Làm thế nào Để Nuôi Dạy Những Đứa Con Trầm Tính Của Bạn, trong một Thế Giới Không Thể Nghe Thấy Chúng
Với bất cứ thứ gì còn non trẻ và mỏng manh, phần quan trọng nhất của công việc là ở sự khởi đầu của nó; bởi đó là thời điểm khi tính cách được thành hình, và ấn tượng mà ta mong đợi sẽ được tiếp nhận tuyệt đối hơn cả.
—PLATO, Cộng Hòa (The Republic)
Mark Twain đã từng kể câu chuyện về một người đi khắp cả thế giới để tìm cho được vị tướng vĩ đại nhất từng sống trên đời. Khi người đó nhận được tin rằng người ông muốn tìm đã chết và tới thiên đường rồi, ông du hành tới tận Cổng Thiên đường để tìm vị tướng kia. Thánh Peter chỉ cho ông tới một người đàn ông dáng vẻ hết sức tầm thường.
“Đây đâu phải là vị tướng vĩ đại nhất trong tất cả các vị tướng!” người nọ phản đối. “Tôi biết người này khi ông ta còn sống ở trần thế, và ông ta chỉ là một người thợ làm giày bình thường thôi!”.
“Ta biết điều đó”, thánh Peter nói, “nhưng nếu khi còn sống ông ta đã làm một vị tướng, thì ông ta sẽ là người vĩ đại nhất trong số họ”.
Tất cả chúng ta nên nhận biết những người thợ làm giày mà đúng ra đã có thể là những vị tướng vĩ đại. Điều đó có nghĩa là tập trung vào những đứa trẻ hướng nội, những người mà tài năng của họ thường bị che giấu, bất kể là ở nhà, ở trường học, hay trên sân chơi.
Hãy cân nhắc đến câu chuyện cảnh báo này, được kể cho tôi bởi tiến sĩ Jerry Miller, một nhà tâm lý học trẻ em (child psychologist) tại Trung Tâm Trẻ Em và Gia Đình (Center for the Child and the Family) tại Đại học Michigan. Tiến sĩ/Bác sĩ Miller có một bệnh nhân tên Ethan, một cậu bé được bố mẹ mang tới để nhờ bác sĩ chữa trị trong bốn dịp khác nhau. Mỗi lần, hai vị phụ huynh lại nói lên cùng một nỗi sợ rằng có gì đó không ổn với con của họ. Và mỗi lần, tiến sĩ Miller lại phải trấn an họ rằng Ethan là một đứa trẻ hoàn toàn bình thường.
Lý do cho nỗi lo sợ này của họ bắt đầu cũng rất đơn giản. Ethan khi đó đã 7 tuổi, và đứa em trai 4 tuổi của cậu bé đã đánh thắng cậu bé vài lần rồi. Ethan không hề đánh lại. Cha mẹ cậu—cả hai đều thuộc dạng người quảng giao, lãnh-đạo với những chức vụ cấp cao tại các tập đoàn lớn và một niềm đam mê lớn cho các môn thể thao thi đấu golf và tennis—đều thấy ổn với sự hung hăng của đứa con út, nhưng lo sợ về sự thụ động của Ethan có thể “sẽ trở thành câu chuyện cuộc đời nó” sau này.
Khi Ethan lớn dần lên, bố mẹ cậu vẫn nỗ lực vô vọng trong việc gửi gắm tinh thần chiến đấu vào trong cậu. Họ gửi cậu đến sân đấu bóng chày và sân vận động bóng đá, nhưng Ethan chỉ muốn về nhà và đọc sách. Cậu thậm chí còn không hề cạnh tranh ở trường học. Mặc dù rất thông minh, cậu vẫn là một học sinh chỉ giành chủ yếu điểm B. Cậu đã có thể làm tốt hơn, nhưng chọn việc tập trung vào các thú vui của mình, đặc biệt là việc lắp ghép mô hình xe hơi. Cậu có một vài người bạn thân thiết, nhưng chưa bao giờ nhiệt tình tham gia vào những hoạt động tương tác tập thể trong lớp. Không thể nào lý giải nổi hành vi khó hiểu của con, bố mẹ của Ethan lo sợ rằng cậu có thể đã bị tự kỷ.
Nhưng vấn đề của Ethan, tiến sĩ Miller nói, không phải là hội tự kỷ, mà là trường hợp điển hình của một ca lệch tông giữa bố mẹ và con cái. Ethan cao, gầy gò, và không hề có vóc dáng thể thao; cậu trông hệt như một tên mọt sách điển hình. Bố mẹ cậu đều rất mạnh mẽ, rất quảng giao, những người “luôn luôn cười, luôn luôn nói chuyện với người khác trong lúc kéo Ethan đi sau họ”.
Hãy so sánh những lo lắng của họ về Ethan với sự đánh giá từ tiến sĩ Miller: “Cậu bé ấy là một đứa trẻ kiểu Harry Potter điển hình—luôn luôn đọc”, tiến sĩ Miller nói một cách phấn khởi. “Cậu bé thích thú với bất kể dạng chơi nào cần đến nhiều trí tưởng tượng. Cậu ấy thích chế tạo, lắp ghép mọi thứ. Cậu bé đó có rất nhiều thứ cậu muốn nói cho bạn biết về. Cậu nhóc chấp nhận cha mẹ cậu nhiều hơn mức họ chịu chấp nhận cậu. Cậu không hề đánh giá họ là “có bệnh lý về tính cách”, chỉ là khác biệt so với cậu mà thôi. Một đứa trẻ như thế trong một gia đình khác sẽ là một đứa con hoàn toàn kiểu mẫu”.
Nhưng cha mẹ của Ethan thì chưa bao giờ nhìn được cậu bé dưới góc nhìn đó. Điều cuối cùng tiến sĩ Miller nghe được từ họ là bố mẹ cậu cuối cùng đã tham vấn một nhà tâm lý học khác, người đồng ý sẽ “chữa trị” cho con trai họ. Và bây giờ đến lượt tiến sĩ Miller lại là người lo lắng về Ethan.
“Đây rõ ràng là một ca bệnh ‘iatrogenic’”, ông nói. “Đó là khi không phải vì bệnh, mà chính hành động điều trị mới là thứ khiến bạn phát bệnh. Ví dụ điển hình là khi bạn dùng liệu pháp điều trị để cố biến một đứa trẻ đồng tính trở thành “thẳng”. Tôi rất lo cho cậu bé đó. Bố mẹ cậu là những người quan tâm và thực sự có ý tốt. Họ cảm thấy rằng nếu không có điều trị, họ sẽ không thể chuẩn bị đủ tốt cho con mình sau này khi nó vào đời. Rằng thằng bé cần nhiều lửa hơn nữa trong nó. Có lẽ đoạn cuối đó cũng có một phần đúng; tôi không biết nữa. Nhưng dù đúng hay không, tôi thực tâm tin rằng thay đổi được cậu bé là chuyện không thể. Tôi lo rằng họ sẽ đang từ việc có một đứa trẻ hoàn toàn khỏe mạnh lại gây ra thương tổn nặng nề cho cảm giác về bản thân (sense of self) của cậu bé mà thôi”.
Tất nhiên, không nhất thiết phải có sự lệch tông lớn đến vậy mỗi khi một cặp bố mẹ hướng ngoại có một đứa con hướng nội. Với một chút để tâm và thấu hiểu, bất cứ bậc cha mẹ nào cũng có thể hợp tông với con cái mình dù chúng có bất cứ dạng tính cách nào, tiến sĩ Miller nói. Nhưng cha mẹ cần phải nín nhịn sở thích riêng của mình một chút, để có thể nhìn thấy được thế giới từ góc nhìn của đứa con trầm tính của mình.
Hãy thử xem xét tình huống của Joyce và cô con gái bảy tuổi của cô, Isabel. Isabel là một cô bé có vóc dáng nhỏ nhắn, mới học lớp hai, thích đi xăng-đan lấp lánh và đeo những vòng tay nhiều màu bằng cao su tới trường. Cô bé có vài người bạn rất thân mà bé rất tin tưởng, và cô bé hòa đồng được với hầu hết những đứa trẻ khác trong lớp. Isabel là dạng người sẽ vòng tay ôm lấy một người bạn vừa trải qua một ngày không hay; cô bé thậm chí còn đem tặng quà sinh nhật của mình cho quỹ từ thiện nữa. Đó là lý do tại sao mẹ cô bé, Joyce, một người phụ nữ cuốn hút, tốt bụng với một khiếu hài hước xuất sắc và một thái độ “cái gì cũng chơi hết”, lại lúng túng đến vậy trước rắc rối của Isabel tại trường học.
Ở lớp một, Isabel thường trở về nhà mà đắm chìm trong lo lắng về một kẻ bắt nạt bạn khác trong lớp, người sẽ hét những câu bình phẩm rất ác độc vào bất cứ ai đủ nhạy cảm để thấy bất bình về hành động của con bé. Kể cả khi đứa bé thích bắt nạt kia hay thích ăn hiếp những bạn khác, Isabel vẫn dành hàng giờ phân tích ý nghĩa từng từ trong lời nói của kẻ bắt nạt, xem ý định thực sự của cô bé đó là gì, kể cả việc liệu kẻ bắt nạt đó có phải chịu đựng gì ở nhà không để đến mức khiến nó hành xử kinh khủng đến vậy ở trường học.
Khi đã lên đến lớp hai, Isabel bắt đầu yêu cầu mẹ mình đừng sắp xếp lịch chơi của cô bé với các bạn khác mà không tham khảo với cô bé trước. Thông thường cô bé sẽ thích ở nhà hơn. Khi Joyce đến đón Isabel ở trường, cô thường thấy những bé gái khác tụ tập lại thành từng nhóm và Isabel thì đứng tách riêng một chỗ trên sân chơi, ném bóng vào rổ một mình. “Con bé chỉ đơn giản là không chịu tham gia với những đứa trẻ khác. Tôi đã phải dừng việc tới đón con một thời gian”, Joyce nhớ lại. “Nó là một cảnh tượng quá buồn khi phải chứng kiến”. Joyce không thể hiểu được tại sao cô con gái dễ thương, tốt bụng của mình lại muốn dành nhiều thời gian đến vậy để ở một mình. Cô lo lắng là có gì đó không ổn với Isabel. Bất chấp về việc cô vẫn luôn tin rằng con gái mình có một bản tính cảm thông tự nhiên, nhỡ ra có khi nào Isabel lại không có khả năng liên hệ với người khác thì sao?
