Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Mật Mã Maya

Chương 37

Tác giả: Brian D'Amato

Họ lôi tôi đi một chặng đường dài, lên dốc xuống đèo. Tôi vẫn còn yếu vì… hừ, vì tất cả mọi sự. Khi tôi ngủ thì họ khiêng tôi. Họ cho tôi uống nước ấm. Hun Xoc, người chỉ huy việc này, lấy từ tay nải riêng ra một tảng muối và cho tôi liếm. Lát sau, tôi nhận thấy người mình đang chuyển động theo lối hết sức kỳ cục. Mình đang đu đưa, – tôi nghĩ, – ở đầu một sợi dây, ý tôi là theo nghĩa đen ấy (Vì “ở đầu một sợi dây” còn có nghĩa bóng là “không thể chịu đựng được nữa”). Họ đang dòng dây thả tôi xuống ở tư thế nằm ngang như cái xà nhà, ra khỏi vùng ánh sáng, vào một khoảng không đầy những tiếng rì rầm và lách cách vang vọng, sực mùi sô-cô-la, mùi nước tiểu, mùi nhựa thông và mùi đá ẩm. Tối om. Những bàn tay đón lấy cái bọc, tháo sợi thừng ra, vác nó đi chừng bốn mươi bước, đặt xuống, lôi tôi từ trong đó ra và đặt nằm lên một đống vỏ bao ngô. Khi mắt đã quen với bóng tối, tôi phát hiện mình đang ở trong một cái hang rộng, sau tất cả những sự trói, buộc và nhốt mà tôi đã trải qua thì cái hang này lớn chẳng kém gì sân vận động Hyperbowl. Đống vỏ bao ngô nằm cạnh một cái hốc dùng làm nhà kho được chống bằng những cây gỗ tuyết tùng, bên trong chất hàng núi hạt ca-cao chưa tách vỏ, da hươu thuộc bốc mùi a-mô-ni-ắc tự nhiên, phía đối diện, cách rất xa, là một khoảng ánh sáng mặt trời màu xanh lục rọi xuống từ một khuôn cửa nham nhở rộng chừng ba mươi sải, dài năm mươi sải, chơm chởm những thứ mà thoạt nhiên tôi đoán là rễ cây trồi lên, nhưng sau mới biết là nhũ đá. Khoảng không trong hang chăng kín mít giàn giáo, cột chống, dây thừng, trụ tường và giá để phơi khô, nhưng đập vào mắt nhất là một cái thang dây, hẳn phải thuộc loại lớn nhất thế giới: khoảng sáu mươi súc gỗ, một chiều mười, một chiều hai mươi sải tay, được thắt chặt vào những sợi thừng bện dày. Cái thang được treo dựng đứng, nối từ phía bên này hang, nơi tôi đang nằm, lên mép xa của khuôn cửa. Năm người thợ gần như trần trụi leo trèo trên cái thang như thủy thủ trên dây cột buồm của một chiếc thuyền buồm thẳng đứng, chuyển xuống một cuộn da hươu chưa thuộc. Trong hang còn ít nhất ba mươi thợ khác, một vài người chắc đã nhìn tôi hết sức tò mò vì Hun Xoc – người vừa mới xuống tới nơi – quát họ quay trở lại làm việc. Họ xốc tôi đứng dậy, nhưng tôi vẫn phải cần hai người đỡ mới đi được, không phải vì tôi vẫn còn lẩy bẩy sau ngần ấy sự hành hạ vô ích, mà vì ý thức của Chacal đã biến mất nên tôi phải học lại cách điều khiển cơ thể mới này. Tệ hại nhất là tôi cứ quay sang phải mỗi lần muốn quay sang trái. Chúng tôi đi vòng qua một cái hõm hứng nước mưa tự nhiên dưới lòng hang, qua chỗ một tên đầu bếp vận quần áo đàn bà đang quăng bèn bẹt những chiếc bánh ngô dành cho bữa sáng lên ba phiến đá nhỏ trong bếp lò. Tôi đoán hắn là loại người mà các nhà nhân chủng học gọi là “berdache”(Thuật ngữ vay mược từ một từ trong tiếng Pháp có nghĩa là “đĩ đực”, mặc dù nó không được dùng với đúng nghĩa ấy.), một kẻ đồng tính có thể làm công việc của phụ nữ ở chỗ dành cho đàn ông. Một cái ống khói bằng đất sét nặn vươn lên từ nóc lò, chạy ngoằn nghoèo theo cạnh chiếc thang, dẫn ra ngoài khuôn cửa. Chúng tôi phải cúi khom người chui qua một cái giá trên phơi một đôi cò nhiệt đới mới làm thịt bị buộc túm cổ lại với nhau, cùng một xâu ngan Muscovy (Loài ngan có bướu ở mũi.) mới làm lông – bất chấp cái tên, chúng không hề đến từ Muscovy (Tức công quốc Muscovy, một công quốc thời trung cổ, đặt trung tâm tại Moscow, thủ đô nước Nga ngày nay.). Tôi nhớ ra là mình vẫn đang rất đói. Qua khu nhà bếp, đến một bục gỗ xây cao, nơi hai lão kế toán Đại Bàng già khọm, đầu quấn dải băng, đang ngồi đếm những hạt giống ngô và chuyển chúng cho mấy gã phụ việc, những người này bỏ chúng vào những chiếc túi làm bằng vỏ bao ngô và thắt chặt lại bằng chỉ màu. Những cuộn vải tráng cao su, những điếu xì gà to như quả thủy lôi năm mươi li được bó lại thành từng bó nằm chất đống trên các giá đựng hàng đan bằng liễu gai, cách xa các bức tường nhưng được cái ngoài tầm mưa hắt. Chả trách nhà Đại Bàng đã cai trị đô thị này được đến ba trăm năm, – tôi nghĩ, – những kẻ suốt ngày lo tích cóp và dự phòng.

