Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Mật Mã Tây Tạng – tập 10

Chương 232: Báu Vật Của Nhà Phật

Tác giả: Hà Mã

Cửu Cung biến đã dừng, nhưng tấm kim loại ngăn cách thông đạo vẫn không mở ra, bệ cơ quan đã bị xoay chuyển xuống góc bên dưới.

Merkin sải chân bước tới trước, lấy làm lạ nói: “Đây là cái gì vậy?”

Trác Mộc Cường Ba cũng bước tới theo, chỉ thấy trên bệ cơ quan lại là một bàn cờ mỗi bề hai mươi lăm ô vuông, ở những chỗ hai đường thẳng ngang dọc cắt nhau xuất hiện nút ấn hình tròn, một số nằm ngang với bề mặt bàn cờ, một số gồ hẳn lên, song cũng có một số nút lõm xuống, thoạt trông rất giống một cuộc cờ.

“Mật mang?” Trác Mộc Cường Ba đọc chữ viết trên bệ cơ quan, sau khi hiểu được đại khái, gã liền giải thích với Merkin: “Đây là cờ Mig mang, được du nhập vào Thổ Phồn từ trước đời Đường. Lạ thật, tôi chưa từng thấy bàn cờ nào như vậy… Á, chết rồi!” Gã bật máy tính của giáo sư Phương Tân lên, chỉ thấy màn hình toàn một màu đen kịt. Gã cuống quýt khởi động lại thấy màn hình nhấp nháy một chút, rốt cuộc cũng lên hình, chắc là do va đập khi tranh giành với Popo ban nãy.

Merkin cũng bị một phen hú hồn, giờ đây chiếc máy tính này gần như đã trở thành pháp bảo giúp họ sinh tồn trong mê cung Cửu Cung biến, pháp bảo mà mất linh, Cáo Lửa y có giảo quyệt đến mấy cũng chẳng làm gì được.

Đợi khoảng hai ba phút đồng hồ, mãi vẫn không thấy Trác Mộc Cường Ba làm gì, Merkin lại thắc mắc: “Vẫn chưa được à?” Nói đoạn, liền ngó đầu qua xem, chỉ thấy Trác Mộc Cường Ba đã nhập bố cục bàn cờ vào máy tính, phần mềm đang phân tích tính toán, những con số bên cạnh không ngừng nhảy lên, đã tính mấy triệu nước đi rồi mà vẫn chưa ra đáp án. Nếu những câu đố logic đơn giản như trước, máy tính sớm đã hoàn thành công việc từ lâu rồi.

Merkin lại quay sang nhìn bàn cờ, y vẫn có cảm giác cách sắp xếp loại cờ này dường như rất quen thuộc, bèn hỏi Trác Mộc Cường Ba: “Cờ Mig mang này, rốt cuộc là trò gì vậy?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Chính là cờ vây của Trung Quốc đó, có điều, xưa nay tôi chỉ thấy bàn cờ mười chín ô giảm xuống còn mười bảy ô, chứ loại bàn cờ lớn, kích cỡ mỗi chiều lên đến hai mưới lăm ô thế này thì chưa gặp bao giờ.”

Merkin sực hiểu ra, chẳng trách hình dáng bàn cờ này lại trông quen mắt đến vậy, thì ra chính là cờ vây. Nói vậy thì, đây chính là một tàn cuộc. Sự chú ý của Merkin giờ đã hoàn toàn tập trung lên bàn cờ. Lịch sử phát triển của cờ vây từng trải qua mười mấy lần biến hóa, từ bàn cờ 9×9 đến bàn cờ 13×13 rồi 17×17, cuối cùng mới hình thành bàn cờ 19×19. Số lẻ thỏa mãn được điều kiện hai bên thi đấu nhất thiết phải có một bên giành phần thắng, 19 lại là số đại diễn trong triết học cổ đại Trung Quốc, khi phát triển đến bàn cờ mười chín ô này, năng lực tư duy của con người đã đạt đến cực hạn, vì vậy mới không tiếp tục phát triển nữa. Nhưng giờ đây, ở trước mắt Merkin lại là một bàn cờ cỡ 25×25, lớn hơn rất nhiều. Nếu coi những nút ấn lõm xuống là quân đen, nút gồ lên là quân trắng, vậy thì cuộc cờ này tựa như hai con rồng khổng lồ đang quấn chặt vào nhau, ác đấu không phân thắng bại vậy.

Kỳ lạ là, cuộc cờ này thoạt nhìn tưởng rằng hạ cờ xuống đâu cũng được, những nghĩ kỹ lại, thì dù đi nước nào đối phương cũng có cách ứng phó, giống như hai cao thủ võ lâm đang đối đầu vậy, dù ai ra tay trước, xuất chiêu thức gì chăng nữa, đối phương cũng có thể lập tức nghĩ ra chiêu thức phá giải, chỉ có không xuất chiêu mới là cảnh giới cao nhất, một dạng cảnh giới vô chiêu thắng hữu chiêu!

Merkin tiếp tục chăm chú quan sát, chỉ thấy hai loại cờ dần dần biến ảo thành hai đạo quân đối đầu. Hai cánh quân đen trắng, quân tiên phong lao vào nhau, binh sĩ chia từng cặp chém giết điên cuồng, tiểu đội trưởng phối hợp hài hòa, đại đội trưởng bày mưu lập kế… bên tai y phảng phất vang lên tiếng gươm giáo khua nhau, trống trận rầm rầm như sấm dậy, mặt đất rung lên, người nghiêng ngựa ngả, tiếng chém giết, tiếng gào thét quện vào nhau. Merkin chợt thấy trước mắt tối sầm, suýt chút nữa là ngất xỉu tại chỗ. Y vội vàng nhắm chặt mắt, lùi lại một bước, cảm giác như thể bị người ta dùng búa tạ đập cho một cú vào ngực vậy, lùi một bước, rồi lại loạng choạng lùi thêm nửa bước nữa mới đứng vững.

Lúc này, máy tính của giáo sư Phương Tân vẫn đang chạy tính toán, Merkin liếc mắt nhìn thử, thấy đã tính đến bước thứ hai trăm triệu hơn rồi, vậy mà những con số bên cạnh vẫn đang nhảy với tốc độ mắt thường không thể nào phân biệt được. Y ủ rủ lắc đầu nói: “Vô dụng thôi, không tính ra được đâu.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tại sao?”

Merkin cười rầu rĩ: “Đây là một chân các.” Thấy Trác Mộc Cường Ba không hiểu, y lại giải thích thêm: “Chân các, là giai đoạn gần như kết thúc trung bàn, nhưng chưa thâu quan(32) trong một ván cờ vây, cục diện đột nhiên xuất hiện sự hài hòa tột độ, tiếp sau trừ phi xuất hiện một nước cờ cực diệu, bằng không một bên nhất định sẽ giành phần thắng. Tình huống như vậy, được gọi là chân các. Chân các trong phức tạp hơn, vì nước cờ của nó nhiều hơn, biến số cũng lớn hơn gấp bội. Tôi từng gặp qua một chân các giống như thế này, sau khi quân đen đi, quân trắng chỉ có một cách đối phó duy nhất, chỉ cần đặt sai là ắt sẽ đại bại; nhưng sau khi quân trắng hạ cờ, quân đen lại cũng chỉ có một cách ứng phó duy nhất, chỉ cần đặt sai chỗ sẽ thua chắc. Tiếp sau đó, cứ lặp đi lặp lại như vậy, một trăm hai mươi tám nước, nước nào cũng thế, chỉ có một cách ứng đối duy nhất, nhưng chưa một ai có thể nghĩ ra tình huống sau nước thứ một trăm hai tám, kể cả máy tính cũng không…”

Trác Mộc Cường Ba nhíu chặt hai hàng lông mày. Merkin tiếp tục nói: “Số lượng phép tính phải thực hiện quá lớn, mặc dù bộ nhớ máy tính này không tệ, bộ vi xử lý cũng khá mạnh, nhưng anh đừng quên, đây là bàn cờ lớn 25×25, tổng cộng có tới 625 điểm. Máy tính không thể tiến hành xử lý mơ hồ, vì vậy, để phá giải thế cờ, nó chỉ có thể dùng một trong hai cách: so sánh với các thế cờ có sẵn trong bộ nhớ, hoặc dùng phép thử thô bạo(33). Loại bàn cờ lớn này, cổ kim đều chưa từng gặp, máy tính của anh chắc chắn không thể có sẵn thế cờ trong bộ nhớ, vậy thì chỉ có thể dùng cách thử lần lượt để tính toán nước đi chính xác, cũng có nghĩa là liệt kê ra mọi khả năng có thể xảy ra trong cuộc cờ. Anh có biết, với một bàn cờ như thế này, sẽ có bao nhiêu khả năng không? Số lượng những khả năng này sẽ tăng lên theo cấp số mũ, là một con số cực kỳ khổng lồ. Chỉ nói bàn cờ mười chín ô, nếu dùng siêu máy tính có tốc độ tính toán 100.000.000.000.000 phép tính một giây để phân tích thì cũng phải mất mười nghìn năm mới xong, nếu đổi thành bàn cờ 25×25 này …” Merkin lắc đầu.

Trác Mộc Cường Ba trợn tròn mắt nhìn vào màn hình, trị số đã lên đến 12 con số. Vậy mà máy tính vẫn chưa đưa ra được nước cờ tiếp theo. Gã đành nói: “Vậy phải làm sao bây giờ?”

Merkin hít sâu một hơi, thở dài nói: “Chúng ta đành tự làm lấy vậy, cũng may vẫn chưa thấy cơ quan nào khởi động.”

“Không,” Trác Mộc Cường Ba nói, “Tôi thấy không ổn, tuy chưa biết là chuyện gì, nhưng tôi có cảm giác cơ quan đã khởi động rồi, chỉ là chúng ta chưa phát hiện ra thôi.”

“Cơ quan vô hình à?” Merkin nói: “Tôi chưa từng gặp qua thứ cơ quan cạm bẫy nào như vậy, trừ phi là sương độc hay khói độc?” Nói đoạn, y ghé mặt sát vào phía tường, phỏng chừng muốn nhìn rõ xem có làn khói sương mờ mịt nào lan ra không. Nhìn thì không thấy gì, nhưng Merkin dường như đột nhiên phát hiện được thứ gì đó, vội áp tay vào kẽ tường, kế đó chửi toáng lên: “Chết tiệt! Chó má thật!”

“Gì thế?” Trác Mộc Cường Ba cũng đưa tay lại chỗ mép tường đó, cảm thấy có lực hút, hút ngón tay gã dính lên tường.

Mặt Merkin xám như chì, y nói: “Áp suất âm, anh nói đúng, cơ quan đã khởi động rồi, chỉ là chúng ta không nhìn thấy thôi. Nó sẽ hút sạch không khí, biến gian phòng này thành môi trường chân không.”

“Nhưng máy tính không thể tìm ra nước đi chính xác, tôi cũng không biết chơi loại cờ này, làm sao bây giờ?”

Merkin nghiến răng nói: “Không ngại, để tôi thử!”

“Ông?…”

“Cờ vây rốt cuộc là gì?” Merkin đột nhiên hỏi một câu, nhìn vẻ mặt ngơ ngơ của Trác Mộc Cường Ba, rồi tiếp: “Đây là vấn đề đầu tiên ông nội hỏi tôi khi dạy tôi chơi cờ vây. Ông bảo tôi, cờ vây không chỉ là một trò chơi đơn giản, cũng không chỉ là đấu trí đấu lực giữa hai kỳ thủ. Hai loại quân cờ đen trắng, đại diện cho ánh sáng và bóng tối, chính và phụ, có và không, đây là tư tưởng triết học đơn giản nhất, đồng thời cũng cao siêu nhất. Nó biểu thị khởi nguyên và cấu thành của vạn vật, hết thảy biến hóa của sự vật trên đời đều không thoát ly khỏi tư tưởng này.”

Ngón tay Merkin bắt đầu đặt lên điểm nút đầu tiên. Ngay sau nút này bị ấn thụt xuống, liền có một nút khác tương ứng bật lên. Người xưa đã chuẩn bị sẵn nước cờ để đối phó, nếu y chọn sai, chắc hẳn gian phòng này sẽ không mở ra nữa, cho đến khi hai người chết mục, bị phu quét đường dọn dẹp sạch sẽ.

“Cảnh giới tối cao của cờ vây là sự hài hòa,” Merkin lại đi nước cờ tiếp theo, chậm rãi nói, “người mới học, thường hay tính toán sự được mất của một hai quân cờ phía góc; người hơi hiểu cờ vây một chút, liền học được cách phán đoán tình thế và thực địa; còn cao thủ đấu với nhau, lại là cuộc đọ sức về sự hài hòa.”

Mỗi khi đi một bước, Merkin đều hết sức dè dặt, tránh để bị mất đất. Y giống như người đang chơi cờ với chính mình, dần dần tiến vào trạng thái vong ngã, quên luôn cả sự tồn tại của Trác Mộc Cường Ba. Y không ngừng lẩm bẩm, chừng như trước mặt có một cao thủ cờ vây đang ngồi chễm chệ, bọn họ không chỉ so đấu sức cờ, mà còn đang sửa chữa lý thuyết chơi cờ của nhau nữa. “Thời xưa đánh giá kỳ thủ, toàn dựa vào việc người đó có thể nhìn được bao nhiêu nước đi phía sau, ai nhìn được chừng bảy bước đã là cao thủ đẳng cấp quốc gia rồi. Nhưng cách thức đánh giá này, lại hoàn toàn không thích hợp với môn cờ vây. Con người sở dĩ là con người, là bởi lẽ, ngoại trừ những tính toán và suy đoán lý trí ra, con người vẫn luôn có một thứ trực giác siêu lý tính, cũng chính là cảm tính. Cảm tính khiến chúng ta có thể đưa ra những phán đoán mơ hồ, cảm tính cũng là công cụ để chúng ta phân biệt giữa đẹp và xấu.”

Merkin lại đi thêm một nước cờ, nút ấn hình tròn gồ lên liền trở lại vị trí ngang bằng với mặt bàn.

“Chúng ta lên đỉnh núi cao, chỉ để ngắm nhìn phong cảnh trải dài vô tận dưới chân; chúng ta đối mặt với biển lớn, chỉ để cảm nhận sóng biển cuồn cuộn dâng trào; chúng ta ngưỡng mộ lũ chim trời, bởi chúng ta thấy được tự do trong đôi cánh chao liệng của chúng. Thứ con người theo đuổi, thực ra là một sự cân bằng giữa cảm tính và lý tính. Vì sự theo đuổi này, mà cờ vây được sáng tạo ra, nó không đại diện cho việc vây sát chém giết, mà là sự cân bằng ở bên trong mâu thuẫn!”

