Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Mật Mã Tây Tạng – tập 10

Chương 228: Chào Mừng Đến Với Bạc Ba La Thần Miếu

Tác giả: Hà Mã

“Ít gặp thì thấy lạ thôi,” người trẻ tuổi có vẻ rất không hài lòng với tố chất của đám lính đánh thuê. “Cái hồ này thông với hồ nước lớn bên ngoài kia, chúng mày có thể mường tượng thế này, lấy một cái bát lớn úp ngược vào trong vũng nước, phần đáy bát hướng lên trên vẫn còn lại một ít không khí, giờ đây chúng ta đang ở trong phần không gian ấy, ngọn lửa cháy lên làm tiêu hao hết ôxy, nước ở đáy hồ tự nhiên sẽ tràn vào thôi. Chúng mày không thấy những bồn lửa kia chỉ cháy đến tầng thứ hai thôi sao, tầng dưới cùng không có lửa, hiển nhiên là sẽ bị nhấn chìm hoàn toàn rồi. Đến khi nào lượng ôxy tiêu hao bởi những ngọn lửa kia đạt đến độ cân bằng với lượng ôxy được hút vào khoảng không gian này, mực nước tự nhiên sẽ không dâng lên nữa. Cái này có phải cơ quan gì đâu, chẳng qua chỉ là một ứng dụng đơn giản nhất của nguyên lý tự nhiên mà thôi.”

“Ôxy được hút vào từ đâu?” pháp sư Á La hỏi, như thể thầy giáo đang khảo vấn người trẻ tuổi trong kỳ thi vấn đáp.

Khóe miệng người trẻ tuổi khẽ nhếch lên, y đưa mắt nhìn sang các dòng sông Phù sinh, nói: “Đó chẳng phải là ống thông khí hay sao? Lúc đi men theo dòng sông, tôi đã nhận ra rồi, hướng gió thổi trùng với hướng chảy của dòng sông, tại sao hồ bên trong và hồ bên ngoài thông nhau, vậy mà nhiệt độ nước hồ bên trong cao như thế, trong khi hồ bên ngoài lại gần như đóng băng? Hiển nhiên, vẫn còn một vòng nội tuần hoàn nữa, chắc hẳn người ta đã lợi dụng một loại cơ quan nào đó, có lẽ phần đáy của cây trụ này có thứ gì đó tương tự như máy bơm hút nước hồ vào, tiến hành trao đổi nhiệt ở chỗ nào đó, biến thành nước sôi, rồi đưa trở ra theo sông Phù sinh, nuôi sống các loài tảo thích nhiệt độ cao ở đây, đồng thời duy trì không khí ở không gian này. Còn nữa, rễ của các loài thực vật và tảo này cũng có thể tạo ra một lượng dưỡng khí lớn. Hệ thống nội tuần hoàn sẽ giữ cho lượng ôxy bão hòa trong không gian được cân bằng, không đến nỗi quá nồng hoặc quá thấp.” Dường như để chứng minh cách giải thích của người trẻ tuổi ấy là chính xác, tầng dưới cùng, chỗ mấy dòng sông Phù sinh chảy ra bắt đầu sủi lên những bong bóng nước lớn, bọt nước sùng sục cơ hồ làm mặt hồ sôi lên, cả cánh bèo đá cũng khẽ lắc lư dao động.

Người trẻ tuổi giải thích câu nào câu nấy đều hết sức hợp lý, nhưng từ đó pháp sư Á La lại nhận ra một thông tin khác: “Người trẻ tuổi rốt cuộc vẫn là người trẻ tuổi, gã này dường như chỉ nôn nóng muốn người ta biết rằng, học thức của y uyên bác đến đâu, võ công của y cao thâm chừng nào. Nói không chừng, còn có thể moi ra một số thông tin hữu ích. Mẫn Mẫn và y rốt cuộc có quan hệ gì nhỉ?” Pháp sư từng nghe Trác Mộc Cường Ba nói, Mẫn Mẫn có người anh trai tên là Đường Thọ, vì chụp ảnh Tử kỳ lân mà đã phát điên nhưng xem xét trải nghiệm và cuốn sổ tay của anh ta để lại có thể thấy người trẻ tuổi tên là Đường Thọ ấy tương đối lợi hại, vì vậy khi kẻ này vừa xuất hiện, pháp sư Á La đã nghĩ ngay đến Đường Thọ. Nhưng nhìn quan hệ của Mẫn Mẫn và người trẻ tuổi này, dường như không giống anh trai và em gái cho lắm. Từ khi thân phận bị vạch trần, Mẫn Mẫn vẫn không nói một lời, còn người trẻ tuổi kia cũng không hề chú ý đặc biệt đến cô, ngược lại còn hơi đề phòng nữa, điều này khiến pháp sư Á La lấy làm khó hiểu.

Pháp sư Á La đưa mắt ra hiệu cho Lữ Cánh Nam, ý bảo cô nếu có cơ hội thì hãy khơi gợi cho người trẻ tuổi kia mở miệng. Lữ Cánh Nam cũng đưa mắt đáp lại, ý rằng đã hiểu. Mực nước dâng lên, bọn họ mới phát hiện đình trụ đá ấy không phải là một chậu lửa lớn, mà ở bốn góc có bốn chỗ khuyết, ngọn lửa cháy trong đó, thoạt nhìn giống như cả phần đỉnh trụ đá đều đang cháy hừng hực. Thực ra, cây trụ đá khổng lồ này vẫn chống đỡ cả đỉnh vòm như cột chính trong một căn lều vậy. Cây trụ cũng không phải hoàn toàn trơ trọi, bên dưới ngọn lửa, ba mặt của cây trụ lần lượt có ba bức phù điêu totem quái thú, chỉ có một mặt để trống. Cả ba con quái vật ấy đều có một thân hai đầu, trong đó hai con là thú, một con là chim, hình dạng quái dị khôn cùng, bọn lính đánh thuê đương nhiên chẳng kẻ nào nhận ra được.

Chỉ có pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam mới biết, những totem này chính là đại biểu Tứ phương thụy thú của Bạc Ba La thần miếu. Chỉ là… tại sao lại thiếu mất một phương? Pháp sư Á La lẳng lặng đưa mắt liếc nhìn người trẻ tuổi. Hiển nhiên y cũng nhận ra những con thú lành này, vả lại còn biết tại sao lại có một mặt để trống nữa.

“Tự nhận mình là tội nhân, vì vậy không muốn để lại bất cứ dấu tích nào hả? Suy nghĩ giống vua Maya quá, thật đáng thương thay cho Đại Bản Ba của bộ tộc Qua Ba hừ, các ngươi căn bản không lý giải được ý nghĩa đích thực của sự tồn tại!” Người trẻ tuổi thầm cười khẩy giễu cợt, rồi tập trung sự chú ý vào bốn chỗ khuyết ở gần bọn họ nhất.

Bên dưới bốn bức phù điêu khổng lồ, cách tấm bèo đá chỉ khoảng xấp xỉ mười mét, trên bốn mặt trụ đá còn có bốn chỗ khuyết nữa. Từ khoảng cách gần như vậy, họ có thể nhìn rõ bốn chỗ khuyết vào ấy chính là bốn cánh cửa. Từ sau khi ngọn lửa bùng lên, người trẻ tuổi không ngừng điều khiển cánh bèo đá xoay chuyển xung quanh trụ đá khổng lồ, hiển nhiên đang nghĩ xem nên chọn cánh của nào mới là thích hợp nhất. Lần đầu tiên pháp sư Á La để ý thấy y lộ ra thần sắc do dự. Rõ ràng, y cũng chưa từng đến Bạc Ba La thần miếu, chẳng qua chỉ nắm được một số đầu mối nào đấy mà bọn họ không biết, đồng thời, dường như đã biết một phần tuyến đường bên trong tòa thần miếu này nữa.

Người trẻ tuổi dừng lại ở mé phải mặt có bức phù điêu hình con chim hai đầu, chỗ này vừa khéo có một đoạn dây leo đen xuyên qua vách đá, bám vào bề mặt cột trụ. Chỉ nghe y nói: “Tao lên trên đó xem sao, chúng mày ở đây đợi.” Dứt lời, y liền bám vào mép cột leo lên.

Chỉ thoáng cái người trẻ tuổi ấy đã lên đến chỗ cửa kia rồi. Pháp sư Á La khẽ đảo mắt, Lữ Cánh Nam đứng lên. Khafu lập tức căng thẳng gắt: “Làm gì đó? Ngồi xuống!”

Lữ Cánh Nam vừa đứng lên lập tức lắc người né sang một bên, họng súng của Khafu dịch chuyển, không ngờ cũng theo kịp tốc độ của Lữ Cánh Nam, khẩu súng vẫn chặn ngay phía trước cô. Cô đưa tay ra gạt, song Khafu lại khéo léo đưa đẩy, nòng súng xoay một vòng quanh cổ tay Lữ Cánh Nam, rồi vẫn chắn ngay trước mặt cô. Trong một tích tắc, hai người đã lần lượt thay đổi năm sáu động tác, Lữ Cánh Nam không thể xông lên, nhưng Khafu cũng chẳng thể ép được cô lùi lại. Trước khi những tên lính đánh thuê kịp phản ứng, một bàn tay gầy gò đã đặt lên nòng nòng súng của Khafu. Khafu tức khắc cảm thấy khẩu súng trên tay nặng tựa khối đá nghìn cân, y kinh hoảng liếc nhìn pháp sư Á La, cơ hồ không dám tin ông già gầy guộc trước mắt mình sau khi bị thương như thế, vẫn còn sức mạnh đến nhường này!

Nhân cơ hội ấy, Lữ Cánh Nam đã lách người tránh khỏi nòng súng củ Khafu, nhanh nhẹn bám vào sợi dây đen leo lên, được chừng hai mét, cô ngoảng mặt xuống nói với Khafu: “Sợ ta bỏ chạy thì cứ việc nổ súng.” Khafu ngẩng đầu nhìn Lữ Cánh Nam, rồi lại nhìn pháp sư Á La, cuối cùng ngước mắt nhìn người trẻ tuổi đứng ở chỗ khuyết bên trên, hừ mạnh một tiếng, rồi trơ mắt ra nhìn Lữ Cánh Nam leo lên chỗ người trẻ tuổi đang đứng.

Người trẻ tuổi dường như không hề để tâm chuyện Lữ Cánh Nam có thể leo lên, thong dong cất tiếng như đang hỏi một người bạn cũ: “Cô nghĩ thế nào về những totem và cánh cửa này?”

Lữ Cánh Nam cũng điềm nhiên đáp: “Chúng là thần tế hộ của Tân Nhiêu. Trong truyền thuyết Bản giáo cổ xưa, tổ sư Bản giáo Tân Nhiêu cư trú ở Thiên giới, một hôm ngài đột nhiên nhận được thần khải, nói rằng khi thời cơ tới, hãy đến vùng cao nguyên tuyết truyền bá giáo lý Mật giáo cho vị Thất Xích vương đầu tiên, và hãy giúp đỡ cho vương triều, tăng lữ và giáo lý ở nơi đó. Khi tổ sư Tân Nhiêu cảm thấy thời cơ đã đến, ngài bèn quyết định đến Tây Tạng giúp đỡ Nhiếp Xích tán phổ. Bốn vị nữ thần tiễn ngài rời khỏi Thiên giới, ngài dẫn theo một con rồng, một con chim cánh vàng, một con sư tử, cũng có thuyết nói là một con rồng, một con chim ưng và một con sư tử. Ba loại thần thú này chính là tế hộ thần của Tân Nhiêu, hay còn gọi là chiến thần hộ thân, về sau, chịu ảnh hưởng của tư tưởng thú lành từ Trung Nguyên, cuối cùng đã hình thành ba loại tế hộ thần đặc biệt của Mật giáo: Tỳ Hưu, Kỳ Lân và Phượng Hoàng.”

Người trẻ tuổi gật gật đầu tỏ vẻ tán đồng, lại bổ sung thêm: “Trong truyền thuyết Tượng Hùng, tổ sư Bản giáo giúp đỡ cho Tượng Hùng vương, đồng thời, chiến thần hộ thân của Tân Nhiêu cũng không phải rồng, mà là voi.”

“Hình lập phương? Thế nghĩa là sao?” Có lẽ khi ngọn lửa cháy lên, cửa đá ở chỗ khuyết này đã mở ra, từ chỗ Lữ Cánh Nam đứng có thể nhìn thấy những bậc thang đi xuống và những hình lập phương điêu khắc trên khung cửa.

Người trẻ tuổi nói: “Trứng ánh sáng, quả trứng đản sinh ra vị vương của hiện tại, tượng trưng cho sinh tồn, ánh sáng và hy vọng, thông đạo dẫn xuống dưới kia hình xoắn ốc theo chiều bên phải hoặc chữ Vạn ngược, ừm, xem ra đúng là đường này rồi. Khafu, bảo tất cả lên đây, tiến vào cánh cửa này, xuống đến cuối cầu thang này có thể nghỉ ngơi một chút.”

Người trẻ tuổi gọi với xuống dưới, đột nhiên chau mày, dịch chân mình ra, nhìn chằm chằm xuống đất. Chỗ dưới chân y đứng đã bị thứ dây leo màu đen kia xuyên thủng, một khúc dây leo to tướng thay thế vị trí của nham thạch.

Vừa nãy y dường như cảm thấy dưới chân mình có gì đó nhích động, nhưng dịch bàn chân ra, lại chỉ thấy khúc dây leo đen sì sì, ngoài ra chẳng có gì khác. y cảnh giác liếc mắt nhìn sang Lữ Cánh Nam, song chỉ thấy cô cũng đang nhìn y chằm chằm với ánh mắt tò mò.

Người trẻ tuổi không hề biết, tuy y đã nắm bắt được các cơ quan bày ra trước mắt mình, nhưng vẫn đánh giá quá thấp trí tuệ của người Qua Ba cổ, tất cả các cơ quan cạm bẫy đều móc nối với nhau một cách chặt chẽ, gỡ được mối này, nhất định sẽ làm kinh động đến mắt xích tiếp theo.

Dưới đáy hồ, nơi tất cả không thể nhìn thấu được, vị chủ nhân của hồ tế đang lặng lẽ nằm yên. Vốn dĩ, nó vẫn đang chìm đắm trong giấc mộng nghìn năm dưới đáy hồ ấm áp, chấn động lớn lúc Cánh cửa Chúng sinh mở ra đã khiến nó khó chịu rồi; giờ đây ngọn lửa bùng lên, nước hồ lạnh buốt tràn vào, càng khiến cho vị chủ nhân ấy run cả lên! Chủ nhân hồ tế bừng bừng nổi giận! Có điều, giấc ngủ kéo dài cả nghìn năm và hệ thống thần kinh quá nguyên thủy khiến nó cần một thời gian tương đối để khôi phục hoàn toàn cơ năng sinh lý. Chỉ là, thời gian đó, chắc hẳn cũng không quá lâu!

Đối với vấn đề này, Trác Mộc Cường Ba và Merkin đã có trải nghiệm hết sức sâu sắc!

Merkin vẫn cẩn trọng làm việc một cách rành mạch và chậm rãi, như thể một ông thợ sửa đồng hồ già, còn Trác Mộc Cường Ba thì căng thẳng tột bậc nhìn sợi dây leo màu đen đang rút dần ra khỏi kẽ đá, từng đoạn, từng đoạn một…

Mỗi lần rút ra được một đoạn, phạm vi hoạt động của nó lại lớn thêm một chút, khoảng cách từ chỗ nó vươn xa nhất đến chỗ Trác Mộc Cường Ba và Merkin lại rút ngắn thêm một chút. Sau khi nghe Merkin tuyên bố, Trác Mộc Cường Ba không dám tấn công nữa, lại cũng không thể trốn tránh đi đâu được, chỉ biết trơ mắt trân trân nhìn thứ quái dị ấy mỗi lúc một nhích đến gần, cảm giác căng thẳng trong lòng cứ dâng lên từng nấc một. “Này, vẫn chưa xong à?” Trác Mộc Cường Ba không biết mình đã nhắc nhờ Merkin đến lần thứ mấy nhưng câu trả lời của Merkin thì lần nào cũng như lần nào: “Còn một chút nữa thôi.” Không biết một chút ấy của y rốt cuộc là bao lâu.

“Đã đến rồi.” Trác Mộc Cường Ba nói.

Merkin không buồn ngoảnh đầu lại, chỉ đáp gọn lỏn: “Ngăn nó lại!”

Trác Mộc Cường Ba nhìn khẩu súng trên tay, ước lượng độ dài, không được, vẫn không to bằng cái miệng ấy, không thể bạnh nó ra được, phải lấy thứ gì ngăn nó lại đây?

Cái miệng con quái vật hình dáng giống sợi dây leo khổng lồ màu đen đã vươn tới chỗ Trác Mộc Cường Ba, dường như nó cũng nhận biết được điều này, liền không rút mình ra nữa mà oằn oèo thân thể dài thượt, vươn cái đầu nhọn hoắt như đầu thăm dò tới. Khi còn cách Trác Mộc Cường Ba khoảng dăm mét, nó liền dựng lên như con rắn, “bành” một tiếng, cái miệng to tướng xòe rộng ra như tán ô, bốn cái càng bên trong hung hăng vung vẩy, những móc nhỏ và đầu lưỡi giống hệt xúc tu ra sức nhu động, chừng như muốn dọa Trác Mộc Cường Ba chết khiếp.

Trác Mộc Cường Ba đã có chuẩn bị tâm lý từ trước, thấy cái miệng vừa ngoác ra, gã liền giương súng tọng vào trong đó một loạt đạn, dù cái miệng ấy có là máy nghiền bằng kim loại thì cũng bị đạn của gã bắn cho thành một đống sắt thép phế thải, cả màng thịt do bốn cái càng kia căng ra cũng bị bắn cho thủng lỗ chỗ.

Món ngon đến miệng không ăn được lại xơi phải nguyên một băng đạn vào giữa mõm, con quái vật đùng đùng nổi giận, oằn mình một cái, vòng sang mé bên, động tác linh hoạt dị thường. Loạt đạn sau của Trác Mộc Cường Ba xả hết vào thân nó, tuy thân thể giống như khúc dây leo có thủng thêm vài lỗ, nhưng với tấm thân bồ tượng thì mấy viên đạn ấy chẳng khác nào vết kim châm, không tổn thương gì mấy.

Trác Mộc Cường Ba vội vàng điều chỉnh họng súng, nhưng con quái vật còn nhanh hơn, cái chụp màng thịt bị bắn rách thoắt cái đã vươn đến cạnh gã, bốn cái càng ngoe nguẩy vụt đến như lưỡi liềm.

Trác Mộc Cường Ba né được cú móc của “lưỡi liềm”, nhưng con quái vật tởm lợm vẫn còn lưỡi, những cái lưỡi có thể bắn vụt ra dài đến mấy mét giống lưỡi thằn lằn. Trong chớp mắt, cái lưỡi dài thượt ấy đã quấn lấy cánh tay và súng của Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba chẳng kháng cự nổi sức mạnh của mười mấy sợi xúc tu, vội buông khẩu súng ra, cánh tay chưa bị quấn nhanh chóng rút dao chém mạnh xuống. Chẳng ngờ, những sợi xúc tu này cực kỳ bền chắc, chém không đứt, chỉ có thể cắt dần. Trác Mộc Cường Ba nhanh chóng đưa đi đưa lại lưỡi dao mấy lượt, rốt cuộc cũng cắt được ba sợi xúc tu, kịp thời thoát thân khỏi cái lồng chụp bằng thịt trước khi bốn cái càng khép lại, nhưng cánh tay vẫn bị một cái móc nhỏ rạch cho một vệt dài. Gã không sao ngờ được rằng, cả những cái móc cũng có thể vươn dài chừng ấy!

Trác Mộc Cường Ba xoay mình nhảy tránh, những con quái thú không thừa thắng truy kích, ngược lại còn khép lông chụp của nó lại, dường như đang chem chép miệng, cẩn thận nếm thử mùi vị máu tươi. Chà, ngon hon lũ gián kia nhiều, quái vật hung phấn đến độ toàn thân run lên nhè nhẹ. Trác Mộc Cường Ba lấy làm khổ sở, rõ ràng đã bắn trúng không biết bao nhiêu phát vào giữa miệng con quái, vô số móc câu và xúc tu bị bắn nát, nhưng nó dường như chẳng có cảm giác gì. Xem chừng, hệ thống thần kinh của loài sinh vật này đúng là không hề phát triển. Một con quái vật không biết đau đớn là gì, hiển nhiên còn đáng sợ hơn trong dự liệu của gã bội phần. Sắc mặt Trác Mộc Cường Ba trở nên cực kỳ khó coi, gã hét toáng lên: “Vẫn chưa xong à?”

Merkin hân hoan reo lên: “Thấy ánh sáng rồi, thấy ánh sáng rồi!” Có ánh sáng từ phía bên kia bức tường Khổng Minh rọi qua. Trác Mộc Cường Ba lại lớn tiếng hỏi: “Có thể xô đổ được không, tôi sắp không chặn nổi nó rồi!”

Chỉ thấy con quái vật kia lại xòe rộng cái miệng to tướng của nó, “cạch” một tiếng, nôn khẩu súng của Trác Mộc Cường Ba ra, món này nó nhai không được, cộm răng. Trác Mộc Cường Ba đã rút ra một khẩu súng khác, mắt không ngừng lia qua lia lại tìm kiếm, rốt cuộc chỗ chí mạng của con quái này nằm ở đâu chứ? Loạt đạn vừa nãy bắn trúng cả miệng lẫn thân thể nó rồi, nhưng quái vật vẫn hoàn toàn vô sự, chẳng lẽ con khốn kiếp này không có nhược điểm nào chí mạng sao?

Lúc này tâm trạng Merkin rất thoải mái, chỉ còn một chút nữa là mở được bức tường Khổng Minh ra, y bèn ngoảnh đầu lại buông một câu: “Thế không được…” rồi thình lình sững sờ im bặt. Hóa ra y vừa khéo trông thấy cảnh tượng con quái vật xòe rộng cái miệng phun khẩu súng ra. Từ nãy đến giờ, y chỉ biết Trác Mộc Cường Ba đang chiến đấu với thứ gì đó, nhưng chưa từng nghĩ xem thứ đó rốt cuộc trông như thế nào, hoàn toàn không có chuẩn bị tâm lý, bèn lập tức kêu lên thành tiếng: “Đó là cái gì thế?”

Giọng Merkin lớn hơn một chút, con quái vật tức thì chuyển hướng cái lồng chụp nhằm thẳng về phía y. Nhìn rõ bốn cái càng cùng với những xúc tu và móc câu nhỏ trong cái miệng tởm lợm, Merkin lại thêm một phen kinh hãi! Trác Mộc Cường Ba nhân một thoáng rảnh tay ấy, nhanh chóng giải thích: “Tôi đã bảo với ông rồi còn gì? Đây chính là thứ giống như dây leo mà chúng ta nhìn thấy, lũ gián kia là thực phẩm của nó. Bọn gián ăn rong nước, ăn vi sinh vật, còn con quái vật này xơi lũ gián, kỹ thuật chăn nuôi sinh vật theo chuỗi thức án điển hình!” Trác Mộc Cường Ba vừa mở miệng nói chuyện, cái lồng chụp bằng màng thịt ấy lại nghiêng nghiêng chĩa về phía gã.

Merkin bấy giờ mới hiểu ra: “À! Đây chính là cái con “kubukubu” kia!”

“Đúng thế!” Trác Mộc Cường Ba chán chường nhếch mép lặp lại: “Nó chính là con ‘kubukubu’ đấy!”

Cái lồng chụp bằng thịt cứ đảo qua đảo lại giữa Trác Môc Cường Ba và Merkin, rốt cuộc vẫn lựa chọn Trác Mộc Cường Ba. Chút máu tươi vừa nãy còn đọng lại đầy dư vị trong miệng nó, mà cánh tay đang chảy máu của Trác Mộc Cường Ba chính là cội nguồn tỏa ra hương vị ấy. Hiển nhiên, những bông hoa nhỏ trông như miếng thịt trên thân nó không chỉ có mỗi một công năng phun ra màn sương mỏng mảnh.

Trác Mộc Cường Ba lại quần thảo một trận với cái lồng chụp, thấy Merkin vẫn đứng bần thần, gã liền quát lớn: “Còn không mau mở cửa đi!”

Merkin vội tiếp tục điều chuyển vị trí các viên gạch trên tường. Trác Mộc Cường Ba lách người trượt sang ngang, một tay vung dao lên chém mạnh, “soạt soạt”, rạch toác một mảng lớn trên màng thịt của cái lồng chụp. Nhưng kết quả ngược lại chỉ khiến những cái càng kia linh hoạt thêm. Cổ tay gã xoay một vòng, lại chém xuống một cái càng, chẳng ngờ lớp vỏ trông như càng cua ấy cứng hơn gã tưởng nhiều, nhát dao của Trác Mộc Cường Ba nảy bật lên. Cùng lúc ấy, cánh tay kia của gã vẫn cầm súng nhả đạn không ngừng, song cũng không gây ra tổn thương gì lớn cho con quái vật cả.

Con quái vật này quá đỗi linh hoạt, lại bám đuổi rất ráo riết, Trác Mộc Cường Ba đã mấy lần định rút lựu đạn ra ném mà không tìm được cơ hội. Đột nhiên, trong hốc tường có ánh sáng chiếu sang. Thì ra Merkin đã dịch được một viên gạch nữa. Gã liền đổ người ra đất lăn hai vòng, nhìn rõ tình hình trong hang động lúc này. Merkin lại dịch chuyển thêm được hai viên gạch khác, mở rộng lỗ hổng trên tường ra khoảng ba mươi xăng ti mét vuông. Thân thể dài thượt của con quái vật cuộn tới, Trác Mộc Cường Ba bật người vọt ra khỏi vòng vây, lúc đang ở trên không gã liền vứt dao đi, bây giờ mới rảnh tay ném được một quả lựu đạn. Trong lúc ấy, Merkin dịch chuyển được viên gạch thư tư và thứ năm, lỗ hổng rộng ra chừng năm mươi xăng ti mét.

Trác Mộc Cường Ba ném xong quả lựu đạn, thực tình không muốn dây dưa thêm với con quái vật đáng sợ này một giây một phút nào nữa, lập tức nhún người lên chui qua bức tường Khổng Minh còn chưa mở ra hết, đồng thời hét gọi Merkin: “Chạy mau!”

Merkin không ngờ tình thế đã khẩn cấp đến độ không đợi y mở hết cả bức tường, ngoảnh đầu nhìn lại, chỉ thấy cái miệng của con quái vật mở ngoác, khoảng hơn chục mét phía sau bị nổ ra một cái lỗ lớn, để lộ rất nhiều sợi màu trắng trông như sợi gân, song cái lỗ kia hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến năng lực hoạt động của nó. Mắt thấy cái miệng mở lớn ấy nhao về phía mình, Merkin cũng nhún người, chui qua lỗ hổng vừa mở ra trên tường như tuyển thủ bơi lội lao xuống nước.

Cái miệng quái vật bị kẹt bên ngoài lỗ hổng trên tường, chỉ bắn ra được hơn chục cái lưỡi như xúc tu, song cũng chẳng ích gì, đành hậm hực rụt trở về bên kia bức tường. Merkin thở phào nhẹ nhõm, nói: “Xong rồi.”

“Ai bảo thế?” Trác Mộc Cường Ba bên cạnh nói với ngữ khí vừa băng lạnh lại vừa nghiêm túc, “Hình như vẫn chưa xong đâu!”

CHỦ CỦA HỒ TẾ (2)

Merkin bấy giờ mới ngoảnh đầu nhìn hoàn cảnh mới. Trước mắt y là một đại sảnh khổng lồ hình bầu dục, giống như sân vận động tổ chức Thế vận hội, nhưng lớn hơn bất cứ sân vận động tổ chức Thế vận hội nào mà Merkin từng trông thấy không biết bao nhiêu lần. Chính giữa đại sảnh khổng lồ này, không ngờ lại có một hồ nước!

Đại sảnh cao bốn tầng, mỗi tầng đều có một hành lang hình vòng cung uốn lượn, ở rìa hành lang, cứ mỗi mười mét lại có một cái cột to hai người ôm, khiến cả gian đại sảnh thoạt nhìn giống một nhà hát ca kịch vĩ đại. Đỉnh vòm của đại sảnh được xây dựng theo thế mặt trời tỏa nắng, do một cây cột ở chính giữa, ước tính sơ bộ cao khoảng sái mươi đến bảy mươi mét chống đỡ. Nước đã dâng ngập hết tầng dưới cùng. Trong hồ lại có rất nhiều tượng Phật với đủ tạo hình khác nhau đứng sừng sững, trên mặt nước dập dềnh một lớp rong tảo, đa phần đã dung nhập làm một với những bức tượng Phật kia.

Phần đỉnh của cây trụ chính ở giữa, tất cả mảng tường bên trong các hành lang cùng một số vị trí trên các tượng Phật đều đang có lửa cháy phừng phừng, cả gian đại sảnh được ánh sáng bập bùng ấy chiếu rọi. Ánh sáng cũng khiến những sợi dây leo khổng lồ màu đen đang vung vẩy trên không tựa như nổi trận lôi đình kia hiện lên rõ mồn một trong mắt Merkin và Trác Mộc Cường Ba.

“Ừ, chó chết thật!” Merkin đần thối mặt, chỉ riêng ở trước mắt hai người bọn họ thôi, ít ra cũng phải có đến hai ba chục sợi dây leo khổng lồ khua quất loạn xạ, mà vẫn còn nhiều hơn thế nữa đang chầm chậm nhu động chừng như muốn rút ra khỏi các bức tường và tượng Phật. Không biết kẻ nào đã chọc giận bọn chúng, lũ quái vật ấy dường như đang ngó nghiêng khắp nơi tìm kiếm thứ để trút giận.

Chỉ một sợi đã khó đối phó như vậy rồi, trưóc mắt lại thình lình xuất hiện cả một bầy đàn, chẳng trách giọng nói của Trác Mộc Cường Ba lại băng lạnh đến thế. Những con quái vật dài thượt kia cũng ngay lập tức tìm được chỗ trút giận, chính là hai con côn trùng nhỏ đột nhiên chui từ trong tường ra, Trác Mộc Cường Ba và Merkin. Bọn chúng đã cảm tri được chấn động do hai người gây ra, hệ thần kinh đơn giản chỉ đưa ra một mệnh lệnh duy nhất: tiêu diệt!

Merkin nhìn Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Anh có cách gì không?”

“Cách gì?” Trác Mộc Cường Ba trừng mắt với Merkin, rồi lại nhìn sang mười mấy sợi dây leo đen đúa đang từ từ quây lại. Chỉ thấy, bọn chúng gần như cùng lúc xòe rộng màng thịt, để lộ cái miệng to tướng hung dữ, nhất tề lao bổ tới. Trác Mộc Cường Ba vội hét lớn: “Chạy mau!”

Hai người bắt đầu guồng chân lao đi trên hành lang hình bầu dục khổng lồ, xông qua khoảng cách mười nghìn mét với tốc độ của người chạy cự ly một trăm mét.

Những con quái vật dây leo đen đúa vươn thân hình ướt sũng lên khỏi hồ nước, phát động hết đợt tấn công này đến đợt tấn công khác, tựa như rắn bắt mồi, khiến Trác Mộc Cường Ba và Merkin khốn đốn hết nhảy lên rồi lại thụp xuống. Mới đầu, Merkin vẫn còn tràn trề hy vọng bảo Trác Mộc Cường Ba: “Nói không chừng chúng sẽ tự tàn sát lẫn nhau để tranh cướp chúng ta, đến lúc ấy hai chúng ta có thể thừa cơ tẩu thoát được, các loài sinh vật bậc thấp luôn luôn phạm phải sai lầm bậc thấp như thế.” Nhưng sau đó, Merkin nhanh chóng nhận ra mình đã sai. Những sợi dây leo đen kia phối hợp với nhau một cách hết sức chặt chẽ, cơ hồ không có kẽ hở, sợi này vừa tấn công xong, sợi khác đã bập đến ngay lập tức, phía trước chặn đánh, phía sau bám sát không buông. Hai nguời đạp tường, trượt sàn, ôm cột vòng qua, thậm chí còn nhảy cả xuống hồ, những chiêu trò có thể nghĩ ra được đều nghĩ hết cả rồi, nhưng vẫn không tài nào thoát được những đợt công kích dồn dập đợt sau hùng hậu hơn đợt trước của lũ quái vật.

Chẳng mấy chốc, công kích lại tăng thêm một bậc nữa, những sợi dây leo phá tường chui ra, vươn đầu khỏi vách tường gia nhập vào đội ngũ tấn công hai người. Merkin vừa không ngừng né tránh những cái càng như lưỡi liềm vung vẩy và những sợi xúc tu liên tiếp bắn ra, vừa càu nhàu: “Sao lại nhiều vậy? Đám người Qua Ba kia rốt cuộc đã nuôi bao nhiêu con quái vật kiểu này ở đây?”

Trác Mộc Cường Ba vừa chạy vừa nghĩ thầm: “Hồ tế, hồ tế, lẽ nào là chỉ cái hồ bên trong này. Phải rồi, vị trí của các tượng Phật trong hồ kia chẳng phải đúng như sắp xếp của một đàn tràng hay sao? Nhưng chủ của hồ tế không phải chỉ có một thôi sao? Lẽ nào trải qua nghìn năm, nó đã sinh sôi nảy nở, số lượng tăng lên?”

Cả gã và Merkin đều vắt óc suy nghĩ xem làm cách nào mới thoát khỏi được những đợt công kích liên tu bất tận đang ập đến kia.

Trong khi Trác Mộc Cường Ba và Merkin cắm đầu cắm cổ chạy thục mạng, đội ngũ lính đánh thuê đã đi hết các bậc thang, xuống đến tầng dưới cùng. Những bậc thang đi xuống dưới rất dài, mấy vòng trước đều phải đi chừng trăm mét mới có một chỗ ngoặt chín mươi độ, kế đó lại xuống bậc thang, rồi vòng sang trái, sang trái, sang trái, mỗi lần rẽ ngoặt, bậc thang lại ngắn hơn một chút. Cả bọn có cảm giác như thể đang đi bên trong vỏ một con ốc biển. Khi đến điểm thắt trung tâm, chẳng ai nhớ nổi mình đã rẽ ngoặt bao nhiêu vòng nữa. Sau đó, cả bọn lại bắt đầu ngoặt sang phải, rồi mỗi lần ngoặt bậc thang lại tương ứng dài ra một chút, nếu không phải các bậc thang luôn theo một chiều đi xuống, có lẽ cả đám đã cho rằng mình lại vòng theo đường cũ trở về rồi cũng nên.

Người trẻ tuổi thầm tính toán trong đầu: “Từ khởi điểm của vòng luân hồi chữ Vạn ngược, đi đến điểm cuối, hoàn thành quá trình vô tướng chuyển thân, chúng ta đã tiếp nhận tất cả các thử thách rồi, thần miếu cũng nên xuất hiện đi thôi.”

