Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Mật mã Tây Tạng – tập 8

Chương 185: Địch Ô An Cát Mẫu

Tác giả: Hà Mã
Chọn tập

Căn nhà của Địch ô An Cát Mẫu ở trung tâm thôn làng, thân nhà hình tròn, nhìn các cửa sổ thì ít nhất cũng chia làm ba tầng, bốn góc có kinh phướn, phía dưới có rất nhiều tượng quỷ thần điêu khắc bằng gỗ, pháp sư Á La kiến văn quảng bác như thế mà cũng không nói được đó là những tượng gì. Mã Cát vừa vào cửa đã lớn tiếng gọi ầm ĩ: “Địch ô đại nhân, Địch ô đại nhân, con tìm được cho ông người đọc được chữ Mã Nhĩ rồi này!”

“Kha kha, A Mễ về đấy hả, sao lớn tiếng thế, lại gây họa gì bên ngoài rồi phải không?”

Mã Cát vừa xấu hổ vừa bối rối, vội nói: “Địch ô đại nhân nói bừa nhé, có khách quý đến đây nè.”

“Ủa.” Lúc này ông già kia mới quay người lại, chú ý đến bọn Trác Mộc Cường Ba: “Người Hạ Qua Ba à? Sao có thể được?” Địch ô An Cát Mẫu khoảng tầm sáu mươi đến bảy mươi tuổi, trông vẻ bề ngoài còn già nua hơn pháp sư Á La, gương mặt đầy những nếp nhăn sâu hõm, trên đầu chít khăn, nhưng không để tóc, mà chỉ có hai hàng râu dài bên mép và chòm râu dưới cằm tụ lại một chỗ.

Mã Cát cười cười nói: “Địch ô cũng có lúc không linh rồi nhé! Họ không phải người Hạ Qua Ba đâu, họ là quý khách từ bên ngoài tới đấy!” Tiếp đó, cô lần lượt giới thiệu từng người trong bọn Trác Mộc Cường Ba, rồi tự tiện lấy trong phòng trong của Địch ô đại nhân ra rất nhiều nệm cho mọi người ngồi xuống.

Sau khi biết được thân phận của mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba, vị Địch ô đại nhân ấy liền thẳng thừng nói luôn: “Nói mục đích của các vị đi, những vị khách phương xa.”

Pháp sư Á La nói: “Chúng tôi tìm kiếm vết chân của Bạc Ba La quang vinh, đến vùng đất này, chúng tôi…”

“A!” Tuy biết rằng làm vậy là rất thiếu lễ độ, nhưng vị Địch ô An Cát Mẫu vẫn không sao nén nổi cất tiếng ngắt lời: “Người Qua Ba! Bạc Ba La thần miếu! Tôi hiểu rồi.” Ông đứng dậy, bất an đi đi lại lại mấy bước, đoạn nói: “Hình như tất cả những người từ bên ngoài đến, đều vì Bạc Ba La thần miếu cả. Nơi đó không dễ gì đến được đâu.” Ông đưa mắt liếc sang phía Mã Cát, rồi thở dài nói tiếp: “Thôi được, tôi có thể nói cho các vị biết chuyện về Bạc Ba La thần miếu và bộ tộc Qua Ba. Chỉ hiềm nỗi, những điều tôi biết cũng chẳng nhiều nhặn gì.”

Ông già vuốt vuốt lại vạt áo, ngồi trở xuống, chầm chậm cất tiếng: “Người Vi Đạt chúng tôi đã đến định cư ở nơi này từ rất sớm, rất sớm, chỉ hơi muộn hơn so với người ở hang và người núi tuyết thôi.”

“Người núi tuyết!” Nhạc Dương vừa nghe thấy cách phát âm đó đã kinh ngạc thốt lên. Cách phát âm chữ “người núi tuyết” của Địch ô An Cát Mẫu gần giống với “sa tư mã tang mễ” hoặc “cáp tư khoa ngưỡng hĩ”, còn khi Nhạc Dương ghép các âm “núi tuyết” và “người” trong tiếng Tạng cổ vào, thì lại nhận ra phát âm không giống thế. Pháp sư Á La bèn giải thích, cách phát âm “người núi tuyết” chắc là của tiếng Tượng Hùng, hoặc một loại ngôn ngữ cổ còn sớm hơn cả tiếng Tượng Hùng và vẫn được lưu giữ đến tận ngày nay, vì vậy không thể dùng tiếng Tạng cổ để ghép âm lại được.

Địch ô An Cát Mẫu dừng lại, Nhạc Dương ngại ngùng giải thích: “Tôi… tôi muốn nói, không biết Địch ô đại nhân có thể kể về người núi tuyết trong truyền thuyết của các vị được không.” Từ sau khi pháp sư Á La nhắc đến người núi tuyết, Nhạc Dương đã tra tìm trong kho dữ liệu của giáo sư Phương Tân các tư liệu về người tuyết Tây Tạng. Không tra thì không biết, tra ra liền không khỏi giật mình, từ cuối thế kỷ mười chín cho đến ngày nay, số lượng các ghi chép chính thức về việc tìm kiếm người tuyết ở dãy Himalaya và vùng phụ cận phải lên đến hơn nghìn, số lần các đoàn khảo sát tiến vào rặng núi với danh nghĩa tìm kiếm người tuyết, so với số lần khảo sát đỉnh Chomolungma còn nhiều hơn gấp bội.

Hơn nữa, bọn họ còn phát hiện ra rất nhiều thứ thú vị. Chẳng hạn, có nhà khoa học cho rằng, con người và người tuyết có cùng một tổ tiên. Hai triệu năm trước, Vượn người Phương Nam 1 bắt đầu từ trên cây xuống đất, mở ra một phương thức sinh tồn hoàn toàn mới. Vượn người Phương Nam có thân thể cao lớn, trong đó có một bộ phận tiến hóa thành người, còn một bộ phận khác thì phân hóa thành loại nhỏ bé, loại cao lớn và người nguyên thủy Paranthropus Boisei. Ban đầu, Vượn người phương Nam tiến hóa thành người khéo léo Homo habilis, cũng chính là những tổ tiên có thể chế tạo ra các công cụ bằng đá đơn giản, mở ra thời kỳ Đồ đá cũ của loài người.

Một triệu năm trước, băng hà bao phủ trái đất, tiến trình hoang mạc hóa ở châu Phi tăng tốc, một nhóm người Homo habilis ở châu Phi lại tiến hóa thành người đứng thẳng Homo erectus, họ học cách sử dụng lửa, ngôn ngữ cũng rõ ràng hơn. Đất đai châu Phi bị sa mạc hóa mỗi lúc một nhiều, khiến người đứng thẳng Homo erectus không thể không rời bỏ châu lục này, di cư đi khắp thế giới. Người vượn Bắc Kinh, người Nguyên Mưu, người Lam Điền rất nổi tiếng ở Trung Quốc, đều thuộc nhánh người đứng thẳng Homo erectus này cả; người Homo erectus đến châu u muộn hơn một chút, ở đây, họ tiến hóa thành người Homo neanderthalensis.

Khoảng hai trăm năm mươi nghìn năm trước, môi trường châu Phi càng trở nên khắc nghiệt, một nhóm người đứng thẳng Homo erectus ở đây đã tiến hóa thành người có trí tuệ Homo sapiens, người Homo sapiens bắt đầu cuộc đại di cư toàn cầu lần thứ hai. Những người đứng thẳng Homo erectus ở những nơi khác cũng có sự tiến hóa với mức độ khác nhau, họ đã sống chung với người Homo sapiens trong một thời kỳ rất dài. Mãi đến khoảng sáu mươi nghìn năm trước, lại một đợt băng hà nữa phủ khắp địa cầu, môi trường sinh tồn trên cả trái đất đều trở nên khắc nghiệt, người Homo sapiens không ngừng tiến hóa trong lao động, cuối cùng đã trở thành người Homo sapiens kỳ cuối, hoặc gọi là người mới, người hiện đại, về ngoại hình và dung lượng bộ não gần như tương đương với con người ngày nay, và đồng thời dần dần thay thế người đứng thẳng Homo erectus vẫn chưa thể tiến hóa được. Người ta chia người Homo sapiens kỳ cuối ra làm bốn đại chủng: Trung Quốc, Đông Á, người Indian ở châu Mỹ chủng da vàng, gọi là người Mongoloid hay người Mông Cổ; người châu u, Bắc Phi, Nam Á thuộc chủng da trắng, hay gọi là người Oropeoit hay người Caucasoid; ngoài ra còn có chủng da đen ở châu Phi, da nâu ở châu Úc, từ đó hình thành cách cục của nhân loại ngày nay.

Điều khiến các nhà nhân loại học và nhà nghiên cứu Tây Tạng thấy thú vị là, có rất nhiều truyền thuyết viễn cổ của Tây Tạng có những điểm tương đồng đến đáng ngạc nhiên với lịch sử tiến hóa của loài người; chẳng hạn như truyền thuyết về nguồn gốc loài người của dân tộc Tạng cho rằng, con người từ loài vượn tiến hóa nên; còn cả truyền thuyết về cuộc chiến giữa người núi tuyết và người ở hang, gần như chính là một phiên bản của sự cạnh tranh giữa người Homo erectus và người Homo sapiens; thậm chí cả từ “người núi tuyết” cũng ngầm ám chỉ đến thời kỳ băng hà. Vì vậy, những nhà nhân loại học ấy suy đoán, người tuyết mà ngày nay vẫn được đồn đại lưu truyền trong vô số các câu chuyện, cũng như được rất nhiều người tận mắt trông thấy đó, rất có thể là một chủng người Homo erectus đã tiến hóa để thích nghi với sự sinh tồn vùng sông băng trong cuộc chiến giữa người Homo erectus với người Homo sapiens. Vì sông băng tan chảy, đa phần không gian sinh tồn còn lại đều bị người Homo sapiens chiếm cứ, duy nhất chỉ có cao nguyên núi tuyết trên nóc nhà thế giới này là vẫn còn giữ lại một mảng không gian thích hợp để người tuyết sinh tồn mà thôi.

