi hỏi họ một cách dịu dàng.”

“Đừng quên hỏi Eileen Hutton một cách dịu dàng nhé.”

Reacher nói, “Tôi sẽ gặp cô sau.”

Ông đi về hướng Nam, đi quá khách sạn, và tìm thấy một quán ăn bình dân để ăn tối. Sau đó ông đi về hướng Bắc, bước chậm, băng qua quảng trường, qua tòa cao ốc kính đen, dưới xa lộ, đi hết con đường trở lại bar rượu thể thao. Ông đi lang thang trên đường suốt cả giờ mà không thấy ai đi theo mình. Không thấy gã đàn ông tàn tật trong bộ đồ vest kỳ cục. Không một ai.

Bar rượu thể thao vơi khách một nửa và màn hình nào cũng chiếu bóng chày. Ông tìm đến một chiếc bàn trong góc và xem đội Cardinals đấu với đội Astros ở Houston. Đó là một trận nhạt nhẽo cuối mùa giữa hai đội không còn sức ganh đua. Trong suốt thời gian quảng cáo giữa trận ông quan sát cánh cửa. Không thấy ai. Thứ Ba còn im ắng hơn cả thứ Hai, ở cái miệt trong này.

Grigor Linsky bấm điện thoại di động.

Gã nói, “Hắn quay lại quán bar.”

The Zec hỏi, “Hắn có thấy mày không?”

“Không.”

“Tại sao hắn lại trở lại quán bar?”

“Không có lý do gì cả. Hắn cần một nơi để đến, có vậy thôi. Hắn thả bộ loanh quanh gần một giờ, cố ý làm cho em lộ diện.”

Im lặng trong một thoáng.

The Zec nói, “Để mặc hắn ở đó. Tới đi, mình nói chuyện.”

* * *

Alex Rodin gọi điện về nhà Emerson. Emerson đang ăn tối muộn với vợ và hai con gái, và ông không hứng thú gì việc nghe máy trong lúc này. Nhưng ông vẫn nghe. Ông bước ra ngoài hành lang và ngồi xuống bậc thang gần cuối, chồm người tới trước, chống cùi chỏ lên gối, chiếc điện thoại kẹp giữa bả vai và tai.

Rodin nói, “Chúng ta cần làm một điều gì đó với thằng cha Jack Reacher.”

Emerson nói, “Tôi không thấy hắn là một vấn đề nghiêm trọng. Có lẽ hắn muốn như thế, nhưng hắn không thể làm cho các dữ kiện biến mất. Chúng ta đã có được nhiều thứ hơn mức cần thiết trong vụ của tay Barr này.”

Rodin nói, “Giờ thì vấn đề không phải là các dữ kiện. Mà là chứng mất trí nhớ. Là bên bào chữa sẽ lợi dụng nó đến mức nào.”

“Việc đó tùy thuộc vào cô con gái của ông.”

“Hắn có một ảnh hưởng xấu đối với con bé. Tôi đang đọc luật tiền lệ [26]. Nó là một vùng xám thật sự. Vấn đề cần kiểm tra không phải là Barr có nhớ cái ngày gây án hay không. Mà là hắn có hiểu cái tiến trình, ngay lúc này, hôm nay hay không, và chúng ta có đủ những chứng cứ khác để kết tội mà không cần đến lời cung khai trực tiếp của hắn hay không.”

[26]: Tiền lệ pháp/án lệ pháp hay luật vụ việc, nghĩa là khi xét xử, thẩm phán có thể dựa theo các phán quyết cho các vụ việc tương tự trong quá khứ.

“Tôi có thể nói là có.”

“Tôi cũng nghĩ vậy. Nhưng Helen cần tiêu hóa điều đó. Con bé cần phải đồng ý. Nhưng con bé cứ bị tên kia ám suốt, khiến đầu óc nó đảo điên. Tôi hiểu nó mà. Con bé sẽ không chịu tin cho tới khi nào hắn biến khỏi vụ này.”

“Tôi không hiểu mình có thể làm gì đây.”

“Tôi muốn ông tóm cổ hắn.”

Emerson nói, “Tôi không thể làm chuyện đó. Không có cớ gì.”

Rodin không nói gì.

Rồi ông nói, “Vậy thì hãy để mắt đến hắn nhé. Hắn mà khạc nhổ trên vỉa hè thì tôi muốn ông nhốt hắn lại và dợt cho hắn một trận.”