Merkin hạ cờ mỗi lúc một chậm hơn, năng lực tính toán của y bắt đầu không theo kịp, những nước đi của bệ cơ quan liên tiếp dồn ép, sát cơ ẩn hiện, mỗi bước như một liều chất xúc tác, khiến hai con rồng đen trắng càng thêm cừu hận, sát khí nồng đậm. Còn Merkin lại như một vị chuyên gia đàm phán hòa giải, mỗi nước cờ đều ẩn nhẫn nhẹ nhàng, cơ hồ muốn làm nguôi lửa giận của hai con rồng, chuyển từ cục diện đang quấn lấy nhau không chết không thôi sang hòa bình yên ả.

Hai con rồng lúc thì nhe nanh múa vuốt hung tàn, lúc lại quấn chặt lấy nhau, dịu dàng nhu thuận, mà thứ khiến chúng nảy sinh biến hóa nghiêng trời lệch đất như vậy, chỉ là những nút Merkin bấm xuống và bàn cờ tự động bật lên đối ứng. Đi được khoảng hơn ba mươi nước cờ, không khí trong phòng không biết đã bị hút mất bao nhiêu, Trác Mộc Cường Ba vẫn chưa cảm thấy có gì bất thường, nhưng đầu Merkin đã bắt đầu xuất hiện những cơn đau nhói. Y hiểu rất rõ, đó ra do máu và ôxy không được cung cấp đầy đủ, đồng thời bộ não y lại đang tiêu hao một lượng lớn chất đường và ôxy trong cơ thể. Merkin không thể không day day chỗ giữa hai chân mày, cố gắng làm bộ não đang nóng bừng lên vì hoạt động quá độ bình tĩnh trở lại. Cũng có lúc, y nhắm mắt, diễn dịch lại toàn bộ quá trình chinh chiến sát phạt trên bàn cờ.

Thời gian trôi đi từng giây, Trác Mộc Cường Ba cũng tiến vào trạng thái minh tưởng, ngồi xếp bằng dưới đất. Gã cần phải giữ bình tĩnh cho Merkin, đồng thời cũng cố gắng giảm nhịp thở xuống, để Merkin hít được nhiều ôxy hơn. Hai người cứ vậy lặng lẽ phối hợp, nỗ lực giành mảnh giấy thông hành đến cõi người sống từ trong tay thần Chết.

“Khụ khụ …” Merkin đột nhiên cảm thấy nôn nao bất an, y đẩy khẽ vào Trác Mộc Cường Ba đang ngồi bên cạnh. Trác Mộc Cường Ba mở mắt ra, chỉ thấy khóe miệng Merkin rỉ máu, giọng nói cũng trở nên thều thào vô lực, “nhanh… tôi không xong rồi, dùng máy tính, mau lên!”

Trác Mộc Cường Ba bấy giờ mới nhìn thấy, trên bàn cờ vẫn còn khoảng bốn năm chục ô trống, vội vàng nhập vào máy tính, bắt đầu tính toán lại. Khi bắt tay thực hiện, gã mới nhận ra bàn tay mình đang run lên nhè nhẹ, rõ ràng là do không đủ ôxy, hệ thần kinh của gã cũng bắt đầu tê liệt rồi.

Máy tính phân tích sắp xếp lại hơn năm mươi ô trống, rồi bắt đầu một lượt tính toán mới. Trác Mộc Cường Ba điều chỉnh lại hơi thở để giữ cho ý thức tỉnh táo, nhìn bộ dạng Merkin, chắc hẳn thần trí y đã rơi vào trạng thái mơ hồ, nếu cả gã cũng ngã gục ở đây, thì hai người chỉ có thể ở lại nơi này mãi mãi mà thôi.

Lại mấy phút nữa trôi qua, bàn tay Trác Mộc Cường Ba run run, ấn một nút nữa xuống. Sau đấy, tốc độ tính toán của máy tính mỗi lúc một nhanh hơn, cuối cùng, chỉ nghe “xì” một tiếng, tựa như một cái túi lớn bị xì hơi. Trác Mộc Cường Ba thở phào nhẹ nhõm, gã biết, mình lại có thể há miệng hít thở không khí một cách bình thường được rồi. Thần kinh đang căng như dây đàn được buông lỏng, Trác Mộc Cường Ba cũng không gắng gượng nổi nữa, mí mắt sụp xuống, loạng choạng ngã vật ra đất. Trong lúc thần trí vẫn đang mơ hồ, gã lờ mờ cảm thấy sàn nhà được nâng lên, gạch lát cuồn cuộn như sóng biển đưa gã đến một nơi khác. “Cửu Cung biến, lại chuyển động rồi sao?” Trác Mộc Cường Ba mang theo ý nghĩ ấy thiếp đi, hoàn toàn không còn tri giác.

Khi Trác Mộc Cường Ba mở mắt ra, gã thấy mình đang ở trong một đại điện rộng rãi, trần vòm có tranh vẽ thiên thần. Gã gắng sức ngẩng đầu lên, thấy chính giữa đại điện có bốn cây cột chống, hai bên là tượng Phật, phía trước là một hồ nước, ba dòng nước trong mắt phun ra từ miệng ba chiếc đầu thú kỳ dị mà gã không biết tên đổ xuống hồ. Merkin đang ngồi trên bên bờ hồ, trầm tư nhìn xuống mặt nước, hơi nước mù mịt, không khí nóng bức dị thường.

Trác Mộc Cường Ba vươn mình ngồi dậy, cảm thấy gân cốt toàn thân mềm nhũn, nhưng lại hết sức dễ chịu, như vừa được ngủ một giấc sau khi massage vậy.

“Đây là nơi nào? Chúng ta đã thoát rồi hả?” Trác Mộc Cường Ba ngước mắt nhìn quanh.

Merkin nói: “Ừm, chắc là đã ra khỏi Cửu Cung biến rồi, tôi nghe nói, trong hơn một vạn gian phòng, có một gian được bố trí cơ quan phức tạp nhất, sau khi phá giải cơ quan, căn phòng ấy sẽ tự động dịch chuyển đến lối ra. Phỏng chừng, bàn cờ hai mươi lăm ô kia chính là cơ quan phức tạp nhất rồi.”

Trác Mộc Cường Ba nhổm người đứng dậy bước đến gần Merkin, chỉ thấy hai bên trái phải đại điện này đều có cửa mở, nhìn qua khung cửa cỏ thể thấy hai gian bên cạnh cũng có hai hồ nước. Gã ngờ vực hỏi: “Đây chính là trung tâm thần miếu mà người Qua Ba cổ đại muốn bảo vệ sao?”

Gương mặt Merkin cũng lộ ra vẻ nghi hoặc, y nói: “Tôi cũng lấy làm lạ, nơi này giống như một phần của Cửu Cung biến hơn. Tôi đi xem thử rồi, những gian phòng này cũng có cùng kết cấu, chẳng qua chúng không di chuyển thôi. Có lẽ chúng ta đang ở dưới đáy của Cửu Cung biến dưới một hình thức khác.”

“Dưới đáy của Cửu Cung biến?” Trác Mộc Cường Ba ngẩng đầu lên. “Chúng ta rơi từ bên trên xuống hả?” Merkin chỉ chỉ ngón tay, trong bức tranh trên trần đại điện có một lỗ hình vuông, khi phiến đá khép lại, đường rãnh ẩn vào trong tranh, nhìn thoáng qua không dễ phát hiện. Trác Mộc Cường Ba nói: “Vậy ông đã tìm được lối ra chưa?”

Merkin lắc đầu: “Tôi đi xem hết một lượt rồi, những gian đại điện này bố trí thành hình chữ hồi(34), đi một vòng liền trở lại chỗ cũ. Vừa nãy tôi đang nghĩ, không biết liệu dưới hồ nước này có cơ quan gì không nữa.”

Trác Mộc Cường Ba thò tay xuống nước, giật mình thốt lên: “Nóng quá!”

Merkin nói: “Nhiệt độ ở đây rất cao. Chắc chúng ta đã ở rất gần mắt núi lửa toàn nham thạch nóng chảy rồi.” Tuy bọn họ mặc đồ liền thân, nhưng cũng không cảm thấy nóng bức gì, có điều phần đầu mặt lộ ra ngoài đã đầm đìa những hạt mồ hôi to như hạt đậu.

“Đi, tôi dẫn anh đi xem thứ này.” Merkin đi trước, dẫn Trác Mộc Cường Ba vòng sang một gian điện khác, chỉ thấy kết cấu gian đại điện này không khác gì những gian xung quanh, ở góc cũng có một hồ nước, hai bên là tượng Phật. Chỉ khác một điều là, diện tích gian điện này lớn hơn một chút, dài chừng hai mươi mét, rộng mười mét, đối diện với hồ nước là một hàng rào lớn, bên trong hàng rào dường như đặt mấy bức tượng Phật.

Merkin dẫn Trác Mộc Cường Ba tới trước hàng rào, bây giờ gã mới nhận ra, thứ xếp sát tường bên trong hàng rào kia không phải là tượng Phật, mà hình như là những bộ áo giáp, tạo hình giống võ sĩ thời cổ đại.

Gã hỏi: “Đây là cái gì vậy? Áo Giáp à?”

Merkin đáp: “Không giống, tôi chưa từng thấy áo giáp nào như vậy. Anh nhìn kỹ chỗ tiếp giáp ở phần đầu mà xem, bên trong không rỗng đâu. Tôi thấy chúng không giống áo giáp, mà giống những cỗ máy hơn. Còn cả hàng rào này nữa, cái lỗ dưới đất này chắc là do vật nặng rơi xuống khoét ra, tôi có cảm giác hàng rào này có thể nâng lên được, chỉ là chúng ta không đủ sức nâng nó lên mà thôi.”

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn bốn phía xung quanh: “Có lẽ cơ quan ở ngay gian đại điện này đấy.”

Merkin lắc đầu nói: “Tôi đã thử tìm rồi, không phát hiện gì cả.”

Trác Mộc Cường Ba lại nói: “Tìm lại lần nữa, chúng ta cùng tìm xem.”

Tìm kiếm thêm một lượt khắp đại điện, không thấy có cơ quan nào, nhưng Trác Mộc Cường Ba và Merkin lại phát hiện một số dấu vết khác, có người đã đi qua nơi này! Đám người ấy không chỉ đã tới đây, mà còn xóa sạch mọi dấu vết. Có điều, chắc do người đông quá, chúng vẫn để sót lại một số đầu mối mờ nhạt.

Trác Mộc Cường Ba càng lúc càng thêm khẳng định: “Cơ quan chắc chắn là ở đây, chỉ là đã bị che dấu đi thôi. Bọn chúng không muốn chúng ta phát hiện ra cơ quan, ừm …” Nghĩ tới đây, Trác Mộc Cường Ba chợt nhớ đến những món vũ khí từng bị người khác dịch chuyển ở Địa ngục nước và lửa trong Địa cung Ahezt. Gã lập tức nói: “Cơ quan ở trên tượng Phật kia.”

Hai người liền leo lên các tượng Phật, kiểm tra những thứ trên tay, đeo ở lưng các bức tượng, quả nhiên không ngoài dự đoán, họ phát hiện ra sự bất thường trên hai bức tượng gần hồ nước. Hai tượng Phật này có tạo hình phẫn nộ, nhưng trên tay mỗi bức tượng đều có một vật chứa. Một bức cầm bát nước lớn, giơ cao quá đầu, bộ dạng như đang chuẩn bị ném ra, trên bốn cánh tay khác đều có vũ khí; bức tượng còn lại ôm một vò rượu, áp sát vào ngực, như muốn nâng lên đổ vào miệng.

Trác Mộc Cường Ba và Merkin không tốn sức mấy đã nhẹ nhàng lấy được hai vật chứa đó ra khỏi tượng Phật.

.

.

XUYẾT THUẬT(35), XẠ PHÚC(36), GIẢI ĐỐ

.

Trác Mộc Cường Ba phát hiện, trong bát nước có khắc một hàng chữ nhỏ: “Khi cái Một phủ khắp cái Nhiều, cái Nhiều có thể chứa đựng cái Một; khi cái Nhiều phủ khắp cái Một, cái Một có thể chứa đựng cái Nhiều.”(37) Trác Mộc Cường Ba không hiểu câu thiền ngữ này cho lắm, dịch thế nào cũng thấy không ổn, bật máy tính ra xem thì chỉ thấy màn hình đen kịt, không thể khởi động được nữa. Merkin nói đùa: “Máy tính hoạt động quá độ, nên bãi công phản đối rồi.”

Không có sự trợ giúp của máy tính, hai người nhất thời cũng không biết phải làm sao. Merkin chợt phát hiện bên trong bầu rượu y đang ôm cũng có chữ, hai người liền cúi đầu vào xem xét thật kỹ. Sau một hồi vừa dịch vừa đoán, suy đi tính lại, hai người đại khái cũng hiểu được ý đồ của cổ nhân. Hai vật chứa này, một cái đáy nông miệng rộng, một cái cổ cao thân hẹp, trọng lượng và dung tích cũng hoàn toàn khác nhau, nếu muốn cơ quan khởi động, thì hai pho tượng này phải ôm vật chứa có trọng lượng bằng nhau mới được. Ngoài ra, cổ nhân còn cung cấp một con số cụ thể, yêu cầu hai vật chứa này đều phải nặng bằng đúng chín cân.

Nhìn yêu cầu nghiêm ngặt trong vật chứa, hai người cùng nhăn mặt không biết giải quyết thế nào. Trên tay họ lúc này không có công cụ cân đo đong đếm, vì vậy họ hoàn toàn không biết hai vật chứa này nguyên bản nặng bao nhiêu, làm sao có thể đong ra được trọng lượng chín cân một cách chuẩn xác chứ? Cổ nhân đã cho sẵn một loạt các con số, như đường kính miệng và đáy vật chứa, chu vi vòng lớn nhất, độ cong mặt gấp… hiển nhiên là yêu cầu họ phải tính toán một hồi. Khốn nổi, kiến thức toán học của cả hai đều có hạn, có một đống số liệu ấy rồi mà vẫn chẳng biết làm thế nào.

Trác Mộc Cường Ba ngẫm nghĩ một hồi, đột nhiên buột miệng thốt lên: “Xuyết thuật!”

“Cái gì cơ?” Merkin không hiểu.