Họ dẫn tôi ra khỏi phòng lớn, vào một con hẻm tối tăm, chạy chéo dẫn tới một hành lang phụ, nửa tự nhiên, nửa được đẽo gọt, với những cây nhũ đá nhọn hoắt được mài bớt sao cho vừa cách đầu người một khoảng và con đường dưới chân mấp mô, dốc lên chừng ba mươi độ. Trước khi ánh sáng hoàn toàn biến mất, những người dẫn đường cho tôi dừng lại giữa một căn phòng dạng như phòng chờ và gọi người hầu mang trang phục đến. Chúng tôi chờ đợi. Những gã hầu trang phục trình diện và chỉnh trang lại cho tôi. Ở đây, ít nhất anh cũng không phải tự làm vệ sinh. Hồi còn đi học, tôi đã từng hẹn hò một thời gian với một người phụ nữ Ấn Độ – cô ta từng là hoa hậu Ấn Độ, mặc dù tôi không mong các bạn tin điều này – và tôi hết sức kinh ngạc khi phát hiện ra cô ta chưa từng tự gội đầu lấy một lần trong đời. Và té ra, ở Ấn Độ, việc những người hầu có người hầu, và người hầu của người hầu cũng có người hầu không phải là chuyện gì hiếm gặp. Vì thế, ở đây, ngay cả một kẻ ra tù vào tội như tôi cũng có người phục sức riêng. Xong xuôi, họ xốc tôi đứng dậy và chúng tôi bước vào bóng tối hoàn toàn, mò đường đi nhờ một cái rãnh đục vào sàn đá vôi. Chúng tôi đi vòng vèo vào sâu trong núi. Quãng này kém thoáng khí hơn và mùi cũng khó chịu hơn. Tôi cảm giác bằng bàn chân rằng lối đi được đắp đất sét cho bằng phẳng. Con đường mở rộng ra thành một căn phòng hình chữ “L”, ánh sáng mặt trời chiếu vào nhờ nhờ. Bốn vách tường được đẽo thành các ngăn kệ, xếp kín những chiếc bình mộc, phía trên là hàng dãy tượng tổ tiên bằng đất sét, nom xấu xí và có vẻ như được nặn tùy hứng. Trên một ngăn kệ bày một dãy tượng phồn thực đẽo bằng gỗ, mô tả những lão già đầu thú sờ soạng các cô gái trẻ. Hình sau dâm dục hơn hình trước. Ái dà, ra là ở đây các vị cũng hư hỏng gớm nhỉ. Không phải mọi thứ thuộc về quá khứ đều vĩ đại. Người ta nghĩ thế chẳng qua vì hầu như chỉ có những điều tốt đẹp được lưu truyền lại, và chỉ khi có dịp tình cờ tất cả được “đóng gói” lại cùng một lúc, như ở Pompeii chẳng hạn, thì người ta mới nhận ra rằng gần như toàn bộ những gì thuộc về quá khứ đều rặt là một đống đồng nát. Và đâyđúng là một thành phố dung tục. Một câu lạc bộ ban đêm của thời cổ…

Oái. Họ khom lưng và đẩy tôi qua một tấm da hươu che cửa mà tôi chưa kịp nhận thấy, dẫn tôi đi ba mươi bước lên một đường dốc sáng ánh đuốc, tới tấm da che cửa thứ hai được nạm những chuỗi vỏ sò. Một k’iik Đại Bàng đứng tuổi ngồi chắn bên ngoài. Hắn và tên đứng đầu nhóm phu khuân vác trao đổi vài cử chỉ chào hỏi vô nghĩa. Trong này có mùi cay cay như mùi hạt tiêu Jamaica dại. Hun Xoc và tôi khom lưng chui vào một khoang đệm bé xíu, kích thước chỉ bằng cái tủ lạnh, chui tiếp qua một cánh cửa nhỏ đến một căn phòng hình tròn như quả bong bóng, rộng không hơn chiếc ga-ra chứa một xe. Không có ánh sáng trời, nhưng có hai cây nến lõi bấc – làm từ thân sậy bọc mỡ – đang cháy ở góc phòng, thay vì làm căn phòng khói mù, toàn bộ khói bị hút lên qua một khe hở trên bức tường phía trong nhờ một luồng gió mát thổi đều đều. Chỉ dựa vào không khí, tôi cũng có thể đoán chắc được rằng đây là nơi mà dân thích khảo sát hang động gọi là khoang khô, tức là khoang không bị mưa hắt, nằm trên mực nước của bất cứ dòng chảy nào và vách khoang không bị đóng rêu. Bức tường phía trong do tay người xây nên, nó được dựng bằng những khối đá đã qua đẽo gọt, còn các bức tường xung quanh thì được đẽo thô vào vách hang; bên tay phải chúng tôi, hai cây măng đá xam xám được để tự nhiên, gần như không mài dũa. Trên cây lớn hơn khắc tượng bán thân theo lối cũ của một vị lãnh chúa Đại Bàng. Dòng chữ ghi ngày ông ta bắt đầu trị vì vẫn còn khá rõ, đó là Chúa tể 9, Ngụm rượu 3 của ngày đầu tiên của b’ak’tun thứ tám – tức là ngày mùng 7 tháng 9 năm 41 Công nguyên, tròn 244 ngày sau vụ ám sát Caligula (Tức Gaius Julius Caesar Augustus Germanicus, vị hoàng đế thứ ba của đế chế La Mã, bị ám sát ngày 24 tháng 1 năm 41 Công nguyên.).Quanh chân cây măng đá vẫn còn những cái bình thờ cũ, có nắp đậy, phần lớn đã nứt vỡ. Phần còn lại của thư viện – hay tôi nên gọi là phòng lưu trữ hoặcgenizah (Căn phòng lưu trữ trong giáo đường Do Thái, dùng để chứa những thư tịch, giấy mà không dùng đến nữa nhưng cũng không được phép vứt bỏ.)- chất đầy những chồng rương hòm được sắp xếp gọn ghẽ. Bốn trong số đó đang để mở và tôi nhòm thấy trong một chiếc có một cuốn sách gấp ruột mèo được vùi lửng lơ trong muối mỏ.