Emerson đáp, “Đây không phải là miền Viễn Tây. Tôi không thể xua hắn ra khỏi thành phố.”

“Có lẽ một vụ bắt nhốt là đủ. Chúng ta cần một cái gì đó để phá bùa mê. Hắn đang thúc đẩy Helen đến chỗ mà con bé không muốn đến. Tôi hiểu nó. Chỉ mình con bé thôi thì nó sẽ bỏ Barr ngay, khỏi phải bàn.”

Linsky bị đau suốt đường trở lại xe. Một giờ phải đi đứng là hết cỡ đối với gã. Ngày xưa những cái xương trên cột sống của gã đã bị đập vỡ bằng một cái búa đầu tròn của kỹ sư một cách có phương pháp, hết đốt này đến đốt khác, khởi đầu từ xương cụt và đi dần lên qua mọi đốt sống thấp hơn, và không mấy vội vàng. Thường là đủ thời gian cho cái trước lành lại rồi mới dần cho vỡ cái tiếp theo. Khi cái cuối cùng đã lành, thì chúng lại bắt đầu làm lại. Chơi mộc cầm, chúng gọi trò này như thế. Chơi từng thang âm. Rốt cuộc thì gã không còn nhớ nổi có bao nhiêu thang âm chúng đã chơi trên thân thể của mình.

Nhưng gã không bao giờ nói về chuyện này. The Zec còn gặp phải những chuyện tệ hại hơn.

Chiếc Cadillac có ghế mềm và ngồi vào nó thật là nhẹ mình. Chiếc xe có động cơ nổ êm ru, chạy rất đằm và một chiếc radio rất tốt. Những chiếc Cadillac là một trong những thứ đã làm cho nước Mỹ thành một nơi chốn tuyệt vời, bên cạnh đám dân chúng cả tin và những sở cảnh sát què quặt. Linsky đã sống ở nhiều nước khác nhau và không hề băn khoăn thêm về chuyện nước nào là vừa ý nhất. Những nơi khác gã cuốc bộ, hay chạy, hay lê lết trong đất bụi, hay đẩy xe bò và xe trượt tuyết bằng tay. Giờ thì gã ngự trên một chiếc Cadillac.

Gã lái đến nhà The Zec, ngôi nhà ở cách thị trấn tám dặm về hướng Tây Bắc, kế bên nhà máy nghiền đá của lão. Nhà máy là một xưởng công nghiệp trên một vỉa đá vôi trữ lượng lớn được khám phá dưới đất cày, xây đã bốn chục năm nay. Ngôi nhà là một thứ lâu đài tráng lệ được xây trăm năm trước, khi phong cảnh vẫn còn nguyên vẹn, dành cho một thương gia buôn vải vóc giàu có. Nó quá trưởng giả và màu mè về mọi mặt, nhưng nó là một ngôi nhà tiện nghi cũng như cái lối tiện nghi của chiếc Cadillac. Điều đáng kể nhất là nó ngự một mình giữa một vùng đất phẳng. Có thời nơi đây được bao quanh bởi nhiều khu vườn xinh đẹp, nhưng The Zec đã san bằng cây cối và bụi rậm để tạo nên một vùng hoàn toàn bằng phẳng và mở tầm nhìn ra khắp chung quanh. Không có hàng rào nào cả, vì làm sao The Zec có thể chịu đựng thêm một ngày nào nữa ở sau rào chắn? Cũng vì lý do đó mà không có khóa, không có then chốt, không có thanh chắn nào cả. Không gian thoáng đãng là món quà mà The Zec tặng cho mình. Nhưng đó đồng thời cũng là phương pháp an ninh tuyệt hảo theo cách riêng của nó. Ngôi nhà lắp máy quay phim giám sát. Không một ai có thể tiếp cận với ngôi nhà mà không bị phát hiện. Vào ban ngày, khách khứa hiện rõ ít nhất là cách hai trăm thước, và khi trời tối thiết bị gia tăng thị lực vào ban đêm phát hiện ra họ trong khoảng cách chỉ gần hơn một chút.

Linsky đỗ lại và chuồi người ra khỏi xe. Đêm im ắng. Xưởng nghiền đá ngưng chạy vào bảy giờ tối và đứng âm thầm cho tới lúc rạng đông. Linsky liếc nhìn về phía nó rồi bước về hướng ngôi nhà. Cánh cửa trước mở ra trước khi gã tiến đến gần. Ánh sáng ấm áp tràn ra và gã thấy Vladimir đích thân đi xuống đón gã, điều này có nghĩa là Chenko cũng đã có mặt ở đó, trên lầu, có nghĩa là The Zec đã triệu tập tất cả các đàn em thân tín nhất, có nghĩa là The Zec đang lo lắng.

