Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Địa Đồ Di Cốt

Chương 7: Tàu tốc hành đi Rome

Tác giả: James Rollins

Ngày 25 tháng 7

12 giờ 38 phút

Milan, Italy.

Bước vào trong phòng chứa đồ, người linh mục liền đóng cửa lại. Căn phòng này vốn dùng để các linh mục và người phụ lễ thay quần áo lễ.

Rachel nghe khóa cửa kêu đánh tách một tiếng phía sau.

Vừa quay lại, cô đã thấy một khẩu súng giơ trước ngực. Trên tay người linh mục. Đôi mắt của y tàn nhẫn, lạnh tanh như đá cẩm thạch mài nhẵn.

“Không được động đậy” Y nói, giọng chắc nịch.

Rachel lui lại một bước. Vigor chậm rãi giơ tay lên.

Hai bên tường là những bộ quần áo linh mục để sử dụng trong các buổi hành lễ. Một chiếc bàn đựng dãy cốc bạc để uống rượu thánh, sắp xếp ngay ngắn cho các buổi lễ ban thánh thể. Một cây thánh giá lớn mạ bạc gắn trên một cái gậy sắt vẫn dùng trong các buổi rước lễ dựa vào góc phòng.

Cánh cửa đối diện căn phòng bỗng bật mở.

Một bóng người trông như con trâu mộng và có vẻ quen quen xuất hiện, đứng chật cả cửa. Đó chính là gã đàn ông đã tấn công cô tại Cologne. Hắn cầm một con dao dài trong tay, lưỡi dao đẫm máu. Hắn bước vào phòng rồi giật lấy cái khăn choàng lễ treo trong tủ để lau lưỡi dao.

Rachel cảm thấy Vigor đang nháy mắt với cô.

Máu. Những vị linh mục biến mất. Ôi, lạy Chúa…

Gã đàn ông cao khều không còn mặc áo choàng tu sĩ nữa mà đang mặc quần áo thường ngày bằng kaki màu than, và cái áo sơmi đen, khoác bên ngoài là bộ vét đen sẫm. Gã để khẩu súng trong bao súng đeo trên vai và tai hắn đang nghe bộ đàm, còn chiếc micro ngay dưới cằm.

“Như vậy là cả hai đều sống sót sau vụ Cologne”. Hắn nói, cặp mắt nhìn Rachel một lượt như thể đang định giá một con bò có giá tại một phiên chợ quê. “Thật may mắn. Nhưng có lẽ chúng ta phải làm quen với nhau đã”.

Hắn nói vào chiếc micro ra lệnh: “Hãy dọn dẹp nhà thờ”.

Phía sau, Rachel nghe tiếng các cánh cửa dẫn vào giáo đường đồng loạt mở toang. Gray và đồng đội của anh chắc sẽ bị bất ngờ. Cô chờ đợi một loạt tiểu liên hay một trái lựu đạn. Nhưng tất cả những gì nghe thấy chỉ là tiếng ủng lộp bộp trên sàn đá cẩm thạch. Nhà thờ vẫn im lặng.

Hình như những kẻ đang giữ cô cũng nhận thấy điều đó.

“Báo cáo đi” Gã gọi vào bộ đàm.

Rachel không nghe tiếng trả lời, nhưng nhìn khuôn mặt tối sầm của gã cô đoán là có chuyện.

Gã lao qua Rachel và Vigor.

“Trông chừng tụi nó” Tên cao kều quát lên với gã linh mục giả. Một bóng người thứ hai tiến đến chỗ gã. Người phụ nữ lai châu Á bước đi cùng với gã, với khẩu Sig Sauer nặng trĩu trên tay.

“Chẳng có ai ở đây cả” Tên kều nói.

Rachel nhìn thấy những kẻ cầm súng khác lục soát giáo đường và các đền thờ nhỏ bên cạnh tường.

“Canh gác tất cả các lối ra.”

“Vâng, thưa ngài”.

“Tất cả mọi lúc.”

“Vâng, thưa ngài”.

Cặp mắt của gã kều dán chặt vào người đàn bà châu Á.

Cô ta nhún vai: “Có thể họ tìm thấy một cái cửa sổ mở”.

Miệng vẫn làu bàu, gã nhìn toàn bộ giáo đường một lượt rồi quay ngoắt lại: “Tiếp tục lục soát. Cử ba người ra bên ngoài xem, chắc chúng chưa đi xa đâu”.

Khi gã quay lại, Rachel hành động.

Tiến đến phía sau, cô giật cái gậy sắt có gắn cây thánh giá rồi quật mạnh vào thái dương của gã. Hắn ngã ngửa, đập vào người tên linh mục giả. Cô thu cái gậy lại dưới cùi chỏ rồi quật trở lại vào mặt tên đứng sau.

Súng của gã nhả đạn nhưng viên đạn bắn lên trời khi gã cố chạy thoát ra cửa.

Rachel đuổi theo, lao qua cửa đến một hành lang hẹp. Cô sập mạnh cửa rồi dùng cái gậy sắt chèn ngáng luôn vào hành lang. Đằng sau cô, bác Vigor dùng gót chân nện mạnh vào cánh tay của tên bị ngã. Có tiếng xương gẫy rắc, rồi ông đá thẳng vào mặt y, đầu y đập mạnh vào sàn đá và người mềm nhũn.

Rachel cúi xuống nhặt lấy khẩu súng lục của y.

Vẫn ngồi xổm, cô dò dẫm tìm đường trong gian phòng tối om không có cửa sổ. Không thấy tên nào cả. Lực lượng bổ sung chắc đã được bố trí để phục kích Gray và nhóm của anh. Có tiếng đập mạnh vào cánh cửa. Con bò mộng đang tìm cách phá cửa.

Cô nằm xoài xuống sàn tìm kiếm phía dưới khe cửa. Cô nhìn thấy vệt sáng và bóng người. Cô chĩa khẩu súng vào chỗ đó rồi bóp cò.

Viên đạn trúng vào sàn đá nhưng cô nghe thấy tiếng thét ngạc nhiên của gã nọ. Phát súng chắc sẽ cầm chân y một lúc.

Cô ngồi dậy. Bác Vigor đã bước qua sảnh.

“Bác nghe như có tiếng người rên”. Ông thì thào “Quay lại đây”.

“Chúng ta không còn thời gian nữa”.

Phớt lờ, bác Vigor tiến vào sâu hơn. Rachel bước theo. Không thông thạo địa hình, mỗi bước đi lại càng khó khăn hơn trước. Họ tới một cánh cửa bị mở toang, Rachel nghe thấy có tiếng rên rỉ bên trong.

Cô lấy vai ẩy khẽ, súng lăm lăm trong tay.

Căn phòng vốn vẫn là phòng ăn, nay bỗng biến thành lò sát sinh. Một linh mục nằm úp xấp trong vũng máu trên nền. Sau gáy của ông là một mớ lầy nhầy óc, xương và tóc. Một thân hình mặc áo choàng đen nữa nằm sóng xoài trên một trong những cái bàn ăn, bị trói chặt vào chân bàn. Một linh mục già, áo choàng của ông bị xé rách xuống đến thắt lưng. Ngực của ông là một vũng máu, đầu ông bị xẻo cả hai tai. Có thể ngửi thấy mùi thịt cháy khét.

Tra tấn!

Đến chết!

