Trác Mộc Cường Ba dẫn theo đội của mình đơn độc tiến lên giữa chốn rừng rậm hoang dã đầy rẫy quái thú hoành hành nhưng chẳng có vết dấu gì của loài người ấy. Trên đường, họ quẳng lại sau lưng hết thảy những sợ hãi và mệt mỏi, tạm thời quên đi đau đớn và nỗi buồn, nói theo cách của Nhạc Dương, thì dù có bi thương đến mấy đằng nào cũng phải tiến lên phía trước, vậy cớ sao không vui vẻ mà đi cho rồi.
Điều đáng tiếc duy nhất trong hai ngày nay chính là vết thương ở mông Sean, chẳng những không có dấu hiệu thuyên giảm, mà ngược lại còn có xu hướng ngày một trầm trọng hơn. Về sau, cứ mỗi lần Sean chống cây gậy xuống, cả bọn đều nghe thấy anh ta khẽ rên lên một tiếng, xem chừng có vẻ đang gắng sức chịu đựng, nhưng mồ hôi trên trán thì vẫn túa ra không sao kìm được. Sau khi cùng chẩn đoán, Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn đều cho rằng vết thương của Sean như vậy thì không thể tiếp tục tiến lên được nữa. Lúc ấy sắc mặt anh ta tái dại đi, mấy ngày này, anh ta vẫn luôn gắng gượng, cố hết sức không để tình trạng này xảy ra. Nhưng ngay sau đó, đề nghị của Trác Mộc Cường Ba đã hoàn toàn biến đổi nỗi lo của Sean. Gã đề nghị, liệu có nên làm cho Sean một cái cáng, rồi mọi người thay nhau cáng anh ta tiếp tục lên đường. Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La đưa ánh mắt trao đổi giây lát, nhưng cuối cùng vẫn đồng ý, cho dù nghi ngờ Sean có mục đích gì đi nữa, thì anh ta cũng đã đạt được rồi. Bỏ Sean lại trong hoàn cảnh này, tốc độ tiến lên của họ rất có thể còn chậm hơn khi phải cáng anh ta theo, càng huống hồ họ cũng không có chứng cứ gì, nhất là đội ngũ này không thể cứ thế bỏ lại người bị thương rồi đi tiếp được.
Những ngày này, pháp sư Á La và đội trưởng Hồ Dương không lúc nào ngừng việc chỉnh lý sắp xếp cuốn Nhật ký thôn Công Bố và những quyển kinh văn còn sót lại, hy vọng có thể tiếp tục đào xới được thêm một số đầu mối có ích khác nữa. Những người khác sau khi hoàn thành việc của mình, có lúc cũng lại giúp họ một tay. Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam thì dành thời gian chăm sóc Sean nhiều hơn một chút, hễ làm xong công tác phòng ngự và trinh sát, Trương Lập và Nhạc Dương cũng chạy qua lăng xăng giúp đỡ hai cô.
Ban đầu mọi tư liệu đều được lưu vào máy tính, chỉ mình pháp sư Á La tiến hành phiên dịch và giải nghĩa, nhưng giờ đây, trong đống trang bị của bọn Merkin còn có cả thiết bị lưu trữ và đọc dữ liệu cỡ nhỏ, pháp sư có thể chia các tư liệu trong máy tính ra theo từng khoảng thời gian, chuyển vào thiết bị lưu trữ của từng thành viên trong đội, hiệu suất nghiên cứu Nhật ký thôn Công Bố liền tăng lên đáng kể.
Phần Nhật ký phân cho Trương Lập, hình như chỉ toàn ghi chép những chuyện vụn vặt lắt nhắt, chẳng hạn như năm nào tháng nào đi đến đâu, mang theo những thứ gì, đổi về những thứ gì. Mặc dù thế, anh cũng phát hiện được rất nhiều chữ lạ, không hiểu nghĩa là gì, bèn đi tìm pháp sư Á La để nhờ chỉ giáo.
Lúc Trương Lập đến chỗ pháp sư Á La, ông và đội trưởng Hồ Dương đang thảo luận rất sôi nổi, nói toàn những gì mà Lục đạo, hoa sen tám cánh, cung điện gì gì đó. Đột nhiên đội trưởng Hồ Dương hét lớn một tiếng, kích động tóm chặt tay pháp sư Á La kêu lên: “Pháp sư còn nhớ Đại Thiên Luân kinh miêu tả thế giới này được cấu thành như thế nào không? Đoạn ở ngay đầu tiên ấy!”
Pháp sư Á La cũng đánh mất vẻ bình tĩnh thường ngày, trợn trừng mắt lên nói: “Ý cậu là, đây không phải Shangri-la? Đúng thế, nó không giống với những gì được ký tải trong Đại Thiên Luân kinh, nó là cả một thế giới!”
Đội trưởng Hồ Dương nắm chặt tay đấm vào tảng nham thạch lớn bên cạnh mình, thốt lên: “Đúng là vậy rồi! Đúng là vậy rồi!”
Trương Lập chẳng hiểu gì, đần mặt ra hỏi: “Pháp sư, đội trưởng Hồ Dương, hai người đang nói gì vậy? Cái gì không phải là Shangri-la? Đúng vậy rồi là sao?”
Pháp sư Á La bèn giải thích: “Thực ra, khi nghiên cứu Nhật ký thôn Công Bố, chúng tôi đã phát hiện ra danh xưng họ gọi nơi này không phải Shangri-la chúng ta vẫn cứ nói, mà là một từ khác. Lẽ dĩ nhiên, chúng tôi cho rằng từ này chính là để chỉ Shangri-la, nhưng hôm nay, đội trưởng Hồ Dương đã xác định được từ nguyên của Shangri-la rồi. Dựa theo phần miêu tả trong Nhật ký thôn Công Bố này, Shangri-la chắc là nằm ở một nơi nào đó trên tầng bình đài thứ ba mới đúng.”