Tính cả tôi và Hun Xoc, trong phòng có cả thảy chín người. Sọ Đá Quý 2 ngồi trên một tấm đệm ở cuối phòng, chân phủ một tấm chăn bông may chần. Một vệ sĩ to lớn quỳ bên phải ông ta, mặt cắm xuống đất. Hắn ngồi thẳng người lên khi thấy chúng tôi bước vào, nhưng vẫn không ngước lên. So với người bình thường, hắn cao hơn một cái đầu và nặng khoảng gấp đôi, hắn cũng lớn tuổi hơn tất cả những tên vệ sĩ khác tôi từng trông thấy, điều đó có thể có nghĩa rằng hắn được tin cậy nhất. Quanh vai và hông hắn quấn miếng đệm bằng bông chần nhẹ, và những hình xăm trên hai bắp chân cho biết trong suốt cuộc đời tham gia chiến trận, hắn đã nộp cho Đại Bàng 1 cả thảy tám tù binh. Có hai người quỳ bên trái căn phòng, giữa tôi và tên vệ sĩ. Người thứ nhất là một lão già gầy nhẳng, vai khoác chiếc áo choàng tối màu, đầu trùm một thứ như cái mũ chụp lên trên chàng mạng, gần giống chiếc mũ cối có mạng che muỗi. Tôi nhìn lão không rõ lắm, nhưng hình như quen quen. Hai cẳng tay lão có điều gì đó là lạ nhưng tôi không nhớ ra là điều gì. Người thứ hai, gần tôi hơn, là gã chép sử trong bộ trang phục khỉ mà tôi đã từng nhìn thấy trong căn phòng phủ lông chim đỏ. Ngón tay trỏ hắn buộc một chiếc bút lông dài, mảnh, và hắn cứ cặm cụi việc mình, chẳng buồn ngẩng đầu lên nhìn chúng tôi. Hắn đang ghi những chấm và gạch cẩu thả, viết thành hàng dọc lên các mảnh lá cọ khô. Thực ra, từ “người chép sử” hơi sang trọng và to tát quá so với hắn. Có lẽ gọi là thầy tốc ký kiêm kế toán thì đỡ sai hơn. Hay chúng ta nên dịch chức danh của hắn một cách nôm na theo nghĩa đen là “người ghi nhớ”.

Ba người nữa ngồi dựa vào bức tường bên tay phải. Ông bác của Sọ Đá Quý 2, Nhàn Nhã 12, là người gần tôi nhất, tiếp đến là kị của Sọ Đá Quý 2: Chồn 40, và cuối cùng là một người nào đó với lớp vải quấn bên ngoài quá cũ và nát đến mức tôi không đọc được, ngồi sát bên tay trái Sọ Đá Quý 2. Họ đã chết, dĩ nhiên, và được bán ướp xác – tức là về căn bản, họ chỉ là những cái đầu bị tóp lại, có lẽ được nhồi hạt tiêu Ja-mai-ca, đặt trên một nắm xương sống, xương trụ, xương mác, vân vân. Mỗi người được đặt ngồi trên một cái bục giống bàn uống trà của người Ấn Độ, xếp dọc theo cạnh tường bên phải. Còn xương sọ có lẽ đã được chôn cất ở đâu đó cho an toàn, cùng với số xương còn lại, những người vợ được sủng ái nhất và nhiều thứ khác nữa. Họ có mặt ở đây nhưng không tham gia bàn việc.

Sọ Đá Quý 2 đưa hai bàn tay sang hai bên, với người Maya, làm thế cũng như chúng ta nhún vai.

Hun Xoc đặt tôi ngồi xuống một cái chiếu dành cho kẻ dưới. Tôi cúi mắt xuống và tay phải tự động đưa lên vai trái. Tôi nghe thấy tiếng Hun Xoc khom lưng bước ra khỏi cánh cửa phía sau tôi. Sọ Đá Quý 2 nói:

– Ta nhắc lại lần nữa, hãy lấy con giòi bọ của ngươi ra ngay.

Thế là thế quái nào? – tôi phân vân. Tôi tưởng chúng ta đã xong việc này rồi.

Bây giờ, tôi đã học được cách cư xử ở đây đủ để biết rằng nếu không có gì để nói thì cứ ngậm miệng lại. Tôi nhìn xuống đất. Chết rồi, – tôi nghĩ, – lão vẫn sẽ lấy mạng mình. Ôi trời ơi.

– Ta đã gõ quả bóng hông thứ chín của ngươi rồi đấy, – ông ta nói. Câu đó có nghĩa rằng: “Đây là cơ hội cuối cùng của ngươi rồi đấy”.

Tôi nhìn lên.

– Jed? – tôi khẩn khoản. – Ra khỏi đó đi, nhé? Hoặc nếu không cứ nằm yên. Xin mày đấy. Vì đồng đội một lần đi.

Đương nhiên, im ắng chờ đợi một lát, đương nhiên, chẳng có gì xảy ra hết. Nếu thằng Jed ở trong đầu Sọ Đá Quý 2 từng có bất cứ phản ứng gì đặc biệt khi nghe thấy tôi thì ông ta đã chẳng nói thế.