Chỉ đến khi tôi đưa ra gợi ý rằng có thể cô bé của Joyce là một người hướng nội, và giải thích từ đó có nghĩa là gì, Joyce mới bắt đầu suy nghĩ khác đi về những gì Isabel trải nghiệm ở trường học. Và từ góc nhìn của Isabel, mọi thứ thực ra chẳng hề đáng lo ngại một chút nào cả. “Cháu cần một khoảng nghỉ khỏi trường học”, sau này cô bé nói với tôi. “Ở trường học rất khó khăn bởi vì có rất nhiều người trong cùng một phòng, vậy nên nó khiến mình cảm thấy rất là mệt. Cháu sẽ phát hoảng nếu mẹ cháu lên kế hoạch đi chơi với các bạn mà không nói với cháu trước, bởi vì cháu không muốn làm tổn thương các bạn ấy. Nhưng cháu thấy thà ở nhà còn thích hơn. Ở nhà bạn, cháu sẽ phải làm những thứ người khác muốn cháu làm. Cháu vẫn thích đi đây đi đó chơi với mẹ cháu sau giờ học, vì cháu có thể học được rất nhiều từ mẹ. Mẹ đã sống lâu hơn cháu nhiều. Chúng cháu (mẹ và cô bé) có những cuộc nói chuyện sâu sắc. Cháu thích có những cuộc nói chuyện sâu sắc, bởi vì nó khiến người ta cảm thấy hạnh phúc hơn”.34
Isabel đang nói với chúng ta, bằng tất cả sự thông thái của tuổi-lên-lớp-hai của cô bé, rằng những người hướng nội có liên hệ với những người khác. Tất nhiên là họ có chứ. Họ chỉ là làm điều đó theo cách riêng của họ mà thôi.
34 Chú thích của tác giả: Một vài người khi đọc cuốn sách này trước khi nó được xuất bản đã bình luận rằng đoạn trích trên từ Isabel không thể nào là thật được—“không một đứa bé mới học lớp hai nào lại nói kiểu này cả!”. Nhưng đó quả thực là những gì cô bé đã nói với tôi.
Giờ khi Joyce đã hiểu được nhu cầu của Isabel, mẹ và con gái đã có thể cùng vui vẻ suy nghĩ cùng nhau, để đưa ra các chiến lược phù hợp để giúp Isabel có thể tận hưởng những ngày đi học của mình tốt hơn. “Trước kia, tôi có lẽ sẽ bắt Isabel phải ra ngoài và gặp gỡ mọi người vào tất cả mọi lúc nào rảnh rỗi, nhồi nhét vào tất cả những giờ trống ngoài giờ học của con bé với đủ các thể loại hoạt động”, Joyce nói. “Giờ tôi đã hiểu được rằng việc đi học với con bé đã rất căng thẳng rồi, vậy nên chúng tôi cùng suy tính với nhau xem việc giao du đến mức độ bao nhiêu là hợp lý, và khi nào thì nên giao du”. Joyce không phiền lòng chuyện Isabel muốn ở trong phòng mình một mình sau giờ học, hay rời khỏi một bữa tiệc sinh nhật sớm hơn một chút so với những đứa trẻ khác. Cô đồng thời cũng hiểu được rằng vì bản thân Isabel không thấy điều này có gì là vấn đề cả, nên cũng chẳng có lý do gì mà cô lại phải coi nó là vậy.
Joyce đồng thời cũng đã có được những kiến thức sâu hơn về việc làm thế nào để giúp cô con gái bé bỏng của mình quản lý chuyện giao thiệp trên sân chơi tốt hơn. Một lần, Isabel rất lo lắng về chuyện nên chia sẻ thời gian của cô bé giữa các bạn thế nào khi một số người bạn của bé không ưa lẫn nhau. “Bản năng đầu tiên của tôi”, Joyce nói, “sẽ là nói ‘Ôi, đừng có lo! Cứ chơi hết với tất cả đi!’. Nhưng giờ tôi đã hiểu rằng Isabel là một dạng người khác. Con bé gặp khó khăn trong việc vạch ra chiến lược để có thể giao tiếp với tất cả chừng đấy người cùng lúc khi ở trên sân chơi. Vậy nên chúng tôi cùng bàn luận về việc con bé sẽ chơi cùng với ai và vào lúc nào, và chúng tôi tập dượt trước những gì con bé có thể nói với các bạn để giúp các bạn làm lành với nhau”.
Một lần khác, khi Isabel đã lớn hơn một chút, cô bé cảm thấy rất buồn khi các bạn của cô bé ngồi ở hai bàn khác nhau trong phòng ăn trưa. Ở một bàn là những người bạn trầm tính hơn của cô bé, bàn còn lại là những kẻ hướng ngoại của lớp học. Isabel miêu tả nhóm thứ hai là “ồn ào, luôn luôn nói chuyện—Ôi!”. Nhưng cô bé buồn bởi người bạn thân nhất của cô bé, Amanda, rất thích ngồi ở “bàn của bên điên”, kể cả khi cô bé này cũng là bạn với các bé gái khác ở “bàn của bên thoải mái và bình tĩnh hơn” nữa. Isabel cảm thấy rất phân vân. Cô bé nên ngồi đâu đây?
Ý nghĩ đầu tiên của Joyce là cái “bàn của bên điên” nghe có vẻ vui hơn nhiều. Nhưng cô hỏi Isabel là cô bé thích bên nào hơn. Isabe suy nghĩ trong một phút rồi nói, “Có lẽ thỉnh thoảng con sẽ qua ngồi với Amanda, nhưng con thực sự thích được yên tĩnh hơn một chút, và được tạm nghỉ vào giờ trưa khỏi tất cả mọi thứ”.
“Tại sao con lại muốn làm thế chứ? ” Joyce nghĩ. Nhưng cô đã kịp kìm mình lại trước khi nói lớn câu đấy ra. “Mẹ nghĩ thế cũng được”, cô nói với Isabel. “Nhưng bạn Amanda cũng vẫn quý con mà. Bạn ấy chỉ rất thích bàn bên kia mà thôi. Nhưng điều đó không có nghĩa là bạn ấy không thích con. Và con cũng nên có cho mình những khoảng thời gian bình yên tĩnh lặng mà con cần nữa”.
Hiểu rõ sự hướng nội, Joyce nói, đã thay đổi hoàn toàn cách cô làm mẹ—và cô không thể tin được là mình đã mất lâu đến thế để nhận ra điều đó. “Khi tôi thấy Isabel sống thật tuyệt vời khi được là chính mình, tôi tôn trọng nó, kể cả khi cả toàn bộ thế giới có nói với con bé rằng nó nên ngồi ở bàn bên kia. Trên thực tế, nhìn cái bàn đó từ con mắt của con giúp tôi suy nghĩ lại về việc những người khác có thể nhìn nhận tôi như thế nào, và việc tôi nên nhìn nhận rõ và quản lý được chế độ mặc định hướng ngoại của mình, để không lỡ mất cơ hội ở bên những người như cô con gái tuyệt vời của tôi”.
Joyce cũng đồng thời đã đi đến chỗ trân trọng cách sống nhạy cảm của Isabel. “Isabel có một tâm hồn rất chín chắn”, cô nói. “Bạn sẽ quên mất việc con bé mới chỉ là một đứa trẻ. Khi tôi nói chuyện với con, tôi không cảm thấy mình bị thu hút vào việc dùng cái kiểu nói đặc biệt người ta vẫn dùng để nói với trẻ con, và tôi cũng không thay đổi cách dùng từ ngữ của mình. Tôi nói chuyện với con bé như cách tôi sẽ nói chuyện với bất kỳ người lớn nào. Con bé rất nhạy cảm, rất giàu lòng quan tâm tới người khác. Nó lo lắng cho sự hạnh phúc của những người khác. Con bé cũng có thể dễ dàng bị áp đảo hoàn toàn bởi một thứ gì đó, nhưng tất cả những đặc điểm này đi cùng với nhau, và tôi yêu tất cả chúng ở con gái mình”.
Joyce là một người mẹ tận tâm như mọi người mẹ khác mà tôi đã từng gặp, nhưng cô đã gặp phải đôi chút khó khăn trong việc nuôi dạy con gái mình, bởi sự khác biệt trong tính cách giữa họ. Liệu cô đã có thể tận hưởng một sự hòa hợp tự nhiên hơn giữa cha mẹ-con cái nếu bản thân cô cũng là một người hướng nội không? Không nhất thiết. Các bậc cha mẹ hướng nội cũng có thể phải đối mặt với những khó khăn của riêng họ. Đôi lúc những ký ức đau khổ về thủa nhỏ có thể là thứ rào cản lớn nhất.
Emily Miller, một nhân viên xã hội (social worker) tại Ann Arbor, Michigan, có kể với tôi về một cô bé cô đã từng chữa trị, Ava, người có tính rụt rè cao tới mức nó khiến cô bé không thể kết bạn hay tập trung trong lớp được. Gần đây, cô bé đã khóc khi được mời tham gia một nhóm cùng hát trước lớp, và mẹ cô bé, Sarah, đã quyết định tìm đến sự trợ giúp của Miller. Khi Miller yêu cầu Sarah, một nhà báo kinh tế thành đạt, cùng tham gia như một người cộng tác trong việc chữa trị của Ava, Sarah đã bật khóc. Bản thân cô cũng đã từng là một đứa trẻ rụt rè nhút nhát, và cô cảm thấy tội lỗi khi tin rằng mình đã truyền cho Ava gánh nặng kinh khủng này của mình.
“Giờ tôi đã có thể che giấu nó tốt hơn, nhưng tôi cũng không khác gì con gái mình vậy”, cô giải thích. “Tôi có thể tiếp cận bất cứ ai, nhưng chỉ khi tôi đang trốn đằng sau cuốn sổ ghi chép của nhà báo mà thôi”.
Phản ứng của Sarah không phải là quá lạ thường gì với những bậc cha mẹ giả-hướng-ngoại của những đứa trẻ rụt rè, nhút nhát, Miller nói. Sarah không chỉ đang sống lại tuổi ấu thơ của chính mình, mà cô còn đang suy đoán rằng Ava hẳn phải đang trải qua những thứ tương đương như trong những ký ức tệ nhất của cô vậy. Nhưng Sarah cần phải hiểu rằng cô và Ava không phải là một, kể cả khi họ có vẻ cùng thừa hưởng một tính khí giống nhau. Thứ nhất, Ava còn chịu ảnh hưởng từ cả bố cô bé nữa, cũng như đủ thứ nhân tố từ môi trường bên ngoài khác, nên tính khí của cô bé chắc chắn sẽ có một cách thể hiện khác với Sarah. Đau khổ trong quá khứ của Sarah không nhất thiết cũng sẽ phải lặp lại ở con gái cô, và thực tế sẽ là rất có hại cho Ava khi cứ mặc định suy đoán như vậy. Với sự định hướng đúng đắn, Ava có thể đạt đến điểm khi sự nhút nhát rụt rè của cô bé chẳng còn là gì hơn là một sự phiền phức nhỏ nhặt và thỉnh thoảng mới xuất hiện.
Nhưng kể cả các bậc cha mẹ như Emily, những người vẫn còn rất nhiều việc phải làm để nâng cao sự tự tin của chính mình, cũng có thể giúp đỡ con cái mình cực kỳ lớn, theo lời Miller. Lời khuyên từ những bậc cha mẹ biết trân trọng cảm giác của con cái mình là vô cùng đáng tin cậy. Nếu con trai bạn cảm thấy lo lắng về ngày đi học đầu tiên của mình, sẽ rất có ích khi cho cậu bé biết rằng bạn cũng đã từng cảm thấy tương tự khi bạn bắt đầu đi học, và thậm chí bây giờ thỉnh thoảng vẫn cảm thấy vậy, ở chỗ làm; nhưng hứa với con rằng mọi việc sẽ dần trở nên dễ dàng hơn theo thời gian. Kể cả khi cậu bé không tin bạn, bạn cũng sẽ đưa ra tín hiệu rằng bạn hiểu và chấp nhận cậu bé.