Trác Mộc Cường Ba đáp: “Tương truyền nhà toán học lớn của Trung Quốc thời cổ đại là Tổ Xung Chi cùng với con trai ông ta đã soạn ra một bộ sách toán học, tên là Xuyết thuật, trong sách nhắc đến các phương pháp tính toán khác nhau, tất nhiên có cả công thức tính thể tích của những khối hình học bất quy tắc, như hình cầu, hình bán cầu… chỉ có điều, nội dung bộ sách này quá sâu sắc, nên đến thời Tống thì đã thất truyền. Dụng ý của hai vật chứa này, hiển nhiên là muốn chúng ta sử dụng Xuyết thuật để tính toán thể tích của chúng, sau đó mới tính ra lượng nước cần thiết để nó đạt được trọng lượng chín cân.”

Merkin chưng hửng: “Thất truyền rồi? Vậy thì anh đừng nói còn hơn, giờ chúng ta phải nghĩ cách để hai cái thứ này đều nặng đúng chín cân đi.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Chúng ta có thước đo khảng cách bằng laser, có thể đo được độ dài chuẩn xác. Chúng ta có cọc tiêu, dây thừng, có palăng định hướng, có thể làm thành một cái cân, nhưng vấn đề là phải có vật tham chiếu trọng lượng làm quả cân…”

“Gượm đã, anh nói vật tham chiếu trọng lượng hả?” Merkin nói, “tôi…tôi biết trọng lượng của từng cây súng, chuẩn xác đến đơn vị gram!”

Trác Mộc Cường Ba chộp lấy hai vai Merkin nói: “Vậy là được rồi! Bắt tay làm thôi!”

Sau mấy phen thử đi thử lại, rốt cuộc họ cũng khiến hai vật chứa ấy đạt được cân bằng, sau đó lại đổ thêm vào mỗi bên mấy giọt nước, đặt về chỗ cũ, kiên nhẫn đợi cho nước sôi sùng sục bên trong bay hơi bớt đi.

Đầu tiên, cột nước phun ra từ ba cái đầu thú nhỏ dần, rồi biến mất. Kế đó, lại nghe một loạt tiếng “ào ào”, nước nóng trong hồ cuồn cuộn đổ ra, phần đáy hồ không ngờ lại nghiêng đi tạo thành một con dốc thoai thoải. Trác Mộc Cường Ba và Merkin đưa mắt nhìn nhau, gã bất giác thốt lên: “Lại phải đi xuống nữa hả? Rốt cuộc là xuống đến tận đâu đây?”

Merkin nói: “Chúng ta từ lúc vào trong thần miếu này, toàn là đi xuống, e rằng đã xuống đến tầng bình đài thứ nhất rồi cũng nên?”

“Không.” Trác Mộc Cường Ba lắc đầu nói. Khác với bọn Merkin, nửa chừng mới nhảy dù xuống, nhóm người của gã leo lên đây từ tầng thấp nhất, nên hiểu được rất rõ ba tầng bình đài này rốt cuộc cao chừng nào. Trác Mộc Cường Ba điềm đạm nói: “Chúng ta đang ở trong lòng núi, áng chừng đã xuống đến độ cao ngang với tầng bình đài thứ hai rồi, tiến lên thôi!”

Hai người giữ thăng bằng, trượt xuống con dốc vẫn còn ướt nước, rơi vào gian phòng phía dưới. “A!” Vừa chạm đất, Trác Mộc Cường Ba đã nhíu mày. Gian phòng này không có gì đặc biệt, giống hệt như gian phòng phía trên nó, cũng có hồ nước như thế, cũng những bước tượng như thế, chỉ là ở đầu phía bên kia không có hàng rào và những bộ áo giáp bên trong mà thôi.

Merkin nói: “Tôi nói không sai đúng không? Chúng ta vẫn đang ở trong Cửu Cung biến, chẳng qua chỉ đổi sang một dạng thức khác thôi.”

Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát, rồi gật đầu công nhận: “Ông nói đúng, có lẽ chúng ta đang ở dưới đáy của Cửu Cung biến thật. Tôi nghĩ, tôi đoán được kết cấu của Cửu Cung biến này là như thế nào rồi.”

“Hả?” Merkin tròn mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ông xem, chúng ta rơi xuống giữa gian phòng nhỏ này, mà phía bên trên lại là hồ nước ở sát tường. Những gian phòng này cũng quây lại thành hình chữ “hồi”, vậy có nghĩa là, các phòng bên dưới nhỏ hơn phòng bên trên một cỡ.”

Merkin nói: “Vậy thì sao?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Cửu Cung biến không phải một khối lập phương vuông vắn, ông có thể nói nó như một khối rubic khổng lồ, chỉ là, khối rubic này lại cắm một góc nhọn xuống, giống như con thoi vậy.”

Merkin hiểu được ý Trác Mộc Cường Ba, nhíu mày nói: “Ý anh là, giống như hai cái kim tự tháp một xuôi một ngược chập vào nhau?” Trác Mộc Cường Ba gật đầu, Merkin lại biến sắc mặt tiếp lời: “Cũng có nghĩa là, chúng ta càng đi xuống, hành lang càng nhỏ, đến gian phòng cuối cùng, tức là đến được lối ra cuối cùng rồi.” Hai người đều không biết, không chỉ Cửu Cung biến này, mà toàn bộ Bạc Ba La thần miếu đều có kết cấu như vậy.

Sau khi biết được phương hướng đi tiếp, tinh thần hai người đều phấn chấn hẳn lên. Họ bắt đầu lần lượt tìm kiếm trong các gian phòng nhỏ xếp thành hình chữ “hồi” này, gian nào lớn hơn đồng thời có hàng rào sắt, chắc chắn là có cơ quan thông xuống tầng bên dưới.

Đi được nửa vòng, hai người đã tìm thấy căn phòng lớn hơn kia. Chỉ thấy phía trước hồ nước trong phòng có bày một bàn đá dài, nói liền hai bức tường. Mặt bàn phía bên bọn Trác Mộc Cường Ba có sáu đường rãnh, trên mỗi đường rãnh có một khối cầu bằng đá tròn nhẵn. Phía trước những đường rãnh này là bốn lỗ tròn, kích cỡ vừa khít với khối cầu đá. Phía bên hồ nước lại chỉ thấy có tám lỗ nhỏ. Bất thình lình trông thấy một thứ cổ quái như vậy, Merkin buột miệng hỏi: “Hả, đây là cái gì?”

Trác Mộc Cường Ba cẩn thận xem xét hàng chữ ở mé bên chiếc bàn đá, rồi giải thích: “Tôi hiểu rồi, cơ quan này tương tự với trò chơi xạ phúc rất thịnh hành thời Hán Đường, cũng là một dạng trò chơi giải đố. Quy tắc thời bấy giờ là giấu thứ gì đó dưới cái bát, đồng thời cung cấp một số gợi ý nhất định, người chơi sẽ dựa theo những manh mối đó mà suy đoán xem thứ giấu bên dưới cái bát là gì.”

“Vậy cái này thì sao?” Merkin hỏi.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Sáu quả cầu đá này kích cỡ giống hệt nhau, nhưng trọng lượng thì khác, chỉ có bốn quả là phù hợp quy tắc, chúng ta có bốn lần cơ hội, mỗi lỗ chỉ có thể bỏ một quả cầu vào, sau đó tám cái lỗ nhỏ ở phía trên kia sẽ cho chúng ta gợi ý. Trong tám lỗ ấy sẽ xuất hiện tám cọc báo hiệu, bốn đen bốn trắng, nếu anh chọn được quả cầu có trọng lượng phù hợp thì sẽ xuất hiện một cọc báo hiệu màu trắng. Nếu quả cầu có trọng lượng phù hợp ấy lại được bỏ vào đúng lỗ, thì sẽ xuất hiện một cây cọc báo hiệu màu đen. Chỉ khi chọn được quả cầu có trọng lượng phù hợp đồng thời bỏ nó vào đúng lỗ, cơ quan mới mở ra.”

Merkin nói: “Tổng cộng chỉ có sáu quả cầu đá, lấy đâu ra bốn lần cơ hội?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi không biết, dựa theo những gì khắc trên đó mà dịch ra thì là như vậy.”

Merkin chăm chú quan sát hai bên đường rãnh, nói: “Ồ, tôi hiểu rồi, hai đầu đường rãnh này có cửa chập, sau khi bỏ bốn quả cầu đá vào lỗ, cửa chập sẽ mở để bốn quả cầu ấy lăn ra. Sáu quả cầu chọn bốn quả, sau đó lại phải xác định được thứ tự bốn quả cầu ấy, vậy mà chỉ có bốn lần cơ hội, có lẽ chúng ta phải dựa vào vận may rồi.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Sáu quả cầu chọn ra bốn quả chính xác, ít nhất cũng phải mất hai lần, thứ tự của bốn quả cầu này, lại có hai mươi bốn loại tổ hợp…” gã gập ngón tay lại tính toán, hai hàng lông mày bắt đầu nhíu lại.

Merkin xua tay can: “Đừng tính nữa, tính thế nào cũng không được đâu, giờ máy tính cũng không dùng được, vậy thì cứ làm như tôi nói đi, dựa vào vận may vậy, may mắn thì bốn lần cơ hội cũng đủ rồi, không may thì khó nói lắm.” Dứt lời, ý liền cầm một quả cầu đá lên.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Đợi đã, loại cơ quan này có thể phá giải được, không cần phải đối chiếu từng cách một. Chúng ta chia sáu quả cầu này ra làm hai nhóm, mỗi nhóm ba quả, rồi chọn ra hai quả từ mỗi nhóm.”

Merkin và Trác Mộc Cường Ba lần lượt cầm quả cầu ở đường rãnh thứ nhất thứ hai và thứ tư thứ năm lên, bỏ vào các lỗ từ một đến bốn. Các lỗ nhỏ phía bên kia bàn hiện lên hai cọc báo hiệu màu đen. Hai người cả mừng, cảm thấy vận may của mình cũng không tệ lắm. Hai cọc màu đen có nghĩa là trong bốn quả cầu họ chọn có hai quả là chính xác, vả lại cũng đã được bỏ vào đúng lỗ của nó.

Chỉ nghe “cách” một tiếng, cửa chập bên mé phải đường rãnh mở ra, hai quả cầu còn lại lăn vào. Tiếp đó, cửa chập bên trái cũng mở ra, lại có đủ sáu quả cầu xếp ngay ngắn. Lúc này, Trác Mộc Cường Ba và Merkin có thể khẳng định, hai quả cầu còn lại nhất định là có trọng lượng phù hợp, chỉ là không biết bỏ vào lỗ nào mới đúng. Tiếp sau đấy, họ chọn quả số một và số hai trong bốn quả cầu ban đầu, vị trí cũng không thay đổi, cộng với quả số ba và số sáu. Lần này, cọc báo hiệu hiển thị hai trắng một đen. Trác Mộc Cường Ba chau mày, cũng có nghĩa là, trong quả số một và số hai chỉ có một quả phù hợp cả hai điều kiện, còn quả số ba và số sáu đều sai vị trí. Lần tiếp theo, bọn họ để lại quả cầu số một, chọn quả số năm, số ba và số sáu thì cho vào lỗ số hai và số ba.

Lần này xuất hiện hai cọc màu trắng, Merkin trầm ngâm giây lát rồi hoan hỉ nói: “Tôi biết cách phá giải rồi.”

Trác Mộc Cường Ba gật đầu, gã cũng đã biết. Hai người bỏ các quả cầu đá vào lỗ, cơ quan chầm chậm mở ra, lại là một con dốc thoai thoải khác. Hai người xuống tầng dưới, cứ lặp đi lặp lại như vậy, cuối cùng chỉ còn bốn gian phòng, xuống thêm một tầng nữa thì chỉ còn một gian phòng duy nhất.

Diện tích căn phòng này lớn hơn gian phòng có cơ quan ở tầng trên nhiều. Trác Mộc Cường Ba dùng mắt áng chừng, cảm giác cả bốn gian phòng ở tầng trên cộng lại cũng không lớn hơn gian phòng này là mấy.

Trong phòng không có tượng thần Phật, cũng không có hồ nước, dưới đất chỉ có một vũng nước đọng, nhưng vẫn còn hàng rào sắt và những bộ giáp bên trong. Bệ cơ quan được đặt ngay chính giữa phòng, cao chừng hơn một mét, trông rất giống bục diễn giảng. Trên bệ cơ quan khắc một câu đố logic: “Thần Hiệp Ốc Ương Cách nhìn thấy cây thần, dự kiến sau khi chiến tranh kết thúc sẽ đến Ngạn quốc, hy vọng có thể ngăn chặn được cuộc phân tranh giữa Ngạn quốc và Gia quốc. Ở cửa Ngạn quốc có bốn vị Đốn (một loại ma quỷ trong Bản giáo) và bốn Quán Ba (một loại ma quỷ chuyên rải bệnh dịch trong Bản giáo), nghe Hiệp Ốc Ương Cách trình bày ý định xong, bọn họ liền đưa ra một câu đố nhằm khảo nghiệm trí tuệ của Hiệp Ốc Ương Cách…

Vị Đốn thứ nhất nói: “Trong chúng ta ít nhất có một kẻ nói thật.”

Vị Đốn thứ hai nói: “Trong chúng ta có ít nhất ba kẻ nói thật.”

Vị Đốn thứ ba nói: “Trong chúng ta có ít nhất năm kẻ nói thật.”

Vị Đốn thứ tư nói: “Trong chúng ta có ít nhất bảy kẻ nói thật.”

Vị Quán Ba thứ nhất nói: “Trong chúng ta ít nhất có một kẻ nói dối.”

Vị Quán Ba thứ hai nói: “Trong chúng ta ít nhất có hai kẻ nói dối.”

Vị Quán Ba thứ ba nói: “Trong chúng ta ít nhất có bốn kẻ nói dối.”

Vị Quán Ba thứ tư nói: “Trong chúng ta ít nhất có sáu kẻ nói dối.”

Hỏi: “Có mấy kẻ nói dối.”

Bên dưới đề mục là một hàng nút bấm hình dạng giống như chiếc lược nhỏ, hiển nhiên là yêu cầu phải chọn con số đúng. Các con số trong đề mục cũng là nút bấm, có thể biến động.

Trác Mộc Cường Ba và Merkin nghĩ ngợi một lúc lâu, càng nghĩ lại càng thấy hồ đồ. Merkin thậm chí còn chất vấn Trác Mộc Cường Ba xem gã dịch có chuẩn xác không, Trác Mộc Cường Ba khẳng định như đinh đóng cột: “Chữ này nghĩa là “ít nhất” thì đúng rồi, không thể sai được, còn lại toàn là số và những chữ đơn giản, không thể nhầm được.”

Merkin lẩm bẩm nói: “Thêm một chữ “ít nhất” là cả đề mục hoàn toàn thay đổi đấy, một người nói thật và ít nhất một người nói thật, là hai ý nghĩa khác hẳn nhau.”