– Liệu hắn có nghe ngươi không? – rốt cuộc Sọ Đá Quý 2 hỏi.

Tôi thưa là tôi không biết.

Tôi lờ mờ đoán rằng Sọ Đá Quý 2 có thể sẽ gột rửa tôi ra khỏi người ông ta như ông ta đã đẩy Chacal ra khỏi người tôi.

– Jed trong đầu ngài đang nói gì? – tôi hỏi.

– Hắn đang kêu gào, – Sọ Đá Quý 2 đáp.

Tôi run lên. Chết tiệt. Tôi tưởng tượng cảnh con ấu trùng chưa phát triển thành tôi hoàn chỉnh đang quằn quại dưới lằn roi của ý chí kiên cường của Sọ Đá Quý 2. Eo ơi. Chắc kinh khủng lắm…

– Ta thấy hắn,

Nhưng không biết tên hắn,

Trong ta,

Cuộc sống của ngươi,

Tựa như một đống bình vỡ.

Ông ta nói, lần đầu tiên có vẻ gần như không dứt khoát.

Hừm, – tôi nghĩ, – ừ, chí ít thì bây giờ ta cũng nói chuyện được với nhau.

Tôi đã bắt đầu học được cách tin tưởng vào những phản ứng tự nhiên của Chacal, tôi vẫn lo phần cân nhắc những quyết định quan trọng nhưng để cơ thể anh ta làm theo bản năng. Và lần này, nó biết là không nên trả lời, vì thế, không bỏ lỡ một giây, tôi tặc lưỡi và ra ý: “Như ngài, ở trên tôi, nói”.

Đừng tự nguyện cho ông ta biết bất cứ điều gì hết, – tôi tự nhủ, – mày càng nói nhiều thì càng dễ toi, hiểu chưa? Ông ta cần mày ở lại để giúp ông ta hiểu được mớ lộn xộn xa lạ trong đầu ông ta. Không phải ông ta không thể tra tấn mày. Nhưng có lẽ ông ta không thực sự muốn tra tấn mày. Có lẽ ông ta không ác đến thế, chỉ là ông ta nổi khùng vì cảm thấy bị xâm phạm thôi. Ở tình thế đó, ai cũng làm vậy thôi. Phải không?

Phải gió, bây giờ tôi lại cảm thấy tội lỗi một cách phi lý. Hoặc có khi cũng chẳng phi lý. Rốt cuộc, tôi đích thị là một tên đồng lõa chiếm đoạt bộ óc ông ta. Thôi quên đi, – tôi tự nhủ, – đừng có thương hại lão. Lão có thể giết mày bất cứ lúc nào đấy.

– Ngươi, kẻ dưới chân ta

Đã làm ta mất một đứa con trai

Và phá hoại gia đình ta

Sao cơ? – tôi nghĩ, – con trai à? Ồ, phải rồi.

Tôi quên tôi đã kể chuyện này rồi. Tôi từng đoán rằng con trai của Sọ Đá Quý 2 đã bị hiến sinh thay tôi sau khi tôi phá hỏng lễ hiến tế trên kim tự tháp. Tôi không biết có nên vờ không biết gì hay không, vì thế tôi hỏi thêm:

– Kẻ dưới chân ngài

Xin được xá tội.

Nhưng kẻ dưới chân ngài

Chưa rõ vì sao

Mình lại gây ra

Tai họa như thế.

Đó là câu gần nhất với một câu hỏi mà tôi nghĩ ra, bởi trong thứ ngôn ngữ này không có cách nào để một tên hèn hạ đặt câu hỏi với người bề trên. Và ngay cả câu ấy cũng chưa được lễ phép cho lắm. Song Sọ Đá Quý 2 vẫn trả lời. Ông ta bảo tôi – một cách hết sức trịnh trọng và đối cách – rằng hai năm mặt trời trước, gia tộc cai trị là nhà Mèo Rừng đã đòi ông ta dâng một món quà để kỷ niệm lễ đặt tên mới và tái đăng quang của tộc trưởng nhà họ. Chim Ruồi Có Nanh 9, với tư cách là Chúa Tể của Những Dòng Nước Màu Mỡ và k’alomte’- chiến binh đứng đầu – của thành Ix. Món quà đó phải một trong hai thứ sau: hoặc xóa hết nợ – điều này tôi kết luận là ông ta không muốn chút nào – hoặc là một đứa con trai dùng làm người thế mạng trong lễ hiến sinh giả của Chim Ruồi Có Nanh 9. Nhưng vì Sọ Đá Quý 2 chỉ có hai đứa con trai ruột nên ông ta đã dàn xếp được một sự thỏa hiệp: một trong những đứa con nuôi của ông ta – nhà vô địch môn bóng hông của thị tộc Đại Bàng: Chacal – sẽ đấu một trận bóng hông có tính chất nghi lễ với Chim Ruồi Có Nanh 9 và sau đó, với tư cách là kẻ thua cuộc, phải lao đầu từ trên kim tự tháp xuống thay cho ông ta.

Và khi Chacal làm hỏng lễ hiến tế vì tỏ ra sợ hãi, Sọ Đá Quý 2 đã cho trói Chacal lại để dành (cho “cái chết bẩn thỉu” theo cách nói của ông ta), rồi cho người đưa tin xuống gặp hai đứa con trai đang đứng trong hàng ngũ của nhà Đại Bàng trên quảng trường dưới chân kim tự tháp. Và đứa lớn, Tro 23, đã ngay lập tức leo lên cầu thang. Đám người hầu trang phục vội vã tô xanh người anh ta và anh ta nhảy xuống.

Sọ Đá Quý 2 dừng lời.