Bạn đồng thời cũng có thể dùng sự đồng cảm của mình để giúp bản thân quyết định khi nào thì bạn nên khuyến khích con đối mặt với nỗi sợ của mình, và khi nào thì việc này sẽ là vượt quá sức chịu đựng của con. Ví dụ, Sarah có thể biết rằng việc hát trước lớp sẽ là một bước đi quá đột ngột và quá lớn để Ava có thể làm ngay lập tức. Nhưng cô cũng có thể đồng thời cảm thấy rằng hát ở nơi riêng tư với với nhóm nhỏ và gần gũi và hiểu con gái mình, hay với những người bạn đáng tin cậy của cô bé, sẽ là một bước tiến đầu tiên có thể xử lý được, kể cả khi Ava có thể phản đối lúc đầu. Cô có thể, nói một cách khác, ngầm cảm nhận được khi nào thì cần thúc ép Ava, và đến mức độ nào thì là hợp lý.
Nhà tâm lý học Elaine Aron, người mà các công trình về tính nhạy cảm tôi đã miêu tả ở chương 6, có đề xuất một số câu trả lời mới cho những câu hỏi này khi bà viết về Jim, một trong những người cha tuyệt vời nhất mà bà biết. Cô con gái đầu tiên, Betsy, thì giống hệt anh, nhưng người con cái thứ hai, Lily, thì nhạy cảm hơn—một nhà quan sát sắc sảo, nhưng cũng đầy lo lắng về thế giới của cô bé. Jim là một người bạn của Aron, vậy nên anh biết tất cả về tính hướng nội và sự nhạy cảm. Anh trân trọng cách sống của Lily, nhưng cùng lúc đó cũng không muốn cô bé lớn lên thành một người luôn rụt rè, nhút nhát.
Vậy nên, Aron viết, anh “quyết tâm giới thiệu cô bé tới với mọi điều vui thú mới của cuộc sống, từ những làn sóng biển, leo cây, và những món ăn mới trong các dịp đại gia đình đoàn tụ, bóng đá, và khuyến khích cô bé đa dạng hóa tủ quần áo của cô bé thay vì chỉ mặc một loại trang phục thoải mái duy nhất. Ở hầu hết mọi trường hợp, Lily lúc đầu nghĩ những trải nghiệm mới lạ này không phải là một ý hay, và Jim luôn luôn tôn trọng ý kiến của cô bé. Anh không bao giờ bắt ép con phải làm gì, mặc dù anh có thể rất có sức thuyết phục. Anh chỉ đơn giản là chia sẻ góc nhìn của anh về một tình huống với cô bé—cả sự an toàn lẫn những điều vui thú được bao gồm trong đó, hay sự tương đồng của nó với những thứ mà cô bé đã thích từ trước đó. Anh sẽ đợi đến khi thấy tia sáng lấp lánh trong mắt con gái mình nói rằng cô bé muốn tham gia cùng những người khác, kể cả khi cô bé chưa thể làm điều đó.
“Jim luôn luôn đánh giá những tình huống này rất cẩn trọng, để đảm bảo rằng cô bé sẽ không tuyệt đối chỉ thấy sợ hãi, mà còn có thể trải nghiệm cảm giác vui thích và thành công nữa. Đôi lúc anh giữ con gái lại cho đến khi cô bé chắc chắn đã rất sẵn sàng. Trên tất cả, anh luôn giữ sự mâu thuẫn ở bên trong, không để cho nó trở thành mâu thuẫn giữa anh và con gái… Và nếu cô bé hay bất kỳ ai khác có bình luận về sự trầm tính hay sự lưỡng lự, chần chừ của cô, câu trả lời ngay lập tức của Jim sẽ là “Đó chỉ đơn giản là phong cách của con thôi. Những người khác có thể có phong cách khác của họ. Nhưng đây là phong cách của con. Con thích làm mọi thứ từ từ và chắc chắn”. Jim đồng thời cũng biết rằng một phần trong phong cách của cô bé là làm bạn với bất cứ ai bị những người khác trêu chọc, làm những công việc của mình một cách rất cẩn thận, để ý tới mọi thứ đang diễn ra trong gia đình, và làm một nhà chiến thuật bóng đá giỏi nhất trong toàn bộ giải đấu của cô bé.
Một trong những điều tuyệt vời nhất bạn có thể làm cho một đứa trẻ hướng nội là giúp đỡ nó trong việc phản ứng với những điều mới lạ. Hãy nhớ rằng người hướng nội phản ứng không chỉ với những người mới gặp, mà còn với cả những nơi chốn mới và các sự kiện mới. Vậy nên đừng nhầm lẫn giữa sự thận trọng của con bạn trong những tình huống mới với việc nó không có khả năng liên hệ với những người khác. Nó đang co mình lại khỏi những điều mới hay sự kích thích quá độ, chứ không phải rút lui khỏi việc quan hệ với mọi người. Như chúng ta đã thấy từ chương trước, mức độ hướng nội-hướng ngoại không liên quan tới việc một người có dễ chịu hay không trong mắt người khác, hay việc người đó có thích sự gần gũi, thân mật với người khác không. Người hướng nội cũng có xu hướng cao hệt như người bên cạnh họ trong việc muốn tìm kiếm sự bầu bạn từ những người khác, mặc dù sẽ thường ở mức độ nhỏ hơn.
Chìa khóa ở đây là ở việc giúp con bạn tiếp xúc dần dần với những tình huống mới và những người mới—hãy để tâm tôn trọng các giới hạn của con, kể cả chúng có vẻ hơi cẩn trọng đến quá đáng. Điều này sẽ khiến con tự tin hơn là hoặc bảo vệ nó một cách thái quá, hoặc thúc ép nó quá nhiều. Hãy cho con biết rằng cảm giác của con là bình thường và tự nhiên, nhưng đồng thời cũng giúp con hiểu rằng thực sự chẳng có gì đáng để sợ cả: “Bố/Mẹ biết có thể sẽ hơi kỳ khi phải chơi chung với ai đó con chưa từng gặp bao giờ, nhưng bố/mẹ cá là cậu bạn ấy sẽ rất thích được chơi đua xe cùng với con nếu con rủ bạn ấy”. Hãy đi từ từ ở tốc độ của con bạn, đừng thúc giục nó. Nếu nó còn quá nhỏ, hãy giúp giới thiệu bước đầu với cậu bé kia nếu bạn thấy cần thiết. Và hãy ở lại gần bên con—hoặc, trong trường hợp con còn thực sự rất nhỏ, hãy giúp đỡ con một cách nhẹ nhàng, khích lệ từ phía sau—cho đến chừng nào con bạn còn có thể thu được lợi ích từ việc có bạn ở gần bên. Khi cậu bé của bạn quyết định sẽ mạo hiểm bước ra ngoài vùng an toàn của mình khi giao tiếp, hãy cho con biết bạn ngưỡng mộ nỗ lực của con: “Mẹ thấy con đã chủ động tới làm quen với các bạn mới ngày hôm qua. Mẹ biết điều đó có thể rất khó khăn, và mẹ tự hào về con”.
Mọi thứ cũng tương tự như thế với các tình huống mới. Hãy tưởng tượng một đứa trẻ sợ biển hơn nhiều những bạn cùng lứa khác của nó. Những bậc cha mẹ giàu suy nghĩ sẽ nhận ra rằng nỗi sợ này là tự nhiên, và thậm chí còn là thông thái nữa; biển cả thực sự là chứa đầy nguy hiểm. Nhưng họ sẽ không cho phép cô bé dành cả kỳ nghỉ hè chỉ chơi trên những bãi cát, và họ cũng sẽ không đột ngột quẳng con xuống nước và kỳ vọng rằng nó sẽ bơi. Thay vào đó, họ ra tín hiệu cho thấy rằng họ hiểu nỗi bất an của con, trong khi vẫn khích lệ con tiến từng bước nhỏ một. Có thể họ sẽ chơi trên bờ cát trong một vài ngày với tiếng sóng biển vỗ bờ còn ở cách xa một khoảng cách an toàn. Rồi một ngày họ sẽ tiếp cận bờ nước, có lẽ với đứa trẻ ngồi trên vai một trong hai cha mẹ. Họ đợi cho đến khi thời tiết êm ả, hoặc khi sóng thấp, để khuyến khích con nhúng xuống nước chỉ một ngón chân, rồi cả bàn chân, rồi ngập tới đầu gối. Họ không vội vàng, không thúc giục; mỗi bước thật nhỏ đó của họ cũng là một bước nhảy khổng lồ trong thế giới của đứa trẻ rồi. Rồi đến cuối cùng thì cô bé con đó cũng đã học bơi được như một con cá, thì cô bé ấy sẽ đạt đến một bước chuyển quan trọng không chỉ trong mối quan hệ giữa cô bé với nước, mà cả với nỗi sợ của chính cô bé nữa.
Dần dần con bạn sẽ thấy rằng cũng đáng để đấm thủng bức tường của sự thiếu thoải mái ban đầu để tới được tới sự vui thích ở phía bên kia. Cô bé sẽ học được cách tự đấm thủng bức tường đó bằng chính sức mình. Như tiến sĩ Rubin, giám đốc Trung Tâm về Trẻ em, Các mối Quan Hệ và Văn hóa (the Center for Children, Relationships and Culture) tại Đại học Maryland, viết: “Nếu bạn luôn luôn giữ vững việc giúp đỡ con bạn học cách điều khiển cảm xúc và hành vi của mình bằng một cách nhẹ nhàng và khích lệ, một điều khá là kỳ diệu sẽ bắt đầu xuất hiện: đến một lúc, bạn sẽ có thể thấy con gái mình bắt đầu tự khẽ trấn an bản thân: “Đám trẻ kia có vẻ đang chơi rất vui. Mình cũng có thể tới đó”. Cậu bé hoặc cô bé đó đang học cách tự điều khiển nỗi sợ và sự lo lắng của chính mình”.
Nếu bạn muốn con bạn học được những kỹ năng này, đừng bao giờ để cô bé nghe thấy bạn gọi cô bé bằng những từ ngữ “nhút nhát/rụt rè”: cô bé sẽ tin vào tên gọi đó và bắt đầu coi sự luôn căng thẳng, lo lắng của mình là một tính cách cố định hơn là một cảm xúc tự cô bé có thể điều khiển. Bản thân cô bé cũng biết rất rõ rằng “nhút nhát, rụt rè” (shy) là một từ ngữ tiêu cực trong xã hội của chúng ta. Trên tất cả, tuyệt đối đừng bao giờ làm con phải thấy hổ thẹn với sự nhút nhát, rụt rè của mình.