Linsky hít một hơi sâu, nhưng gã bước vào bên trong không ngần ngại. Sau rốt, giờ thì còn điều gì bất ngờ có thể xảy ra với gã đây? Với Vladimir và Chenko thì khác, nhưng đối với những người có tuổi tác và kinh nghiệm của Linsky thì không còn điều gì là hoàn toàn không thể tưởng tượng được.

Vladimir không nói năng gì. Chỉ đóng cánh cửa lại và đi theo Linsky lên lầu. Ngôi nhà có ba tầng. Tầng thứ nhất không dùng làm gì cả, chỉ trừ giám sát. Tất cả các phòng hoàn toàn để trống, ngoại trừ một phòng có bốn màn hình ti vi đặt trên một chiếc bàn dài, chiếu những cảnh từ bốn hướng Bắc, Đông, Nam và Tây với góc nhìn rộng. Sokolov sẽ ở đó, trông coi chúng. Hay là Raskin. Hai tên này thay phiên nhau từng ca mười hai giờ. Tầng thứ hai của ngôi nhà có một nhà bếp, một phòng ăn, một phòng khách, và một phòng làm việc. Tầng ba có các phòng ngủ và phòng tắm. Tầng hai là nơi điều hành mọi thứ. Linsky nghe thấy tiếng The Zec vọng ra từ phòng khách, gọi gã. Gã bước thẳng vào mà không gõ cửa. The Zec đang ngồi trong ghế bành, ủ một tách trà giữa hai lòng bàn tay. Chenko nằm ườn trên sofa. Vladimir bước vội ngay sau Linsky và ngồi xuống cạnh Chenko. Linsky đứng yên chờ đợi.

The Zec nói, “Ngồi đi, Grigor. Không ai phiền mày đâu. Đó là thất bại của thằng nhóc.”

Linsky gật đầu và ngồi xuống chiếc ghế bành, hơi gần với The Zec hơn là Chenko. Đó là để duy trì thứ bậc theo một trật tự đúng đắn. The Zec tám mươi tuổi, và Linsky cũng đã hơn sáu mươi. Cả Chenko và Vladimir đều trên bốn mươi, và chắc chắn chúng là những người quan trọng, nhưng so ra vẫn trẻ hơn. Chúng không có cái tiểu sử mà The Zec và Linsky chia sẻ với nhau. Thậm chí không được một mẩu.

The Zec hỏi bằng tiếng Nga, “Uống trà nhé?”

Linsky đáp, “Vâng.”

The Zec nói, “Chenko, mang cho Grigor một tách trà.”

Linsky cười thầm. Chenko bị điều đi lấy trà cho gã là lời khẳng định về vị trí quan trọng nhất. Và gã thấy Chenko cũng không phải không sẵn lòng làm việc đó. Hắn bật dậy đi ra bếp rồi mang vào một tách trà đặt trên một chiếc khay nhỏ bằng bạc. Chenko là một người nhỏ thó, thấp lùn, dẻo dai, không chút vụng về. Hắn có mái tóc đen thô và xù ra cho dù hắn đã cắt ngắn.Vladimir thì khác hẳn. Vladimir rất cao to và tóc vàng. Khỏe vô cùng. Hoàn toàn có khả năng Vladimir có mang tí gen Đức ở đâu đó trong dòng máu. Có lẽ bà của hắn đã kiếm được gen đó hồi năm 1941, một tí phôi thai chẳng hạn.

The Zec nói, “Bọn ta đã bàn bạc.”

Linsky hỏi, “Và?”

“Chúng ta phải đối đầu với thực tế là chúng ta đã tạo ra một sai lầm. Chỉ một thôi, nhưng nó có thể trở nên rất phiền hà.”

Linsky nói, “Cái trụ chắn đường.”

The Zec nói, “Rõ ràng là Barr không có mặt trong cuốn băng khi đặt nó.”

“Rõ ràng là vậy.”

“Nhưng liệu nó có thành rắc rối không?”

Linsky lễ độ hỏi, “Ý thầy thế nào?”