Trương Lập lắp bắp nói: “Cháu… cháu không hiểu, pháp sư Á La, cháu hồ đồ mất rồi. Nơi này, không phải Shangri-la? Shangri-la ở một nơi nào đó trên tầng bình đài thứ ba? Vậy thì… nơi này… nơi này là cái gì? Còn Mật quang Bảo giám mà chúng ta diễn dịch ra thì sao? Nó chỉ cái gì? Hay là chúng ta đã nhầm?”
Đội trưởng Hồ Dương bật cười khà khà, đưa tay vỗ lên lưng Trương Lập một cú rõ mạnh. Pháp sư Á La gật đầu nói: “Đây cũng chính là vấn đề chúng tôi vừa tranh luận khi nãy. Nếu nơi này, toàn bộ không gian ở bên trong khe nứt khổng lồ giữa lòng núi này, không phải là Shangri-la, mà Shangri-la chỉ là một phần trong nó mà thôi, vậy thì nơi này rốt cuộc là nơi nào đây? Đúng lúc cậu bước đến, thì tôi và đội trưởng Hồ Dương đã rút ra được một kết luận có thể nói là tương đối chuẩn xác rồi.”
Pháp sư Á La hướng ánh mắt về phía mép bình đài, chậm rãi nói: “Người bộ tộc Qua Ba cổ đại coi chốn này như một thế giới độc lập. Họ cho rằng, bất luận là băng qua U Minh hà hay vượt qua núi tuyết thần thánh thiêng liêng, thì cũng đều là những quá trình siêu thoát khỏi sự sống và cái chết. Đối với họ, toàn bộ không gian bên trong khu khe nứt này chính là một thế giới hoàn toàn mới, nơi đây chính là toàn thế giới, toàn vũ trụ; quả núi có ba tầng bình đài hình chóp ngược này, chính là núi Tu Di.
Trương Lập vẫn chưa hiểu, đội trưởng Hồ Dương bèn giải thích thêm: “Cậu còn nhớ Đại Thiên Luân kinh miêu tả vũ trụ cấu thành như thế nào không? Thế giới vật chất do Tứ luân: địa, thủy, hỏa, phong tạo nên. Phong luân ở chốn hư không, bên trong là Hỏa luân do nó nâng đỡ, có bảy tầng, tầng thứ bảy gọi là Kim Cương sơn hay Danh Mã Diện Hỏa sơn; bên trong ngọn núi lửa ấy là Thủy luân, cũng có bảy tầng, tầng thứ bảy được gọi là Diêm Hải; bên trong nó là Địa luân, trung tâm của Địa luân chính là núi Tu Di, trên dưới núi Tu Di có những vòng vây quanh, dạng như cái đĩa đồng úp ngược ra phía bên ngoài, tầng dưới cùng nhỏ nhất, càng lên trên càng lớn dần, thực chất chính là một hình chóp nón trên lớn dưới nhỏ úp ngược. Cậu nghĩ lại những gì chúng ta đã trải qua khi tìm đến được nơi này mà xem, bên ngoài núi tuyết là gió thốc cuồng loạn, lại còn cả biển ngầm và kết cấu thông đạo của U Minh hà nữa, đều là do núi lửa cổ đại tạo thành, dung nham núi lửa đã hình thành nên biển ngầm, mà bình đài ba tầng hình chóp ngược chân nhỏ đầu to này chính là ở giữa biển ấy. Từ đầu đến giờ, chúng ta không hề liên hệ gì giữa kết cấu hình chóp ngược này và núi Tu Di cả, giờ nghĩ lại mới thấy, ba tầng bình đài mà chúng ta đang leo lên đây, đích thực chính là núi Tu Di rồi!”
Trương Lập ngạc nhiên thốt: “Đây… đây là núi Tu Di? Thế còn Shangri-la đâu? Mật quang Bảo giám không phải chỉ đường đến Shangri-la hay sao?”
Đội trưởng Hồ Dương nói: “Theo tôi nghĩ, trước đây chúng ta đã hiểu lầm rồi. Trong Mật quang Bảo giám, vệt chỉ đường ẩn tàng ấy không phải chỉ đường cho chúng ta đến Bạc Ba La thần miếu, mà là đến Shangri-la. Shangri-la, chỉ là một phần trong thế giới Tu Di này mà thôi. Người đời muốn tìm kiếm Shangri-la ở thế giới bên ngoài kia là chuyện không thể nào thực hiện được, bởi vì Shangri-la, Shangri-la ở bên trong thế giới này, đây… đây là một thế giới hoàn toàn khác với thế giới bên ngoài. Cậu nhìn đây đi…” Đội trưởng Hồ Dương chỉ vào máy tính, nói với Trương Lập: “Những người dân trong thôn Công Bố ở tầng thấp nhất này tự nhận rằng ngôi làng của họ tọa lạc ở miền giáp ranh giữa Thánh vực và Phiên vực, đây cũng là những gì được miêu tả về thế giới Tu Di trong Đại Thiên Luân kinh. Dọc theo chân núi Tu Di chia ra làm bốn góc vuông, mỗi góc là một châu, mỗi châu lại chia thành ba khu Đông, Trung, Tây. Cách lý giải thông thường về Đại Thiên Luân kinh cho rằng, phàm nhân như chúng ta cư trú ở nửa vùng phía Bắc khu Trung của châu phía Nam, vùng này lại được chia làm sáu khu vực nhỏ, từ Bắc đến Nam lần lượt là Tuyết sơn tụ, Shangri-la, Hán vực, Lê vực, Phiên vực, Thánh vực. Các nhà nghiên cứu cho rằng, Phật giáo được truyền vào từ Ấn Độ, vì vậy Thánh vực để chỉ Ấn Độ, Phiên vực là chỉ Tây Tạng, Lê vực đại khái chắc là vùng Tân Cương, Tuyết sơn tụ chắc là vùng cực Bắc của Đại Lục, còn Shangri-la rốt cuộc là ở đâu thì vẫn chưa có kết luận nào rõ ràng. Ngoài ra còn rất nhiều luận định nhất trí cho rằng núi Tu Di mà người xưa nói, kỳ thực chính là chỉ Hy Mã Lạp Sơn, ai có thể ngờ được… ai có thể ngờ được! Thì ra núi Tu Di lại là núi ở bên trong núi!”