Ánh đèn đuốc bên ngoài chiếu xuống những bậc thang, nghĩ tới tầng đáy là có thể nghỉ ngơi bọn lính đánh thuê đều rảo chân bước rất nhanh, thoắt cái đã đến chân cầu thang. Nơi này là một gian phòng đá không rộng mấy, chỉ khoảng hai trăm mét vuông, sáu bảy chục tên lính đánh thuê đứng đã thấy hơi chen chúc. Chính giữa gian phòng đá đặt bốn hình hộp chữ nhật ghép từ các phiến đá, trông như thể bốn cỗ quan tài, bốn vách tường đều có bích họa vẽ toàn những quái thú và ác ma mà bọn lính đánh thuê chưa từng trông thấy bao giờ. Tám cây cột đen nhọn hoắt như con thoi vươn xuống từ đỉnh phòng. Ngoài cánh của đá để đi vào, bốn vách gian phòng này đều bít kín, xem chừng không còn lối ra vào nào khác.

Bọn lính đánh thuê lấy làm thất vọng, nhốn nháo đổ dồn ánh mắt nghi hoặc về phía người trẻ tuổi. Đây chính là Bạc Ba La thần miếu hay sao? Một căn phòng đá tồi tàn chẳng có thứ gì hết? So với những gì bọn họ trông thấy lúc trước, nơi nay chẳng thể nào so sánh được. Chỉ có một khả năng duy nhất, đó là lúc ở trước bốn cánh cửa, người trẻ tuổi đã chọn nhầm đường! Cả pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam cũng đồng quan điểm này, những hình vẽ trên tường và cả khối hộp chữ nhật ghép từ các phiến đá kia, rõ ràng không thuộc về giáo phái của họ.

Trái với những người khác, người trẻ tuổi lại có vẻ mừng rỡ ra mặt, y nhìn những bức họa trên tuờng đá, hân hoan nói: “Chính là đây rồi, không sai được.” Nói đoạn, y bắt đầu giải thích với bọn lính đánh thuê: “Đây là hình thức mộ táng của Tượng Hùng.” Y chỉ tay vào bốn khối hộp chữ nhật nói tiếp: “Ở đất Tạng và Tuợng Hùng cổ xưa, vẫn luôn dùng cách thần hóa những linh hồn đã chết, an táng những nhân vật lớn mạnh lúc sinh tiền vào các kiến trúc thần thánh, nhằm bảo vệ, phù hộ cho người đời sau. Hiển nhiên, khi người Qua Ba cổ xây dựng Bạc Ba La thần miếu cũng đã áp dụng cách làm này.” Nói tới đây, y lại chỉ vào những bức bích họa trên bốn vách tường: “Đây đều là các thần linh của Bản giáo cổ đại và Tượng Hùng, phỏng chừng, số chuyên gia từng được nhìn thấy chúng tính trên toàn thế giới cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay mà thôi. Những bức họa này lần lượt đại diện cho sự trung thành, dũng cảm, trí tuệ…, toàn bộ đều là các thần linh bảo vệ, phù hộ cho người trong gian phòng đá này có thể an toàn đến bờ bên kia.

Một tên lính đánh thuê chỉ tám cây cột màu đen trên trần nhà hỏi: “Đây là cái gì vậy? Totem?”

Người trẻ tuổỉ lắc đầu đáp: “Sao lại là totem được? Tao thấy khá giống với đám dây leo màu đen ngoài kia, nhìn thấy những bông hoa nhỏ màu đỏ kia không? Chắc là đầu mút của mấy sợi dây leo thôi. Đám dây leo này hiển nhiên rất thích mọc men theo những kẽ hở, không ngờ lại chọc cho chỗ này thủng lỗ chỗ khắp nơi.”

“Nhưng ở đây làm quái gì có gì?” Một tên lính đánh thuê khác kêu lẽn, đây mới là vấn đề mà bọn chúng quan tâm nhất.

Người trẻ tuổi cười khẩy nói: “Cả gian phòng này chính là một cơ quan.”

“Cơ quan ở đâu?” Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La không dễ bị gạt như đám lính đánh thuê đầu đất kia.

Người trẻ tuổi thần bí chỉ tay vào mấy cỗ quan tài đá trước mặt, buông một tiếng: “Ừm.” Thấy Lữ Cánh Nam chừng như muốn lập túc bửa ngay khối hình hộp chữ nhật ấy ra, y vội nói tiếp: “Ở yên đấy đã, đây là loại cơ quan chọn một trong bốn, chọn sai là hết cách, chỉ có thể quay ngược trở ra mà đi vào một cánh cửa khác.”

Pháp sư Á La chau mày, cả bốn cỗ quan tài bít bùng kín mít, nghe lối nói của người trẻ tuổi, hiển nhiẻn, mỗi phiến đá đều có khả năng phá hoại toàn bộ cơ quan, phải làm sao mới tìm được cỗ quan tài chính xác đây chứ? Bốn chọn một, vận may chiếm có hai mươi lăm phần trăm mà thôi.

Người trẻ tuổi lại thong dong nói: “Cũng may chúng ta có kỹ thuật hiện đại trợ giúp, không bao giờ đánh trận mà không chuẩn bị.” Nói đoạn, y đón từ tay Khafu một thiết bị nhỏ, trông khá giống chiếc máy siêu âm xách tay, lần lượt hướng về phía các cỗ quan tài đá tiến hành kiểm tra.

Mới kiểm tra được một nửa, chợt nghe có tiếng kêu lên: “Đó là cái gì thế?” Cả đám lính đánh thuê đều giật bắn mình, âm thanh ấy rõ ràng là giọng của Merkin.

Liền ngay sau đó lại vang lên một câu khác: “Ừm, nó chính là con ‘kubukubu’ đó!”

Giọng nói vang lên hết sức rõ ràng, cơ hồ lơ lửng ngay trên đầu cả bọn, người trẻ tuổi cũng không thể không dừng công việc dang dở lại, tìm kiếm nguồn gổc của âm thanh lạ.

Thoáng sau, cả bọn lại nghe thấy Trác Mộc Cuờng Ba kêu lên: “Chạy mau!” Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La và Mẫn Mẫn đều biến sắc, nửa mừng nửa lo. Người trẻ tuổi cũng lập tức chú ý đến những bông hoa nhỏ màu đỏ bám trên lớp vỏ xù xì của những dây leo đen, không khỏi tái mặt thốt lên: “m thanh mô phỏng!”

“Gì cơ?” Khafu từ đầu chí cuối vẫn luôn theo sát bên cạnh người trẻ tuổi.

“Tương tự như màu sắc ngụy trang vậy. Màu sắc ngụy trang là cách một số động vật hoặc thực vật hòa mình vào không gian xung quanh để tránh né các kẻ địch tự nhiên, còn âm thanh mô phỏng lại là thủ đoạn dẫn dụ vật săn của một số loài động thực vật săn mồi, chúng nắm bắt và ghi nhận những chấn động mạnh mẽ nhất trong không khí, sau đó tự rung động bản thân để mô phỏng chấn động không khí ấy, giống như một cái máy photocopy âm thanh vậy. Đây là một dạng hành vi vô thức, bản thân loài động thực vật săn mồi kia cũng không phải loại cao cấp gì, nhưng có thể phát ra âm thanh mô phỏng rõ ràng thế này, chỉ sợ là bọn chúng thuộc loài ăn thịt…” Người trẻ tuổi chợt giật mình hiểu ra, vội nhắc nhở đám lính đánh thuê đang đứng chen chúc “Cẩn thận, những sợi dây leo kia có thể cử động đấy!”

Có điều, lời nhắc nhở ấy dường như hơi muộn, người trẻ tuổi vừa mở miệng nói xong, mấy sợi dây leo đen đã “bụp, bụp, bụp, bụp”, lần lượt mở to cái lồng chụp bằng màng thịt, vươn ra bốn cái càng như càng gián, bổ nhào tới chỗ bọn lính đánh thuê.

Chỗ này vốn đã chật hẹp, bọn lính đánh thuê đứng ríu sát vào nhau lại không có sự chuẩn bị, những sợi dây leo đen kia chụp một phát ăn ngay, tức thì đã có tám tên lính đánh thuê bị cái lồng ấy úp lên đầu, cả người quấn trong màng thịt, không kịp kêu một tiếng. Những tên còn lại vẫn đang kinh hãi, chỉ thấy tám tên lính đánh thuê đó, có tên thì bị bọc kín toàn bộ, có tên lòi được hai cái chân ra ngoài giãy đạp mấy cái rồi cả bọn lần lượt bị những dây leo đen đúa ấy nhấc lên không trung, sau đó “sụt” một cái, thân thể biến mất toàn bộ cứ như người ta hút cọng mì vào miệng vậy.

Những sinh vật bậc thấp ấy cực kỳ phàm ăn, tám tên lính đánh thuê vào bụng xong lại lập tức xòe rộng màng thịt, vươn xuống như những cánh tay máy trong dây chuyền sán xuất. Lúc này, bọn lính đánh thuê đã định thần, nhao nhao nổ súng xạ kích, đồng thời áp sát vào nhau, tránh để những cái miệng to tướng đáng sợ kia hút vào. Nhất thời, tiếng súng vang lên không ngớt, tình thế cực kỳ hỗn loạn. Cơ hội! Lữ Cánh Nam liếc mắt nhìn sang phía pháp sư Á La, hỏi ông xem có nên nhân lúc rối ren này thoát đi hay không? Pháp sư Á La khẽ lắc đầu, ý nói vết thương của mình không cho phép vận động mạnh, chi bằng cứ đi theo người trẻ tuổi, xem xem thần miếu mà y nói rốt cuộc như thế nào.

Đôi mày ngài của Lữ Cánh Nam hơi nhíu lại, một ý nghĩ đột nhiên lóe lên trong đầu: “Lẽ nào người này đấu với pháp sư Á La một chiêu ấy, cũng là có ý đồ từ trước? Khiến pháp sư Á La trọng thương không thể hành động, từ đó cũng hạn chế hành động của mình? Tất cả mọi sự đều đã nằm trong tính toán của y hay sao? Nếu vậy thì tâm tư của kẻ này thực quá đáng sợ!” Mổi một bước đi y đều đã tính toán cẩn mật, căn bản không hề sợ cô bỏ trốn hay có ý đồ gì khác, thậm chí cả những khả năng mà đối thủ chưa nghĩ ra, y cũng đã đưa vào trong tính toán của mình rồi. Đối đầu với một kẻ như vậy, sẽ khiến người ta nảy sinh một thứ cảm giác bất lực, như thể dù giãy giụa vùng vằng thế nào, cũng vẫn bị đối thủ khống chế trong tay vậy. Nguời có thể khiến Lũ Cánh Nam có cảm giác này, cũng chỉ có tên lùn ở thành Tước Mẫu kia nữa mà thôi.

Những cái lồng chụp bằng màng thịt chẳng hề sợ súng đạn, mặc cho bọn lính đánh thuê xả đạn bắn thủng lỗ chỗ như cái sàng, chúng vẫn cứ bổ nhào đến xơi tái đối thủ không ngần ngại. Về điểm này thì Trác Mộc Cường Ba đã có trải nghiệm hết sức sâu sắc, giờ đến lựợt đám lính đánh thuê nếm mùi. Thoắt cái, đã lại có thêm ba tên lính đánh thuê nữa bị nuốt chửng. Một trong ba tên ấy còn suýt nữa đã thoát dược, sau khi ngã bổ nhào mới bị lôi ngược trở lại, chỉ nghe hắn rú gào thảm thiết, hai tay cào xuống nền đất, cảnh tượng khủng khiếp đó khiến đám lính đánh thuê còn lại tên nào tên nấy tái mét mặt mày.

Có một sợi dây leo bị bắn liên tiếp vào cùng một vị trí; cộng thêm vừa liên tiếp nuốt chửng hai tên lính đánh thuê còn chưa kịp tiêu hóa hết rốt cuộc không chịu nổi trọng lượng của chính mình, bắt đầu toác ra ở chỗ lỗ đạn, tên lính đánh thuê bị nuốt đầu tiên rơi “bịch” xuống đất như một bao xi măng. Mấy tên đồng bọn đứng quanh đấy vội nháo nhác lùi lại liền mấy bước. Cái chết của tên lính đánh thuê kia thực sự quá thảm thiết, toàn thân dính đẫm chất nhầy nhơn nhớt, hai mắt lồi ra, đáng sợ nhất là toàn bộ cơ thể hắn, cả áo chống đạn lẫn da thịt bên trong bị rạch vô số vết dài, sâu tận xương, sau đó lại bị nén ép cho vừa kích cỡ khoang miệng con quái vật, xương cốt bị ép cho vặn vẹo không còn nhận ra hình dạng ban đầu nữa.

Khafu nổi giận, giật khẩu súng của tên đứng bên cạnh, quét một loạt đạn dữ dội vào sợi dây leo sắp đứt lìa ra ấy. Đoạn dây leo đen đúa bị bắn rơi xuống, chẳng ngờ vẫn không chết hẳn, vừa chạm đất liền bật tung lên, lao bổ về phía tên lính đánh thuê đứng gần nó nhất, động tác linh hoạt như một con cá trạch. Tên lính đánh thuê kia còn chưa bị đoạn dây leo chạm vào đã sợ hãi kêu toáng lên. Mắt thấy đoạn dây leo đen bắn ra mấy sợi xúc tu quấn lấy hai chân minh, tên lính đánh thuê xui xẻo càng thêm hoảng loạn, đang định giơ súng lên bắn nhầu thì bị người trẻ tuổi kia vung tay đánh bay khẩu súng đi, kế đó hai tay y vuốt vào chỗ eo hông tên lính đánh thuê một cái, lúc rút tay ra, mỗi bàn tay đã móc vào hai quả lựu đạn, quăng thẳng xuống chỗ “con cá trạch” đang quẫy loạn dưới đất.

Lữ Cánh Nam để ý thấy, không hiểu nguởi trẻ tuổi kia sử dụng thủ pháp gì, khi lựu đạn trên tay rõ ràng vẫn chưa rút chốt, nhưng trong khoảnh khắc quả lựu đạn rời khỏi lòng bàn tay y, chốt khóa lại tự động tuột ra, kỹ thuật thực thần kỳ hết sức. “Thuật ném lựu đạn một tay!” Lữ Cánh Nam nhủ thầm trong óc.

Bốn quả lựu đạn nối thành một đường thẳng, lần lượt rơi vào cái miệng to tướng ghê tởm, kế đó là một loạt tiếng “bùm bùm” vang lên, con “cá trạch” bị nổ thành một đống thịt vụn, không thể tấn công ai được nữa. Có điều những miếng thịt vụn ấy vẫn không ngừng ngọ nguậy. Bọn lính đánh thuê bị nước thịt nhầy nhụa bắn đầy đầu đầy mặt đều kinh hoàng đến sững sờ, đây rốt cuộc là thứ quái vật gì vậy!

Người trẻ tuổi quát: “Đồ ngu, đừng bắn bọn chúng rơi xuống, không thấy rễ của chúng đều kẹt trong đá, không thể nhúc nhích được hả? Tránh xa ra, đừng để chúng tóm được là xong. Những sinh vật bậc thấp này chỉ bắt mồi theo bản nảng, hệ thống thần kinh chậm chạp khiến chúng không hề biết đau đớn là gì đâu. Vả lại, chi cần nhìn hình dạng dài thượt này của nó, đủ biết đây là sinh vật có hệ thần kinh dạng vòng, mày bắn nó xuống, ngược lại còn giải phóng nó. Dựa vào phản ứng thần kinh bản năng, đoạn dây leo đứt ra vẫn có thể ăn thịt được mày như thuờng.”

Khafu lấy làm khó hiểu hỏi: “Sao lại thế?”

Người trẻ tuổi nói: “Sinh vật bậc thấp không cần bộ não, mỗi bộ phận trên thân thể đều có thể vận động nhờ vào hệ thống thần kinh riêng biệt, giống như cái đuôi của con thạch sùng vậy, đứt rồi vẫn có thể ngọ nguậy; chân của một số loài nhện bị cắt lìa khỏi cơ thể vẫn co duỗi được; đầu rắn bị chặt xuống cũng vẫn có thể nhảy bật lên cắn người. Điều tao lấy làm lạ là âm thanh lúc nãy, tại sao tất cả các dây leo này đều biết phát ra những âm thanh giống nhau như thế?”

Nói tới đây, y bỗng sực hiểu ra, không khỏi hít vào một hơi khí lạnh: “Tao hiểu rồi, những dây leo này không phải những sinh thể tồn tại đơn độc, bọn chúng chỉ là một số xúc tu, là cơ quan săn mồi, con quái vật này có vô số cánh tay xúc tu, kiểu như con hải quỳ vậy, những dây leo màu đen kia có chung một thân thể, tất cả dinh dưỡng được chia đều! Ma Long Tán của phương Bắc thì ra là thế này, cũng may lúc chúng ta đi qua mặt hồ không làm nó thức tỉnh.” “Kubukubu”, nghĩ đến cái tên Merkin đặt cho con quái vật này, khóe miệng người trẻ tuổi hơi nhếch lên một chút. Thấy bọn lính đánh thuê đã ổn định trở lại, y lại bắt đầu thăm dò những cỗ quan tài đá.

Bọn lính đánh thuê nghe theo mệnh lệnh của người trẻ tuối, nhốn nháo chen chúc vào những góc mà đám dây leo không vươn tới được. Tên nào tránh không đủ xa, bị dây leo bắn xúc tu ra quấn lấy, lập tức có bảy tám tên khác tràn lên giúp sức, kẻ thì kéo lại, kẻ rút dao ra cắt những sợi xúc tu dai nhách, quyết liệt giằng co với đám dây leo quái dị, rốt cuộc cũng không có thêm thuơng vong nào nữa.

Ở khu vực trung tâm, chỉ có mình người trẻ tuổi cầm thiết bị thăm dò, mỗi lần có dây leo tấn công, không để ai kịp thấy y có động tác gì, y đã nhẹ nhàng thoát ra khỏi phạm vi tấn công của chúng rồi. Sau mấy lần liên tiếp, không hiểu người trẻ tuổi đã phát hiện ra bí mật của đám dây leo đen, hay chúng đã từ bỏ tấn công y, tóm lại, dường như những sợi dây leo hoàn toàn không cảm giác được sự tồn tại của y nữa, mà dồn hết sự chú ý lên đám lính đánh thuê đang ẩn nấp trong góc.

“Tìm được rồi” Người trẻ tuổi vừa thốt lên, những sợi dây leo lại bổ tới tấn công. Y thậm chí không buồn ngẩng đầu lên, đã giật chốt quả lựu đạn cầm trên tay, nhanh chóng ném vút ra. Thời gian phát nổ được y tính toán rất chuẩn xác, quả lựu đạn vừa khéo làm nổ tung cả đoạn trước sợi dây leo cùng toàn bộ màng thịt đang xòe rộng, phần còn lại tự nhiên không thể gây tổn thương gì cho y được nữa.

Sau mấy lần tấn công vô ích, đám dây leo đen dường như đã quyết định rút lui. Bọn lính đánh thuê thấy trên bề mặt dây leo xuất hiện những đợt sóng nhu động cuồn cuộn, rồi nó từ từ rút vào bên trong kẽ đá. Người tré tuổi lúc này đang đứng bên cạnh cỗ quan tài đá được chọn, gõ gõ đập đập, chừng như đã phát hiện ra chốt lẫy phát động cơ quan. Y tìm ra một phiến đá, đưa tay kéo ra ngoài, cả cỗ quan tài liền rời ra thành từng mảnh, các phiến đá rơi vung vãi duới đất. Bên trong quan tài không có xương cốt mà đặt một thứ hình trụ tròn, hai đầu phình to, ở giữa hơi thắt lại, đường kính khoảng hai muơi đến ba mươi xăng ti mét, hình dạng rất giống quân xe trong môn cờ vua. Trên đỉnh hình trụ ấy có một lỗ hình tròn theo phương ngang, phỏng chừng có thể xuyên một cây trúc qua.

“Mày, mày, qua đây.” Người trẻ tuổi gọi hai tên lính đánh thuê thể hình cuờng tráng bước lên, xuyên nòng súng qua cái lỗ tròn, rồi bảo hai tên lần lượt đứng ở hai đầu chỉ tay vào cái lỗ nói: “Đẩy đi!”

Pháp sư Á La thấy Lữ Cánh Nam đứng bên cạnh nhíu chặt hai hàng lông mày lại, liền nói với cô: “Bạc Ba La thần miếu là nơi cất giữ báu vật, để tránh bị người bên ngoài làm vấy bẩn, thiết kế cơ quan có phức tạp một chút cũng là chuyện hết sức bình thường.”

Lữ Cánh Nam lắc đầu: “Có thể tìm ra cái chốt duy nhất chống đỡ toàn bộ cỗ quan tài đá giữa bao nhiêu phiến đá như vậy, nhãn lực của kẻ này còn lợi hại hơn những gì con nghĩ nữa.”

Pháp sư Á La giờ mới hiểu tại sao Lữ Cánh Nam lại lo lắng, cũng không nén được tiếng thở dài: “Đúng thế, nếu có pháp sư Tháp Tây ở đây thì tốt biết mấy.”

Hai tên lính đánh thuê đẩy cái trụ tròn như người ta đẩy cối xay. Nào ngờ, khi cái trụ chầm chậm nhích động, cả gian phòng bắt đầu nghiêng đi. Bọn lính đánh thuê đều hơi hoảng loạn, đám dây leo màu đen dường như cũng cảm giác được gì đó, lại càng rụt về nhanh hơn.

TIẾN VÀO BẠC BA LA THẦN MIẾU

Người trẻ tuổi dường như sực nhớ ra gì đó, bèn rút máy tính bỏ túi ra sắc mặt trầm xuống, thầm nhủ: “Bị cầm chân lại đó rồi hả? Hy vọng đừng xảy ra chuyện gì ngoài ý muốn, tao rất coi trọng hai chúng mày đấy, đừng để tao thất vọng nhé, Merkin, Trác Mộc Cường Ba.”

Cả gian phòng đá đã nghiêng đi được chừng ba muơi độ, một số tên lính đánh thuê buộc phải bám vào tuờng hoặc quan tài đá để trụ vững. Gian phòng bắt đầu rung lên khe khẽ, tựa như có thứ gì to lớn và nặng nề lắm cuối cùng cũng được đặt xuống đất. Tiếp đó, lại thêm một trận rung động nữa, gian phòng đá dường như bắt đầu trượt xuống theo mặt phẳng nghiêng, hai tên lính đánh thuê đang đẩy cái trụ tròn dừng lại hỏi: “Có tiếp tục đẩy nữa không, thưa ngài?”

Người trẻ tuổi lắc đầu: “Tạm thời không cần nữa, nhớ kỹ, tiếp sau đây sẽ là quá trình gia tốc, chúng mày cảm thấy tốc độ nhanh đến mấy cũng tuyệt đối không được buông tay ra, ba cỗ quan tài đá còn lại hẳn dùng để theo dõi chuyển động của gian phòng đá này, nếu phát hiện chúng bị vỡ tung ra vì chấn động do gia tốc gây nên, chúng mày phải phải lập tức nghĩ cách đẩy cái trụ đá theo huớng ngược lại, đã hiểu chưa?”

Hai tên lính đánh thuê gật đầu tỏ ý đã hiểu. Gian phòng đá chuyển động rất chậm chạp, bảy sợi dây leo đen trên trần nhà chưa rụt hết về, vẫn đang kiên trì, vùng vẫy, nhưng sức lực của chúng làm sao bì được với trọng lượng của cả gian phòng đá cộng thêm đám người lúc nhúc ở bên trong. Dưới súc kéo của gian phòng đá, từng sợi dây leo bị giật đứt, phần đầu nhọn như mũi khoan rơi bình bịch xuống sàn, khiến bọn lính đánh thuê đều kinh hoảng nhảy lùi ra sau né tránh. Có điều, lần này những đoạn dày leo đen bị nghiến cho đứt đoạn rơi xuống dường như đã bị thương tổn đến các đốt thần kinh, không còn thấy nhúc nhích gì nữa.

Thể lực của Merkin đã tiêu hao quá nửa lúc quần thảo với Trác Mộc Cường Ba trong hầm tối, vẫn chưa kịp hoàn toàn hồi phục, lần ruợt đuổi này khiến y có cảm giác, đến chút tiềm lực cuối cùng mình cũng sắp dùng hết rồi. Nghĩ đoạn, y lại đưa mắt liếc nhìn bộ dạng Trác Mộc Cường Ba, vừa nhìn là biết Trác Mộc Cuờng Ba hẳn cũng đã chịu đựng đến cực hạn. Bọn họ đã chạy xung quanh hành lang hình tròn này không biết đến vòng thứ ba hay vòng thứ tư nữa, căn bản là không biết rốt cuộc đã chạy được bao xa, còn sức lực của những dây leo đen quái quỷ kia thì dường như vô cùng tận.

Trác Mộc Cường Ba vừa nghiến răng cầm cự, vừa nghĩ xem làm cách nào thoát khỏi nguy cơ. Huớng tấn công của đám dây leo khốn kiếp này không có góc chết, chúng có thể quấn trên cột trụ, có thể chui từ trong vách tường ra, sức mạnh vô cùng, thân thể lỉnh hoạt, khuyết điểm duy nhất chính là thể hình quá lớn, vậy mới để gã và Merkin có cơ hội hết lần này đến lần khác thoát hiểm trong gang tấc. Thể hình quá lớn! Gượm đã, Trác Mộc Cường Ba dường như đã nhìn ra được sơ hở gì đó từ thể hình khổng 1ồ của đối phương, gã đột nhiên nói với Merkin: “Nghĩ cách lên trên, đi trên tầng trên rồi, thể hình chúng lớn quá, trọng lượng quá nặng, không lên được.”

Merkin lập tức hiểu ý, loại dây leo khổng lồ này quá kềnh càng nặng nề, chỉ có thể nghển lên khỏi mặt đất một độ cao nhất định, ở dưới hồ, nhờ vào lực đẩy củ nước chúng mới có thể co duỗi linh hoạt như vậy, còn trên mặt đất, chúng không thể không quấn vào một số loại cột đá, hoặc men theo các lỗ hổng trên tường để mượn lực bò lên. Y nghiến răng nói: “Chẳng trách bọn này lại thích chui rúc trong tường như thế.”

Nói là một chuyện, làm lại là một chuyện khác, những dây leo to tướng đã vây kín bên ngoài hành lang, cơ hồ giọt nước cũng khó mà lọt qua được, muốn lên được tầng trên, hai người bọn họ gần như sẽ phải lướt qua sát sàn sạt trước vô số cái miệng khổng lồ đang há to, chỉ cần bị bất cứ cái móc nào móc phải là có thể nói “bye bye” với Bạc Ba La thần miếu dược rồi.

Trác Mộc Cuờng Ba lo lắng, cứ tiếp tục chạy thế này, thể lực của họ sẽ không đủ để chạy lên tầng trên nữa, vội hét lớn: “Lên”, rồi xông về phía một cây cột hành lang, còn Merkin cũng xoay người lao về phía một cây cột khác.

Động tác của hai người gần như giống hệt nhau, đều là một chân đạp mạnh vào cột, mượn sức bật lên, vươn tay móc vào mép hành lang tầng trên, rồi lộn nguời là có thể leo lên. Trác Mộc Cường Ba tuơng đối may mắn, lúc gã lộn người lên không bị những sợi dây leo tóm trúng, nhưng Merkin thì không được tốt số như vậy, giữa không trung, một sợi dây leo đen đúa vung mạnh thân thể to tướng, quất mạnh vào Merkin, quét y bật ngược trở về.

Merkin chỉ kịp cảm thấy một luồng sức mạnh khổng lồ ập đến, thân thể đã bị nhấc bổng lên không, mắt thấy mình sắp bị quăng về phía một sợi dây leo khác đang há ngoác miệng, y vội vàng rút dao ra, cắm thẳng vào thân sợi dây leo vừa quét trúng mình, sau đó mặc cho sợi dây leo ấy vùng vẫy quằn quại thế nào, y cũng nắm chặt cán dao, nhất quyết không chịu buông tay.

Trác Mộc Cường Ba vừa lên được tầng trên, lại nhảy bật lên một cú nữa, lộn người lên tầng cao nhất, ngoảnh đầu nhìn lại liền thấy Merkin bị quăng qua quăng lại giữa lưng chừng không, tình thế hết sức nguy cấp. Gã vội rút vũ khí, vừa bắn hạ những sợi dây leo đang có ý đồ tiếp cận Merkin, đồng thời hét lớn: “Mau lên đây, Merkin!”

“Tôi lên được chắc!” Merkin thầm kêu khổ không thôi, nhắm chuẩn một cơ hội, mượn sức quăng quật của dây leo, buông tay bay vút ra, loạng choạng rơi xuống hành lang tầng thứ tư thở hổn hển.

Những gai nhọn trên thân dây leo kia hiển nhiên cũng không đơn giản chỉ là chân giả, trên áo chống đạn của Merkin chúng đã để lại một hàng vết cào sâu hoắm.

“An toàn chưa?” Merkin ngồi phệt duới đất hỏi Trác Mộc Cường Ba.

“Hy vọng là thế.” Câu trả lời của Trác Mộc Cường Ba chẳng khiến người nghe hài lòng chút nào.

Merkin đến bên mép hành lang, chỉ thấy đám dây leo đen đúa đang nhao nhao quấn lên cột đá, khí thế như thể không bắt được bọn họ thì quyết không buông tha.

Trác Mộc Cường Ba lấy làm khó hiểu hỏi: “Rốt cuộc là chuyện gì vậy?”

Merkin đáp: “Hình thái sống nguyên thủy, bắt mồi, ăn, bài tiết.”

Trác Mộc Cường Ba đáp: “Không, bọn chúng có nguồn thức ăn cố định, nếu không thì đã chết từ lâu rồi, không có lẽ nào lại nhất quyết đuổi giết không tha chúng ta như thế. Vừa nãy, chúng ta đang ở trong phạm vi tấn công của chúng thì còn lý giải được, giờ hai ta đã thoát khỏi phạm vi tấn công ấy rồi, bọn chúng phải buông tha mới phải chứ. Còn nữa, ông xem đi, nếu chúng thực sự muốn bám theo cột đá bò lên trên này, với khả năng cơ động cúa chúng, chắc cũng không đến nổi chậm như vậy, phải không?”

Merkin nghĩ lại, tốc độ của những sợi dây leo kia quả hết sức chậm chạp, so với những đợt tấn công như bão táp vừa nãy thì khác nhau một trời một vực. Cảm giác như thể bên duới những sợi-dây leo kia bị đeo vào thứ gì đó hết sức nặng nề vậy. Y ngẫm nghĩ một thoáng rồi mừng rỡ nói: “Tôi hiểu rồi, người Qua Ba cổ đại đã xích những thứ này dưới đáy hồ, khiến chúng không thể tự do hoạt động được.”

Trác Mộc Cường Ba khe khẽ gật đầu, có lẽ Merkin có lý, chỉ có một điểm gã vẫn chưa hiểu cho lắm, lẽ nào một nghìn năm truớc, người Qua Ba cổ đại đã xích từng ấy sợi dây leo quái dị này xuống đáy hồ rồi ư? Theo như đoạn văn bia kia ghi lại, chủ của hồ tế chỉ có một thôi mà!

Hai người dĩ nhiên không thể biết được, những đoạn dây leo quấn chặt lấy cột hành lang, hoàn toàn không phải vì muốn bắt bọn họ xơi tái, mà vì một lượng lớn nước lạnh tràn vào duới đáy hồ đã khiến vị chủ nhân của hồ tế lạnh đến không thế chịu nổi và muốn trồi lên mặt nước theo bản năng mà thôi. Chỉ là, thân thể của nó quá khổng lồ, cho dù muốn dịch chuyển trong nước cũng cực kỳ khó khăn.

Thấy nguy cơ đã tạm thời qua đi, Trác Mộc Cường Ba và Merkin tranh thủ khôi phục lại thể lực, đồng thời bắt đầu quan sát gian sảnh lớn. Gian sảnh này so với hành lang dưới đáy hồ lúc nãy hiển nhiên là tàn tạ hơn rất nhiều, vách tuờng và mái vòm bị nước hồ xối rửa trơ trốc, để lộ ra dấu vết nhân công đục đẽo hang đá nguyên thủy. Có điều, nó rất lớn, rất hùng vĩ! Dù là bản thân đại sảnh hay những tuợng Phật lớn san sát dưới hồ, tất cả đều toát lên khí phách ngùn ngụt khiến người ta phải sững sờ. Nghĩ đến cảnh tượng năm xưa khi đại sảnh này mới hoàn thành, các bức Phật họa trên vách vẫn còn nguyên vẹn, tượng Phật sơn son thếp vàng, đèn đuốc sáng ngời phản chiếu xuống nước hồ, nếu không có những quái vật đang quằn quại vùng vẫy kia, thử hỏi khí thế phải lớn đến chừng nào! Huống hồ, lại còn cả cây cột ở giữa hồ kia nữa. Cũng chỉ có trong gian đại đại sảnh khổng lồ cỡ này mới có thể nhìn thấy một cây cột vĩ đại chu vi đến gần trăm mét như thế. Nếu khoét các lỗ nhỏ trên bốn mặt trơn nhẵn của nó, thoạt nhìn có khác gì tòa nhà cao chọc trời đâu chứ?

Những sợi dây leo được gọi là “kubukubu” đâm chọc khắp nơi, bốn vách tường và các tượng Phật đều bị chúng đâm xuyên qua, trông chẳng còn hình dạng ban đầu nữa. Nếu không có ánh lửa chiếu sáng, Trác Mộc Cuờng Ba và Merkin đều đoán định, chắc chắn mình không thể thoát chết.

Merkin tò mò bước lại gần một bát lửa, xem bên trong rốt cuộc là vật chất gì đang cháy. Chỉ thấy trong bát là một khối chất rắn, trông như một cục sáp nến chưa tan hay một thứ vật chất dạng keo. Từ trong vách đá, có một lỗ nhỏ đang không ngừng tiết ra thứ vật chất này. Merkin lấy mũi súng khêu lấy một tí, chất keo sệt lập túc bùng cháy ngay trên mũi súng. Lúc y nhấc mũi súng lên, thấy kéo ra những sợi tơ mảnh, thoạt trông như sợi bông thuốc súng đang cháy. Cùng với quá trình đốt cháy, thứ vật chất ấy không ngừng tan ra, một phần hóa thành chất lỏng, vừa cháy vừa rơi xuống đất, tạo ra một mảng lửa nhỏ cháy bừng bừng.

“Đây là gì vậy?” Trác Mộc Cường Ba hỏi.

Merkin lắc đầu: “Tôi cũng không biết. Chắc là một loại thể rắn cháy được nào đấy, có lẽ hình thành do ảnh hưởng của địa nhiệt và núi lửa, kiểu như loại băng có thể cháy được dưới đáy biển ấy, trải qua đè nén biến dạng, trong điều kiện thích hợp liền tạo nên một loại năng lượng rắn cháy được.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Nếu không biết thì đừng nghiên cứu nữa, giờ chúng ta cần phải nghĩ xem làm thế nào để thoát khỏi đây?”

“Tìm thấy đuờng ra rồi à?” Merkin đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, vừa nãy bọn họ chạy vòng quanh hành lang, phát hiện thấy nơi này ngoài đường sông thì không còn lối ra nào khác. Sở dĩ bọn họ từ đầu chí cuối vẫn không rời khỏi gian đại sảnh này, chính vì những dòng sông kia đều chảy vào đây, nếu cứ men theo bờ sông đi ngược lên hiển nhiên là sẽ trở ra ngoài, nói không chừng sẽ không bao giờ có cơ hội tiến vào trung tâm Bạc Ba La thần miếu nữa cũng nên.