The Zec đáp, “Quan trọng hay không là theo mắt của người xem. Thanh tra Emerson và công tố viên Rodin sẽ không quan tâm đến nó. Nó chỉ là một chi tiết cỏn con, một thứ chúng sẽ không cảm thấy cần theo đuổi. Tại sao chúng phải theo đuổi chứ? Chúng không tìm chuyện để tự khoèo chân chính mình. Và không có vụ án nào là hoàn hảo một trăm phần trăm. Chúng biết thế. Thế nên chúng sẽ gạch bỏ nó đi như là một đầu mối không thể giải thích được. Có thể chúng còn tự thuyết phục mình rằng Barr đã dùng một chiếc xe khác.”

“Nhưng?”

“Nhưng nó vẫn là một đầu mối. Nếu thằng lính kéo nó, một điều gì đó có thể xổ ra.”

“Chứng cứ chống lại Barr là không thể cãi được.”

The Zec gật đầu, “Đúng thế.”

“Vậy chừng đó vẫn chưa đủ cho chúng sao?”

“Tất nhiên lẽ ra đã là đủ. Nhưng có thể là Barr không còn hiện hữu. Với nghĩa là không còn có cách pháp nhân có thể sử dụng được cho môn luật học của chúng. Hắn bị chứng mất trí nhớ ngược lâu dài. Có thể là Rodin sẽ không đưa được hắn ra tòa. Nếu vậy Rodin sẽ cực kỳ giận dữ về điều đó. Có thể thấy hắn sẽ tìm kiếm một bàn danh dự. Và nếu rốt cuộc bàn danh dự lại hóa ra là một con cá bự hơn chính bản thân Barr, thì làm sao Rodin có thể từ chối?”

Linsky nhấp ngụm trà. Trà nóng và có vị ngọt.

Gã nói, “Bao nhiêu rắc rối chỉ từ một cuốn băng video?”

The Zec nói, “Chuyện này hoàn toàn tùy thuộc vào thằng lính. Tùy thuộc vào sự gan lỳ và trí tưởng tượng của hắn.”

Chenko nói bằng tiếng Anh, “Hắn từng là quân cảnh. Thầy có biết điều đó không?”

Linsky liếc nhìn Chenko. Chenko hiếm khi nói tiếng Anh trong nhà. Hắn có giọng Mỹ rặt, và nhiều khi Linsky nghĩ rằng hắn xấu hổ về điều đó.

Linsky nói bằng tiếng Nga, “Điều đó chưa chắc đã gây ấn tượng cho tao.”

The Zec nói, “Hay cho ta. Nhưng nó là một yếu tố mà chúng ta phải đặt lên bàn cân.”

Linsky nói, “Giờ mà cho hắn đi mò tôm sẽ khiến người ta chú ý. Phải vậy không?”

“Còn tùy xem theo lối nào.”

“Có bao nhiêu lối cả thảy?”

The Zec nói, “Chúng ta có thể sử dụng con bé tóc đỏ lần nữa.”

“Nó không thể dùng để chống lại thằng lính. Hắn to con, và gần như chắc chắn đã được huấn luyện tự vệ đến nơi đến chốn rồi.”

“Nhưng hắn đã từng gặp vấn đề với con bé. Nhiều người biết rằng con bé đã gài bẫy hắn trong vụ đánh nhau. Hãy tưởng tượng người ta tìm thấy con bé bị thương nặng. Khi đó thằng lính sẽ trở thành nghi can chính. Chúng ta có thể để sở cảnh sát làm cho hắn câm miệng giùm mình.”

Vladimir nói, “Con bé có thể biết ai tấn công mình. Nó sẽ biết không phải là thằng lính.”

The Zec gật đầu tán thưởng. Linsky quan sát ông ta. Gã đã quen với những phương pháp của The Zec. The Zec thích gợi cho người khác nói ra lời giải, như triết gia Socrates ngày xưa vậy.

The Zec nói, “Vậy thì có lẽ nên để cho con bé không nói được với ai điều gì chăng.”

“Chết ư?”

“Chúng ta luôn luôn thấy đó là cách an toàn nhất, phải không nào?”

“Nhưng có thể con bé có nhiều kẻ thù. Không chỉ mình hắn. Có thể con bé là gái bao chẳng hạn.”

“Thế thì chúng ta nên siết chặt mối liên hệ. Có thể con bé cần xuất hiện ở một nơi nào đó dễ gợi ý. Có thể hắn mời con bé đi chơi để nối lại quan hệ từ đầu.”