Hơn nữa, thông qua nghiên cứu các tư liệu, Nhạc Dương và Trương Lập còn phát hiện, cả quá trình tiến hóa của loài người, cực kỳ tương đồng với quá trình sản sinh ra Lang vương mà giáo sư Phương Tân đã nói, gần như có thể nói là đồng nhất. Cũng có nghĩa là, dù là chủng loại nào, cũng đều phải trải qua một quá trình giống nhau, mới có thể tiến hóa nên đủ trí tuệ. Khi sự thay đổi khắc nghiệt của môi trường sống, cuộc sống lao động tập thể, những cuộc thiên di không ngừng, số lượng quần thể và năng lực chống lại môi trường đều đạt đến mức độ nhất định, thì bắt đầu định cư, trải qua nghìn vạn năm tích lũy, rồi mới từ từ thay đổi được.

Địch ô An Cát Mẫu không có những tri thức khoa học phổ thông này, nhưng ông được nghe những truyền thuyết từ đời cha ông, ông nội ông, cụ kỵ ông kể lại. Ông nói: “Người núi tuyết là một trong những cư dân sớm nhất của nơi này, tất cả các truyền thuyết đều nói như vậy. Chiều cao của họ ít nhất cũng gấp đôi người bình thường chúng ta, tương truyền rằng, người núi tuyết có lớp lông rất dày, đi lại dễ dàng trên núi tuyết, không hề sợ đóng băng và giá lạnh; dùng tay không có thể đánh ngã được bò rừng và báo tuyết; họ cũng có bộ lạc, có công cụ sản xuất của riêng mình, có điều so với công cụ của chúng ta thì hơi kém một chút. Hầu hết đều bằng đá, cũng có một ít chế phẩm kim loại. Nhưng truyền thuyết về họ rất ít, dù sao thì trong chúng tôi cũng chưa ai từng thấy họ cả, mà có rất nhiều truyền thuyết còn do người Hạ Qua Ba kể lại cho chúng ta nữa.”

Thấy phần nội dung truyền thuyết mà Địch ô An Cát Mẫu kể ra quá ít, Nhạc Dương không khỏi chau mày lại, thoáng nheo mắt, anh liền thấy pháp sư Á La đang nhìn mình chằm chằm, ý chừng muốn nhắc anh đừng tùy tiện ngắt lời Địch ô An Cát Mẫu nữa.

Địch ô An Cát Mẫu thấy Nhạc Dương không còn câu hỏi nào khác, mới tiếp tục nói: “Thực ra, tổ tiên chúng tôi tới vùng đất này là để tránh chiến tranh loạn lạc, những người tới đây gần như đều có cùng một mục đích ấy. Người Qua Ba là nhóm cuối cùng thiên di tới chốn này, nhưng lại là những người mạnh mẽ nhất, tuy họ cũng giống như chúng ta, đều được gọi là hậu nhân của người ở hang, nhưng niên đại cách nhau quá xa, nên giữa hai bộ tộc có những khác biệt rất lớn. Bọn họ chiếm cứ tầng cao nhất vốn thuộc địa bàn của người núi tuyết, đồng thời điều động nhân thủ ở Thánh vực xây dựng nên Bạc Ba La thần miếu, không có bộ tộc nào dám phản kháng cả.”

“Tại sao lại chọn tầng cao nhất?” Đội trưởng Hồ Dương buột miệng hỏi. Tầng bình đài thứ hai này ước chừng ở độ cao khoảng bốn nghìn mét so với mực nước biển, còn tầng thứ ba thì xấp xỉ đạt sáu nghìn mét, gần đến lằn ranh tuyết, mà độ cao quá năm nghìn mét so với mực nước biển không thích hợp cho con người sinh sống, đây là thường thức hiển nhiên.

Địch ô đại nhân đáp: “Tại sao ư? Có thể vì người ở trên đó ít nhất. Trước khi người Qua Ba tới đây, tầng bình đài thứ ba hầu như chỉ có người núi tuyết, môi trường trên đó không thích hợp lắm cho các bộ tộc khác sinh sống, nhưng khi người Qua Ba cưỡng chiếm nơi đó, những người núi tuyết phản kháng hoặc bị giết, hoặc đều bỏ trốn cả. Về sau mới có truyền thuyết kể rằng, bộ tộc Qua Ba tìm được một nơi gần như hoàn mỹ, vì chỗ đó lúc nào cũng có băng tuyết và sương mù bao phủ, nên chưa từng được phát hiện bao giờ. Tương truyền rằng, nơi ấy có một vùng đất rộng lớn, không có thời tiết biến đổi, không có những khu rừng Xương Trắng và lũ ác thú khủng khiếp, lại rất gần núi Thần. Ở nơi ấy, đồng cỏ mãi mãi một màu xanh, mãi mãi ấm áp, mây mãi mãi giữ một màu trắng, từ đầu năm tới cuối năm đều là mùa xuân. Cũng có truyền thuyết nói rằng, người Qua Ba đã tạo nên tất cả những thứ ấy, tóm lại là, trong truyền thuyết, người Qua Ba thực sự rất lớn mạnh, họ có những loại vũ khí mạnh nhất, có vu sư mạnh nhất, có quân đội mạnh nhất, kỹ nghệ của họ khiến người ta phải kinh ngạc, trí tuệ của họ lại càng cao tuyệt. Họ không sử dụng chữ Mã Nhĩ nữa, mà dùng một loại văn tự khác, lại còn phát minh ra thứ dùng để viết chữ, không cần viết trên vỏ cây nữa. Chẳng những thế, họ còn có thần thông thao túng được cả ngọn lửa, khiến khúc cây tự động di chuyển…” Nói tới đây, Địch ô An Cát Mẫu ngừng lại, mỗi lần nghe thấy các thông tin này, những người từ bên ngoài đến thông thường đều hết sức kinh ngạc.

Có điều, mấy người này hình như chẳng hề ngạc nhiên một chút nào, mà chỉ tiếp tục hỏi: “Về sau thì sao? Sau khi người Qua Ba chiếm lĩnh tầng bình đài thứ ba thì thế nào?”

“Về sau…” Địch ô đại nhân lục tìm trong ký ức, “truyền thuyết kể rằng họ đã xây dựng rất nhiều tòa thành đá trên tầng bình đài thứ ba, đến cả những người thợ xây bị chiêu mộ cũng phải thừa nhận đó là một kỳ tích, là điềm lành do thần ưng trên trời đưa tới, những truyền thuyết tôi vừa kể cho mọi người đó cũng là do họ mang về. Nhưng về sau người Qua Ba đã bảo vệ rất chặt những tòa thành ấy, họ đuổi hết những người khác xuống các tầng dưới, mọi bộ tộc khác đều không được phép đặt một chân lên tầng thứ ba này, vì thế, những chuyện xảy ra sau đó, chúng tôi cũng không thể nào biết được. Cũng từng có người thử tìm cách lén lên tầng thứ ba, nhưng nghe nói những người Thượng Qua Ba ở trên đó đều không chút nương tình mà giết sạch tất cả những kẻ nào dám đặt chân lên đất cấm của họ.”

“A, sao lại thế?” Mã Cát không kìm được buột miệng thốt lên. Kể cả pháp sư Á La, tất cả những người khác đều cảm thấy thật khó tin.

“Nếu những người lên đó đều bị giết chết, vậy làm sao tin tức lan truyền xuống dưới đây được?” Nhạc Dương thắc mắc.

Địch ô đại nhân đáp: “Thì cũng có những dũng sĩ liều chết lên tầng bình đài thứ ba và may mắn chạy thoát trở về. Trước đây, người Thượng Qua Ba về đại thể cũng giống như chúng tôi, phân bố khắp nơi, chủ yếu sống thành các bộ lạc, mà giữa các bộ lạc cũng có tranh đấu, hiềm khích, vì vậy, chỉ cần ở trên đó cẩn thận không để gặp phải bọn họ thì cũng vẫn còn cơ may sống sót trở về. Đương nhiên, những tin tức này cũng mới lan truyền đi từ một hai trăm năm gần đây. Theo các truyền thuyết xa xưa của bộ tộc, vào khoảng mấy trăm năm trước, những người lên tầng bình đài thứ ba đó đều tuyệt đối không có bất cứ cơ hội nào để sống sót trở về, nhất loạt đều ra đi rồi biến mất vĩnh viễn.”