Trác Mộc Cường Ba chỉ vào cây cột lớn nhất nói: “Xem ra chỉ còn chỗ kia thôi.” Suy nghĩ của gã cũng rất đơn giản, tại sao người xưa phải xây một cái cột to như vậy? Hiển nhiên là bên trong cây cột ấy có bố trí đường hầm. Trong gian đại sảnh này, ngoại trừ qua cây cột đó, chỉ còn cách lặn xuống đáy hồ tìm lối ra, mà đáy hồ này thì… Trác Mộc Cường Ba thậm chí còn không muốn nghĩ đến. Ý nghĩ ấy lóe lên trong đầu, Trác Mộc Cường Ba bèn giơ ống nhòm điện tử lên quan sát, kết quả đúng như gã dự đoán, chỉ là bên trên có thêm ba cánh cửa khác nữa.

Merkin cũng nghĩ đến khả năng này, y đón lấy ống nhòm trên tay Trác Mộc Cường Ba, băn khoản hỏi: “Nhưng chúng ta làm sao qua bên đó được?”

Lúc nãy, khi chạy thục mạng, trông thấy những phiến đá nổi dập dềnh mà đám lính đánh thuê chưa sử dụng, hai người đã nghĩ đây là phương tiện để đi ra giữa hồ rồi, nhưng cho dù biết thì sao? Trong tình hình lúc đó, dừng nói là ra giữa hồ, chỉ riêng chuyện đến gần bờ hồ đối với họ đã là chí mạng rồi. Tình thế trước mắt cũng vậy, tuy có rất nhiều dây leo đã quấn lên cột hành lang, nhưng dưới nước vẫn tua tủa không biết bao nhiêu sợi dây leo khác, thoạt trông như vô số những cây cọc màu đen lờ mờ đâm qua xuyên lại, chốc chốc lại có một cây cọc đột nhiên xòe rộng cái miệng to tướng của nó ra, cảnh tượng cực kỳ quái dị. Trác Mộc Cường Ba ngẩng đầu nhìn lên những đường tỏa ra như tia nắng trên trần, hỏi ý kiến Merkin: “Đi phía bên trên được không?”

Merkin cả kinh, thốt lên: “Ý anh là, đeo người lơ lửng bám trần leo qua đó?” Đây là phương pháp cực đoan nhất, nguy hiểm nhất trong các kỹ thuật leo bám vách đá, thân thể hoàn toàn lơ lửng trên không trung, chỉ dựa vào Sức lực của các ngón tay bám vào khe nứt trên đỉnh đầu, cho dù là cao thủ leo núi đỉnh cao có sức ngón tay mạnh đến mấy, dùng phương pháp này mà dịch chuyển được tầm trăm mét là đã giỏi lắm rồi. Phỏng chừng khoảng cách từ chỗ họ đến giữa hồ cũng tương đối xa. Merkin lắc đầu nói: “Không được, với thể lực hiện nay của tôi, không đủ để cầm cự ra đến giữa hồ. Nếu để rơi xuống dưới…” Y liếc nhìn những cái miệng đang há ngoác ra dưới nước, lo lắng nói: “Thì không hay lắm đâu.”

“Chẳng lẽ chúng ta chỉ biết nhìn thế này thôi à?” Trác Mộc Cường Ba hơi bực bội, gã tháo ba lô xuống hỏi Merkin, “Các người có chuẩn bị công cụ gì không?”

Merkin cười khổ hỏi lại: “Vậy các anh đã chuẩn bị những công cụ gì rồi?”

Cả hai tắc tị, không nói được gì nữa. Họ đều chưa từng đến Bạc Ba La thần miếu, căn bản không thể tưởng tượng nổi quang cảnh bên trong thế nào. Những thứ công cụ mà họ chuẩn bị, dùng để thăm dò các kiến trúc cổ bình thường thì hoàn toàn đủ, nhưng ai có thể nghĩ ra trong Bạc Ba La thần miếu lại có một gian đại sảnh khổng lồ như thế này? Lớn đến mức chứa được cả một hồ nước bên trong. Mà đám người cổ đại ấy lại còn nuôi dưỡng ra thứ sinh vật kỳ quái cả vũ khí hiện đại cũng chẳng thể làm gì nổi dưới kia nữa. Merkin có chuẩn bị súng bắn dây nhưng độ dài dây thừng cùng lắm cũng chỉ được hai trăm mét, mà khẩu súng ấy lại không để trong cái ba lô này. Trác Mộc Cuờng Ba có dây móc, nhưng sử dụng thiết bị này ở trần phẳng đã cần kỹ xảo cực cao rồi, huống hồ nơi này lại là mái vòm hình bán cầu, dây móc bắn ra, thu về, rồi bắn ra lần nữa căn bản không thể chạm tới đỉnh vòm.

“Anh chọn đi đường nào chưa?” Merkin đi vòng một đoạn hành lang, cũng chú ý đến bốn cánh cửa ấy, liền chuyển sang chủ đề khác.

“Ừm,” Trác Mộc Cường Ba khẳng định, “ông nhìn cái cột đá đó xem, ba mặt đều có dã thú, chỉ có mặt kia là không, chọn cánh cửa ở mé bên phải mặt tường không có gì ấy.” Giác quan thứ sáu của Trác Mộc Cường Ba có thể nói là không tồi, gã không chút do dự chọn ngay cánh cửa Đền Tội.

Có lẽ bị vẻ quả quyết của Trác Mộc Cường Ba tác động, hơn nữa đằng nào cũng phải chọn một cánh cửa. Merkin cũng tán đồng luôn. Quái thú trên ba mặt tường kia to lớn như thế, trông lại hung dữ cuồng loạn như thế, chẳng cần dùng ống nhòm vẫn đập vào mắt rõ mồn một, nói không chừng thật sự tượng trưng cho thứ lực lượng tà ác nào đấy cũng nên. Trác Mộc Cường Ba cảm thấy có một bức điêu khắc trông khá quen thuộc, nhưng gã lại cho rằng đó là tại mình nghiên cứu quá nhiều tượng Phật của Mật giáo, mà những tượng Phật và quái thú trong Mật giáo đều tương đối hung dữ, nhìn cũng giống giống nhau. Merkin cũng có cùng một cảm giác như thế.

Gian phòng đá trượt xuống trên mặt phẳng dốc khoảng gần ba mươi độ, mới đầu còn tương đối chậm, sau đó, tốc độ mỗi lúc một nhanh, người bên trong như đứng trong một cái thang máy khổng lồ, cùng với gia tốc rơi, tim họ đều như sắp nhảy lên đến cổ họng. Ma sát do gia tốc gây ra khiến mặt sàn gian phòng rung lên bần bật, mới đầu còn trông thấy một số viên đá nhỏ nảy lật bật, nhưng rồi mức chấn động tăng dần không thấy những viên đá ấy chuyên động nữa, thay vào đó là một thứ âm thanh xoáy tròn gần giống như lúc máy bay khởi động.

Đường hầm trượt xuống dường như kéo dài vô tận, chỉ có một vài cá nhân cảm nhận được họ lại đi xuống theo đuờng xoáy ốc. Chỉ những người này mới cảm thấy sự nghiêng lệch rất nhỏ do quán tính gây ra. Pháp Sư Á La lẳng lặng đếm số lần hít thở và mạch đập của mình, cộng với sự phụ trợ của sóng âm để phán toán tốc độ. Một trăm km/h, hai trăm, ba trăm, ba trăm năm mươi, và vẫn đang tiếp tục tăng nhanh. Tốc độ truợt xuống của gian phòng đá mỗi lúc một nhanh, pháp sư Á La nhận ra nhịp tim và mạch đập của mình cũng đang gia tốc, hiển nhiên, tốc độ này đã vượt quá giới hạn mà trình độ tu luyện và thương thế của ông có thể chịu đựng nổi. Pháp sư liếc sang phía Lữ Cánh Nam, thấy sắc mặt cô đanh lại, hiển nhiên cũng đang điều chỉnh nhịp thở hòng chống chọi tốc độ không ngừng tăng lên chóng mặt đó. Ồng lại nhìn sang phía bọn lính đánh thuê, sắc mặt chúng càng khó coi hơn nữa, đã có mấy tên sắp nôn ọe, dường như chỉ có một mình người trẻ tuổi là trông như chẳng có chuyện gì xảy ra vậy. Thực ra sắc mặt người trẻ tuổi cũng chẳng dễ chịu gì, nhưng khác với những người còn lại, y không hề kinh hoảng, chỉ căm tức và giận dữ. Vì đám dây leo đen đâm thủng mấy lỗ trên trần, trong lúc gian phòng tăng tốc tiến lên, chốc chốc lại có một ít cát mịn rơi xuống lả tả. Người trẻ tuổi bắt lấy những hạt cát mịn đó, khe khẽ miết trên đầu ngón tay. Cát rất mịn, rất trơn, giống như phấn trang điểm thoa mặt vậy, hiển nhiên nguời xưa đã dùng thứ cát này làm chất bôi trơn giúp gian phòng đá chuyến động được dễ dàng hơn. Có điều, trong mắt người trẻ tuổi, việc xuất hiện thứ cát nhân tạo cực mịn chỉ chứng tỏ rằng, trong tòa kiến trúc này sẽ xuất hiện rất nhiều những cơ quan cạm bẫy mà y không hề muốn gặp phải. Đối với những cạm bẫy đó, ngay cả y cũng đành bó tay, hoàn toàn không có cách gì ứng phó. Y rủa thầm trong bụng: “Tại sao ở Trung Quốc lại xuất hiện lão Gia Cát Lượng chứ?”

Gian phòng đá vẫn không ngừng tăng tốc, tiếng rít sắc nhọn mỗi lúc một cao hơn, cảm giác như thể đang ngồi trên xe trượt siêu tốc lao xuống con dốc thẳng đứng vậy, có điều là con dốc này quá dài. Những cỗ quan tài ghép từ đá phiến kia cuối cùng cũng không chịu nổi chấn động tốc độ cao, lần lượt gồ ra ngoài, mà không chỉ quan tài đá, dường như cả gian phòng đá kín mít này cũng sắp bị lực ma sát làm cho rời ra đến nơi. Tim mỗi người đều treo ngược cả lên, đang lao đi với tốc độ cao như vậy, nếu gian phòng vỡ tung ra, chỉ sợ tất cả những nguời ở đây không ai có thể thoát chết.

Hai tên lính đánh thuê giữ hai đầu khẩu súng đã bị rung động khiến cho tê chồn cả tay lẫn chân, nhìn ba cỗ quan tài đá có thể long ra từng mảnh bất cứ lúc nào, chúng sợ hãi nói: “Đã, đã xoay được chưa ạ? Ngài Thomas?”

Người trẻ tuổi nhìn không chớp mắt vào ba cỗ quan tài còn lại, trầm giọng nói: “Đợi thêm chút nữa, đợi đã…” Đồng thời, hai tai y dỏng lên, chăm chú lắng nghe tiếng rít chói tai, rốt cuộc cũng là bọn họ may mắn, khi quan tải đá gần như vỡ tung ra, tiếng rít lại bắt đầu yếu dần, còn mặt phẳng dốc ba mươi độ cũng từ từ biến đổi, chỉ thoáng sau độ dốc đã giảm xuống còn không độ.

Cả bọn vừa thở phào nhẹ nhõm, bỗng nghe “cạch cạch” một tiếng, cả ba cỗ quan tài đá cùng lúc vỡ tung ra, phỏng chừng đang nhắc nhở bọn họ, tuy đã đến đoạn đường phẳng, nhưng gian phòng đá này vẫn lao vụt đi với tốc độ như một viên đạn.

Người trẻ tuổi nhắc nhở những tên lính đánh thuê phía trước: “Đứng lùi lại một chút đề phòng có va chạm mạnh.” Bọn lính đánh thuê vừa nghe vậy, vội nhao nhao lùi ra sau, chỉ nghe tiếng “bịch bịch”, đã có mấy tên ngã bổ nhào bổ ngửa, nhưng là vì đứng lâu quá, hai chân bị ảnh huởng của chấn động thành ra mất cảm giác. Pháp sư Á La nhắm mắt lắng nghe, trong tiếng rít đang không ngừng yếu dần, chốc chốc lại vẳng lên một tiếng “coong”, nghe như đá tảng ma sát với kim loại. Người trẻ tuổi cũng chú ý lắng nghe âm thanh ấy, đồng thời thầm đếm: “Mười, chín, tám, ba, hai, một!”

Y vừa đếm dứt số một, bỗng nghe “ầm” một tiếng, vách tuờng phía trước gian phòng đá thình lình vỡ tung ra, cả gian phòng chấn động dữ dội, dừng sững lại. Người bên trong đều ngả nghiêng ngã ngửa, thậm chí cả pháp sư Á La cũng không tránh khỏi, duy chỉ có người trẻ tuổi đã chuẩn bị sẵn từ trước là đứng được, song y cũng không thể trụ vững, liên tiếp lùi bảy tám bước, lưng đập vào vách sau của gian phòng đá.

Bọn lính đánh thuê rên rỉ bò dậy, chỉ thấy một cái bánh xe hình con thoi khổng lồ lộ ra ở chỗ tường vỡ. Vừa rồi, gian phòng đá đã va đập chính diện với nó, khiến cả bức tường sập xuống, cú va chạm mạnh mẽ đồng thời cũng phá hoại chốt lẫy gì đó của bánh xe, sau khi gian phòng đá dừng lại, chiếc bánh xe khổng lồ ấy liền chầm chậm tăng tốc chuyển động theo một quỹ đạo khác.

Khi bánh xe khổng lồ đó lăn đi, người trẻ tuổi lập tức rảo chân bước ra phía trước bức tường bị đổ sập, đưa mắt liếc nhìn xung quanh rồi quay đầu lại nói: “Các vị, hoan nghênh đến với Bạc Ba La thần miếu!” Kế đó, y cũng dịch người theo hướng chuyển động của bánh xe, nhường ra một lối.

CÁNH CỬA CHUỘC TỘI

Cảnh tượng trước mặt cả bọn đột ngột biến đổi, một tòa cung điện hùng vĩ nguy nga bằng đá tảng xuất hiện ngay trước mắt. Cảm giác đầu tiên nó đem đến cho bọn họ là “to lớn”, như thể họ vừa chui từ trong hang động ra thảo nguyên mênh mông vậy, hiệu ứng thị giác trời đất bao la trải dài vô tận khiến quả tim vừa nãy vẫn còn treo lơ lửng của mọi người lập tức trầm xuống, tựa hồ rơi vào một nơi vô cùng dễ chịu.

Những cây cột khổng lồ, những tượng Phật khổng lồ, những phiến đá lát sàn khổng lồ, khi mỗi người nhìn thấy diện mạo thực sự của tòa thần miếu dưới lòng đất này, cảm giác đầu tiên là thấy mình thật nhỏ bé. Họ giống như một lũ kiến ở bên trong hộp diêm được đưa đến một phòng khách thật sự vậy. Những ngọn lửa cháy bừng bừng khắp nơi kia, có lẽ được đốt lên từ lúc họ ở phía hồ tế, hoặc được đốt lên khi gian phòng đá va chạm với bánh xe, song điều này đã không còn quan trọng nữa, chi riêng những phiến đá lát sàn trơn bóng như guơng dưới chan cũng đã đủ thu hút ánh mắt bọn họ rồi. Chẳng những vậy, xung quanh họ còn vô số tượng Phật trang nghiêm, uy vũ đứng sừng sững.

Trong lúc cả đám lính đánh thuê vẫn đang chìm đắm trong cảm giác hoan hỉ đến sững sờ ấy, người trẻ tuổi đã nhanh nhạy phát hiện được cú va chạm của bánh xe vừa nãy sau khi nó dịch chuyển sang một quỹ đạo khác. Liền ngay sau đó, từ phía sau lưng bọn họ bỗng truyền lại những chấn động mạnh mẽ. Y vội hét lên với bọn lính đánh thuê còn đang ngay người ra trong gian phòng đá: “Mau chạy ra, lối thoát này sắp bị bít kín rồi.”

Khi toàn bộ bọn lính đánh thuê vừa ra khỏi gian phòng đá, lại xảy ra một trận va chạm cực mạnh, phía trên dốc nghiêng trượt xuống không biết bao nhiêu khối đá thể tích tương đương với gian phòng, nghiền nát gian phòng đá thành một đống đá vụn, đồng thời bít kín con đường bọn họ dùng để tiến vào nơi này.

Đại đa số lính đánh thuê đều đắm chìm trong sự chấn động khiến người ta tưởng chừng nghẹt thở ấy, chỉ một bộ phận nhỏ bắt đầu hoảng loạn. Người trẻ tuổi nói: “Không cần lo lắng, tất sẽ có lối ra khác, người xưa làm vậy chỉ là để khiến bọn trộm vặt thèm muốn bảo vật nảy sinh lòng tuyệt vọng mà thôi. Giờ tất cả có thể nghỉ ngơi tại chỗ, nếu thấy thứ gì vừa mắt cứ thoải mái mà lấy, chẳng ai ngăn cản chúng mày cả, nhưng tao cũng phải nhắc nhở chúng mày một câu, chúng ta càng tiến sâu vào bên trong, những thứ chúng mày trông thấy sẽ càng tốt hơn gấp bội, đến lúc ấy không tìm được thứ gì để chứa thì đừng trách tao không nói trước đấy nhé.”

Bọn lính đánh thuê hân hoan nhận lệnh, tên nào tên nấy còn hưng phấn hơn cả uống thuốc kích thích, toàn bộ vẻ mệt mỏi ủ rũ đã bay biến đi đâu mất. Lữ Cánh Nam khinh miệt liếc nhìn bọn lính ô hợp, rồi bước đến bên cạnh pháp sư Á La, cùng pháp sư ngước lên quan sát tòa thánh điện của các bậc tiền nhân để lại với ánh mắt sùng kính. Người trẻ tuổi đứng cách bọn họ không xa lắm, ánh mắt cũng nhìn về cùng một hướng với pháp sư Á La, trên một chiếc bàn cao lớn, có khắc mấy hàng chữ.

“Những kẻ mê đắm trong tham lam, sẽ rơi vào vực sâu vô tận.” Người trẻ tuổi đọc lên bằng tiếng Trung, cười khẩy một tiếng.

Cùng lúc bánh xe khởi động cơ quan và gian phòng đá bị nghiền nát, phía trên hồ tế cũng xảy ra một vài biến cố. Đầu tiên, chấn động dữ dội lan tới, không chỉ Trác Mộc Cường Ba và Merkin cảm thấy không ổn, mà ngay cả vị chủ nhân dưới đáy hồ cũng thấy không ổn, nó càng cuồng loạn vung vẩy hơn hòng nhanh chóng rời khỏi đáy hồ băng lạnh. Nhưng thể tích của nó dường như quá lớn, làm vậy chỉ khiến một số tượng đá khổng lồ ló lên mặt nước bị đẩy ngã, đổ vật về phía hành lang tròn xung quanh hồ, cộng với chấn động dưới đáy hồ, làm cả đại sảnh khổng 1ồ rung lên bần bật, cảm giác như thể đất long núi lở đến nơi. Trác Mộc Cường Ba và Merkin cẩn thận vịn tay vào vách tường, không hiểu rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì.

Đến khi chấn động yếu dần, Merkin và Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn ra giữa hồ quan sát. “Trời đất, anh có nhìn thấy không?” Merkin kinh hãi thốt lên.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Lớn như vậy, ai mà không nhìn thấy chứ.”

Lúc này, một vật thể khổng lồ lù lù xuất hiện ở chính giữa hồ tế, thể tích của nó áng chừng chiếm khoảng một phần tư hồ nước, thân thể mập mạp, phần lộ ra khỏi mặt nước là một lớp biểu bì mọc đầy xúc tu. Thân thể nó quá to lớn, thành thử rất nhiều chỗ bị kẹt giữa các tượng Phật bằng đá, nhưng vì nó quá khỏe, nên các tượng đá đều bị lèn cho ngã nghiêng ngã ngửa.

Cái thứ ấy, bảo là sao biển, nhím biển, hải sâm, hải quỳ hay san hô, cá mực, bạch tuộc, cũng đều không sai, dẫu sao Trác Mộc Cường Ba và Merkin mới chỉ nhìn thấy một phần thân thể nó mà thôi. Lớp biểu bì ấy không ngừng phồng lên xẹp xuống như một con cá nóc đang tức giận, nối liền với rất nhiều dây leo đen đúa. Đến giờ, Trác Mộc Cường Ba và Merkin mới hiểu, thứ trước đó họ trông thấy chỉ là xúc tu của con quái vật mà thôi. Độ dài những xúc tu này không đồng đều, từ mấy chục mét đến mấy trăm mét. Xúc tu màu đen hiển nhiên là những phần đã trưởng thành, bên cạnh chúng còn rất nhiều xúc tu khác màu trắng sữa hay trong nhờ, ngắn hơn nhiều, từng cụm từng cụm trong như xúc tu của hải quỳ; bên trong những xúc tu trong nhờ kia, lại loáng thoáng trông thấy những sợi đen nhu động không theo quy luật nào cả, như một loại ký sinh trùng đang sống ký sinh trong đó, hoặc cũng có thể những xúc tu đó có công dụng khác; lại có một số xúc tu khác vừa nhỏ vừa dài, nhìn bề ngoài hơi giống hải sâm, lúc thò ra lúc thụt vào. Nói một cách tương đối hình tượng, con quái vật này giống như một đàn đủ các chủng loại thuộc họ rắn, đuôi mọc dính vào nhau, nhưng mỗi con rắn lại đều có thể hành động độc lập.

Trông thấy con quái vật chưa từng gặp bao giờ, Trác Mộc Cường Ba và Merkin kinh ngạc đến nỗi không thốt nên lời.

Liên tưởng đến đoạn văn khác trong hầm mộ, Trác Mộc Cường Ba mới sực hiểu ra: “Hồ tế chỉ có một chủ nhân duy nhất, cái hồ này có lẽ thông với hồ lớn bên ngoài, con quái này chui vào đây, ăn đến nỗi béo ú ra, nên không chui ra được nữa.”

Merkin lại chú ý đến một sự kiện khác, vội nhắc nhở Trác Mộc Cường Ba: “Nhìn xem, có đường rồi!”

Thì ra, những bức tượng Phật bị chủ nhân hồ tế chèn cho đổ nghiêng ngả dồn đống, không ngờ đã nối lại thành một cây cầu, tuy rằng cây cầu này tạo thành bởi rất nhiều tượng Phật và cột trụ mọc đầy rêu xanh trơn nhấy, nhưng cả Trác Mộc Cường Ba lẫn Merkin chỉ liếc một cái đã phác ngay trong đầu tuyến đường ra cây cột lớn ở giữa hồ,

“Đi thôi.” Trác Mộc Cường Ba bắt đầu hít thở sâu, chuẩn bị cho một loạt các cú nhảy liên hoàn tiếp sau đố. Bọn họ cần phải rời khỏi nơi này trước khi con quái vật bò lên khỏi đáy hồ.

Bọn họ men theo các tượng Phật đạp tường nhảy lên, bước chân uyển chuyển như mèo, động tác nhanh như vượn, Trác Mộc Cường Ba thậm chí còn dùng cả dây móc để dẫn dụ xúc tu đang bổ về phía Merkin. Sau một loạt những động tác như chạy Parkour, hai người rốt cuộc cũng đến được giữa hồ, tới trước cánh cửa Trác Mộc Cường Ba đã chọn từ trước, chỉ bị mấy phen kinh hãi chứ không gặp hung hiểm gì.

Các bậc thang vươn dài xuống dưới, những ngọn lửa nhảy nhót không ngừng hân hoan dẫn đường cho bọn họ, chỗ cạnh cửa gồ lên một ký hiệu hình như mũi dùi. Trác Mộc Cuờng Ba trông thấy ký hiệu đó, thoáng ngẩn người, gã chưa từng thấy ký hiệu nào giống như thế cả. Trên khung cửa màu vàng kim còn có một hàng chữ nhỏ, Trác Mộc Cuờng Ba ngẫm nghĩ giây lát rồi dịch ra thành: “Cần mang theo trái tim thành kính tiến về phía trước.” Nhưng gã lại bỏ qua mất một ý nghĩa khác của hàng chữ ấy: “Con đuờng chuộc tội.”

Merkin nghi hoặc nhìn khung cửa màu vàng kim trước mặt, lờ mờ nhớ hồi nhỏ dường như y đã nhìn thấy thứ tương tự như vậy ở đâu đó rồi, ông nội y từng nói, khung cửa màu vàng kim này có một hàm nghĩa đặc biệt, dù là ở quốc gia nào, dân tộc nào, ý nghĩa đó cũng tương thông với nhau.

Hai người đi xuống cầu thang hình xoắn ốc theo chiều từ phải sang trái, đoạn đường đầu tiên gần như giống với nhóm lính đánh thuê, chỉ là ở cuối cầu thang không phải một gian phòng đá rộng hai trăm mét vuông. mà là một kiến trúc kiểu như điện thờ lớn. Tòa đại điện này cao khoảng mười mét, hẹp và dài, ở giữa là một con đường đá xanh rộng chừng vài mét, hai bên có các loại tượng tạo hình khác nhau, tuy so với cung điện mà bọn lính đánh thuê trông thấy thì nhỏ bé hơn nhiều, nhưng đối với Trác Mộc Cường Ba và Merkin, đây vẫn là một điện thờ trang nghiêm hùng vĩ.

“Đây chính là Bạc Ba La thần miếu?” Giọng Merkin không giấu nổi vẻ thất vọng, so với đoaạn hành lang dưới đáy hồ hai người đi qua lúc trước, nơi này không khỏi có hơi quá đơn sơ tầm thường.

Tượng đá, mặt sàn và cột hành lang đều điêu khắc trần, không tô màu, thậm chí vẫn còn dấu vết đục đẽo khá rõ rệt, ngoài ra cũng không bày biện bất cứ đồ trang trí đẹp đẽ tinh xảo gì, duy chỉ có hai hàng ngọn lửa nhảy nhót không ngừng, làm cả gian đại điện càng toát lên vẻ âm u tăm tối.

Trác Mộc Cường Ba chú ý đến những bức tượng cao bảy tám mét ở hai bên con đường lát đá. Không thể nói những bức tượng này là tượng Phật được, Trác Mộc Cường Ba đã tìm hiểu đại thể về hệ thống tượng Phật của Mật giáo, tuy đa số tượng Phật trong hệ thống này đều mang tướng mạo phẫn nộ, bộ dạng cực kỳ hung ác, nhưng gã vẫn có thể dựa trên những tạo hình ấy mà phán đoán được dụng ý của người xưa. Còn những bức tượng này, đều là những tạo hình Trác Mộc Cường Ba chưa từng gặp bao giờ. Toàn bộ các bức tượng trong gian điện này có bụng to, mặt nung núc thịt, hơi giống với Phật Di Lặc đang toét miệng cười nhưng hiển nhiên không phải là tuợng Phật Di Lặc. Y phục của các bức tượng rất quái dị, đa phần có tóc, một số còn đội những chiếc mũ kỳ lạ, hoặc mọc sừng, hoặc mũi lợn miệng rắn, đường nét đơn giản mà thô lậu vụng về.

Thứ khiến gian đại điện trở nên âm u, chính là bụng của những bức tượng ấy.

Những cái bụng phình lên trông như bụng bà chửa mười tháng, bên trên còn được người xưa điêu khắc những hình tượng ghê rợn. Có cái bụng mọc ra một cái miệng đang há ngoác nhe răng cười, có cái lại vươn ra ba bốn cánh tay trẻ con, có cái mọc đầy những con mắt, có cái thì vỡ toác, để lộ một động vật nửa người nửa thú bên trong.

Trác Mộc Cuờng Ba lấy máy tính của giáo sư Phương Tân ra, chụp ảnh một số bức tượng rồi tiến hành so sánh đối chiếu với các hình ảnh lưu sẵn trong máy, không ngờ lại tìm được một bức ảnh tuơng tụ. Đó là ảnh chụp tượng điêu khắc khai quật được ở khu vực A Lý, theo khảo chứng thì có lẽ thuộc về thời kỳ văn minh Tượng Hùng. Có điều, bức tượng này nhỏ hơn nhiều so với những bức ở trước mắt họ lúc này, chiều cao không đến sáu muơi xăng ti mét, song đường nét cũng thô kệch và quái dị như thế, đầu lợn, bụng phình to, trông như yêu quái lợn thành tinh vậy. Ở phần ghi chú của bức ảnh có viết: “Nghi là thần linh của thời kỳ cổ đại mông muội, hoặc có liên quan đến Bản giáo cổ đại, trước mắt vẫn chưa phát hiện tác phẩm điêu khắc nào tương tự.” Còn ở hàng ý nghĩa tượng trưng và ý nghĩa thờ cúng chỉ thấy ghi: “Chờ khảo chứng.”

Trác Mộc Cường Ba nói với Merkin: “Đây có lẽ là những thần linh cổ đại nửa người nửa thú ở thời kỳ văn minh Tượng Hùng, nói không chừng chỉ là một con đường dẫn đến Bạc Ba La thần miếu, không thể coi là thần miếu được.”

“Ừm.” Merkin cũng cho là vậy.

Hai người men theo con đường lát đá ở giữa, nhận thấy đại điện này tổng cộng có hai mươi mấy tượng thần. Cảm giác bị những thần linh quái dị ở hai bên đường cúi nhìn chằm chằm thật chẳng dễ chịu chút nào, may mà hai người cũng đã đi đến cuối gian điện. Sâu bên trong đại điện chỉ có một cánh cửa nhỏ bị khóa chặt, hai bên là tường cao sừng sững. Trác Mộc Cường Ba nhìn hàng chữ lớn trên bức tường, lại càng thêm khẳng định con đuờng mình chọn là đúng. Những chữ khác trên bức tường này giống hệt như chữ khắc phía bên ngoài thần miếu: “Một người huyết thống thuần chủng, một nguời trí tuệ tuyệt luân, một người không sợ hãi, thân thủ tuyệt thế!

“Thấy chưa?” Trác Mộc Cường Ba chỉ hàng chữ lớn đó, nói với Merkin.

Merkin gật đầu, vuốt tay lên mép cửa nói: “Thần miếu này…” Y chợt trông thấy bên cạnh cửa có một lỗ nhỏ hình vuông, vừa khéo ở ngay bên dưới mấy chữ “một người huyết thống thuần chính”, Merkin giơ đèn lên chiếu thử, rồi thò tay vào trong thì Mộc Cường Ba nhắc nhở: “Cẩn thận có bẫy.”

Merkin ngoảnh đầu lại liếc nhìn Trác Mộc Cường Ba, đây là lần đầu tiên gã nhắc nhở y cẩn thận, thoáng sau đó, y rụt tay: “Bên trong có một cái tay nắm, nhưng tôi không sao nhúc nhích nó được.”

Trác Mộc Cường Ba cũng thò tay vào trong xem thử chợt nghe “cách cách” một tiếng, kế đó là âm thanh “ù ù”, cánh cửa đá đã từ từ nâng lên. Merkin ngạc nhiên thốt: “Anh làm thế nào vậy?”

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu đáp: “Tôi cũng không lung lay được, không hiểu chuyện gì nữa.” Song cả hai người cũng khỏng muốn tìm hiểu kỹ thêm, chỉ nhìn ra phía ngoài cánh cửa, bên ngoài không có đèn đuốc gì, chỉ thấy một mảng tối om như mực, làn gió ấm kèm theo mùi đất ẩm thổi táp vào mặt.

“Thế này là sao?” Trác Mộc Cuông Ba bước lên hai bước, đột nhiên bị Merkin vươn tay kéo lại. Merkin dường như vẫn chưa hết kinh hoảng, trầm giọng nói: “Hết đường rồi.”

Trác Mộc Cuờng Ba chiếu đèn pha xuống dưới, cũng không khỏi toát cả mồ hôi lạnh, bên ngoài cánh cửa kia chẳng ngờ lại là một khoảng không, gã chỉ cần bước thêm một bước nữa thôi là không biết ngã lăn xuống đâu rồi. Trác Mộc Cường Ba vịn tay vào khung cửa nhìn xuống dưới, chỉ thấy một vùng tăm tối mịt mùng, không biết sâu đến bao nhiêu. Gã lại thò đầu nhìn sang hai bên trái phải, không ngờ cũng trống rỗng, cánh cửa này mở ra ở giữa vách đá dựng đứng, mà vách đá này dường như lại ở trong bụng một ngọn núi nào đó.

Sao lại hết đường? Gã đang nửa kinh hãi nửa nghi hoặc, phía đối diện bỗng vẳng lại tiếng “cách cách”, tựa như có thứ gì dó đang tiến lại phía này. Merkin ủ rũ nói: “Là cơ quan liên hoàn, đều tại chúng ta nóng nảy quá.”

Phía đối diện có một chiếc cầu vươn tới. Chiếc cầu này, có lẽ gọi là cái thang thì hợp lý hơn. Kết cấu của nó giống như đường ray xe lửa, được chế tạo từ vật liệu không phải kim loại, cũng không phải đá, vươn ra từng bậc từng bậc một. Loại cơ quan này Trác Mộc Cường Ba cùng biết, gã buột miệng thốt lên: “Công nghệ thang máy của Lỗ Ban.”

Merkin nói: “Ừm, bên trên hình như có chữ.” Phía trước thang máy còn có hai cây cột không lớn lắm, trông giống như cột đá kỷ niệm lúc xây cầu, Trác Mộc Cuờng Ba cẩn thận đọc hàng chữ khắc trên đó, rồi dịch ra: “Người bước lên con đường này, đừng bao giờ… đừng bao giờ bỏ cuộc? Ừm, ý là phía trước có thể gặp khó khăn, nhưng chỉ cần kiên trì ắt sẽ giành được thắng lợi.”

Merkin đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, vẻ mặt đầy nghi hoặc, đối với trình độ dịch thuật của Trác Mộc Cường Ba, y không khỏi nảy sinh lòng ngờ vực. Bản thân Trác Mộc Cường Ba cũng đang nghĩ: “Hình như không phải từ bỏ? Đừng bao giờ gì đây nhỉ? Ừm, tư liệu về mặt này trong máy tính của thầy giáo ít quá.”

Hai nguời hết sức dè dặt bước lên thang máy, giữa các bậc thang này trống không, hai bên lại không có tay vịn, bước hụt một bước là tiêu đời ngay.

Đi trên thang máy, đèn pha mới miễn cưỡng chiếu được sang tới vách đá đối diện, chắn ngang trước mặt họ, 1ờ mờ có thể trông thấy một sạn đạo(14), còn mé bên trái và mé bên phải đều là núi đá. Hiển nhiên, địa hình này cũng được hình thành trong tự nhiên, giống như khe nứt lớn dưới lòng đất ở Cổ Cách vậy, chẳng qua những khe nứt ngầm này không chỉ có một, mà đan xen nhau chằng chịt tỏa ra khắp bốn phía như một mạng nhện khổng lồ, bên dưới sâu thăm thẳm, không biết là gì. Người Qua Ba cổ đại đã xây dựng các sạn đạo ruột dê men theo vách đá dựng đứng, đuờng đi quanh co, không rõ là thông đến nơi nào.