“Trong khách sạn của hắn?”

“Không, bên ngoài khách sạn của hắn, ta nghĩ vậy. Nhưng gần đó. Nơi sẽ có người khác, chứ không phải thằng đó tìm thấy cô bé. Một ai đó có thể gọi cho cảnh sát trong lúc thằng lính vẫn còn đang ngủ. Như thế thì hắn chỉ có thể bó tay chịu trận.”

“Làm sao xác con bé nằm ngoài khách sạn của hắn được?”

“Hiển nhiên là hắn đánh nó và nó bò lê đi rồi ngã quỵ khi chưa kịp xa lắm.”

Linsky nói, “Metropole Palace, hắn đang ở đó.”

Chenko hỏi, “Bao giờ làm đây?”

The Zec nói, “Bất cứ khi nào mày thích.”

Đội Astros thắng đội Cardinals 10-7 sau một màn trình diễn phòng thủ khập khiễng của cả hai đội. Nhiều màn chơi xấu, nhiều pha phạm lỗi. Thắng như thế thật tệ hại, và thua còn tệ hơn. Reacher ngừng theo dõi từ giữa trận. Thay vì xem, ông lại nghĩ về Eileen Hutton. Bà là một mảnh của bức tranh khảm đời ông. Ông có lần gặp bà trong nước trước chiến tranh Vùng Vịnh, chỉ thoáng ngang qua một phòng xử án đông nghẹt, chỉ vừa đủ lâu để ghi nhận tài năng chóng mặt của bà, và ông đã cho rằng mình sẽ chẳng bao giờ gặp lại bà lần nữa, điều mà theo ông hơi đáng tiếc. Nhưng rồi bà xuất hiện ở Saudi, tham gia tăng cường cho chiến dịch lượng Lá chắn sa mạc lâu dài và nặng nề. Reacher đã có mặt ở đó rất lâu, từ khi khởi đầu với tư cách là một đại úy vừa bị giáng cấp. Giai đoạn đầu tiên của bất cứ sự triển khai quân sự nào ở ngoại quốc cũng luôn giống một cuộc loạn đả giữa hai phe quân cảnh và lính tráng, nhưng sau đó khoảng sáu tuần lễ thì tình hình thường ổn định lại chút ít, và Lá chắn sa mạc cũng không nằm ngoài quy luật. Sau sáu tuần đã có một cơ cấu, và đối với lực lượng cảnh sát quân đội, một cơ cấu nghĩa là có nhân viên đóng tại địa phương, suốt từ dưới lên trên, từ cai tù cho đến thẩm phán, và Hutton đã trình diện với tư cách là một trong những công tố viên mà họ nhập cảng về. Reacher đã cho rằng đó là do tự nguyện, và ông thấy vui, vì thế nghĩa là rất có khả năng bà chưa lập gia đình.

Bà chưa lập gia đình thật. Lần đầu tiên gặp nhau, ông để ý bàn tay trái của bà và không thấy chiếc nhẫn trên đó. Rồi ông nhìn cổ áo của bà và thấy huy hiệu một nhánh lá sồi của thiếu tá. Ông nghĩ, đây sẽ là một thách thức lớn đối với một viên đại úy vừa bị giáng cấp. Rồi ông nhìn đôi mắt bà và thấy rằng thách thức này cũng đáng giá lắm. Đôi mắt bà xanh biếc, đầy vẻ thông minh và ranh mãnh. Và hứa hẹn, ông đoán thế. Và phiêu lưu. Ông chỉ vừa mới ba mươi mốt tuổi, và sẵn sàng đối mặt với mọi chuyện trên đời.

Cái nóng sa mạc cũng có ích. Phần lớn thời gian nhiệt độ trên 50oC, và ngoài những cuộc diễn tập tấn công bằng hơi ngạt thường xuyên, thì đồng phục tiêu chuẩn dần dần giảm xuống chỉ còn quần soóc và áo thun ngắn tay. Và theo kinh nghiệm của Reacher, sự kề cận của những đàn ông đàn bà nóng bỏng và gần như trần truồng bên nhau luôn dẫn đến một điều gì đó hay ho. Hay ho hơn là làm việc ngoài trời vào tháng Mười một ở Minnesota, chắc chắn là vậy.