Đám Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn nhau ngơ ngác. Không đúng rồi, cách nói này hoàn toàn không khớp với những gì họ đã biết. Bộ tộc Qua Ba chính là Đạo quân Ánh Sáng, đó là một cánh quân hoàn chỉnh, sao lại có thể phân chia thành các bộ lạc khác nhau được? Lẽ nào vì thời gian quá lâu, Đạo quân Ánh Sáng cũng bị phân chia thành từng nhóm nhỏ, rồi tranh đấu với nhau để giành được quyền thống trị tối cao? Còn pháp sư Á La thì lại càng thầm khẳng định, tuyệt đối không thể nào, nhất định là có sai sót gì ở đâu đó? Truyền thuyết sai ư? Hay là những người tự xưng đã lên tầng thứ ba ấy, căn bản chưa từng đặt chân lên đó, chẳng qua chỉ bịa tạc ra để lòe bịp mọi người mà thôi?

“Họ lên đó làm gì vậy?” Nhạc Dương thắc mắc.

“Làm gì ư?” Địch ô An Cát Mẫu cười khổ đáp: “Tại sao các vị lại không ngại đường xa ngàn dặm, không sợ bao hiểm nguy gian khó trùng trùng trên đường để tới tận nơi này? Tại sao khi đồng bạn tử thương vô số, các vị cũng vẫn không chịu quay đầu? Đừng nói vói tôi rằng, các vị đến được đây mà không hề thương vong gì. Vậy thử hỏi, các vị vì điều gì mà nhất định phải lên tầng bình đài thứ ba ấy?” Nhạc Dương toan mở miệng, Địch ô An Cát Mẫu lại tiếp lời: “Chúng tôi, cũng giống như các vị thôi, nghe nói phía trên đó có vùng đất được thần linh ban phước, có thức ăn không bao giờ cạn kiệt, không có thiên địch và dã thú xâm hại, có ai mà không muốn tận mắt nhìn thấy một lần trong đời chứ? Tình trạng của chúng tôi ở đây thế nào, các vị cũng đều đã thấy cả rồi, chiến tranh, bệnh dịch, dã thú đầy rẫy khắp nơi, mỗi ngày chúng tôi đều phải vật lộn vùng vẫy trên lằn ranh sinh tử, mỗi năm đều bị cái đói và bệnh tật cướp đi không biết bao nhiêu sinh mạng. Càng huống hồ, những năm gần đây, những người “giáp mễ” từ bên ngoài đến như các vị mỗi lúc một nhiều, từ nơi bọn họ, chúng tôi biết được rằng ở bên ngoài có một thế giới hoàn toàn khác với nơi đây, một thế giới rộng lớn vô cùng. Một thế giới, nếu đi bộ thì tốn mười năm cũng chẳng thể đi hết. Những người ấy có màu da khác nhau, ngôn ngữ khác nhau, lại còn phát minh ra những thứ dẫu có trong mơ chúng tôi cũng không thể tưởng tượng ra nổi nữa. Thử hỏi, các vị có biết rằng, những người sống ở đây khát khao được rời khỏi chốn này thế nào hay không? Họ khát khao được ra xem thế giới bên ngoài ấy, tận mắt nhìn thấy con chim sắt biết bay trong truyền thuyết, nhìn thấy những con sâu sắt khổng lồ có bánh, không cần sức người sức ngựa cũng có thể lao như bay về phía trước…”

Cứ nói, nói mãi, khóe mắt Địch ô đại nhân cũng hơi ươn ướt: “Thế nhưng, người Qua Ba đã xây nên một rào chắn không thể nào vượt qua ở phía trên đó, họ khiến người bên ngoài không thể tìm được nơi này, đồng thời cũng khiến người ở trong đây không thể ra thế giới rộng lớn ngoài kia. Nhiều lúc, những người dân bình thường có thể sẽ cho rằng, những dũng sĩ đã lên trên ấy và không bao giờ trở về nữa, chắc hẳn đã tìm được lối ra, và rời khỏi nơi đây rồi cũng nên. Tuy rằng biết rõ là không thể nào thế được, nhưng họ vẫn không sao kìm nén được suy nghĩ ấy. Càng huống hồ, rất nhiều lúc, chúng tôi còn buộc phải lên trên đó nữa.”

Địch ô An Cát Mẫu lại đổi giọng, chầm chậm thở dài nói: “Như các vị đã thấy đấy, ở tầng thứ hai này thời tiết biến đổi rất đa đoan, có lúc chỉ cần một trận thiên tai thôi cũng đủ khiến cả một bộ lạc mất hết mùa màng rồi. Ví như mấy bộ lạc ở phương Bắc chẳng hạn, gặp một trận lụt lớn, vậy là chẳng thu hoạch được một hạt lương thực nào. Mà người Hạ Qua Ba thì cũng không phải năm nào cũng xuất hiện, có khi mấy chục năm họ mới xuất hiện một lần cũng không chừng. Để bộ lạc có thể tiếp tục sinh tồn, các dũng sĩ của Yaca buộc phải liều chết lên tầng thứ ba ăn trộm hạt giống, còn dũng sĩ của Langbu chúng tôi thì phải vượt qua rừng Xương Trắng xuống chỗ của người Hạ Qua Ba bên dưới. Lương thực của người Hạ Qua Ba lúc nào cũng sung túc dồi dào, nếu gặp may, thì thường thường cũng có dũng sĩ mang được hạt giống trở về. Có điều, đến giờ thì e rằng phía Yaca khó lòng mà trộm được hạt giống của họ nữa rồi, chỉ mong các bộ lạc bên đó vẫn có thể tiếp tục cầm cự được.”

“Tại sao thế?”

“Ba năm trước, các dũng sĩ đi trộm lương thực, kết quả là bị tiêu diệt toàn bộ, chỉ có một người chỉ còn một tay một chân bò về được đến Côn Ba Thoát, người đó mang về một tin tức, nói rằng, người Qua Ba đã có vương của họ rồi.”

Nhìn những ánh mắt có vẻ không hiểu lắm của những vị khách phương xa, Địch ô An Cát Mẫu giải thích: “Người Qua Ba vốn cũng giống như các bộ lạc ở tầng thứ hai này, họ phân tán ra sống ở các khu vực khác nhau theo từng bộ lạc, giữa các bộ lạc ấy thường có khoảng cách, dường như cũng không hòa bình gì cho lắm. Thế nhưng, một khi họ đã có vương, vậy thì tình hình sẽ hoàn toàn khác. Có nghĩa là, toàn bộ người Thượng Qua Ba trên tầng thứ ba đều đã được thống nhất thành một mối. Giờ thì chỉ biết hy vọng, bọn họ sẽ không tiêu diệt hết các bộ lạc như chúng tôi mà thôi.”

Pháp sư Á La lại hỏi: “Vậy còn Hạ Qua Ba tộc? Hạ Qua Ba tộc là như thế nào?”

Địch ô đại nhân gật đầu, nói: “Sự thực là, trong các truyền thuyết của đời trước lưu truyền lại, có một khoảng thời gian rất dài chúng tôi không hề biết về sự tồn tại của người Hạ Qua Ba. Khoảng chừng hơn trăm năm sau khi người Thượng Qua Ba xuất hiện, chúng tôi mới biết rằng còn có người Hạ Qua Ba nữa. Bọn họ nói rằng, họ và người Thượng Qua Ba cùng đến vùng đất này, nhưng không hiểu vì nguyên do gì, họ lại ở phía bên dưới mà không tiếp tục đi lên trên cao.”

“Vậy tại sao họ lại bị tiêu diệt thế?” Trác Mộc Cường Ba hỏi.

Địch ô An Cát Mẫu cười khổ, lắc đầu: “Làm sao tôi biết được? Nhưng chắc đến quá nửa là có liên quan đến người Thượng Qua Ba rồi. Một hai trăm năm gần đây, những thôn làng bị tiêu diệt đa phần đều có liên quan đến người Thượng Qua Ba. Các thôn làng bên Yaca còn bị tiêu diệt nhiều hơn, ví như trộm lương thực bị phát hiện, là phải chuẩn bị tâm lý đón nhận kết cuộc ấy rồi.”

Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc thốt lên: “Sao có thể vậy được!” Rất rõ ràng, những hạt giống ấy có lẽ chính là “lương thực vàng” mà đội trưởng Hồ Dương nói tới. Lẽ nào vì chất đất hay nguyên nhân nào đó khác, khiến cho sản lượng của “lương thực vàng” trồng trên tầng bình đài thứ hai này sau mấy đời liền giảm xuống? Mà dù có thế chăng nữa, những người Thượng Qua Ba kia có nhiều lương thực đến độ ăn chẳng hết, chia một phần cho cư dân ở tầng thứ hai này thì có làm sao? Lại còn cấm cửa người ta, một khi phát hiện kẻ nào xâm phạm, liền tiêu diệt toàn bộ thôn làng bộ lạc của họ, đây là đạo lý gì chứ? Còn người Hạ Qua Ba nữa, sao họ lại kinh động đến người Thượng Qua Ba? Ruộng của họ cũng có “lương thực vàng”, có thiếu thốn gì nữa đâu?

Pháp sư Á La đưa tay ngăn Trác Mộc Cường Ba lại, tiếp tục hỏi: “Chuyện người Hạ Qua Ba bị tiêu diệt xảy ra vào lúc nào vậy?”

Địch ô đại nhân đáp: “Ừm, chắc khoảng bốn năm trước gì đó, lúc đó cả thôn Côn Ba Thoát và Thư Đội Công Nhật đều bị kinh động, vì có cả một nhóm lớn người Thượng Qua Ba đi qua khu vực gần thôn làng bọn họ. Họ còn tưởng rằng làng mình sắp bị đồ sát nữa cơ.”