Nếu bạn có thể, sẽ là tốt nhất nếu dạy cho con những kỹ năng tự-thuyết-phục-bản-thân từ khi con còn rất nhỏ, khi những dị nghị về việc ngần ngại trong giao tiếp vẫn còn chưa nhiều. Hãy làm tấm gương cho con qua việc chào những người mới quen một cách bình tĩnh và thân thiện, và qua việc tụ tập với những người bạn của chính bạn. Tương tự, hãy mời một vài bạn cùng lớp của con tới nhà bạn chơi. Nhẹ nhàng cho con biết rằng khi con ở cùng những người khác, con không được thì thầm hay túm lấy ống quần bạn mỗi khi con cần giao tiếp với bạn về một nhu cầu gì đó; con cần phải nói lớn. Hãy đảm bảo rằng những đối tác giao tiếp của con bạn đều dễ chịu thân thiện, bằng cách chọn lấy những đứa trẻ không quá hung hăng, và những nhóm chơi sẽ tạo cảm giác thân thiện cho con. Cho con chơi với những đứa bé nhỏ tuổi hơn nếu điều này giúp cậu bé tự tin hơn; hoặc với những đứa trẻ lớn tuổi hơn nếu điều này giúp cậu nhóc có động lực phấn đấu.
Nếu cậu nhóc không chơi được với một đứa trẻ nào đó, đừng cố bắt ép nó; bạn sẽ muốn hầu hết mọi trải nghiệm giao tiếp đầu tiên của con đều là những trải nghiệm tích cực. Hãy sắp xếp để con bước vào các môi trường giao tiếp mới càng từ từ càng tốt. Khi bạn và con tới một bữa tiệc sinh nhật, ví dụ vậy, hãy nói trước với con về việc bữa tiệc sẽ trông như thế nào, và đứa trẻ nên chào các bạn khác ra sao (“Đầu tiên hãy nói ‘Chúc mừng sinh nhật nhé, Joey’, sao đó nói ‘Chào, Sabrina’”). Và hãy đảm bảo rằng bạn sẽ tới đó từ sớm. Sẽ dễ hơn nhiều khi là một trong những vị khách đến đầu tiên, như thế con bạn có thể cảm thấy như thể những người khác đang gia nhập vào một không gian mà mình đang “sở hữu”, thay vì phải “đột nhập” vào một nhóm đông đúc đã ở đó từ trước.
Tương tự, nếu con bạn lo lắng về việc năm học mới sắp bắt đầu, hãy đưa con tới xem trước phòng học và, lý tưởng nhất, sẽ là gặp gỡ một-đối-một với giáo viên cũng như những người lớn với vẻ ngoài thân thiện khác, ví dụ như hiệu trưởng hoặc những giáo viên tư vấn (guidance counselors), nhân viên bảo vệ và nhân viên phục vụ căng-tin. Bạn có thể nhẹ nhàng đề cập đến chuyện này: “Con chưa bao giờ nhìn thấy phòng học mới của con nhỉ? Sao giờ chúng ta không lái xe tới và tạt vào nhìn qua đó một chút?”. Cùng tìm hiểu trước xem phòng vệ sinh ở đâu, nội quy để ra vào đó là gì, từ lớp học tới căng-tin đi đường nào, và xe buýt của trường sẽ đón con ở chỗ nào sau khi tan học. Sắp xếp các ngày đi chơi của con trong kỳ nghỉ hè với những đứa trẻ hợp tính con trong lớp.
Bạn cũng đồng thời có thể dạy con những chiến lược giao tiếp đơn giản để giúp con vượt qua những khoảnh khắc khó xử. Hãy khuyến khích con tỏ ra tự tin kể cả khi con không thực sự cảm thấy như vậy. Ba lời nhắc đơn giản để nhớ là: mỉm cười, đứng thẳng người, và khi nói không lảng tránh ánh nhìn của đối phương. Dạy con bạn cách tìm kiếm những khuôn mặt thân thiện trong một đám đông. Bobby, một em bé ba tuổi, không tới trường mẫu giáo trong thành phố của mình bởi vì tới giờ ra chơi cả lớp rời bỏ không gian khép kín an toàn của phòng học và chơi trên sân thượng với những đứa trẻ lớn hơn ở các lớp trên. Cậu bé cảm thấy bị đe dọa tới mức cậu chỉ muốn tới trường vào những hôm trời mưa khi không phải lên chơi trên sân thượng nữa. Cha mẹ cậu đã giúp cậu tìm hiểu xem những đứa trẻ nào cậu có thể thấy thoải mái khi chơi cùng, cũng như giúp cậu bé hiểu rằng có một đám trẻ lớn hơn chơi bời ồn ã xung quanh không nhất thiết phải làm hỏng cuộc chơi vui của chính cậu.
Nếu bạn thấy mình chưa sẵn sàng cho tất cả những điều này, hoặc tin rằng đứa trẻ của bạn có thể cần thêm những trải nghiệm luyện tập nhiều hơn nữa, hãy hỏi bác sĩ nhi khoa địa điểm của một lớp dạy kỹ năng giao tiếp (social skills workshop) tại nơi bạn sống. Những lớp học này dạy trẻ em cách gia nhập nhóm, tự giới thiệu bản thân với những người bạn mới, và cách đọc ngôn ngữ cơ thể cũng như biểu hiện trên nét mặt. Và họ có thể giúp con bạn định hướng ở thứ mà với rất nhiều trẻ em hướng nội là phần khó nhất trong cuộc sống giao tiếp của chúng: những ngày đi học ở trường.
Đó là một buổi sáng thứ Ba vào tháng Mười, và các lớp năm tại một trường tiểu học công tại thành phố New York đang bắt đầu một bài học về ba nhánh chính của chính phủ Mỹ. Bọn trẻ ngồi xếp-chân-bằng- tròn trên một tấm thảm trong một góc phòng thắp đèn sáng rực rỡ, trong khi giáo viên của các em, ngồi trên một chiếc ghế với cuốn sách giáo khoa trước mặt, dành một vài phút để giải thích những khái niệm cơ bản. Sau đó là thời gian cho các hoạt động nhóm để áp dụng bài học.
“Lớp học trở nên rất bừa bãi lộn xộn sau giờ ăn trưa”, cô giáo nói. “Có kẹo cao su dính dưới đáy bàn, bao bì thức ăn ở khắp mọi nơi, và bim bim thì rơi đầy trên sàn. Chúng ta đâu muốn lớp học mình bừa bãi lộn xộn đến vậy, phải không?”
Các học sinh lắc đầu, không.
“Hôm nay chúng ta sẽ làm gì đó về chuyện này—cùng với nhau”, cô giáo nói.
Cô chia lớp thành ba nhóm, mỗi nhóm bảy em: một nhóm “lập pháp” (legislative), với nhiệm vụ ban hành những điều luật về nội quy ứng xử trong giờ ăn trưa; một nhóm “hành pháp” (executive), những người phải quyết định xem sẽ thực thi những luật đã được đưa ra như thế nào; và một nhóm “tư pháp” (judicial), những người sẽ phải đưa ra một hệ thống để xét xử các bạn trẻ đã ăn uống bừa bãi.
Bọn trẻ hào hứng chia ra về các nhóm của mình, ngồi tụ tập lại thành ba cụm lớn. Không cần phải dịch chuyển bất cứ một bộ bàn ghế nào cả. Vì hầu hết chương trình được thiết kể để thuận tiện cho hoạt động nhóm, các bàn học đã được sắp xếp sẵn thành từng “khối” bảy bàn cả rồi. Cả căn phòng rộ lên tiếng bàn luận sôi nổi. Một vài đứa trẻ ban nãy trong giờ học tỏ vẻ buồn chán muốn chết trong bài giảng kéo dài mười phút, giờ cũng đang hăng say tranh luận với các bạn khác trong nhóm mình.
Nhưng không phải tất cả các em đều như vậy. Khi bạn nhìn tổng thể tất cả bọn trẻ như một khối lớn, đây có vẻ như một căn phòng đầy ắp các chú cún con đang chơi đùa hết sức vui vẻ. Nhưng khi bạn chú tâm vào từng cá nhân—những đứa trẻ như Maya, một cô bé tóc đỏ cột sau gáy, đeo kính gọng kim loại, và một nét biểu cảm mơ mộng trên mặt—bạn sẽ có một bức tranh hoàn toàn khác biệt.
Ở nhóm của Maya, nhóm “hành pháp”, mọi người đều tranh nhau nói cùng một lúc. Maya thì rút lui về phía sau. Samantha, cao lớn và béo tốt trong chiếc áo phông màu tím của em, đảm nhận nhiệm vụ điều hành “phiên họp”. Cô bé lôi từ trong từ trong ba-lô của mình ra một túi bánh mì và nói: “Chỉ ai đang cầm chiếc túi này mới được nói nhé!”. Các học sinh chuyền tay nhau cái túi bánh mì từ ba-lô của cô bé, và lần lượt đóng góp suy nghĩ của mình. Chúng nhắc tôi nhớ đến những đứa trẻ trong “Chúa Ruồi” (The Lord of the Flies) khi chuyền tay nhau một-cách-dân-chủ chiếc vỏ ốc để lần lượt nói, ít nhất là trước khi mọi thứ trở nên hỗn loạn.
Maya có vẻ hoàn toàn chìm trong sợ hãi khi chiếc túi tới được tay cô bé.
“Tớ đồng ý”, cô bé nói, rồi vội vàng dúi nó cho người ngồi cạnh, như thể cái túi là một củ khoai tây đang nóng rẫy lên vậy.
Chiếc túi đi vòng quanh bàn vài lần liền. Mỗi lần Maya đều chuyền nó ngay cho bạn ngồi bên cạnh của mình, không nói gì hết. Cuối cùng thì cuộc thảo luận cũng kết thúc. Maya có vẻ căng thẳng. Chắc cô bé thấy xấu hổ, tôi đoán vậy, khi biết mình chẳng tham gia được gì cả. Samantha đọc từ quyển sổ của cô bé danh sách các cơ cấu hành pháp mà cả nhóm vừa nghĩ ra xong.
“Quy tắc thứ nhất”, cô bé nói. “Nếu bạn phạm luật, bạn sẽ không được ra chơi…” “Khoan đã!” Maya ngắt lời. “Tớ có một ý này!”
“Nói đi,” Samantha nói, có vẻ hơi có chút thiếu kiên nhẫn. Nhưng Maya, như rất nhiều người hướng nội nhạy cảm, có vẻ đã quá quen thuộc với những dấu hiệu không hài lòng dù là nhỏ nhất từ người khác, nhận biết ngay được sự sắc lạnh trong giọng nói của Samantha. Cô bé mở miệng ra để nói, nhưng lại cúi mặt thật thấp, chỉ để nói ra một thứ gì đó lẩm bẩm không nghe ra được. Không ai có thể nghe rõ cô bé vừa nói gì. Cũng không một ai thèm cố gắng làm thế. Cô bé nổi tiếng nhất trong nhóm—vượt xa hàng năm ánh sáng so với những đứa trẻ khác, với vóc dáng thon gọn và bộ trang phục hợp thời trang—thở dài ngao ngán. Maya nói nhỏ dần vì lúng túng, và cô bé nổi tiếng thì nói, “OK, Samantha, cậu có thể tiếp tục đọc đi được rồi đấy”.