Những tiếp cận ban đầu đã thấy trước là khó khăn, căn cứ vào sự chênh lệch cấp bậc. Và khi đụng chuyện, ông đã vụng về suýt hỏng, và được cứu thoát chỉ vì bà cũng đồng tình như ông vậy, và không ngại bày tỏ ra. Sau đó thì mọi việc xuôi chèo mát mái, suốt ba tháng dài. Một khoảng thời gian tuyệt đẹp. Rồi những mệnh lệnh mới đến, như rốt cuộc thì chúng luôn xảy ra. Thậm chí ông không nói lời giã biệt với bà. Không có cơ hội. Cũng không bao giờ gặp lại bà.

Ông nghĩ, Ngày mai mình sẽ gặp lại cô ấy.

Ông ngồi lại trong quán bar cho tới khi đài ESPN bắt đầu chiếu lại những tin chính mà nó đã chiếu một lần rồi. Rồi ông trả tiền và bước ra vỉa hè, trong ánh sáng vàng từ những ngọn đèn đường. Ông quyết định sẽ không trở về khách sạn Metropole Palace. Ông quyết định đã đến lúc thay đổi. Không có lý do nhất định nào hết. Chỉ do tính bất an đã thành bản năng của ông. Di chuyển liên tục. Đừng bao giờ ở một nơi quá lâu. Và Metropole là một khối ảm đạm cũ kỹ. Không thú vị gì, ngay cả đối với những tiêu chuẩn dễ dãi của ông. Ông quyết định thử ở phòng trọ thay vì khách sạn. Chỗ mà ông đã thấy trên đường đến cửa hàng bán phụ tùng xe. Chỗ kế bên tiệm hớt tóc. Mọi kiểu, chỉ 7 đô la. Có lẽ ông vẫn kịp cắt tóc một cái trước khi Hutton vào thị trấn.

Chenko rời ngôi nhà của The Zec vào lúc nửa đêm. Hắn mang theo Vladimir. Nếu con nhỏ tóc đỏ cần bị đánh cho đến chết, thì Vladimir sẽ phải làm chuyện đó. Cái này trông phải giống thật trước mắt pháp y. Chenko quá nhỏ con, không thể nện theo kiểu một cựu quân nhân cao gần hai thước và nặng trên trăm ký. Nhưng Vladimir thì lại là chuyện khác. Vladimir có thể làm tốt việc này với chỉ một cú đấm duy nhất, điều đó có thể thuyết phục được phòng khám nghiệm tử thi. Một lời từ chối, một lời phản đối, nhạo báng về khả năng tính dục, một kẻ to con điên lên mà giáng cho một cú, hơi nặng tay hơn là hắn dự định.

Cả hai tên đều đã quen cô gái. Chúng đã gặp cô trước đây vì mối liên hệ của cô với Jeb Oliver. Thậm chí có lần đã từng làm việc với nhau. Chúng biết nơi cô ở, trong một khu chung cư có đất vườn cho thuê nằm trong một khoảng đất cằn cỗi dưới bóng xa lộ liên bang, nơi nó bắt đầu vươn lên trên những trụ đỡ, về hướng Nam và Tây của khu thương mại. Và chúng biết cô sống ở đó một mình.

Reacher thả bộ lang thang một vòng ba dãy phố dài trước khi đến nhà trọ. Ông bước nhẹ chân và cố lắng nghe tìm tiếng lạo xạo của một cái bóng đằng sau. Ông không nghe thấy gì. Không nhìn thấy gì. Ông chỉ một mình.

Phòng trọ là một thứ đồ cổ thật sự. Có thời nó hẳn đã là thứ hiện đại nhất và do đó hẳn cũng khá thời thượng. Nhưng từ dạo đó, dòng trôi chảy tàn nhẫn của thời gian và thị hiếu đã bỏ nó lại đằng sau. Nó được giữ gìn khá tốt nhưng không được tôn tạo. Nó đúng là cái kiểu nơi ở mà ông thích.

Ông đánh thức tay thư ký và trả tiền mặt cho một đêm. Ông dùng cái tên Don Heffner, người đã giữ chốt hai với hiệu suất đập bóng.261 suốt mùa bóng năm 1934 nghèo mạt của đội Yankee. Tay thư ký đưa ông một chìa khóa to bằng đồng thau và chỉ ông xuống cuối dãy đến phòng số tám. Căn phòng đã bạc màu và hơi ẩm. Khăn phủ giường và rèm cửa sổ trông khá cổ xưa. Nhà vệ sinh cũng vậy. Nhưng mọi thứ đều dùng tốt và cánh cửa khóa rất chặt.