Trương Lập hoàn toàn đắm chìm vào cảm giác chấn động pha lẫn kinh hãi, núi Tu Di, Shangri-la, những danh từ trong truyền thuyết ấy cứ luân phiên xuất hiện trở đi trở lại trong đầu anh. Pháp sư Á La giật lấy chiếc máy tính, nói: “Chúng ta vẫn còn phải đọc thêm nhiều tư liệu nữa, để xem có thể kết hợp với hình vẽ trên gương đồng mà vẽ ra một tấm bản đồ cụ thể và tỉ mỉ của núi Tu Di hay không. À, đúng rồi, Trương Lập, cậu tìm tôi có việc gì đấy?”
Trương Lập giật mình sực nhớ ra, vội nói: “À, vâng, pháp sư, ở đây có một số phần cháu không hiểu nghĩa lắm, muốn nhờ ông xem giúp.” Nói đoạn, anh liền chuyển phần tư liệu mình được chia cho vào máy tính.
Pháp sư Á La nhìn lướt qua tư liệu, “ồ” lên một tiếng, nói: “Trong này có rất nhiều từ ngữ tu sức, chẳng trách cậu lại không hiểu. Ừm…” Vừa đưa mắt đọc, pháp sư Á La vừa mỉm cười hiền hòa. Trương Lập đứng bên cạnh cuống cuồng hỏi: “Sao rồi ạ? Pháp sư, trong đó viết gì vậy?”
Pháp sư Á La giải thích: “Đây chắc là một dạng kiểu như du ký do người phụ trách ghi chép Nhật ký của thôn làng viết ra, miêu tả lại những nơi bản thân từng đi qua và những gì mắt thấy tai nghe. Ừm, thời gian này… tính theo lịch pháp Thiên Luân…” Pháp sư Á La gõ mạnh lên bàn phím máy tính, kích động nói: “Trong những tư liệu chúng ta phát hiện được, đoạn ghi chép này có lẽ khá gần với thời gian thôn Công Bố xảy ra thảm họa diệt tộc, phải nghiên cứu cho kỹ vào. Trương Lập, cậu chú ý tìm lại coi, trong phần tư liệu cậu được phân cho đó có đoạn nào tương tự như như vậy nữa không, cứ tìm hết loạt ra. Rất có thể, chúng ta sẽ tìm được trong đó nguyên nhân thôn Công Bố bị đồ sát cũng nên đấy.”
Trương Lập gật đầu nói: “Vâng ạ. Thế đoạn ấy rốt cuộc là viết gì thế ạ? Cháu chỉ biết trong ấy có một tên người, hình như tên là A Mễ hay gì đó, phải không ạ?”
“Mã Cát A Mễ, cái tên đẹp thật!” pháp sư Á La chậm rãi nói. “Xem chừng, người ghi chép của thôn Công Bố này rất để ý tới cô bé đó, mỗi lần nhắc đến Mã Cát A Mễ, đều dùng khá nhiều từ tu sức.”
Nghe pháp sư Á La nói thế, cả đội trưởng Hồ Dương cũng thấy tò mò, Trương Lập lại càng nôn nóng thúc giục: “Pháp sư đọc lên nghe thử xem thế nào đi, đọc thử đi ạ.”
Pháp sư Á La chuẩn bị một chút, rồi chầm chậm đọc thành tiếng bằng chất giọng thấp trầm: “Đêm nay, vầng trăng đã lâu rồi không xuất hiện chiếu rọi khắp muôn nơi, tiếng lá cây xào xạc tấu lên một khúc nhạc tuyệt mỹ dưới ánh trăng vàng, bóng trăng loang lổ, tinh tú chuyển dời, ánh trăng chiếu xuyên qua tán cây rậm rạp rải xuống thảm cỏ màu bích lục, trên mặt đất tựa như có dòng sông sao đang chảy. Ta đầu đội ánh sao, chân bước qua dòng sông sao, đón ngọn gió nhè nhẹ mát lành tiến về phía trước, cảnh đêm đẹp tuyệt trần ấy làm ta quên đi cả thời gian và mệt mỏi. Dần dần, bóng trăng ngả về Tây, phía góc trời đã thấy có ánh sáng, tia nắng đầu tiên của ban mai chiếu qua màn sương mờ vẫn chưa khép hẳn lại phủ lên khu rừng, sương sớm ngưng kết thành vô vàn tinh linh bé nhỏ, những hạt sương run rẩy nghịch ngợm lượn tròn trên đám lá xanh mơn mởn mới nhú, trong khu rừng tĩnh lặng truyền lại tiếng chim trong trẻo véo von, dòng suối hân hoan khẽ cất tiếng ngâm nga, chúng chảy từ núi tuyết xuống, xuyên qua Thánh vực. Đã lâu lắm lâu lắm rồi ta không tìm đến Thánh vực tĩnh lặng thanh bình này nữa. Hôm nay đã được định sẵn là một buổi ban mai không bình phàm, ta bước lên thảm cỏ xốp mềm, tựa hồ như trong cõi vô minh có một thứ lực lượng đang chỉ dẫn ta tìm kiếm gì đó, ta cũng không biết đó là gì, cho tới khi thấy bóng hình yêu kiều mong manh đó. Một thiếu nữ đi nhặt quả phỉ, nàng quỳ một chân trên bãi cỏ, xoay lưng hướng về phía ta, bên cạnh có một chiếc giỏ trúc nhỏ, nàng rất chăm chú, hoàn toàn không biết ta đang tiến lại gần. Nếu nói thần Tự nhiên khẳng khái đã trải ra trước mắt ta một bức tranh diễm lệ, vậy thì, chẳng nghi ngờ gì nữa, cô bé đó chính là trung tâm của bức tranh ấy, nàng hòa lẫn với khu rừng thành một thể hài hòa thống nhất, cảm giác như sự tồn tại của ta chỉ là dư thừa. Khi nàng ngoảnh đầu lại nhìn, ta lấy làm kinh ngạc trước vẻ đẹp đó, rồi bỗng bàng hoàng hiểu ra, thì ra ánh nắng mai như mộng cảnh này, chính là để tôn lên vẻ đẹp ấy! Trên gương mặt thanh nhã non tơ đó, ta có thể nhìn thấy dung nhan tuyệt thế của nàng sau này, trong đôi mắt nàng, ta càng có thể thấy cả khu rừng mênh mông. Một sắc xanh tràn ngập, thậm chí cả trái tim già nua mệt mỏi này của ta, cũng vì thế mà được rót tràn trề một sức sống mới…”
Trương Lập và đội trưởng Hồ Dương tựa như đang nghe một đoạn tản văn tuyệt mỹ, tâm thần say sưa chìm đắm, thấy pháp sư Á La ngừng lại, cả hai không hẹn mà đồng thanh hỏi: “Hết rồi à?”