Một tiếng khóc tức tưởi ở phía bên trái. Trên sàn nhà bị trói cả chân lẫn tay là một người đàn ông trẻ, bị tụt đến tận quần đùi, mồm bị bịt giẻ. Mắt anh ta đầy vết tím bầm, máu vẫn rỏ tong tong trên sống mũi. Nhìn bộ dạng trần trụi của anh ta, rõ ràng bộ quần áo linh mục của anh ta đã bị tên giết người kia vừa lột ra để mặc vào.

Vigor đi xung quanh bàn. Khi người đàn ông tội nghiệp nhìn thấy ông, anh ta giãy giụa, cặp mắt dại đi, thở phò phò sau miếng giẻ bịt miệng.

Rachel lui lại.

“Ổn rồi, không sao đâu” Vigor an ủi anh ta.

Người đàn ông nhìn chăm chú vào cái cổ áo linh mục của Vigor. Anh ta thôi không vùng vẫy nữa nhưng vẫn khóc nức nở. Vigor lấy tay giật mảnh vải bịt miệng. Người đàn ông lắc đầu nhổ ra, nước mắt chảy trên gò má.

“Molti… Grazie”, anh ta nói, giọng vẫn sốc.

Vigor dùng con dao cắt dây nhựa trói anh ta.

Trong khi ông bác đang bận rộn, Rachel khóa cửa dẫn vào phòng ăn rồi lấy một chiếc ghế chặn lại. Không có cửa sổ, chỉ có một cái cửa dẫn sâu hơn vào nhà của mục sư. Cô tiếp tục chĩa súng vào hướng đó rồi bước tới một máy điện thoại trên tường. Không có tín hiệu, đường dây điện thoại đã bị cắt.

Cô lấy ra chiếc máy di động của Gray rồi gọi vào số 112, con số báo động thống nhất của toàn EU. Sau khi nối được máy, cô xưng mình là trung úy cảnh sát mặc dù không nói tên, cô gọi xe y tế cấp cứu, quân cảnh và quân đội đến ứng cứu.

Sau khi đã báo động, cô bỏ chiếc máy vào túi.

Gặp số đối thủ đông hơn, đó là tất cả những gì cô có thể làm được. Cho cô và những người khác.

***

12 giờ 45 phút.

Những bước chân tiến gần đến chỗ Gray đang nấp. Anh cố giữ thật im, nín thở. Bước chân dừng lại ngay bên cạnh. Anh dỏng tai nghe.

Một người đàn ông nói, một giọng quen thuộc, cáu kỉnh. Đó là tên cầm đầu số linh mục: “Nhà cầm quyền Milan đã được báo động”.

Không có tiếng trả lời, nhưng Gray chắc chắn có hai người ở đó.

“Seichan?” Người đàn ông nói: “Cô có nghe tôi nói không?”.

Một giọng mệt mỏi trả lời, cũng nhận ra được Long nương, nhưng bây giờ cô ta đã có tên Seichan.

“Chắc chúng thoát ra bằng cửa sổ, Raoul”. Cô ta gọi tên gã cầm đầu. “Sigma rất khôn ngoan. Tôi đã cảnh cáo anh nhiều lần rồi. Chúng ta đã lấy được chỗ di cốt rồi nên cần rời ngay trước khi Sigma quay lại cùng với viện trợ. Cảnh sát cũng có thể đang trên đường tới đây”.

“Nhưng con chết tiệt đó…”

“Anh có thể tính sổ với ả sau này”.

Bước chân đi xa dần, nghe như gã đàn ông đi tập tễnh thì phải. Tuy nhiên, lời nói của Long nương vẫn văng vẳng trong tai anh.

“Anh có thể tính sổ với ả sau này”.

Liệu có phải là Rachel đã thoát không?

Gray cảm thấy ngạc nhiên khi thấy mình thở phào nhẹ nhõm.

Một tiếng đóng cửa thật mạnh ở phía xa của nhà thờ. Dù những tiếng động xa dần, Gray vẫn dỏng tai nghe. Anh không nghe thấy gì thêm nữa, không thấy tiếng ủng, cũng không có giọng nói nào nữa.

Cẩn thận, anh chờ thêm một phút nữa.

Khi nhà thờ đã hoàn toàn yên lặng, anh huých Monk lúc này đang nằm úp thìa bên cạnh, còn Kat thì nằm ngay kế bên. Họ lao xuống chỗ quan tài đầy những mẩu xương rồi với tay đậy nắp lên. Sau cùng nhau, họ kéo cái nắp đá trên cùng.

Ánh sáng ùa vào cái mộ, nơi trú ẩn tạm thời của họ.

Sau khi phát hiện dấu cảnh báo bằng máu của Long nương, Gray biết ngay rằng họ đã bị bao vây. Tất cả các lối ra đều bị chặn gác. Rachel và ông bác thì biến mất trong phòng chứa đồ, anh không thể làm gì để giúp họ nữa.

Vậy là anh dẫn hai người kia vào cái đền thờ ngay bên cạnh. Họ dịch chuyển cái nắp đậy lấy chỗ để chui vào rồi kéo lên che lại ngay khi các cánh cửa ra vào nhà thờ mở toang.

Sau khi vụ lục soát kết thúc, Monk trèo ra ngoài, súng lục trong tay, rũ rũ người, vẻ mặt nhăn nhó vì ghê tởm. Bụi xương bám chặt vào quần áo của anh: “Chúng ta không nên lặp lại chuyện này một lần nữa”.

Gray vẫn giữ nguyên súng sẵn sàng.

Anh nhìn thấy một vật trên nền đá cẩm thạch, vài bước cách nơi họ ẩn nấp. Một đồng xu. Anh nhặt lên, đó là đồng một xu của Trung Quốc.

“Cái gì vậy?” Monk hỏi.

Anh nhét đồng xu vào túi: “Không có gì, chúng ta phải đi thôi”.

Anh hướng về phía giáo đường rồi đi tới phòng chứa đồ, nhìn lại chỗ được đánh dấu. Seichan đã biết.

Rachel đứng gác khi Vigor đỡ người linh mục đứng dậy.

“Chúng… chúng giết tất cả”. Người đàn ông trẻ nói. Anh ta dựa vào cánh tay của Vigor để đứng, cặp mắt anh ta cố tránh nhìn vào thân hình đẫm máu trên bàn. Anh lấy tay ôm mặt rồi nức nở. “Cha Belcarro”.

“Điều gì xảy ra vậy?” Vigor hỏi.

“Chúng đến cách đây một giờ. Chúng có đủ giấy tờ có đóng dấu của Giáo hoàng, giấy căn cước. Nhưng cha Belcarro đã nhận được một tấm ảnh được gửi qua fax”. Cặp mắt anh ta mở to. “Ảnh của ông được gửi từ Vatican. Cha Belcarr biết ngay chúng là giả. Nhưng lúc đó bọn ác quỷ đã ở đây rồi. Đường dây điện thoại bị cắt đứt. Chúng tôi bị khóa chặt bên trong. Chúng muốn có chìa khóa mở két của cha Belcarro”.

Người đàn ông quay lại thân hình đẫm máu, vẻ mặt đầy tội lỗi: “Chúng tra tấn Cha. Ông ấy không nói. Nhưng chúng còn làm những việc tồi tệ hơn, thật tồi tệ. Chúng bắt tôi phải nhìn”.

Người đàn ông nắm lấy khuỷu tay Vigor. “Tôi không thể để chuyện đó tiếp tục… tôi đã nói với chúng”.

“Và chúng đã lấy chỗ di cốt trong két?”

Người linh mục gật đầu.

“Thế là mất hết tất cả” Vigor nói.