“Bốn năm trước, cũng chính vào khoảng thời gian đó, người Qua Ba điên ấy thoát ra khỏi nơi này. Nếu là vậy, nếu là vậy thì thời gian đã gắn kết với nhau rồi. Thì ra ngôi làng bên dưới bị người Thượng Qua Ba tiêu diệt, thang trời và bánh xe nước cũng bị người Thượng Qua Ba phá hoại. Nhưng mà, kết quả khám nghiệm thi thể cho thấy, những vết thương đó đều không phải do vũ khí của con người tạo nên, việc này thì giải thích thế nào đây nhỉ? Đúng rồi, Thủ hộ linh! Nhất định là thế rồi!” Nhạc Dương đã sắp xếp lại toàn bộ các đầu mối thành một đường liền mạch trong óc.

Nói tới đây, Địch ô An Cát Mẫu đã đứng lên, đảo mắt nhìn những vị khách lạ, đoạn tiếp lời: “Được rồi, đó là rất cả những gì tôi biết, nhiều chuyện bản thân tôi cũng không hiểu rõ cho lắm. Nếu các vị còn muốn tìm hiểu thêm nữa, hay là đến Tước Mẫu tìm Đại Địch ô Thứ Kiệt đại nhân của vương quốc Langbu chúng tôi đi, ông ấy biết rất nhiều bí mật. Vả lại, rất nhiều truyền thuyết tôi biết, đều là nghe ông ấy truyền lại cả.”

Thấy Địch ô đại nhân hơi cúi người, bọn Trác Mộc Cường Ba vội vàng đứng dậy nói: “Được Địch ô đại nhân cho biết nhiều điều như vậy, chúng tôi thực sự vô cùng biết ơn. Cũng làm phiền ngài lâu quá rồi, thật xin lỗi. Vậy, vậy chúng tôi, xin phép được cáo từ ở đây.”

Mã Cát đứng bên cạnh bèn cất lời mời: “Đến nhà em đi, nhà em ở ngay phía trước đây thôi…”

Địch ô đại nhân mỉm cười nói: “Có gì đâu, vừa nãy nghe nói có người Hạ Qua Ba đang phân phát thức ăn, lại còn trị bệnh cho người trong thôn chúng tôi nữa, tôi phải cảm ơn các vị mới đúng. À, đợi đã… Cường Ba!”

Trác Mộc Cường Ba vừa bước ra đến cửa, ánh sáng của Shangri-la đang chiếu lên người gã. Gã quay người lại, thấy Địch ô đại nhân đang nhìn mình với ánh mắt kỳ lạ rồi cất tiếng hỏi: “Tôi có thể xem mắt của anh được không? Trác Mộc Cường Ba?”

Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu. Địch ô đại nhân bèn đưa hai cánh tay gầy guộc khô héo ra, kéo mí mắt gã xuống, chỉ thấy bên dưới và hai bên nhãn cầu, có khá nhiều sợi tơ máu màu xanh rất khó nhận ra, thậm chí có sợi đã chuyển sang màu đen, thoạt trông giống như con sâu nhỏ màu đen đang bò theo nhãn cầu vươn thẳng vào trong xương sọ.

Địch ô An Cát Mẫu lùi lại một bước, hít sâu rồi thở hắt ra: “Không ngờ lại là nó.”

Bọn Trác Mộc Cường Ba dường như cũng biết Địch ô An Cát Mẫu nói đến thứ gì, pháp sư Á La kinh ngạc hỏi: “Địch ô nhận ra ư?”

Địch ô An Cát Mẫu đáp: “Ừm, Đại Thanh Liên cổ trong Địa Ngục Bát Đại Cổ Độc, thì ra các vị cũng biết, bao nhiêu lâu rồi?”

Trác Mộc Cường Ba không sao kìm nén được cảm giác vui sướng dâng trào lên trong tâm khảm, không ngờ chưa cần đến Bạc Ba La thần miếu, mới tới thôn làng đầu tiên ở Shangri-la đã có người nhận ra được loại cổ độc này rồi, thử hỏi gã làm sao mà không vui mừng ra mặt cho được. Gã nôn nóng nói: “Tôi, tôi vẫn còn ba tháng thời gian, Địch ô đại nhân, tôi… tôi… có thể trị được không vậy?”

Pháp sư Á La đứng bên cạnh bổ sung thêm: “Đây cũng là một mục đích tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu của chúng tôi.”

Địch ô An Cát Mẫu nhìn pháp sư Á La với ánh mắt ngờ vực, tựa như rất khó tin Bạc Ba La thần miếu lại có phương pháp trị liệu cổ độc, ông vân vê chòm râu dài, rồi khe khẽ lắc đầu: “Ừm, Đại Thanh Liên, không ngờ trong những năm còn sống trên đời này, tôi lại có thể thấy nó lần nữa. Tôi không biết cách giải, nhưng vẫn một câu nói đó thôi, hãy đi tìm Đại Địch ô Thứ Kiệt đại nhân. Trước đây, tôi từng thấy Đại Thanh Liên cổ một lần, chính là do ông ấy sử dụng.” Cả bọn đều hiểu ý của Địch ô An Cát Mẫu, nếu đã có thể sử dụng, vậy thì quá bán là cũng có thể giải trừ loại cổ độc này.

“Có điều…” Địch ô An Cát Mẫu lại bổ sung thêm, “tốt nhất các vị nên cẩn trọng, Thứ Kiệt đại nhân không dễ nói chuyện như tôi đâu.”

“Vậy thế, từ đây đến Tước Mẫu cần bao nhiêu thời gian vậy?” Nhạc Dương hỏi thêm.

Địch ô đại nhân đáp: “Nếu không xảy ra chuyện gì, khoảng ba ngày đi bộ là tới nơi rồi.”

“Cám ơn, thật vô cùng cám ơn ngài!” “Cám ơn ngài lắm, Địch ô đại nhân.” Mỗi người đều bày tỏ sự cảm kích của mình với Địch ô An Cát Mẫu.

Rời khỏi căn nhà của Địch ô An Cát Mẫu, chỉ thấy Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam đã bị một đám đông vây kín. Hai cô đang khám bệnh cứu người, phân phát các thứ cần thiết cho cuộc sống, bận đến không ngơi tay ngơi chân ra được giây phút nào.

“Giáo quan!” “Cô Mẫn Mẫn!” Trương Lập và Nhạc Dương từ đằng xa đã ngoác miệng hét lên, họ đều nôn nóng muốn báo tin này cho hai người. Cường Ba thiếu gia được cứu rồi, đây là tin mừng tày trời chứ chẳng chơi!

Nghe thấy tin tức khiến lòng người phấn chấn ấy, Mẫn Mẫn hạnh phúc gục đầu vào vai Trác Mộc Cường Ba, kích động nói trong nước mắt: “Anh Cường Ba, đúng là người tốt sẽ có phúc, em biết là anh sẽ không sao mà.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Phải rồi, phải rồi, anh sẽ không sao đâu. Được rồi, đừng khóc nữa, bao nhiêu người đang nhìn kìa. Bọn Trương Lập, Nhạc Dương cũng sẽ cười em nữa đó.”

Lữ Cánh Nam đứng một bên, nét mặt cũng lộ vẻ hân hoan mừng rỡ. Cô liếc nhìn đám người đang chen chúc, vội gọi đội trưởng Hồ Dương và pháp sư Á La: “Mọi người, mau giúp tôi phân phát các thứ này.”

Nhạc Dương cảm thấy hơi tiêng tiếc, bèn nói: “Giáo quan, phân phát hết đồ ăn cho dân làng, vậy chúng ta thì sao?”

Lữ Cánh Nam nói: “Chúng ta ăn làm sao hết được nhiều thế? Nhưng đối với những người này, thì có thể cứu mạng họ đó! Nếu không tới đây, Cường Ba… làm sao… làm sao có thể…” Nói tới đây, trong mắt cô đượm lên một vẻ dịu dàng.

Cả bọn bận rộn suốt cả ngày trời, Mã Cát nhìn Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam thuần thục chữa trị cho dân làng, nghiêng đầu nghĩ ngợi gì đó, rồi nhân lúc rảnh rỗi, gọi Mẫn Mẫn ra nói: “Chị Mẫn Mẫn, ngày mai nếu mọi người có thời gian, em muốn, em muốn nhờ mọi người đến thăm mấy người bệnh nặng lắm.”

Đường Mẫn nói: “Ngày mai à, ngày mai bọn chị phải đi Tước Mẫu rồi, bệnh của anh Cường Ba phải trị gấp. Hay là tối nay em dẫn đi luôn, biết đâu có thể giúp được gì cho họ.”

Mã Cát len lén liếc mắt sang phía Trương Lập. Trương Lập nãy giờ vẫn chăm chú ngắm nhìn Mã Cát, thấy cô đưa mắt qua, hai má liền đỏ bừng lên, cố làm ra vẻ bình tĩnh ngoảnh đầu đi. Bấy giờ, Mã Cát lại lấy làm khó xử nói: “Ngày mai đã đi rồi sao?”

“Ừ, nhưng bọn chị sẽ trở lại thăm em mà.”

“Tối nay thì không được rồi, chỗ đó ở bên ngoài thôn làng cơ. Ngày mai, ngày mai mọi người cũng sẽ đi qua nơi ấy đấy.” Mã Cát nghĩ ngợi giây lát, rồi nói.

“Được rồi.” Đường Mẫn liền gật đầu đáp ứng.