Pháp sư Á La mỉm cười, tiếp tục đọc: “Ta khâm phục sự dũng cảm của nàng. Chắc mới chỉ khoảng bảy tám tuổi thôi, vậy mà đã dám một mình vào chốn rừng sâu này nhặt quả phỉ, lẽ nào nàng không biết, bất cứ loài động vật nào ở đây, bất cứ một cây rừng nào ở chốn này, cũng có thể đưa nàng vào chỗ chết? Đối mặt với một kẻ lạ mặt đi ra từ trong rừng sâu như ta, nàng cũng không hề có vẻ sợ hãi hay hoảng hốt gì, ngược lại còn nở một nụ cười ngọt ngào. Nụ cười ấy như thế nào nhỉ, trong những năm tháng đầy rẫy khổ đau này, nụ cười ấy đủ sức mạnh để xua tan tất thảy mọi bi thương và tang tóc. Ta cũng thấy yên tâm phần nào, một thiếu nữ có nụ cười như thế, chắc hẳn sẽ được chư thần bảo hộ, dẫu là đám người Lỗ Mạc hung mãnh nhất, nhìn thấy nụ cười đó, chắc cũng không nhẫn tâm mà ra tay với nàng đâu. Cô bé ấy là… là một tinh linh có nụ cười của Thiên sứ.”
“Thiên sứ?” Trương Lập tròn mắt nhìn pháp sư Á La.
Pháp sư Á La nói: “Tôi chỉ cố để dịch sao cho các cậu có thể hiểu được.” Đội trưởng Hồ Dương vừa ra hiệu cho pháp sư Á La tiếp tục đọc, vừa lừ mắt lườm Trương Lập, tựa như đang trách anh chàng phá thối, ngắt lời pháp sư Á La.
“Bởi một cảm giác thân cận hết sức tự nhiên, ta lại gần nàng, cùng nàng trò chuyện. Thiếu nữ ấy nói với ta, nàng tên là Mã Cát, Mã Cát A Mễ, một cái tên đẹp đến độ khiến người ta đắm say ngây ngất. Năm nay nàng tám tuổi, đang sống chung với bà nội ở thôn Công Nhã Lạp gần đây, bà nàng không được khỏe, nên Mã Cát đi nhặt quả phỉ về cho bà ăn. Được Mã Cát mời, chúng ta cùng nhặt quả, hái hoa, kết vòng cỏ, chơi đùa. Sự ngây thơ thuần khiết của nàng khiến ta quên đi cả tuổi tác của mình, tựa hồ lại trở về với những năm tháng vô ưu vô lự thuở ấu thơ. Buổi sớm hôm ấy khiến ta trọn đời cũng khó thể nào quên. Bởi vì vui, cho nên vui, cảm giác vui vẻ đơn thuần ấy, khiến ta hồi tưởng lại được niềm vui thích thật sự. Điều khiến ta kinh ngạc nhất là, từ lời kể của Mã Cát, ta biết được rằng cha mẹ nàng đã chết trong chiến tranh, nàng và người anh trai hơn hai tuổi xưa nay vẫn quấn quýt nương tựa lẫn nhau cách đây không lâu cũng bị ly tán trong nạn đói. Nhưng ở thiếu nữ này, ta chỉ nhìn thấy niềm hoan lạc và sự kiên định. Niềm vui của nàng khiến từng ngọn cỏ cành cây xung quanh cũng thấm đẫm vẻ hân hoan thích thú. Thiếu nữ ấy nói với ta bằng giọng khẳng định chắc nịch, bà nàng nhất định sẽ khỏe lại, chiến tranh nhất định sẽ kết thúc, anh trai nàng nhất định sẽ trở về đón nàng rời khỏi nơi đây, họ sẽ ra thế giới bên ngoài kia, họ đã ước định như vậy rồi! Họ sẽ cùng đi tìm kiếm miền tịnh thổ không có chiến tranh loạn lạc trong truyền thuyết ấy, thế giới bên ngoài rộng lớn vô hạn, nhất định sẽ có một vùng thánh địa thanh bình, nàng muốn tất cả mọi người, đều sống bên nhau thật tình tương thân tương ái. Khi Mã Cát nói những lời ấy, vẻ nghiêm túc trên gương mặt nàng khiến tim ta rung lên. Thật hổ thẹn thay, Địch ô của thôn Công Bố như ta, mà lại không có được đảm thức và sự giác ngộ ấy. Một lần nữa, ta lại kinh ngạc trước sự kiên định và chấp niệm của nàng, trước đôi bờ vai nhỏ nhắn non tơ ấy…” Pháp sư Á La đọc tới đoạn cuối cùng, nhíu mày nói: “Chiến tranh? Trong các đoạn Nhật ký trước đây chúng ta đọc được, hình như không có nhắc đến chiến tranh. Thử tìm kỹ lại xem, có khi lại có quan hệ trực tiếp với sự diệt vong của thôn Công Bố cũng nên đấy.”
Trương Lập vẫn đứng im bất động, trong óc anh đã phác ra một cô bé với nụ cười tươi tắn thuần khiết, tay cầm chiếc giỏ trúc, chăm chú nhặt quả phỉ trong cánh rừng u tịnh. Sương sớm, dòng suối nhỏ, thảm cỏ xốp mềm, vài tia nắng chiếu qua cây, cảnh tượng đó hẳn phải đẹp vô cùng!