Ông tắm qua và xếp quần áo lại cẩn thận rồi đặt chúng phẳng phiu dưới tấm nệm. Những nỗ lực ủi đồ của ông chỉ đến mức đó là nhiều nhất. Chúng sẽ thẳng thớm vào buổi sáng. Ông sẽ cạo râu và tắm kỹ rồi đến tiệm cắt tóc sau khi ăn sáng. Ông không muốn phá hỏng bất kỳ ký ức gì Hutton có thể còn lưu giữ. Ấy là giả như bà có lưu giữ chút nào.

Chenko đậu xe ở phía Đông của xa lộ và cùng Vladimir đi bên dưới nó rồi lẳng lặng tiến đến nhà cô gái từ phía sau, không ai thấy chúng. Chúng đi sát bức tường và vòng đến cửa phòng cô. Chenko bảo Vladimir đứng tránh ra rồi hắn gõ cửa nhè nhẹ. Không có tiếng đáp, điều này không có gì bất ngờ. Đã khuya, chắc cô đã ngủ rồi. Chenko gõ cửa lần nữa, lớn hơn lần trước. Rồi gõ nữa, thật lớn. Hắn thấy có ánh sáng lóe lên qua cửa sổ. Nghe thấy tiếng chân bước khẽ trong nhà. Nghe thấy tiếng cô, qua kẽ hở giữa cánh cửa và rầm cửa.

Cô hỏi, “Ai đó?”

Hắn đáp, “Anh đây.”

“Anh muốn gì?”

“Anh có chuyện muốn nói.”

“Em ngủ rồi.”

“Anh xin lỗi.”

“Khuya lắm rồi.”

Chenko nói, “Anh biết. Nhưng chuyện gấp lắm.”

Một lúc im lặng.

Cô nói, “Chờ em một chút.”

Chenko nghe tiếng chân cô quay trở lại phòng ngủ. Rồi im lặng. Rồi cô trở ra. Cánh cửa mở ra. Cô đứng đó, tay khép chặt chiếc áo ngủ màu xanh quấn quanh người.

Cô hỏi, “Chuyện gì vậy?”

Chenko nói, “Em phải đi với bọn anh.”

Vladimir bước ra khỏi bóng tối.

Sandy hỏi, “Sao hắn lại có mặt ở đây?”

Chenko nói, “Anh ấy giúp anh tối nay.”

“Các anh cần gì?”

“Em phải đi ra ngoài.”

“Như thế này à? Không được.”

Chenko nói, “Đồng ý. Em cần thay đồ. Như đi hẹn hò vậy.”

“Đi hẹn hò?”

“Em cần phải thật đẹp.”

“Nhưng em phải tắm. Phải làm tóc.”

“Bọn anh chờ được.”

“Hẹn với ai?”

“Chỉ cần người ta nhìn thấy. Như thể em đang trên đường tới cuộc hẹn vậy.”

“Vào lúc khuya này à? Cả thành phố đã ngủ rồi.”

“Không phải cả thành phố. Mình còn thức đấy thôi.”

“Em sẽ được bao nhiêu?”

Chenko đáp, “Hai trăm. Bởi vì khuya rồi.”

“Mất bao lâu?”

“Chỉ một phút thôi. Em chỉ cần cho người ta thấy đang đi đâu đó.”

“Em không biết nữa.”

“Hai trăm trả cho một phút thì đâu có tệ.”

“Đâu phải một phút. Em phải mất cả giờ để sửa soạn nữa kìa.”

Chenko nói, “Vậy thì hai trăm rưỡi.”

Sandy đáp, “OK.”

Chenko và Vladimir chờ trong phòng khách, lắng nghe qua các bức vách mỏng, nghe tiếng nước chảy, tiếng máy sấy tóc, tiếng thở nén lại khi cô trang điểm, tiếng dây thun bật của đồ lót, tiếng sột soạt của vải chạm vào da. Chenko thấy Vladimir bứt rứt và đổ mồ hôi. Không phải vì nhiệm vụ sắp tới. Nhưng vì có một phụ nữ khỏa thân ở ngay phòng bên cạnh. Vladimir không đáng tin cậy, trong một số tình huống cụ thể. Chenko lấy làm mừng vì đã có mặt ở đây giám sát. Nếu không có hắn, kế hoạch có thể bị trật đường ray lắm.