2 Australopithecus.

Căn nhà của Địch ô An Cát Mẫu ở trung tâm thôn làng, thân nhà hình tròn, nhìn các cửa sổ thì ít nhất cũng chia làm ba tầng, bốn góc có kinh phướn, phía dưới có rất nhiều tượng quỷ thần điêu khắc bằng gỗ, pháp sư Á La kiến văn quảng bác như thế mà cũng không nói được đó là những tượng gì. Mã Cát vừa vào cửa đã lớn tiếng gọi ầm ĩ: “Địch ô đại nhân, Địch ô đại nhân, con tìm được cho ông người đọc được chữ Mã Nhĩ rồi này!”

“Kha kha, A Mễ về đấy hả, sao lớn tiếng thế, lại gây họa gì bên ngoài rồi phải không?”

Mã Cát vừa xấu hổ vừa bối rối, vội nói: “Địch ô đại nhân nói bừa nhé, có khách quý đến đây nè.”

“Ủa.” Lúc này ông già kia mới quay người lại, chú ý đến bọn Trác Mộc Cường Ba: “Người Hạ Qua Ba à? Sao có thể được?” Địch ô An Cát Mẫu khoảng tầm sáu mươi đến bảy mươi tuổi, trông vẻ bề ngoài còn già nua hơn pháp sư Á La, gương mặt đầy những nếp nhăn sâu hõm, trên đầu chít khăn, nhưng không để tóc, mà chỉ có hai hàng râu dài bên mép và chòm râu dưới cằm tụ lại một chỗ.

Mã Cát cười cười nói: “Địch ô cũng có lúc không linh rồi nhé! Họ không phải người Hạ Qua Ba đâu, họ là quý khách từ bên ngoài tới đấy!” Tiếp đó, cô lần lượt giới thiệu từng người trong bọn Trác Mộc Cường Ba, rồi tự tiện lấy trong phòng trong của Địch ô đại nhân ra rất nhiều nệm cho mọi người ngồi xuống.

Sau khi biết được thân phận của mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba, vị Địch ô đại nhân ấy liền thẳng thừng nói luôn: “Nói mục đích của các vị đi, những vị khách phương xa.”

Pháp sư Á La nói: “Chúng tôi tìm kiếm vết chân của Bạc Ba La quang vinh, đến vùng đất này, chúng tôi…”

“A!” Tuy biết rằng làm vậy là rất thiếu lễ độ, nhưng vị Địch ô An Cát Mẫu vẫn không sao nén nổi cất tiếng ngắt lời: “Người Qua Ba! Bạc Ba La thần miếu! Tôi hiểu rồi.” Ông đứng dậy, bất an đi đi lại lại mấy bước, đoạn nói: “Hình như tất cả những người từ bên ngoài đến, đều vì Bạc Ba La thần miếu cả. Nơi đó không dễ gì đến được đâu.” Ông đưa mắt liếc sang phía Mã Cát, rồi thở dài nói tiếp: “Thôi được, tôi có thể nói cho các vị biết chuyện về Bạc Ba La thần miếu và bộ tộc Qua Ba. Chỉ hiềm nỗi, những điều tôi biết cũng chẳng nhiều nhặn gì.”

Ông già vuốt vuốt lại vạt áo, ngồi trở xuống, chầm chậm cất tiếng: “Người Vi Đạt chúng tôi đã đến định cư ở nơi này từ rất sớm, rất sớm, chỉ hơi muộn hơn so với người ở hang và người núi tuyết thôi.”

“Người núi tuyết!” Nhạc Dương vừa nghe thấy cách phát âm đó đã kinh ngạc thốt lên. Cách phát âm chữ “người núi tuyết” của Địch ô An Cát Mẫu gần giống với “sa tư mã tang mễ” hoặc “cáp tư khoa ngưỡng hĩ”, còn khi Nhạc Dương ghép các âm “núi tuyết” và “người” trong tiếng Tạng cổ vào, thì lại nhận ra phát âm không giống thế. Pháp sư Á La bèn giải thích, cách phát âm “người núi tuyết” chắc là của tiếng Tượng Hùng, hoặc một loại ngôn ngữ cổ còn sớm hơn cả tiếng Tượng Hùng và vẫn được lưu giữ đến tận ngày nay, vì vậy không thể dùng tiếng Tạng cổ để ghép âm lại được.

Địch ô An Cát Mẫu dừng lại, Nhạc Dương ngại ngùng giải thích: “Tôi… tôi muốn nói, không biết Địch ô đại nhân có thể kể về người núi tuyết trong truyền thuyết của các vị được không.” Từ sau khi pháp sư Á La nhắc đến người núi tuyết, Nhạc Dương đã tra tìm trong kho dữ liệu của giáo sư Phương Tân các tư liệu về người tuyết Tây Tạng. Không tra thì không biết, tra ra liền không khỏi giật mình, từ cuối thế kỷ mười chín cho đến ngày nay, số lượng các ghi chép chính thức về việc tìm kiếm người tuyết ở dãy Himalaya và vùng phụ cận phải lên đến hơn nghìn, số lần các đoàn khảo sát tiến vào rặng núi với danh nghĩa tìm kiếm người tuyết, so với số lần khảo sát đỉnh Chomolungma còn nhiều hơn gấp bội.

Hơn nữa, bọn họ còn phát hiện ra rất nhiều thứ thú vị. Chẳng hạn, có nhà khoa học cho rằng, con người và người tuyết có cùng một tổ tiên. Hai triệu năm trước, Vượn người Phương Nam 1 bắt đầu từ trên cây xuống đất, mở ra một phương thức sinh tồn hoàn toàn mới. Vượn người Phương Nam có thân thể cao lớn, trong đó có một bộ phận tiến hóa thành người, còn một bộ phận khác thì phân hóa thành loại nhỏ bé, loại cao lớn và người nguyên thủy Paranthropus Boisei. Ban đầu, Vượn người phương Nam tiến hóa thành người khéo léo Homo habilis, cũng chính là những tổ tiên có thể chế tạo ra các công cụ bằng đá đơn giản, mở ra thời kỳ Đồ đá cũ của loài người.

Một triệu năm trước, băng hà bao phủ trái đất, tiến trình hoang mạc hóa ở châu Phi tăng tốc, một nhóm người Homo habilis ở châu Phi lại tiến hóa thành người đứng thẳng Homo erectus, họ học cách sử dụng lửa, ngôn ngữ cũng rõ ràng hơn. Đất đai châu Phi bị sa mạc hóa mỗi lúc một nhiều, khiến người đứng thẳng Homo erectus không thể không rời bỏ châu lục này, di cư đi khắp thế giới. Người vượn Bắc Kinh, người Nguyên Mưu, người Lam Điền rất nổi tiếng ở Trung Quốc, đều thuộc nhánh người đứng thẳng Homo erectus này cả; người Homo erectus đến châu u muộn hơn một chút, ở đây, họ tiến hóa thành người Homo neanderthalensis.

Khoảng hai trăm năm mươi nghìn năm trước, môi trường châu Phi càng trở nên khắc nghiệt, một nhóm người đứng thẳng Homo erectus ở đây đã tiến hóa thành người có trí tuệ Homo sapiens, người Homo sapiens bắt đầu cuộc đại di cư toàn cầu lần thứ hai. Những người đứng thẳng Homo erectus ở những nơi khác cũng có sự tiến hóa với mức độ khác nhau, họ đã sống chung với người Homo sapiens trong một thời kỳ rất dài. Mãi đến khoảng sáu mươi nghìn năm trước, lại một đợt băng hà nữa phủ khắp địa cầu, môi trường sinh tồn trên cả trái đất đều trở nên khắc nghiệt, người Homo sapiens không ngừng tiến hóa trong lao động, cuối cùng đã trở thành người Homo sapiens kỳ cuối, hoặc gọi là người mới, người hiện đại, về ngoại hình và dung lượng bộ não gần như tương đương với con người ngày nay, và đồng thời dần dần thay thế người đứng thẳng Homo erectus vẫn chưa thể tiến hóa được. Người ta chia người Homo sapiens kỳ cuối ra làm bốn đại chủng: Trung Quốc, Đông Á, người Indian ở châu Mỹ chủng da vàng, gọi là người Mongoloid hay người Mông Cổ; người châu u, Bắc Phi, Nam Á thuộc chủng da trắng, hay gọi là người Oropeoit hay người Caucasoid; ngoài ra còn có chủng da đen ở châu Phi, da nâu ở châu Úc, từ đó hình thành cách cục của nhân loại ngày nay.

Điều khiến các nhà nhân loại học và nhà nghiên cứu Tây Tạng thấy thú vị là, có rất nhiều truyền thuyết viễn cổ của Tây Tạng có những điểm tương đồng đến đáng ngạc nhiên với lịch sử tiến hóa của loài người; chẳng hạn như truyền thuyết về nguồn gốc loài người của dân tộc Tạng cho rằng, con người từ loài vượn tiến hóa nên; còn cả truyền thuyết về cuộc chiến giữa người núi tuyết và người ở hang, gần như chính là một phiên bản của sự cạnh tranh giữa người Homo erectus và người Homo sapiens; thậm chí cả từ “người núi tuyết” cũng ngầm ám chỉ đến thời kỳ băng hà. Vì vậy, những nhà nhân loại học ấy suy đoán, người tuyết mà ngày nay vẫn được đồn đại lưu truyền trong vô số các câu chuyện, cũng như được rất nhiều người tận mắt trông thấy đó, rất có thể là một chủng người Homo erectus đã tiến hóa để thích nghi với sự sinh tồn vùng sông băng trong cuộc chiến giữa người Homo erectus với người Homo sapiens. Vì sông băng tan chảy, đa phần không gian sinh tồn còn lại đều bị người Homo sapiens chiếm cứ, duy nhất chỉ có cao nguyên núi tuyết trên nóc nhà thế giới này là vẫn còn giữ lại một mảng không gian thích hợp để người tuyết sinh tồn mà thôi.