Đối với các câu đố mang tính logic kiểu này, Trác Mộc Cường Ba và Merkin trước giờ đều dựa vào máy tính giúp sức, giờ máy tính đã hỏng, hai người nhất thời cũng chỉ biết gãi đầu gãi tai. Thêm vào đó, Merkin lấy làm đau đầu với thứ tiếng Trung mà Trác Mộc Cường Ba dịch ra, y bèn dứt khoát không nghĩ nữa, để một mình gã tự tính toán. Trác Mộc Cường Ba phân tích đi phân tích lại một hồi lâu, cuối cùng khẳng định, chắn chắn có bốn người nói dối.

Bốn nút gồ lên được nhấn xuống, một thoáng sau không thấy động tĩnh gì, không có cánh cửa nào mở ra, cũng không rung chuyển gì, Merkin bắt đầu có một dự cảm chẳng lành, y căng thẳng nhìn sang phía Trác Mộc Cường Ba: “Này…”

“Cạch cạch…” Sau lưng đột nhiên vang lên tiếng cơ quan chuyển động, hai người ngoảnh đầu lại nhìn, chỉ thấy hàng rào sắt kia đang từ từ dâng lên, đồng thời mấy “cỗ áo giáp” bên trong dường như cũng bắt đầu động đậy. Đúng lúc hai người quay đi đó, bệ cơ quan trước mặt bất thình lình “bùng” một tiếng, phun khói mù mịt. Hai người vội dùng một tay che kín mũi miệng, tay kia khua loạn xạ.

Khói mù tan đi, Merkin đẩy mạnh Trác Mộc Cường Ba một cái: “Anh ấn sai rồi! Trời ạ! Đã đến gian phòng cuối cùng rồi, mà anh lại ấn sai! Ở đây chúng ta biết chạy đi đâu bây giờ!”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Giờ không phải là lúc oán trách, tôi không hiểu, những bộ giáp kia sao lại chuyển động được, nhân lúc bọn chúng còn chưa ra, mau nghĩ cách khác đi.”

Merkin xòe hai bàn tay ra nói: “Tôi còn cách gì nữa đây? Phải xem thứ kia là gì rồi tính tiếp!” Cả căn phòng rung lên một chập, cảm giác như chiếc thang máy bị kẹt giữa lưng chừng, đang rơi xuống từng chút từng chút một, tốc độ không nhanh lắm, cứ thụt một cái rồi lại dừng.

Mấy bộ áo giáp kia giống như những người máy đã được bật công tắc khởi động, đứng thẳng dậy. Thoạt nhìn gai góc gồ lên lởm chởm, những mảnh giáp sáng lấp lánh toát lên sát khí ngùn ngụt là biết chúng chẳng phải thứ tử tế gì.

“Nhanh lên, nhân lúc bọn chúng còn chưa hoàn toàn khởi động!” Merkin rút súng ra, gí họng súng vào khe hở trên hàng rào, bắn quét một loạt đạn. Chỉ nghe “tinh tinh tinh tinh…” như thể những hạt trân châu rơi xuống khay ngọc, ánh lửa bắn tóe khắp phòng, đạn bắn vào đều bị bật tung ra, sém chút nữa chính bản thân y cũng bị thương.

Bị hai viên đạn sượt qua mặt, Trác Mộc Cường Ba chỉ thấy má mình bỏng rát, gã vội kêu lên: “Giáp dày quá, không thủng đâu, đừng phí đạn nữa.” Dứt lời, gã rút hai quả lừu đạn cuối cùng, ném vào trong hàng rào.

Sau tiếng nổ, chỉ thấy ba bộ áo giáp ở mé bên phải đã bị hất ngã ngửa, bụi đất mù mịt, nhưng tay chân vẫn không ngừng chuyển động, hiển nhiên không bị tổn thương gì lớn lắm. Trác Mộc Cường Ba hất tay xua bụi xung quanh mình, vừa ho sặc sụa vừa nói: “Đây là cái thứ gì vậy chứ, khục khục …”

Lúc này, hàng rào sắt cũng hoàn toàn mở ra, ba bộ áo giáp bên trái đã đứng thẳng lên bước tới. Chúng dường như cảm ứng được sự có mặt của Trác Mộc Cường Ba và Merkin, chầm chậm ngoảnh đầu lại phía hai người, phỏng chừng phần đầu bộ áo giáp là một khối đặc ruột, không có khe hở nào, cũng không có lỗ mở cho mắt mũi tai miệng. Sau khi hướng mặt về phía Trác Mộc Cường Ba và Merkin, ở bên dưới vị trí vốn là cái miệng đột nhiên bắn ra mấy cây đinh dài, nhằm thẳng vào chỗ hai người. Lúc này, Merkin không hiểu đã phát hiện ra điều gì, vẫn đứng bần thần ra đó.

“Tránh ra!” Trác Mộc Cường Ba bổ tới, đè Merkin ngã lăn ra đất.

Mấy cái đinh bắn xuống sàn, hoa lửa bắn tóe. Trác Mộc Cường Ba nói: “Ông đần thối mặt ra đó nghĩ cái gì vậy?”

Merkin chỉ tay vào chỗ gã vừa ném lựu đạn nói: “Hình như có đường ra!”

Trác Mộc Cường Ba vội nhìn theo hướng ấy, bức tường sau lưng mấy bộ áo giáp bị hất ngã ngửa ấy đã lung lay, trong các kẽ hở dường như có ánh sáng chiếu vào. Trác Mộc Cường ba ngạc nhiên thốt lên: “Bức tường này chỉ có một lớp mỏng thôi à!”

Hai người nhanh chóng tính toán, nếu ném một quả lựu đạn đã trông thấy ánh sáng chiếu vào, vậy chỉ cần ném thêm một hai quả nữa, nói không chừng có thể nổ ra một lối thoát. Trác Mộc Cường Ba vội nói: “Nhanh lên!”

Merkin lấy lựu đạn ra, ngần ngừ nói: “Chỉ còn lại một quả cuối cùng thôi.” Lúc này mấy bộ áo giáp bên trái dường như đã khóa chặt vị trí của Trác Mộc Cường Ba và Merkin, đang sải chân đi thẳng tới, đồng thời, mấy bộ bị ngã ngửa ra dưới đất cũng đã ngồi dậy được.

Merkin nhắm vách tường có ánh sáng hắt ra, ném quả lựu đạn vào đó, lại một tiếng nổ nữa, bức tường đã bị phá ra một lỗ thủng đường kính chừng một mét. Ánh lửa đỏ rực từ bên ngoài chiếu vào gian phòng, mấy bộ áo giáp đã ngồi dậy được kia lại bị vụ nổ làm cho ngã lăn ra đất lần nữa.

“Nhanh lên!” Merkin xông thẳng lên, nhân lúc thân thể nặng nề của bộ giáp còn chưa kịp phản ứng, nhẹ nhàng lướt qua bên cạnh mấy bộ giáp ở mé trái, rồi lại nhảy luôn qua bộ giáp nằm ngang dưới đất, lao thẳng ra ngoài. Trác Mộc Cường Ba theo sát sau lưng y.

Vừa đến mép lỗ, Merkin chợt hét lên: “A!” Y không kịp dừng lại, vội quay người tóm lấy Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba chạy phía sau, tốc độ hơi chậm, vừa nghe Merkin kêu lên cũng vội vàng phanh két lại. Liền ngay sau đó, chỉ thấy chỗ áo trước ngực bị thắt lại, thì ra đã bị Merkin tóm vào rồi.

.

.

CON RỐI THÚ

.

Hai cánh tay Trác Mộc Cường Ba dang rộng, bàn tay vặn ngược bám vào mép lỗ hổng trên tường, Merkin bám vào vạt áo Trác Mộc Cường Ba, cả người lơ lửng giữa không trung. Bên ngoài lỗ hổng do lựu đạn phá ấy không phải là đất bằng, mà là vách núi cheo leo, chẳng những vậy… bên dưới vách núi đó còn là dung nham đang sôi sùng sục!

Nham thạch nóng trông như chất keo chảy chầm chậm, ánh lửa đỏ rực cả không gian xung quanh, những tiếng “ùng ục ùng ục” vang lên liên hồi kỳ trận, thoạt nhìn như thể chỉ cách trong gang tấc, cũng không biết khoảng cách thực sự giữa hố lửa và chỗ bọn họ là bao nhiêu nữa, Merkin có cảm giác như mình bị ném vào một lò lửa rực cháy.

Trác Mộc Cường Ba vừa trụ vững được thân hình, còn chưa kịp kéo Merkin lên, thì bộ giáp phía sau gã dường như đã lấy được đà, hùng hục lao thẳng tới. Trác Mộc Cường Ba đang chuẩn bị dồn sức ngả về phía sau, chợt liếc thấy bộ áo giáp đó, gã liền vội vàng buông một tay ra, lách người né tránh.

Bộ giáp đó không hãm được đà lao, cứ thế húc thẳng vào tường, làm sụt ra một mảng lớn nữa rồi rơi thẳng xuống dưới, một lúc lâu sau mới hóa thành một chấm nhỏ, chìm trong dòng dung nham nóng bỏng, không còn tăm tích. Trác Mộc Cường Ba bấy giờ mới nhận ra, hố dung nham bên dưới kỳ thực còn cách họ rất xa, chỉ là nhiệt độ ở trên này thôi cũng đã vượt quá sức chịu đựng của da người rồi.

Không để Trác Mộc Cường Ba thêm nhiều thời gian để suy tính ba bộ giáp ở mé bên trái đều lần lượt chạy tới. Gã đã buông một tay ra, mà bờ tường chỗ tay còn lại đang bám vào cũng bắt đầu lung lay, có thể sập xuống bất cứ lúc nào, trước ngực lại đeo thêm Merkin, khiến gã phải hơi khom người ra phía trước. Gã có thể tránh được bộ giáp thứ nhất, nhưng hai bộ phía sau e rằng khó lòng thoát nổi.

Cũng may, đúng lúc này Merkin chợt buông tay thả mình rơi xuống, kế đó bám chặt vào mép vách đá cheo leo. Y đeo mình phía ngoài, nhìn rõ được tình huống xung quanh hơn Trác Mộc Cường Ba. Vách đá này hình dạng như cái lưỡi, đỉnh vòm phía trên cách bọn họ chừng bốn năm mét, cao bằng gian phòng kia. Vách núi đen đúa lơ lửng phía trên đỉnh đầu như thể Thái Sơn áp đỉnh, khiến người ta có cảm giác nặng nề khó tả. Ở vị trí này, Merkin có thể nhìn rõ bốn mặt của gian phòng kia kỳ thực đều chỉ có một lớp tường mỏng. Cả gian phòng này giống như được đẽo từ khối đá buông phía trên xuống, vừa khéo nằm ngay mép bình đài hình dạng như cái lưỡi thè ra này. Bọn họ đã nổ nhầm bức tường, nếu cho nổ bức tường phía sau, hai người có thể trực tiếp ra ngoài bề mặt bình đài rồi. Lúc này, họ chỉ có thể bám vào mép bình đài, vòng qua vị trí của gian phòng đá.

Bên trong gian phòng, Trác Mộc Cường Ba thấy trước ngực nhẹ bẫng, áp lực giảm đi đáng kể, lập tức lộn người sang một bên, tránh được bộ giáp nặng nề ục ịch. Bộ giáp kia chừng như cũng muốn giành lại, nhưng cơ hồ không thể vặn người, đành cứ thế bật người lên đè vào Trác Mộc Cường Ba dưới đất. Đã thấy bộ giáp đầu tiên tông đổ tường lao ra vách đá bên ngoài, Trác Mộc Cường Ba cũng biết thứ này cực kỳ nặng nề, liền lăn một vòng dưới đất tránh né, bộ giáp đập thẳng xuống, mặt đất rung lên bần bật.

Merkin ở bên ngoài hét lên: “Nhanh lên, xuống đây, vòng qua chỗ này là có thể leo lên được!”

Lúc này, Trác Mộc Cường Ba đang đối mặt với bộ giáp thứ ba. Gã cũng là kẻ tài cao gan lớn, bật người lên theo thế “Lý Ngư đả đỉnh”, kế đó chống tay lấy đà nhảy qua đầu bộ giáp thứ ba, lúc ở trên không lại xoay người mượn lực, đạp một cái lên vai bộ giáp, rồi thả người trầm xuống, bám vào mép bình đài.

Những bộ giáp kia hình như rất sợ ánh lửa, không dám đến gần miệng lỗ, cứ chạy vòng vòng lung tung trong gian phòng như lũ nhặng cụt đầu. Trác Mộc Cường Ba và Merkin cẩn thận treo mình bên ngoài vách đá, từ từ dịch chuyển vào mé bên trong của bình đài hình cái lưỡi.

Bên dưới chính là hố dung nham nóng chảy hai người không dám lơ là.

Nhìn từ dưới lên, Trác Mộc Cường Ba phát hiện, ở mé bên ngoài bức tường có mấy lỗ hình vuông nhỏ, mỗi bề chừng mười xăng ti mét. Vị trí của mấy lỗ vuông này hình như chính là chỗ các bộ giáp ngồi lúc đầu. Chẳng lẽ những lỗ hình vuông này và mấy bộ giáp trên kia có mối liên hệ gì đó?

Gã cũng không có thời gian nghĩ ngợi nhiều, hai người vòng qua gian phòng đá, leo lên bề mặt bình đài. Merkin chỉ vào bức tường trước mặt, nói: “Nếu chúng ta cho nổ bức tường này thì có thể thoát ra luôn rồi. Nếu anh không đoán sai số, bức tường này chắc cũng đã mở ra rồi.” Y ngẩng ngẩng đầu lên nhìn khe hở giữa bức tường và tầng nham thạch phía trên, hiển nhiên, bức tường này cũng giống như hàng rào sắt kia, có thể nâng lên trên.

Trác Mộc Cường Ba lại ngoảnh đầu nhìn ra sau lưng, rốt cuộc bọn họ cũng thoát khỏi Cửu Cung biến, ở đầu kia của bình đài hình chiếc lưỡi này là một hang động, dưới ánh lửa hắt lên, chỉ thấy hai bên đều có một bức tượng, trông cổ phác mà trang nghiêm. Trác Mộc Cường Ba thoạt nhìn đã nhận ra, hai bức tượng này chính là Diệu thần giám thị công đức và tội ác trên thế gian, cùng với Trát Lạp, Thần bảo vệ của các chiến sĩ. Sâu bên trong hang động, thấp thoáng ánh lên những tia sáng màu vàng kim.