Trác Mộc Cường Ba dẫn theo đội của mình đơn độc tiến lên giữa chốn rừng rậm hoang dã đầy rẫy quái thú hoành hành nhưng chẳng có vết dấu gì của loài người ấy. Trên đường, họ quẳng lại sau lưng hết thảy những sợ hãi và mệt mỏi, tạm thời quên đi đau đớn và nỗi buồn, nói theo cách của Nhạc Dương, thì dù có bi thương đến mấy đằng nào cũng phải tiến lên phía trước, vậy cớ sao không vui vẻ mà đi cho rồi.
Điều đáng tiếc duy nhất trong hai ngày nay chính là vết thương ở mông Sean, chẳng những không có dấu hiệu thuyên giảm, mà ngược lại còn có xu hướng ngày một trầm trọng hơn. Về sau, cứ mỗi lần Sean chống cây gậy xuống, cả bọn đều nghe thấy anh ta khẽ rên lên một tiếng, xem chừng có vẻ đang gắng sức chịu đựng, nhưng mồ hôi trên trán thì vẫn túa ra không sao kìm được. Sau khi cùng chẩn đoán, Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn đều cho rằng vết thương của Sean như vậy thì không thể tiếp tục tiến lên được nữa. Lúc ấy sắc mặt anh ta tái dại đi, mấy ngày này, anh ta vẫn luôn gắng gượng, cố hết sức không để tình trạng này xảy ra. Nhưng ngay sau đó, đề nghị của Trác Mộc Cường Ba đã hoàn toàn biến đổi nỗi lo của Sean. Gã đề nghị, liệu có nên làm cho Sean một cái cáng, rồi mọi người thay nhau cáng anh ta tiếp tục lên đường. Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La đưa ánh mắt trao đổi giây lát, nhưng cuối cùng vẫn đồng ý, cho dù nghi ngờ Sean có mục đích gì đi nữa, thì anh ta cũng đã đạt được rồi. Bỏ Sean lại trong hoàn cảnh này, tốc độ tiến lên của họ rất có thể còn chậm hơn khi phải cáng anh ta theo, càng huống hồ họ cũng không có chứng cứ gì, nhất là đội ngũ này không thể cứ thế bỏ lại người bị thương rồi đi tiếp được.
Những ngày này, pháp sư Á La và đội trưởng Hồ Dương không lúc nào ngừng việc chỉnh lý sắp xếp cuốn Nhật ký thôn Công Bố và những quyển kinh văn còn sót lại, hy vọng có thể tiếp tục đào xới được thêm một số đầu mối có ích khác nữa. Những người khác sau khi hoàn thành việc của mình, có lúc cũng lại giúp họ một tay. Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam thì dành thời gian chăm sóc Sean nhiều hơn một chút, hễ làm xong công tác phòng ngự và trinh sát, Trương Lập và Nhạc Dương cũng chạy qua lăng xăng giúp đỡ hai cô.
Ban đầu mọi tư liệu đều được lưu vào máy tính, chỉ mình pháp sư Á La tiến hành phiên dịch và giải nghĩa, nhưng giờ đây, trong đống trang bị của bọn Merkin còn có cả thiết bị lưu trữ và đọc dữ liệu cỡ nhỏ, pháp sư có thể chia các tư liệu trong máy tính ra theo từng khoảng thời gian, chuyển vào thiết bị lưu trữ của từng thành viên trong đội, hiệu suất nghiên cứu Nhật ký thôn Công Bố liền tăng lên đáng kể.
Phần Nhật ký phân cho Trương Lập, hình như chỉ toàn ghi chép những chuyện vụn vặt lắt nhắt, chẳng hạn như năm nào tháng nào đi đến đâu, mang theo những thứ gì, đổi về những thứ gì. Mặc dù thế, anh cũng phát hiện được rất nhiều chữ lạ, không hiểu nghĩa là gì, bèn đi tìm pháp sư Á La để nhờ chỉ giáo.
Lúc Trương Lập đến chỗ pháp sư Á La, ông và đội trưởng Hồ Dương đang thảo luận rất sôi nổi, nói toàn những gì mà Lục đạo, hoa sen tám cánh, cung điện gì gì đó. Đột nhiên đội trưởng Hồ Dương hét lớn một tiếng, kích động tóm chặt tay pháp sư Á La kêu lên: “Pháp sư còn nhớ Đại Thiên Luân kinh miêu tả thế giới này được cấu thành như thế nào không? Đoạn ở ngay đầu tiên ấy!”
Pháp sư Á La cũng đánh mất vẻ bình tĩnh thường ngày, trợn trừng mắt lên nói: “Ý cậu là, đây không phải Shangri-la? Đúng thế, nó không giống với những gì được ký tải trong Đại Thiên Luân kinh, nó là cả một thế giới!”
Đội trưởng Hồ Dương nắm chặt tay đấm vào tảng nham thạch lớn bên cạnh mình, thốt lên: “Đúng là vậy rồi! Đúng là vậy rồi!”
Trương Lập chẳng hiểu gì, đần mặt ra hỏi: “Pháp sư, đội trưởng Hồ Dương, hai người đang nói gì vậy? Cái gì không phải là Shangri-la? Đúng vậy rồi là sao?”
Pháp sư Á La bèn giải thích: “Thực ra, khi nghiên cứu Nhật ký thôn Công Bố, chúng tôi đã phát hiện ra danh xưng họ gọi nơi này không phải Shangri-la chúng ta vẫn cứ nói, mà là một từ khác. Lẽ dĩ nhiên, chúng tôi cho rằng từ này chính là để chỉ Shangri-la, nhưng hôm nay, đội trưởng Hồ Dương đã xác định được từ nguyên của Shangri-la rồi. Dựa theo phần miêu tả trong Nhật ký thôn Công Bố này, Shangri-la chắc là nằm ở một nơi nào đó trên tầng bình đài thứ ba mới đúng.”