Giáo viên sau đó yêu cầu nhóm “hành pháp” tóm tắt lại công việc của họ. Tất cả mọi người đều tranh nhau để nói. Tất cả mọi người, trừ Maya. Samantha lại đảm nhận công việc điều hành như thường lệ, giọng nói của cô bé vượt trội lên so với những bạn khác, cho đến khi cả nhóm đều chịu yên lặng. Bản báo cáo của cô bé không hợp lý gì cho lắm, nhưng cô bé tỏ ra tự tin và thân thiện, dễ gần tới mức nó có vẻ chẳng còn quan trọng nữa.
Maya, về phần mình, lại ngồi thu mình lại ở ngoài lề của nhóm, viết đi viết lại tên mình trên cuốn tập, với những con chữ in hoa lớn thật đậm nét, như thể để khẳng định lại danh tính thật của chính mình, trước hết là với chính bản thân cô bé.
Trước đó, giáo viên của Maya đã nói với tôi rằng cô bé thực ra là một học sinh có tư duy và cực thông minh, thường luôn tỏa sáng trong những bài tập viết tiểu luận của mình. Cô bé cũng là một vận động viên bóng mềm (softball, một trò chơi gần tương tự với bóng chày) bẩm sinh. Và cô bé rất tốt bụng với các bạn khác, thường gợi ý các bạn học còn kém để mình giúp đỡ, kèm cặp về mặt học tập. Nhưng không một cái nào trong số những phẩm chất tích cực của Maya được thể hiện rõ ra trong buổi sáng hôm đó.
Bất cứ bậc cha mẹ nào cũng sẽ không thể lấy làm vui lòng khi biết rằng đây lại là trải nghiệm về học tập, về giao tiếp, và về chính bản thân của con mình. Maya là một người hướng nội; cô bé đã phải ở trong môi trường không dành cho mình, trong một lớp học ồn ào và quá kích thích, nơi những bài học được dạy trong những nhóm lớn. Giáo viên của cô bé nói với tôi rằng cô bé sẽ có thể làm tốt hơn rất nhiều trong một môi trường bình tĩnh, nơi cô bé có thể làm việc với những đứa trẻ khác “có cùng mức độ chăm chỉ và để tâm tới từng chi tiết nhỏ”, và nơi mà phần lớn nhất trong ngày sẽ được dành cho các hoạt động cá nhân. Maya cần phải học cách khẳng định bản thân mạnh mẽ hơn trong nhóm, tất nhiên, nhưng liệu những trải nghiệm như tôi đã chứng kiến có thể dạy cô bé kỹ năng ấy không?
Sự thật là rất nhiều trường học được thiết kế để dành cho người hướng ngoại. Những người hướng nội cần đến những cách giảng dạy khác với người hướng ngoại, các học giả về giáo dục Jill Burruss và Lisa Kaenzig tại Đại học William and Mary đã viết vậy. Và quá thường xuyên, “người học tiếp nhận được rất ít, chỉ trừ việc liên tục được khuyên là phải trở nên quảng giao và hòa đồng hơn”.
Chúng ta thường có xu hướng quên rằng không có gì tuyệt-đối-thiêng-liêng, bất-khả-xâm-phạm ở việc học theo nhóm lớn cả, và rằng chúng ta sắp xếp học sinh như vậy không phải vì nó là cách tốt nhất để học, mà vì nó giúp tiết kiệm chi phí, và nếu không thì chúng ta phải làm gì với tụi nhỏ khi những người lớn phải đi làm đây? Nếu đứa trẻ của bạn thích làm việc độc lập và giao tiếp theo kiểu một-đối-một, vậy thì chẳng có gì không ổn với cô bé cả; cô bé chỉ đơn giản là không phù hợp với mô hình giáo dục đang thắng thế hiện giờ mà thôi. Mục đích của trường học nên là để chuẩn bị cho bọn trẻ tốt nhất cho phần còn lại của cuộc đời chúng, nhưng quá thường xuyên, thứ bọn trẻ cần phải chuẩn bị lại là để sống sót qua được chính những ngày học ở trường.
Môi trường ở trường học có thể rất phi tự nhiên, đặc biệt là từ góc nhìn của một đứa trẻ hướng nội yêu thích làm việc tập trung vào những dự án cậu bé đặc biệt quan tâm tới, hay chỉ giao tiếp với một hay hai người bạn trong cùng một thời điểm thôi. Buổi sáng, cửa xe buýt mở và thả đám hành khách của nó xuống vào một đám đông ồn ào, chen lấn xô đẩy. Các lớp học lý thuyết thì bị thống trị bởi những cuộc thảo luận nhóm, nơi giáo viên thúc ép cậu phải nói lớn. Cậu ăn trưa trong những tiếng nói chuyện ầm ĩ của căng-tin, nơi cậu phải chen lấn để có được một chỗ ngồi trong một bàn ăn chật kín người. Tệ hơn cả, có rất ít thời gian để suy nghĩ hay sáng tạo. Kết cấu của một ngày gần như được đảm bảo để triệt tiêu dần năng lượng của cậu hơn là kích thích nó.
Tại sao chúng ta có thể chấp nhận thứ tình huống một-kích-cỡ-cho-tất-cả này như một điều hiển nhiên, trong khi chúng ta biết quá rõ rằng người lớn chúng ta đâu có tự tổ chức mình theo cách này? Chúng ta thường trầm trồ ngưỡng mộ trước việc những đứa trẻ hướng nội, mọt sách khi lớn lên bỗng “lột xác” trở thành những người lớn tự tin và hạnh phúc. Chúng ta thích nghĩ về nó như một quá trình tiến hóa kỳ diệu. Tuy nhiên, có lẽ không phải đứa trẻ đã thay đổi, mà là chính môi trường xung quanh nó kìa. Khi đã là người lớn, họ được quyền chọn lựa sự nghiệp, bạn đời, và những nhóm bè bạn phù hợp với tính cách họ nhất. Họ không bị bắt buộc phải sống trong bất cứ nền văn hóa nào họ không thích nữa. Các nghiên cứu trong lĩnh vực được biết đến với cái tên “độ tương hợp giữa con người-môi trường” (“person-environment fit”) cho thấy rằng con người ta thành công khi, theo lời của nhà tâm lý học Brian Little, họ “được tham gia vào những công việc, những vai trò hoặc những bối cảnh phù hợp với tích cách của họ”. Điều ngược lại cũng đồng thời đúng: trẻ em sẽ ngừng học khi chúng cảm thấy mình bị đe dọa về mặt cảm xúc.
Không ai hiểu điều này rõ hơn LouAnne Johnson, một cựu sĩ quan hải quân và giáo viên nổi tiếng vì đã đào tạo được một vài trong số những thiếu niên gặp nhiều rắc rối nhất tại hệ thống trường công ở California (Michelle Pfeiffer đã đóng vai cô trong bộ phim “Dangerous Minds”). Tôi tới thăm Johnson tại căn nhà của cô ở New Mexico, để tìm hiểu nhiều hơn về kinh nghiệm dạy trẻ em ở đủ mọi loại tính cách.
Johnson rất có kỹ năng trong việc làm việc với những trẻ em nhút nhát, rụt rè—một điều không hề là tình cờ. Một trong những kỹ năng của cô là chia sẻ với các học sinh việc bản thân cô cũng đã từng bẽn lẽn, nhút nhát đến đâu. Ký ức sớm nhất về trường học của cô là việc bị bắt phải đứng trên ghế khi còn học mẫu giáo vì cô chỉ thích ngồi trong góc và đọc sách, và giáo viên của cô khi đó muốn cô “tương tác với các bạn” nhiều hơn nữa. “Rất nhiều trẻ em nhút nhát, rụt rè sẽ rất sung sướng khi khám phá ra
rằng giáo viên của các em cũng đã từng rụt rè, nhút nhát như các em bây giờ vậy”, cô nói với tôi. “Tôi nhớ một cô bé hết sức nhút nhát trong lớp tiếng Anh ở cấp III của tôi, người mà mẹ của cô bé đã cảm ơn tôi hết sức vì tôi đã bảo với cô bé rằng tôi tin về sau sau này nữa em chắc chắn sẽ thành công lớn trong cuộc sống, vậy nên đừng có lo ngại kể cả khi em không tỏa sáng ở trường học. Mẹ cô bé nói rằng một lời bình luận đó của tôi thôi đã thay đổi hoàn toàn thái độ đối với cuộc sống của con gái bà. Hãy tưởng tượng—một lời nói bình thường như thế cũng có thể có sức tác động lớn tới vậy lên một đứa trẻ dịu dàng, rụt rè”.
Khi khuyến khích các trẻ em rụt rè, nhút nhát nói, Johnson cho biết, sẽ có ích nếu đưa ra những chủ đề có sức lôi cuốn tới mức các em quên mất cả nỗi sợ của mình. Cô đưa ra lời khuyên là nên yêu cầu các em học sinh bàn luận về những chủ đề “nóng” như “Con trai có cuộc sống dễ dàng hơn nhiều con gái”. Johnson, người thường xuyên là một thực hiện những bài phát biểu về giáo dục, bất chấp nỗi sợ nói trước đám đông mãn tính của mình, biết rõ ràng rằng điều này có hiệu quả đến thế nào. “Tôi vẫn chưa thể vượt qua hết sự nhút nhát, rụt rè của mình”, cô nói. “Nó vẫn ngồi đó trong một góc, cất tiếng gọi tôi. Nhưng tôi rất tâm huyết với việc thay đổi các trường học của chúng ta, vậy nên niềm đam mê của tôi đã chiến thắng sự nhút nhát rụt rè mỗi khi tôi bắt đầu một bài nói. Nếu bạn tìm thấy một thứ gì đó giúp kích thích lòng đam mê trong bạn, hay cung cấp cho bạn một thử thách hấp dẫn, bạn sẽ quên đi mất bản thân trong một lúc. Nó cứ như là một kỳ nghỉ của cảm xúc vậy”.
Nhưng đừng mạo hiểm bắt các em phải diễn thuyết trước lớp, trừ khi bạn đã cung cấp đủ cho các em những công cụ cần thiết để biết, với sự tự tin hợp lý, rằng mọi thứ sẽ suôn sẻ cả. Hãy cho các em tập luyện với một thành viên khác và trong những nhóm nhỏ, và nếu chúng vẫn còn quá hoảng sợ thì đừng bắt ép chúng. Các chuyên gia tin rằng những trải nghiệm tiêu cực về nói trước đám đông khi còn nhỏ có thể để lại nỗi sợ sân khấu kéo dài cả đời.
Vậy kiểu môi trường học tập như thế nào sẽ là tốt nhất cho những Maya của thế giới này? Trước hết là một vài gợi ý cho các giáo viên:
· Đừng nghĩ về sự hướng nội như thứ gì đó cần được chữa trị. Nếu một đứa trẻ hướng nội cần sự giúp đỡ ở các kỹ năng giao tiếp, hãy dạy nó hoặc gợi ý một nơi đào tạo nào đó bên ngoài lớp học, cũng hệt như cách bạn sẽ làm khi một em học sinh cần được phụ đạo thêm về toán hay ngoại ngữ vậy. Nhưng hãy mừng cho các em vì việc là chính bản thân các em. “Lời góp ý điển hình nhất trong học bạ của rất nhiều trẻ em là ‘Tôi ước gì Molly có thể nói nhiều hơn nữa trong lớp’”. Pat Adams, cựu hiệu trưởng của trường chuyên Emerson (Emerson School for gifted students) tại Ann Arbor, Michigan nói với tôi. “Nhưng ở đây, chúng tôi có một hiểu biết rằng rất nhiều trẻ em có cách sống nội tâm. Chúng tôi có khuyến khich các em ra khỏi vỏ nhiều hơn, nhưng chúng tôi cũng không quá quan trọng chuyện đó. Chúng tôi coi các học sinh hướng nội đơn giản như những người có một phong cách học khác”.
· Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng một phần ba tới một phần hai trong chúng ta là người hướng nội. Điều này có nghĩa là bạn có nhiều học sinh hướng nội trong lớp hơn là bạn nghĩ. Kể cả từ những độ tuổi rất nhỏ, một số người hướng nội đã rất giỏi trong việc cư xử như những người hướng ngoại, khiến cho việc xác định được họ khó khăn hơn nhiều. Hãy cân bằng giữa các phương pháp dạy để phục vụ đúng nhu cầu của tất cả các em trong lớp của bạn. Người hướng ngoại thích được chuyển động, những kích thích, và các công việc hoạt động nhóm. Người hướng nội thì ưa những giờ giảng bài, những quãng thời gian nghỉ ngơi yên tĩnh, và những dự án độc lập. Hãy hòa trộn chúng một cách công bằng.
· Những người hướng nội thường có một hoặc hai niềm đam mê sâu sắc mà đôi khi không được các bạn bè của họ chia sẻ. Đôi lúc họ còn bị người xung quanh khiến mình cảm thấy thật quái đản vì có những niềm ham thích mạnh mẽ tới vậy, trong khi trên thực tế các nghiên cứu đã chỉ ra rằng chính dạng xúc cảm mãnh liệt này lại là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển tài năng sau này. Hãy khen ngợi những em học sinh này vì niềm đam mê của các em, khuyến khích chúng, và giúp chúng tìm ra những người bạn có cùng đam mê, nếu không phải trong phòng học, thì là ở bên ngoài.
· Một chút công việc hoạt động nhóm là hoàn toàn ổn với người hướng nội, thậm chí là còn có ích cho họ nữa. Nhưng nó nên được diễn ra trong những nhóm nhỏ—cặp đôi hoặc nhóm ba người mà thôi—và nên được thiết kế rõ ràng để mỗi đứa trẻ đều biết vai trò của mình. Roger Johnson, đồng giám đốc của Trung Tâm Học Tập Cộng Tác (Cooperative Learning Center) tại Đại học Minnesota, nói rằng những hoạt động nhóm quy mô nhỏ, được quản lý tốt là đặc biệt có ích cho những trẻ em rụt rè, hoặc hướng nội, bởi “họ thường hết sức thoải mái nói chuyện với một hoặc hai người bạn cùng lớp để trả lời một câu hỏi, hoặc để hoàn tất một công việc, nhưng sẽ không bao giờ nghĩ đến chuyện giơ tay hoặc đứng lên nói trước cả lớp. Việc những học sinh này có cơ hội ‘phiên dịch’ những suy nghĩ của mình thành ngôn ngữ là hết sức quan trọng”. Hãy tưởng tượng xem trải nghiệm của Maya có thể đã khác đến đâu nếu nhóm của cô bé nhỏ hơn, và nếu ai đó đã bỏ chút thời gian để nói rằng: “Samantha, cậu sẽ đảm trách nhiệm vụ điều hành cuộc hội thảo. Maya, còn việc của cậu là ghi chép lại ý kiến của tất cả mọi người và đọc lại cho cả nhóm nhé”.
· Mặt khác, cũng hãy nhớ đến cả nghiên cứu về Luyện Tập Có Chủ Đích của Anders Ericsson ở chương 3. Trên rất nhiều lĩnh vực, sẽ không thể đạt được trình độ lão luyện nếu không biết cách làm việc một mình. Hãy để cả các học sinh hướng ngoại của mình học tập từ những học sinh hướng nội. Hãy dạy tất cả bọn trẻ cách làm việc độc lập.
· Đừng xếp những học sinh ít nói vào các khu vực “hoạt động mạnh” trong lớp, giáo sư giao tiếp (communications professor) James McCroskey nói. Họ sẽ không nói nhiều hơn khi ở trong những khu vực đó; họ sẽ chỉ cảm thấy bị đe dọa nhiều hơn và sẽ gặp khó khăn hơn trong việc cố tập trung. Hãy khiến mọi thứ dễ dàng hơn để trẻ em hướng nội có thể tham gia cùng với lớp, nhưng đừng quá thúc ép. “Bắt ép những trẻ đang đặc biệt sợ hãi phải nói trước lớp là có hại”, McCroskey viết. “Nó sẽ làm gia tăng sự sợ hãi và suy giảm sự tự tin”.
· Nếu trường của bạn có một chính sách tuyển sinh chọn lọc, hãy nghĩ kỹ hai lần trước khi đưa ra quyết định nhập học cho bọn trẻ dựa trên thành tích của các em trong những hoạt động nhóm. Rất nhiều trẻ em hướng nội thu mình lại vào vỏ ốc trong những nhóm người lạ, và bạn thậm chí sẽ không thể nhìn ra những đứa trẻ đó sẽ có thể thể hiện tốt đến thế nào khi chúng thấy thư giãn và thoải mái.
Và sau đây là một vài gợi ý dành cho các ông bố bà mẹ. Nếu bạn đã đủ may mắn để có quyền lựa chọn việc con bạn sẽ đi học ở đâu, bất kể là bằng cách tìm kiếm các trường chuyên đặc biệt (magnet school), chuyển nhà tới nơi gần một trường công mà bạn thích, hay gửi con tới một trường tư hoặc một trường xứ đạo (parochial school) nào đó, bạn có thể tìm kiếm một ngôi trường mà:
· tưởng thưởng cho những niềm ham thích cá nhân và chú trọng vào phát triển sự tự lập
· thực hiện những hoạt động nhóm ở mức độ vừa phải và trong những nhóm nhỏ, được điều hành kỹ lưỡng
· đề cao những đức tính như sự tốt bụng, quan tâm, cảm thông, tư cách công dân tốt
· cương quyết có những lớp học và hành lang đúng nề nếp, kỷ luật
· được tổ chức thành những lớp học nhỏ, yên tĩnh
· chọn các giáo viên có khả năng thấu hiểu một tính cách nhút nhát/nghiêm túc/hướng nội/nhạy cảm
· tập trung những hoạt động học tập/thể thao/ngoại khóa vào những chủ đề đặc biệt hấp dẫn với con bạn
· thực thi mạnh mẽ những chương trình chống nạn bắt nạt học đường
· chú trọng vào việc xây dựng một nét văn hóa khoan dung và thực tế
· thu hút những trẻ em có cùng sở thích, ví dụ như những em ham học, những em có thiên hướng nghệ thuật hoặc những em ham mê thể thao, tùy vào sở thích của con bạn.
Tự tay lựa chọn một trường cho con có thể là việc bất khả thi với rất nhiều gia đình. Nhưng bất kể trường bạn chọn là gì, vẫn còn có rất nhiều thứ bạn có thể làm để giúp đứa con hướng nội của bạn thành công. Tìm hiểu xem những môn học nào làm con hăng hái nhất, và để cho con thoải mái học chúng; hoặc với sự trợ giúp từ các gia sư, hoặc với những chương trình ngoại khóa như hội chợ khoa học (science fairs) hay các lớp viết sáng tạo (creative writing). Đối với những hoạt động nhóm, hãy tập cho con biết cách tìm kiếm những vai trò thích hợp với mình trong những nhóm lớn hơn. Một trong những ưu điểm của hoạt động nhóm, kể cả với người hướng nội, là nó đem đến rất nhiều vị trí khác nhau để mỗi người lựa chọn. Hãy thúc giục con bạn chiếm thế chủ động, và giành lấy trách nhiệm làm người-ghi-chép, người-vẽ-tranh, hoặc bất kể vai trò gì hấp dẫn con bạn nhiều nhất. Sự tham gia với tập thể sẽ trở nên thoải mái hơn nhiều khi con biết rõ rằng mình sẽ đóng góp điều gì cho cả nhóm.
Bạn cũng có thể đồng thời giúp con tập nói lớn dõng dạc hơn. Cho con biết rằng sẽ ổn nếu con cần có thời gian để tập hợp suy nghĩ của mình trước mỗi khi nói, kể có khi trông có vẻ như thể mọi người khác đang rất nôn nóng muốn được nhảy vào cuộc tranh luận. Cùng lúc đó, hãy khuyên con rằng đóng góp ý kiến ngay từ đầu cuộc thảo luận thì sẽ dễ hơn nhiều so với việc đợi tất cả mọi người nói xong trước và để cho áp lực cứ tăng dần khi con đợi đến lượt mình. Nếu con không chắc phải nói gì, hoặc không thoải mái với việc phải mạnh mẽ đứng lên nói, hãy giúp con sử dụng đúng thế mạnh của mình. Liệu con có xu hướng hay hỏi những câu hỏi sâu sắc không? Hãy khen ngợi phẩm chất này ở con, và dạy con rằng đặt ra những câu hỏi tốt thường hữu ích hơn là đưa ra những câu trả lời. Liệu con có thường nhìn mọi thứ từ góc nhìn độc đáo của riêng mình hay không? Hãy dạy con điều này có giá trị thế nào, và bàn luận với con về việc con có thể chia sẻ quan điểm của mình với các bạn khác ra sao.
Hãy khám phá những tình huống có thật trong cuộc sống: ví dụ, bố mẹ của Maya có thể cùng ngồi xuống với con và tìm xem làm cách nào cô bé có thể xử lý những bài tập nhóm-tư-pháp khác đi. Hãy thử nhập vai (role-play) cùng con tập dượt xem, trong những tình huống càng cụ thể càng tốt. Maya có thể tập dượt trước để biết xem những từ ngữ như thế nào sẽ phải dùng khi nói “Tớ sẽ là người ghi chép!”, hoặc “Sẽ thế nào nếu chúng ta đặt ra luật là bất cứ ai ném vỏ bánh kẹo lên sàn sẽ phải dành mười phút trong giờ ăn trưa để nhặt rác?”.
Điều khó của việc này là ở chỗ khiến Maya cởi mở hơn và kể lại cho bạn những gì diễn ra trong mỗi ngày học của cô bé. Kể cả khi chúng thường hay cởi mở với cha mẹ, nhiều đứa trẻ vẫn sẽ không chia sẻ về những trải nghiệm khiến chúng thấy xấu hổ. Đứa trẻ của bạn càng nhỏ, cô bé càng có khả năng cởi mở cao hơn với cha mẹ, bởi thế bạn nên bắt đầu chu trình này càng ở những năm đầu tiên con đi học càng tốt. Hãy hỏi con bạn những thông tin này bằng một cách nhẹ nhàng, không phán xét, với thông tin cụ thể, rõ ràng. Thay vì hỏi “Ngày hôm nay của con thế nào?”, hãy thử “Hôm nay con được làm gì trong giờ học Toán?”. Thay vì hỏi “Con có thích cô giáo của con không?”, hãy hỏi “Con thích điểm gì ở cô giáo?”. Hãy để con có thời gian suy nghĩ trước khi trả lời. Tránh việc hỏi, bằng cái giọng lạc quan thái quá của cha mẹ ở khắp mọi nơi, rằng “Hôm nay con đến trường có vui không?!”. Cô bé sẽ cảm thấy áp lực phải trả lời là “có”.