Phía trên sạn đạo có ánh sáng, nhưng không sáng rõ như đèn đuốc, mà chỉ là ánh huỳnh quang leo lét. Vì khoảng cách xa, ánh sáng lại quá mờ nhạt, nên bọn Trác Mộc Cường Ba và Merkin dùng ống nhòm cũng không nhìn rõ được thứ gì đang phát sáng, chỉ biết là không có phản ứng hồng ngoại. Sang đến đầu bên kia của thang máy, Trác Mộc Cường Ba và Merkin mới phát hiện, thứ phát ra ánh sáng ấy hóa ra là những viên đá nhỏ khảm trên vách đá, cũng không biết do con ngưởi khảm lên hay tự hình thành nữa. Những viên đá nhỏ này phát ra ánh sáng dìu dịu màu xanh nhạt, độ sáng thực ra rất thấp, ánh sáng của viên đá lớn nhất cũng chỉ chiếu được trong vòng bốn mươi xăng ti mét quanh nó, có điều số lượng những viên đá phát sáng này rất nhiều, cả một vách đá khảm đầy những viên đá lớn nhỏ tựa như một bầu trời đầy sao, thoắt sáng thoắt tối, nhấp nháy không theo một quy luật nào. Thi thoảng lại thấy phía dưới khe nứt dâng lên một màn sương mỏng, tựa như phủ lên những ngôi sao màu xanh nhạt này một tầng sa nhẹ, hình thành nên những quầng sáng mong manh, nhạt dần rồi tan biến.

“Đây là…” Kiến thức về mặt địa chất mà Lữ Cánh Nam truyền thụ cho bọn Trác Mộc Cường Ba có thể nói là không nhiều lắm.

“Đây chắc là một loại fluorite, nghe nói loại đá này hình thành trong miệng núi lửa, có thể phát ra ánh huỳnh quang nhàn nhạt trong thời gian dài, độ cứng không cao lắm, nhưng vì số lượng quá ít nên không nhiều người biết đến, xưa nay vẫn chưa chính thức được liệt vào hàng ngũ các loại đá quý.” Merkin đưa ra nhận xét từ góc độ của một chuyên gia về đá quý, sau đó lại thở dài cảm thán; “Đây tuyệt đối có thể coi là một kỳ quan của tự nhiên, thật nhiều quá đi mất.”

Hai người một trước một sau đi trên con đường ruột dê, vì phần dưới sạn đạo này không được chống đỡ theo góc nghiêng tạo thành hình tam giác, mà do những thanh rường đá trực tiếp cắm thẳng vào lỗ khoét trên vách đá, mới đầu Trác Mộc Cường Ba và Merkin còn lo chúng không đủ chắc chắn, đi được vài bước cảm thấy dưới chân vững như bàn thạch, bèn rảo chân bước nhanh hơn. Những viên bảo thạch màu xanh lam lập lòe chớp sáng kia như một sự dụ hoặc thần bí, dẫn đường cho bọn họ tiến lên phía trước.

Có điều hai nguời không biết, lúc này cánh cửa đá bọn họ mở ra kia đang chầm chậm hạ xuống như đồng hồ cát chảy, còn các tuợng thần quái dị trong gian đại điện cũng bắt đầu lần lượt chuyển động, những cái miệng ngoác to trông như đang cười nghiêng ngả.

Đi được một đoạn đường, Merkin dần sinh lòng nghi hoặc với con đường nhỏ nhuốm sắc lam nhàn nhạt này, y cảm thấy có gì đó không ổn, song lại không tìm ra nguyèn nhân. Trác Mộc Cuờng Ba vẫn là người có phản ứng trước, xem chừng, những viên đá chớp sáng lập lòe này dường như có thể mang đến một số ảo ảnh thị giác, đồng thời sạn đạo nhỏ không có tay vịn và vực sâu vô tận tối tăm phía dưới cũng tạo thành một dạng hiệu ứng đặc biệt. Cơ thể bọn họ đang tự điều chỉnh một cách vô thức, Trác Mộc Cường Ba phát giác, thân thể mình dường như trở nên nhẹ hơn, rõ ràng là hiệu ứng thị giác kia đã khiến gã có cảm giác không thực chất.

“Đi nhanh lên,” Trác Mộc Cường Ba nhắc nhở, “khi não bộ hoàn toàn cho rằng chúng ta đang bay, chúng ta sẽ không thể khống chế được cơ thể này nữa đâu.”

Merkin đấm mạnh vào mấy viên đá phát sáng trên vách núi, sự đau đớn kích thích y hồi phục lại một phần cảm giác chân thực, kế đó, y bỗng giơ tay ra chỗ ánh sáng nhìn chăm chú. “Sao thế hả?” Trác Mộc Cường Ba hỏi.

Merkin lắc đầu: “Không có gì, tay tôi không hiểu bị thương từ lúc nào, có một vết thương rất nhỏ. Kích thích có thể khiến anh thoát khỏi ảo giác, thử xem.”

Trác Mộc Cường Ba vẫn tiếp tục tiến lên, nói: “Tôi không cần.” Gã nghĩ đến bàn tay bị thương của Merkin, cũng không kìm được xòe tay ra xem thử. Kỳ lạ, lòng bàn tay gã cũng có một vết thương rất nhỏ, nhưng không thấy đau đớn gì, đến giờ nhìn thấy mới có cảm giác hơi tê tê. Trác Mộc Cường Ba bỗng nảy sinh liên tưởng: “Chẳng lẽ là do lúc nãy mở cửa?”

CON ĐƯỜNG KHÔNG THỂ QUAY ĐẦU

Một đợt chấn động lan đến làm nhiễu loạn dòng suy nghĩ của Trác Mộc Cường Ba, gã dừng lại đưa mắt quan sát xung quanh, nhưng không thấy gì khác thường cả. Trác Mộc Cường Ba bất giác tự nhủ: “Chẳng lẽ lại là ảo giác?” Ngoảnh đầu ra phía sau, gã thấy Merkin đang ngạc nhiên hỏi mình: “Anh có cảm thấy chấn động không?”

“Không phải ảo giác à?” Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm.

“Liệu có phải con đường này có vấn đề?” Merkin nhắc nhở.

“Đường?” Trác Mộc Cuờng Ba thoáng trầm ngâm bỗng sực hiểu ra: “Tôi nghĩ ra rồi, ý của câu đó là, đặt chân lên con đuờng này, đừng bao giờ quay đầu lại!”

“À, anh…!” Merkin rốt cuộc cũng không nhịn nổi tức tối gắt lên: “Trác Mộc Cường Ba, anh là đồ con lừa!” Y vội lấy ống nhòm ra, chỉnh chế độ dạ quang lên mức cao nhất, rồi đưa lên mắt quan sát. Sạn đạo do những trụ tròn ghép lại dưới chân hai người đang bị thứ gì đó đẩy ra ngoài, từng cây từng cây trụ lần luợt tuột khỏi hốc khoét trên vách đá. Con đường sau lưng họ đã hoàn toàn bị cắt đứt, hơn nữa tốc độ sụp đổ cũng cực nhanh, chỉ trong giây lát sẽ đuổi kịp hai người bọn họ.

“Mau, mau lên,” Merkin luôn miệng thúc giục, “những trụ tròn dưới chân chúng ta sẽ tự động bị đẩy ra khỏi hốc đá rơi xuống, sắp tới đây rồi.”

Hai nguời bắt đầu chạy thục mạng trên con đường ruột dê chật hẹp. Họa vô đơn chí, khi những trụ đá rơi nhanh sắp đuổi kịp bọn họ, phía truớc lại hết đường, Trác Mộc Cuởng Ba dừng phắt lại làm Merkin suýt chút nữa thì huých gã rơi xuống. “Ông làm cái gì vậy?” “Anh làm gì đấy?” Hai người đều nổi cáu gầm lên, nhưng tình thế đương khi khấn cấp, Merkin nhìn rõ tình hình phía trước, cơn tức liền xẹp xuống tắp lự: “Tính sao giờ?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Người xưa có để lại một con đường, giờ chỉ xem chúng ta có vượt qua được không thôi.” Trác Mộc Cường Ba giơ đèn pha lên, chỉ thấy mấy cây gậy có vẻ bằng kim loại, thoạt trông như chiếc đòn gánh cắm vào vách núi, mỗi cây gậy cách nhau khoảng chừng mấy mét, có điều, vị trí của những cây gậy này lại thấp dần xuống.

“Giờ làm sao?” Merkin chau mày hỏi.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ông đã xem tiết mục xiếc đu cầu vồng Vô Tích bao giờ chưa?” Nói dứt lời, gã cũng không kịp giải thích gì nhiều, lập tức làm mẫu cho Merkin. Chỉ thấy hai tay gã bám vào cây gậy, mượn lực lao xuống lộn một vòng, rồi buông tay, cong người lộn ba vòng rưỡi trên không, duỗi người ra, bám vào cây gậy tiếp theo, cứ thế lặp đi lặp lại, nhanh chóng nhảy xuống bên dưới.

“Chơi trò người bay hả!” Merkin chắt lưỡi, có điều tình thế cấp bách, y cũng không nghĩ ngợi được nhiều, vội nhảy theo Trác Mộc Cường Ba xuống dưới. Y vừa rời khỏi sạn đạo, cây trụ đá cuối cùng cũng vừa khéo bị đùn ra khỏi vách đá, rơi xuống vực sâu tăm tối.

Cây gậy nhỏ cắm vào vách đá đó quả nhiên được đúc bằng kim loại. Tuy người xưa đã xử lý chống ôxy hóa rất tốt, nhưng trải qua nghìn năm bị hơi sương ăn mòn, những cây gậy này sớm đã không thể chịu nổi sức nặng, lúc truớc đã bị Trác Mộc Cường Ba đu người lên, đến lượt Merkin mới lộn được nửa vòng, cây gậy kim loại đã từ từ uốn cong lại, khiến y giật bắn mình, vội vàng buông tay, may mà trong lúc hoảng loạn vẫn kịp bám được vào cây gậy thứ hai, tinh huống cũng giống hệt như vậy. Song Merkin lại cho rằng người xưa có ý thiết kế như vậy, đã gọi là con đuờng không thể quay đầu, vậy thì hiển nhiên những cây gậy kim loại này chỉ có thể sử dụng một lần mà thôi.

Khóa huấn luyện đặc biệt Lữ Cánh Nam dành cho bọn Trác Mộc Cường Ba đã dần dần phát huy tác dụng, trình độ đu xà của Trác Mộc Cường Ba cao hơn Merkin hẳn mấy bậc, chỉ thấy gã lộn một vòng rồi lại một vòng, động tác thuần thục vô cùng, khi xoay mình trên không trung vẫn còn nhìn rõ được vị trí của cây gậy tiếp theo. Sau khi đu qua mười mấy cây gậy, gã phát hiện khoảng cách đến cây gậy tiếp theo quá xa, đang lấy làm kinh hãi thì bỗng liếc thấy trên vách đá có một chỗ gồ lên rất nhỏ, rõ ràng dùng để đạp chân lên, liền không kịp nghĩ nhiều, lập tức hạ xuống điểm đạp chân đó một cách chuẩn xác, đồng thời chân kia cũng không dừng bước, sử dụng kỹ thuật chạy trên tường nghiêng người lao xuống dưới, sau bảy tám bước, đà lao giảm dần, rốt cuộc cũng với được đến cây gậy ở đằng xa.

Hai người cứ lao một mạch không ngừng như thế, có lúc vách núi bỗng thu hẹp lại, hai vách áp sát nhau tạo thành một khe nhỏ, ở giữa lại không có cây gậy nào, chỉ có mấy kẽ nứt nhỏ xíu đến độ gần như không nhìn thấy trên vách đá. Khi ấy, Trác Mộc Cường Ba buộc phải dùng kỹ thuật nhảy lật người trong môn Parkour, mũi chân áp sát vào vách đá, ngón tay phải móc được vào khe nứt một cách chuẩn xác, sau đó cả tay và chân phát lực, xoay người bật sang phía vách đá đối diện, cứ lặp đi lặp lại, hoặc lên hoặc xuống, cơ bắp toàn thân căng cứng, tuyệt đối không được phép để xảy ra bất cứ sai sót nào.

Trác Mộc Cường Ba cứ thế đu xà lao đi vun vút, sau mười mấy lần lộn nhào lại chạy đạp tường khoảng bảy tám mét, rồi nhảy lật người, sau đó lại phải xoay người bám vào những cây gậy kim loại cắm vào vách đá, đu lên, lộn nhào trên không. Cứ lặp đi lặp lại như vậy không biết bao lâu sau, gã mới tìm được một điểm đặt chân ở không gian tăm tối phía bên dưới. Chỗ đặt chân này giống như một cái rường đá bị gãy, nằm vắt vẻo giữa không trung. Trác Mộc Cường Ba lộn người phóng xuống, lăn mấy vòng trên rường đá rồi mới dừng lại. Gã duỗi tứ chi mỏi nhừ, ngoảnh đầu nhìn lại xem Merkin có ở phía sau không. Gã cũng từng lo lắng không biết Merkin có thể theo kịp mình hay không, nhưng rồi lại nghĩ, mình không cần phải lo chuyện sống chết cho loại người như Merkin làm gì. Có điều, từ đầu chí cuối không nghe thấy tiếng kêu thảm của Merkin, Trác Mộc Cường Ba cũng thầm yên tâm phần nào. Giữa bóng tối mịt mùng trong không gian lạ lẫm đầy rẫy những cạm bẫy chưa biết và bóng tối mịt mùng này, có một kẻ địch bên cạnh bầu bạn cũng còn đỡ hơn phải đơn độc một mình.

Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu, chỉ thấy không gian phía sau tối đen như mực, không thấy bóng dáng Merkin đâu cả, lẽ nào y đã rơi xuống rồi sao? Gã đang băn khoăn, chợt thấy Merkin xuất hiện ở chỗ nhảy lật người giữa hai vách đá, rồi cũng đu qua từng cây kim lịa phi xuống, tuy động tác còn hơi vụng về hoảng loạn, song cũng không sẩy tay lần nào.

Merkin ở trong bóng tối trông thấy Trác Mộc Cường Ba trước cả khi Trác Mộc Cường Ba trông thấy y, vội luôn miệng hô lớn: “Còn ngẩn ra đó làm gì? Đi mau, mau lên, đừng dừng lại!”

Thì ra, Merkin ở phía sau nên nắm rõ những biến hóa trên con đường độc đạo này hơn Trác Mộc Cường Ba nhiều, những cơ quan kia vẫn luôn đuổi miết sau lưng y. Y vừa buông tay khỏi cây gậy kim loại nào, cây gậy ấy liền bị đẩy ra khỏi vách đá, hệt như những trụ đá tạo thành sạn đạo phía trên kia vậy; y vừa nhún người rời khỏi điểm đặt chân, giẫm lên mặt tường thì điểm đặt chân ấy lập tức sụt ra; lúc y nhảy lật người giữa hai vách đá, kẽ đá để móc tay vào cũng lần luợt biến mất cùng với một trận chấn động nhỏ. Merkin chỉ liếc nhìn ra phía sau một cái đã hiểu ngay, nơi này tuyệt đối không được dừng lại dù chỉ một giây lát, lại càng không có cơ hội để làm lại lần thứ hai.

Trác Mộc Cường Ba cũng đã trông thấy, hễ Merkin chụp phải cây gậy kim loại nào, sau khi y buông tay ra, cây gậy đó liền như bị thứ gì đó vô hình đùn ra ngoài, rơi xuống. Mỗi lần liếc về phía sau như thế, Merkin thậm chí không dám chần chừ dù chỉ một giây, y tức thì lộn nhào trên không bổ tới chỗ cây gậy tiếp theo. Trác Mộc Cường Ba nhìn về phía Merkin, lùi lại mấy bước, kế đó liền xoay người tăng tốc ngay tức thì, ai biết được loại cơ quan kia có lan đến cái rường đá này hay không chứ?

Merkin cũng nhảy xuống rường đá, nhanh chóng đuổi kịp Trác Mộc Cường Ba, nhưng không phải vì Trác Mộc Cường Ba chạy không nhanh, mà vì đường tiến lên phía trước của họ lại bị cắt mất lần nữa.

Lần này không giống như vừa nãy nữa, xung quanh đều là vách đá dựng đứng, thậm chí không có lấy một khe hở chứ đừng nói gì đến những cây gậy bằng kim loại. Bọn họ như thể rơi xuống một cái lưỡi dài đang thè ra, chạy từ đầu lưỡi đến gốc lưỡi rồi hết đường, hết đường một cách triệt để.

Chấn động quả nhiên đã lan truyền đến rường đá này, phỏng chừng nó cũng sẽ bị long ra và rơi xuống khỏi vách đá giống những cây trụ phía trên kia. Trác Mộc Cường Ba vẫn luôn bình tĩnh, giờ cũng không khỏi có chút hoảng hốt, không ngờ vượt qua bao gian khổ khó khăn, rốt cuộc lại đâm đầu vào tuyệt lộ thế này.

“Không đúng!” Merkin nói vói giọng khẳng dịnh chắc chắn, “Không đúng!” Nếu nói về những trải nghiệm thập tử nhất sinh, kinh nghiệm của y phong phú hơn Trác Mộc Cường Ba rất nhiều, không phải vô cớ mà lần nào y cũng có thể sống sót trở về. Trong khoảnh khắc nguy ngập ấy, Merkin chợt nhớ lại hàng chữ khắc trên cửa: “Một người trí tuệ tuyệt luân…” Trác Mộc Cường Ba từng dịch ra cho y như thế, đồng thời, sự kiện gặp phải bức tuờng Khổng Minh lúc ở cuối hành lang dưới đáy hồ cũng hiện lên trong óc y. Những người Qua Ba cổ đại kia rõ ràng rất thích thiết kế những cơ quan cạm bẫy khiến người ta cảm thấy tuyệt vọng. Giờ đây, trước mặt họ lại là một con đường cụt, trường hợp này chỉ có hai khả năng, một là Trác Mộc Cường Ba chọn sai đường, nhưng từ đầu tới giờ, y cũng có để ý, hình như không có ngã rẽ nào khác, vậy thì chỉ có một khả năng nữa, đây là một loại cơ quan cạm bẫy do đám nguời Qua Ba kia thiết kế, một cơ quan khiến người ta nảy sinh cảm giác tuyệt vọng!

Trong chớp mắt, không biết đã có bao nhiêu ý nghĩ xoay chuyển trong đầu Merkin, y đột nhiên đẩy Trác Mộc Cường Ba sang một bên, dồn sức đạp mạnh vào vách đá trước mặt. “Báp” một tiếng, cẳng chân Merkin bị vách đá cứng rắn phản chấn lại tê rần, nhưng y đã nghe được âm thanh vẳng ra từ bên trong… Vách đá này, chỉ dày chưa đến ba mươi xăng ti mét, vẫn còn hy vọng! Chấn động mỗi lúc một dữ dội, chỗ mép rường đá bụi bắt đầu rơi xuống lả tả, không ngừng có những viên đá nhỏ nảy bật lên. Merkin lấy ra mấy miếng kẹo cao su, bỏ vào miệng nhai nhồm nhoàm, lẩm bẩm nói: “Đánh cược một ván thôi vậy.”

Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Ông nói gì cơ?”

Merkin đẩy Trác Mộc Cường Ba ra, dính kẹo cao su lên giấy bạc rồi ấn lên vách đá, đoạn rút một quả lựu đạn, nói với gã: “Lùi lại, nằm xuống! Chuẩn bị sẵn sàng để nhảy!” Dứt lời, bản thân y cũng lùi lại mấy bước, ném lựu đạn vào chỗ dán giấy bạc, rồi lập tức thụp người xuống rường đá.

“Ầm!”, ánh lửa còn chưa tắt, Merkin đã nảy bật người lên như một con cá, lao thẳng vào miệng hang vừa bị phá vỡ ra. Cùng lúc ấy, chấn động mãnh liệt khiến cho rường đá gãy lìa từ gốc. Trác Mộc Cường Ba tuy chưa kịp chui vào trong, nhưng cũng chuẩn bị sẵn, đúng vào khoảnh khắc ruờng đá trầm xuống, gã đã kịp thời nhổm lên bám vào mép hang động. Khi Trác Mộc Cường Ba đã an toàn, đang định đu người lên chui vào hang, bỗng thấy Merkin tái mặt xoay người chui ra, học theo gã đeo người phía bên ngoài miệng hang, y lại chỉ dùng một cánh tay.

“Sao hả…” Trác Mộc Cường Ba còn chưa dứt lời, đã nghe tiếng “ầm ầm” vang tới, một quả cầu đá lớn đường kính ít nhất cũng phải ba mét 1ao vụt ra ngoài, rơi xuống vực sâu tối om như mực bên dưới. Cũng may là cửa hang nổ ra đủ lớn, mà hai người đều bám vào chỗ khe hở giữa quả cầu đá và cửa hang, nên không bị nghiến phải. Rất có thể, chấn động vừa nãy chính là do quả cầu đá này gây nên.

Hai người đều treo mình lơ lửng bên ngoài mép hang động, nhìn sắc mặt tái mét của đối phương, há miệng thở hổn hển. Merkin dường như vẫn chưa dám tin đó là sự thật, lẩm bẩm nói: “Cạm bẫy liên hoàn đáng sợ thật, tôi đã đi nhiều nơi, vậy mà cũng chỉ mới gặp lần đầu tiên.”

Dứt lời, Merkin chừng như định bò lên, nhưng lại bị Trác Mộc Cường Ba kéo tay giữ lại: “Đừng gấp.”

Tuy chấn động mãnh liệt đã qua đi, nhưng Trác Mộc Cường Ba vẫn cảm thấy vách đá dường như đang rung lên nhè nhẹ, ở nơi này tuyệt đối không thể lơ là dù chỉ một mảy may, bọn họ đã có mấy lần suýt toi mạng rồi. Hai nguời đợi thêm khoảng bảy tám phút, cánh tay đeo lơ lửng đã bắt đầu tê dại mà vẫn không thấy gì bất thường. Cả hai thở phào nhẹ nhõm, đang chuẩn bị trèo lên, đột nhiên vách đá lại rung lên một chập, chỉ nghe từ rất sâu bên trong hang động truyền ra một tiếng “thình”, dường như có vật nặng nào đó rơi từ trên cao xuống, kế đó là một loạt tiếng “uỳnh uỳnh uỳnh uỳnh” nặng nề vẳng tới.

Quả nhiên, quả cầu đá khổng lồ thứ hai đã lao ra theo quỹ tích của quả cầu trước, Trác Mộc Cường Ba và Merkin đều nhìn thấy vẻ kinh hoảng trong mắt nhau, không biết có còn quả cầu đá thứ ba nữa hay không. Ánh mắt hai nguời gặp nhau, ngay tức thì, cả hai gần như cùng lúc dồn sức bật người trèo vào hang động, không dám dừng lại, lập tức guồng chân chạy một mạch! Bên trong miệng hang do Merkin phá vỡ là một thông đạo hình tròn cao khoảng ba mét, nếu có quả cầu đá nào lăn xuống nữa, thông đạo này sẽ kín mít, không có khe hở nào, cũng không có đường nào khác. Hai người chạy men theo con dốc, cảm giác như thể đang ở trong đuờng tàu điện ngầm vậy.

Cả hai không dừng lại lấy hơi, cũng mặc kệ mình đang kiệt sức, chạy được nhanh chừng nào thì nhanh chừng ấy, cho đến khi leo lên đỉnh dốc, tới điểm cuối cùng của thông đạo hình ống đó, họ mới nhìn thấy một thông đạo khác ở phía trên, cách mặt đất chừng bảy tám mét. Quả cầu đá hiển nhiên là lăn từ trên đường hầm kia xuống. Sau khi chắc chắn vị trí hiện tại của họ không thể bị quả cầu đá đụng trúng, hai người mới dừng lại, một người dựa vào vách đá, người kia hai tay chống gối thở hổn hển, thậm chí không còn sức nói chuyện nữa. Tim họ lúc này đập mạnh hơn bao giờ hết, nước bọt trong cổ họng tiết ra rớt xuống thành dòng nơi khóe miệng.

Trác Mộc Cường Ba và Merkin cứ đứng thở hồng hộc như vậy mười mấy phút đồng hồ, không thấy có quả cầu đá nào lăn xuống nữa. Bấy giờ hai người mới dần bĩnh tĩnh trở lại, Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Đi bên nào?” Cuối đường hầm hình ống ấy là một đường hầm khác cắt ngang, họ đang đứng ở chính giữa ngã ba hình chữ “T”, hai bên đều đi được. Trác Mộc Cường Ba giờ đã không dám dẫn đường bậy nữa, vì vậy mới quay sang trưng cầu ý kiến Merkin.

Merkin trợn trừng đôi mắt xanh lên, hết ngó bên trái rồi lại ngó bên phải, đường đi hai bên giống hệt nhau, hơi dốc xuống dưới, y cũng không biết nên đi huớng nào, nhìn qua nhìn lại, cuối cùng lại nhìn sang phía Trác Mộc Cường Ba, mà Trác Mộc Cường Ba cũng đang trố mắt ra nhìn y. Hai người lồng ngực phập phồng, cứ vậy đuỗn mặt ra nhìn nhau, không nói một lời nào. Rốt cuộc, vẫn là Trác Mộc Cường Ba lên tiếng trước: “Đi bên phải vậy, găp đường nhánh thì rẽ phải, đây cũng là một thông lệ trong Mật giáo.”

Hai người đi vào lối bên phải, không bao lâu liền gặp một đại điện đèn đuốc sáng trưng, kỳ lạ nhất là cả đại điện này lại chỉ có một khung cửa nhỏ, không lớn hơn cửa chống trộm bình thường là mấy, bức tường ngăn cách giữa đại điện với đường hầm hình ống bên ngoài rất dày. Merkin cẩn thận xem xét cửa đá phía trên khung cửa ấy, sau đó lo lắng bảo Trác Mộc Cường Ba, nếu cánh cửa đá này sập xuống, sợ rằng khó lòng mà mở ra được.

Hai ngươi nhìn qua khung cửa vào bên trong, chỉ thấy bốn vách tường đều lấm tấm vết máu, chính giữa đại điện là vô số bộ xuơng người. Trông thấy cảnh tượng ấy, cả hai càng thêm dè dặt.

Mặt sàn đại điện có một rãnh lớn hình tròn, bên trong hình tròn lại có rất nhiều rãnh nhỏ, hình thành nên các ký hiệu và đồ hình của Mật giáo. Phần còn lại, dường như dùng vật liệu gì đó đắp lên, trải qua nhiều năm tháng những thứ này đều đã mục nát, giẫm chân lên phát ra tiếng “lạo xạo” như đang đi trên đống cành cây khô mục, đồng thời cũng làm vẩn lên vô số bụi đất.

Ở bốn huớng Đông Tảy Nam Bắc của hình tròn ấy dựng rất nhiều cây cột to bằng miệng bát, trên thân cột lại có các nhánh kim loại đâm ra theo phương ngang lởm chởm gai nhọn. Trên những gai nhọn đó treo lơ lửng những bộ xương người, không biết đã trải qua bao nhiêu năm tháng, vậy mà đều còn nguyên vẹn, không hề rời ra, chẳng qua có một vài bộ bị treo ngược, đầu cắm xuống đất chân chổng lên trời, nhìn xa, trông như vô số xác kiến treo trên cành cây. Lúc đến gần, hai người mới phát hiện, chỗ nối giữa các khớp xuơng đều được buộc bằng sợi vàng sợi bạc, chẳng trách vẫn giữ được nguyên vẹn hình người. Bên trong hình tròn, cũng có rất nhiều giá đỡ nhỏ, cao khoảng hai mét. Mỗi giá gồm một cây cột chống và một vật thể hình chữ Vạn ngược, trên chữ Vạn ngược ấy cũng đầy những gai nhọn, nhưng không có bộ xương nào. Trác Mộc Cường Ba để ý thấy bên dưới những giá đỡ nhỏ ấy đều có máng dẫn, kết cấu rất giống vơi skeets cấu huyết trì.

Phỏng chừng đại điện này được xây dựng để phục vụ cho lại hình tế bái nào đó, một trận gió âm thổi đến, những bộ xương trắng treo lơ lửng trên cao đung đưa qua lại, những khúc xương va chạm vào nhau, phát ra những tiếng “kẽo kẹt” rợn người. Lại một trận gió nữa phất qua, âm thanh lớn dần, văng vẳng trong đại điện rộng lớn, tựa hồ mỗi bộ xương trắng kia đều hồi phục sức sống, đang ngoác miệng ra cười khành khạch.

Trác Mộc Cường Ba và Merkm vừa mới trải qua một phen thập tử nhất sinh, giờ lại gặp phải gian đại điện này, trong lòng không khỏi dâng lên cảm giác bất an, chỉ sợ bước sai một bước sẽ lại phát động cơ quan cạm bẫy nào đó, nên cũng chỉ đi vài bước phía bên ngoài vòng tròn, không dám tiến vào trung tâm.

“Hay là chúng ta đi lối kia vậy.” Merkin đề nghị, Trác Mộc Cường Ba lập tức đồng ý ngay: “Được.”

Hai người bèn quay ngược trở lại ngã ba, đi vào lối rẽ phía bên trái. Ở cuối đường, họ cũng thấy một gian đại điện khác, cũng chỉ có một khung cửa nhỏ. So sánh ra đại điện này sạch sẽ hơn gian điện phía bên kia nhiều, có điều lại sạch sẽ đến mức hơi bất bình thuờng. Sàn bên trong đại điện lát bằng đá phiến, không có cây cột nào, cũng không có tượng Phật hoặc bất cứ đồ đạc, hình thù điêu khắc gì khác, trống rỗng như thể một nhà kho bỏ hoang.

Từ đầu bên này đến đầu bên kia đại điện khoảng tầm bốn năm trăm mét, Trác Mộc Cường Ba ngồi xổm xuống rờ tay lên một phiến đá lát sàn, nói: “Sàn nhà này rất có thể có vấn đề.” Khoảng cách xa như vậy, nếu là sàn nhà lật, bên dưới đầy gai nhọn thì rất khó vượt qua được.

“Đúng vậy, sạch sẽ quá!” Merkin cũng đồng tình, chợt nghe Trác Mộc Cường Ba kêu lên: “Nhìn phía trên kia xem!”

Merkin ngẩng đầu lên, chỉ thấy toàn bộ phần trần đại điện điêu khắc chi chít hình đầu của một loại thú nào đó, nhìn qua ống nhòm, hai người sơ bộ phán đoán đây là đầu rồng, mang đậm phong cách thời Đuờng. Merkin biết rõ dân Tạng thời kỳ Thổ Phồn cũng cực kỳ sùng bái rồng, có điều, chạm trổ nhiều đầu rồng thế này trên trần một gian đại điện kiểu như vậy không thể nào chỉ để trang sức! Trác Mộc Cường Ba cũng đang quan sát những đầu rồng, chưa phát hiện ra điểm gì đặc biệt, tạo hình của chúng giống hệt nhau, áng chừng chỉ to cỡ nắm tay, nhưng lại tỏa ra nhiều huớng khác nhau, Đổng Tây Nam Bắc, hướng nào cũng có.

“Miệng rồng có thể sẽ phun ra thứ gì đó.” Merkin ra hiệu cho Trác Mộc Cường Ba, bảo gã ném ba lô ra thử xem sao. Trác Mộc Cường Ba lấy máy tính và một số đồ không tiện va đập ra, rồi cầm ba lô lăng vào phía trong khung cửa, không thấy có phản ứng gì. Gã lắc lắc đầu. Merkin lại nói: “Dùng dây thừng.”

Trác Mộc Cường Ba hiểu ý, lấy dây thừng buộc vào ba lô, ném ra xa hơn nữa. “Bịch!” Chiếc ba lô rơi xuống đất, vẫn không có phản ứng gì. Trác Mộc Cường Ba nói: “Hay vì thời gian đã quá lâu, cạm bẫy mất tác dụng rồi?”

Merkin lắc đầu: “Những cạm bẫy chúng ta gặp phải từ truớc đến giờ, có cái nào mất tác dụng chưa?”

Trác Mộc Cường Ba đã đứng trên một phiến đá lát sàn, gã dợm chân bước lên trên hai bước, ngoảng đầu lại nói: “An toàn.” Merkin chau mày, nếu đi tới giữa điện những cơ quan cạm bẫy kia mới khởi động thì thực sự không có cách nào tránh được, vả lại, dựa trên kinh nghiệm hai lần trước đó, rất có khả năng đám người Qua Ba cổ đại kia sẽ thiết kế kiểu bẫy này. Mặc dù nghĩ vậy, nhưng Merkin vẫn giẫm chân lên sàn đại điện đi lại hai vòng. Bọn họ đã kiểm tra kỹ lưỡng, phần rìa bên ngoài này không bị chìm xuống, lật ngược, hay có hệ thống cảm ứng áp lực, nhưng đi ra giữa đại diện tình hình ra sao thì rất khó nói.

Hai người vẫn quyết định tiến lên phía trước, dẫu sao cũng không thể ở mãi trong đường hầm này được, vả lại nếu những đầu rồng kia có phun ra thứ gì, hai người cần bảo vệ đầu và tay là được. Bộ đồ do Merkin thiết kế có thể chống đạn, cũng không đến nỗi không ngăn được ám khí hay cung nỏ của người xưa. Merkin thầm nhủ: “Nếu có cả mũ bảo hiểm thì hoàn toàn có thể đi thẳng một mạch sang đầu bên kia rồi.” Hai nguời áp sát chân tuờng tiến lên, thầm tính nếu xảy ra sự cố thì có thể nấp vào góc chết của những đầu rồng ấy. Dù sao thì hai người đều đã quan sát kỹ phương vị cũng như góc nghiêng của chúng, chi cần men theo bờ tường leo lên cao là có thể tránh được các thứ phun ra từ trong miệng rồng. Dọc theo bờ tường có một hàng lỗ nhỏ, phỏng chừng có thể bắn ra tên hay phi tiêu gì đó, song chỉ cần họ có thể cố định thân người trên tường, thì cũng tránh được ám tiễn do những lỗ nhỏ này bắn ra. Hai người bọn Trác Mộc Cường Ba đã đi được nửa đường, vẫn không thấy gì khác lạ, nhưng không ai dám lơ là, mỗi khi giẫm lên một phiến đá lát sàn mới, họ đều phải kiểm tra trước xem chỗ mép nối có lung lay không, rồi dùng lực ấn lên xem có biến cố gì không, sau đó mới dám tiếp tục tiến bước. Khi gần đến chính giữa đại điện, Trác Mộc Cường Ba để ý thấy trên tường có hai vòng tròn, nhỏ hơn vòng tròn lớn trong gian đại điện phía bên kia, nhưng đường kính cũng đến năm sáu mét, bên trong vòng tròn là các ký hiệu và đồ hình Mật giáo, nhìn kỹ lại thấy rất giống hình vẽ Thái cực Bát quái. Hai vòng tròn này đối xứng nhau ở giữa gian đại điện, không biết có tác dụng gì. Merkin đứng bên cạnh Trác Mộc Cường Ba thúc giục: “Đi được chưa?”

“Ừm.” Trác Mộc Cường Ba đáp một tiếng. Gã đột nhiên phát hiện vòng tròn trên bức tường đối diện dường như đang chuyển động, bèn vô thức ngoảnh lại nhìn bức tường mình đang áp vào. Quả nhiên, vòng tròn trên bức tường bên này cũng đang chuyển động. Không phải là ảo giác, Trác Mộc Cường Ba mặc dù không biết đã xảy ra chuyện gì, nhưng gã tỉnh táo ý thức được rằng, đây không phải chuyện tốt đẹp gì cho cam. Ý nghĩ ấy vừa lóe lên trong đầu, gã đã buột miệng thốt lên: “Cẩn thận!”

Merkin vừa nghe Trác Mộc Cường Ba kêu lên, liền biết ngay có chuyện chẳng lành! Chỉ nghe hai tiếng “thịch thịch”, hai cánh cửa ở hai đầu đại điện cùng lúc hạ xuống, bít chặt lối vào và lối ra. Merkin chua chát thầm nhủ: “Lần này toi đời rồi!”