Trương Lập lắp bắp nói: “Cháu… cháu không hiểu, pháp sư Á La, cháu hồ đồ mất rồi. Nơi này, không phải Shangri-la? Shangri-la ở một nơi nào đó trên tầng bình đài thứ ba? Vậy thì… nơi này… nơi này là cái gì? Còn Mật quang Bảo giám mà chúng ta diễn dịch ra thì sao? Nó chỉ cái gì? Hay là chúng ta đã nhầm?”
Đội trưởng Hồ Dương bật cười khà khà, đưa tay vỗ lên lưng Trương Lập một cú rõ mạnh. Pháp sư Á La gật đầu nói: “Đây cũng chính là vấn đề chúng tôi vừa tranh luận khi nãy. Nếu nơi này, toàn bộ không gian ở bên trong khe nứt khổng lồ giữa lòng núi này, không phải là Shangri-la, mà Shangri-la chỉ là một phần trong nó mà thôi, vậy thì nơi này rốt cuộc là nơi nào đây? Đúng lúc cậu bước đến, thì tôi và đội trưởng Hồ Dương đã rút ra được một kết luận có thể nói là tương đối chuẩn xác rồi.”
Pháp sư Á La hướng ánh mắt về phía mép bình đài, chậm rãi nói: “Người bộ tộc Qua Ba cổ đại coi chốn này như một thế giới độc lập. Họ cho rằng, bất luận là băng qua U Minh hà hay vượt qua núi tuyết thần thánh thiêng liêng, thì cũng đều là những quá trình siêu thoát khỏi sự sống và cái chết. Đối với họ, toàn bộ không gian bên trong khu khe nứt này chính là một thế giới hoàn toàn mới, nơi đây chính là toàn thế giới, toàn vũ trụ; quả núi có ba tầng bình đài hình chóp ngược này, chính là núi Tu Di.
Trương Lập vẫn chưa hiểu, đội trưởng Hồ Dương bèn giải thích thêm: “Cậu còn nhớ Đại Thiên Luân kinh miêu tả vũ trụ cấu thành như thế nào không? Thế giới vật chất do Tứ luân: địa, thủy, hỏa, phong tạo nên. Phong luân ở chốn hư không, bên trong là Hỏa luân do nó nâng đỡ, có bảy tầng, tầng thứ bảy gọi là Kim Cương sơn hay Danh Mã Diện Hỏa sơn; bên trong ngọn núi lửa ấy là Thủy luân, cũng có bảy tầng, tầng thứ bảy được gọi là Diêm Hải; bên trong nó là Địa luân, trung tâm của Địa luân chính là núi Tu Di, trên dưới núi Tu Di có những vòng vây quanh, dạng như cái đĩa đồng úp ngược ra phía bên ngoài, tầng dưới cùng nhỏ nhất, càng lên trên càng lớn dần, thực chất chính là một hình chóp nón trên lớn dưới nhỏ úp ngược. Cậu nghĩ lại những gì chúng ta đã trải qua khi tìm đến được nơi này mà xem, bên ngoài núi tuyết là gió thốc cuồng loạn, lại còn cả biển ngầm và kết cấu thông đạo của U Minh hà nữa, đều là do núi lửa cổ đại tạo thành, dung nham núi lửa đã hình thành nên biển ngầm, mà bình đài ba tầng hình chóp ngược chân nhỏ đầu to này chính là ở giữa biển ấy. Từ đầu đến giờ, chúng ta không hề liên hệ gì giữa kết cấu hình chóp ngược này và núi Tu Di cả, giờ nghĩ lại mới thấy, ba tầng bình đài mà chúng ta đang leo lên đây, đích thực chính là núi Tu Di rồi!”
Trương Lập ngạc nhiên thốt: “Đây… đây là núi Tu Di? Thế còn Shangri-la đâu? Mật quang Bảo giám không phải chỉ đường đến Shangri-la hay sao?”
Đội trưởng Hồ Dương nói: “Theo tôi nghĩ, trước đây chúng ta đã hiểu lầm rồi. Trong Mật quang Bảo giám, vệt chỉ đường ẩn tàng ấy không phải chỉ đường cho chúng ta đến Bạc Ba La thần miếu, mà là đến Shangri-la. Shangri-la, chỉ là một phần trong thế giới Tu Di này mà thôi. Người đời muốn tìm kiếm Shangri-la ở thế giới bên ngoài kia là chuyện không thể nào thực hiện được, bởi vì Shangri-la, Shangri-la ở bên trong thế giới này, đây… đây là một thế giới hoàn toàn khác với thế giới bên ngoài. Cậu nhìn đây đi…” Đội trưởng Hồ Dương chỉ vào máy tính, nói với Trương Lập: “Những người dân trong thôn Công Bố ở tầng thấp nhất này tự nhận rằng ngôi làng của họ tọa lạc ở miền giáp ranh giữa Thánh vực và Phiên vực, đây cũng là những gì được miêu tả về thế giới Tu Di trong Đại Thiên Luân kinh. Dọc theo chân núi Tu Di chia ra làm bốn góc vuông, mỗi góc là một châu, mỗi châu lại chia thành ba khu Đông, Trung, Tây. Cách lý giải thông thường về Đại Thiên Luân kinh cho rằng, phàm nhân như chúng ta cư trú ở nửa vùng phía Bắc khu Trung của châu phía Nam, vùng này lại được chia làm sáu khu vực nhỏ, từ Bắc đến Nam lần lượt là Tuyết sơn tụ, Shangri-la, Hán vực, Lê vực, Phiên vực, Thánh vực. Các nhà nghiên cứu cho rằng, Phật giáo được truyền vào từ Ấn Độ, vì vậy Thánh vực để chỉ Ấn Độ, Phiên vực là chỉ Tây Tạng, Lê vực đại khái chắc là vùng Tân Cương, Tuyết sơn tụ chắc là vùng cực Bắc của Đại Lục, còn Shangri-la rốt cuộc là ở đâu thì vẫn chưa có kết luận nào rõ ràng. Ngoài ra còn rất nhiều luận định nhất trí cho rằng núi Tu Di mà người xưa nói, kỳ thực chính là chỉ Hy Mã Lạp Sơn, ai có thể ngờ được… ai có thể ngờ được! Thì ra núi Tu Di lại là núi ở bên trong núi!”