“Tuy nhiên, chúng vẫn muốn chắc chắn”, người linh mục trẻ lắp bắp tiếp, dường như vẫn chưa hết cơn hoảng sợ. Anh ta nhìn thân hình bị tra tấn, nghĩ thế nào rồi cũng đến lượt mình. “Thế rồi các vị tới. Chúng lột quần áo tôi ra, bịt mồm”.

Rachel đã hình dung gã linh mục giả hiệu mặc bộ quần áo tu hành của anh ta. Việc giả trang này chắc được tính để thu hút Rachel và Kat bỏ không gác ở ngoài phố để vào trong nhà thờ.

Người linh mục loạng choạng đi về phía thân thể của cha Belcarro. Anh ta cuộn cái áo choàng lại phủ lên mặt người quá cố như thể che giấu sự xấu hổ của mình. Làm xong việc đó, anh ta thò vào túi áo của chiếc áo choàng đẫm máu, rút ra một hộp thuốc lá. Hình như vị linh mục già không từ bỏ được những thú vui nho nhỏ, cũng như người linh mục trẻ.

Tay run run, anh ta mở bao thuốc rồi rũ ra những gì ở bên trong. Sáu điếu thuốc và một mẩu phấn. Người đàn ông vứt chỗ thuốc lá rồi giơ ra mẩu phấn.

Vigor cầm lấy.

Không phải phấn. Xương.

“Cha Belcarro sợ phải đưa hết chỗ di cốt thiêng liêng”, người linh mục trẻ giải thích. “Trong trường hợp có chuyện gì đó xảy ra. Vì vậy, ông ta giữ lại một chút. Cho nhà thờ”.

Rachel phân vân liệu có bao nhiêu phần trăm của việc làm này xuất phát từ động cơ giữ gìn di vật cho nhà thờ và bao nhiêu phần trăm trở lại lần cuối cùng chỗ di cốt bị mất trộm ở Milan. Chuyển đến tận Cologne. Niềm tự hào của nhà thờ đã từng tập trung vào chỗ xương cốt ít ỏi này. Nhưng dù cách này hay cách khác, cha Belcarro đã chết một cái chết bất tử. Bị tra tấn trong khi cố giấu được di vật thiêng liêng trong người mình.

Một tiếng nổ lớn làm mọi người nhảy dựng lên.

Vị linh mục trẻ ngã lăn xuống sàn nhà.

Nhanh chóng Rachel nhận ra tiếng nổ của loại vũ khí.

“Khẩu súng ngắn của Monk…” Cô nói, mắt mở to hy vọng.

***

2 giờ 4 phút.

Gray bước qua lỗ cửa khói mù của căn phòng chứa đồ.

Monk đặt khẩu súng lên vai. “Nhất định tôi sẽ trả nợ nhà thờ Cơ đốc giáo một tháng lương để chữa cái cửa này”.

Gray đẩy cái gậy sang một bên để mở cửa. Sau phát súng vừa rồi, chả còn gì phải im lặng nữa. “Rachel, Vigor”. Anh hét lên khi bước vào gian phòng.

Có tiếng động từ phía cuối phòng. Một cánh cửa mở ra. Rachel bước ra, tay vẫn cầm súng lục. “Ở đây!” Rachel hét lên.

Bác Vigor dẫn theo một người đàn ông nửa trần trụi vào sảnh. Anh ta trông xanh rớt, mệt mỏi, nhưng hình như đã lấy lại sức khi nhìn thấy họ.

Nhưng cũng có thể là do nghe thấy tiếng còi báo động rền vang.

“Cha Justin Mennelli”. Vigor giới thiệu.

Họ nhanh chóng kể lại mọi sự việc.

“Như vậy chúng ta có một ít trong số di cốt”. Gray nói, rất ngạc nhiên.

“Tôi gợi ý chúng ta đưa di vật này về Rome càng nhanh càng tốt”. Vigor nói. “Bọn chúng chưa biết rằng chúng ta đã có nó, và tôi muốn ở sau bức tường Leonine của Vatican trước khi chúng có thể hành động”.

Rachel gật đầu: “Cha Mennelli sẽ cho nhà chức trách biết những gì xảy ra ở đây. Anh ta sẽ bỏ qua những chi tiết liên quan đến sự có mặt của chúng ta, và tất nhiên, về di vật mà chúng ta có”.

“Có một chuyến tày tốc hành ETR rời đi Rome trong vòng mười phút nữa”. Vigor nhìn đồng hồ. “Chúng ta có thể có mặt ở Rome vào lúc 6 giờ.”

Gray gật đầu. Càng ở xa tầm hoạt động của rađa càng tốt. “Chúng ta đi nào”.

Họ ra ngoài. Cha Mennelii dẫn họ đến một lối ra không xa nơi họ để chiếc xe. Rachel đã leo lên ghế lái như mọi khi. Họ tăng tốc khi còi báo động xuất hiện.

Khi đã ngồi trong xe. Gray sờ tay vào đồng xu trong túi. Anh cảm giác như mình thiếu một cái gì.

Điều gì đó rất quan trọng.

Nhưng là cái gì?

***

3 giờ 39 phút

Một giờ sau, Rachel bước ra từ phòng tắm đến toa hạng nhất của đoàn tàu ETR 500. Kat đi cùng với cô. Đã có quyết định mọi người phải đi cùng với nhau. Rachel mặt ướt đẫm, chải tóc và đánh răng.

Sau những chuyện thảm khốc ở Milan, cô thấy cần có giây phút riêng tư trong toa tàu. Nhìn kỹ khuôn mặt mình trong gương, cô như muốn òa lên khóc. Nhưng trông cũng không đến hốc hác lắm, cô tự an ủi.

Đó là tất cả những gì cô có thể làm.

Điều ấy làm cô cảm thấy thoải mái hơn.

Khi cô sải dọc theo hành lang, cô không hề nhận thấy sự chuyển động của con tàu dưới gót chân của mình. ERT là loại tàu hỏa mới nhất và nhanh nhất nối liền Milan và Naples. Nó chạy với vận tốc kinh người 300km giờ.

”Vậy chuyện về chỉ huy của chị thế nào?” Rachel hỏi Kat, tranh thủ lúc đứng riêng với người phụ nữ này. Ngoài ra cũng là tốt khi nói chuyện khác ngoài các vụ giết người và xương cốt.

“Chị hỏi vậy có ý gì?” Kat chả buồn nhìn cô.

“Liệu anh ta có quan hệ với ai ở nhà chưa? Bạn gái chẳng hạn?”

Một cái liếc xéo.

“Tôi chả biết gì về cuộc sống riêng của anh ta cả.”

“Thế còn chị với Monk thế nào? ” Rachel ngắt lời, nhận ra mình thật vô duyên khi vừa hỏi câu ban nãy.

“Thế trong công việc của các bạn, có thời gian dành cho những chuyện riêng tư không? Còn những chuyện mạo hiểm thì sao?”

Rachel rất tò mò muốn biết xem những người trong nghề tình báo cân bằng cuộc sống thông thường của họ ra sao. Cô nghĩ hoàn cảnh của mình thật khó tìm được một người đàn ông chấp nhận một phụ nữ làm trung úy cảnh sát như cô được.

Kat thở dài.

“Tốt nhất là không nên dính líu với ai quá sâu.” Cô nói, ngón tay của cô lại mân mê cái huy hiệu có gắn hình con cóc bằng đá quý trên ve áo. Tuy giọng nói rắn rỏi hơn nhưng xem ra cô cũng phải lên gân để tự an ủi mình.