Mẹ kiếp – tôi nghĩ – bất kể ông ta máu lạnh đến đâu thì mất một đứa con hẳn vẫn đau đớn lắm. Bếp lò và củi đây, nhưng con cừu để thiêu hiến tế đâu? Tôi phải xin lỗi thế nào bây giờ? Xin lỗi thì có vẻ không ổn thế nào ấy. Tôi bèn thưa rằng tôi sẽ làm bất kỳ điều gì có thể bù đắp cho ông ta.

Ông ta đáp:

– Nếu thế, ngươi, kẻ dưới chân ta

Sẽ phải nộp nhiều hơn cái đầu của ngươi,

Nhiều hơn hai mươi tun đau đớn,

Nhiều hơn tất cả những đứa con của tổ tiên ngươi.

Tôi xin lỗi, – tôi nghĩ trong đầu.

Ông ta nói tiếp:

– Các con trai của Hơi Nước 18 phải tự lột hàm

Và con trai của Xa 3 cũng đi theo mặt trời

Trong cuộc săn hươu.

Câu ấy có nghĩa là – tôi phải mất một phút mới đoán ra – ba gã k’iik bị tôi đánh bại trong cuộc săn đã nhục nhã đến mức tự chọc thủng một lỗ trên cơ da cổ – ngay sau cằm – xuyên một sợi thừng từ đó sang miệng, thắt nút lại rồi treo lên cành cây hay bất cứ thứ gì khác và ngã đổ người ra sau để giật tung xương hàm.

Và như thể ngần ấy vẫn chưa đủ tệ hại, ông ta còn thêm rằng một k’iik nhà Đại Bàng đã thiệt mạng và bốn người khác bị thương khi tôi cố tự tử trên dốc. Một trong số những người đó bị thương bị tàn tật vĩnh viễn và đang cầu xin được chết.

Chắc cũng có nhiều người phu bị thương nữa, – tôi nghĩ. Nhưng dĩ nhiên ông ta chẳng bận tâm gì chuyện ấy. Tôi định phân bua rằng người cố nhảy xuống không phải tôi mà là Chacal nhưng lại thôi. Sọ Đá Quý 2 biết và điều đó với ông ta không quan trọng. Tôi vẫn có trách nhiệm trong toàn bộ sự việc.

Và toàn bộ chuyện ấy cũng chưa là gì, ông ta nói, so với cái gọi là sự hủy hoại chính trị tôn giáo. Người ta đang xì xào rằng vụ rút lui đầy tai tiếng của Chacal trên đỉnh kim tự tháp đã khiến nữ thần Cóc Đất ngã bệnh và đáng nhẽ chỉ hắt hơi sổ mũi qua loa thôi thì bà ta dám nôn ra mật xanh mật vàng. Hôm nay, những người đưa tin đã từ bờ biển trở về với bản tường trình chi tiết về đợt phun trào khủng khiếp của núi lửa San Martín. Và, như mọi khi, những kẻ đầu óc tiêu cực lại đồn rằng sắp đến ngày tận thế.

Hừ, thế đấy – tôi nghĩ – nhắc đến trận phun trào trong bài diễn văn trên đỉnh kim tự tháp khéo lại chẳng phải ý hay, ừ thì… chẳng phải chuyện gì cũng mỹ mãn được, phải không?

– Vậy, – Sọ Đá Quý 2 nói, kết thúc bài kinh nguyện tai ương của ông ta, – ngươi muốn dâng tặng gì để bù đắp?

– Tôi còn biết một số sự việc nữa sắp xảy ra…

– Giống như trận nôn vừa rồi của nữ thần Cóc Đất ư?

Tôi đáp rằng vâng.

– Chim Ruồi Có Nanh 9 đã biết ngày đó từ cách đây hai tun rồi.

Mẹ kiếp.

Tôi hỏi rằng chẳng phải dự đoán của tôi chính xác hơn sao.

Ông ta trả lời rằng đúng thế, và rằng ông ta đã dùng nó để căn cho chuyến săn hươu đi đến hồi kết đúng lúc. Ông ta hỏi tôi còn biết thêm gì nữa không, tôi có biết chuyện gì sẽ xảy đến với nhà Đại Bàng sau khi ông ta chết không.

Tôi buộc phải nói thật rằng chúng tôi không biết, và chúng tôi chỉ có thể nói rằng thành Ix sẽ bị bỏ hoang sau khoảng hai mươi nhăm năm nữa. Hay chí ít, một phần lớn đất đai hiện đang được tưới tiêu của vùng này sẽ không canh tác được nữa, dấu tích nhà ở và các “đống phân” (một thuật ngữ trong khảo cổ học, ám chỉ những đống đồ phế thải mà người xưa vứt bỏ.) gần như biến mất hoàn toàn và sẽ không thêm bất kỳ công trình nhà cửa hay tượng đài nào được xây dựng nữa.

– Và điều gì sẽ xảy ra với ta sau khi ta chết, vào k’atun sau?

Gì cơ?

À, ý ông ta là cái đầu và bộ xương của ông ta. Tôi đáp rằng tôi không biết. Ông ta không động đậy, giọng ông ta cũng không biến đổi, nhưng tôi vẫn biết ông ta đang mất kiên nhẫn. Chẳng phải ông ta đã biết những chuyện này rồi sao? – tôi phân vân. Tôi lén liếc nhìn ông ta một cái và hơi ngạc nhiên trước điều mà tôi nghĩ là tôi nhìn thấy. Có vẻ gì đó sau cặp mắt rắn đanh kia, vẻ gì đó gần như yếu đuối, hay đúng hơn là đau khổ, thậm chí tuyệt vọng. Ông ta hỏi tiếp về người thừa kế dự định của ông ta. Chạy Bộ 17. Và hóa ra đó không phải đứa con còn lại mà là đứa cháu ông ta yêu quý nhất. Ông ta đã gửi nó đến Oxwitzá, là một vùng ở Belize mà ngày nay – thế kỷ 21 – được gọi là Caracol.