“Ít gặp thì thấy lạ thôi,” người trẻ tuổi có vẻ rất không hài lòng với tố chất của đám lính đánh thuê. “Cái hồ này thông với hồ nước lớn bên ngoài kia, chúng mày có thể mường tượng thế này, lấy một cái bát lớn úp ngược vào trong vũng nước, phần đáy bát hướng lên trên vẫn còn lại một ít không khí, giờ đây chúng ta đang ở trong phần không gian ấy, ngọn lửa cháy lên làm tiêu hao hết ôxy, nước ở đáy hồ tự nhiên sẽ tràn vào thôi. Chúng mày không thấy những bồn lửa kia chỉ cháy đến tầng thứ hai thôi sao, tầng dưới cùng không có lửa, hiển nhiên là sẽ bị nhấn chìm hoàn toàn rồi. Đến khi nào lượng ôxy tiêu hao bởi những ngọn lửa kia đạt đến độ cân bằng với lượng ôxy được hút vào khoảng không gian này, mực nước tự nhiên sẽ không dâng lên nữa. Cái này có phải cơ quan gì đâu, chẳng qua chỉ là một ứng dụng đơn giản nhất của nguyên lý tự nhiên mà thôi.”

“Ôxy được hút vào từ đâu?” pháp sư Á La hỏi, như thể thầy giáo đang khảo vấn người trẻ tuổi trong kỳ thi vấn đáp.

Khóe miệng người trẻ tuổi khẽ nhếch lên, y đưa mắt nhìn sang các dòng sông Phù sinh, nói: “Đó chẳng phải là ống thông khí hay sao? Lúc đi men theo dòng sông, tôi đã nhận ra rồi, hướng gió thổi trùng với hướng chảy của dòng sông, tại sao hồ bên trong và hồ bên ngoài thông nhau, vậy mà nhiệt độ nước hồ bên trong cao như thế, trong khi hồ bên ngoài lại gần như đóng băng? Hiển nhiên, vẫn còn một vòng nội tuần hoàn nữa, chắc hẳn người ta đã lợi dụng một loại cơ quan nào đó, có lẽ phần đáy của cây trụ này có thứ gì đó tương tự như máy bơm hút nước hồ vào, tiến hành trao đổi nhiệt ở chỗ nào đó, biến thành nước sôi, rồi đưa trở ra theo sông Phù sinh, nuôi sống các loài tảo thích nhiệt độ cao ở đây, đồng thời duy trì không khí ở không gian này. Còn nữa, rễ của các loài thực vật và tảo này cũng có thể tạo ra một lượng dưỡng khí lớn. Hệ thống nội tuần hoàn sẽ giữ cho lượng ôxy bão hòa trong không gian được cân bằng, không đến nỗi quá nồng hoặc quá thấp.” Dường như để chứng minh cách giải thích của người trẻ tuổi ấy là chính xác, tầng dưới cùng, chỗ mấy dòng sông Phù sinh chảy ra bắt đầu sủi lên những bong bóng nước lớn, bọt nước sùng sục cơ hồ làm mặt hồ sôi lên, cả cánh bèo đá cũng khẽ lắc lư dao động.

Người trẻ tuổi giải thích câu nào câu nấy đều hết sức hợp lý, nhưng từ đó pháp sư Á La lại nhận ra một thông tin khác: “Người trẻ tuổi rốt cuộc vẫn là người trẻ tuổi, gã này dường như chỉ nôn nóng muốn người ta biết rằng, học thức của y uyên bác đến đâu, võ công của y cao thâm chừng nào. Nói không chừng, còn có thể moi ra một số thông tin hữu ích. Mẫn Mẫn và y rốt cuộc có quan hệ gì nhỉ?” Pháp sư từng nghe Trác Mộc Cường Ba nói, Mẫn Mẫn có người anh trai tên là Đường Thọ, vì chụp ảnh Tử kỳ lân mà đã phát điên nhưng xem xét trải nghiệm và cuốn sổ tay của anh ta để lại có thể thấy người trẻ tuổi tên là Đường Thọ ấy tương đối lợi hại, vì vậy khi kẻ này vừa xuất hiện, pháp sư Á La đã nghĩ ngay đến Đường Thọ. Nhưng nhìn quan hệ của Mẫn Mẫn và người trẻ tuổi này, dường như không giống anh trai và em gái cho lắm. Từ khi thân phận bị vạch trần, Mẫn Mẫn vẫn không nói một lời, còn người trẻ tuổi kia cũng không hề chú ý đặc biệt đến cô, ngược lại còn hơi đề phòng nữa, điều này khiến pháp sư Á La lấy làm khó hiểu.

Pháp sư Á La đưa mắt ra hiệu cho Lữ Cánh Nam, ý bảo cô nếu có cơ hội thì hãy khơi gợi cho người trẻ tuổi kia mở miệng. Lữ Cánh Nam cũng đưa mắt đáp lại, ý rằng đã hiểu. Mực nước dâng lên, bọn họ mới phát hiện đình trụ đá ấy không phải là một chậu lửa lớn, mà ở bốn góc có bốn chỗ khuyết, ngọn lửa cháy trong đó, thoạt nhìn giống như cả phần đỉnh trụ đá đều đang cháy hừng hực. Thực ra, cây trụ đá khổng lồ này vẫn chống đỡ cả đỉnh vòm như cột chính trong một căn lều vậy. Cây trụ cũng không phải hoàn toàn trơ trọi, bên dưới ngọn lửa, ba mặt của cây trụ lần lượt có ba bức phù điêu totem quái thú, chỉ có một mặt để trống. Cả ba con quái vật ấy đều có một thân hai đầu, trong đó hai con là thú, một con là chim, hình dạng quái dị khôn cùng, bọn lính đánh thuê đương nhiên chẳng kẻ nào nhận ra được.

Chỉ có pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam mới biết, những totem này chính là đại biểu Tứ phương thụy thú của Bạc Ba La thần miếu. Chỉ là… tại sao lại thiếu mất một phương? Pháp sư Á La lẳng lặng đưa mắt liếc nhìn người trẻ tuổi. Hiển nhiên y cũng nhận ra những con thú lành này, vả lại còn biết tại sao lại có một mặt để trống nữa.

“Tự nhận mình là tội nhân, vì vậy không muốn để lại bất cứ dấu tích nào hả? Suy nghĩ giống vua Maya quá, thật đáng thương thay cho Đại Bản Ba của bộ tộc Qua Ba hừ, các ngươi căn bản không lý giải được ý nghĩa đích thực của sự tồn tại!” Người trẻ tuổi thầm cười khẩy giễu cợt, rồi tập trung sự chú ý vào bốn chỗ khuyết ở gần bọn họ nhất.

Bên dưới bốn bức phù điêu khổng lồ, cách tấm bèo đá chỉ khoảng xấp xỉ mười mét, trên bốn mặt trụ đá còn có bốn chỗ khuyết nữa. Từ khoảng cách gần như vậy, họ có thể nhìn rõ bốn chỗ khuyết vào ấy chính là bốn cánh cửa. Từ sau khi ngọn lửa bùng lên, người trẻ tuổi không ngừng điều khiển cánh bèo đá xoay chuyển xung quanh trụ đá khổng lồ, hiển nhiên đang nghĩ xem nên chọn cánh của nào mới là thích hợp nhất. Lần đầu tiên pháp sư Á La để ý thấy y lộ ra thần sắc do dự. Rõ ràng, y cũng chưa từng đến Bạc Ba La thần miếu, chẳng qua chỉ nắm được một số đầu mối nào đấy mà bọn họ không biết, đồng thời, dường như đã biết một phần tuyến đường bên trong tòa thần miếu này nữa.

Người trẻ tuổi dừng lại ở mé phải mặt có bức phù điêu hình con chim hai đầu, chỗ này vừa khéo có một đoạn dây leo đen xuyên qua vách đá, bám vào bề mặt cột trụ. Chỉ nghe y nói: “Tao lên trên đó xem sao, chúng mày ở đây đợi.” Dứt lời, y liền bám vào mép cột leo lên.

Chỉ thoáng cái người trẻ tuổi ấy đã lên đến chỗ cửa kia rồi. Pháp sư Á La khẽ đảo mắt, Lữ Cánh Nam đứng lên. Khafu lập tức căng thẳng gắt: “Làm gì đó? Ngồi xuống!”

Lữ Cánh Nam vừa đứng lên lập tức lắc người né sang một bên, họng súng của Khafu dịch chuyển, không ngờ cũng theo kịp tốc độ của Lữ Cánh Nam, khẩu súng vẫn chặn ngay phía trước cô. Cô đưa tay ra gạt, song Khafu lại khéo léo đưa đẩy, nòng súng xoay một vòng quanh cổ tay Lữ Cánh Nam, rồi vẫn chắn ngay trước mặt cô. Trong một tích tắc, hai người đã lần lượt thay đổi năm sáu động tác, Lữ Cánh Nam không thể xông lên, nhưng Khafu cũng chẳng thể ép được cô lùi lại. Trước khi những tên lính đánh thuê kịp phản ứng, một bàn tay gầy gò đã đặt lên nòng nòng súng của Khafu. Khafu tức khắc cảm thấy khẩu súng trên tay nặng tựa khối đá nghìn cân, y kinh hoảng liếc nhìn pháp sư Á La, cơ hồ không dám tin ông già gầy guộc trước mắt mình sau khi bị thương như thế, vẫn còn sức mạnh đến nhường này!

Nhân cơ hội ấy, Lữ Cánh Nam đã lách người tránh khỏi nòng súng củ Khafu, nhanh nhẹn bám vào sợi dây đen leo lên, được chừng hai mét, cô ngoảng mặt xuống nói với Khafu: “Sợ ta bỏ chạy thì cứ việc nổ súng.” Khafu ngẩng đầu nhìn Lữ Cánh Nam, rồi lại nhìn pháp sư Á La, cuối cùng ngước mắt nhìn người trẻ tuổi đứng ở chỗ khuyết bên trên, hừ mạnh một tiếng, rồi trơ mắt ra nhìn Lữ Cánh Nam leo lên chỗ người trẻ tuổi đang đứng.

Người trẻ tuổi dường như không hề để tâm chuyện Lữ Cánh Nam có thể leo lên, thong dong cất tiếng như đang hỏi một người bạn cũ: “Cô nghĩ thế nào về những totem và cánh cửa này?”

Lữ Cánh Nam cũng điềm nhiên đáp: “Chúng là thần tế hộ của Tân Nhiêu. Trong truyền thuyết Bản giáo cổ xưa, tổ sư Bản giáo Tân Nhiêu cư trú ở Thiên giới, một hôm ngài đột nhiên nhận được thần khải, nói rằng khi thời cơ tới, hãy đến vùng cao nguyên tuyết truyền bá giáo lý Mật giáo cho vị Thất Xích vương đầu tiên, và hãy giúp đỡ cho vương triều, tăng lữ và giáo lý ở nơi đó. Khi tổ sư Tân Nhiêu cảm thấy thời cơ đã đến, ngài bèn quyết định đến Tây Tạng giúp đỡ Nhiếp Xích tán phổ. Bốn vị nữ thần tiễn ngài rời khỏi Thiên giới, ngài dẫn theo một con rồng, một con chim cánh vàng, một con sư tử, cũng có thuyết nói là một con rồng, một con chim ưng và một con sư tử. Ba loại thần thú này chính là tế hộ thần của Tân Nhiêu, hay còn gọi là chiến thần hộ thân, về sau, chịu ảnh hưởng của tư tưởng thú lành từ Trung Nguyên, cuối cùng đã hình thành ba loại tế hộ thần đặc biệt của Mật giáo: Tỳ Hưu, Kỳ Lân và Phượng Hoàng.”

Người trẻ tuổi gật gật đầu tỏ vẻ tán đồng, lại bổ sung thêm: “Trong truyền thuyết Tượng Hùng, tổ sư Bản giáo giúp đỡ cho Tượng Hùng vương, đồng thời, chiến thần hộ thân của Tân Nhiêu cũng không phải rồng, mà là voi.”

“Hình lập phương? Thế nghĩa là sao?” Có lẽ khi ngọn lửa cháy lên, cửa đá ở chỗ khuyết này đã mở ra, từ chỗ Lữ Cánh Nam đứng có thể nhìn thấy những bậc thang đi xuống và những hình lập phương điêu khắc trên khung cửa.

Người trẻ tuổi nói: “Trứng ánh sáng, quả trứng đản sinh ra vị vương của hiện tại, tượng trưng cho sinh tồn, ánh sáng và hy vọng, thông đạo dẫn xuống dưới kia hình xoắn ốc theo chiều bên phải hoặc chữ Vạn ngược, ừm, xem ra đúng là đường này rồi. Khafu, bảo tất cả lên đây, tiến vào cánh cửa này, xuống đến cuối cầu thang này có thể nghỉ ngơi một chút.”

Người trẻ tuổi gọi với xuống dưới, đột nhiên chau mày, dịch chân mình ra, nhìn chằm chằm xuống đất. Chỗ dưới chân y đứng đã bị thứ dây leo màu đen kia xuyên thủng, một khúc dây leo to tướng thay thế vị trí của nham thạch.

Vừa nãy y dường như cảm thấy dưới chân mình có gì đó nhích động, nhưng dịch bàn chân ra, lại chỉ thấy khúc dây leo đen sì sì, ngoài ra chẳng có gì khác. y cảnh giác liếc mắt nhìn sang Lữ Cánh Nam, song chỉ thấy cô cũng đang nhìn y chằm chằm với ánh mắt tò mò.

Người trẻ tuổi không hề biết, tuy y đã nắm bắt được các cơ quan bày ra trước mắt mình, nhưng vẫn đánh giá quá thấp trí tuệ của người Qua Ba cổ, tất cả các cơ quan cạm bẫy đều móc nối với nhau một cách chặt chẽ, gỡ được mối này, nhất định sẽ làm kinh động đến mắt xích tiếp theo.

Dưới đáy hồ, nơi tất cả không thể nhìn thấu được, vị chủ nhân của hồ tế đang lặng lẽ nằm yên. Vốn dĩ, nó vẫn đang chìm đắm trong giấc mộng nghìn năm dưới đáy hồ ấm áp, chấn động lớn lúc Cánh cửa Chúng sinh mở ra đã khiến nó khó chịu rồi; giờ đây ngọn lửa bùng lên, nước hồ lạnh buốt tràn vào, càng khiến cho vị chủ nhân ấy run cả lên! Chủ nhân hồ tế bừng bừng nổi giận! Có điều, giấc ngủ kéo dài cả nghìn năm và hệ thống thần kinh quá nguyên thủy khiến nó cần một thời gian tương đối để khôi phục hoàn toàn cơ năng sinh lý. Chỉ là, thời gian đó, chắc hẳn cũng không quá lâu!

Đối với vấn đề này, Trác Mộc Cường Ba và Merkin đã có trải nghiệm hết sức sâu sắc!

Merkin vẫn cẩn trọng làm việc một cách rành mạch và chậm rãi, như thể một ông thợ sửa đồng hồ già, còn Trác Mộc Cường Ba thì căng thẳng tột bậc nhìn sợi dây leo màu đen đang rút dần ra khỏi kẽ đá, từng đoạn, từng đoạn một…

Mỗi lần rút ra được một đoạn, phạm vi hoạt động của nó lại lớn thêm một chút, khoảng cách từ chỗ nó vươn xa nhất đến chỗ Trác Mộc Cường Ba và Merkin lại rút ngắn thêm một chút. Sau khi nghe Merkin tuyên bố, Trác Mộc Cường Ba không dám tấn công nữa, lại cũng không thể trốn tránh đi đâu được, chỉ biết trơ mắt trân trân nhìn thứ quái dị ấy mỗi lúc một nhích đến gần, cảm giác căng thẳng trong lòng cứ dâng lên từng nấc một. “Này, vẫn chưa xong à?” Trác Mộc Cường Ba không biết mình đã nhắc nhờ Merkin đến lần thứ mấy nhưng câu trả lời của Merkin thì lần nào cũng như lần nào: “Còn một chút nữa thôi.” Không biết một chút ấy của y rốt cuộc là bao lâu.

“Đã đến rồi.” Trác Mộc Cường Ba nói.

Merkin không buồn ngoảnh đầu lại, chỉ đáp gọn lỏn: “Ngăn nó lại!”

Trác Mộc Cường Ba nhìn khẩu súng trên tay, ước lượng độ dài, không được, vẫn không to bằng cái miệng ấy, không thể bạnh nó ra được, phải lấy thứ gì ngăn nó lại đây?

Cái miệng con quái vật hình dáng giống sợi dây leo khổng lồ màu đen đã vươn tới chỗ Trác Mộc Cường Ba, dường như nó cũng nhận biết được điều này, liền không rút mình ra nữa mà oằn oèo thân thể dài thượt, vươn cái đầu nhọn hoắt như đầu thăm dò tới. Khi còn cách Trác Mộc Cường Ba khoảng dăm mét, nó liền dựng lên như con rắn, “bành” một tiếng, cái miệng to tướng xòe rộng ra như tán ô, bốn cái càng bên trong hung hăng vung vẩy, những móc nhỏ và đầu lưỡi giống hệt xúc tu ra sức nhu động, chừng như muốn dọa Trác Mộc Cường Ba chết khiếp.

Trác Mộc Cường Ba đã có chuẩn bị tâm lý từ trước, thấy cái miệng vừa ngoác ra, gã liền giương súng tọng vào trong đó một loạt đạn, dù cái miệng ấy có là máy nghiền bằng kim loại thì cũng bị đạn của gã bắn cho thành một đống sắt thép phế thải, cả màng thịt do bốn cái càng kia căng ra cũng bị bắn cho thủng lỗ chỗ.

Món ngon đến miệng không ăn được lại xơi phải nguyên một băng đạn vào giữa mõm, con quái vật đùng đùng nổi giận, oằn mình một cái, vòng sang mé bên, động tác linh hoạt dị thường. Loạt đạn sau của Trác Mộc Cường Ba xả hết vào thân nó, tuy thân thể giống như khúc dây leo có thủng thêm vài lỗ, nhưng với tấm thân bồ tượng thì mấy viên đạn ấy chẳng khác nào vết kim châm, không tổn thương gì mấy.

Trác Mộc Cường Ba vội vàng điều chỉnh họng súng, nhưng con quái vật còn nhanh hơn, cái chụp màng thịt bị bắn rách thoắt cái đã vươn đến cạnh gã, bốn cái càng ngoe nguẩy vụt đến như lưỡi liềm.

Trác Mộc Cường Ba né được cú móc của “lưỡi liềm”, nhưng con quái vật tởm lợm vẫn còn lưỡi, những cái lưỡi có thể bắn vụt ra dài đến mấy mét giống lưỡi thằn lằn. Trong chớp mắt, cái lưỡi dài thượt ấy đã quấn lấy cánh tay và súng của Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba chẳng kháng cự nổi sức mạnh của mười mấy sợi xúc tu, vội buông khẩu súng ra, cánh tay chưa bị quấn nhanh chóng rút dao chém mạnh xuống. Chẳng ngờ, những sợi xúc tu này cực kỳ bền chắc, chém không đứt, chỉ có thể cắt dần. Trác Mộc Cường Ba nhanh chóng đưa đi đưa lại lưỡi dao mấy lượt, rốt cuộc cũng cắt được ba sợi xúc tu, kịp thời thoát thân khỏi cái lồng chụp bằng thịt trước khi bốn cái càng khép lại, nhưng cánh tay vẫn bị một cái móc nhỏ rạch cho một vệt dài. Gã không sao ngờ được rằng, cả những cái móc cũng có thể vươn dài chừng ấy!

Trác Mộc Cường Ba xoay mình nhảy tránh, những con quái thú không thừa thắng truy kích, ngược lại còn khép lông chụp của nó lại, dường như đang chem chép miệng, cẩn thận nếm thử mùi vị máu tươi. Chà, ngon hon lũ gián kia nhiều, quái vật hung phấn đến độ toàn thân run lên nhè nhẹ. Trác Mộc Cường Ba lấy làm khổ sở, rõ ràng đã bắn trúng không biết bao nhiêu phát vào giữa miệng con quái, vô số móc câu và xúc tu bị bắn nát, nhưng nó dường như chẳng có cảm giác gì. Xem chừng, hệ thống thần kinh của loài sinh vật này đúng là không hề phát triển. Một con quái vật không biết đau đớn là gì, hiển nhiên còn đáng sợ hơn trong dự liệu của gã bội phần. Sắc mặt Trác Mộc Cường Ba trở nên cực kỳ khó coi, gã hét toáng lên: “Vẫn chưa xong à?”

Merkin hân hoan reo lên: “Thấy ánh sáng rồi, thấy ánh sáng rồi!” Có ánh sáng từ phía bên kia bức tường Khổng Minh rọi qua. Trác Mộc Cường Ba lại lớn tiếng hỏi: “Có thể xô đổ được không, tôi sắp không chặn nổi nó rồi!”

Chỉ thấy con quái vật kia lại xòe rộng cái miệng to tướng của nó, “cạch” một tiếng, nôn khẩu súng của Trác Mộc Cường Ba ra, món này nó nhai không được, cộm răng. Trác Mộc Cường Ba đã rút ra một khẩu súng khác, mắt không ngừng lia qua lia lại tìm kiếm, rốt cuộc chỗ chí mạng của con quái này nằm ở đâu chứ? Loạt đạn vừa nãy bắn trúng cả miệng lẫn thân thể nó rồi, nhưng quái vật vẫn hoàn toàn vô sự, chẳng lẽ con khốn kiếp này không có nhược điểm nào chí mạng sao?

Lúc này tâm trạng Merkin rất thoải mái, chỉ còn một chút nữa là mở được bức tường Khổng Minh ra, y bèn ngoảnh đầu lại buông một câu: “Thế không được…” rồi thình lình sững sờ im bặt. Hóa ra y vừa khéo trông thấy cảnh tượng con quái vật xòe rộng cái miệng phun khẩu súng ra. Từ nãy đến giờ, y chỉ biết Trác Mộc Cường Ba đang chiến đấu với thứ gì đó, nhưng chưa từng nghĩ xem thứ đó rốt cuộc trông như thế nào, hoàn toàn không có chuẩn bị tâm lý, bèn lập tức kêu lên thành tiếng: “Đó là cái gì thế?”

Giọng Merkin lớn hơn một chút, con quái vật tức thì chuyển hướng cái lồng chụp nhằm thẳng về phía y. Nhìn rõ bốn cái càng cùng với những xúc tu và móc câu nhỏ trong cái miệng tởm lợm, Merkin lại thêm một phen kinh hãi! Trác Mộc Cường Ba nhân một thoáng rảnh tay ấy, nhanh chóng giải thích: “Tôi đã bảo với ông rồi còn gì? Đây chính là thứ giống như dây leo mà chúng ta nhìn thấy, lũ gián kia là thực phẩm của nó. Bọn gián ăn rong nước, ăn vi sinh vật, còn con quái vật này xơi lũ gián, kỹ thuật chăn nuôi sinh vật theo chuỗi thức án điển hình!” Trác Mộc Cường Ba vừa mở miệng nói chuyện, cái lồng chụp bằng màng thịt ấy lại nghiêng nghiêng chĩa về phía gã.

Merkin bấy giờ mới hiểu ra: “À! Đây chính là cái con “kubukubu” kia!”

“Đúng thế!” Trác Mộc Cường Ba chán chường nhếch mép lặp lại: “Nó chính là con ‘kubukubu’ đấy!”

Cái lồng chụp bằng thịt cứ đảo qua đảo lại giữa Trác Môc Cường Ba và Merkin, rốt cuộc vẫn lựa chọn Trác Mộc Cường Ba. Chút máu tươi vừa nãy còn đọng lại đầy dư vị trong miệng nó, mà cánh tay đang chảy máu của Trác Mộc Cường Ba chính là cội nguồn tỏa ra hương vị ấy. Hiển nhiên, những bông hoa nhỏ trông như miếng thịt trên thân nó không chỉ có mỗi một công năng phun ra màn sương mỏng mảnh.

Trác Mộc Cường Ba lại quần thảo một trận với cái lồng chụp, thấy Merkin vẫn đứng bần thần, gã liền quát lớn: “Còn không mau mở cửa đi!”

Merkin vội tiếp tục điều chuyển vị trí các viên gạch trên tường. Trác Mộc Cường Ba lách người trượt sang ngang, một tay vung dao lên chém mạnh, “soạt soạt”, rạch toác một mảng lớn trên màng thịt của cái lồng chụp. Nhưng kết quả ngược lại chỉ khiến những cái càng kia linh hoạt thêm. Cổ tay gã xoay một vòng, lại chém xuống một cái càng, chẳng ngờ lớp vỏ trông như càng cua ấy cứng hơn gã tưởng nhiều, nhát dao của Trác Mộc Cường Ba nảy bật lên. Cùng lúc ấy, cánh tay kia của gã vẫn cầm súng nhả đạn không ngừng, song cũng không gây ra tổn thương gì lớn cho con quái vật cả.

Con quái vật này quá đỗi linh hoạt, lại bám đuổi rất ráo riết, Trác Mộc Cường Ba đã mấy lần định rút lựu đạn ra ném mà không tìm được cơ hội. Đột nhiên, trong hốc tường có ánh sáng chiếu sang. Thì ra Merkin đã dịch được một viên gạch nữa. Gã liền đổ người ra đất lăn hai vòng, nhìn rõ tình hình trong hang động lúc này. Merkin lại dịch chuyển thêm được hai viên gạch khác, mở rộng lỗ hổng trên tường ra khoảng ba mươi xăng ti mét vuông. Thân thể dài thượt của con quái vật cuộn tới, Trác Mộc Cường Ba bật người vọt ra khỏi vòng vây, lúc đang ở trên không gã liền vứt dao đi, bây giờ mới rảnh tay ném được một quả lựu đạn. Trong lúc ấy, Merkin dịch chuyển được viên gạch thư tư và thứ năm, lỗ hổng rộng ra chừng năm mươi xăng ti mét.

Trác Mộc Cường Ba ném xong quả lựu đạn, thực tình không muốn dây dưa thêm với con quái vật đáng sợ này một giây một phút nào nữa, lập tức nhún người lên chui qua bức tường Khổng Minh còn chưa mở ra hết, đồng thời hét gọi Merkin: “Chạy mau!”

Merkin không ngờ tình thế đã khẩn cấp đến độ không đợi y mở hết cả bức tường, ngoảnh đầu nhìn lại, chỉ thấy cái miệng của con quái vật mở ngoác, khoảng hơn chục mét phía sau bị nổ ra một cái lỗ lớn, để lộ rất nhiều sợi màu trắng trông như sợi gân, song cái lỗ kia hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến năng lực hoạt động của nó. Mắt thấy cái miệng mở lớn ấy nhao về phía mình, Merkin cũng nhún người, chui qua lỗ hổng vừa mở ra trên tường như tuyển thủ bơi lội lao xuống nước.

Cái miệng quái vật bị kẹt bên ngoài lỗ hổng trên tường, chỉ bắn ra được hơn chục cái lưỡi như xúc tu, song cũng chẳng ích gì, đành hậm hực rụt trở về bên kia bức tường. Merkin thở phào nhẹ nhõm, nói: “Xong rồi.”

“Ai bảo thế?” Trác Mộc Cường Ba bên cạnh nói với ngữ khí vừa băng lạnh lại vừa nghiêm túc, “Hình như vẫn chưa xong đâu!”

CHỦ CỦA HỒ TẾ (2)

Merkin bấy giờ mới ngoảnh đầu nhìn hoàn cảnh mới. Trước mắt y là một đại sảnh khổng lồ hình bầu dục, giống như sân vận động tổ chức Thế vận hội, nhưng lớn hơn bất cứ sân vận động tổ chức Thế vận hội nào mà Merkin từng trông thấy không biết bao nhiêu lần. Chính giữa đại sảnh khổng lồ này, không ngờ lại có một hồ nước!

Đại sảnh cao bốn tầng, mỗi tầng đều có một hành lang hình vòng cung uốn lượn, ở rìa hành lang, cứ mỗi mười mét lại có một cái cột to hai người ôm, khiến cả gian đại sảnh thoạt nhìn giống một nhà hát ca kịch vĩ đại. Đỉnh vòm của đại sảnh được xây dựng theo thế mặt trời tỏa nắng, do một cây cột ở chính giữa, ước tính sơ bộ cao khoảng sái mươi đến bảy mươi mét chống đỡ. Nước đã dâng ngập hết tầng dưới cùng. Trong hồ lại có rất nhiều tượng Phật với đủ tạo hình khác nhau đứng sừng sững, trên mặt nước dập dềnh một lớp rong tảo, đa phần đã dung nhập làm một với những bức tượng Phật kia.

Phần đỉnh của cây trụ chính ở giữa, tất cả mảng tường bên trong các hành lang cùng một số vị trí trên các tượng Phật đều đang có lửa cháy phừng phừng, cả gian đại sảnh được ánh sáng bập bùng ấy chiếu rọi. Ánh sáng cũng khiến những sợi dây leo khổng lồ màu đen đang vung vẩy trên không tựa như nổi trận lôi đình kia hiện lên rõ mồn một trong mắt Merkin và Trác Mộc Cường Ba.

“Ừ, chó chết thật!” Merkin đần thối mặt, chỉ riêng ở trước mắt hai người bọn họ thôi, ít ra cũng phải có đến hai ba chục sợi dây leo khổng lồ khua quất loạn xạ, mà vẫn còn nhiều hơn thế nữa đang chầm chậm nhu động chừng như muốn rút ra khỏi các bức tường và tượng Phật. Không biết kẻ nào đã chọc giận bọn chúng, lũ quái vật ấy dường như đang ngó nghiêng khắp nơi tìm kiếm thứ để trút giận.

Chỉ một sợi đã khó đối phó như vậy rồi, trưóc mắt lại thình lình xuất hiện cả một bầy đàn, chẳng trách giọng nói của Trác Mộc Cường Ba lại băng lạnh đến thế. Những con quái vật dài thượt kia cũng ngay lập tức tìm được chỗ trút giận, chính là hai con côn trùng nhỏ đột nhiên chui từ trong tường ra, Trác Mộc Cường Ba và Merkin. Bọn chúng đã cảm tri được chấn động do hai người gây ra, hệ thần kinh đơn giản chỉ đưa ra một mệnh lệnh duy nhất: tiêu diệt!

Merkin nhìn Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Anh có cách gì không?”

“Cách gì?” Trác Mộc Cường Ba trừng mắt với Merkin, rồi lại nhìn sang mười mấy sợi dây leo đen đúa đang từ từ quây lại. Chỉ thấy, bọn chúng gần như cùng lúc xòe rộng màng thịt, để lộ cái miệng to tướng hung dữ, nhất tề lao bổ tới. Trác Mộc Cường Ba vội hét lớn: “Chạy mau!”

Hai người bắt đầu guồng chân lao đi trên hành lang hình bầu dục khổng lồ, xông qua khoảng cách mười nghìn mét với tốc độ của người chạy cự ly một trăm mét.

Những con quái vật dây leo đen đúa vươn thân hình ướt sũng lên khỏi hồ nước, phát động hết đợt tấn công này đến đợt tấn công khác, tựa như rắn bắt mồi, khiến Trác Mộc Cường Ba và Merkin khốn đốn hết nhảy lên rồi lại thụp xuống. Mới đầu, Merkin vẫn còn tràn trề hy vọng bảo Trác Mộc Cường Ba: “Nói không chừng chúng sẽ tự tàn sát lẫn nhau để tranh cướp chúng ta, đến lúc ấy hai chúng ta có thể thừa cơ tẩu thoát được, các loài sinh vật bậc thấp luôn luôn phạm phải sai lầm bậc thấp như thế.” Nhưng sau đó, Merkin nhanh chóng nhận ra mình đã sai. Những sợi dây leo đen kia phối hợp với nhau một cách hết sức chặt chẽ, cơ hồ không có kẽ hở, sợi này vừa tấn công xong, sợi khác đã bập đến ngay lập tức, phía trước chặn đánh, phía sau bám sát không buông. Hai nguời đạp tường, trượt sàn, ôm cột vòng qua, thậm chí còn nhảy cả xuống hồ, những chiêu trò có thể nghĩ ra được đều nghĩ hết cả rồi, nhưng vẫn không tài nào thoát được những đợt công kích dồn dập đợt sau hùng hậu hơn đợt trước của lũ quái vật.

Chẳng mấy chốc, công kích lại tăng thêm một bậc nữa, những sợi dây leo phá tường chui ra, vươn đầu khỏi vách tường gia nhập vào đội ngũ tấn công hai người. Merkin vừa không ngừng né tránh những cái càng như lưỡi liềm vung vẩy và những sợi xúc tu liên tiếp bắn ra, vừa càu nhàu: “Sao lại nhiều vậy? Đám người Qua Ba kia rốt cuộc đã nuôi bao nhiêu con quái vật kiểu này ở đây?”

Trác Mộc Cường Ba vừa chạy vừa nghĩ thầm: “Hồ tế, hồ tế, lẽ nào là chỉ cái hồ bên trong này. Phải rồi, vị trí của các tượng Phật trong hồ kia chẳng phải đúng như sắp xếp của một đàn tràng hay sao? Nhưng chủ của hồ tế không phải chỉ có một thôi sao? Lẽ nào trải qua nghìn năm, nó đã sinh sôi nảy nở, số lượng tăng lên?”

Cả gã và Merkin đều vắt óc suy nghĩ xem làm cách nào mới thoát khỏi được những đợt công kích liên tu bất tận đang ập đến kia.

Trong khi Trác Mộc Cường Ba và Merkin cắm đầu cắm cổ chạy thục mạng, đội ngũ lính đánh thuê đã đi hết các bậc thang, xuống đến tầng dưới cùng. Những bậc thang đi xuống dưới rất dài, mấy vòng trước đều phải đi chừng trăm mét mới có một chỗ ngoặt chín mươi độ, kế đó lại xuống bậc thang, rồi vòng sang trái, sang trái, sang trái, mỗi lần rẽ ngoặt, bậc thang lại ngắn hơn một chút. Cả bọn có cảm giác như thể đang đi bên trong vỏ một con ốc biển. Khi đến điểm thắt trung tâm, chẳng ai nhớ nổi mình đã rẽ ngoặt bao nhiêu vòng nữa. Sau đó, cả bọn lại bắt đầu ngoặt sang phải, rồi mỗi lần ngoặt bậc thang lại tương ứng dài ra một chút, nếu không phải các bậc thang luôn theo một chiều đi xuống, có lẽ cả đám đã cho rằng mình lại vòng theo đường cũ trở về rồi cũng nên.

Người trẻ tuổi thầm tính toán trong đầu: “Từ khởi điểm của vòng luân hồi chữ Vạn ngược, đi đến điểm cuối, hoàn thành quá trình vô tướng chuyển thân, chúng ta đã tiếp nhận tất cả các thử thách rồi, thần miếu cũng nên xuất hiện đi thôi.”

Ánh đèn đuốc bên ngoài chiếu xuống những bậc thang, nghĩ tới tầng đáy là có thể nghỉ ngơi bọn lính đánh thuê đều rảo chân bước rất nhanh, thoắt cái đã đến chân cầu thang. Nơi này là một gian phòng đá không rộng mấy, chỉ khoảng hai trăm mét vuông, sáu bảy chục tên lính đánh thuê đứng đã thấy hơi chen chúc. Chính giữa gian phòng đá đặt bốn hình hộp chữ nhật ghép từ các phiến đá, trông như thể bốn cỗ quan tài, bốn vách tường đều có bích họa vẽ toàn những quái thú và ác ma mà bọn lính đánh thuê chưa từng trông thấy bao giờ. Tám cây cột đen nhọn hoắt như con thoi vươn xuống từ đỉnh phòng. Ngoài cánh của đá để đi vào, bốn vách gian phòng này đều bít kín, xem chừng không còn lối ra vào nào khác.