Nếu cô bé vẫn không muốn nói, vậy thì hãy đợi con. Đôi lúc cô bé sẽ cần hàng giờ để giảm bớt sức ép trước khi cảm thấy sẵn sàng. Bạn có thể sẽ thấy rằng cô bé chỉ cởi mở trong những khoảnh khắc ấm cúng, thư giãn, như lúc đi tắm hoặc giờ đi ngủ. Nếu đó là tình huống, hãy đảm bảo rằng bé có thêm nhiều khoảnh khắc thoải mái như thế nữa trong ngày. Và nếu con bạn chịu tâm sự với những người khác, như một người trông trẻ đáng tin cậy, một người cô/dì, hoặc một người anh/chị lớn tuổi hơn của mình, nhưng lại không phải với bạn, vậy thì hãy dẹp lòng tự trọng của bạn qua một bên và kiếm tìm sự giúp đỡ.
Cuối cùng, cố gắng đừng quá lo lắng nếu tất cả các dấu hiệu đều gợi ý rằng đứa trẻ hướng nội của bạn không phải là cô bé/cậu nhóc nổi tiếng nhất trường. Sẽ là cực kỳ quan trọng cho tính cách và sự phát triển trong giao tiếp của con nếu nó có một hay hai tình bạn gắn bó khăng khít, các nhà tâm lý học phát triển ở trẻ em đã nói với chúng ta như vậy, nhưng nổi tiếng thì không hẳn là cần thiết. Rất nhiều trẻ em hướng nội lớn lên trở thành những người có kỹ năng xã hội xuất sắc, mặc dù họ thường có xu hướng
tham gia vào các nhóm theo cách riêng của họ—đợi một lúc trước khi họ nhảy vào, hoặc tham gia chỉ trong một khoảng thời gian ngắn. Không sao hết. Con bạn cần học những kỹ năng giao tiếp và kết bạn, chứ không cần trở thành học sinh quảng giao nhất trường. Điều này không có nghĩa là sự nổi tiếng thì không có gì là vui. Bạn có lẽ sẽ ước muốn điều đó cho con, cũng hệt như việc bạn mong ước con có một vóc dáng ngoại hình đẹp, một bộ óc thông minh, hay một tài năng thể thao nào đấy. Nhưng hãy đảm bảo rằng bạn đang không áp đặt những mong muốn của riêng mình lên con, và hãy nhớ rằng có rất nhiều con đường để dẫn đến một cuộc sống thỏa mãn.
Rất nhiều trong số những con đường đó nằm ở những đam mê bên ngoài trường học. Trong khi những người hướng ngoại có xu hướng cao hơn trong việc nhảy từ thú vui này sang sở thích nọ, người hướng nội thường rất trung thành với niềm yêu thích của mình. Điều này cho họ một lợi thế khổng lồ khi họ lớn lên, bởi vì lòng tự tin thực sự đến từ năng lực và hiệu quả làm việc cao, chứ không phải ngược lại. Các nhà nghiên cứu đã tìm ra rằng việc tham gia sâu sắc và trung thành với một hoạt động nào đấy đã được chứng minh là một con đường để dẫn tới hạnh phúc. Những tài năng và niềm đam mê được phát triển đầy đủ có thể là một nguồn tự tin cực lớn cho con bạn, bất kể việc cậu bé có cảm thấy mình khác các bạn đến thế nào.
Ví dụ, Maya, cô bé đã lặng thinh tới vậy trong nhóm “hành pháp”, thích về nhà ngay sau mỗi giờ học và đọc sách. Nhưng cô bé cũng đồng thời thích môn bóng mềm, với tất cả những áp lực giao tiếp và áp lực thành tích của nó. Cô bé vẫn nhớ được ngày cô bé được chọn gia nhập đội sau khi đã tham gia các buổi thi tuyển. Maya đã sợ đến điếng người, nhưng cô bé cũng đồng thời cảm thấy rất mạnh mẽ—đủ mạnh để quật trúng trái bóng với một cú đánh quyết đoán, đầy uy lực. “Cháu đoán tất cả những lần luyện tập đó cuối cùng đã có kết quả rồi”, cô bé nhớ lại sau đó. “Lúc đó cháu đã không thể ngừng mỉm cười được. Cháu đã vô cùng vui sướng và tự hào—và đó là một cảm giác cháu sẽ không bao giờ quên”.
Tuy vậy, với các bậc làm cha mẹ, không phải lúc nào cũng dễ dàng để biết được đâu là nơi những cảm giác hài lòng mãnh liệt này sẽ xuất hiện. Ví dụ, bạn có thể sẽ cảm thấy mình nên khuyến khích con chơi bất cứ môn thể thao nào có thể giúp nó cải thiện tình bạn và danh tiếng ở nơi gia đình bạn sống. Và điều đó là hoàn toàn ổn, nếu thằng bé cũng thấy thích và chơi giỏi được môn thể thao đó, như Maya với môn bóng mềm vậy. Những môn thể thao đồng đội có thể là một nguồn lợi tuyệt vời cho bất kỳ ai, đặc
biệt là cho những em mà trong các tình huống khác sẽ không thoải mái với việc gia nhập nhóm. Nhưng hãy để cho đứa trẻ của bạn được tự chọn trước những hoạt động nào mà nó thích nhất. Nó có thể sẽ không thích bất cứ môn thể thao đồng đội nào, và điều đó cũng chẳng sao hết. Hãy giúp con tìm lấy những hoạt động nơi con sẽ được gặp gỡ những đứa trẻ khác, nhưng đồng thời cũng có rất nhiều không gian riêng cho mình. Hãy trau dồi thế mạnh trong tính cách thiên bẩm của đứa bé. Nếu niềm đam mê của nó có vẻ quá cô độc theo ý bạn, hãy nhớ rằng kể cả những hoạt động rất solo như vẽ tranh, thiết kế máy móc, hay viết văn sáng tạo (creative writing) cũng có thể đưa đến những cộng đồng với những người cùng sở thích đầy nhiệt huyết khác.
“Tôi biết những em nhỏ đã tìm được những người khác”, tiến sĩ Miller nói, “bằng cách chia sẻ những sở thích quan trọng nhất với mình: chơi cờ, những trò chơi nhập vai phức tạp, thậm chí là bàn luận về những mối quan tâm chung sâu sắc như toán hay lịch sử”. Rebecca Wallace-Segall, người dạy một lớp viết sáng tạo dành cho trẻ em và thiếu niên, và là giám đốc của tổ chức Writopia Lab tại New York, nói rằng những học sinh đăng ký các lớp học của cô “thường không phải là những đứa trẻ sẽ sẵn sàng nói hàng giờ về thời trang hay những người nổi tiếng. Những đứa trẻ đó ít có xu hướng tới những nơi như nơi đây, có lẽ là bởi chúng ít thích thú với việc phân tích và đào sâu suy nghĩ hơn—đó không phải là “vùng an toàn” của chúng. Những đứa trẻ bị-gọi-là nhút nhát ở đây thường rất “khát” được thảo luận và đưa ra những ý tưởng mới, phân tích tìm tòi chúng, hành động theo chúng, và, nghịch lý thay, khi chúng được tương tác với nhau theo cách này, chúng không hề tỏ ra nhút nhát và rụt rè một chút nào cả. Chúng đang kết nối với nhau, nhưng ở một lĩnh vực sâu sắc hơn nhiều, một nơi mà nhiều bạn cùng lứa khác của chúng sẽ coi là ‘chán phèo’ hoặc ‘nghĩ đến là thấy mệt’”. Và những đứa trẻ này cũng có ‘chui ra khỏi vỏ’ khi chúng thấy sẵn sàng; phần lớn các em ở Writopia đọc những tác phẩm của mình tại các hiệu sách ở địa phương, và một số lượng lớn đến kinh ngạc các em này đã giành được những giải thưởng cấp quốc gia danh giá trong các cuộc thi viết.
Nếu con bạn có xu hướng phải chịu đựng khi bị kích thích quá độ, vậy thì cũng sẽ là một ý hay nếu bạn cho con chọn những hoạt động như nghệ thuật hay chạy đường dài, những môn phải ít phải chịu áp lực khi thể hiện/biểu diễn hơn. Nhưng dù vậy, nếu cô bé lại bị thu hút bởi những hoạt động mà cần đến việc biểu diễn, bạn vẫn có thể giúp con tỏa sáng.
Khi còn là một đứa trẻ, tôi rất yêu thích môn trượt băng nghệ thuật. Tôi có thể dành hàng giờ liền trên sân băng, lượn theo những hình số tám, xoay tròn liên tục một cách vui vẻ, hay nhảy vọt mình lên bay trong không trung. Nhưng vào ngày thi đấu, tôi đã là một thảm họa. Tôi đã không hề ngủ một đêm trước đó, và đã thất bại tệ hại trong những pha biểu diễn mà trước đó khi tập tôi có thể làm được dễ dàng. Đầu tiên tôi tin điều mọi người nói với tôi—rằng đó là vì tôi đã lo lắng quá nhiều trước giờ thi đấu, hệt như mọi người khác. Nhưng rồi lâu sau đó, tôi được xem một cuộc phỏng vấn trên tivi với vận động viên trượt băng đoạt huy chương vàng Katarina Witt. Cô nói rằng những căng thẳng trước thi đấu lại là thứ cho cô sự phấn khích cô cần để thắng được chiếc huy chương vàng kia.
Tôi khi đó đã biết rằng mình và Katrina là hai dạng sinh vật khác nhau hoàn toàn, nhưng phải tốn đến hàng chục năm sau đó tôi mới hiểu ra được tại sao. Nỗi căng thẳng của cô ấy chỉ êm nhẹ vừa đủ để kích thích khiến cô thấy háo hức, còn của tôi thì siết chặt tới mức đủ làm tôi nghẹt thở. Vào lúc đó, người mẹ rất quan tâm của tôi đã hỏi ý kiến các bà mẹ có con cùng đi thi trượt băng khác về việc con gái của họ đương đầu với áp lực trước khi thi như thế nào, và quay trở về với những hiểu biết mới mà bà hy vọng sẽ khiến tôi thấy tốt hơn. Con bé Kristen nó cũng đang sợ lắm, mẹ bảo vậy. Và mẹ của Renée cũng bảo rằng nó đã rất sợ đêm trước hôm thi đấu. Nhưng tôi biết rõ Kristen và Renée, và tôi chắc chắn là họ không hề hoảng sợ đến mức nhiều như tôi.