“Bạn cứ hình thành quan hệ tình bạn khi nào có thể nhưng có lẽ không nên đi xa hơn. Điều đó có khi lại dễ hơn”.

Dễ hơn cho ai. Rachel phân vân.

Cô thôi không đề cập đến chuyện này khi hai người về đến khoang của họ. Nhóm đã thuê hai khoang. Một khoang dành để có thể thay nhau ngủ theo ca. Nhưng chả ai ngủ cả. Mọi người đều tụ tập trong một khoang, ngồi hai bên ghế. Mành được phủ xuống che kín cả khoang tàu.

Rachel chen vào ngồi cạnh ông bác. Kat ngồi cạnh hai đồng đội.

Gray đã mở bộ đồ phân tích từ ba lô ra rồi nối mạng với máy tính xách tay. Những thứ đồ nghề được bày ngay ngắn trước mặt anh. Chính giữa bàn là di vật từ một trong ba vị Tiên tri được đặt trên một cái khay đựng mẫu vật bằng thép không rỉ.

“Thật may mắn là mẫu xương ngón tay này thoát khỏi mẻ lưới của chúng”. Monk nói.

“Sự may mắn không liên quan gì đến chuyện này cả “. Rachel đáp.

“Chính nó đã làm cho những người đàn ông tốt phải bỏ mạng. Nếu như chúng ta không đến thì tôi nghĩ có khi cũng chả có nỗi cả mẫu xương này.“

“Dù may mắn hay không,” Gray làu bàu, “thì chúng ta cũng đã có cái cổ vật này. Hãy xem thử có thể nó giúp giải mã những bí mật được không.”

Anh lấy ra hai chiếc cốc cùng với cái kính lúp của thợ kim hoàn rồi đeo đôi găng tay cao su mỏng. Với cái mũi khoan nhỏ anh chọc vào chính giữa mẫu xương lấy ra một mẫu phẩm sau dùng cái cối và chày nhỏ nghiền nát thành bột.

Rachel ngắm nhìn động tác thành thạo của anh. Đây đúng là nhà khoa học trong một người lính. Cô ngắm nghía cử động của những ngón tay, thật tuyệt vời là không thừa một động tác nào. Đôi mắt của anh dán chặt vào công việc đang làm. Đôi lông mày dãn ra căng thẳng. Anh thở chầm chậm.

Cô chưa bao giờ hình dung phần này trong con người anh, người đàn ông đã nhảy lên cái tháp đang bốc cháy dữ dội. Tự dựng cô rất muốn lấy tay nâng cằm anh lên rồi nhìn thẳng vào đôi mắt anh cùng với sự tập trung và chăm chú như thế. Chuyện đó sẽ thế nào nhỉ? Cô cố hình dung ra độ sâu thẳm trong đôi mắt xanh lơ của Gray. Cô nhớ đến đôi bàn tay của anh đã chạm vào người cô, trong đó có cả sự dịu dàng và sức mạnh trong cùng một lúc.

Kat nhìn cô chăm chú, bỗng như cảm thấy mình có lỗi, với những lời nói khi vừa nãy thôi. Tốt nhất là không nên dính líu, điều đó có khi lại dễ hơn.

Có thể cô ta nói đúng.

“Với chiếc máy đo quang phổ này,” cuối cùng Gray cũng lớn tiếng lập tức lôi cuốn sự chú ý của cô. “Chúng ta có thể xác định xem có kim loại ở trạng thái –m trong chỗ xương. Cố gắng nhằm loại bỏ hoặc công nhận khả năng, chỗ di cốt của ba nhà Tiên tri là nguồn gốc của thứ bột tìm thấy trong cái quan tài bằng vàng.”

Anh trộn thứ bột đó với nước tinh khiết rồi hút chúng vào một ống nghiệm. Anh lại nhét cái ống nghiệm vào máy đo quang phổ tổng thể. Rồi chuẩn bị ống nghiệm thứ hai với nước cất và giơ lên cao.

“Đây chính là chuẩn để xác định đơn vị đo lường,” Gray giải thích rồi đặt ống nghiệm lên một cái khay khác. Anh ấn một nút xanh sau quay mặt màn hình máy tính xách tay để cả nhóm cùng xem.

Một mô ghép xuất hiện trên màn hình với một đường vạch mỏng chạy qua nó. Một số những thanh ngang nhỏ làm nhiễu đường thẳng. “Đây là nước. Những mũi nhọn liên tục là dấu vết của tạp chất. Ngay cả nước tinh khiết cũng không phải là 100% tinh khiết,”

Sau đó, anh chỉnh núm điều khiển để chỉ vào lô có mẫu bùn đất. Anh ấn nút xanh, “Đây là kết quả của mẩu xương bị nghiền nát.”

Mô ghép trên màn hình được dọn sạch, thay bằng những thông số mới. Trông nó y trang.

“Nó không thay đổi,” Rachel nói.

Đôi lông mày vẫn nhíu lại. Gray thử lại, lấy cái ống nghiệm ra ngoài rồi lắc đều. Kết quả vẫn y như thế. Một đường ngang.

“Nó được đọc như nước tinh khiết” Kat nói.

“Không thể như vậy,” Monk nói. “Ngay cả nếu như các vị Tiên tri già cả bị bệnh liệt xương, lượng can–xi trong xương sẽ lọt qua. Không nói là các bon và một loạt các chất khác.”

Gray gật đầu, tiếp tục. “Kat, cô có một ít hợp chất cyanid không,”

Cô lấy trong túi ra, rót vào một cái ly nhỏ.

Gray nhúng một que tăm có bông thấm, chà cái tăm đã ướt vào chỗ xương, ấn mạnh rồi lại chà mạnh như thể anh đang đánh chùi đồ bạc. Khi anh chà sát, bột xương màu chuyển thành một loại vàng.

Gray nhìn mọi người. “Đây không phải là xương.”

Rachel không kìm nổi sự ngạc nhiên trong giọng nói của cô. “Đó là vàng ròng.”

5 giờ 12 phút

Gray đã dành cả nửa thời gian đi tàu hoả để bác bỏ câu nói của Rachel. Còn có các thứ khác nữa, không chỉ có vàng trong chỗ xương đó. Hơn nữa đó không phải là thứ vàng kim loại nặng mà lại là thứ thủy vàng. Anh cố gắng phân tích thành phần chính xác của hợp chất này.

Trong khi làm việc, anh lại phải đương đầu với một chuyện khác. Milan. Anh suy nghĩ mãi về những sự kiện xảy ra ở nhà thờ. Anh đã đẩy đồng đội của mình vào một cái bẫy. Anh không thể tha thứ trận phục kích đêm qua ở Đức. Họ bị són đái ra quần. Không ai có thể ngờ rằng sẽ có một cuộc tấn công man rợ như vậy ở Cologne.

Nhưng vụ thoát chết ở Milan cũng không thể dễ dàng bỏ qua. Họ đã vào nhà thờ với sự chuẩn bị nhưng cũng suýt nữa mất hết mọi thứ kể cả tính mạng của họ.

Như vậy lỗi lầm nằm ở chỗ nào.

Gray hiểu câu trả lời. Anh đã làm hỏng việc. Lẽ ra anh không nên nghe lời Kat về việc phải thận trọng nên đã bỏ mất quá nhiều thời gian để lục soát nhà thờ và như vậy đã tự phơi mình ra cho bọn Long Đình có thời gian để phát hiện họ và giương bẫy.

Không thể quở trách Kat được. Thận trọng là một phần tất yếu của công tác tình báo. Nhưng hành động trên thục địa đòi hỏi sự nhanh nhạy và hành động kiên quyết, không chần chừ.