Trương Lập hoàn toàn đắm chìm vào cảm giác chấn động pha lẫn kinh hãi, núi Tu Di, Shangri-la, những danh từ trong truyền thuyết ấy cứ luân phiên xuất hiện trở đi trở lại trong đầu anh. Pháp sư Á La giật lấy chiếc máy tính, nói: “Chúng ta vẫn còn phải đọc thêm nhiều tư liệu nữa, để xem có thể kết hợp với hình vẽ trên gương đồng mà vẽ ra một tấm bản đồ cụ thể và tỉ mỉ của núi Tu Di hay không. À, đúng rồi, Trương Lập, cậu tìm tôi có việc gì đấy?”
Trương Lập giật mình sực nhớ ra, vội nói: “À, vâng, pháp sư, ở đây có một số phần cháu không hiểu nghĩa lắm, muốn nhờ ông xem giúp.” Nói đoạn, anh liền chuyển phần tư liệu mình được chia cho vào máy tính.
Pháp sư Á La nhìn lướt qua tư liệu, “ồ” lên một tiếng, nói: “Trong này có rất nhiều từ ngữ tu sức, chẳng trách cậu lại không hiểu. Ừm…” Vừa đưa mắt đọc, pháp sư Á La vừa mỉm cười hiền hòa. Trương Lập đứng bên cạnh cuống cuồng hỏi: “Sao rồi ạ? Pháp sư, trong đó viết gì vậy?”
Pháp sư Á La giải thích: “Đây chắc là một dạng kiểu như du ký do người phụ trách ghi chép Nhật ký của thôn làng viết ra, miêu tả lại những nơi bản thân từng đi qua và những gì mắt thấy tai nghe. Ừm, thời gian này… tính theo lịch pháp Thiên Luân…” Pháp sư Á La gõ mạnh lên bàn phím máy tính, kích động nói: “Trong những tư liệu chúng ta phát hiện được, đoạn ghi chép này có lẽ khá gần với thời gian thôn Công Bố xảy ra thảm họa diệt tộc, phải nghiên cứu cho kỹ vào. Trương Lập, cậu chú ý tìm lại coi, trong phần tư liệu cậu được phân cho đó có đoạn nào tương tự như như vậy nữa không, cứ tìm hết loạt ra. Rất có thể, chúng ta sẽ tìm được trong đó nguyên nhân thôn Công Bố bị đồ sát cũng nên đấy.”
Trương Lập gật đầu nói: “Vâng ạ. Thế đoạn ấy rốt cuộc là viết gì thế ạ? Cháu chỉ biết trong ấy có một tên người, hình như tên là A Mễ hay gì đó, phải không ạ?”
“Mã Cát A Mễ, cái tên đẹp thật!” pháp sư Á La chậm rãi nói. “Xem chừng, người ghi chép của thôn Công Bố này rất để ý tới cô bé đó, mỗi lần nhắc đến Mã Cát A Mễ, đều dùng khá nhiều từ tu sức.”
Nghe pháp sư Á La nói thế, cả đội trưởng Hồ Dương cũng thấy tò mò, Trương Lập lại càng nôn nóng thúc giục: “Pháp sư đọc lên nghe thử xem thế nào đi, đọc thử đi ạ.”
Pháp sư Á La chuẩn bị một chút, rồi chầm chậm đọc thành tiếng bằng chất giọng thấp trầm: “Đêm nay, vầng trăng đã lâu rồi không xuất hiện chiếu rọi khắp muôn nơi, tiếng lá cây xào xạc tấu lên một khúc nhạc tuyệt mỹ dưới ánh trăng vàng, bóng trăng loang lổ, tinh tú chuyển dời, ánh trăng chiếu xuyên qua tán cây rậm rạp rải xuống thảm cỏ màu bích lục, trên mặt đất tựa như có dòng sông sao đang chảy. Ta đầu đội ánh sao, chân bước qua dòng sông sao, đón ngọn gió nhè nhẹ mát lành tiến về phía trước, cảnh đêm đẹp tuyệt trần ấy làm ta quên đi cả thời gian và mệt mỏi. Dần dần, bóng trăng ngả về Tây, phía góc trời đã thấy có ánh sáng, tia nắng đầu tiên của ban mai chiếu qua màn sương mờ vẫn chưa khép hẳn lại phủ lên khu rừng, sương sớm ngưng kết thành vô vàn tinh linh bé nhỏ, những hạt sương run rẩy nghịch ngợm lượn tròn trên đám lá xanh mơn mởn mới nhú, trong khu rừng tĩnh lặng truyền lại tiếng chim trong trẻo véo von, dòng suối hân hoan khẽ cất tiếng ngâm nga, chúng chảy từ núi tuyết xuống, xuyên qua Thánh vực. Đã lâu lắm lâu lắm rồi ta không tìm đến Thánh vực tĩnh lặng thanh bình này nữa. Hôm nay đã được định sẵn là một buổi ban mai không bình phàm, ta bước lên thảm cỏ xốp mềm, tựa hồ như trong cõi vô minh có một thứ lực lượng đang chỉ dẫn ta tìm kiếm gì đó, ta cũng không biết đó là gì, cho tới khi thấy bóng hình yêu kiều mong manh đó. Một thiếu nữ đi nhặt quả phỉ, nàng quỳ một chân trên bãi cỏ, xoay lưng hướng về phía ta, bên cạnh có một chiếc giỏ trúc nhỏ, nàng rất chăm chú, hoàn toàn không biết ta đang tiến lại gần. Nếu nói thần Tự nhiên khẳng khái đã trải ra trước mắt ta một bức tranh diễm lệ, vậy thì, chẳng nghi ngờ gì nữa, cô bé đó chính là trung tâm của bức tranh ấy, nàng hòa lẫn với khu rừng thành một thể hài hòa thống nhất, cảm giác như sự tồn tại của ta chỉ là dư thừa. Khi nàng ngoảnh đầu lại nhìn, ta lấy làm kinh ngạc trước vẻ đẹp đó, rồi bỗng bàng hoàng hiểu ra, thì ra ánh nắng mai như mộng cảnh này, chính là để tôn lên vẻ đẹp ấy! Trên gương mặt thanh nhã non tơ đó, ta có thể nhìn thấy dung nhan tuyệt thế của nàng sau này, trong đôi mắt nàng, ta càng có thể thấy cả khu rừng mênh mông. Một sắc xanh tràn ngập, thậm chí cả trái tim già nua mệt mỏi này của ta, cũng vì thế mà được rót tràn trề một sức sống mới…”
Trương Lập và đội trưởng Hồ Dương tựa như đang nghe một đoạn tản văn tuyệt mỹ, tâm thần say sưa chìm đắm, thấy pháp sư Á La ngừng lại, cả hai không hẹn mà đồng thanh hỏi: “Hết rồi à?”