Sandy bước ra sau một giờ, như người Mỹ thường nói, trông cô đáng bạc triệu. Cô mặc một chiếc áo màu đen gần như mỏng tang. Bên dưới là một nịt ngực đen làm tôn đôi vú cô thành hai gò tròn trịa. Cô mặc quần bó màu đen chỉ dài quá đầu gối một chút.

Quần lửng đạp xe? Quần ống lỡ? Chenko không biết chắc nó gọi là gì. Cô mang giày đen cao gót. Với làn da trắng, mái tóc đỏ và đôi mắt xanh, cô trông giống như hình trong tạp chí.

Chenko nghĩ, Cũng thương.

Sandy hỏi, “Tiền đâu?”

Chenko đáp, “Xong chuyện đã. Khi bọn anh đưa em về.”

“Cho em thấy đi.”

“Anh để trong xe rồi.”

Sandy nói, “Vậy thì đi nhìn nó cái đã.”

Họ đi theo hàng một. Chenko dẫn đầu. Đến Sandy.Vladimir chặn hậu. Họ đi dưới chân xa lộ. Chiếc xe đậu ngay trước mặt. Trời lạnh và mù sương. Không có tiền trong đó. Chẳng có xu nào. Chenko biết thế. Nên hắn dừng chân cách xe sáu bộ và quay lại. Gật đầu ra hiệu cho Vladimir.

Hắn nói, “Làm đi.”

Vladimir vươn tay phải tới trước và đặt lên vai của Sandy. Hắn dùng tay đó để xoay nửa thân trên của cô nghiêng qua rồi quại tay trái vào thái dương bên phải, hơi cao và ngay phía trước tai của cô. Đó là một cú đấm kinh khủng. Vỡ tung. Đầu cô ngoặt mạnh ngang qua một bên, và chân cô hẫng lên rồi cô rơi xuống đất theo chiều thẳng đứng, như một bộ áo quần rỗng tuột khỏi giá áo.

Chenko ngồi xổm xuống bên cô. Chờ một lúc cho cái xác nằm im rồi đưa tay thăm mạch ở cổ. Mạch không còn đập.

Hắn nói, “Mày làm gãy cổ nó rồi.”

Vladimir gật đầu.

Hắn nói, “Chỉ là vấn đề lựa chọn giáng vào đâu thôi. Cái hướng chính là gần như sang ngang, rõ ràng vậy, nhưng cũng phải cố tạo chút đà quay nữa. Vì thế nó không hẳn là động tác bẻ. Là động tác vặn thì đúng hơn. Như là cái nút thòng lọng của kẻ treo cổ ấy.”

“Tay mày có ổn không?”

“Ngày mai nó sẽ mềm lại.”

“Giỏi lắm.”

“Tao đã cố hết sức.”

Chúng mở cửa xe và dựng thành ghế phía sau lên rồi đặt cái xác nằm ngang ghế sau. Vừa đủ chỗ, từ đầu này đến đầu kia. Sandy từng là một cô bé nhỏ nhắn. Không cao. Rồi chúng cùng leo lên ghế trước và lái đi. Chúng vòng qua hướng Đông và đến gần Metropole Palace từ phía sau. Chúng tránh bãi đổ rác và tìm thấy một cái hẻm phụ. Chúng dừng xe bên ngoài lối thoát hiểm. Vladimir chuồi ra và mở cửa sau. Nắm vai cái xác lôi ra và thả cho nó ngã xuống đó. Rồi hắn trở lại xe. Chenko lái đi và dừng lại cách năm thước, rồi trở người trên ghế. Cái xác nằm một đống sát chân tường bên kia của cái hẻm. Ngay đối diện với cánh cửa thoát hiểm. Nó trông như một kịch bản rất hợp lý. Cô ta đã rời phòng của thằng lính, đầy hổ thẹn và kinh hoảng, không dám chờ thang máy và chạy xuống lối cầu thang thoát hiểm để thoát ra ngoài. Có thể cô đã ngã ở chỗ đó làm trầm trọng hơn chấn thương vừa chịu. Có thể cô đã trượt chân và ngã vào tường, và sự va đập đánh gãy nốt đốt sống đã bị vặn từ trước.

Chenko quay thẳng người lại và lái xe đi, không nhanh, không chậm, không gây chú ý, không nổi bật, tám dặm về hướng Tây Bắc, về thẳng nhà của The Zec.

Bình luận