Bọn lính đánh thuê lấy làm thất vọng, nhốn nháo đổ dồn ánh mắt nghi hoặc về phía người trẻ tuổi. Đây chính là Bạc Ba La thần miếu hay sao? Một căn phòng đá tồi tàn chẳng có thứ gì hết? So với những gì bọn họ trông thấy lúc trước, nơi nay chẳng thể nào so sánh được. Chỉ có một khả năng duy nhất, đó là lúc ở trước bốn cánh cửa, người trẻ tuổi đã chọn nhầm đường! Cả pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam cũng đồng quan điểm này, những hình vẽ trên tường và cả khối hộp chữ nhật ghép từ các phiến đá kia, rõ ràng không thuộc về giáo phái của họ.

Trái với những người khác, người trẻ tuổi lại có vẻ mừng rỡ ra mặt, y nhìn những bức họa trên tuờng đá, hân hoan nói: “Chính là đây rồi, không sai được.” Nói đoạn, y bắt đầu giải thích với bọn lính đánh thuê: “Đây là hình thức mộ táng của Tượng Hùng.” Y chỉ tay vào bốn khối hộp chữ nhật nói tiếp: “Ở đất Tạng và Tuợng Hùng cổ xưa, vẫn luôn dùng cách thần hóa những linh hồn đã chết, an táng những nhân vật lớn mạnh lúc sinh tiền vào các kiến trúc thần thánh, nhằm bảo vệ, phù hộ cho người đời sau. Hiển nhiên, khi người Qua Ba cổ xây dựng Bạc Ba La thần miếu cũng đã áp dụng cách làm này.” Nói tới đây, y lại chỉ vào những bức bích họa trên bốn vách tường: “Đây đều là các thần linh của Bản giáo cổ đại và Tượng Hùng, phỏng chừng, số chuyên gia từng được nhìn thấy chúng tính trên toàn thế giới cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay mà thôi. Những bức họa này lần lượt đại diện cho sự trung thành, dũng cảm, trí tuệ…, toàn bộ đều là các thần linh bảo vệ, phù hộ cho người trong gian phòng đá này có thể an toàn đến bờ bên kia.

Một tên lính đánh thuê chỉ tám cây cột màu đen trên trần nhà hỏi: “Đây là cái gì vậy? Totem?”

Người trẻ tuổỉ lắc đầu đáp: “Sao lại là totem được? Tao thấy khá giống với đám dây leo màu đen ngoài kia, nhìn thấy những bông hoa nhỏ màu đỏ kia không? Chắc là đầu mút của mấy sợi dây leo thôi. Đám dây leo này hiển nhiên rất thích mọc men theo những kẽ hở, không ngờ lại chọc cho chỗ này thủng lỗ chỗ khắp nơi.”

“Nhưng ở đây làm quái gì có gì?” Một tên lính đánh thuê khác kêu lẽn, đây mới là vấn đề mà bọn chúng quan tâm nhất.

Người trẻ tuổi cười khẩy nói: “Cả gian phòng này chính là một cơ quan.”

“Cơ quan ở đâu?” Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La không dễ bị gạt như đám lính đánh thuê đầu đất kia.

Người trẻ tuổi thần bí chỉ tay vào mấy cỗ quan tài đá trước mặt, buông một tiếng: “Ừm.” Thấy Lữ Cánh Nam chừng như muốn lập túc bửa ngay khối hình hộp chữ nhật ấy ra, y vội nói tiếp: “Ở yên đấy đã, đây là loại cơ quan chọn một trong bốn, chọn sai là hết cách, chỉ có thể quay ngược trở ra mà đi vào một cánh cửa khác.”

Pháp sư Á La chau mày, cả bốn cỗ quan tài bít bùng kín mít, nghe lối nói của người trẻ tuổi, hiển nhiẻn, mỗi phiến đá đều có khả năng phá hoại toàn bộ cơ quan, phải làm sao mới tìm được cỗ quan tài chính xác đây chứ? Bốn chọn một, vận may chiếm có hai mươi lăm phần trăm mà thôi.

Người trẻ tuổi lại thong dong nói: “Cũng may chúng ta có kỹ thuật hiện đại trợ giúp, không bao giờ đánh trận mà không chuẩn bị.” Nói đoạn, y đón từ tay Khafu một thiết bị nhỏ, trông khá giống chiếc máy siêu âm xách tay, lần lượt hướng về phía các cỗ quan tài đá tiến hành kiểm tra.

Mới kiểm tra được một nửa, chợt nghe có tiếng kêu lên: “Đó là cái gì thế?” Cả đám lính đánh thuê đều giật bắn mình, âm thanh ấy rõ ràng là giọng của Merkin.

Liền ngay sau đó lại vang lên một câu khác: “Ừm, nó chính là con ‘kubukubu’ đó!”

Giọng nói vang lên hết sức rõ ràng, cơ hồ lơ lửng ngay trên đầu cả bọn, người trẻ tuổi cũng không thể không dừng công việc dang dở lại, tìm kiếm nguồn gổc của âm thanh lạ.

Thoáng sau, cả bọn lại nghe thấy Trác Mộc Cuờng Ba kêu lên: “Chạy mau!” Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La và Mẫn Mẫn đều biến sắc, nửa mừng nửa lo. Người trẻ tuổi cũng lập tức chú ý đến những bông hoa nhỏ màu đỏ bám trên lớp vỏ xù xì của những dây leo đen, không khỏi tái mặt thốt lên: “m thanh mô phỏng!”

“Gì cơ?” Khafu từ đầu chí cuối vẫn luôn theo sát bên cạnh người trẻ tuổi.

“Tương tự như màu sắc ngụy trang vậy. Màu sắc ngụy trang là cách một số động vật hoặc thực vật hòa mình vào không gian xung quanh để tránh né các kẻ địch tự nhiên, còn âm thanh mô phỏng lại là thủ đoạn dẫn dụ vật săn của một số loài động thực vật săn mồi, chúng nắm bắt và ghi nhận những chấn động mạnh mẽ nhất trong không khí, sau đó tự rung động bản thân để mô phỏng chấn động không khí ấy, giống như một cái máy photocopy âm thanh vậy. Đây là một dạng hành vi vô thức, bản thân loài động thực vật săn mồi kia cũng không phải loại cao cấp gì, nhưng có thể phát ra âm thanh mô phỏng rõ ràng thế này, chỉ sợ là bọn chúng thuộc loài ăn thịt…” Người trẻ tuổi chợt giật mình hiểu ra, vội nhắc nhở đám lính đánh thuê đang đứng chen chúc “Cẩn thận, những sợi dây leo kia có thể cử động đấy!”

Có điều, lời nhắc nhở ấy dường như hơi muộn, người trẻ tuổi vừa mở miệng nói xong, mấy sợi dây leo đen đã “bụp, bụp, bụp, bụp”, lần lượt mở to cái lồng chụp bằng màng thịt, vươn ra bốn cái càng như càng gián, bổ nhào tới chỗ bọn lính đánh thuê.

Chỗ này vốn đã chật hẹp, bọn lính đánh thuê đứng ríu sát vào nhau lại không có sự chuẩn bị, những sợi dây leo đen kia chụp một phát ăn ngay, tức thì đã có tám tên lính đánh thuê bị cái lồng ấy úp lên đầu, cả người quấn trong màng thịt, không kịp kêu một tiếng. Những tên còn lại vẫn đang kinh hãi, chỉ thấy tám tên lính đánh thuê đó, có tên thì bị bọc kín toàn bộ, có tên lòi được hai cái chân ra ngoài giãy đạp mấy cái rồi cả bọn lần lượt bị những dây leo đen đúa ấy nhấc lên không trung, sau đó “sụt” một cái, thân thể biến mất toàn bộ cứ như người ta hút cọng mì vào miệng vậy.

Những sinh vật bậc thấp ấy cực kỳ phàm ăn, tám tên lính đánh thuê vào bụng xong lại lập tức xòe rộng màng thịt, vươn xuống như những cánh tay máy trong dây chuyền sán xuất. Lúc này, bọn lính đánh thuê đã định thần, nhao nhao nổ súng xạ kích, đồng thời áp sát vào nhau, tránh để những cái miệng to tướng đáng sợ kia hút vào. Nhất thời, tiếng súng vang lên không ngớt, tình thế cực kỳ hỗn loạn. Cơ hội! Lữ Cánh Nam liếc mắt nhìn sang phía pháp sư Á La, hỏi ông xem có nên nhân lúc rối ren này thoát đi hay không? Pháp sư Á La khẽ lắc đầu, ý nói vết thương của mình không cho phép vận động mạnh, chi bằng cứ đi theo người trẻ tuổi, xem xem thần miếu mà y nói rốt cuộc như thế nào.

Đôi mày ngài của Lữ Cánh Nam hơi nhíu lại, một ý nghĩ đột nhiên lóe lên trong đầu: “Lẽ nào người này đấu với pháp sư Á La một chiêu ấy, cũng là có ý đồ từ trước? Khiến pháp sư Á La trọng thương không thể hành động, từ đó cũng hạn chế hành động của mình? Tất cả mọi sự đều đã nằm trong tính toán của y hay sao? Nếu vậy thì tâm tư của kẻ này thực quá đáng sợ!” Mổi một bước đi y đều đã tính toán cẩn mật, căn bản không hề sợ cô bỏ trốn hay có ý đồ gì khác, thậm chí cả những khả năng mà đối thủ chưa nghĩ ra, y cũng đã đưa vào trong tính toán của mình rồi. Đối đầu với một kẻ như vậy, sẽ khiến người ta nảy sinh một thứ cảm giác bất lực, như thể dù giãy giụa vùng vằng thế nào, cũng vẫn bị đối thủ khống chế trong tay vậy. Nguời có thể khiến Lũ Cánh Nam có cảm giác này, cũng chỉ có tên lùn ở thành Tước Mẫu kia nữa mà thôi.

Những cái lồng chụp bằng màng thịt chẳng hề sợ súng đạn, mặc cho bọn lính đánh thuê xả đạn bắn thủng lỗ chỗ như cái sàng, chúng vẫn cứ bổ nhào đến xơi tái đối thủ không ngần ngại. Về điểm này thì Trác Mộc Cường Ba đã có trải nghiệm hết sức sâu sắc, giờ đến lựợt đám lính đánh thuê nếm mùi. Thoắt cái, đã lại có thêm ba tên lính đánh thuê nữa bị nuốt chửng. Một trong ba tên ấy còn suýt nữa đã thoát dược, sau khi ngã bổ nhào mới bị lôi ngược trở lại, chỉ nghe hắn rú gào thảm thiết, hai tay cào xuống nền đất, cảnh tượng khủng khiếp đó khiến đám lính đánh thuê còn lại tên nào tên nấy tái mét mặt mày.

Có một sợi dây leo bị bắn liên tiếp vào cùng một vị trí; cộng thêm vừa liên tiếp nuốt chửng hai tên lính đánh thuê còn chưa kịp tiêu hóa hết rốt cuộc không chịu nổi trọng lượng của chính mình, bắt đầu toác ra ở chỗ lỗ đạn, tên lính đánh thuê bị nuốt đầu tiên rơi “bịch” xuống đất như một bao xi măng. Mấy tên đồng bọn đứng quanh đấy vội nháo nhác lùi lại liền mấy bước. Cái chết của tên lính đánh thuê kia thực sự quá thảm thiết, toàn thân dính đẫm chất nhầy nhơn nhớt, hai mắt lồi ra, đáng sợ nhất là toàn bộ cơ thể hắn, cả áo chống đạn lẫn da thịt bên trong bị rạch vô số vết dài, sâu tận xương, sau đó lại bị nén ép cho vừa kích cỡ khoang miệng con quái vật, xương cốt bị ép cho vặn vẹo không còn nhận ra hình dạng ban đầu nữa.

Khafu nổi giận, giật khẩu súng của tên đứng bên cạnh, quét một loạt đạn dữ dội vào sợi dây leo sắp đứt lìa ra ấy. Đoạn dây leo đen đúa bị bắn rơi xuống, chẳng ngờ vẫn không chết hẳn, vừa chạm đất liền bật tung lên, lao bổ về phía tên lính đánh thuê đứng gần nó nhất, động tác linh hoạt như một con cá trạch. Tên lính đánh thuê kia còn chưa bị đoạn dây leo chạm vào đã sợ hãi kêu toáng lên. Mắt thấy đoạn dây leo đen bắn ra mấy sợi xúc tu quấn lấy hai chân minh, tên lính đánh thuê xui xẻo càng thêm hoảng loạn, đang định giơ súng lên bắn nhầu thì bị người trẻ tuổi kia vung tay đánh bay khẩu súng đi, kế đó hai tay y vuốt vào chỗ eo hông tên lính đánh thuê một cái, lúc rút tay ra, mỗi bàn tay đã móc vào hai quả lựu đạn, quăng thẳng xuống chỗ “con cá trạch” đang quẫy loạn dưới đất.

Lữ Cánh Nam để ý thấy, không hiểu nguởi trẻ tuổi kia sử dụng thủ pháp gì, khi lựu đạn trên tay rõ ràng vẫn chưa rút chốt, nhưng trong khoảnh khắc quả lựu đạn rời khỏi lòng bàn tay y, chốt khóa lại tự động tuột ra, kỹ thuật thực thần kỳ hết sức. “Thuật ném lựu đạn một tay!” Lữ Cánh Nam nhủ thầm trong óc.

Bốn quả lựu đạn nối thành một đường thẳng, lần lượt rơi vào cái miệng to tướng ghê tởm, kế đó là một loạt tiếng “bùm bùm” vang lên, con “cá trạch” bị nổ thành một đống thịt vụn, không thể tấn công ai được nữa. Có điều những miếng thịt vụn ấy vẫn không ngừng ngọ nguậy. Bọn lính đánh thuê bị nước thịt nhầy nhụa bắn đầy đầu đầy mặt đều kinh hoàng đến sững sờ, đây rốt cuộc là thứ quái vật gì vậy!

Người trẻ tuổi quát: “Đồ ngu, đừng bắn bọn chúng rơi xuống, không thấy rễ của chúng đều kẹt trong đá, không thể nhúc nhích được hả? Tránh xa ra, đừng để chúng tóm được là xong. Những sinh vật bậc thấp này chỉ bắt mồi theo bản nảng, hệ thống thần kinh chậm chạp khiến chúng không hề biết đau đớn là gì đâu. Vả lại, chi cần nhìn hình dạng dài thượt này của nó, đủ biết đây là sinh vật có hệ thần kinh dạng vòng, mày bắn nó xuống, ngược lại còn giải phóng nó. Dựa vào phản ứng thần kinh bản năng, đoạn dây leo đứt ra vẫn có thể ăn thịt được mày như thuờng.”

Khafu lấy làm khó hiểu hỏi: “Sao lại thế?”

Người trẻ tuổi nói: “Sinh vật bậc thấp không cần bộ não, mỗi bộ phận trên thân thể đều có thể vận động nhờ vào hệ thống thần kinh riêng biệt, giống như cái đuôi của con thạch sùng vậy, đứt rồi vẫn có thể ngọ nguậy; chân của một số loài nhện bị cắt lìa khỏi cơ thể vẫn co duỗi được; đầu rắn bị chặt xuống cũng vẫn có thể nhảy bật lên cắn người. Điều tao lấy làm lạ là âm thanh lúc nãy, tại sao tất cả các dây leo này đều biết phát ra những âm thanh giống nhau như thế?”

Nói tới đây, y bỗng sực hiểu ra, không khỏi hít vào một hơi khí lạnh: “Tao hiểu rồi, những dây leo này không phải những sinh thể tồn tại đơn độc, bọn chúng chỉ là một số xúc tu, là cơ quan săn mồi, con quái vật này có vô số cánh tay xúc tu, kiểu như con hải quỳ vậy, những dây leo màu đen kia có chung một thân thể, tất cả dinh dưỡng được chia đều! Ma Long Tán của phương Bắc thì ra là thế này, cũng may lúc chúng ta đi qua mặt hồ không làm nó thức tỉnh.” “Kubukubu”, nghĩ đến cái tên Merkin đặt cho con quái vật này, khóe miệng người trẻ tuổi hơi nhếch lên một chút. Thấy bọn lính đánh thuê đã ổn định trở lại, y lại bắt đầu thăm dò những cỗ quan tài đá.

Bọn lính đánh thuê nghe theo mệnh lệnh của người trẻ tuối, nhốn nháo chen chúc vào những góc mà đám dây leo không vươn tới được. Tên nào tránh không đủ xa, bị dây leo bắn xúc tu ra quấn lấy, lập tức có bảy tám tên khác tràn lên giúp sức, kẻ thì kéo lại, kẻ rút dao ra cắt những sợi xúc tu dai nhách, quyết liệt giằng co với đám dây leo quái dị, rốt cuộc cũng không có thêm thuơng vong nào nữa.

Ở khu vực trung tâm, chỉ có mình người trẻ tuổi cầm thiết bị thăm dò, mỗi lần có dây leo tấn công, không để ai kịp thấy y có động tác gì, y đã nhẹ nhàng thoát ra khỏi phạm vi tấn công của chúng rồi. Sau mấy lần liên tiếp, không hiểu người trẻ tuổi đã phát hiện ra bí mật của đám dây leo đen, hay chúng đã từ bỏ tấn công y, tóm lại, dường như những sợi dây leo hoàn toàn không cảm giác được sự tồn tại của y nữa, mà dồn hết sự chú ý lên đám lính đánh thuê đang ẩn nấp trong góc.

“Tìm được rồi” Người trẻ tuổi vừa thốt lên, những sợi dây leo lại bổ tới tấn công. Y thậm chí không buồn ngẩng đầu lên, đã giật chốt quả lựu đạn cầm trên tay, nhanh chóng ném vút ra. Thời gian phát nổ được y tính toán rất chuẩn xác, quả lựu đạn vừa khéo làm nổ tung cả đoạn trước sợi dây leo cùng toàn bộ màng thịt đang xòe rộng, phần còn lại tự nhiên không thể gây tổn thương gì cho y được nữa.

Sau mấy lần tấn công vô ích, đám dây leo đen dường như đã quyết định rút lui. Bọn lính đánh thuê thấy trên bề mặt dây leo xuất hiện những đợt sóng nhu động cuồn cuộn, rồi nó từ từ rút vào bên trong kẽ đá. Người tré tuổi lúc này đang đứng bên cạnh cỗ quan tài đá được chọn, gõ gõ đập đập, chừng như đã phát hiện ra chốt lẫy phát động cơ quan. Y tìm ra một phiến đá, đưa tay kéo ra ngoài, cả cỗ quan tài liền rời ra thành từng mảnh, các phiến đá rơi vung vãi duới đất. Bên trong quan tài không có xương cốt mà đặt một thứ hình trụ tròn, hai đầu phình to, ở giữa hơi thắt lại, đường kính khoảng hai muơi đến ba mươi xăng ti mét, hình dạng rất giống quân xe trong môn cờ vua. Trên đỉnh hình trụ ấy có một lỗ hình tròn theo phương ngang, phỏng chừng có thể xuyên một cây trúc qua.

“Mày, mày, qua đây.” Người trẻ tuổi gọi hai tên lính đánh thuê thể hình cuờng tráng bước lên, xuyên nòng súng qua cái lỗ tròn, rồi bảo hai tên lần lượt đứng ở hai đầu chỉ tay vào cái lỗ nói: “Đẩy đi!”

Pháp sư Á La thấy Lữ Cánh Nam đứng bên cạnh nhíu chặt hai hàng lông mày lại, liền nói với cô: “Bạc Ba La thần miếu là nơi cất giữ báu vật, để tránh bị người bên ngoài làm vấy bẩn, thiết kế cơ quan có phức tạp một chút cũng là chuyện hết sức bình thường.”

Lữ Cánh Nam lắc đầu: “Có thể tìm ra cái chốt duy nhất chống đỡ toàn bộ cỗ quan tài đá giữa bao nhiêu phiến đá như vậy, nhãn lực của kẻ này còn lợi hại hơn những gì con nghĩ nữa.”

Pháp sư Á La giờ mới hiểu tại sao Lữ Cánh Nam lại lo lắng, cũng không nén được tiếng thở dài: “Đúng thế, nếu có pháp sư Tháp Tây ở đây thì tốt biết mấy.”

Hai tên lính đánh thuê đẩy cái trụ tròn như người ta đẩy cối xay. Nào ngờ, khi cái trụ chầm chậm nhích động, cả gian phòng bắt đầu nghiêng đi. Bọn lính đánh thuê đều hơi hoảng loạn, đám dây leo màu đen dường như cũng cảm giác được gì đó, lại càng rụt về nhanh hơn.

TIẾN VÀO BẠC BA LA THẦN MIẾU

Người trẻ tuổi dường như sực nhớ ra gì đó, bèn rút máy tính bỏ túi ra sắc mặt trầm xuống, thầm nhủ: “Bị cầm chân lại đó rồi hả? Hy vọng đừng xảy ra chuyện gì ngoài ý muốn, tao rất coi trọng hai chúng mày đấy, đừng để tao thất vọng nhé, Merkin, Trác Mộc Cường Ba.”

Cả gian phòng đá đã nghiêng đi được chừng ba muơi độ, một số tên lính đánh thuê buộc phải bám vào tuờng hoặc quan tài đá để trụ vững. Gian phòng bắt đầu rung lên khe khẽ, tựa như có thứ gì to lớn và nặng nề lắm cuối cùng cũng được đặt xuống đất. Tiếp đó, lại thêm một trận rung động nữa, gian phòng đá dường như bắt đầu trượt xuống theo mặt phẳng nghiêng, hai tên lính đánh thuê đang đẩy cái trụ tròn dừng lại hỏi: “Có tiếp tục đẩy nữa không, thưa ngài?”

Người trẻ tuổi lắc đầu: “Tạm thời không cần nữa, nhớ kỹ, tiếp sau đây sẽ là quá trình gia tốc, chúng mày cảm thấy tốc độ nhanh đến mấy cũng tuyệt đối không được buông tay ra, ba cỗ quan tài đá còn lại hẳn dùng để theo dõi chuyển động của gian phòng đá này, nếu phát hiện chúng bị vỡ tung ra vì chấn động do gia tốc gây nên, chúng mày phải phải lập tức nghĩ cách đẩy cái trụ đá theo huớng ngược lại, đã hiểu chưa?”

Hai tên lính đánh thuê gật đầu tỏ ý đã hiểu. Gian phòng đá chuyển động rất chậm chạp, bảy sợi dây leo đen trên trần nhà chưa rụt hết về, vẫn đang kiên trì, vùng vẫy, nhưng sức lực của chúng làm sao bì được với trọng lượng của cả gian phòng đá cộng thêm đám người lúc nhúc ở bên trong. Dưới súc kéo của gian phòng đá, từng sợi dây leo bị giật đứt, phần đầu nhọn như mũi khoan rơi bình bịch xuống sàn, khiến bọn lính đánh thuê đều kinh hoảng nhảy lùi ra sau né tránh. Có điều, lần này những đoạn dày leo đen bị nghiến cho đứt đoạn rơi xuống dường như đã bị thương tổn đến các đốt thần kinh, không còn thấy nhúc nhích gì nữa.

Thể lực của Merkin đã tiêu hao quá nửa lúc quần thảo với Trác Mộc Cường Ba trong hầm tối, vẫn chưa kịp hoàn toàn hồi phục, lần ruợt đuổi này khiến y có cảm giác, đến chút tiềm lực cuối cùng mình cũng sắp dùng hết rồi. Nghĩ đoạn, y lại đưa mắt liếc nhìn bộ dạng Trác Mộc Cường Ba, vừa nhìn là biết Trác Mộc Cuờng Ba hẳn cũng đã chịu đựng đến cực hạn. Bọn họ đã chạy xung quanh hành lang hình tròn này không biết đến vòng thứ ba hay vòng thứ tư nữa, căn bản là không biết rốt cuộc đã chạy được bao xa, còn sức lực của những dây leo đen quái quỷ kia thì dường như vô cùng tận.

Trác Mộc Cường Ba vừa nghiến răng cầm cự, vừa nghĩ xem làm cách nào thoát khỏi nguy cơ. Huớng tấn công của đám dây leo khốn kiếp này không có góc chết, chúng có thể quấn trên cột trụ, có thể chui từ trong vách tường ra, sức mạnh vô cùng, thân thể lỉnh hoạt, khuyết điểm duy nhất chính là thể hình quá lớn, vậy mới để gã và Merkin có cơ hội hết lần này đến lần khác thoát hiểm trong gang tấc. Thể hình quá lớn! Gượm đã, Trác Mộc Cường Ba dường như đã nhìn ra được sơ hở gì đó từ thể hình khổng 1ồ của đối phương, gã đột nhiên nói với Merkin: “Nghĩ cách lên trên, đi trên tầng trên rồi, thể hình chúng lớn quá, trọng lượng quá nặng, không lên được.”

Merkin lập tức hiểu ý, loại dây leo khổng lồ này quá kềnh càng nặng nề, chỉ có thể nghển lên khỏi mặt đất một độ cao nhất định, ở dưới hồ, nhờ vào lực đẩy củ nước chúng mới có thể co duỗi linh hoạt như vậy, còn trên mặt đất, chúng không thể không quấn vào một số loại cột đá, hoặc men theo các lỗ hổng trên tường để mượn lực bò lên. Y nghiến răng nói: “Chẳng trách bọn này lại thích chui rúc trong tường như thế.”

Nói là một chuyện, làm lại là một chuyện khác, những dây leo to tướng đã vây kín bên ngoài hành lang, cơ hồ giọt nước cũng khó mà lọt qua được, muốn lên được tầng trên, hai người bọn họ gần như sẽ phải lướt qua sát sàn sạt trước vô số cái miệng khổng lồ đang há to, chỉ cần bị bất cứ cái móc nào móc phải là có thể nói “bye bye” với Bạc Ba La thần miếu dược rồi.

Trác Mộc Cuờng Ba lo lắng, cứ tiếp tục chạy thế này, thể lực của họ sẽ không đủ để chạy lên tầng trên nữa, vội hét lớn: “Lên”, rồi xông về phía một cây cột hành lang, còn Merkin cũng xoay người lao về phía một cây cột khác.

Động tác của hai người gần như giống hệt nhau, đều là một chân đạp mạnh vào cột, mượn sức bật lên, vươn tay móc vào mép hành lang tầng trên, rồi lộn nguời là có thể leo lên. Trác Mộc Cường Ba tuơng đối may mắn, lúc gã lộn người lên không bị những sợi dây leo tóm trúng, nhưng Merkin thì không được tốt số như vậy, giữa không trung, một sợi dây leo đen đúa vung mạnh thân thể to tướng, quất mạnh vào Merkin, quét y bật ngược trở về.

Merkin chỉ kịp cảm thấy một luồng sức mạnh khổng lồ ập đến, thân thể đã bị nhấc bổng lên không, mắt thấy mình sắp bị quăng về phía một sợi dây leo khác đang há ngoác miệng, y vội vàng rút dao ra, cắm thẳng vào thân sợi dây leo vừa quét trúng mình, sau đó mặc cho sợi dây leo ấy vùng vẫy quằn quại thế nào, y cũng nắm chặt cán dao, nhất quyết không chịu buông tay.

Trác Mộc Cường Ba vừa lên được tầng trên, lại nhảy bật lên một cú nữa, lộn người lên tầng cao nhất, ngoảnh đầu nhìn lại liền thấy Merkin bị quăng qua quăng lại giữa lưng chừng không, tình thế hết sức nguy cấp. Gã vội rút vũ khí, vừa bắn hạ những sợi dây leo đang có ý đồ tiếp cận Merkin, đồng thời hét lớn: “Mau lên đây, Merkin!”

“Tôi lên được chắc!” Merkin thầm kêu khổ không thôi, nhắm chuẩn một cơ hội, mượn sức quăng quật của dây leo, buông tay bay vút ra, loạng choạng rơi xuống hành lang tầng thứ tư thở hổn hển.

Những gai nhọn trên thân dây leo kia hiển nhiên cũng không đơn giản chỉ là chân giả, trên áo chống đạn của Merkin chúng đã để lại một hàng vết cào sâu hoắm.

“An toàn chưa?” Merkin ngồi phệt duới đất hỏi Trác Mộc Cường Ba.

“Hy vọng là thế.” Câu trả lời của Trác Mộc Cường Ba chẳng khiến người nghe hài lòng chút nào.

Merkin đến bên mép hành lang, chỉ thấy đám dây leo đen đúa đang nhao nhao quấn lên cột đá, khí thế như thể không bắt được bọn họ thì quyết không buông tha.

Trác Mộc Cường Ba lấy làm khó hiểu hỏi: “Rốt cuộc là chuyện gì vậy?”

Merkin đáp: “Hình thái sống nguyên thủy, bắt mồi, ăn, bài tiết.”

Trác Mộc Cường Ba đáp: “Không, bọn chúng có nguồn thức ăn cố định, nếu không thì đã chết từ lâu rồi, không có lẽ nào lại nhất quyết đuổi giết không tha chúng ta như thế. Vừa nãy, chúng ta đang ở trong phạm vi tấn công của chúng thì còn lý giải được, giờ hai ta đã thoát khỏi phạm vi tấn công ấy rồi, bọn chúng phải buông tha mới phải chứ. Còn nữa, ông xem đi, nếu chúng thực sự muốn bám theo cột đá bò lên trên này, với khả năng cơ động cúa chúng, chắc cũng không đến nổi chậm như vậy, phải không?”

Merkin nghĩ lại, tốc độ của những sợi dây leo kia quả hết sức chậm chạp, so với những đợt tấn công như bão táp vừa nãy thì khác nhau một trời một vực. Cảm giác như thể bên duới những sợi-dây leo kia bị đeo vào thứ gì đó hết sức nặng nề vậy. Y ngẫm nghĩ một thoáng rồi mừng rỡ nói: “Tôi hiểu rồi, người Qua Ba cổ đại đã xích những thứ này dưới đáy hồ, khiến chúng không thể tự do hoạt động được.”

Trác Mộc Cường Ba khe khẽ gật đầu, có lẽ Merkin có lý, chỉ có một điểm gã vẫn chưa hiểu cho lắm, lẽ nào một nghìn năm truớc, người Qua Ba cổ đại đã xích từng ấy sợi dây leo quái dị này xuống đáy hồ rồi ư? Theo như đoạn văn bia kia ghi lại, chủ của hồ tế chỉ có một thôi mà!

Hai người dĩ nhiên không thể biết được, những đoạn dây leo quấn chặt lấy cột hành lang, hoàn toàn không phải vì muốn bắt bọn họ xơi tái, mà vì một lượng lớn nước lạnh tràn vào duới đáy hồ đã khiến vị chủ nhân của hồ tế lạnh đến không thế chịu nổi và muốn trồi lên mặt nước theo bản năng mà thôi. Chỉ là, thân thể của nó quá khổng lồ, cho dù muốn dịch chuyển trong nước cũng cực kỳ khó khăn.

Thấy nguy cơ đã tạm thời qua đi, Trác Mộc Cường Ba và Merkin tranh thủ khôi phục lại thể lực, đồng thời bắt đầu quan sát gian sảnh lớn. Gian sảnh này so với hành lang dưới đáy hồ lúc nãy hiển nhiên là tàn tạ hơn rất nhiều, vách tuờng và mái vòm bị nước hồ xối rửa trơ trốc, để lộ ra dấu vết nhân công đục đẽo hang đá nguyên thủy. Có điều, nó rất lớn, rất hùng vĩ! Dù là bản thân đại sảnh hay những tuợng Phật lớn san sát dưới hồ, tất cả đều toát lên khí phách ngùn ngụt khiến người ta phải sững sờ. Nghĩ đến cảnh tượng năm xưa khi đại sảnh này mới hoàn thành, các bức Phật họa trên vách vẫn còn nguyên vẹn, tượng Phật sơn son thếp vàng, đèn đuốc sáng ngời phản chiếu xuống nước hồ, nếu không có những quái vật đang quằn quại vùng vẫy kia, thử hỏi khí thế phải lớn đến chừng nào! Huống hồ, lại còn cả cây cột ở giữa hồ kia nữa. Cũng chỉ có trong gian đại đại sảnh khổng lồ cỡ này mới có thể nhìn thấy một cây cột vĩ đại chu vi đến gần trăm mét như thế. Nếu khoét các lỗ nhỏ trên bốn mặt trơn nhẵn của nó, thoạt nhìn có khác gì tòa nhà cao chọc trời đâu chứ?

Những sợi dây leo được gọi là “kubukubu” đâm chọc khắp nơi, bốn vách tường và các tượng Phật đều bị chúng đâm xuyên qua, trông chẳng còn hình dạng ban đầu nữa. Nếu không có ánh lửa chiếu sáng, Trác Mộc Cuờng Ba và Merkin đều đoán định, chắc chắn mình không thể thoát chết.

Merkin tò mò bước lại gần một bát lửa, xem bên trong rốt cuộc là vật chất gì đang cháy. Chỉ thấy trong bát là một khối chất rắn, trông như một cục sáp nến chưa tan hay một thứ vật chất dạng keo. Từ trong vách đá, có một lỗ nhỏ đang không ngừng tiết ra thứ vật chất này. Merkin lấy mũi súng khêu lấy một tí, chất keo sệt lập túc bùng cháy ngay trên mũi súng. Lúc y nhấc mũi súng lên, thấy kéo ra những sợi tơ mảnh, thoạt trông như sợi bông thuốc súng đang cháy. Cùng với quá trình đốt cháy, thứ vật chất ấy không ngừng tan ra, một phần hóa thành chất lỏng, vừa cháy vừa rơi xuống đất, tạo ra một mảng lửa nhỏ cháy bừng bừng.

“Đây là gì vậy?” Trác Mộc Cường Ba hỏi.

Merkin lắc đầu: “Tôi cũng không biết. Chắc là một loại thể rắn cháy được nào đấy, có lẽ hình thành do ảnh hưởng của địa nhiệt và núi lửa, kiểu như loại băng có thể cháy được dưới đáy biển ấy, trải qua đè nén biến dạng, trong điều kiện thích hợp liền tạo nên một loại năng lượng rắn cháy được.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Nếu không biết thì đừng nghiên cứu nữa, giờ chúng ta cần phải nghĩ xem làm thế nào để thoát khỏi đây?”

“Tìm thấy đuờng ra rồi à?” Merkin đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, vừa nãy bọn họ chạy vòng quanh hành lang, phát hiện thấy nơi này ngoài đường sông thì không còn lối ra nào khác. Sở dĩ bọn họ từ đầu chí cuối vẫn không rời khỏi gian đại sảnh này, chính vì những dòng sông kia đều chảy vào đây, nếu cứ men theo bờ sông đi ngược lên hiển nhiên là sẽ trở ra ngoài, nói không chừng sẽ không bao giờ có cơ hội tiến vào trung tâm Bạc Ba La thần miếu nữa cũng nên.