Pháp sư Á La mỉm cười, tiếp tục đọc: “Ta khâm phục sự dũng cảm của nàng. Chắc mới chỉ khoảng bảy tám tuổi thôi, vậy mà đã dám một mình vào chốn rừng sâu này nhặt quả phỉ, lẽ nào nàng không biết, bất cứ loài động vật nào ở đây, bất cứ một cây rừng nào ở chốn này, cũng có thể đưa nàng vào chỗ chết? Đối mặt với một kẻ lạ mặt đi ra từ trong rừng sâu như ta, nàng cũng không hề có vẻ sợ hãi hay hoảng hốt gì, ngược lại còn nở một nụ cười ngọt ngào. Nụ cười ấy như thế nào nhỉ, trong những năm tháng đầy rẫy khổ đau này, nụ cười ấy đủ sức mạnh để xua tan tất thảy mọi bi thương và tang tóc. Ta cũng thấy yên tâm phần nào, một thiếu nữ có nụ cười như thế, chắc hẳn sẽ được chư thần bảo hộ, dẫu là đám người Lỗ Mạc hung mãnh nhất, nhìn thấy nụ cười đó, chắc cũng không nhẫn tâm mà ra tay với nàng đâu. Cô bé ấy là… là một tinh linh có nụ cười của Thiên sứ.”
“Thiên sứ?” Trương Lập tròn mắt nhìn pháp sư Á La.
Pháp sư Á La nói: “Tôi chỉ cố để dịch sao cho các cậu có thể hiểu được.” Đội trưởng Hồ Dương vừa ra hiệu cho pháp sư Á La tiếp tục đọc, vừa lừ mắt lườm Trương Lập, tựa như đang trách anh chàng phá thối, ngắt lời pháp sư Á La.
“Bởi một cảm giác thân cận hết sức tự nhiên, ta lại gần nàng, cùng nàng trò chuyện. Thiếu nữ ấy nói với ta, nàng tên là Mã Cát, Mã Cát A Mễ, một cái tên đẹp đến độ khiến người ta đắm say ngây ngất. Năm nay nàng tám tuổi, đang sống chung với bà nội ở thôn Công Nhã Lạp gần đây, bà nàng không được khỏe, nên Mã Cát đi nhặt quả phỉ về cho bà ăn. Được Mã Cát mời, chúng ta cùng nhặt quả, hái hoa, kết vòng cỏ, chơi đùa. Sự ngây thơ thuần khiết của nàng khiến ta quên đi cả tuổi tác của mình, tựa hồ lại trở về với những năm tháng vô ưu vô lự thuở ấu thơ. Buổi sớm hôm ấy khiến ta trọn đời cũng khó thể nào quên. Bởi vì vui, cho nên vui, cảm giác vui vẻ đơn thuần ấy, khiến ta hồi tưởng lại được niềm vui thích thật sự. Điều khiến ta kinh ngạc nhất là, từ lời kể của Mã Cát, ta biết được rằng cha mẹ nàng đã chết trong chiến tranh, nàng và người anh trai hơn hai tuổi xưa nay vẫn quấn quýt nương tựa lẫn nhau cách đây không lâu cũng bị ly tán trong nạn đói. Nhưng ở thiếu nữ này, ta chỉ nhìn thấy niềm hoan lạc và sự kiên định. Niềm vui của nàng khiến từng ngọn cỏ cành cây xung quanh cũng thấm đẫm vẻ hân hoan thích thú. Thiếu nữ ấy nói với ta bằng giọng khẳng định chắc nịch, bà nàng nhất định sẽ khỏe lại, chiến tranh nhất định sẽ kết thúc, anh trai nàng nhất định sẽ trở về đón nàng rời khỏi nơi đây, họ sẽ ra thế giới bên ngoài kia, họ đã ước định như vậy rồi! Họ sẽ cùng đi tìm kiếm miền tịnh thổ không có chiến tranh loạn lạc trong truyền thuyết ấy, thế giới bên ngoài rộng lớn vô hạn, nhất định sẽ có một vùng thánh địa thanh bình, nàng muốn tất cả mọi người, đều sống bên nhau thật tình tương thân tương ái. Khi Mã Cát nói những lời ấy, vẻ nghiêm túc trên gương mặt nàng khiến tim ta rung lên. Thật hổ thẹn thay, Địch ô của thôn Công Bố như ta, mà lại không có được đảm thức và sự giác ngộ ấy. Một lần nữa, ta lại kinh ngạc trước sự kiên định và chấp niệm của nàng, trước đôi bờ vai nhỏ nhắn non tơ ấy…” Pháp sư Á La đọc tới đoạn cuối cùng, nhíu mày nói: “Chiến tranh? Trong các đoạn Nhật ký trước đây chúng ta đọc được, hình như không có nhắc đến chiến tranh. Thử tìm kỹ lại xem, có khi lại có quan hệ trực tiếp với sự diệt vong của thôn Công Bố cũng nên đấy.”
Trương Lập vẫn đứng im bất động, trong óc anh đã phác ra một cô bé với nụ cười tươi tắn thuần khiết, tay cầm chiếc giỏ trúc, chăm chú nhặt quả phỉ trong cánh rừng u tịnh. Sương sớm, dòng suối nhỏ, thảm cỏ xốp mềm, vài tia nắng chiếu qua cây, cảnh tượng đó hẳn phải đẹp vô cùng!