Trác Mộc Cường Ba chỉ mới nhìn lướt qua, Merkin đã ở đằng sau huých nhẹ vào cánh tay gã. Gã ngoảnh đầu lại, chỉ thấy y nói nhanh: “Này, không ổn lắm, đi thôi.”

“Ầm!” một tiếng, bức tường sau lưng hai người rung lên, bột phấn rơi lả tả, hiển nhiên là năm bộ giáp bên trong đang húc vào. Gã và Merkin đều cho rằng những bộ giáp ấy chỉ là cỗ máy vô tri, chẳng ngờ bọn chúng lại có thể khóa được vị trí của hai người ở cách một bức tường, còn biết phá tường xông ra. Cả hai tròn mắt ngạc nhiên nhìn nhau, không hẹn mà cùng quay người, chạy về phía hang động ở đầu bên kia bình đài hình cái lưỡi.

Vừa vào trong hang, hai người cùng lúc hít sâu một hơi, bầu không khí bên ngoài kia nóng bỏng mà vào đến trong này thì lạnh toát. Chỉ thấy đại điện điển nhã không màu mè này trông giống như La Hán đường ở những ngôi chùa bình thường vậy, trên bệ đá dài cao chừng một mét có vô số tượng kim thân La Hán ngồi dựa lưng vào nhau. Những vị La Hán này lớn hơn người thường một chút, dáng ngồi ngay ngắn, hai mắt khép hờ, dung mạo hoàn toàn không khác gì người thật, đồng thời tướng mạo mỗi bức mỗi khác nhau.

Cổ nhân đã dùng cách tương tự trên hành lang có các cột sáng ở tầng trên cùng để lấy ánh sáng. Họ dựng vô số tấm gương đồng trong đại điện, ánh sáng đỏ rực của nham thạch nóng chảy được gương đồng phản xạ, biến thành những tia sáng vàng kim chói lọi. Những cột sáng đan nhau tạo thành một tấm lưới, bao phủ lên vô số tượng Phật tựa như một chiếc lồng chụp khổng lồ. Những bức tượng kia vốn đã dát vàng dát bạc, được ánh sáng chiếu vào lại càng toát lên thần thái trang nghiêm, sống động như thật, tựa hồ như La Hán hạ phàm, Tôn Giả giáng thế.

Merkin ngước mắt quan sát, thấy những bệ đá dài ấy nối tiếp nhau san sát, bên trên toàn là tượng kim thân La Hán, số lượng phải lên đến hàng vạn, không khỏi tắc lưỡi nói: “Đây toàn là vàng ròng sao? Nhiều như vậy! Haha… chúng ta tìm được rồi! Chúng ta đến trước! Chúng ta đến trước rồi!”

Trước khi Merkin kịp hưng phấn đến nỗi ôm chầm lấy Trác Mộc Cường Ba nhảy cẫng lên, gã đã dội cho y một chậu nước lạnh vào đầu: “Sợ là ông phải thất vọng rồi, đây không phải tượng Phật bằng vàng ròng, mà chỉ là tượng dát vàng thôi, xem đi…” Gã chỉ mấy pho tượng La Hán ở đằng xa, lớp vàng trên bề mặt đã bong tróc, lộ ra mầu nâu của bùn đất bên trong.

Trác Mộc Cường Ba bước lại gần, trên bức tượng ấy, không ngờ lại phát hiện đồ dệt may. Một ý nghĩ đáng kinh ngạc lóe lên trong đầu, gã vội vàng dùng ngón tay nhè nhẹ phẩy lên lướp bùn đất, quả nhiên, bên dưới lớp vải dệt đó, là một tầng vật chất dạng sừng khô cứng. Có thể khẳng định, đây là da người đã khô kiệt. Nhìn xa hơn một chút nữa, không sai, cả vạn pho tượng La Hán ở đây, kích cỡ tương đương nhau, đều chỉ lớn hơn người thật một chút. Trác Mộc Cường Ba rốt cuộc cũng khẳng định lại ý nghĩ trong đầu mình, gã kính cẩn đứng lên, nói với Merkin: “Tuy không phải tượng Phật bằng vàng ròng, nhưng còn quý giá gấp bội phần, những La Hán này, toàn bộ đều là nhục thân kim tượng đó!”

“Nhục thân kim tượng?” Merkin cũng chạy tới.

“Đúng thế,” Trác Mộc Cường Ba nhìn những bức tượng dát vàng đang ngồi xếp bằng trên bệ đá, thần thái nghiêm trang kính cẩn, chậm rãi tiếp lời, “không chỉ trong Mật giáo có ghi chép lại, mà cả Đại Thừa Hiển giáo cũng có cách làm tương tự. Một số vị cao tăng đại đức có tu vị Phật học đạt đến cảnh giới Đại Trí Tuệ, sau khi tọa hóa, nhục thân không bị thối rữa. Người đời sau kính ngưỡng, liền mang thân thể không thối rữa ấy làm phôi, bên ngoài trét thêm bùn đất, rồi sơn son thếp vàng để cúng tế.”

Merkin biến sắc thốt lên: “Ý anh là, mỗi bức tượng ở đây …”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Đúng, mỗi bức tượng La Hán kim thân ở đây, đều là nhục thân của một vị tiền bối đại sư sau khi tọa hóa.” Gã chợt nhớ lại những tượng nhục thân trong tư thế đứng ở Đảo Huyền Không tự, hiển nhiên, đây là mật pháp truyền thừa của các Mật tu giả.

Hai người xuyên qua đại điện xếp đầy kim thân La Hán, đi thẳng về phía trước, thấy một cánh cửa đá chặn ngang đường. Trên cửa có vẽ một con rắn được trừu tượng hóa, Merkin bảo nó giống rồng, còn Trác Mộc Cường Ba lại cho rằng đây là Na Tháp, con rắn vô biên, Đa Cát ở thôn Công Bố cũng từng nhắc đến một truyền thuyết tương tự. Merkin lại bảo chưa chắc, đây đã là con rắn vô biên gì đó, cũng có thể là rắn thần trong tín ngưỡng của bộ tộc Qua Ba. Gần như trong tất cả mọi tôn giáo, hình tượng rắn đều có địa vị rất quan trọng. Trong tín ngưỡng cổ, rắn tượng trưng cho tính dục, vương quyền, trường sinh và những mối nguy không thể dự báo.

Cho dù thế nào, khi đối diện với cánh cửa đá cong tựa như màn hình chiếu phim cỡ lớn này, hai người cũng hiểu rõ, chỉ dựa vào sức trâu hoặc chất nổ thì không thể nào mở nó ra được, cần phải xem cơ quan chốt lẫy ở đâu.

“Này, Cường Ba, lại đây mà xem!” Merkin chỉ vào miệng rắn đang ngoác rộng, ở chỗ chiếc răng sắc nhọn có một vết máu lờ mờ, lan dần lên phía trên rồi biến mất. Ở chỗ mắt rắn, những sợi tơ máu mờ mờ lại tản ra theo hình mắt lưới, khiến con mắt tròn ấy trở nên hung hăn dữ tợn lạ thường.

Trác Mộc Cường Ba đưa tay sờ vào mắt rắn, ở trung tâm nhãn cầu, một hình thoi dài hẹp có khe hở rất nhỏ với những bộ phận xung quanh. Những khe hở này khớp với đường nét trên bức phù điêu, không rờ tay vào thì khó lòng nhận ra được.

Merkin dùng ngón tay phác một nét trên vị trí của mắt rắn, đoạn nói: “Anh xem, cấu tạo này có giống một cái huyết trì cỡ nhỏ không?”

Nét mặt Trác Mộc Cường Ba đổi sắc, gã khe khẽ gật đầu. Merkin nói đúng, hút máu ở chỗ răng rắn, lan dần đến mắt rắn, đích thực rất giống một huyết trì. Bên này, Merkin bắt đầu hành động, ý rút dao ra, nhấn đầu mũi dao lên ngón tay mình, lẩm bẩm nói: “Có khi máu của tôi lại dùng được.”

Mũi dao đâm nhẹ vào, một giọt máu nhểu ra, Merkin đặt ngón tay vào chỗ răng rắn. Giọt máu chảy ra khỏi đầu ngón tay liền bị ống hút bên trong răn rắn chầm chậm hút vào. Huyết trì cỡ nhỏ này không cần nhiều máu lắm, Merkin chỉ khẽ nhấn ngón tay một cái, răn rắn đã không hút thêm máu nữa. Không lâu sau, từng sợi từng sợi tơ máu bắt đầu lan đến gần mắt rắn, rồi men theo vòng ngoài vươn dần vào bên trong, khi những sợi tơ máu rẽ nhánh chạm vào con ngươi hình thoi bên trong nhãn cầu, chỉ nghe “tách” một tiếng rất nhẹ, con ngươi ấy liền thụt vào bên trong. Đồng thời, dường như một lớp màng được mở ra, chính giữa con mắt lộ ra một cái lỗ nhỏ hình thoi màu đen, chỉ lớn hơn đầu ngón tay một chút, ngoài ra, toàn bộ đại điện đều không có gì thay đổi.

“Đây là cái gì vậy?” Nhìn cái lỗ nhỏ hình thoi ấy, hai chân mày Trác Mộc Cường Ba nhíu lại, hiển nhiên tác dụng của huyết trì này chỉ là mở ra một cái lỗ nhỏ. Từ độ sâu của cái lỗ nhỏ này, có thể thấy cần phải cắm thứ gì đó vào, họa may mới khởi động được cơ quan.

Merkin thấy cái lỗ nhỏ hình thoi ấy thì mừng ra mặt, cười cười nói: “Đây là lỗ khóa, cần có khìa khóa mới mở được, chúng ta có chìa khóa!” Y thấy Trác Mộc Cường Ba đần mặt ra, hoang mang không hiểu gì, liền lặp lại lần nữa: “Chỉ chúng ta mới có chìa khóa.”

“Chìa khóa?” Trác Mộc Cường Ba càng thêm ngờ vực, gã chưa bao giờ nhớ là mình có chìa khóa gì, rốt cuộc Merkin đang nói đến thứ gì vậy?

Ngay sau đó, Merkin liền giải đáp mối nghi hoặc của gã. Y thò tay vào sâu trong áo, lấy ra một thanh kiếm đồng nhỏ, gần như giống hệt với thanh kiếm gia truyền của Trác Mộc Cường Ba.

Vừa nhìn thấy kiểu dáng và hoa văn khắc trên thanh kiếm, Trác Mộc Cường Ba cả kinh thốt lên: “Đây là…” Đồng thời, phản ứng đầu tiên của gã cũng chính là lần tìm thanh kiếm đồng trên người mình.

.

BÍ MẬT CỦA CHÌA KHÒA

.

Merkin cầm thanh kiếm đồng nhỏ trông như chiếc thập tự giá sáng lấp loáng, nhìn thẳng vào mắt Trác Mộc Cường Ba nói: “Đây chính là chìa khóa! Đây là thứ gia tộc nhà anh truyền qua không biết bao nhiêu đời, thứ mà dù trong trường hợp nguy hiểm nhất cũng tuyệt đối không thể đánh rơi, vậy mà anh lại không biết nó dùng để làm gì ư?”

Trác Mộc Cường Ba cũng lấy ra thanh kiếm đồng nhỏ giấu ở túi áo trong của gã ra. Hai thanh kiếm gần như giống hệt nhau, chỉ khác ở chỗ, chuôi kiếm của Trác Mộc Cường Ba là con Tỳ hưu ba sừng, bên dưới là bốn con thú sư tử, rồng, hổ, đại bàng, còn chuôi kiếm của Merkin lại khắc thành hình Kỳ lân, bên dưới là bốn con quỷ Si, Mị, Võng, Lượng.

Hai thanh kiếm đồng đặt cạnh nhau, kích cỡ giống hệt, chất liệu giống hệt, công nghệ giống hệt, chỉ cần nhìn lướt qua, bất cứ ai cũng có thể khẳng định hai thanh kiếm đồng này được làm ra ở cùng một nơi, cùng một thời điểm, thậm chí là bởi cùng một người thợ. Trác Mộc Cường Ba nhìn chằm chằm vào chúng, cơ hồ vẫn không dám tin vào mắt mình: “Đây là chìa khóa ư? Ông lấy ở đâu ra vậy?”

Merkin nghi hoặc nhìn Trác Mộc Cường Ba, nói: “Giống anh thôi, đều là các tiền bối trong gia tộc truyền thừa xuống, chẳng lẽ anh thật sự không biết? Mặc dù anh không nói gì với những người trong nhóm của mình, nhưng tôi thấy anh coi trọng nó như vậy, cứ tưởng anh đã biết thanh kiếm đồng này là gì rồi chứ.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi coi trọng nó, chỉ vì nó là vật truyền thừa của gia tộc thôi. Trước nay tôi vẫn luôn nghĩ rằng, nó chỉ là một vật có ý nghĩa lịch sử đối với gia tộc mình.”

Merkin nghiêm nét mặt lại nói: “Đã vậy thì để tôi nói cho anh biết, chiếc chìa khóa này không chỉ là tượng trưng cho truyền thừa lịch sử, quan trọng hơn, nó là một sự chứng nhận đối với huyết thống và thân phận, mà quan trọng nhất, nó là một chiếc chìa khóa! Bao đời nay, gia tộc chúng tôi vẫn truyền lại cho đời sau rằng, không có chìa khóa này, cho dù có tìm được thần miếu cũng không thể mở được kho báu cuối cùng. Có điều, theo như truyền thừa của gia tộc chúng tôi, lẽ ra chỉ có một chiếc chìa khóa mới đúng. Tôi cũng lấy làm lạ, không hiểu tại sao anh cũng có một chiếc? Vả lại, hai chiếc chìa khóa này tuy rằng hình dạng tương tự, kỹ thuật chế tác cũng giống nhau, nhưng vẫn có những điểm khác biệt rõ rệt.”

Tâm tư Trác Mộc Cường Ba lúc này đang cuộn lên những đợt sóng lớn, vô số ý nghĩ cũng dâng trào lên trong óc gã. Trong gia tộc không hề lưu lại bất cứ ghi chép nào liên quan đến chiếc chìa khóa này, cha gã cũng không nhắc nhở gì đặc biệt, nhưng các trưởng lão thôn Công Bố lại nhận định gã là Thánh Sứ… Merkin là hậu nhân của Tây Thánh Sứ, vậy còn bản thân gã…? Rốt cuộc chuyện này ẩn chứa bí mật gì? Truyền thừa nghìn năm, rốt cuộc bị đứt đoạn từ khi nào? Đoạn lịch sử thất lạc ấy sao lại bị vùi chôn trong dòng chảy hỗn loạn của thời không? Thân phận của gã rốt cuộc là gì? Gia tộc của gã khởi nguồn từ đâu? Gã và Bạc Ba La thần miếu này có quan hệ như thế nào? Các trưởng lão thôn Công Bố nói gã sẽ thức tỉnh? Gã vốn chỉ muốn tìm Tử Kỳ Lân thôi mà, sau lại biến thành như vậy?