Tôi nghĩ có lẽ sẽ có ích nếu khi đó tôi thấu hiểu về bản thân mình hơn. Nếu bạn là phụ huynh của một vận động viên trượt băng tương lai, hãy giúp cô bé chấp nhận rằng cô bé sẽ rất hoảng sợ trước giờ thi đấu, nhưng đừng khiến con tin rằng những sự lo lắng đó sẽ ảnh hưởng đến thành tích thi đấu của con. Điều cô bé đó sợ nhất là thất bại ngay giữa chốn đông người. Cô bé cần “gây tê” dần chính mình với nỗi sợ này, bằng cách trở nên quen với việc thi đấu, và kể cả với việc thất bại nữa. Hãy khuyến khích cô bé tham gia những cuộc thi đấu chứa ít rủi ro ở thật xa nhà, nơi cô bé sẽ là một người không ai biết và có thua cũng không sợ bị bẽ mặt với người quen. Hãy đảm bảo là cô bé đã được tập luyện kỹ càng. Nếu cô bé đang có ý định thi đấu trên một sân băng không quen thuộc, cố gắng để cô bé được tập luyện trước trên đó vài lần. Hãy nói với con về tất cả những khả năng xấu có thể xảy ra, và cách giải quyết chúng: OK, kể cả nếu con thất bại và về cuối thì sao nào? Liệu Trái Đất có bị hủy diệt không?. Và hãy giúp con tưởng tượng trong đầu thật cụ thể cảm giác sẽ thế nào khi con biểu diễn màn thi đấu của mình thật xuất sắc.
Giải phóng một niềm đam mê có thể làm thay đổi cả một cuộc đời, không chỉ trong quãng thời gian con bạn ở tiểu học hay trung học hay phổ thông, mà còn xa hơn nữa nhiều. Hãy cân nhắc đến câu chuyện của David Weiss, một tay trống và là một nhà báo âm nhạc chuyên nghiệp. David là một ví dụ rõ ràng về việc một ai đó khi lớn lên có thể cảm thấy như Charlie Brown, nhưng khi trưởng thành vẫn tạo dựng được cho mình một cuộc đời đầy ắp sáng tạo, hiệu quả công việc, và đầy ý nghĩa. Anh có một tập hợp bạn bè rất lớn và thú vị, và sống ở thành phố New York, mà theo ý anh là nơi sôi động nhất cho một kẻ đam mê âm nhạc. Nếu bạn đánh giá cuộc sống bằng thang đo điển hình về tình yêu và công việc, vậy thì David chắc chắn là một thành công rực rỡ.
Nhưng, ít nhất là với David, không phải lúc nào cũng rõ ràng rằng rồi một ngày cuộc sống của anh sẽ thành công tới vậy. Khi còn nhỏ, anh đã từng rất nhút nhát, rụt rè và vụng về trong giao tiếp. Những thứ hấp dẫn với anh nhất, âm nhạc và viết lách, lại không có giá trị gì trong mắt những người anh coi là quan trọng nhất với mình khi đó: các bạn cùng lứa của anh. “Mọi người luôn nói với tôi: ‘Đây là những năm tháng đẹp nhất của cuộc đời em đấy!’”, anh nhớ lại. “Và tôi sẽ tự nghĩ với mình: ‘Em hy vọng là không!’. Tôi ghét trường học. Tôi còn nhớ mình đã nghĩ, tôi chắc chắn sẽ phải kiếm cách rời khỏi nơi đây. Khi tôi lớp Sáu, bộ phim ‘Revenge of the Nerds’ được công chiếu, và tôi trông không khác gì một kẻ vừa bước ra từ dàn nhân vật của bộ phim. Tôi biết mình thông minh, nhưng tôi đã lớn lên ở vùng ngoại ô Detroit, nơi cũng giống như chín mươi chín phần trăm còn lại của cả nước Mỹ: nếu bạn có ngoại hình ưa nhìn và có chơi thể thao, sẽ không có ai làm phiền bạn. Nhưng khi bạn có vẻ quá thông minh, đấy lại sẽ không phải là thứ khiến bọn trẻ kính trọng bạn. Chúng sẽ lại có xu hướng cố gắng “vùi dập” bạn vì điều đó nữa. Thông minh là khả năng tuyệt vời nhất của tôi, và tôi chắc chắn đã rất thích thú sử dụng nó, nhưng nó đồng thời cũng là thứ bạn phải cố gắng kiềm chế và giấu giếm thật cẩn thận”.
Vậy làm thế nào mà anh đã từ đó mà tới được đây? Chìa khóa cho tương lai tuyệt vời của David chính là ở dàn trống. “Đến một thời điểm”, David nói, “tôi bỗng hoàn toàn vượt qua được tất cả những thứ kìm kẹp thủa nhỏ đó của tôi. Và tôi biết chính xác lý do tại sao: đó là vì tôi đã bắt đầu chơi trống. Những chiếc trống là nguồn cảm hứng của tôi. Chúng là Yoda của tôi. Khi tôi còn ở cấp II, ban nhạc jazz của bên trường cấp III tới biểu diễn cho chúng tôi, và tôi nghĩ ngay rằng trong cả đám đó, người ngầu nhất trong tương lai dài thật dài sau này sẽ là người chơi trống. Với tôi, những tay trống cũng giống như những vận động viên thể thao vậy, nhưng là những vận động viên âm nhạc, và tôi thì yêu âm nhạc”.
Lúc đầu, với David, chơi trống hầu hết chỉ là để được chấp nhận về mặt xã hội: từ khi bắt đầu chơi trống, anh đã không còn bị đuổi ra khỏi các bữa tiệc bởi đám dân chơi thể thao lực lưỡng đô con to gấp đôi anh nữa. Nhưng chẳng mấy chốc, nó trở thành một thứ sâu sắc hơn nhiều. “Tôi đột nhiên nhận ra rằng đây cũng là một hình thức thể hiện bản thân thông qua nghệ thuật, và nó đã khiến tôi kinh ngạc vô cùng. Khi đó tôi mười lăm tuổi. Và đó là lúc tôi quyết định sẽ tiếp tục mãi mãi theo đuổi nó. Cả cuộc đời tôi đã được thay đổi nhờ dàn trống của tôi, và nó vẫn chưa hề dừng lại, cho tới tận hôm nay”.
David vẫn nhớ chính xác cảm giác thế nào khi mình vẫn còn chín tuổi. “Tôi cảm thấy như giờ mình có thể liên hệ trực tiếp với người đó, bản thể quá khứ của tôi ấy”, anh nói. “Bất kể khi nào tôi làm gì đó mà tôi nghĩ là thật ngầu, ví dụ như là tôi đang ở thành phố New York trong một căn phòng đầy người, và tôi đang phỏng vấn Alicia Keys chẳng hạn, tôi sẽ gửi ngược một thông điệp về quá khứ tới người đó, và cho cậu bé ấy biết rằng mọi thứ rồi đều sẽ trở nên tốt đẹp cả. Tôi cảm thấy rằng khi tôi 9 tuổi, tôi đã nhận được những tín hiệu từ chính mình trong tương lai, và đó là một trong những lý do đã giúp tôi có được sức mạnh để không bỏ cuộc. Tôi đã có thể tạo ra được một vòng lặp kỳ diệu này giữa tôi bây giờ và tôi của hồi đó”.
Một điều khác nữa đã cho David sức mạnh, đấy là cha mẹ của anh. Họ ít tập trung vào việc phát triển sự tự tin của anh hơn là đảm bảo rằng anh sẽ tìm được cách để làm việc thật hiệu quả. Không quan trọng thứ anh ham thích là gì, miễn là anh theo đuổi nó và thích thú khi làm nó. Cha của anh là một người hâm mộ bóng bầu dục cuồng nhiệt, David nhớ lại, nhưng “người cuối cùng trên đời sẽ hỏi tôi ‘Sao con lại không ở trên sân bóng bầu dục chứ?’ là bố tôi”. Có một thời gian David luyện tập chơi piano, rồi đàn viôlôngxen (cello). Khi anh thông báo với cha mẹ rằng anh muốn chuyển sang chơi trống, họ đã rất ngạc nhiên, nhưng không hề lưỡng lự hay do dự. Họ trân trọng niềm đam mê mới của anh. Đó chính là cách họ trân trọng con trai mình.
Nếu câu chuyện về sự biến đổi kỳ diệu của David Weiss nhắc bạn nhớ lại về chính cuộc đời mình, có một lý do cho điều đó. Đây là một ví dụ hoàn hảo cho thứ nhà tâm lý học Dan McAdams gọi là một câu chuyện cuộc đời cứu rỗi (a redemptive life story)—và là một dấu hiệu của tinh thần lành mạnh và sự hạnh phúc.
Tại Trung tâm Nghiên Cứu về Cuộc Sống Foley (the Foley Center for the Study of Lives) tại Đại học Northwestern, McAdams nghiên cứu những câu chuyện mọi người kể về chính mình. Chúng ta đều viết những câu chuyện cuộc đời của mình như những cuốn tiểu thuyết, McAdams tin là vậy, với mở đầu, mâu thuẫn, những bước ngoặt định mệnh (turning point), và kết thúc. Và cách chúng ta miêu tả về các khó khăn trong quá khứ ảnh hưởng sâu sắc đến việc chúng ta thỏa mãn đến đâu với cuộc sống hiện tại của chúng ta. Những người không hạnh phúc thường có xu hướng nhìn những khó khăn trong quá khứ này như những tạp chất làm phá hỏng những thứ đúng ra đã có thể rất hạnh phúc (“Tôi không bao giờ còn như trước được nữa sau ngày vợ tôi bỏ tôi ra đi”); trong khi những người lớn có hiệu quả làm việc cao lại nhìn chúng như những điều phúc lành được cải trang thành điều không may (“Cuộc ly hôn là điều đau đớn nhất đã từng xảy ra với tôi, nhưng tôi hạnh phúc hơn nhiều với người vợ mới của tôi hiện giờ). Những người sống được nhiều nhất cuộc sống của mình nhận ra rằng cuộc sống—trao lại cho gia đình, xã hội, và ở mức độ cuối cùng nhất, cho chính họ—thường tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống trong chính những chướng ngại của nó. Theo một cách nào đó, McAdams đã thổi một luồng sinh khí mới vào một trong những tri thức cổ vĩ đại nhất của thần thoại phương Tây: đó là nơi làm chúng ta vấp ngã chính là nơi cất giấu những kho báu của chúng ta.
Với rất nhiều người hướng nội như David, tuổi thiếu niên là nơi vấp ngã lớn nhất, là bụi rậm rối loạn và tối tăm của sự tự tin thấp thảm hại và những nỗi lo lắng về kém giao tiếp ám ảnh thường trực. Ở trung học cơ sở và phổ thông, thứ đáng giá nhất là sự hoạt bát và tính quảng giao; những phẩm chất như sâu sắc và nhạy cảm thì không có giá trị gì mấy. Nhưng rất nhiều người hướng nội đã thành công trong việc tạo nên những câu chuyện cuộc đời tuyệt vời như của David Weiss: những khoảnh khắc Charlie Brown của chúng ta là cái giá cần thiết chúng ta cần trả, để có thể được thoải mái, hạnh phúc chơi những chiếc trống của chúng ta suốt hàng thập kỷ sau đó trong tương lai.