Hơn nữa, thông qua nghiên cứu các tư liệu, Nhạc Dương và Trương Lập còn phát hiện, cả quá trình tiến hóa của loài người, cực kỳ tương đồng với quá trình sản sinh ra Lang vương mà giáo sư Phương Tân đã nói, gần như có thể nói là đồng nhất. Cũng có nghĩa là, dù là chủng loại nào, cũng đều phải trải qua một quá trình giống nhau, mới có thể tiến hóa nên đủ trí tuệ. Khi sự thay đổi khắc nghiệt của môi trường sống, cuộc sống lao động tập thể, những cuộc thiên di không ngừng, số lượng quần thể và năng lực chống lại môi trường đều đạt đến mức độ nhất định, thì bắt đầu định cư, trải qua nghìn vạn năm tích lũy, rồi mới từ từ thay đổi được.

Địch ô An Cát Mẫu không có những tri thức khoa học phổ thông này, nhưng ông được nghe những truyền thuyết từ đời cha ông, ông nội ông, cụ kỵ ông kể lại. Ông nói: “Người núi tuyết là một trong những cư dân sớm nhất của nơi này, tất cả các truyền thuyết đều nói như vậy. Chiều cao của họ ít nhất cũng gấp đôi người bình thường chúng ta, tương truyền rằng, người núi tuyết có lớp lông rất dày, đi lại dễ dàng trên núi tuyết, không hề sợ đóng băng và giá lạnh; dùng tay không có thể đánh ngã được bò rừng và báo tuyết; họ cũng có bộ lạc, có công cụ sản xuất của riêng mình, có điều so với công cụ của chúng ta thì hơi kém một chút. Hầu hết đều bằng đá, cũng có một ít chế phẩm kim loại. Nhưng truyền thuyết về họ rất ít, dù sao thì trong chúng tôi cũng chưa ai từng thấy họ cả, mà có rất nhiều truyền thuyết còn do người Hạ Qua Ba kể lại cho chúng ta nữa.”

Thấy phần nội dung truyền thuyết mà Địch ô An Cát Mẫu kể ra quá ít, Nhạc Dương không khỏi chau mày lại, thoáng nheo mắt, anh liền thấy pháp sư Á La đang nhìn mình chằm chằm, ý chừng muốn nhắc anh đừng tùy tiện ngắt lời Địch ô An Cát Mẫu nữa.

Địch ô An Cát Mẫu thấy Nhạc Dương không còn câu hỏi nào khác, mới tiếp tục nói: “Thực ra, tổ tiên chúng tôi tới vùng đất này là để tránh chiến tranh loạn lạc, những người tới đây gần như đều có cùng một mục đích ấy. Người Qua Ba là nhóm cuối cùng thiên di tới chốn này, nhưng lại là những người mạnh mẽ nhất, tuy họ cũng giống như chúng ta, đều được gọi là hậu nhân của người ở hang, nhưng niên đại cách nhau quá xa, nên giữa hai bộ tộc có những khác biệt rất lớn. Bọn họ chiếm cứ tầng cao nhất vốn thuộc địa bàn của người núi tuyết, đồng thời điều động nhân thủ ở Thánh vực xây dựng nên Bạc Ba La thần miếu, không có bộ tộc nào dám phản kháng cả.”

“Tại sao lại chọn tầng cao nhất?” Đội trưởng Hồ Dương buột miệng hỏi. Tầng bình đài thứ hai này ước chừng ở độ cao khoảng bốn nghìn mét so với mực nước biển, còn tầng thứ ba thì xấp xỉ đạt sáu nghìn mét, gần đến lằn ranh tuyết, mà độ cao quá năm nghìn mét so với mực nước biển không thích hợp cho con người sinh sống, đây là thường thức hiển nhiên.

Địch ô đại nhân đáp: “Tại sao ư? Có thể vì người ở trên đó ít nhất. Trước khi người Qua Ba tới đây, tầng bình đài thứ ba hầu như chỉ có người núi tuyết, môi trường trên đó không thích hợp lắm cho các bộ tộc khác sinh sống, nhưng khi người Qua Ba cưỡng chiếm nơi đó, những người núi tuyết phản kháng hoặc bị giết, hoặc đều bỏ trốn cả. Về sau mới có truyền thuyết kể rằng, bộ tộc Qua Ba tìm được một nơi gần như hoàn mỹ, vì chỗ đó lúc nào cũng có băng tuyết và sương mù bao phủ, nên chưa từng được phát hiện bao giờ. Tương truyền rằng, nơi ấy có một vùng đất rộng lớn, không có thời tiết biến đổi, không có những khu rừng Xương Trắng và lũ ác thú khủng khiếp, lại rất gần núi Thần. Ở nơi ấy, đồng cỏ mãi mãi một màu xanh, mãi mãi ấm áp, mây mãi mãi giữ một màu trắng, từ đầu năm tới cuối năm đều là mùa xuân. Cũng có truyền thuyết nói rằng, người Qua Ba đã tạo nên tất cả những thứ ấy, tóm lại là, trong truyền thuyết, người Qua Ba thực sự rất lớn mạnh, họ có những loại vũ khí mạnh nhất, có vu sư mạnh nhất, có quân đội mạnh nhất, kỹ nghệ của họ khiến người ta phải kinh ngạc, trí tuệ của họ lại càng cao tuyệt. Họ không sử dụng chữ Mã Nhĩ nữa, mà dùng một loại văn tự khác, lại còn phát minh ra thứ dùng để viết chữ, không cần viết trên vỏ cây nữa. Chẳng những thế, họ còn có thần thông thao túng được cả ngọn lửa, khiến khúc cây tự động di chuyển…” Nói tới đây, Địch ô An Cát Mẫu ngừng lại, mỗi lần nghe thấy các thông tin này, những người từ bên ngoài đến thông thường đều hết sức kinh ngạc.

Có điều, mấy người này hình như chẳng hề ngạc nhiên một chút nào, mà chỉ tiếp tục hỏi: “Về sau thì sao? Sau khi người Qua Ba chiếm lĩnh tầng bình đài thứ ba thì thế nào?”

“Về sau…” Địch ô đại nhân lục tìm trong ký ức, “truyền thuyết kể rằng họ đã xây dựng rất nhiều tòa thành đá trên tầng bình đài thứ ba, đến cả những người thợ xây bị chiêu mộ cũng phải thừa nhận đó là một kỳ tích, là điềm lành do thần ưng trên trời đưa tới, những truyền thuyết tôi vừa kể cho mọi người đó cũng là do họ mang về. Nhưng về sau người Qua Ba đã bảo vệ rất chặt những tòa thành ấy, họ đuổi hết những người khác xuống các tầng dưới, mọi bộ tộc khác đều không được phép đặt một chân lên tầng thứ ba này, vì thế, những chuyện xảy ra sau đó, chúng tôi cũng không thể nào biết được. Cũng từng có người thử tìm cách lén lên tầng thứ ba, nhưng nghe nói những người Thượng Qua Ba ở trên đó đều không chút nương tình mà giết sạch tất cả những kẻ nào dám đặt chân lên đất cấm của họ.”

“A, sao lại thế?” Mã Cát không kìm được buột miệng thốt lên. Kể cả pháp sư Á La, tất cả những người khác đều cảm thấy thật khó tin.

“Nếu những người lên đó đều bị giết chết, vậy làm sao tin tức lan truyền xuống dưới đây được?” Nhạc Dương thắc mắc.

Địch ô đại nhân đáp: “Thì cũng có những dũng sĩ liều chết lên tầng bình đài thứ ba và may mắn chạy thoát trở về. Trước đây, người Thượng Qua Ba về đại thể cũng giống như chúng tôi, phân bố khắp nơi, chủ yếu sống thành các bộ lạc, mà giữa các bộ lạc cũng có tranh đấu, hiềm khích, vì vậy, chỉ cần ở trên đó cẩn thận không để gặp phải bọn họ thì cũng vẫn còn cơ may sống sót trở về. Đương nhiên, những tin tức này cũng mới lan truyền đi từ một hai trăm năm gần đây. Theo các truyền thuyết xa xưa của bộ tộc, vào khoảng mấy trăm năm trước, những người lên tầng bình đài thứ ba đó đều tuyệt đối không có bất cứ cơ hội nào để sống sót trở về, nhất loạt đều ra đi rồi biến mất vĩnh viễn.”

Đám Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn nhau ngơ ngác. Không đúng rồi, cách nói này hoàn toàn không khớp với những gì họ đã biết. Bộ tộc Qua Ba chính là Đạo quân Ánh Sáng, đó là một cánh quân hoàn chỉnh, sao lại có thể phân chia thành các bộ lạc khác nhau được? Lẽ nào vì thời gian quá lâu, Đạo quân Ánh Sáng cũng bị phân chia thành từng nhóm nhỏ, rồi tranh đấu với nhau để giành được quyền thống trị tối cao? Còn pháp sư Á La thì lại càng thầm khẳng định, tuyệt đối không thể nào, nhất định là có sai sót gì ở đâu đó? Truyền thuyết sai ư? Hay là những người tự xưng đã lên tầng thứ ba ấy, căn bản chưa từng đặt chân lên đó, chẳng qua chỉ bịa tạc ra để lòe bịp mọi người mà thôi?