Trác Mộc Cường Ba chỉ vào cây cột lớn nhất nói: “Xem ra chỉ còn chỗ kia thôi.” Suy nghĩ của gã cũng rất đơn giản, tại sao người xưa phải xây một cái cột to như vậy? Hiển nhiên là bên trong cây cột ấy có bố trí đường hầm. Trong gian đại sảnh này, ngoại trừ qua cây cột đó, chỉ còn cách lặn xuống đáy hồ tìm lối ra, mà đáy hồ này thì… Trác Mộc Cường Ba thậm chí còn không muốn nghĩ đến. Ý nghĩ ấy lóe lên trong đầu, Trác Mộc Cường Ba bèn giơ ống nhòm điện tử lên quan sát, kết quả đúng như gã dự đoán, chỉ là bên trên có thêm ba cánh cửa khác nữa.

Merkin cũng nghĩ đến khả năng này, y đón lấy ống nhòm trên tay Trác Mộc Cường Ba, băn khoản hỏi: “Nhưng chúng ta làm sao qua bên đó được?”

Lúc nãy, khi chạy thục mạng, trông thấy những phiến đá nổi dập dềnh mà đám lính đánh thuê chưa sử dụng, hai người đã nghĩ đây là phương tiện để đi ra giữa hồ rồi, nhưng cho dù biết thì sao? Trong tình hình lúc đó, dừng nói là ra giữa hồ, chỉ riêng chuyện đến gần bờ hồ đối với họ đã là chí mạng rồi. Tình thế trước mắt cũng vậy, tuy có rất nhiều dây leo đã quấn lên cột hành lang, nhưng dưới nước vẫn tua tủa không biết bao nhiêu sợi dây leo khác, thoạt trông như vô số những cây cọc màu đen lờ mờ đâm qua xuyên lại, chốc chốc lại có một cây cọc đột nhiên xòe rộng cái miệng to tướng của nó ra, cảnh tượng cực kỳ quái dị. Trác Mộc Cường Ba ngẩng đầu nhìn lên những đường tỏa ra như tia nắng trên trần, hỏi ý kiến Merkin: “Đi phía bên trên được không?”

Merkin cả kinh, thốt lên: “Ý anh là, đeo người lơ lửng bám trần leo qua đó?” Đây là phương pháp cực đoan nhất, nguy hiểm nhất trong các kỹ thuật leo bám vách đá, thân thể hoàn toàn lơ lửng trên không trung, chỉ dựa vào Sức lực của các ngón tay bám vào khe nứt trên đỉnh đầu, cho dù là cao thủ leo núi đỉnh cao có sức ngón tay mạnh đến mấy, dùng phương pháp này mà dịch chuyển được tầm trăm mét là đã giỏi lắm rồi. Phỏng chừng khoảng cách từ chỗ họ đến giữa hồ cũng tương đối xa. Merkin lắc đầu nói: “Không được, với thể lực hiện nay của tôi, không đủ để cầm cự ra đến giữa hồ. Nếu để rơi xuống dưới…” Y liếc nhìn những cái miệng đang há ngoác ra dưới nước, lo lắng nói: “Thì không hay lắm đâu.”

“Chẳng lẽ chúng ta chỉ biết nhìn thế này thôi à?” Trác Mộc Cường Ba hơi bực bội, gã tháo ba lô xuống hỏi Merkin, “Các người có chuẩn bị công cụ gì không?”

Merkin cười khổ hỏi lại: “Vậy các anh đã chuẩn bị những công cụ gì rồi?”

Cả hai tắc tị, không nói được gì nữa. Họ đều chưa từng đến Bạc Ba La thần miếu, căn bản không thể tưởng tượng nổi quang cảnh bên trong thế nào. Những thứ công cụ mà họ chuẩn bị, dùng để thăm dò các kiến trúc cổ bình thường thì hoàn toàn đủ, nhưng ai có thể nghĩ ra trong Bạc Ba La thần miếu lại có một gian đại sảnh khổng lồ như thế này? Lớn đến mức chứa được cả một hồ nước bên trong. Mà đám người cổ đại ấy lại còn nuôi dưỡng ra thứ sinh vật kỳ quái cả vũ khí hiện đại cũng chẳng thể làm gì nổi dưới kia nữa. Merkin có chuẩn bị súng bắn dây nhưng độ dài dây thừng cùng lắm cũng chỉ được hai trăm mét, mà khẩu súng ấy lại không để trong cái ba lô này. Trác Mộc Cuờng Ba có dây móc, nhưng sử dụng thiết bị này ở trần phẳng đã cần kỹ xảo cực cao rồi, huống hồ nơi này lại là mái vòm hình bán cầu, dây móc bắn ra, thu về, rồi bắn ra lần nữa căn bản không thể chạm tới đỉnh vòm.

“Anh chọn đi đường nào chưa?” Merkin đi vòng một đoạn hành lang, cũng chú ý đến bốn cánh cửa ấy, liền chuyển sang chủ đề khác.

“Ừm,” Trác Mộc Cường Ba khẳng định, “ông nhìn cái cột đá đó xem, ba mặt đều có dã thú, chỉ có mặt kia là không, chọn cánh cửa ở mé bên phải mặt tường không có gì ấy.” Giác quan thứ sáu của Trác Mộc Cường Ba có thể nói là không tồi, gã không chút do dự chọn ngay cánh cửa Đền Tội.

Có lẽ bị vẻ quả quyết của Trác Mộc Cường Ba tác động, hơn nữa đằng nào cũng phải chọn một cánh cửa. Merkin cũng tán đồng luôn. Quái thú trên ba mặt tường kia to lớn như thế, trông lại hung dữ cuồng loạn như thế, chẳng cần dùng ống nhòm vẫn đập vào mắt rõ mồn một, nói không chừng thật sự tượng trưng cho thứ lực lượng tà ác nào đấy cũng nên. Trác Mộc Cường Ba cảm thấy có một bức điêu khắc trông khá quen thuộc, nhưng gã lại cho rằng đó là tại mình nghiên cứu quá nhiều tượng Phật của Mật giáo, mà những tượng Phật và quái thú trong Mật giáo đều tương đối hung dữ, nhìn cũng giống giống nhau. Merkin cũng có cùng một cảm giác như thế.

Gian phòng đá trượt xuống trên mặt phẳng dốc khoảng gần ba mươi độ, mới đầu còn tương đối chậm, sau đó, tốc độ mỗi lúc một nhanh, người bên trong như đứng trong một cái thang máy khổng lồ, cùng với gia tốc rơi, tim họ đều như sắp nhảy lên đến cổ họng. Ma sát do gia tốc gây ra khiến mặt sàn gian phòng rung lên bần bật, mới đầu còn trông thấy một số viên đá nhỏ nảy lật bật, nhưng rồi mức chấn động tăng dần không thấy những viên đá ấy chuyên động nữa, thay vào đó là một thứ âm thanh xoáy tròn gần giống như lúc máy bay khởi động.

Đường hầm trượt xuống dường như kéo dài vô tận, chỉ có một vài cá nhân cảm nhận được họ lại đi xuống theo đuờng xoáy ốc. Chỉ những người này mới cảm thấy sự nghiêng lệch rất nhỏ do quán tính gây ra. Pháp Sư Á La lẳng lặng đếm số lần hít thở và mạch đập của mình, cộng với sự phụ trợ của sóng âm để phán toán tốc độ. Một trăm km/h, hai trăm, ba trăm, ba trăm năm mươi, và vẫn đang tiếp tục tăng nhanh. Tốc độ truợt xuống của gian phòng đá mỗi lúc một nhanh, pháp sư Á La nhận ra nhịp tim và mạch đập của mình cũng đang gia tốc, hiển nhiên, tốc độ này đã vượt quá giới hạn mà trình độ tu luyện và thương thế của ông có thể chịu đựng nổi. Pháp sư liếc sang phía Lữ Cánh Nam, thấy sắc mặt cô đanh lại, hiển nhiên cũng đang điều chỉnh nhịp thở hòng chống chọi tốc độ không ngừng tăng lên chóng mặt đó. Ồng lại nhìn sang phía bọn lính đánh thuê, sắc mặt chúng càng khó coi hơn nữa, đã có mấy tên sắp nôn ọe, dường như chỉ có một mình người trẻ tuổi là trông như chẳng có chuyện gì xảy ra vậy. Thực ra sắc mặt người trẻ tuổi cũng chẳng dễ chịu gì, nhưng khác với những người còn lại, y không hề kinh hoảng, chỉ căm tức và giận dữ. Vì đám dây leo đen đâm thủng mấy lỗ trên trần, trong lúc gian phòng tăng tốc tiến lên, chốc chốc lại có một ít cát mịn rơi xuống lả tả. Người trẻ tuổi bắt lấy những hạt cát mịn đó, khe khẽ miết trên đầu ngón tay. Cát rất mịn, rất trơn, giống như phấn trang điểm thoa mặt vậy, hiển nhiên nguời xưa đã dùng thứ cát này làm chất bôi trơn giúp gian phòng đá chuyến động được dễ dàng hơn. Có điều, trong mắt người trẻ tuổi, việc xuất hiện thứ cát nhân tạo cực mịn chỉ chứng tỏ rằng, trong tòa kiến trúc này sẽ xuất hiện rất nhiều những cơ quan cạm bẫy mà y không hề muốn gặp phải. Đối với những cạm bẫy đó, ngay cả y cũng đành bó tay, hoàn toàn không có cách gì ứng phó. Y rủa thầm trong bụng: “Tại sao ở Trung Quốc lại xuất hiện lão Gia Cát Lượng chứ?”

Gian phòng đá vẫn không ngừng tăng tốc, tiếng rít sắc nhọn mỗi lúc một cao hơn, cảm giác như thể đang ngồi trên xe trượt siêu tốc lao xuống con dốc thẳng đứng vậy, có điều là con dốc này quá dài. Những cỗ quan tài ghép từ đá phiến kia cuối cùng cũng không chịu nổi chấn động tốc độ cao, lần lượt gồ ra ngoài, mà không chỉ quan tài đá, dường như cả gian phòng đá kín mít này cũng sắp bị lực ma sát làm cho rời ra đến nơi. Tim mỗi người đều treo ngược cả lên, đang lao đi với tốc độ cao như vậy, nếu gian phòng vỡ tung ra, chỉ sợ tất cả những nguời ở đây không ai có thể thoát chết.

Hai tên lính đánh thuê giữ hai đầu khẩu súng đã bị rung động khiến cho tê chồn cả tay lẫn chân, nhìn ba cỗ quan tài đá có thể long ra từng mảnh bất cứ lúc nào, chúng sợ hãi nói: “Đã, đã xoay được chưa ạ? Ngài Thomas?”

Người trẻ tuổi nhìn không chớp mắt vào ba cỗ quan tài còn lại, trầm giọng nói: “Đợi thêm chút nữa, đợi đã…” Đồng thời, hai tai y dỏng lên, chăm chú lắng nghe tiếng rít chói tai, rốt cuộc cũng là bọn họ may mắn, khi quan tải đá gần như vỡ tung ra, tiếng rít lại bắt đầu yếu dần, còn mặt phẳng dốc ba mươi độ cũng từ từ biến đổi, chỉ thoáng sau độ dốc đã giảm xuống còn không độ.

Cả bọn vừa thở phào nhẹ nhõm, bỗng nghe “cạch cạch” một tiếng, cả ba cỗ quan tài đá cùng lúc vỡ tung ra, phỏng chừng đang nhắc nhở bọn họ, tuy đã đến đoạn đường phẳng, nhưng gian phòng đá này vẫn lao vụt đi với tốc độ như một viên đạn.

Người trẻ tuổi nhắc nhở những tên lính đánh thuê phía trước: “Đứng lùi lại một chút đề phòng có va chạm mạnh.” Bọn lính đánh thuê vừa nghe vậy, vội nhao nhao lùi ra sau, chỉ nghe tiếng “bịch bịch”, đã có mấy tên ngã bổ nhào bổ ngửa, nhưng là vì đứng lâu quá, hai chân bị ảnh huởng của chấn động thành ra mất cảm giác. Pháp sư Á La nhắm mắt lắng nghe, trong tiếng rít đang không ngừng yếu dần, chốc chốc lại vẳng lên một tiếng “coong”, nghe như đá tảng ma sát với kim loại. Người trẻ tuổi cũng chú ý lắng nghe âm thanh ấy, đồng thời thầm đếm: “Mười, chín, tám, ba, hai, một!”

Y vừa đếm dứt số một, bỗng nghe “ầm” một tiếng, vách tuờng phía trước gian phòng đá thình lình vỡ tung ra, cả gian phòng chấn động dữ dội, dừng sững lại. Người bên trong đều ngả nghiêng ngã ngửa, thậm chí cả pháp sư Á La cũng không tránh khỏi, duy chỉ có người trẻ tuổi đã chuẩn bị sẵn từ trước là đứng được, song y cũng không thể trụ vững, liên tiếp lùi bảy tám bước, lưng đập vào vách sau của gian phòng đá.

Bọn lính đánh thuê rên rỉ bò dậy, chỉ thấy một cái bánh xe hình con thoi khổng lồ lộ ra ở chỗ tường vỡ. Vừa rồi, gian phòng đá đã va đập chính diện với nó, khiến cả bức tường sập xuống, cú va chạm mạnh mẽ đồng thời cũng phá hoại chốt lẫy gì đó của bánh xe, sau khi gian phòng đá dừng lại, chiếc bánh xe khổng lồ ấy liền chầm chậm tăng tốc chuyển động theo một quỹ đạo khác.

Khi bánh xe khổng lồ đó lăn đi, người trẻ tuổi lập tức rảo chân bước ra phía trước bức tường bị đổ sập, đưa mắt liếc nhìn xung quanh rồi quay đầu lại nói: “Các vị, hoan nghênh đến với Bạc Ba La thần miếu!” Kế đó, y cũng dịch người theo hướng chuyển động của bánh xe, nhường ra một lối.

CÁNH CỬA CHUỘC TỘI

Cảnh tượng trước mặt cả bọn đột ngột biến đổi, một tòa cung điện hùng vĩ nguy nga bằng đá tảng xuất hiện ngay trước mắt. Cảm giác đầu tiên nó đem đến cho bọn họ là “to lớn”, như thể họ vừa chui từ trong hang động ra thảo nguyên mênh mông vậy, hiệu ứng thị giác trời đất bao la trải dài vô tận khiến quả tim vừa nãy vẫn còn treo lơ lửng của mọi người lập tức trầm xuống, tựa hồ rơi vào một nơi vô cùng dễ chịu.

Những cây cột khổng lồ, những tượng Phật khổng lồ, những phiến đá lát sàn khổng lồ, khi mỗi người nhìn thấy diện mạo thực sự của tòa thần miếu dưới lòng đất này, cảm giác đầu tiên là thấy mình thật nhỏ bé. Họ giống như một lũ kiến ở bên trong hộp diêm được đưa đến một phòng khách thật sự vậy. Những ngọn lửa cháy bừng bừng khắp nơi kia, có lẽ được đốt lên từ lúc họ ở phía hồ tế, hoặc được đốt lên khi gian phòng đá va chạm với bánh xe, song điều này đã không còn quan trọng nữa, chi riêng những phiến đá lát sàn trơn bóng như guơng dưới chan cũng đã đủ thu hút ánh mắt bọn họ rồi. Chẳng những vậy, xung quanh họ còn vô số tượng Phật trang nghiêm, uy vũ đứng sừng sững.

Trong lúc cả đám lính đánh thuê vẫn đang chìm đắm trong cảm giác hoan hỉ đến sững sờ ấy, người trẻ tuổi đã nhanh nhạy phát hiện được cú va chạm của bánh xe vừa nãy sau khi nó dịch chuyển sang một quỹ đạo khác. Liền ngay sau đó, từ phía sau lưng bọn họ bỗng truyền lại những chấn động mạnh mẽ. Y vội hét lên với bọn lính đánh thuê còn đang ngay người ra trong gian phòng đá: “Mau chạy ra, lối thoát này sắp bị bít kín rồi.”

Khi toàn bộ bọn lính đánh thuê vừa ra khỏi gian phòng đá, lại xảy ra một trận va chạm cực mạnh, phía trên dốc nghiêng trượt xuống không biết bao nhiêu khối đá thể tích tương đương với gian phòng, nghiền nát gian phòng đá thành một đống đá vụn, đồng thời bít kín con đường bọn họ dùng để tiến vào nơi này.

Đại đa số lính đánh thuê đều đắm chìm trong sự chấn động khiến người ta tưởng chừng nghẹt thở ấy, chỉ một bộ phận nhỏ bắt đầu hoảng loạn. Người trẻ tuổi nói: “Không cần lo lắng, tất sẽ có lối ra khác, người xưa làm vậy chỉ là để khiến bọn trộm vặt thèm muốn bảo vật nảy sinh lòng tuyệt vọng mà thôi. Giờ tất cả có thể nghỉ ngơi tại chỗ, nếu thấy thứ gì vừa mắt cứ thoải mái mà lấy, chẳng ai ngăn cản chúng mày cả, nhưng tao cũng phải nhắc nhở chúng mày một câu, chúng ta càng tiến sâu vào bên trong, những thứ chúng mày trông thấy sẽ càng tốt hơn gấp bội, đến lúc ấy không tìm được thứ gì để chứa thì đừng trách tao không nói trước đấy nhé.”

Bọn lính đánh thuê hân hoan nhận lệnh, tên nào tên nấy còn hưng phấn hơn cả uống thuốc kích thích, toàn bộ vẻ mệt mỏi ủ rũ đã bay biến đi đâu mất. Lữ Cánh Nam khinh miệt liếc nhìn bọn lính ô hợp, rồi bước đến bên cạnh pháp sư Á La, cùng pháp sư ngước lên quan sát tòa thánh điện của các bậc tiền nhân để lại với ánh mắt sùng kính. Người trẻ tuổi đứng cách bọn họ không xa lắm, ánh mắt cũng nhìn về cùng một hướng với pháp sư Á La, trên một chiếc bàn cao lớn, có khắc mấy hàng chữ.

“Những kẻ mê đắm trong tham lam, sẽ rơi vào vực sâu vô tận.” Người trẻ tuổi đọc lên bằng tiếng Trung, cười khẩy một tiếng.

Cùng lúc bánh xe khởi động cơ quan và gian phòng đá bị nghiền nát, phía trên hồ tế cũng xảy ra một vài biến cố. Đầu tiên, chấn động dữ dội lan tới, không chỉ Trác Mộc Cường Ba và Merkin cảm thấy không ổn, mà ngay cả vị chủ nhân dưới đáy hồ cũng thấy không ổn, nó càng cuồng loạn vung vẩy hơn hòng nhanh chóng rời khỏi đáy hồ băng lạnh. Nhưng thể tích của nó dường như quá lớn, làm vậy chỉ khiến một số tượng đá khổng lồ ló lên mặt nước bị đẩy ngã, đổ vật về phía hành lang tròn xung quanh hồ, cộng với chấn động dưới đáy hồ, làm cả đại sảnh khổng 1ồ rung lên bần bật, cảm giác như thể đất long núi lở đến nơi. Trác Mộc Cường Ba và Merkin cẩn thận vịn tay vào vách tường, không hiểu rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì.

Đến khi chấn động yếu dần, Merkin và Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn ra giữa hồ quan sát. “Trời đất, anh có nhìn thấy không?” Merkin kinh hãi thốt lên.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Lớn như vậy, ai mà không nhìn thấy chứ.”

Lúc này, một vật thể khổng lồ lù lù xuất hiện ở chính giữa hồ tế, thể tích của nó áng chừng chiếm khoảng một phần tư hồ nước, thân thể mập mạp, phần lộ ra khỏi mặt nước là một lớp biểu bì mọc đầy xúc tu. Thân thể nó quá to lớn, thành thử rất nhiều chỗ bị kẹt giữa các tượng Phật bằng đá, nhưng vì nó quá khỏe, nên các tượng đá đều bị lèn cho ngã nghiêng ngã ngửa.

Cái thứ ấy, bảo là sao biển, nhím biển, hải sâm, hải quỳ hay san hô, cá mực, bạch tuộc, cũng đều không sai, dẫu sao Trác Mộc Cường Ba và Merkin mới chỉ nhìn thấy một phần thân thể nó mà thôi. Lớp biểu bì ấy không ngừng phồng lên xẹp xuống như một con cá nóc đang tức giận, nối liền với rất nhiều dây leo đen đúa. Đến giờ, Trác Mộc Cường Ba và Merkin mới hiểu, thứ trước đó họ trông thấy chỉ là xúc tu của con quái vật mà thôi. Độ dài những xúc tu này không đồng đều, từ mấy chục mét đến mấy trăm mét. Xúc tu màu đen hiển nhiên là những phần đã trưởng thành, bên cạnh chúng còn rất nhiều xúc tu khác màu trắng sữa hay trong nhờ, ngắn hơn nhiều, từng cụm từng cụm trong như xúc tu của hải quỳ; bên trong những xúc tu trong nhờ kia, lại loáng thoáng trông thấy những sợi đen nhu động không theo quy luật nào cả, như một loại ký sinh trùng đang sống ký sinh trong đó, hoặc cũng có thể những xúc tu đó có công dụng khác; lại có một số xúc tu khác vừa nhỏ vừa dài, nhìn bề ngoài hơi giống hải sâm, lúc thò ra lúc thụt vào. Nói một cách tương đối hình tượng, con quái vật này giống như một đàn đủ các chủng loại thuộc họ rắn, đuôi mọc dính vào nhau, nhưng mỗi con rắn lại đều có thể hành động độc lập.

Trông thấy con quái vật chưa từng gặp bao giờ, Trác Mộc Cường Ba và Merkin kinh ngạc đến nỗi không thốt nên lời.

Liên tưởng đến đoạn văn khác trong hầm mộ, Trác Mộc Cường Ba mới sực hiểu ra: “Hồ tế chỉ có một chủ nhân duy nhất, cái hồ này có lẽ thông với hồ lớn bên ngoài, con quái này chui vào đây, ăn đến nỗi béo ú ra, nên không chui ra được nữa.”

Merkin lại chú ý đến một sự kiện khác, vội nhắc nhở Trác Mộc Cường Ba: “Nhìn xem, có đường rồi!”

Thì ra, những bức tượng Phật bị chủ nhân hồ tế chèn cho đổ nghiêng ngả dồn đống, không ngờ đã nối lại thành một cây cầu, tuy rằng cây cầu này tạo thành bởi rất nhiều tượng Phật và cột trụ mọc đầy rêu xanh trơn nhấy, nhưng cả Trác Mộc Cường Ba lẫn Merkin chỉ liếc một cái đã phác ngay trong đầu tuyến đường ra cây cột lớn ở giữa hồ,

“Đi thôi.” Trác Mộc Cường Ba bắt đầu hít thở sâu, chuẩn bị cho một loạt các cú nhảy liên hoàn tiếp sau đố. Bọn họ cần phải rời khỏi nơi này trước khi con quái vật bò lên khỏi đáy hồ.

Bọn họ men theo các tượng Phật đạp tường nhảy lên, bước chân uyển chuyển như mèo, động tác nhanh như vượn, Trác Mộc Cường Ba thậm chí còn dùng cả dây móc để dẫn dụ xúc tu đang bổ về phía Merkin. Sau một loạt những động tác như chạy Parkour, hai người rốt cuộc cũng đến được giữa hồ, tới trước cánh cửa Trác Mộc Cường Ba đã chọn từ trước, chỉ bị mấy phen kinh hãi chứ không gặp hung hiểm gì.

Các bậc thang vươn dài xuống dưới, những ngọn lửa nhảy nhót không ngừng hân hoan dẫn đường cho bọn họ, chỗ cạnh cửa gồ lên một ký hiệu hình như mũi dùi. Trác Mộc Cuờng Ba trông thấy ký hiệu đó, thoáng ngẩn người, gã chưa từng thấy ký hiệu nào giống như thế cả. Trên khung cửa màu vàng kim còn có một hàng chữ nhỏ, Trác Mộc Cuờng Ba ngẫm nghĩ giây lát rồi dịch ra thành: “Cần mang theo trái tim thành kính tiến về phía trước.” Nhưng gã lại bỏ qua mất một ý nghĩa khác của hàng chữ ấy: “Con đuờng chuộc tội.”

Merkin nghi hoặc nhìn khung cửa màu vàng kim trước mặt, lờ mờ nhớ hồi nhỏ dường như y đã nhìn thấy thứ tương tự như vậy ở đâu đó rồi, ông nội y từng nói, khung cửa màu vàng kim này có một hàm nghĩa đặc biệt, dù là ở quốc gia nào, dân tộc nào, ý nghĩa đó cũng tương thông với nhau.

Hai người đi xuống cầu thang hình xoắn ốc theo chiều từ phải sang trái, đoạn đường đầu tiên gần như giống với nhóm lính đánh thuê, chỉ là ở cuối cầu thang không phải một gian phòng đá rộng hai trăm mét vuông. mà là một kiến trúc kiểu như điện thờ lớn. Tòa đại điện này cao khoảng mười mét, hẹp và dài, ở giữa là một con đường đá xanh rộng chừng vài mét, hai bên có các loại tượng tạo hình khác nhau, tuy so với cung điện mà bọn lính đánh thuê trông thấy thì nhỏ bé hơn nhiều, nhưng đối với Trác Mộc Cường Ba và Merkin, đây vẫn là một điện thờ trang nghiêm hùng vĩ.

“Đây chính là Bạc Ba La thần miếu?” Giọng Merkin không giấu nổi vẻ thất vọng, so với đoaạn hành lang dưới đáy hồ hai người đi qua lúc trước, nơi này không khỏi có hơi quá đơn sơ tầm thường.

Tượng đá, mặt sàn và cột hành lang đều điêu khắc trần, không tô màu, thậm chí vẫn còn dấu vết đục đẽo khá rõ rệt, ngoài ra cũng không bày biện bất cứ đồ trang trí đẹp đẽ tinh xảo gì, duy chỉ có hai hàng ngọn lửa nhảy nhót không ngừng, làm cả gian đại điện càng toát lên vẻ âm u tăm tối.

Trác Mộc Cường Ba chú ý đến những bức tượng cao bảy tám mét ở hai bên con đường lát đá. Không thể nói những bức tượng này là tượng Phật được, Trác Mộc Cường Ba đã tìm hiểu đại thể về hệ thống tượng Phật của Mật giáo, tuy đa số tượng Phật trong hệ thống này đều mang tướng mạo phẫn nộ, bộ dạng cực kỳ hung ác, nhưng gã vẫn có thể dựa trên những tạo hình ấy mà phán đoán được dụng ý của người xưa. Còn những bức tượng này, đều là những tạo hình Trác Mộc Cường Ba chưa từng gặp bao giờ. Toàn bộ các bức tượng trong gian điện này có bụng to, mặt nung núc thịt, hơi giống với Phật Di Lặc đang toét miệng cười nhưng hiển nhiên không phải là tuợng Phật Di Lặc. Y phục của các bức tượng rất quái dị, đa phần có tóc, một số còn đội những chiếc mũ kỳ lạ, hoặc mọc sừng, hoặc mũi lợn miệng rắn, đường nét đơn giản mà thô lậu vụng về.

Thứ khiến gian đại điện trở nên âm u, chính là bụng của những bức tượng ấy.

Những cái bụng phình lên trông như bụng bà chửa mười tháng, bên trên còn được người xưa điêu khắc những hình tượng ghê rợn. Có cái bụng mọc ra một cái miệng đang há ngoác nhe răng cười, có cái lại vươn ra ba bốn cánh tay trẻ con, có cái mọc đầy những con mắt, có cái thì vỡ toác, để lộ một động vật nửa người nửa thú bên trong.

Trác Mộc Cuờng Ba lấy máy tính của giáo sư Phương Tân ra, chụp ảnh một số bức tượng rồi tiến hành so sánh đối chiếu với các hình ảnh lưu sẵn trong máy, không ngờ lại tìm được một bức ảnh tuơng tụ. Đó là ảnh chụp tượng điêu khắc khai quật được ở khu vực A Lý, theo khảo chứng thì có lẽ thuộc về thời kỳ văn minh Tượng Hùng. Có điều, bức tượng này nhỏ hơn nhiều so với những bức ở trước mắt họ lúc này, chiều cao không đến sáu muơi xăng ti mét, song đường nét cũng thô kệch và quái dị như thế, đầu lợn, bụng phình to, trông như yêu quái lợn thành tinh vậy. Ở phần ghi chú của bức ảnh có viết: “Nghi là thần linh của thời kỳ cổ đại mông muội, hoặc có liên quan đến Bản giáo cổ đại, trước mắt vẫn chưa phát hiện tác phẩm điêu khắc nào tương tự.” Còn ở hàng ý nghĩa tượng trưng và ý nghĩa thờ cúng chỉ thấy ghi: “Chờ khảo chứng.”

Trác Mộc Cường Ba nói với Merkin: “Đây có lẽ là những thần linh cổ đại nửa người nửa thú ở thời kỳ văn minh Tượng Hùng, nói không chừng chỉ là một con đường dẫn đến Bạc Ba La thần miếu, không thể coi là thần miếu được.”

“Ừm.” Merkin cũng cho là vậy.

Hai người men theo con đường lát đá ở giữa, nhận thấy đại điện này tổng cộng có hai mươi mấy tượng thần. Cảm giác bị những thần linh quái dị ở hai bên đường cúi nhìn chằm chằm thật chẳng dễ chịu chút nào, may mà hai người cũng đã đi đến cuối gian điện. Sâu bên trong đại điện chỉ có một cánh cửa nhỏ bị khóa chặt, hai bên là tường cao sừng sững. Trác Mộc Cường Ba nhìn hàng chữ lớn trên bức tường, lại càng thêm khẳng định con đuờng mình chọn là đúng. Những chữ khác trên bức tường này giống hệt như chữ khắc phía bên ngoài thần miếu: “Một người huyết thống thuần chủng, một nguời trí tuệ tuyệt luân, một người không sợ hãi, thân thủ tuyệt thế!

“Thấy chưa?” Trác Mộc Cường Ba chỉ hàng chữ lớn đó, nói với Merkin.

Merkin gật đầu, vuốt tay lên mép cửa nói: “Thần miếu này…” Y chợt trông thấy bên cạnh cửa có một lỗ nhỏ hình vuông, vừa khéo ở ngay bên dưới mấy chữ “một người huyết thống thuần chính”, Merkin giơ đèn lên chiếu thử, rồi thò tay vào trong thì Mộc Cường Ba nhắc nhở: “Cẩn thận có bẫy.”

Merkin ngoảnh đầu lại liếc nhìn Trác Mộc Cường Ba, đây là lần đầu tiên gã nhắc nhở y cẩn thận, thoáng sau đó, y rụt tay: “Bên trong có một cái tay nắm, nhưng tôi không sao nhúc nhích nó được.”

Trác Mộc Cường Ba cũng thò tay vào trong xem thử chợt nghe “cách cách” một tiếng, kế đó là âm thanh “ù ù”, cánh cửa đá đã từ từ nâng lên. Merkin ngạc nhiên thốt: “Anh làm thế nào vậy?”

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu đáp: “Tôi cũng không lung lay được, không hiểu chuyện gì nữa.” Song cả hai người cũng khỏng muốn tìm hiểu kỹ thêm, chỉ nhìn ra phía ngoài cánh cửa, bên ngoài không có đèn đuốc gì, chỉ thấy một mảng tối om như mực, làn gió ấm kèm theo mùi đất ẩm thổi táp vào mặt.

“Thế này là sao?” Trác Mộc Cuông Ba bước lên hai bước, đột nhiên bị Merkin vươn tay kéo lại. Merkin dường như vẫn chưa hết kinh hoảng, trầm giọng nói: “Hết đường rồi.”

Trác Mộc Cuờng Ba chiếu đèn pha xuống dưới, cũng không khỏi toát cả mồ hôi lạnh, bên ngoài cánh cửa kia chẳng ngờ lại là một khoảng không, gã chỉ cần bước thêm một bước nữa thôi là không biết ngã lăn xuống đâu rồi. Trác Mộc Cường Ba vịn tay vào khung cửa nhìn xuống dưới, chỉ thấy một vùng tăm tối mịt mùng, không biết sâu đến bao nhiêu. Gã lại thò đầu nhìn sang hai bên trái phải, không ngờ cũng trống rỗng, cánh cửa này mở ra ở giữa vách đá dựng đứng, mà vách đá này dường như lại ở trong bụng một ngọn núi nào đó.

Sao lại hết đường? Gã đang nửa kinh hãi nửa nghi hoặc, phía đối diện bỗng vẳng lại tiếng “cách cách”, tựa như có thứ gì dó đang tiến lại phía này. Merkin ủ rũ nói: “Là cơ quan liên hoàn, đều tại chúng ta nóng nảy quá.”

Phía đối diện có một chiếc cầu vươn tới. Chiếc cầu này, có lẽ gọi là cái thang thì hợp lý hơn. Kết cấu của nó giống như đường ray xe lửa, được chế tạo từ vật liệu không phải kim loại, cũng không phải đá, vươn ra từng bậc từng bậc một. Loại cơ quan này Trác Mộc Cường Ba cùng biết, gã buột miệng thốt lên: “Công nghệ thang máy của Lỗ Ban.”

Merkin nói: “Ừm, bên trên hình như có chữ.” Phía trước thang máy còn có hai cây cột không lớn lắm, trông giống như cột đá kỷ niệm lúc xây cầu, Trác Mộc Cuờng Ba cẩn thận đọc hàng chữ khắc trên đó, rồi dịch ra: “Người bước lên con đường này, đừng bao giờ… đừng bao giờ bỏ cuộc? Ừm, ý là phía trước có thể gặp khó khăn, nhưng chỉ cần kiên trì ắt sẽ giành được thắng lợi.”

Merkin đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, vẻ mặt đầy nghi hoặc, đối với trình độ dịch thuật của Trác Mộc Cường Ba, y không khỏi nảy sinh lòng ngờ vực. Bản thân Trác Mộc Cường Ba cũng đang nghĩ: “Hình như không phải từ bỏ? Đừng bao giờ gì đây nhỉ? Ừm, tư liệu về mặt này trong máy tính của thầy giáo ít quá.”

Hai nguời hết sức dè dặt bước lên thang máy, giữa các bậc thang này trống không, hai bên lại không có tay vịn, bước hụt một bước là tiêu đời ngay.

Đi trên thang máy, đèn pha mới miễn cưỡng chiếu được sang tới vách đá đối diện, chắn ngang trước mặt họ, 1ờ mờ có thể trông thấy một sạn đạo(14), còn mé bên trái và mé bên phải đều là núi đá. Hiển nhiên, địa hình này cũng được hình thành trong tự nhiên, giống như khe nứt lớn dưới lòng đất ở Cổ Cách vậy, chẳng qua những khe nứt ngầm này không chỉ có một, mà đan xen nhau chằng chịt tỏa ra khắp bốn phía như một mạng nhện khổng lồ, bên dưới sâu thăm thẳm, không biết là gì. Người Qua Ba cổ đại đã xây dựng các sạn đạo ruột dê men theo vách đá dựng đứng, đuờng đi quanh co, không rõ là thông đến nơi nào.