Đặc biệt là người chỉ huy của nhóm.

Cho đến tận bây giờ, anh vẫn luôn hành động theo đúng sách vở, thận trọng như một người chỉ huy cần phải có. Nhưng có thể đó là lỗi lầm. Sự chần chừ và đoán mò không phải là đặc trưng của dòng họ Pierce. Không có ở người cha cũng không có ở người con. Nhưng đâu là ranh giới giữa sự thận trọng và sự ngu xuẩn?

Liệu mình có bao giờ đạt được sự cân bằng ấy không?

Sự thành công của phi vụ này… và rất có thể cả tính mạng của họ sẽ phụ thuộc vào điều đó.

Khi đã phân tích xong mọi chuyện, anh ngồi tựa lưng vào ghế. Ngón tay chỏ của anh bị phồng rộp, khoan tàu sặc mùi cồn.

“Cái đó không phải là vàng nguyên chất”.

Anh kết luận “Chỗ xương giả đó là hỗn hợp của các nhân tố trong nhóm platinum.” Gray giải thích. “Kẻ nào đấy đẻ ra chuyện này đã trộn hỗn hợp bột của nhiều kim loại có thể truyền dẫn được rồi nung cháy chúng thành thủy tinh. Một khi đông kết lại, chúng làm thủy tinh biến dạng, bề mặt bị xù xì với màu trắng bột, làm nó giống như xương.”

Gray gạt các dụng cụ thí nghiệm sang một bên.

“Cơ bản nó được cấu tạo bằng vàng nhưng có một tỷ lệ lớn platinum và một lượng nhỏ chất Iridium và Rhodium, thậm chí cả osmium và palladium?”

“Một thứ hỗn hộp thông thường”, Monk nói và ngáp dài một cái.

“Nhưng một thứ hỗn hợp mà thực đơn chính xác không bao giờ biết.” Gray nói, cau mày trước mẫu xương giả. Anh vẫn để nguyên ba phần tư di vật chưa đụng chạm đến và đặt số một phần tư còn lại vào hộp thử. ”Bột ở trạng thái –m rất thiếu hoạt tính. Tôi không tin bất cứ thiết bị phân tích nào có thể nói cho biết chính xác tỷ lệ kim loại. Ngay cả việc thử sẽ thay đổi tỷ lệ trong mẫu.”

“Giống như nguyên tắc không chắc chắn Heisengbeg,” Kat nói, gác chân lên gối, đặt chiếc latop trên đùi cô. Cô gõ gõ. “Ngay hành vi nhìn thôi cũng làm thay đổi thực tế cái đang được quan sát.”

“Vậy là nếu nó không được thử nghiệm hoàn toàn…” Câu nói của Monk lại bị ngắt quãng bởi một cái ngáp sái quai hàm nữa.

Gray vỗ vai anh chàng “Chúng ta sẽ đến Rome trong vòng một giờ nữa. Tại sao anh không ngủ đi một chút ở khoang bên”.

“Tôi không sao đâu.” Anh ta nói, lại ngáp thêm cái nữa.

“Đây là lệnh.”

Monk đứng phắt dậy. “Được, nếu là lệnh…” anh chàng dụi mắt rồi hướng ra cửa.

Nhưng anh chàng dừng lại ở cửa.

“Anh biết đấy,” mắt đỏ ngầu. “Có thể lịch sử hiểu sai từ bộ xương của ba nhà Tiên tri. Thay vì đề cập đến bộ xương của những vị đó, có thể điều này là bộ xương đó được các nhà Tiên tri làm ra. Giống như nó là tài sản của họ. Bộ xương của các nhà Tiên tri.”

Ai nấy đều trố mắt nhìn anh ta.

Bất chấp cái nhìn của mọi người, Monk nhún vai rồi như ngã ra khỏi cửa.

“Mẹ kiếp, tôi biết gì nào? Tôi không thể suy nghĩ thẳng thắn được ư.” Cánh cửa đóng lại.

“Anh bạn của anh có lẽ không xa cơ sở mấy.” Vigor nói trong khi im lặng bao trùm cả cabine.

Rachel động đậy. Gray liếc nhìn cô. Cho đến lúc này, Rachel vẫn ngồi tựa vào ông bác, ngủ được một chút. Gray đã ngắm nhìn cô lúc đang thở mạnh. Trong khi ngủ gà, những nét rắn rỏi của cô đã biến mất thay vào đó là sự dịu dàng. Cô ta trông còn trẻ hơn nữa là đằng khác.

Cô duỗi một cánh tay lên không trung. “Bác nói thế có nghĩa gì?”

Vigor đang làm việc trên chiếc máy latop của Monk. Giống như Kat, ông đang vào ADSL được cung cấp trên toa hạng nhất của đoàn tàu cao tốc này. Họ đang tìm kiếm thêm thông tin. Kat tập trung vào khoa học phía sau bạch kim trong khi Vigor nghiên cứu về lịch sử liên quan đến ba nhà thông thái và thứ hợp chất này.

Đôi mắt của linh mục vẫn dán chặt vào màn hình. “Có kẻ nào đó đã làm giả chỗ xương này. Kẻ nào đó đã có khả năng mà ngay cả hiện nay cũng khó có thể tái hiện được. Nhưng ai làm điếu ấy? Tại sao giấu chúng tận trong lòng một nhà thờ Cơ Đốc giáo?”.

“Liệu điều này có thuộc về một người nào đó liên quan đến Long Đình không?” Rachel hỏi. ”Nhóm của chúng có gốc gác từ thời kỳ Trung cổ.”

“Hoặc cũng của chính Nhà thờ?” Kat nói.

“Không.” Vigor khẳng định chắc chắn. “Tôi nghĩ là có một nhóm thứ ba đã tham gia vào đây. Một tổ chức đã tồn tại trước một trong hai nhóm đó.”

“Sao ngài có thể chắc như vậy được. “ Gray hỏi.

“Năm 1982, một số quần áo khâm liệm của ba nhà thông thái được mang ra thí nghiệm. Chúng có niêm hạn từ thế kỷ thứ hai. Ngay trước khi Long Đình được thành lập. Ngay cả trước khi Quận chúa Helena, mẹ của Constantine, phát hiện chỗ xương cốt ở nơi nào đó về phía Đông.”

“Và không ai thử nghiệm chỗ xương cốt?”

Vigor liếc nhìn Gray. “Nhà thờ cấm làm chuyện đó.”

“Tại sao?“

“Muốn đem di cốt đi thử nghiệm phải có lệnh đặc biệt của Giáo hoàng, đặc biệt những di vật. Và những di vật của ba nhà thông thái đòi hỏi lệnh rất đặc biệt.”

Rachel giải thích. “Nhà thờ rất quan tâm đến đức tin. Người ta có thể sử dụng nhiều hơn thế nữa.”

Cô nhún vai, nhắm mắt chịu thua.

“Vậy nếu không phải là Nhà thờ hay Long Đình thì ai là kẻ làm giả chỗ xương?” Gray hỏi.

“Tôi nghĩ anh bạn Monk đã đúng. Đó là một tổ chức hội huynh đệ cổ xưa. Một nhóm đã có lịch sử lâu hơn Thiên Chúa giáo, có thể lui về thời đại Ai cập cổ đại.”

“Những người Ai cập?”

Vigor ấn chuột trên máy tính, xuất hiện một văn bản.