“Họ lên đó làm gì vậy?” Nhạc Dương thắc mắc.

“Làm gì ư?” Địch ô An Cát Mẫu cười khổ đáp: “Tại sao các vị lại không ngại đường xa ngàn dặm, không sợ bao hiểm nguy gian khó trùng trùng trên đường để tới tận nơi này? Tại sao khi đồng bạn tử thương vô số, các vị cũng vẫn không chịu quay đầu? Đừng nói vói tôi rằng, các vị đến được đây mà không hề thương vong gì. Vậy thử hỏi, các vị vì điều gì mà nhất định phải lên tầng bình đài thứ ba ấy?” Nhạc Dương toan mở miệng, Địch ô An Cát Mẫu lại tiếp lời: “Chúng tôi, cũng giống như các vị thôi, nghe nói phía trên đó có vùng đất được thần linh ban phước, có thức ăn không bao giờ cạn kiệt, không có thiên địch và dã thú xâm hại, có ai mà không muốn tận mắt nhìn thấy một lần trong đời chứ? Tình trạng của chúng tôi ở đây thế nào, các vị cũng đều đã thấy cả rồi, chiến tranh, bệnh dịch, dã thú đầy rẫy khắp nơi, mỗi ngày chúng tôi đều phải vật lộn vùng vẫy trên lằn ranh sinh tử, mỗi năm đều bị cái đói và bệnh tật cướp đi không biết bao nhiêu sinh mạng. Càng huống hồ, những năm gần đây, những người “giáp mễ” từ bên ngoài đến như các vị mỗi lúc một nhiều, từ nơi bọn họ, chúng tôi biết được rằng ở bên ngoài có một thế giới hoàn toàn khác với nơi đây, một thế giới rộng lớn vô cùng. Một thế giới, nếu đi bộ thì tốn mười năm cũng chẳng thể đi hết. Những người ấy có màu da khác nhau, ngôn ngữ khác nhau, lại còn phát minh ra những thứ dẫu có trong mơ chúng tôi cũng không thể tưởng tượng ra nổi nữa. Thử hỏi, các vị có biết rằng, những người sống ở đây khát khao được rời khỏi chốn này thế nào hay không? Họ khát khao được ra xem thế giới bên ngoài ấy, tận mắt nhìn thấy con chim sắt biết bay trong truyền thuyết, nhìn thấy những con sâu sắt khổng lồ có bánh, không cần sức người sức ngựa cũng có thể lao như bay về phía trước…”

Cứ nói, nói mãi, khóe mắt Địch ô đại nhân cũng hơi ươn ướt: “Thế nhưng, người Qua Ba đã xây nên một rào chắn không thể nào vượt qua ở phía trên đó, họ khiến người bên ngoài không thể tìm được nơi này, đồng thời cũng khiến người ở trong đây không thể ra thế giới rộng lớn ngoài kia. Nhiều lúc, những người dân bình thường có thể sẽ cho rằng, những dũng sĩ đã lên trên ấy và không bao giờ trở về nữa, chắc hẳn đã tìm được lối ra, và rời khỏi nơi đây rồi cũng nên. Tuy rằng biết rõ là không thể nào thế được, nhưng họ vẫn không sao kìm nén được suy nghĩ ấy. Càng huống hồ, rất nhiều lúc, chúng tôi còn buộc phải lên trên đó nữa.”

Địch ô An Cát Mẫu lại đổi giọng, chầm chậm thở dài nói: “Như các vị đã thấy đấy, ở tầng thứ hai này thời tiết biến đổi rất đa đoan, có lúc chỉ cần một trận thiên tai thôi cũng đủ khiến cả một bộ lạc mất hết mùa màng rồi. Ví như mấy bộ lạc ở phương Bắc chẳng hạn, gặp một trận lụt lớn, vậy là chẳng thu hoạch được một hạt lương thực nào. Mà người Hạ Qua Ba thì cũng không phải năm nào cũng xuất hiện, có khi mấy chục năm họ mới xuất hiện một lần cũng không chừng. Để bộ lạc có thể tiếp tục sinh tồn, các dũng sĩ của Yaca buộc phải liều chết lên tầng thứ ba ăn trộm hạt giống, còn dũng sĩ của Langbu chúng tôi thì phải vượt qua rừng Xương Trắng xuống chỗ của người Hạ Qua Ba bên dưới. Lương thực của người Hạ Qua Ba lúc nào cũng sung túc dồi dào, nếu gặp may, thì thường thường cũng có dũng sĩ mang được hạt giống trở về. Có điều, đến giờ thì e rằng phía Yaca khó lòng mà trộm được hạt giống của họ nữa rồi, chỉ mong các bộ lạc bên đó vẫn có thể tiếp tục cầm cự được.”

“Tại sao thế?”

“Ba năm trước, các dũng sĩ đi trộm lương thực, kết quả là bị tiêu diệt toàn bộ, chỉ có một người chỉ còn một tay một chân bò về được đến Côn Ba Thoát, người đó mang về một tin tức, nói rằng, người Qua Ba đã có vương của họ rồi.”

Nhìn những ánh mắt có vẻ không hiểu lắm của những vị khách phương xa, Địch ô An Cát Mẫu giải thích: “Người Qua Ba vốn cũng giống như các bộ lạc ở tầng thứ hai này, họ phân tán ra sống ở các khu vực khác nhau theo từng bộ lạc, giữa các bộ lạc ấy thường có khoảng cách, dường như cũng không hòa bình gì cho lắm. Thế nhưng, một khi họ đã có vương, vậy thì tình hình sẽ hoàn toàn khác. Có nghĩa là, toàn bộ người Thượng Qua Ba trên tầng thứ ba đều đã được thống nhất thành một mối. Giờ thì chỉ biết hy vọng, bọn họ sẽ không tiêu diệt hết các bộ lạc như chúng tôi mà thôi.”

Pháp sư Á La lại hỏi: “Vậy còn Hạ Qua Ba tộc? Hạ Qua Ba tộc là như thế nào?”

Địch ô đại nhân gật đầu, nói: “Sự thực là, trong các truyền thuyết của đời trước lưu truyền lại, có một khoảng thời gian rất dài chúng tôi không hề biết về sự tồn tại của người Hạ Qua Ba. Khoảng chừng hơn trăm năm sau khi người Thượng Qua Ba xuất hiện, chúng tôi mới biết rằng còn có người Hạ Qua Ba nữa. Bọn họ nói rằng, họ và người Thượng Qua Ba cùng đến vùng đất này, nhưng không hiểu vì nguyên do gì, họ lại ở phía bên dưới mà không tiếp tục đi lên trên cao.”

“Vậy tại sao họ lại bị tiêu diệt thế?” Trác Mộc Cường Ba hỏi.

Địch ô An Cát Mẫu cười khổ, lắc đầu: “Làm sao tôi biết được? Nhưng chắc đến quá nửa là có liên quan đến người Thượng Qua Ba rồi. Một hai trăm năm gần đây, những thôn làng bị tiêu diệt đa phần đều có liên quan đến người Thượng Qua Ba. Các thôn làng bên Yaca còn bị tiêu diệt nhiều hơn, ví như trộm lương thực bị phát hiện, là phải chuẩn bị tâm lý đón nhận kết cuộc ấy rồi.”

Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc thốt lên: “Sao có thể vậy được!” Rất rõ ràng, những hạt giống ấy có lẽ chính là “lương thực vàng” mà đội trưởng Hồ Dương nói tới. Lẽ nào vì chất đất hay nguyên nhân nào đó khác, khiến cho sản lượng của “lương thực vàng” trồng trên tầng bình đài thứ hai này sau mấy đời liền giảm xuống? Mà dù có thế chăng nữa, những người Thượng Qua Ba kia có nhiều lương thực đến độ ăn chẳng hết, chia một phần cho cư dân ở tầng thứ hai này thì có làm sao? Lại còn cấm cửa người ta, một khi phát hiện kẻ nào xâm phạm, liền tiêu diệt toàn bộ thôn làng bộ lạc của họ, đây là đạo lý gì chứ? Còn người Hạ Qua Ba nữa, sao họ lại kinh động đến người Thượng Qua Ba? Ruộng của họ cũng có “lương thực vàng”, có thiếu thốn gì nữa đâu?

Pháp sư Á La đưa tay ngăn Trác Mộc Cường Ba lại, tiếp tục hỏi: “Chuyện người Hạ Qua Ba bị tiêu diệt xảy ra vào lúc nào vậy?”

Địch ô đại nhân đáp: “Ừm, chắc khoảng bốn năm trước gì đó, lúc đó cả thôn Côn Ba Thoát và Thư Đội Công Nhật đều bị kinh động, vì có cả một nhóm lớn người Thượng Qua Ba đi qua khu vực gần thôn làng bọn họ. Họ còn tưởng rằng làng mình sắp bị đồ sát nữa cơ.”