Merkin không phát hiện ra tâm trí Trác Mộc Cường Ba lúc này đang rối tơ vò, chỉ thấy ánh mắt gã hơi đờ đẫn, liền khẳng định: “Nếu vậy, chắc chắn anh cũng không biết phải mở cái chìa khóa này ra như thế nào rồi, đúng không?” Dứt lời, y liền ở trước mặt Trác Mộc Cường Ba, cầm chuôi thanh kiếm đồng ấy vặn vẹo mấy cái, cũng không biết là ấn vào những chỗ nào, thoắt cái chuôi kiếm đã mở ra. Bên trong chuôi kiếm là một ống kim loại, miệng ống xòe rộng ra như cái bát. Chỗ miệng bát tuy đã được chà xát cho sạch, nhưng vẫn còn vương lại vết máu, một hai vệt đã chuyển thành màu xanh lục, không biết đã có từ mấy trăm năm trước. Nhìn chuôi kiếm đã mở hẳn ra, Merkin mới nói: “Tôi có thể khẳng định với anh, đây là một chiếc chìa khóa không thể phục chế, anh nhìn những ký hiệu totem chạm trổ trên thân kiếm đi, chúng không chỉ là những biểu tượng, mà thực ra là lò xo có thể co duỗi được. Bên trong chiếc chìa khóa này, cũng là một huyết trì cỡ nhỏ, chỉ cần một giọt máu… một giọt thuần huyết!”

Trước cặp mắt chăm chú của Trác Mộc Cường Ba, Merkin bóp nhẹ vết thương vẫn chưa khép miệng trên đầu ngón tay, lại một giọt máu nữa nhỏ vào cái lỗ nhỏ hình miệng bát. Một loạt tiếng “tách tách tách” rất nhẹ như sâu phá kén vang lên. Cùng với những âm thanh ấy, những hình chạm nổi trên thân kiếm lại bật ra những hình trụ tròn, to thì bằng đầu đũa, nhỏ thì như tăm xỉa răng. Không chỉ thế, xung quanh những hình trụ tròn ấy, lại bật ra những mũi gai nhọn li ti, trên thân mũi gai lại bật ra tiếp rất nhiều những răng nhọn nhỏ như sợi lông, hai bên răng nhọn ấy dường như cũng bật ra những sợi nhỏ hơn nữa, mắt thường không thể nào phân biệt nổi, đại khái chỉ có thể trông thấy trên bề mặt răng nhọn phủ một lớp màng như tơ nấm mốc mà thôi.

Trác Mộc Cường Ba trợn tròn mắt, kinh ngạc thốt lên: “Đây là…?”

Merkin nói: “Không cần nhìn kỹ thế đâu, chỗ nhỏ nhất phải dùng đến kính hiển vi phóng đại một trăm lần mới phân biệt được cơ. Chúng tôi có lý do để tin rằng, những sợi lông nhỏ li ti này đều là răng cưa của chìa khóa, nó là chìa khóa duy nhất ứng với những lỗ nhỏ ở vách bên trong cái lỗ hình thoi này.”

Trác Mộc Cường Ba ngẫm nghĩ giây lát, đoạn nói: “Cho dù là vậy, với công nghệ ngày nay, muốn phục chế một chiếc chìa khóa như vậy chắc cũng không phải quá khó chứ?”

Merkin cười khẩy, nói: “Anh nghĩ đơn giản quá rồi, đầu tiên phải dồn nén vô số răng chìa khóa thành một vật thể hình thoi, đồng thời lợi dụng một lực nào đó để khiến những răng chìa khóa này hoàn toàn bật ra. Chẳng những vậy, còn giữ được cả nghìn năm không hề hư hao tổn hại chút nào. Theo tôi được biết, trình độ khoa học công nghệ hiện nay vẫn chưa làm được điều đó đâu. Gia tộc chúng tôi đã làm thống kê, phần bật ra này chiếm một nửa thể tích chiếc chìa khóa, nhưng diện tích bề mặt lại bằng một trăm ba mươi lần diện tích bề mặt chiếc chìa khóa ban đầu.”

Trác Mộc Cường Ba ngạc nhiên hỏi: “Bọn họ làm cách nào vậy?”

Merkin đáp: “Sinh vật, giống như huyết trì vậy. Chúng ta có thể nói thế này, toàn bộ chiếc chìa khóa giống như một thể sống có vỏ ngoài bằng kim loại. Bên trong chìa khóa này có dấu vết của sự sống, tổ tiên của tôi đoán đó là một loại khuẩn niêm hợp hoặc chân khuẩn gì đó, phạm vi sinh tồn của chúng giới hạn ở bên trong chiếc chìa khóa này. Quan hệ của chúng và chìa khóa, cũng giống như san hô với rặng đá san hô vậy. Đồng thời, khi được máu tươi kích hoạt, chúng sẽ sinh ra lực hướng ngoại rất mạnh, làm các răng chìa khóa bật ra ngoài.”

Nhìn vẻ mặt ngạc nhiên của Trác Mộc Cường Ba, Merkin lại mỉm cười nói tiếp: “Không chỉ có vậy, loại sinh vật này kén chọn máu nữa, cũng giống như bộ phận kết hợp của thụ thể(38) trong hệ thống miễn dịch ở cơ thể người vậy. Tôi đoán, có lẽ đã đi sâu vào phạm trù gene rồi.”

Trác Mộc Cường Ba không hiểu đống thuật ngữ chuyên ngành Merkin vừa xổ ra, lại thắc mắc: “Thế nghĩa là sao?”

Merkin giải thích: “Tức là, ngoại trừ tôi và những người mang huyết thống trực hệ trong gia tộc, máu của người khác hoàn toàn không có tác dụng gì với nó.”

Thấy hai mắt Trác Mộc Cường Ba lại trợn tròn lên, Merkin nghiêm túc nói: “Chúng tôi đã thực nghiệm rất nhiều lần, sự thực chứng minh, ngoài máu của những thành viên nam còn sống trong gia tộc, máu hay chất lỏng nào khác trên cơ thể của bất cứ ai cũng hoàn toàn không có chút hiệu quả nào.” Y thoáng ngập ngừng một chút, rồi tiếp tục giải thích: “Sở dĩ tôi nói đã liên quan đến phạm trù gene, là vì cho dù thành viên nam giới trực hệ trong gia tộc chúng tôi, không phải người nào cũng có thể làm chiếc chìa khóa này bật ra được. Cha tôi là một ví dụ, ông ấy không thể làm chìa khóa bật ra, đến đời tôi, máu của tôi lại làm được, vì vậy…”

“Di truyền cách đời!” Trác Mộc Cường Ba lại biến sắc mặt.

“Đúng vậy,” Merkin gật đầu nói: “Chúng tôi cũng nghĩ thế, thông qua việc kết hợp với cá thể khác giới, một số gene di truyền có thể lặn hoặc trội, khiến cho trong gia tộc tôi cũng có người này người nọ, nhiều trường hợp dù là huyết thống trực hệ cũng không thể làm chìa khóa này bật mở ra được.”

Trác Mộc Cường Ba nén cảm giác ớn lạnh trong lòng xuống, lẩm bẩm: “Di truyền, cổ độc, Đông Tây y kết hợp…”

Merkin gật đầu lia lịa nói: “Đúng, đúng, tôi cũng cho rằng đây là một phương thức vận dụng cổ độc của người Qua Ba. Thật khó tin là trình độ sử dụng cổ độc của họ đã đến giai đoạn nghiên cứu lợi dụng gene di truyền rồi.” Y vừa dứt lời, chợt vang lên tiếng “xẹt xẹt xẹt xẹt”, sau đó những răng chìa khóa bật ra lại rụt trở về, tốc độ cực nhanh, chỉ chớp mắt vài cái chìa khóa đã trở lại hình dạng thanh kiếm đồng như lúc ban đầu.

Trác Mộc Cường Ba không kìm được, đưa mắt liếc nhìn y. Merkin lại nói: “Chúng tôi cho rằng, trong máu của những thành viên nam có gene trội trong gia tộc mình có một loại hoạt chất đặc biệt. Đối với thứ sinh vật bên trong chìa khóa, loại hoạt chất này giống như thuốc kích thích vậy. Hoạt chất trong máu có thể khiến sức lực của chúng tăng lên gấp bội, đủ để làm bật ra các răng chìa khóa. Sau khi hoạt chất này tiêu hao hết, chúng sẽ tự động rút trở về.” Không lâu sau đó, lại nghe “tách” một tiếng, lỗ nhỏ hình thoi bên trong mắt rắn lại đóng lại, con ngươi cũng bật trở ra, mọi thứ đều khôi phục trạng thái ban đầu.

“Hả?” Merkin quay sang chỗ mắt rắn, hân hoan kêu lên: “Xem ra nguyên lý của lỗ khóa này cũng giống như chìa khóa, lợi dụng hoạt chất trong máu của tôi làm nguồn động lực.”

Trác Mộc Cường Ba bắt đầu nôn nóng, gã giục giã: “Đừng nói nhiều nữa, cho chìa khóa vào rồi thử xem sao, để xem sau cánh cửa này rốt cuộc có thứ gì?”

Máu ở đầu ngón tay Merkin đã khô, y bèn chọn một ngón khác, luôn miệng nói: “Được rồi, được rồi.” Răng rắn hút máu, mắt rắn mở ra lỗ nhỏ hình thoi, Merkin cắm thanh kiếm đồng vào trong. Trác Mộc Cường Ba bây giờ mới phát hiện, lỗ mở hình miệng bát ở chuôi kiếm có thể uốn cong. Merkin hướng miệng bát lên phía trên, nhểu vào một giọt máu, sau đó chăm chú lắng nghe động tĩnh bên trong lỗ khóa. Sau một loạt tiếng “tách tách”, y cho rằng đã được rồi, liền bắt đầu chuyển động phần chuôi của chiếc chìa khóa hình thập tự giá.

Dần dần, sắc mặt Merkin bắt đầu biến đổi, từ hân hoan trở nên nghiêm trọng, từ nghiêm trọng trở nên nặng nề, cuối cùng thì nhăn mặt cười khổ với Trác Mộc Cường Ba: “Không đúng, không xoay được.”

Trác Mộc Cường Ba nhắc nhở: “Liệu có phải cắm ngược không?” Dù sao thì cả bốn mặt của chiếc chìa khóa đều có thể hướng lên trên.

Merkin khẳng định: “Không đâu, anh xem…” Y chỉ vào thanh ngang trên chuôi kiếm, nói: “Theo như tổ tiên tôi truyền lại, chỗ này hướng lên trên là đúng rồi.”

Trác Mộc Cường Ba lẳng lặng gật đầu, thanh ngang đúng là đã hạn chế chìa khóa chỉ có thể cắm vào theo hướng này. Gã lại nói: “Hay là, để tôi thử xem?”

Merkin đành ủ rũ gật đầu: “Cũng được.”

Trác Mộc Cường Ba cầm thanh kiếm đồng gia truyền trên tay, nghĩ mãi không hiểu nổi, tại sao thứ này lại thành ra một chiếc chìa khóa? Gã cẩn thận quan sát vị trí Merkin vặn ra ở chuôi kiếm, rồi lại nhìn thanh kiếm trên tay mình, chẳng thấy kẽ hở nào, căn bản không nhìn ra chỗ nào có thể vặn mở được. Gã thử vặn qua vặn lại một hồi, song đều vô hiệu. Merkin đứng bên cạnh thấy vậy liền lên tiếng: “Không đúng, không phải làm vậy.” Nói đoạn, y giật lấy thanh kiếm nhỏ trên tay Trác Mộc Cường Ba, bảo gã: “Có mấy chỗ này, yêu cầu thủ pháp phải khéo léo.” Chỉ thấy y ấn ấn, xoay xoay lên đầu, mình và chân con Tỳ hưu, không hiểu làm cách nào mà đã mở ra được. Cũng giống như chìa khóa của Merkin, chuôi kiếm mở ra xong, bên trong là một ống kim loại, miệng ống loe ra như miệng bát, cũng có vết máu, đã chuyển sang sắc xanh lục.

Nhìn những vết máu ấy, ánh mắt Merkin nhìn Trác Mộc Cường Ba càng thêm nghi hoặc, ý tứ rất rõ ràng, rành rành tổ tiên nhà anh cũng biết cách sử dụng chiếc chìa khóa này, tại sao đến đời anh lại quên hoàn toàn như vậy? Trác Mộc Cường Ba cũng chỉ biết lắc đầu, tỏ ý mình chẳng biết gì cả. Merkin kéo kéo chiếc chìa khóa của y, thời gian chưa hết nên vẫn chưa rút ra được. Y đưa con dao cho Trác Mộc Cường Ba, ý bảo gã thử xem máu gã có thể làm chìa khóa bật ra hay không.

Trác Mộc Cường Ba có chút thấp thỏm bất an, lúc mũi dao rạch vào đầu ngón tay, tay gã hơi run lên, một giọt máu nhểu xuống. Gã cơ hồ không dám tin vào mắt mình, chiếc chìa khóa trong tay gã cũng “tách tách tách” biến đổi, thân kiếm bật ra những gai nhọn tua tủa, trên những gai nhọn ấy lại bật ra những mũi gai nhỏ hơn, hình dạng cuối cùng trông như một cây thông Noel.

Merkin mỉm cười quan sát quá trình biến đổi, lẩm bẩm nói: “Tôi bảo rồi mà.”

Trác Mộc Cường Ba chỉ khe khẽ lắc đầu, sao lại thế này nhỉ? Cha có biết hay không? Ông biết nhưng không nói với mình, hay là bản thân ông cũng không biết? Không, cha cũng không biết, từ thái độ của ông lúc giao chiếc chìa khóa này cho mình chắc chắn là cha không biết gì cả. Gia tộc nhà mình, đã để sự việc này chìm vào quên lãng từ khi nào vậy? Hậu nhân của Thánh sứ, không ngờ mình cũng là hậu nhận của Thánh sứ!

Một lát sau, Merkin rút chiếc chìa khóa của y ra, trong khi hai người chờ chiếc chìa khóa của Trác Mộc Cường Ba hoàn nguyên trạng thái ban đầu, mắt rắn cũng đã đóng lại.