“Hãy nghe này. Năm 1450 trước Công nguyên, Pharaoh Tuthmois III đã tập hợp những người thợ bậc thầy của ông ta lại trong một nhóm gồm ba mươi chín thành viên, gọi là Nhóm huynh đệ trắng vĩ đại, cái tên lấy ra từ việc họ nghiên cứu chất bột trắng bí hiểm. Chất bột này được mô tả như tạo ra từ vàng nhưng có hình dạng như những chiếc bánh kim tự tháp, được gọi là “bánh mì trắng”. Những chiếc bánh này đã được mô tả tại đền thờ Karmak như những kim tự tháp nhỏ, thỉnh thoảng thấy có tia sáng phát ra.”

“Thế họ làm gì với những cái đó?” Gray hỏi.

“Họ chuẩn bị cho các Pharaoh. Để các nhà vua sử dụng. Được coi là sẽ tăng khả năng tiếp nhận của họ.”

Kat ngồi thẳng dậy, bỏ chân đang gác trên cái ghế trước mặt.

Gray quay lại nhìn cô. “Cái gì vậy?”

“Tôi đã đọc về một số tính năng của kim loại ở trạng thái quay nhanh. Đặc biệt là vàng và platinum. Lộ ra qua việc bị hấp thụ có thể kích thích các hệ thống nội tiết, tạo ra cảm giác nhận biết cao hơn. Mọi người còn nhớ những bài viết về các chất bán dẫn?”

Gray gật đầu. Các nguyên tử có vòng quay nhanh hoạt động như những chất bán dẫn tuyệt vời.

”Thiết bị nghiên cứu của Hải quân Hoa Kỳ đã khẳng định rằng thông tin giữa các tế bào não không thể giải thích bằng sự truyền dẫn thuần túy. Các tế bào não liên lạc quá nhanh. Họ đã kết luận một hình thức nào đó của loại siêu dẫn đã tham gia, nhưng hoạt động này vẫn đang được nghiên cứu.”

Gray nheo mắt. Tất nhiên anh đã nghiên cứu loại siêu dẫn này trong chương trình tiến sĩ của anh. Những nhà khoa học hàng đầu tin rằng lĩnh vực này sẽ mang lại những cú đột phá quan trọng trong công nghệ của thế giới cùng với việc áp dụng chúng. Đồng thời trong bằng thứ hai của anh về sinh học anh cũng rất quen thuộc với những lý luận về tư tưởng trí nhớ và bộ óc sinh học. Nhưng liệu những thứ đó có liên quan gì đến chất vàng trắng?

Kat cúi xuống chiếc máy tính của cô. Cô lại gõ ra một bài viết nữa.

”Đây này. Tôi tìm kiếm về nhóm kim loại và công dụng của chúng. Và tôi tìm thấy một bài về bộ não của loại có vú cho thấy bốn đến năm phần trăm của trọng lượng khô là chất Rhodium và Iridium.”

Cô chỉ vào biểu mẫu trên bàn của Gray.

”Rhodium và Iridium là trạng thái đơn phân của chúng.”

”Vậy cô nghĩ những chất ở trạng thái -m có thể là nguồn gốc của khả năng siêu dẫn của bộ não? Đó có phải là đường đi của liên lạc không? Và việc hấp thụ của các vị vua Ai cập đối với những chất bột đó đã đưa vào?”

Kat nhún vai.

”Cũng khó mà nói được. Việc nghiên cứu siêu dẫn mới chỉ ở giai đoạn chập chững.”

”Vậy mà người Ai cập đã biết về điều đó”. Gray vặn lại.

”Không”. Vigor đáp. “Nhưng có lẽ họ đã biết được cách gì đấy để vận dụng nó vào thí nghiệm do có thể bị lỗi hoặc tình cờ. Dù gì chăng nữa nó cũng đã xuất hiện và việc thí nghiệm với chất bột trắng của vàng đã được hiện ra trong suốt lịch sử, đi qua từ nền văn minh này sang nền văn minh khác, càng ngày càng mạnh mẽ hơn.”

”Liệu ngài có thể lần theo dấu vết của chúng đến đâu?”

”Có thể ngay đến đó.” Vigor chỉ vào di vật trên bàn Gray. Gray giễu cợt. “Vậy sao?”

Vigor gật đầu, chấp nhận sự thách thức.

”Như tôi đã nói. Đầu tiên, chúng ta bắt đầu từ Ai Cập. Chất bột trắng này có rất nhiều tên. Loại bánh mì trắng như tôi đã nói, nhưng cũng được gọi là thức ăn màu trắng và mfkzt. Nhưng cái tên cổ xưa nhất của nó có thể tìm thấy ở trong cuốn sách Ai Cập. Sách của Người chết. Loại chất này có được đặt tên hàng trăm lần cùng với các tính năng kỳ diệu của nó. Nó được người ta gọi một cách đơn giản là Cái gì vậy?”

Gray nhớ lại chính ngài linh mục cũng đã lẩm bẩm những từ này trước đấy lần đầu tiên họ chuyển chất bột đó sang dạng thủy tinh.

”Nhưng đó là tên bằng tiếng Hebrew, khi dịch ra Ma Na.” Vigor nói tiếp.

”Manna.” Kat nói.

Vigor gật đầu. “Loại Bánh mì thiêng liêng của người Israel. Theo kinh Cựu ước, nó rơi xuống từ trên trời để nuôi sống những người dân di cư đang chết đói khi theo Moses rời khỏi Ai Cập.” Ngài linh mục dừng lại như để cho mọi người suy nghĩ điều đó rồi đặt tay lên đống hồ sơ.

“Tại Ai Cập, Moses đã cho thấy sự uyên bác và tài năng của mình nên mọi người công nhận Ngài là người kế tục xứng đáng ngai vàng Ai Cập. Sự ngưỡng mộ cao ấy cho phép ông ta tham gia ở mức sâu nhất những bí hiểm của Ai cập.”

“Vậy Ngài nói là Moses đã lấy trộm bí mật đó để làm ra thứ bột này à? Loại bánh mì trắng của Ai Cập.”

“Trong Kinh thánh có nói rất nhiều tên, Manna, Bánh mì thiêng liêng. Bánh mì của Ngày nay… Nó quý đến nỗi đã được lưu giữ trong Đài Couvenant cùng với Mười Điều răn của Chúa. Tất cả được giữ trong một chiếc hộp bằng vàng.”

Gray không bỏ qua cái chớp mắt như gợi ý của vị linh mục khi ông nhấn mạnh điểm tương đồng trong chuyện di cốt của các vị Tiên tri được cất trong một cái quan tài bằng vàng.

“Dường như nan giải đây.”

Gray lẩm bẩm. “Biết đâu cái tên Manna lại là một sự tình cờ.”

“Anh đọc Kinh thánh lần cuối khi nào?”

Gray cũng chả buồn trả lời.

“Có rất nhiều mà những nhà sử học và chiêm tinh học bị bối rối về thứ Manna bí hiểm này. Kinh thánh mô tả Moses đã đốt cháy con bò vàng như thế nào. Nhưng thay vì trở thành một đống thịt nướng, vàng đã cháy thành bột… rồi Moses lấy nó để cho những người Israrel ăn…”

Gray nheo mắt. Giống như thứ bánh mì trắng của các vị Pharaoh.

“Cũng như vậy Moses đã nhờ ai làm thứ bánh mì trắng này, thứ Manna từ trên trời? Trong Kinh thánh, Ngài không nhờ một người thợ làm bánh nào làm thứ đó cả. Ông nhờ Bezalel.”

Gray vẫn chờ một lời giải thích. Anh cũng không nhớ lắm tên các nhân vật trong Kinh thánh.