Tôi đáp rằng tôi không biết, nhưng tôi không nhớ là có cái tên nào như thế xuất hiện trên bất cứ tượng đài nào.

Thế này thì không xong rồi, – tôi nghĩ bụng.

– Vậy có còn hậu duệ nào của chúng ta cho chúng ta ánh sáng nữa không? – ông ta hỏi. Ý ông ta là họ có đốt đồ cúng tế cho ông ta và gia đình của ông ta trong những dịp lễ nữa không.

Tôi bèn kể rằng trong những cộng đồng mà chúng tôi gọi là cộng đồng Maya truyền thống, người ta vẫn còn lưu giữ tập quán thờ kính tổ tiên nói chung, rằng họ vẫn đốt đồ cúng tế trong một vài dịp lễ, vân vân và vân vân, nhưng tôi càng nói thì lời lẽ của tôi càng kém thuyết phục hơn. Còn về các chi tiết, tôi nói, như tên tuổi… Ừm, nói thẳng là đến cuối b’ak’tun sau, tên tuổi của ngài có thể sẽ bị quên lãng bởi chính con cháu ngài, và những dòng chữ khắc trên bia của ngài sẽ chẳng được ai biết đến trong sáu mươi k’atun, cho đến khi chúng bị bụi xóa mờ hết và bị hàng tá những kẻ đào trộm mộ có bằng tiến sĩ diễn dịch sai. “Nghĩa là, nếu như tôi không quay trở lại”, tôi nói, cố tìm ra một quyến rũ dắt thật thông minh. Tôi nói với ông ta rằng chúng tôi thậm chí có thể viết lại tất cả những công trạng của ông ta, cũng như lịch sử của cả triều đại, tôi sẽ đem nó về cùng tôi và đảm bảo sao cho người ta thật chú ý đến ông ta…

Ông ta hít thở vào một hơi thành tiếng. Dấu hiệu đó có nghĩa là: “ngươi được ta cho phép câm miệng lại”.

Tôi câm miệng.

Ông ta hỏi điều gì sẽ xảy ra trong 256 ánh sáng còn lại của tun này.

– Khói Ngọc Bích 10 của xứ K’an Ex sẽ lên ngôi vào ngày Mưa 4, Kết thúc 17, – tôi đáp, – 23 ánh sáng sau đó, ông ta sẽ bắt sống Đánh Lửa 2 của thành Lakamba. (Nhắn nhủ bản thân: nhiều cái tên rối rắm quá. Quay lại câu chuyện và giải thích xem cái chết tiệt gì đang diễn ra đi – Jed DeLanda).

– Vậy có bao nhiêu khói dẫn đường của ta? – Sọ Đá Quý 2 hỏi. Nghĩa là sao ta phải quan tâm đến chuyện ấy.

– Có lẽ là chẳng có khói nào hết, – tôi đáp. Mẹ kiếp, hết chuyện để kể rồi. Có lẽ tôi nên hỏi phắt ông ta về trò chơi thì hơn. Không, đừng. Mày vẫn đang đứng trên cát lún đấy.

– Còn gì nữa?

Quái thai thật. Nào, Jed DeLanda, nghĩ ra chuyện gì đi. Hoặc bịa ra cũng được, ít ra chuyện bịa thì lão ta sẽ không biết trước. Trừ phi… không, lão này là tay ghê gớm đấy. Đừng tìm cách lừa người đã chứng minh được rằng ông ta sắc sảo hơn mày. Cứ để ông ta quyết định xem mày có ích lợi gì ở đây không. Thế nhé.

– Tôi có thể giúp nhà Đại Bàng chiếm ưu thế trong mọi trận đánh, – tôi nói. Tiếng Ix của tôi nghe không được tự nhiên, nhưng chí ít tôi cũng có thể ba hoa mà không phải nghĩa ngợi nhiều như lúc đầu. – Ông hãy tìm “vũ khí” trong ký ức của Jed mà xem.

– Vũ khí gì? – ông ta hỏi.

Tôi mô tả thuốc nổ và nói trong ký ức của tôi chắc chắn phải có vài loại. Ông ta xem ra cũng hiểu. Tôi giải thích rằng tôi có thể pha chế ra thuốc súng trong chưa đến hai mươi ngày.

Thay vì trả lời, Sọ Đá Quý 2 châm một điếu xì gà xanh dài trên ngọn nến bấc. Ông ta dùng một ngón tay bịt một bên lỗ mũi và phì khói qua lỗ mũi bên kia.

– Nếu ai đó nhìn thấy thứ vũ khí ấy, – ông ta nói, – thậm chí nếu có ai đó nghe đến nó thôi, chúng sẽ cho rằng ta mua nó từ một kẻ reo rắc ghẻ.

Kẻ reo rắc ghẻ là kẻ có thể gây cho anh bệnh ngoài da bằng cách thổi vào anh từ xa. Nói rộng ra, nó có nghĩa là bất cứ kẻ nào gây ra những trò tai quái bí ẩn, tức là bọn yêu thuật hoặc phù thủy. Kẻ reo rắc ghẻ có thể là người hoặc không phải người hoàn toàn, lão ấy hoặc mụ ấy có thể còn sống, đã chết hoặc lửng lơ, không sống cũng chưa chết. Nhưng dù thế nào chăng nữa, nếu anh là một cột trụ của cộng đồng như Sọ Đá Quý 2, anh sẽ không bao giờ dính dáng đến loại người ấy.