Cuối cùng, chìa khóa trong tay Trác Mộc Cường Ba cũng đã thu vào, gã thầm hít sâu một hơi, dùng máu mình mở mắt rắn ra, rồi cắm chìa khóa vào, nhỏ một giọt máu, sau đó chầm chậm xoay chuyển chuôi kiếm trong ánh mắt chăm chú và đầy kỳ vọng của Merkin. Một lần, hai lần… ánh mắt nóng bỏng của Merkin từ từ trở nên ảm đạm, Trác Mộc Cường Ba ủ rũ ngoảnh lại, lắc đầu, tỏ ý vẫn không xoay được. “Không thể nào!” Merkin cuống lên. “Không thể nào! Sao cả hai chiếc chìa khóa đều không mở ra được?”

So với Merkin, Trác Mộc Cường Ba còn bình tĩnh hơn, gã giải thích: “Nếu tôi không lầm, chắc hẳn còn một chiếc chìa khóa nữa, đừng quên, bấy giờ sứ giả đã mang ra ba món tín vật, chia ra đưa cho ba người khác nhau. Nếu tôi và ông mỗi người đều có một chiếc chìa khóa, vậy hẳn phải còn một chiếc chìa khóa thứ ba nữa.”

Merkin thất vọng nói: “Ý anh là… chỉ có chiếc chìa khóa thứ ba kia mới mở được cánh cửa này?”

Merkin không cam tâm chút nào, nghe thấy chìa khóa của Trác Mộc Cường Ba thu trở về trạng thái ban đầu, y lại nói: “Thử lại lần nữa, thử lại lần nữa xem sao!”

Đáp ứng yêu cầu của Merkin, Trác Mộc Cường Ba lại thử thêm lần nữa, sau đó Merkin cũng thử lại một lần, nhưng rất rõ ràng, chìa khóa của họ đều không mở được cánh cửa đá dày nặng này. Merkin lại rút chìa khóa ra, nhìn Trác Mộc Cường Ba với ánh mắt gần như tuyệt vọng, nói bằng giọng van lơn: “Anh thử lại lần nữa xem sao?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Có lẽ số mệnh đã định sẵn chúng ta không thể đến được nơi sâu nhất của Bạc Ba La thần miếu, ông hà tất phải cưỡng cầu làm gì?”

“Vậy bây giờ tính sao đây? Chúng ta bị kẹt ở đây rồi? Không thấy gì cả, không tìm được gì cả, chỉ bị kẹt cứng ở đây chờ chết? Không! Tôi tuyệt đối không chấp nhận!” Merkin vung tay giằng lấy chìa khóa của Trác Mộc Cường Ba, nhét vào lỗ khóa rồi tóm ngón tay gã nặn máu ra, hai người nhìn giọt máu từ từ biến mất trong miệng ống loe ra.

Vốn dĩ hai người cũng không ôm nhiều hy vọng lắm, nhưng đúng lần này, giọt máu vừa nhểu xuống, sau một loạt tiếng “tách tách tách”, đột nhiên có thêm một âm thanh khác, nghe như tiếng đàn đứt dây hay bảo kiếm rời vỏ, nhẹ mà rất rõ. Liền ngay sau đó, lại vang lên tiếng vật nặng rơi xuống đất, tiếng bánh răng, tiếng trục quay, tiếng ma sát kèn kẹt hòa trộn vào nhau. Không cần chuyển động gì thêm, mắt rắn đã tự xoay tròn, lỗ khóa xoay cùng với chìa khóa, cả con rắn khổng lồ chạm trổ trên cánh cửa như thể sắp sống dậy, một vài đường vân thụt vào, một số đường vân khác lại nổi gồ lên. Tiếp đó, cả gian đại điện bắt đầu thay đổi, bệ đá bên dưới kim thân của các vị tiền bối bắt đầu chuyển dịch vị trí, tiến trước lùi sau, hoặc sang trái hoặc sang phải, tạo thành một thứ âm thanh hỗn tạp. Trong đại điện này, duy chỉ có hai người đàn ông đang trợn tròn mắt há hốc miệng trước cánh cửa đá là không phát ra bất cứ âm thanh nào.

.

.

BÁU VẬT NHÀ PHẬT

.

Trong đầu hai người đều đang thắc mắc cùng một vấn đề, tại sao hai lần trước không được, mà lần này lại thành công như thế? Ngay sau đó, cả hai đều hiểu ra. Hai lần trước, họ dùng máu của một người để mở lỗ khóa và nhỏ vào chìa khóa, còn lần này, lại dùng máu của Merkin khiến mắt rắn mở ra, sau đó cắm chìa khóa của Trác Mộc Cường Ba vào, trong chìa khóa lại nhỏ máu của Trác Mộc Cường Ba. Phỏng chừng, phải đồng thời sử dụng máu của cả hai người, mới có thể phát huy được tác dụng thực sự.

Trác Mộc Cường Ba còn nghĩ xa hơn, mấu chốt không phải ở chìa khóa, cả hai chiếc chìa khóa ấy chỉ là vật dẫn, máu của hai người mới là thứ có tác dụng thực sự. Hai dòng máu thuần chủng đã truyền thừa hơn nghìn năm của các vị Thánh sứ. Bấy giờ, họ mới ngộ ra được ý nghĩa thực sự của hàng chữ “một người có huyết thống thuần chủng” được khắc nổi bật trên cánh cửa lớn Bạc Ba La thần miếu.

Chỉ thoáng sau, bố cục của gian đại điện đã hoàn toàn biến đổi, đồng thời thân rắn trên cánh cửa cũng gồ lên vô số vảy, dưới bụng mọc thêm chân có móng vuốt, trông không còn giống rắn nữa … mà hơi giống … một con rồng?

Chỉ có điều, sau màn chấn động ấy, cánh cửa trước mặt họ vẫn đóng chặt. Trác Mộc Cường Ba khẽ lay nhẹ, rút chìa khóa ra. Vẫn là Merkin nhanh mắt hơn, y chỉ tay vào cây cột mới xuất hiện ở chính giữa đại điện, hỏi: “Đó là cái gì vậy?”

Hai người đến gần cây cột, chỉ thấy bốn mặt cây cột hình vuông mỗi cạnh dài chừng hai mét này đều có bậc thang, trên đỉnh hình như khoét rỗng, không gian có thể chứa được người. Hai người quyết định leo lên xem sao.

Cây cột đá này được thả từ đỉnh vòm của đại điện xuống, Merkin lên trước, phát hiện ở giữa cây cột là một trụ kim loại đường kính khoảng nửa mét. Một vòng xung quanh trụ kim loại ấy có thể đứng được năm sáu người. Sau đấy, Trác Mộc Cường Ba cũng leo lên, Merkin cười lớn nói: “Ha ha, thì ra cánh cửa kia chỉ là vật che mắt, ai mà ngờ được lối vào thực sự lại ở chính giữa đại điện chứ, nếu không rõ chân tướng, cứ cố cho nổ hoặc phá hoại cánh cửa đá kia, nói không chừng phía sau chỉ là toàn là đá núi mà thôi.”

Trác Mộc Cường Ba vừa đứng vững, chưa kịp nói gì, cột đá đã được trụ kim loại ở giữa dẫn động, chầm chậm dâng lên. Thấy cột đá vẫn tiếp tục dâng cao, Trác Mộc Cường Ba thầm nhủ, chỉ sợ khi cột đá này trở lại vị trí ban đầu, dù là ai đến được đây, cũng sẽ chỉ nghĩ cách phá hoại cánh cửa kia hoặc đào sâu xuống dưới mà thôi. Có kẻ nào nghĩ ra được việc đào lên phía trên mấy chục mét chứ?

Dọc đường, có một quãng hoàn toàn tối đen, tuy rằng khoảng cách rất ngắn, nhưng trong không gian tối đen kín mít ấy, Trác Mộc Cường Ba vẫn cảm thấy ngạt thở. Không gian nhỏ hẹp này rõ ràng không đủ dưỡng khí cho hai người, đúng vào lúc cảm giác hoảng loạn manh nha xuất hiện, thì bọn họ đến được tầng trên. Thứ đầu tiên đập vào mắt hai người, là ánh sáng!

Ánh sáng này khác với thứ ánh sáng ở bên dưới, không phải sắc đỏ của dung nham và màu vàng cam của những pho tượng dát vàng, mà là một thứ ánh sáng mạnh đến chói mắt. Ánh sáng xuất hiện quá bất ngờ, quá mạnh mẽ, đến nỗi Trác Mộc Cường Ba và Merkin vừa ra khỏi vùng tối tăm không thể không giơ tay chắn trước mắt, quan sát hoàn cảnh xung quanh qua những kẽ ngón tay.

Qua kẽ ngón tay, tròng mắt họ dần dần mở to, không phải vì bị ánh sáng mạnh kích thích như lẽ thường… Trước mắt họ lúc này đây, toàn là những thứ đủ khiến những người bình thường phát điên phát rồ… Báu vật!

Cột đá càng lúc càng dâng cao, số lượng báu vật đập vào mắt họ cũng tăng lên theo cấp số nhân, không còn nghi ngờ gì nữa, chỉ thấy vô số quầng sáng rực rỡ chói mắt, tựa như cầu vồng tan vào dòng nước cuồn cuộn, cơ hồ muốn vươn mình thoát ra khỏi những báu vật kia, chảy tràn đi khắp chốn.

Không gian rộng mở, lượng ôxy trong không khí cũng tăng lên, Trác Mộc Cường Ba hít vào một hơi, cả người liền nhẹ bẫng như thể muốn bay lên. Gã cũng từng nghe truyền thuyết về châu quang bảo khí, tương truyền trên bền mặt những món châu báu thực sự quý hiếm đều có một tầng linh khí, dù bị chôn vùi dưới lòng đất sâu, những món báu vật ấy vẫn phát ra ánh sáng rực rỡ, nhưng gã chưa từng gặp báu vật nào như thế. Cho dù trước đây, cũng từng có người nhờ gã cầm hộ những viên bảo thạch trị giá hàng chục triệu, nhưng trong mắt gã, đó chẳng qua cũng chỉ là mấy viên đá có màu sắc đặc biệt một chút mà thôi. Nhưng mỗi một món báu vật ở đây đều tỏa ra thứ ánh sáng lóa mắt, khiến Trác Mộc Cường Ba thậm chí không biết nên hình dung những gì gã đã nhìn thấy như thế nào nữa, cảm tưởng như trên bề mặt mỗi món phẩm vật ở nơi này đều phủ một lớp chân khuẩn có thể phát ra ánh sáng huỳnh quang, hoặc trên bề mặt kim loại mọc chi chít những sợi lông mao phát quang vậy. Thứ ánh sáng đó mới đầu thì hơi chói mắt, nhưng chỉ thoáng sau gã đã phát hiện ra nó rất dịu dàng, chập chờn rung động, khiến ánh mắt người ta bất giác bị hút chặt không rời.

Merkin há miệng, hít thở từng ngụm không khí lớn. Đứng trước cả một kho báu mênh mông, y đột nhiên không biết mình nên cười hay nên rơi nước mắt, chỉ đờ người ra, cặp mắt đã bị ánh sáng các loại báu vật chiếm giữ, đầu óc hoàn toàn rỗng không. Đây mới thực sự là một gian đại điện huy hoàng rực rỡ. Ở nơi này, mặt sàn không biết được dát lên một lớp vàng mỏng, hay là những viên gạch bằng vàng ròng dày nặng nữa. Mỗi cây cột trong đại điện đều bọc một lớp áo vàng, điêu khắc hình trồng hình phượng giữa mây lành, ngay cả bốn bức tường và đỉnh vòm, cũng được bao phủ trong sắc vàng kim chói lóa.

Trước mắt hai người, là một hàng Phật tháp được xây bằng gạch xương, rất đậm đà bàn sắc dân tộc Tạng, mỗi tháp cao chừng một mét, bệ tháp và đỉnh tháp đều đúc bằng vàng ròng, thân tháp còn có một vành đai bằng vàng, đỉnh tháp khảm các loại bảo thạch, mỗi viên to như mắt rồng. Gạch xương màu trắng điểm xuyết trên ánh sáng màu vàng, trông như một hàng vệ binh hiên ngang chỉnh tề. Thân tháp đều mở ra, tạo thành một am thờ nhỏ, bên trong đặt các tượng Phật vàng lớn nhỏ, tạo hình khác nhau. Đằng sau nhưng Phật pháp này là một số đồ trang trí bằng vàng. Họ có thể thấy tượng vàng của thập đại niên thần, một thứ trông như cái giường lớn kiểu cổ của Trung Quốc, cũng bằng vàng ròng, chất đầy ngọc ngà châu báu. Ngoài ra, còn một cái tủ bằng vàng trông như quan tài, điêu khắc thành hình một động vật họ chó. Xa hơn chút nữa, là những tượng Phật kích cỡ lớn hơn. Đáng chú ý nhất, phải kể đến hai bức tượng cỡ đại cao ít nhất cũng tầm bốn mét ở chính giữa đại điện, thoạt nhìn không giống tượng Phật, mà là một nam một nữ. Người nam tướng mạo trang nghiêm oai vệ, toát lên khí thế của kẻ ngạo thị thiên hạ, còn người nữ lại đoan trang từ ái, bờ môi hơi nhếch lên tựa như nụ cười của nàng Monalisa.

Trác Mộc Cường Ba lập tức bị hai pho tượng vàng lớn nhất này thu hút, đây nhất định là tượng vàng cao ba trượng của Tạng vương Tùng Tán Can Bố và công chúa Văn Thành mà sách sử ghi chép. Đơn vị đo lường thời đó và ngày nay có sự sai biệt nhất định, nhưng hai bức tượng này cũng xứng danh là những bức tượng vàng ròng lớn nhất thế giới rồi.

Ánh mắt Merkin lại hoàn toàn bị hút vào đống báu vật đặt trên thứ vật dụng giống như chiếc giường. Y thậm chí còn không dám chắc rốt cuộc nên gọi thứ đó là gì nữa, chỉ biết nó được chạm trổ bằng kỹ thuật chạm rỗng, bên trên có hình mây trôi và hoa lá, toàn bộ những viên bảo thạch đính xung quanh đều không tầm thường. Có điều, những thứ bày trên giường kia mới thực sự khiến tâm thần Merkin đắm say ngây ngất. Báu vật vô giá, mỗi một món trên giường đều là báu vật vô giá.

Không biết bao lâu sau, tâm trí hai người mới bình tĩnh trở lại. Họ chầm chậm đặt chân lên sàn đại điện màu vàng kim, men theo hàng Phật tháp tiến về phía trước.

Dọc đường, bất giác Merkin cứ không ngừng so sánh những thứ ở trước mắt với những thứ y lưu trữ trong ký ức, những món báu vật được phát hiện từ thuở nhân loại bắt đầu có lịch sử.