“Bezalel là thợ kim hoàn của người Israel. Ông cũng là người đã xây dựng đền Covenant. Vậy tại sao lại nhờ một người thợ kim hoàn làm bánh mì trừ phi phải có một thứ gì đó khác hơn bánh mì?”

Gray chau mày. Liệu đó có phải là thực không?

“Cũng có những văn bản trong Kaballah của người Do thái nói trực tiếp về một chất bột màu trắng của vàng gọi đó là phép mầu, một phép thuật thì cũng có thể sử dụng vào mục đích tốt hay xấu.”

“Vậy điều này trở thành cái gì?“ Gray hỏi.

“Theo hầu hết các nguồn Do Thái, nó đã bị mất khi đền thờ Solomon bị Nebuchadnezzar phá hủy vào thế kỷ thứ VI trước Công nguyên.”

“Sau đó nó đi đâu?”

“Để đi tìm những vết tích của nó, chúng ta phải bỏ qua hai thế kỷ để tới một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử, người cũng dành nhiều thời gian trong cuộc đời ở Babylon nghiên cứu với các nhà khoa học và những người giác ngộ về thượng đế linh – Alexndre Đại đế.” Vigor dừng lại như thể nhấn mạnh.

Gray ngồi dậy thẳng hơn.

“Vị vua của Máx Xê Đoan?”

“Anexandre chinh phục Ai Cập năm 332 trước Công nguyên cùng một phần lãnh thổ rộng lớn của thế giới. Con người này luôn thích thú những điều huyền bí. Trong suốt các cuộc chinh phục, ông ta đã gửi các món quà khoa học của Aristot đi khắp các nơi và cũng thu thập những bản thảo liên quan đến những kiến thức và pháp thuật bí mật của Ai Cập. Người kế vị của ông ta, PtolemyI, đã tập hợp những thứ đó vào thư viện Alexandre, sau khi ông ta chết. Có một văn bản của Alexander kể một câu chuyện về một vật tên là Hòn đá Thiên đường, mô tả là nó có những phép mầu. Khi ở thể rắn nó có thể nặng hơn vàng, nhưng khi bị nghiền thành bột nó lại nhẹ hơn bông và có thể nổi trên mặt nước.”

“Năng lực bay bổng siêu trọng”. Kat ngắt lời.

Gray quay lại nhìn cô.

“Tính năng của chất liệu có khả năng siêu dẫn đó được nói khá kỹ. Chất siêu dẫn có thể nổi trong một từ trường mạnh. Ngay cả chất bột ở trạng thái -m cũng chứng minh khả năng bay bổng siêu trọng. Năm 1984, các thí nghiệm ở Arizona và Texas cho thấy việc làm nguội nhanh chất bột đơn nguyên có thể nâng trọng lượng đã được thử nghiệm của nó bốn lần. Nhưng khi bị nung nóng lại, trọng lượng của nó sẽ dưới zero.”

“Thế nào là dưới zero?”

Cái chảo nào nặng hơn nếu không có chất đó ở trên, như thế cái chảo cũng nhẹ bỗng đi.

“Như vậy là đã phát hiện lại Hòn đá Thiên đường.” Vigor tuyên bố.

Gray bắt đầu nhận ra sự thật. Một kiến thức bí mật đã truyền qua biết bao nhiêu thế hệ.

“Vậy con đường của chất bột này dẫn tiếp đến đâu?”

“Đến thời kỳ của Đức Chúa Jesu.” Vigor trả lời. “Trong kinh Tân ước, tiếp tục cũng có những gợi ý về loại vàng bí hiểm. Trong đoạn ở“Hãy cứu rỗi con người vượt qua vì người đã được ban cho Manna, hòn đá màu trắng loại tinh khiết nhất.” Cũng cuốn này đã mô tả những ngôi nhà ở Jerusalem mới được xây dựng bằng vàng tinh khiết đến nỗi trông như thủy tinh trong suốt.”

Gray nhớ lại Vigor đã lẩm bẩm những câu đó, khi thứ bột thủy tinh rắn lại tại nền nhà thờ Cologne.

“Hãy cho tôi biết,“ Vigor nói tiếp, ”Khi nào vàng trông giống như thủy tinh? Nó không có nghĩa gì nếu như ta xem xét khả năng vàng ở trạng thái -m… loại tinh khiết nhất trong số các loại vàng mô tả trong Kinh Thánh.”

Vigor chỉ lên bàn. ”Điều gì đưa chúng ta trở lại các vị Tiên tri trong Kinh Thánh. Đến một câu chuyện do Marco Polo kể từ Ba Tư. Đó là câu chuyện các vị Tiên tri nhận quà từ Chúa Hài đồng, có thể là chuyện ngụ ngôn, nhưng tôi cho rằng nó quan trọng. Đức Chúa cho ba vị Tiên tri một viên đá trắng vô tri vô giác, viên đá thần. Câu chuyện dẫn đến điều diễn giải là nó giống như một lời kêu gọi các vị Tiên tri hãy trung thành với đức tin của họ. Trong chuyện hồi hương của họ, hòn đá bùng cháy thành ngọn lửa không thể dập tắt được, một ngọn lửa vĩnh cửu, điều đó thường được mô tả như một thời đại khai sáng mới.”

Vigor có thể nhận thấy nét bối rối của Gray. Ông tiếp tục “Trong Mesopotamia khi câu chuyện xuất hiện, từ đá lửa mạnh được gọi là Shemanna. Hay gọi tắt là đá lửa… Manna?”

Vigor ngồi tựa ra sau khoanh tay lại.

Gray chậm rãi gật đầu.

“Như vậy chúng ta đã đi một vòng tròn. Trở lại với Manna và các vị Tiên tri trong Kinh thánh.”

“Trở lại với thời kỳ mà những di cốt này được tạo ra.” Vigor nói gật đầu về phía cái bàn.

“Và nó dừng ở đó?“ Gray hỏi.

Vigor lắc đầu. “Tôi cần phải tìm hiểu kỹ hơn. Nhưng tôi tin là nó tiếp tục quá ngưỡng đó. Tôi nghĩ điều mình vừa mô tả không phải là sự phát hiện trở lại chất bột này là đơn độc mà là một chuỗi liên tiếp nghiên cứu do một tổ chức bí mật tiến hành vẫn đang thuần khiết hóa quy trình ấy suốt bao đời nay. Tôi nghĩ cộng đồng khoa học chính thống chỉ mới bắt đầu phát hiện lại nó.”

Gray quay lại Kat, chuyên gia tìm hiểu khoa học trên mạng của họ.

“Ngài linh mục nói đúng đấy. Có những sự phát hiện không thể tin được về trạng thái -m của các chất siêu dẫn. Từ siêu giảm trọng lượng đến khả năng chuyển dịch liên thông. Nhưng những áp dụng thực tiễn hơn đang được người ta thăm dò hiện nay. Cis-Platium và Carbono-Platium đang được sử dụng để chữa bệnh ung thư tiền liệt tuyến và buồng trứng. Tôi hy vọng Monk với năng lực về pháp y sẽ đi vào chi tiết. Nhưng trong những năm gần đây còn có những phát hiện đáng quan tâm hơn.”

Gray ra hiệu cho cô tiếp tục.

“Vào tháng 8 năm 2004, Đại học Purdue đã báo cáo thành công trong việc sử dụng Rhodium để diệt Virus bằng ánh sáng từ bên trong cơ thể, ngay cả virus Tây Nile.”