Tôi nói rằng ban đầu, chúng tôi – tôi thầm in nghiêng từ chúng tôi trong đầu – có thể chế ra vài chiếc cung tên và huấn luyện một đội k’iik sử dụng chúng. Cung tên có thể là vũ khí mới lạ ở đây (chuyện này kể cũng hơi kỳ quặc – tôi nghĩ) nhưng sẽ không ai coi chúng là siêu nhiên cả.

– Ta biết cung tên là gì, – ông ta nói, – những tên trán cong trong rừng sâu dùng chúng để bắn chim. Nhưng những người trán phẳng không thể chạm vào chúng được.

Ông ta nói “những người trán phẳng” tức là muốn chỉ tộc người Maya thanh lịch chúng tôi, những người có vầng trán rất phẳng. Vầng trán đó được tạo ra bằng cách bọc đứa trẻ sơ sinh vào một cái khuôn gắn mảnh ván đặt nghiêng ép vào trán, và nó được coi là thanh nhã và hợp thời trang. Còn những tên trán cong có thể coi là bất cứ ai không có được cái trán phẳng như thế: những tên nô lệ trong nhà, những kẻ ngoại bang, hay trong trường hợp này là những tộc người man mọi.

– Nhưng kể cả không có những loại vũ khí mới, tôi vẫn có thể giúp thị tộc của chúng ta trở nên vững mạnh, – tôi nói. – Những việc tôi có thể làm… (tôi cố tìm một từ tương ứng với công nghệ) … những tay nghề không chỉ để làm ra đồ vật mà tôi biết. Chúng còn là vô số cách chiến thuật hóa.

– Ý ngươi là cách tốt hơn? – Sọ Đá Quý 2 hỏi.

– Không hẳn, – tôi đáp.

Có khi tệ hơn ấy chứ. Đồ con hoang nhấm nhẳn, – tôi nghĩ, – ừ thôi, chí ít mình cũng khiến được lão ta nói chuyện với mình. Tốt rồi. Bây giờ việc mình cần làm là khiến lão nghĩ mình là tay mafia cừ khôi nhất sau Karl Rove.

– Giả sử các k’iik của chúng ta bị đột kích, – tôi nói, – nếu chúng quyết định giết hết thay vì bắt làm tù binh. Họ…

Ông ta ngắt lời tôi bằng một tiếng “Zzzz!”, nghĩa là “suỵt!”

– Bọn Búa Lớn đang ở gần đây, – ông ta hơi thì thào, – trong nhà chúng ta, quanh bếp lò của chúng ta.

Búa Lớn à? – tôi ngẫm nghĩ. Tôi không hiểu chúng là thứ gì, nhưng qua Chacal, tôi có cảm giác rằng chúng là người, còn sống và quyền lực hơn chúng tôi.

– Ngài, ở trên tôi, nói Búa Lớn là muốn chỉ các Mèo…

– ZZZZZZ!!

Tôi ngậm miệng lại. Mắt cắm xuống đất. Tất cả im lìm, trừ tiếng bút lông của người ghi nhớ sột soạt trên tấm lá khô. Tôi lén liếc nhìn hắn qua khóe mắt. Hắn quyệt thêm vài nhát nữa rồi dừng lại. Tôi đoán ra là hắn đang ghi lại cuộc nói chuyện của chúng tôi bằng một loại tốc ký nào đó. Hừmm.

Tôi đếm đến mười rồi ngẩng lên nhìn Sọ Đá Quý 2. Nét mặt ông ta như tượng gỗ sau làn khói thuốc lá. Cặp mắt đanh lại. Đồ ngu, Jed, – tôi tự rủa, – mày là đồ ngu, đồ ngu, đồ ngu.

– Chúng ta đã nhìn thấy Chúa tể của các Búa Lớn lảng vảng quanh đây, trong bộ da đi săn, – Sọ Đá Quý 2 nói. Chắc ông ta muốn ám chỉ Chim Ruồi Có Nanh 9, – tôi nghĩ. Họ cho rằng Chim Ruồi Có Nanh 9 có thể biến hình thành một con báo đốm và bí mật tuần tra quanh các làng của bốn tiểu ahau dưới quyền ông ta, nghe lỏm chuyện của họ qua các bức tường đá với thích giác siêu việt của họ nhà mèo. Và nếu tôi nhỡ quên mà nhắc đến tên của bất kỳ ai,uay của ông ta sẽ biết ngay. Và tôi sẽ gặp rắc rối. Rồi. Hiểu rồi.

Nhưng…

– Ngài không thể vẫn còn tin vào chuyện ấy được, – tôi nói, – hãy nhìn vào ký ức của tôi mà xem, ngài biết rằng không ai làm được điều ấy.

Sọ Đá Quý 2 không trả lời. Thay vào đó, ông ta dùng lỗ mũi hít một hơi thuốc dài và phà vào mặt tôi. Thoạt tiên, tôi hết sức khó chịu, nhưng rồi tôi nhận ra hành động đó không có ý xúc phạm. Ông ta đang cố xua tan nốt sự ô uế của Jed còn rơi rớt lại. Kể cả khi đã trải qua tất cả mọi nghi lễ gột rửa mà người ta có thể nghĩ ra, tôi vẫn là một con bệnh ghê tởm. Thứ khói thuốc này nặng hơn nhiều so với thuốc của thế kỷ hai một. Thuốc lá dại. ọe. Như tôi đã kể với các bạn, tôi nhai thuốc lá, nhưng không hút, trừ khi làm lễ cúng, như cúng thánh Maximôn chẳng hạn. Nhưng lúc này… hừm. Lạ sao, tôi nhận ra mình muốn làm một điếu xì gà. Tôi đoán đó là thói quen của Chacal. ọe. ực. Buồn nôn và tứa nước dãi thèm thuồng cùng một lúc.