Phía trên sạn đạo có ánh sáng, nhưng không sáng rõ như đèn đuốc, mà chỉ là ánh huỳnh quang leo lét. Vì khoảng cách xa, ánh sáng lại quá mờ nhạt, nên bọn Trác Mộc Cường Ba và Merkin dùng ống nhòm cũng không nhìn rõ được thứ gì đang phát sáng, chỉ biết là không có phản ứng hồng ngoại. Sang đến đầu bên kia của thang máy, Trác Mộc Cường Ba và Merkin mới phát hiện, thứ phát ra ánh sáng ấy hóa ra là những viên đá nhỏ khảm trên vách đá, cũng không biết do con ngưởi khảm lên hay tự hình thành nữa. Những viên đá nhỏ này phát ra ánh sáng dìu dịu màu xanh nhạt, độ sáng thực ra rất thấp, ánh sáng của viên đá lớn nhất cũng chỉ chiếu được trong vòng bốn mươi xăng ti mét quanh nó, có điều số lượng những viên đá phát sáng này rất nhiều, cả một vách đá khảm đầy những viên đá lớn nhỏ tựa như một bầu trời đầy sao, thoắt sáng thoắt tối, nhấp nháy không theo một quy luật nào. Thi thoảng lại thấy phía dưới khe nứt dâng lên một màn sương mỏng, tựa như phủ lên những ngôi sao màu xanh nhạt này một tầng sa nhẹ, hình thành nên những quầng sáng mong manh, nhạt dần rồi tan biến.

“Đây là…” Kiến thức về mặt địa chất mà Lữ Cánh Nam truyền thụ cho bọn Trác Mộc Cường Ba có thể nói là không nhiều lắm.

“Đây chắc là một loại fluorite, nghe nói loại đá này hình thành trong miệng núi lửa, có thể phát ra ánh huỳnh quang nhàn nhạt trong thời gian dài, độ cứng không cao lắm, nhưng vì số lượng quá ít nên không nhiều người biết đến, xưa nay vẫn chưa chính thức được liệt vào hàng ngũ các loại đá quý.” Merkin đưa ra nhận xét từ góc độ của một chuyên gia về đá quý, sau đó lại thở dài cảm thán; “Đây tuyệt đối có thể coi là một kỳ quan của tự nhiên, thật nhiều quá đi mất.”

Hai người một trước một sau đi trên con đường ruột dê, vì phần dưới sạn đạo này không được chống đỡ theo góc nghiêng tạo thành hình tam giác, mà do những thanh rường đá trực tiếp cắm thẳng vào lỗ khoét trên vách đá, mới đầu Trác Mộc Cường Ba và Merkin còn lo chúng không đủ chắc chắn, đi được vài bước cảm thấy dưới chân vững như bàn thạch, bèn rảo chân bước nhanh hơn. Những viên bảo thạch màu xanh lam lập lòe chớp sáng kia như một sự dụ hoặc thần bí, dẫn đường cho bọn họ tiến lên phía trước.

Có điều hai nguời không biết, lúc này cánh cửa đá bọn họ mở ra kia đang chầm chậm hạ xuống như đồng hồ cát chảy, còn các tuợng thần quái dị trong gian đại điện cũng bắt đầu lần lượt chuyển động, những cái miệng ngoác to trông như đang cười nghiêng ngả.

Đi được một đoạn đường, Merkin dần sinh lòng nghi hoặc với con đường nhỏ nhuốm sắc lam nhàn nhạt này, y cảm thấy có gì đó không ổn, song lại không tìm ra nguyèn nhân. Trác Mộc Cuờng Ba vẫn là người có phản ứng trước, xem chừng, những viên đá chớp sáng lập lòe này dường như có thể mang đến một số ảo ảnh thị giác, đồng thời sạn đạo nhỏ không có tay vịn và vực sâu vô tận tối tăm phía dưới cũng tạo thành một dạng hiệu ứng đặc biệt. Cơ thể bọn họ đang tự điều chỉnh một cách vô thức, Trác Mộc Cường Ba phát giác, thân thể mình dường như trở nên nhẹ hơn, rõ ràng là hiệu ứng thị giác kia đã khiến gã có cảm giác không thực chất.

“Đi nhanh lên,” Trác Mộc Cường Ba nhắc nhở, “khi não bộ hoàn toàn cho rằng chúng ta đang bay, chúng ta sẽ không thể khống chế được cơ thể này nữa đâu.”

Merkin đấm mạnh vào mấy viên đá phát sáng trên vách núi, sự đau đớn kích thích y hồi phục lại một phần cảm giác chân thực, kế đó, y bỗng giơ tay ra chỗ ánh sáng nhìn chăm chú. “Sao thế hả?” Trác Mộc Cường Ba hỏi.

Merkin lắc đầu: “Không có gì, tay tôi không hiểu bị thương từ lúc nào, có một vết thương rất nhỏ. Kích thích có thể khiến anh thoát khỏi ảo giác, thử xem.”

Trác Mộc Cường Ba vẫn tiếp tục tiến lên, nói: “Tôi không cần.” Gã nghĩ đến bàn tay bị thương của Merkin, cũng không kìm được xòe tay ra xem thử. Kỳ lạ, lòng bàn tay gã cũng có một vết thương rất nhỏ, nhưng không thấy đau đớn gì, đến giờ nhìn thấy mới có cảm giác hơi tê tê. Trác Mộc Cường Ba bỗng nảy sinh liên tưởng: “Chẳng lẽ là do lúc nãy mở cửa?”

CON ĐƯỜNG KHÔNG THỂ QUAY ĐẦU

Một đợt chấn động lan đến làm nhiễu loạn dòng suy nghĩ của Trác Mộc Cường Ba, gã dừng lại đưa mắt quan sát xung quanh, nhưng không thấy gì khác thường cả. Trác Mộc Cường Ba bất giác tự nhủ: “Chẳng lẽ lại là ảo giác?” Ngoảnh đầu ra phía sau, gã thấy Merkin đang ngạc nhiên hỏi mình: “Anh có cảm thấy chấn động không?”

“Không phải ảo giác à?” Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm.

“Liệu có phải con đường này có vấn đề?” Merkin nhắc nhở.

“Đường?” Trác Mộc Cuờng Ba thoáng trầm ngâm bỗng sực hiểu ra: “Tôi nghĩ ra rồi, ý của câu đó là, đặt chân lên con đuờng này, đừng bao giờ quay đầu lại!”

“À, anh…!” Merkin rốt cuộc cũng không nhịn nổi tức tối gắt lên: “Trác Mộc Cường Ba, anh là đồ con lừa!” Y vội lấy ống nhòm ra, chỉnh chế độ dạ quang lên mức cao nhất, rồi đưa lên mắt quan sát. Sạn đạo do những trụ tròn ghép lại dưới chân hai người đang bị thứ gì đó đẩy ra ngoài, từng cây từng cây trụ lần luợt tuột khỏi hốc khoét trên vách đá. Con đường sau lưng họ đã hoàn toàn bị cắt đứt, hơn nữa tốc độ sụp đổ cũng cực nhanh, chỉ trong giây lát sẽ đuổi kịp hai người bọn họ.

“Mau, mau lên,” Merkin luôn miệng thúc giục, “những trụ tròn dưới chân chúng ta sẽ tự động bị đẩy ra khỏi hốc đá rơi xuống, sắp tới đây rồi.”

Hai nguời bắt đầu chạy thục mạng trên con đường ruột dê chật hẹp. Họa vô đơn chí, khi những trụ đá rơi nhanh sắp đuổi kịp bọn họ, phía truớc lại hết đường, Trác Mộc Cuởng Ba dừng phắt lại làm Merkin suýt chút nữa thì huých gã rơi xuống. “Ông làm cái gì vậy?” “Anh làm gì đấy?” Hai người đều nổi cáu gầm lên, nhưng tình thế đương khi khấn cấp, Merkin nhìn rõ tình hình phía trước, cơn tức liền xẹp xuống tắp lự: “Tính sao giờ?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Người xưa có để lại một con đường, giờ chỉ xem chúng ta có vượt qua được không thôi.” Trác Mộc Cường Ba giơ đèn pha lên, chỉ thấy mấy cây gậy có vẻ bằng kim loại, thoạt trông như chiếc đòn gánh cắm vào vách núi, mỗi cây gậy cách nhau khoảng chừng mấy mét, có điều, vị trí của những cây gậy này lại thấp dần xuống.

“Giờ làm sao?” Merkin chau mày hỏi.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ông đã xem tiết mục xiếc đu cầu vồng Vô Tích bao giờ chưa?” Nói dứt lời, gã cũng không kịp giải thích gì nhiều, lập tức làm mẫu cho Merkin. Chỉ thấy hai tay gã bám vào cây gậy, mượn lực lao xuống lộn một vòng, rồi buông tay, cong người lộn ba vòng rưỡi trên không, duỗi người ra, bám vào cây gậy tiếp theo, cứ thế lặp đi lặp lại, nhanh chóng nhảy xuống bên dưới.

“Chơi trò người bay hả!” Merkin chắt lưỡi, có điều tình thế cấp bách, y cũng không nghĩ ngợi được nhiều, vội nhảy theo Trác Mộc Cường Ba xuống dưới. Y vừa rời khỏi sạn đạo, cây trụ đá cuối cùng cũng vừa khéo bị đùn ra khỏi vách đá, rơi xuống vực sâu tăm tối.

Cây gậy nhỏ cắm vào vách đá đó quả nhiên được đúc bằng kim loại. Tuy người xưa đã xử lý chống ôxy hóa rất tốt, nhưng trải qua nghìn năm bị hơi sương ăn mòn, những cây gậy này sớm đã không thể chịu nổi sức nặng, lúc truớc đã bị Trác Mộc Cường Ba đu người lên, đến lượt Merkin mới lộn được nửa vòng, cây gậy kim loại đã từ từ uốn cong lại, khiến y giật bắn mình, vội vàng buông tay, may mà trong lúc hoảng loạn vẫn kịp bám được vào cây gậy thứ hai, tinh huống cũng giống hệt như vậy. Song Merkin lại cho rằng người xưa có ý thiết kế như vậy, đã gọi là con đuờng không thể quay đầu, vậy thì hiển nhiên những cây gậy kim loại này chỉ có thể sử dụng một lần mà thôi.

Khóa huấn luyện đặc biệt Lữ Cánh Nam dành cho bọn Trác Mộc Cường Ba đã dần dần phát huy tác dụng, trình độ đu xà của Trác Mộc Cường Ba cao hơn Merkin hẳn mấy bậc, chỉ thấy gã lộn một vòng rồi lại một vòng, động tác thuần thục vô cùng, khi xoay mình trên không trung vẫn còn nhìn rõ được vị trí của cây gậy tiếp theo. Sau khi đu qua mười mấy cây gậy, gã phát hiện khoảng cách đến cây gậy tiếp theo quá xa, đang lấy làm kinh hãi thì bỗng liếc thấy trên vách đá có một chỗ gồ lên rất nhỏ, rõ ràng dùng để đạp chân lên, liền không kịp nghĩ nhiều, lập tức hạ xuống điểm đạp chân đó một cách chuẩn xác, đồng thời chân kia cũng không dừng bước, sử dụng kỹ thuật chạy trên tường nghiêng người lao xuống dưới, sau bảy tám bước, đà lao giảm dần, rốt cuộc cũng với được đến cây gậy ở đằng xa.

Hai người cứ lao một mạch không ngừng như thế, có lúc vách núi bỗng thu hẹp lại, hai vách áp sát nhau tạo thành một khe nhỏ, ở giữa lại không có cây gậy nào, chỉ có mấy kẽ nứt nhỏ xíu đến độ gần như không nhìn thấy trên vách đá. Khi ấy, Trác Mộc Cường Ba buộc phải dùng kỹ thuật nhảy lật người trong môn Parkour, mũi chân áp sát vào vách đá, ngón tay phải móc được vào khe nứt một cách chuẩn xác, sau đó cả tay và chân phát lực, xoay người bật sang phía vách đá đối diện, cứ lặp đi lặp lại, hoặc lên hoặc xuống, cơ bắp toàn thân căng cứng, tuyệt đối không được phép để xảy ra bất cứ sai sót nào.

Trác Mộc Cường Ba cứ thế đu xà lao đi vun vút, sau mười mấy lần lộn nhào lại chạy đạp tường khoảng bảy tám mét, rồi nhảy lật người, sau đó lại phải xoay người bám vào những cây gậy kim loại cắm vào vách đá, đu lên, lộn nhào trên không. Cứ lặp đi lặp lại như vậy không biết bao lâu sau, gã mới tìm được một điểm đặt chân ở không gian tăm tối phía bên dưới. Chỗ đặt chân này giống như một cái rường đá bị gãy, nằm vắt vẻo giữa không trung. Trác Mộc Cường Ba lộn người phóng xuống, lăn mấy vòng trên rường đá rồi mới dừng lại. Gã duỗi tứ chi mỏi nhừ, ngoảnh đầu nhìn lại xem Merkin có ở phía sau không. Gã cũng từng lo lắng không biết Merkin có thể theo kịp mình hay không, nhưng rồi lại nghĩ, mình không cần phải lo chuyện sống chết cho loại người như Merkin làm gì. Có điều, từ đầu chí cuối không nghe thấy tiếng kêu thảm của Merkin, Trác Mộc Cường Ba cũng thầm yên tâm phần nào. Giữa bóng tối mịt mùng trong không gian lạ lẫm đầy rẫy những cạm bẫy chưa biết và bóng tối mịt mùng này, có một kẻ địch bên cạnh bầu bạn cũng còn đỡ hơn phải đơn độc một mình.

Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu, chỉ thấy không gian phía sau tối đen như mực, không thấy bóng dáng Merkin đâu cả, lẽ nào y đã rơi xuống rồi sao? Gã đang băn khoăn, chợt thấy Merkin xuất hiện ở chỗ nhảy lật người giữa hai vách đá, rồi cũng đu qua từng cây kim lịa phi xuống, tuy động tác còn hơi vụng về hoảng loạn, song cũng không sẩy tay lần nào.

Merkin ở trong bóng tối trông thấy Trác Mộc Cường Ba trước cả khi Trác Mộc Cường Ba trông thấy y, vội luôn miệng hô lớn: “Còn ngẩn ra đó làm gì? Đi mau, mau lên, đừng dừng lại!”

Thì ra, Merkin ở phía sau nên nắm rõ những biến hóa trên con đường độc đạo này hơn Trác Mộc Cường Ba nhiều, những cơ quan kia vẫn luôn đuổi miết sau lưng y. Y vừa buông tay khỏi cây gậy kim loại nào, cây gậy ấy liền bị đẩy ra khỏi vách đá, hệt như những trụ đá tạo thành sạn đạo phía trên kia vậy; y vừa nhún người rời khỏi điểm đặt chân, giẫm lên mặt tường thì điểm đặt chân ấy lập tức sụt ra; lúc y nhảy lật người giữa hai vách đá, kẽ đá để móc tay vào cũng lần luợt biến mất cùng với một trận chấn động nhỏ. Merkin chỉ liếc nhìn ra phía sau một cái đã hiểu ngay, nơi này tuyệt đối không được dừng lại dù chỉ một giây lát, lại càng không có cơ hội để làm lại lần thứ hai.

Trác Mộc Cường Ba cũng đã trông thấy, hễ Merkin chụp phải cây gậy kim loại nào, sau khi y buông tay ra, cây gậy đó liền như bị thứ gì đó vô hình đùn ra ngoài, rơi xuống. Mỗi lần liếc về phía sau như thế, Merkin thậm chí không dám chần chừ dù chỉ một giây, y tức thì lộn nhào trên không bổ tới chỗ cây gậy tiếp theo. Trác Mộc Cường Ba nhìn về phía Merkin, lùi lại mấy bước, kế đó liền xoay người tăng tốc ngay tức thì, ai biết được loại cơ quan kia có lan đến cái rường đá này hay không chứ?

Merkin cũng nhảy xuống rường đá, nhanh chóng đuổi kịp Trác Mộc Cường Ba, nhưng không phải vì Trác Mộc Cường Ba chạy không nhanh, mà vì đường tiến lên phía trước của họ lại bị cắt mất lần nữa.

Lần này không giống như vừa nãy nữa, xung quanh đều là vách đá dựng đứng, thậm chí không có lấy một khe hở chứ đừng nói gì đến những cây gậy bằng kim loại. Bọn họ như thể rơi xuống một cái lưỡi dài đang thè ra, chạy từ đầu lưỡi đến gốc lưỡi rồi hết đường, hết đường một cách triệt để.

Chấn động quả nhiên đã lan truyền đến rường đá này, phỏng chừng nó cũng sẽ bị long ra và rơi xuống khỏi vách đá giống những cây trụ phía trên kia. Trác Mộc Cường Ba vẫn luôn bình tĩnh, giờ cũng không khỏi có chút hoảng hốt, không ngờ vượt qua bao gian khổ khó khăn, rốt cuộc lại đâm đầu vào tuyệt lộ thế này.

“Không đúng!” Merkin nói vói giọng khẳng dịnh chắc chắn, “Không đúng!” Nếu nói về những trải nghiệm thập tử nhất sinh, kinh nghiệm của y phong phú hơn Trác Mộc Cường Ba rất nhiều, không phải vô cớ mà lần nào y cũng có thể sống sót trở về. Trong khoảnh khắc nguy ngập ấy, Merkin chợt nhớ lại hàng chữ khắc trên cửa: “Một người trí tuệ tuyệt luân…” Trác Mộc Cường Ba từng dịch ra cho y như thế, đồng thời, sự kiện gặp phải bức tuờng Khổng Minh lúc ở cuối hành lang dưới đáy hồ cũng hiện lên trong óc y. Những người Qua Ba cổ đại kia rõ ràng rất thích thiết kế những cơ quan cạm bẫy khiến người ta cảm thấy tuyệt vọng. Giờ đây, trước mặt họ lại là một con đường cụt, trường hợp này chỉ có hai khả năng, một là Trác Mộc Cường Ba chọn sai đường, nhưng từ đầu tới giờ, y cũng có để ý, hình như không có ngã rẽ nào khác, vậy thì chỉ có một khả năng nữa, đây là một loại cơ quan cạm bẫy do đám nguời Qua Ba kia thiết kế, một cơ quan khiến người ta nảy sinh cảm giác tuyệt vọng!

Trong chớp mắt, không biết đã có bao nhiêu ý nghĩ xoay chuyển trong đầu Merkin, y đột nhiên đẩy Trác Mộc Cường Ba sang một bên, dồn sức đạp mạnh vào vách đá trước mặt. “Báp” một tiếng, cẳng chân Merkin bị vách đá cứng rắn phản chấn lại tê rần, nhưng y đã nghe được âm thanh vẳng ra từ bên trong… Vách đá này, chỉ dày chưa đến ba mươi xăng ti mét, vẫn còn hy vọng! Chấn động mỗi lúc một dữ dội, chỗ mép rường đá bụi bắt đầu rơi xuống lả tả, không ngừng có những viên đá nhỏ nảy bật lên. Merkin lấy ra mấy miếng kẹo cao su, bỏ vào miệng nhai nhồm nhoàm, lẩm bẩm nói: “Đánh cược một ván thôi vậy.”

Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Ông nói gì cơ?”

Merkin đẩy Trác Mộc Cường Ba ra, dính kẹo cao su lên giấy bạc rồi ấn lên vách đá, đoạn rút một quả lựu đạn, nói với gã: “Lùi lại, nằm xuống! Chuẩn bị sẵn sàng để nhảy!” Dứt lời, bản thân y cũng lùi lại mấy bước, ném lựu đạn vào chỗ dán giấy bạc, rồi lập tức thụp người xuống rường đá.

“Ầm!”, ánh lửa còn chưa tắt, Merkin đã nảy bật người lên như một con cá, lao thẳng vào miệng hang vừa bị phá vỡ ra. Cùng lúc ấy, chấn động mãnh liệt khiến cho rường đá gãy lìa từ gốc. Trác Mộc Cường Ba tuy chưa kịp chui vào trong, nhưng cũng chuẩn bị sẵn, đúng vào khoảnh khắc ruờng đá trầm xuống, gã đã kịp thời nhổm lên bám vào mép hang động. Khi Trác Mộc Cường Ba đã an toàn, đang định đu người lên chui vào hang, bỗng thấy Merkin tái mặt xoay người chui ra, học theo gã đeo người phía bên ngoài miệng hang, y lại chỉ dùng một cánh tay.

“Sao hả…” Trác Mộc Cường Ba còn chưa dứt lời, đã nghe tiếng “ầm ầm” vang tới, một quả cầu đá lớn đường kính ít nhất cũng phải ba mét 1ao vụt ra ngoài, rơi xuống vực sâu tối om như mực bên dưới. Cũng may là cửa hang nổ ra đủ lớn, mà hai người đều bám vào chỗ khe hở giữa quả cầu đá và cửa hang, nên không bị nghiến phải. Rất có thể, chấn động vừa nãy chính là do quả cầu đá này gây nên.

Hai người đều treo mình lơ lửng bên ngoài mép hang động, nhìn sắc mặt tái mét của đối phương, há miệng thở hổn hển. Merkin dường như vẫn chưa dám tin đó là sự thật, lẩm bẩm nói: “Cạm bẫy liên hoàn đáng sợ thật, tôi đã đi nhiều nơi, vậy mà cũng chỉ mới gặp lần đầu tiên.”

Dứt lời, Merkin chừng như định bò lên, nhưng lại bị Trác Mộc Cường Ba kéo tay giữ lại: “Đừng gấp.”

Tuy chấn động mãnh liệt đã qua đi, nhưng Trác Mộc Cường Ba vẫn cảm thấy vách đá dường như đang rung lên nhè nhẹ, ở nơi này tuyệt đối không thể lơ là dù chỉ một mảy may, bọn họ đã có mấy lần suýt toi mạng rồi. Hai nguời đợi thêm khoảng bảy tám phút, cánh tay đeo lơ lửng đã bắt đầu tê dại mà vẫn không thấy gì bất thường. Cả hai thở phào nhẹ nhõm, đang chuẩn bị trèo lên, đột nhiên vách đá lại rung lên một chập, chỉ nghe từ rất sâu bên trong hang động truyền ra một tiếng “thình”, dường như có vật nặng nào đó rơi từ trên cao xuống, kế đó là một loạt tiếng “uỳnh uỳnh uỳnh uỳnh” nặng nề vẳng tới.

Quả nhiên, quả cầu đá khổng lồ thứ hai đã lao ra theo quỹ tích của quả cầu trước, Trác Mộc Cường Ba và Merkin đều nhìn thấy vẻ kinh hoảng trong mắt nhau, không biết có còn quả cầu đá thứ ba nữa hay không. Ánh mắt hai nguời gặp nhau, ngay tức thì, cả hai gần như cùng lúc dồn sức bật người trèo vào hang động, không dám dừng lại, lập tức guồng chân chạy một mạch! Bên trong miệng hang do Merkin phá vỡ là một thông đạo hình tròn cao khoảng ba mét, nếu có quả cầu đá nào lăn xuống nữa, thông đạo này sẽ kín mít, không có khe hở nào, cũng không có đường nào khác. Hai người chạy men theo con dốc, cảm giác như thể đang ở trong đuờng tàu điện ngầm vậy.

Cả hai không dừng lại lấy hơi, cũng mặc kệ mình đang kiệt sức, chạy được nhanh chừng nào thì nhanh chừng ấy, cho đến khi leo lên đỉnh dốc, tới điểm cuối cùng của thông đạo hình ống đó, họ mới nhìn thấy một thông đạo khác ở phía trên, cách mặt đất chừng bảy tám mét. Quả cầu đá hiển nhiên là lăn từ trên đường hầm kia xuống. Sau khi chắc chắn vị trí hiện tại của họ không thể bị quả cầu đá đụng trúng, hai người mới dừng lại, một người dựa vào vách đá, người kia hai tay chống gối thở hổn hển, thậm chí không còn sức nói chuyện nữa. Tim họ lúc này đập mạnh hơn bao giờ hết, nước bọt trong cổ họng tiết ra rớt xuống thành dòng nơi khóe miệng.

Trác Mộc Cường Ba và Merkin cứ đứng thở hồng hộc như vậy mười mấy phút đồng hồ, không thấy có quả cầu đá nào lăn xuống nữa. Bấy giờ hai người mới dần bĩnh tĩnh trở lại, Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Đi bên nào?” Cuối đường hầm hình ống ấy là một đường hầm khác cắt ngang, họ đang đứng ở chính giữa ngã ba hình chữ “T”, hai bên đều đi được. Trác Mộc Cường Ba giờ đã không dám dẫn đường bậy nữa, vì vậy mới quay sang trưng cầu ý kiến Merkin.

Merkin trợn trừng đôi mắt xanh lên, hết ngó bên trái rồi lại ngó bên phải, đường đi hai bên giống hệt nhau, hơi dốc xuống dưới, y cũng không biết nên đi huớng nào, nhìn qua nhìn lại, cuối cùng lại nhìn sang phía Trác Mộc Cường Ba, mà Trác Mộc Cường Ba cũng đang trố mắt ra nhìn y. Hai người lồng ngực phập phồng, cứ vậy đuỗn mặt ra nhìn nhau, không nói một lời nào. Rốt cuộc, vẫn là Trác Mộc Cường Ba lên tiếng trước: “Đi bên phải vậy, găp đường nhánh thì rẽ phải, đây cũng là một thông lệ trong Mật giáo.”

Hai người đi vào lối bên phải, không bao lâu liền gặp một đại điện đèn đuốc sáng trưng, kỳ lạ nhất là cả đại điện này lại chỉ có một khung cửa nhỏ, không lớn hơn cửa chống trộm bình thường là mấy, bức tường ngăn cách giữa đại điện với đường hầm hình ống bên ngoài rất dày. Merkin cẩn thận xem xét cửa đá phía trên khung cửa ấy, sau đó lo lắng bảo Trác Mộc Cường Ba, nếu cánh cửa đá này sập xuống, sợ rằng khó lòng mà mở ra được.

Hai ngươi nhìn qua khung cửa vào bên trong, chỉ thấy bốn vách tường đều lấm tấm vết máu, chính giữa đại điện là vô số bộ xuơng người. Trông thấy cảnh tượng ấy, cả hai càng thêm dè dặt.

Mặt sàn đại điện có một rãnh lớn hình tròn, bên trong hình tròn lại có rất nhiều rãnh nhỏ, hình thành nên các ký hiệu và đồ hình của Mật giáo. Phần còn lại, dường như dùng vật liệu gì đó đắp lên, trải qua nhiều năm tháng những thứ này đều đã mục nát, giẫm chân lên phát ra tiếng “lạo xạo” như đang đi trên đống cành cây khô mục, đồng thời cũng làm vẩn lên vô số bụi đất.

Ở bốn huớng Đông Tảy Nam Bắc của hình tròn ấy dựng rất nhiều cây cột to bằng miệng bát, trên thân cột lại có các nhánh kim loại đâm ra theo phương ngang lởm chởm gai nhọn. Trên những gai nhọn đó treo lơ lửng những bộ xương người, không biết đã trải qua bao nhiêu năm tháng, vậy mà đều còn nguyên vẹn, không hề rời ra, chẳng qua có một vài bộ bị treo ngược, đầu cắm xuống đất chân chổng lên trời, nhìn xa, trông như vô số xác kiến treo trên cành cây. Lúc đến gần, hai người mới phát hiện, chỗ nối giữa các khớp xuơng đều được buộc bằng sợi vàng sợi bạc, chẳng trách vẫn giữ được nguyên vẹn hình người. Bên trong hình tròn, cũng có rất nhiều giá đỡ nhỏ, cao khoảng hai mét. Mỗi giá gồm một cây cột chống và một vật thể hình chữ Vạn ngược, trên chữ Vạn ngược ấy cũng đầy những gai nhọn, nhưng không có bộ xương nào. Trác Mộc Cường Ba để ý thấy bên dưới những giá đỡ nhỏ ấy đều có máng dẫn, kết cấu rất giống vơi skeets cấu huyết trì.

Phỏng chừng đại điện này được xây dựng để phục vụ cho lại hình tế bái nào đó, một trận gió âm thổi đến, những bộ xương trắng treo lơ lửng trên cao đung đưa qua lại, những khúc xương va chạm vào nhau, phát ra những tiếng “kẽo kẹt” rợn người. Lại một trận gió nữa phất qua, âm thanh lớn dần, văng vẳng trong đại điện rộng lớn, tựa hồ mỗi bộ xương trắng kia đều hồi phục sức sống, đang ngoác miệng ra cười khành khạch.

Trác Mộc Cường Ba và Merkm vừa mới trải qua một phen thập tử nhất sinh, giờ lại gặp phải gian đại điện này, trong lòng không khỏi dâng lên cảm giác bất an, chỉ sợ bước sai một bước sẽ lại phát động cơ quan cạm bẫy nào đó, nên cũng chỉ đi vài bước phía bên ngoài vòng tròn, không dám tiến vào trung tâm.

“Hay là chúng ta đi lối kia vậy.” Merkin đề nghị, Trác Mộc Cường Ba lập tức đồng ý ngay: “Được.”

Hai người bèn quay ngược trở lại ngã ba, đi vào lối rẽ phía bên trái. Ở cuối đường, họ cũng thấy một gian đại điện khác, cũng chỉ có một khung cửa nhỏ. So sánh ra đại điện này sạch sẽ hơn gian điện phía bên kia nhiều, có điều lại sạch sẽ đến mức hơi bất bình thuờng. Sàn bên trong đại điện lát bằng đá phiến, không có cây cột nào, cũng không có tượng Phật hoặc bất cứ đồ đạc, hình thù điêu khắc gì khác, trống rỗng như thể một nhà kho bỏ hoang.

Từ đầu bên này đến đầu bên kia đại điện khoảng tầm bốn năm trăm mét, Trác Mộc Cường Ba ngồi xổm xuống rờ tay lên một phiến đá lát sàn, nói: “Sàn nhà này rất có thể có vấn đề.” Khoảng cách xa như vậy, nếu là sàn nhà lật, bên dưới đầy gai nhọn thì rất khó vượt qua được.

“Đúng vậy, sạch sẽ quá!” Merkin cũng đồng tình, chợt nghe Trác Mộc Cường Ba kêu lên: “Nhìn phía trên kia xem!”

Merkin ngẩng đầu lên, chỉ thấy toàn bộ phần trần đại điện điêu khắc chi chít hình đầu của một loại thú nào đó, nhìn qua ống nhòm, hai người sơ bộ phán đoán đây là đầu rồng, mang đậm phong cách thời Đuờng. Merkin biết rõ dân Tạng thời kỳ Thổ Phồn cũng cực kỳ sùng bái rồng, có điều, chạm trổ nhiều đầu rồng thế này trên trần một gian đại điện kiểu như vậy không thể nào chỉ để trang sức! Trác Mộc Cường Ba cũng đang quan sát những đầu rồng, chưa phát hiện ra điểm gì đặc biệt, tạo hình của chúng giống hệt nhau, áng chừng chỉ to cỡ nắm tay, nhưng lại tỏa ra nhiều huớng khác nhau, Đổng Tây Nam Bắc, hướng nào cũng có.

“Miệng rồng có thể sẽ phun ra thứ gì đó.” Merkin ra hiệu cho Trác Mộc Cường Ba, bảo gã ném ba lô ra thử xem sao. Trác Mộc Cường Ba lấy máy tính và một số đồ không tiện va đập ra, rồi cầm ba lô lăng vào phía trong khung cửa, không thấy có phản ứng gì. Gã lắc lắc đầu. Merkin lại nói: “Dùng dây thừng.”

Trác Mộc Cường Ba hiểu ý, lấy dây thừng buộc vào ba lô, ném ra xa hơn nữa. “Bịch!” Chiếc ba lô rơi xuống đất, vẫn không có phản ứng gì. Trác Mộc Cường Ba nói: “Hay vì thời gian đã quá lâu, cạm bẫy mất tác dụng rồi?”

Merkin lắc đầu: “Những cạm bẫy chúng ta gặp phải từ truớc đến giờ, có cái nào mất tác dụng chưa?”

Trác Mộc Cường Ba đã đứng trên một phiến đá lát sàn, gã dợm chân bước lên trên hai bước, ngoảng đầu lại nói: “An toàn.” Merkin chau mày, nếu đi tới giữa điện những cơ quan cạm bẫy kia mới khởi động thì thực sự không có cách nào tránh được, vả lại, dựa trên kinh nghiệm hai lần trước đó, rất có khả năng đám người Qua Ba cổ đại kia sẽ thiết kế kiểu bẫy này. Mặc dù nghĩ vậy, nhưng Merkin vẫn giẫm chân lên sàn đại điện đi lại hai vòng. Bọn họ đã kiểm tra kỹ lưỡng, phần rìa bên ngoài này không bị chìm xuống, lật ngược, hay có hệ thống cảm ứng áp lực, nhưng đi ra giữa đại diện tình hình ra sao thì rất khó nói.

Hai người vẫn quyết định tiến lên phía trước, dẫu sao cũng không thể ở mãi trong đường hầm này được, vả lại nếu những đầu rồng kia có phun ra thứ gì, hai người cần bảo vệ đầu và tay là được. Bộ đồ do Merkin thiết kế có thể chống đạn, cũng không đến nỗi không ngăn được ám khí hay cung nỏ của người xưa. Merkin thầm nhủ: “Nếu có cả mũ bảo hiểm thì hoàn toàn có thể đi thẳng một mạch sang đầu bên kia rồi.” Hai nguời áp sát chân tuờng tiến lên, thầm tính nếu xảy ra sự cố thì có thể nấp vào góc chết của những đầu rồng ấy. Dù sao thì hai người đều đã quan sát kỹ phương vị cũng như góc nghiêng của chúng, chi cần men theo bờ tường leo lên cao là có thể tránh được các thứ phun ra từ trong miệng rồng. Dọc theo bờ tường có một hàng lỗ nhỏ, phỏng chừng có thể bắn ra tên hay phi tiêu gì đó, song chỉ cần họ có thể cố định thân người trên tường, thì cũng tránh được ám tiễn do những lỗ nhỏ này bắn ra. Hai người bọn Trác Mộc Cường Ba đã đi được nửa đường, vẫn không thấy gì khác lạ, nhưng không ai dám lơ là, mỗi khi giẫm lên một phiến đá lát sàn mới, họ đều phải kiểm tra trước xem chỗ mép nối có lung lay không, rồi dùng lực ấn lên xem có biến cố gì không, sau đó mới dám tiếp tục tiến bước. Khi gần đến chính giữa đại điện, Trác Mộc Cường Ba để ý thấy trên tường có hai vòng tròn, nhỏ hơn vòng tròn lớn trong gian đại điện phía bên kia, nhưng đường kính cũng đến năm sáu mét, bên trong vòng tròn là các ký hiệu và đồ hình Mật giáo, nhìn kỹ lại thấy rất giống hình vẽ Thái cực Bát quái. Hai vòng tròn này đối xứng nhau ở giữa gian đại điện, không biết có tác dụng gì. Merkin đứng bên cạnh Trác Mộc Cường Ba thúc giục: “Đi được chưa?”

“Ừm.” Trác Mộc Cường Ba đáp một tiếng. Gã đột nhiên phát hiện vòng tròn trên bức tường đối diện dường như đang chuyển động, bèn vô thức ngoảnh lại nhìn bức tường mình đang áp vào. Quả nhiên, vòng tròn trên bức tường bên này cũng đang chuyển động. Không phải là ảo giác, Trác Mộc Cường Ba mặc dù không biết đã xảy ra chuyện gì, nhưng gã tỉnh táo ý thức được rằng, đây không phải chuyện tốt đẹp gì cho cam. Ý nghĩ ấy vừa lóe lên trong đầu, gã đã buột miệng thốt lên: “Cẩn thận!”

Merkin vừa nghe Trác Mộc Cường Ba kêu lên, liền biết ngay có chuyện chẳng lành! Chỉ nghe hai tiếng “thịch thịch”, hai cánh cửa ở hai đầu đại điện cùng lúc hạ xuống, bít chặt lối vào và lối ra. Merkin chua chát thầm nhủ: “Lần này toi đời rồi!”

Bình luận