“Bốn năm trước, cũng chính vào khoảng thời gian đó, người Qua Ba điên ấy thoát ra khỏi nơi này. Nếu là vậy, nếu là vậy thì thời gian đã gắn kết với nhau rồi. Thì ra ngôi làng bên dưới bị người Thượng Qua Ba tiêu diệt, thang trời và bánh xe nước cũng bị người Thượng Qua Ba phá hoại. Nhưng mà, kết quả khám nghiệm thi thể cho thấy, những vết thương đó đều không phải do vũ khí của con người tạo nên, việc này thì giải thích thế nào đây nhỉ? Đúng rồi, Thủ hộ linh! Nhất định là thế rồi!” Nhạc Dương đã sắp xếp lại toàn bộ các đầu mối thành một đường liền mạch trong óc.

Nói tới đây, Địch ô An Cát Mẫu đã đứng lên, đảo mắt nhìn những vị khách lạ, đoạn tiếp lời: “Được rồi, đó là rất cả những gì tôi biết, nhiều chuyện bản thân tôi cũng không hiểu rõ cho lắm. Nếu các vị còn muốn tìm hiểu thêm nữa, hay là đến Tước Mẫu tìm Đại Địch ô Thứ Kiệt đại nhân của vương quốc Langbu chúng tôi đi, ông ấy biết rất nhiều bí mật. Vả lại, rất nhiều truyền thuyết tôi biết, đều là nghe ông ấy truyền lại cả.”

Thấy Địch ô đại nhân hơi cúi người, bọn Trác Mộc Cường Ba vội vàng đứng dậy nói: “Được Địch ô đại nhân cho biết nhiều điều như vậy, chúng tôi thực sự vô cùng biết ơn. Cũng làm phiền ngài lâu quá rồi, thật xin lỗi. Vậy, vậy chúng tôi, xin phép được cáo từ ở đây.”

Mã Cát đứng bên cạnh bèn cất lời mời: “Đến nhà em đi, nhà em ở ngay phía trước đây thôi…”

Địch ô đại nhân mỉm cười nói: “Có gì đâu, vừa nãy nghe nói có người Hạ Qua Ba đang phân phát thức ăn, lại còn trị bệnh cho người trong thôn chúng tôi nữa, tôi phải cảm ơn các vị mới đúng. À, đợi đã… Cường Ba!”

Trác Mộc Cường Ba vừa bước ra đến cửa, ánh sáng của Shangri-la đang chiếu lên người gã. Gã quay người lại, thấy Địch ô đại nhân đang nhìn mình với ánh mắt kỳ lạ rồi cất tiếng hỏi: “Tôi có thể xem mắt của anh được không? Trác Mộc Cường Ba?”

Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu. Địch ô đại nhân bèn đưa hai cánh tay gầy guộc khô héo ra, kéo mí mắt gã xuống, chỉ thấy bên dưới và hai bên nhãn cầu, có khá nhiều sợi tơ máu màu xanh rất khó nhận ra, thậm chí có sợi đã chuyển sang màu đen, thoạt trông giống như con sâu nhỏ màu đen đang bò theo nhãn cầu vươn thẳng vào trong xương sọ.

Địch ô An Cát Mẫu lùi lại một bước, hít sâu rồi thở hắt ra: “Không ngờ lại là nó.”

Bọn Trác Mộc Cường Ba dường như cũng biết Địch ô An Cát Mẫu nói đến thứ gì, pháp sư Á La kinh ngạc hỏi: “Địch ô nhận ra ư?”

Địch ô An Cát Mẫu đáp: “Ừm, Đại Thanh Liên cổ trong Địa Ngục Bát Đại Cổ Độc, thì ra các vị cũng biết, bao nhiêu lâu rồi?”

Trác Mộc Cường Ba không sao kìm nén được cảm giác vui sướng dâng trào lên trong tâm khảm, không ngờ chưa cần đến Bạc Ba La thần miếu, mới tới thôn làng đầu tiên ở Shangri-la đã có người nhận ra được loại cổ độc này rồi, thử hỏi gã làm sao mà không vui mừng ra mặt cho được. Gã nôn nóng nói: “Tôi, tôi vẫn còn ba tháng thời gian, Địch ô đại nhân, tôi… tôi… có thể trị được không vậy?”

Pháp sư Á La đứng bên cạnh bổ sung thêm: “Đây cũng là một mục đích tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu của chúng tôi.”

Địch ô An Cát Mẫu nhìn pháp sư Á La với ánh mắt ngờ vực, tựa như rất khó tin Bạc Ba La thần miếu lại có phương pháp trị liệu cổ độc, ông vân vê chòm râu dài, rồi khe khẽ lắc đầu: “Ừm, Đại Thanh Liên, không ngờ trong những năm còn sống trên đời này, tôi lại có thể thấy nó lần nữa. Tôi không biết cách giải, nhưng vẫn một câu nói đó thôi, hãy đi tìm Đại Địch ô Thứ Kiệt đại nhân. Trước đây, tôi từng thấy Đại Thanh Liên cổ một lần, chính là do ông ấy sử dụng.” Cả bọn đều hiểu ý của Địch ô An Cát Mẫu, nếu đã có thể sử dụng, vậy thì quá bán là cũng có thể giải trừ loại cổ độc này.

“Có điều…” Địch ô An Cát Mẫu lại bổ sung thêm, “tốt nhất các vị nên cẩn trọng, Thứ Kiệt đại nhân không dễ nói chuyện như tôi đâu.”

“Vậy thế, từ đây đến Tước Mẫu cần bao nhiêu thời gian vậy?” Nhạc Dương hỏi thêm.

Địch ô đại nhân đáp: “Nếu không xảy ra chuyện gì, khoảng ba ngày đi bộ là tới nơi rồi.”

“Cám ơn, thật vô cùng cám ơn ngài!” “Cám ơn ngài lắm, Địch ô đại nhân.” Mỗi người đều bày tỏ sự cảm kích của mình với Địch ô An Cát Mẫu.

Rời khỏi căn nhà của Địch ô An Cát Mẫu, chỉ thấy Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam đã bị một đám đông vây kín. Hai cô đang khám bệnh cứu người, phân phát các thứ cần thiết cho cuộc sống, bận đến không ngơi tay ngơi chân ra được giây phút nào.

“Giáo quan!” “Cô Mẫn Mẫn!” Trương Lập và Nhạc Dương từ đằng xa đã ngoác miệng hét lên, họ đều nôn nóng muốn báo tin này cho hai người. Cường Ba thiếu gia được cứu rồi, đây là tin mừng tày trời chứ chẳng chơi!

Nghe thấy tin tức khiến lòng người phấn chấn ấy, Mẫn Mẫn hạnh phúc gục đầu vào vai Trác Mộc Cường Ba, kích động nói trong nước mắt: “Anh Cường Ba, đúng là người tốt sẽ có phúc, em biết là anh sẽ không sao mà.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Phải rồi, phải rồi, anh sẽ không sao đâu. Được rồi, đừng khóc nữa, bao nhiêu người đang nhìn kìa. Bọn Trương Lập, Nhạc Dương cũng sẽ cười em nữa đó.”

Lữ Cánh Nam đứng một bên, nét mặt cũng lộ vẻ hân hoan mừng rỡ. Cô liếc nhìn đám người đang chen chúc, vội gọi đội trưởng Hồ Dương và pháp sư Á La: “Mọi người, mau giúp tôi phân phát các thứ này.”

Nhạc Dương cảm thấy hơi tiêng tiếc, bèn nói: “Giáo quan, phân phát hết đồ ăn cho dân làng, vậy chúng ta thì sao?”

Lữ Cánh Nam nói: “Chúng ta ăn làm sao hết được nhiều thế? Nhưng đối với những người này, thì có thể cứu mạng họ đó! Nếu không tới đây, Cường Ba… làm sao… làm sao có thể…” Nói tới đây, trong mắt cô đượm lên một vẻ dịu dàng.

Cả bọn bận rộn suốt cả ngày trời, Mã Cát nhìn Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam thuần thục chữa trị cho dân làng, nghiêng đầu nghĩ ngợi gì đó, rồi nhân lúc rảnh rỗi, gọi Mẫn Mẫn ra nói: “Chị Mẫn Mẫn, ngày mai nếu mọi người có thời gian, em muốn, em muốn nhờ mọi người đến thăm mấy người bệnh nặng lắm.”

Đường Mẫn nói: “Ngày mai à, ngày mai bọn chị phải đi Tước Mẫu rồi, bệnh của anh Cường Ba phải trị gấp. Hay là tối nay em dẫn đi luôn, biết đâu có thể giúp được gì cho họ.”

Mã Cát len lén liếc mắt sang phía Trương Lập. Trương Lập nãy giờ vẫn chăm chú ngắm nhìn Mã Cát, thấy cô đưa mắt qua, hai má liền đỏ bừng lên, cố làm ra vẻ bình tĩnh ngoảnh đầu đi. Bấy giờ, Mã Cát lại lấy làm khó xử nói: “Ngày mai đã đi rồi sao?”

“Ừ, nhưng bọn chị sẽ trở lại thăm em mà.”

“Tối nay thì không được rồi, chỗ đó ở bên ngoài thôn làng cơ. Ngày mai, ngày mai mọi người cũng sẽ đi qua nơi ấy đấy.” Mã Cát nghĩ ngợi giây lát, rồi nói.

“Được rồi.” Đường Mẫn liền gật đầu đáp ứng.

2 Australopithecus.

Chọn tập
Bình luận
720
× sticky