Tôi ngồi xuống. Được rồi, – tôi nghĩ, – lần này nhường ông ta vậy. Và đừng cố thuyết phục những thứ mà ông ta chẳng đời nào hiểu. Đừng cố dẫn ông ta vào thế giới quan điểm khoa học làm gì. Nếu ông ta tin vào phù thủy và người báo thì cứ mặc xác ông ta.

Và tôi cũng bắt đầu hiểu ra rằng trong xã hội này, người ta không bao giờ chỉ có một mình. Ngay cả lúc này, khi chúng tôi đang nói một câu chuyện mà Sọ Đá Quý 2 muốn giữ bí mật thì bên cạnh ông ta vẫn có đống người – hừ, với ông ta, như thế này cũng đã là riêng tư lắm rồi. Ở đây, ngay cả khi anh không tình cờ bị ý thức của người khác ám trong đầu thì anh cũng chẳng bao giờ được ở yên. Không ai ngủ một mình, thậm chí không ai ngủ chỉ với một người khác, họ ngủ chung cả gia đình trong một căn phòng nhỏ, còn nếu là giới thượng lưu, họ ngủ cùng với người hầu và vệ sĩ túc trực bên cạnh. Không ai ăn một mình. Không ai đi lại một mình. Không ai làm việc trên cánh đồng một mình. Và không ai sống một mình. Khi vô tình bị tách khỏi bầy đàn dù chỉ một phút thôi, người ta sẽ vô cùng bất an. Vì thế, ngay cả trong cuộc sống thường nhật, dù chỉ là một người bình thường, anh cũng không có cơ hội có bí mật.

– Vậy ta, ở trên ngươi, sẽ làm gì với ngươi bây giờ? – Sọ Đá Quý 2 hỏi.

Tôi quyết định rắn mặt một chút.

– Ngài, ở trên tôi, hẳn phải có sẵn ý định với tôi rồi, – tôi đáp, – vậy việc gì phải lòng vòng tốn công thế?

Sau ba giây, tôi nghĩ ông ta mỉm cười, không phải do cử động trên miệng mà vì má ông ta hơi nhăn lại. Chí ít thì lão già này cũng có tí tẹo máu cười.

– Điều gì khiến ngươi, dưới chân ta, nghĩ rằng ta cho ngươi sống để làm chuyện gì hay ho? – ông ta hỏi.

Ú… ù… tôi chả biết trả lời thế nào.

– Ta vẫn muốn ngươi trong bóng tối, – ông ta đáp. Câu ấy nghĩa là: “Ta vẫn còn điên tiết với ngươi lắm”.

Tôi nhìn lên, và trái với ý mình, tôi nhìn vào mắt ông ta. Một cái nhìn rụt rè, nhưng dai dẳng. Việc nhìn thẳng vào mắt nhau ở đây nếu có cũng rất hiếm. Nhưng tôi không dứt được mắt ra.

Cặp mắt ông ta chẳng thân thiện chút nào.

– Nào, kẻ ở dưới chân ta, – ông ta nói, – ta còn cơn giận chưa trút hết với ngươi. – Ông ta ngừng lại một lát. – Ta sẽ làm nhiều trò với ngươi đấy.

Ôi, mẹ nó chứ, – tôi nghĩ, – nặn óc ra cái gì đi.

Tôi cuống quýt nhìn quanh. Tôi nhìn tên vệ sĩ. Hắn vẫn đang quỳ gập người bên phải Sọ Đá Quý 2, không động đậy, cách ông ta chừng hai sải tay, mặt ngoảnh về hướng khác, mắt chăm chăm nhìn xuống một điểm trống không trên tấm vải trải sàn màu đỏ. Tôi nhìn gã “ghi nhớ”. Hắn đã ngừng viết, đang rửa bút trong một cốc nước. Tôi nhìn các đống rổ rá hòm xiểng. Tôi nhìn lão già che tấm mạng.

A, Tôi phát hiện ra tay lão có gì lạ rồi. Chúng đầy lông.

Hẳn các bạn cũng biết, cơ thể người châu Mỹ bản xứ không nhiều lông lắm. Tôi – ý tôi là cơ thể của Jed, kẻ lúc này chắc đang thảnh thơi uống một ly cốc-tai dứa – có chính xác năm sợi lông ngực. Mà đấy là nó có hơn một phần ba dòng máu Tây Ban Nha trong mình đấy. Ở đây, vào thời xa xưa này… hừ… tôi chưa hề nhìn thấy một cái râu hay lông nào. Nhưng tôi biết nó không phải thứ chưa ai từng nghe đến, vì ở thế kỷ 21, tôi đã từng nhìn thấy vài bức tượng người Maya cổ có râu cằm. Có lẽ chỉ những người thuộc một vài gia đình đặc biệt mới được để râu và lông, hoặc phải hơn bảy mươi tuổi, hay thế nào đó. Tôi nhìn lão kỹ hơn. Bàn tay lão cầm một viên sỏi. Và cái cách mà lão ta cầm nó…

Đó là một người đếm mặt trời, – tôi nhủ thầm.

Chả trách lão được phép có mặt ở đây lúc này, được nghe hết câu chuyện này… vì người đếm mặt trời của anh càng biết nhiều chuyện của anh càng tốt. Như thế, lão mới tiên đoán mọi việc cho anh chính xác hơn. Dĩ nhiên, lão ta phải là người được tin cẩn, một kẻ thực sự thân tín. Như linh mục nghe xưng tội vậy. Lão chắc chỉ làm việc riêng cho gia đình Sọ Đá Quý 2. Thậm chí có thể bị giam hãm, vì lão biết mọi bí mật.

Tôi hướng về phía người đếm mặt trời.

– Ta, ở bên cạnh ông, muốn xin một ván cờ, – tôi nói.

Bình luận