“Ánh sáng?” Vigor hỏi, mắt như hẹp lại.

“Có một số bài viết về trạng thái -m của nguyên tử và ánh sáng. Từ việc làm cho DNA trở thành siêu dẫn… đến sóng ánh sáng, thông tin giữa các tế bào… đến khai thác năng lượng trường zero.”

Cuối cùng Rachel cũng mở to đôi mắt. Cặp mắt cô thật sáng và linh lợi.

“Các nhà khoa học nói nhiều về việc nâng cao khả năng nhận biết, siêu trọng lượng, chữa bệnh kỳ lạ, chống lão hóa… Nó giống như một danh mục phép mầu trong Kinh thánh. Nó làm tôi phân vân vì sao nhiều phép mầu đã xảy ra trước đây mà không phải là hiện nay. Vài thế kỷ vừa qua, chúng ta may mắn được nhìn hình ảnh của Đức Mẹ Mary đồng trinh trên một chiếc bánh ngô. Nhưng bây giờ, khoa học lại phát hiện lại những phép mầu lớn hơn. Và rất nhiều điều đã trở lại với chất bột trắng, một chất người xưa biết nhiều hơn hiện nay. Liệu những kiến thức bí mật đó có phải là nguồn gốc của hàng loạt phép mầu trong thời kỳ Kinh thánh?”

Gray suy nghĩ về điều này, bắt gặp cái nhìn của cô.

“Và nếu như các vị Tiên tri lại biết nhiều hơn chúng ta hiện nay,” anh nói. “Vậy những bằng hữu đã mất của các vị Tiên tri đã làm gì với kiến thức này và họ đã tinh chế nó đến mức độ nào?”

Rachel tiếp tục theo hướng đó.

“Có thể đấy là điều mà Long Đình theo đuổi! Có thể họ đã tìm ra được một dấu vết gì đó, một điều gì đó liên quan đến di cốt có thể đưa chúng tới một thứ sản phẩm được tinh chế cuối cùng. Một cái thung lũng cuối cùng đã đưọc bọn chúng tìm ra…”

“Và trên đường, bọn Long Đình đã học được thuật giết người như ở Cologne, một cách sử dụng chất bột ấy để giết người.” Anh nhớ lại lời ngài linh mục nói về thứ Kaballah của người Do Thái, một loại bột trắng có thể dùng cho việc tốt hay xấu.

Khuôn mặt của Rachel dịu đi.

“Nếu chúng có thể giành được một công năng lớn hơn, tiếp cận được với khoảng không bên trong của những vị thông thái cổ đại, chúng có thể thay đổi thế giới, tái tạo lại theo hình ảnh bệnh hoạn của bọn chúng.”

Gray nhìn chằm chặp vào những người khác. Kat dường như đang tính toán. Vigor chìm trong suy tư nhưng cũng khẽ gật đầu.

Cặp mắt của ngài hướng về họ.

Gray nhìn ông ta. “Ngài nghĩ thế nào?”

“Tôi nghĩ chúng ta phải ngăn chận chúng lại. Nhưng để làm điều đó, chúng ta phải tìm kiếm những dấu vết tới những nhà giả kim thời cổ đại. Điều này có nghĩa là theo vết chân của tụi Long Đình.”

***

6 giờ 5 phút

Seichan đeo vào mắt đôi kính mát gọng bạc nhãn hiệu Versace.

Khi ở Roma…

Cô bước xuống quảng trường từ chiếc xe buýt tốc hành. Cô mặc bộ áo mùa hè màu trắng, một đôi giày gót cao hiệu Harley dải giát bạc tương xướng với chiếc dây chuyền đeo trên cổ.

Chiếc xe buýt tiếp tục chạy. Đằng sau cô, xe cộ làm tắc nghẽn đường, tiếng còi xe theo dòng xe hướng về Via della Concilliazone. Nóng nực và mùi xăng làm cô thật khó chịu. Cô hướng về phía Tây, dọc theo con đường dẫn đến nhà thờ St. Peter, đang vươn cao trong ánh nắng chói chang. Đỉnh nhà thờ sáng lấp lánh như dát toàn bằng vàng, một kiệt tác của chính danh họa Michelangelo.

Chẳng chút gì ấn tượng, Seichan quay lưng về phía Vatican.

Đó không phải là điểm đến của cô.

Trước mặt cô là một kiến trúc tầm cỡ ngang với nhà thờ St Peter có hình như một cái trống khổng lồ, một lâu đài nhìn xuống sông Tiber, lâu đài Sant Angelo. Trên nóc là một bức tượng đồng khổng lồ của Archangel Michael tay giơ cao một thanh kiếm. Bức tượng chói lòa trong nắng. Cấu trúc bằng đá ở phía dưới giống như một dòng nước mắt màu đen.

Thật hài hòa, Seichan nghĩ.

Nơi này đã được xây dựng từ thế kỷ thứ II như lăng của Hoàng đế Hadrian, nhưng sau đó một thời gian ngắn đã bị Giáo hội chiếm. Tuy nhiên, lâu đài vẫn có một lịch sử phát triển thật huy hoàng. Dưới sự quản lý của Vatican, nó được sử dụng như một pháo đài, một nhà tù, một thư viện thậm chí một cái nhà thổ. Nó cũng là địa điểm thường dùng làm nơi hẹn hò bí mật của vài vị Giáo hoàng đầy tai tiếng, những người đã giam giữ ái thiếp và người tình của họ trong các bức tường lâu đài.

Seichan cảm thấy thật buồn cười khi cô chọn chỗ này cho cuộc gặp. Cô đi ngang qua khu vườn rồi đi ngang qua những bức tường dày tới hai mươi feet để vào tầng một. Bên trong tối om và mát mẻ. Vào giờ này trong ngày, các du khách đã ra về. Cô bước lên những bậc thang rộng rãi kiểu La Mã. Ra ngoài cầu thang chính của lâu đài trải rộng ra thành vô vàn các phòng và sảnh lớn. Nhiều du khách đã bị lạc.

Nhưng Seichan chỉ đi lên tầng giữa tới một tiệm ăn phía ngoài nhìn xuống sông Tiber. Cô sẽ gặp đối tác ở đây. Sau trận đánh bom vừa qua, đã thật sự mạo hiểm nếu tiến hành các cuộc gặp ngay trong Vatican. Vì vậy, đối tác của cô sẽ đi xuống Pasetto del Borgo, một con đường được ngụy trang dưới một cái máng nước cổ nối liền lâu đài Apostolic đến lâu đài này. Lối đi bí mật này đã được xây dựng từ thế kỷ XIII như một đường thoát hiểm khẩn cấp cho Giáo hoàng… Nhưng qua bao thế kỷ thường nó chỉ được sử dụng vào các vụ hẹn hò tình ái.

Nhưng hôm nay, không hề có chuyện lãng mạn trong cuộc gặp này.

Seichan bước khỏi cái thang rồi đi theo hàng chỉ dẫn đến quán cà phê ngoài sảnh. Cô kiểm tra lại đồng hồ. Cô đến sớm mười phút. Tốt thôi. Cô còn một cú điện thoại phải gọi.

Cô rút điện thoại di động ra, ấn vào một nút hình tượng rồi gõ vào phím bấm nhanh. Một con số riêng không có đăng ký. Cô tựa một bên hông, máy áp vào tai chờ đường liên lạc quốc tế được nối.

Đường dây đã nói và một giọng rất chuyên nghiệp trả lời.

“Chào buổi chiều, bạn đã nối với Trung tâm Sigma.”

Bình luận