Chế phẩm bằng vàng ròng lớn nhất thế giới, phải đổi lại…

Kia là kim cương lam, không ngờ… không ngờ lại có viên kim cương màu lam lớn đến vậy!

Viên kim cương lớn nhất thế giới, phải đổi lại…

Viên hồng ngọc lớn nhất thế giới, phải đổi lại…

Viên ngọc mắt mèo lớn nhất thế giới, cũng phải đổi lại…

Kia là phỉ thúy sao? Sao lại có thứ phỉ thúy xanh mướt đẹp đến thế…

Viên phỉ thúy đẹp nhất lớn nhất thế giới, phải đổi lại…

Vương tọa, vương trượng, mũ miện khảm nạm nhiều châu báu nhất thế giới, đều phải đổi lại…

Sau mỗi bước chân, hơi thở của Merkin càng lúc càng thêm gấp gáp. Y đã không kiểm soát nổi cơ thể mình nữa, toàn thân run lên bần bật. Dọc đường bước tới, y gần như tuyệt vọng nhận ra, phàm là những món châu báu thiên nhiên hoặc nhân tạo được cho là nhất trong lịch sử mà y nhớ được, chỉ trong một chớp mắt, toàn bộ đều đã bị soán ngôi! Liếc mắt nhìn ngang, bên trái có một cái cây bằng vàng ròng, cao chừng mét bảy mét tám, cành cây chĩa nhánh, buông xuống những chuỗi bảo thạch long lanh như giọt lệ, không có gió cũng tự đung đưa. Không phải những chuỗi bảo thạch ấy đung đưa, mà là ánh sáng tỏa ra từ chúng.

Hơi dịch ánh mắt đi một chút, lại sẽ thấy một chiếc kim luân lớn, ở đầu mỗi tia hào quang chiếu ra đều gắn một viên bảo thạch tròn nhẵn trong nhờ nhờ giống như ngọc trai, nhìn kỹ hơn sẽ kinh ngạc phát hiện ra, những viên bảo thạch ấy, hóa ra chính là Ngọc thời gian trong truyền thuyết. Cứ cách một quảng thời gian nhất định, một trong các hạt châu này sẽ phát ra ánh sáng, kéo dài đến khi hạt châu tiếp theo sáng lên, lặp đi lặp lại như vậy, nghìn năm cũng không sai lệch.

Không cần dịch chuyển ánh mắt, chỉ cần nhìn xa hơn chút nữa, phía sau kim pháp luân ấy là một khay Mantra(39) cao hơn một mét rưỡi, do những viên trân châu to tướng ghép lại mà thành, từ trên xuống dưới tổng cộng có năm tầng, không biết rốt cuộc phải dùng đến mấy nghìn mấy vạn viên. Đặc biệt nhất là, mỗi viên đều to nhỏ bằng nhau, trắng ngần không tỳ vết.

Phóng tầm mắt ra chút nữa, trên bức tường màu vàng phía xa sừng sững một tấm vách màu ngọc bích, còn cao hơn cả Merkin, trông như một vầng trăng tròn màu xanh ngọc. Nhìn sắc xanh biêng biếc đặc biệt ấy, lẽ nào, đó lại là phỉ thúy? Một miếng phỉ thúy đường kính hơn hai mét, hoàn toàn không tỳ vết? Miếng phỉ thúy ấy có màu xanh như lá cỏ mới nhú lúc đầu xuân, lại thấp thoáng có thể nhìn xuyên qua, trông thấy phù điêu chạm nổi trên bức tường vàng phía sau nó. Phẩm chất của miếng phỉ thúy này thế nào, thiết tưởng không cần phải nói nữa. Thứ này còn thuộc về nhân gian nữa hay sao? Miếng phỉ thúy lớn thế, rõ ràng có thể dùng làm bình phong, thậm chí làm tường ngăn cũng được, đúng là lấy ngọc làm tường, lấy ngọc làm tường!

Cuối cùng, hai chân Merkin cũng không đỡ nổi trọng lượng của cơ thể nữa, y ngã nhào lên một bức tượng Phật vàng ròng ngồi trên đài sen. Bức tượng này kể cả đài sen bên dưới thì cao gần hai mét, gần bằng người thật, một chân khoanh lại, một chân hơi duỗi ra, bốn tay đều cầm pháp khí. Bộ cà sa khoác trên thân tượng Phật không phải được chạm nổi, mà đúng là một bộ áo Phật dệt bằng tơ vàng. Những sợ tơ vàng được se ra còn mảnh hơn sợi tóc, chạm tay vào, cảm giác mềm mại trơn bóng như lụa. Cả tấm áo cà sa lớn như vậy mà cầm trên tay cảm giác nhẹ như lông hồng, áng chừng tổng trọng lượng cũng không quá một trăm gam, thực xứng là một tác phẩm thần kỳ. Những bảo thạch khảm nạm trên các pháp khí óng ánh rực rỡ, ánh sáng xuyên thấu, chiết xạ qua các pháp khí, Trác Mộc Cường Ba còn nhìn rõ được sự biến ảo của màu sắc và quỹ tích của chùm sáng. Bảo thạch trên các pháp khí kết hợp với những viên bảo thạch ở trán, ngực và bụng tượng phật, lợi dụng chùm sáng bảy màu, vạch ra trên không trung một ký hiệu tựa như hình Lục Mang tinh(40).

Merkin ngã bổ nhào lên tượng Phật, không nhúc nhích nữa, cục yết hầu không ngừng cuộn lên cuộn xuống, hít hà một cách tham lam, tựa như hít được mùi tỏa ra từ những món báu vật này có thể khiến y thư thái, sảng khoái lâng lâng toàn thân vậy. Cuối cùng, Merkin cũng hít đủ linh khí của báu vật, trông y lúc này như thể tên nghiện vừa được thỏa mãn, người mềm nhũn, mặt ngửa tựa vào lòng pho tượng, tay chân dang rộng, tạo thành một chữ “đại” lớn, cơ hồ bao nhiêu sức lực đã bị rút kiệt, chỉ còn lồng ngực phập phồng lên xuống không dứt. Hai mắt trợn trừng nhìn lên trần, thân thể như đang đắm chìm ngụp lặn trong ảo giác, miệng y lẩm bẩm nói mớ: “Ha ha… ta phát hiện ra rồi… toàn bộ đều của ta… báu vật vô giá… toàn bộ đều là báu vật vô giá… ông nội, cháu tìm được rồi! Ha ha ha… khục khục…”

Không biết bao lâu sau, Merkin mới sực nhớ ra vẫn còn một kẻ tên Trác Mộc Cường Ba ở bên cạnh mình, lý trí rốt cuộc cũng hồi phục phần nào, y khó nhọc ngẩng đầu lên, lập tức trông thấy Cường Ba thiếu gia. Trác Mộc Cường Ba đang đứng cách đài sen nơi Merkin ngả ngốn chừng năm mét, lạnh lùng nhìn y chằm chằm. Merkin lại nằm xuống, cười lớn nói: “Anh đã thấy chưa, Cường Ba, tất cả những thứ này, đều là của tôi!”

“Không!” Trác Mộc Cường Ba hờ hững trả lời, “Những thứ này, không phải của ông.”

“Cái gì!” Merkin giật bắn mình, nhảy dựng lên như một con báo hung hãn, trừng mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba quát: “Ngươi … Nói cái gì?”

Sát khí! Trác Mộc Cường Ba lập tức cảm nhận được sát khí ngùn ngụt tỏa ra từ Merkin, trông y lúc này chẳng khác nào một con dã thú đang liều mạng bảo vệ lãnh địa, trợn mắt nhìn kẻ ngoại lai xâm nhập, sát khí cuộn trào mãnh liệt.

Trác Mộc Cường Ba cảm thấy khó hiểu, cùng một con người, tại sao chỉ trong nháy mắt có thể thay đổi nhiều đến vậy. Những thứ châu báu này, thực sự có thể thay đổi linh hồn của một con người hay sao? Hay đây mới là bộ mặt thật của Merkin?

Nếu là trước khi vào thần miếu, Trác Mộc Cường Ba hẳn còn e dè khi đối mặt với sát khí ngùn ngụt ấy, có điều lúc này, gã thấy rất rõ, tâm lý của Merkin vừa trải qua một trận đại chiến dữ dội, cho dù về mặt thể lực y vẫn còn sung sức, nhưng tinh thần của y lại đang ở trong trạng thái cực độ yếu ớt. Bởi vậy, trước câu hỏi của Merkin, gã vẫn chậm rãi trả lời, nhấn từng chữ một: “Tôi nói, những thứ này, không thuộc về… ông…”

Chữ cuối cùng vừa thoát ra khỏi miệng gã, Merkin đã hung hăng nhào tới, cặp mắt trần trụi hệt như dã thú săn mồi, thậm chí vẻ giảo hoạt như rắn vốn luôn thấp thoáng ẩn hiện trong đôi mắt ấy cũng biến mất. Trác Mộc Cường Ba không nhân nhượng, ngược lại còn xông thẳng tới nghênh đón…

Trước những cú đấm như trời giáng của Cường Ba thiếu gia, lí trí của Merkin dần dần hồi phục, y đau đớn phát hiện ra, gã đàn ông này đã mạnh lên rất nhiều so với lúc mới tiến vào Bạc Ba La thần miếu… Merkin vùng vẫy, y không can tâm. Y không hiểu nổi, suốt mấy tháng lang thang trong thần miếu, y và Trác Mộc Cường Ba ăn cùng một thứ, làm những việc giống nhau, nhưng tại sao đối phương dường như mỗi ngày một mạnh lên, càng lúc càng mạnh. Bản thân y lúc này đã không thể duy trì được cục diện cân bằng với gã nữa rồi! Đương nhiên, Merkin cũng hiểu, y đã phải gắng hết sức trong trận chiến với Khafu, thương thế vẫn chưa hoàn toàn hồi phục, thêm nữa, lúc này y không thể điều chỉnh để tinh thần có trạng thái tốt nhất. Nhưng cho dù là vậy, y cũng không thể kém cỏi tới mức này chứ! Mỗi chiêu thức của Trác Mộc Cường Ba đều có xu thế chèn ép y, khiến y không thở nổi. Đối với sự thay đổi này, Trác Mộc Cường Ba cũng không hiểu rõ lắm, gã chỉ lờ mờ cảm thấy giữa hai chân mình có một vật thể hình bánh xe đang chầm chậm chuyển động, thân thể mình dường như mỗi ngày đều có biến hóa. Gã không biết dùng ngôn từ như thế nào để hình dung sự biến hóa này, chỉ khi đang quan sát, tiếp xúc, cảm tri môi trường xung quanh, gã mới phát hiện ra những điểm khác biệt rất nhỏ.

Merkin lại dính thêm mấy đòn nặng, bắt đầu không giữ vững được trọng tâm, y vẫn còn vũ khí, nhưng một thứ bản năng nguyên thủy lại ghìm y lại, không cho y sử dụng, một tiếng nói cứ liên tục lặp đi lặp lại trong tiềm thức: “Đừng rút súng, rút súng là ngươi sẽ chết chắc!”

Cuối cùng, khi Merkin bị đánh cho ngã nhào vào một bức tượng Phật, loạng choạng mấy bước liền vẫn chưa đứng vững, y mới tỉnh hẳn, cuống quýt nói: “Đừng… đừng đánh nữa, Cường Ba… Cường Ba thiếu gia… tôi, tôi là Merkin đây!”

“Hả? Ông tỉnh lại rồi hả?” Trác Mộc Cường Ba bước lên trước, tước vũ khí của Merkin. Lúc này, Merkin vẫn đang ở trong trạng thái cuồng bạo, có trời mới biết y sẽ làm ra những chuyện gì. Merkin không phản kháng, chỉ gật đầu lia lịa nói: “Tôi, tôi tỉnh lại rồi. Vừa nãy, vừa nãy không hiểu làm sao… giống như bị ma ám vậy. Ừm, chết tiệt, thậm chí tôi còn không biết rốt cuộc mình đã làm những gì nữa!”

Nghe câu trả lời của Merkin, Trác Mộc Cường Ba chỉ cười nhạt. “Đừng tin bất cứ chữ nào, câu nào của y,” gã vẫn còn nhớ rõ lời cảnh cáo cuối cùng của Nhạc Dương. Merkin chậm rãi bước đến, y đã sáng tỏ tình huống lúc này, chỉ cần y không ra tay, Trác Mộc Cường Ba cũng sẽ không tấn công. Y ngập ngừng giây lát, rồi mở miệng: “Nhìn đi, Cường Ba thiếu gia, đây mới là kho báu thật sự, mỗi một món đồ ở đây, chỉ cần mang ra ngoài kia, chắc chắn sẽ làm cả thế giới chấn động. Những thứ này do chúng ta phát hiện, chúng là của chúng ta đấy!”

“Chúng ta?” Trác Mộc Cường Ba liếc mắt nhìn Merkin.

“Đúng vậy.” Ánh mắt Merkin đầy kích động. “Chúng ta, mỗi người một nửa…” y vừa nói, vừa nhìn Trác Mộc Cường Ba. Thoáng sau, y chợt biến sắc mặt: “Chẳng lẽ.. chẳng lẽ anh muốn… một mình… độc chiếm!” Mấy chữ cuối cùng, Merkin nói có vẻ rất khó nhọc, giờ đây vũ khí cũng bị đối phương đoạt mất rồi, sắc mặt y trở nên hết sức khó coi. “Anh… anh không thể mang hết đi được! Những thứ này, một mình anh, liệu, liệu có thể mang đi được bao nhiêu? Những món châu báu này, chỉ cần tiện tay vơ một nắm, cũng đủ khiến chúng ta trở thành người giàu nhất thế giới rồi, không phải anh muốn độc chiếm tất cả đấy chứ?”

“Không.” Nghe thấy câu nói này, Merkin mới thở phào nhẹ nhõm. Nhưng tiếp đó, Trác Mộc Cường Ba lại nói: “Những thứ này không thuộc về chúng ta, chúng thuộc về nhà nước.” (Ôi! mẹ ơi! Cường Bà ơi là Cường Ba!!!)

Cửu Cung biến đã dừng, nhưng tấm kim loại ngăn cách thông đạo vẫn không mở ra, bệ cơ quan đã bị xoay chuyển xuống góc bên dưới.

Merkin sải chân bước tới trước, lấy làm lạ nói: “Đây là cái gì vậy?”

Trác Mộc Cường Ba cũng bước tới theo, chỉ thấy trên bệ cơ quan lại là một bàn cờ mỗi bề hai mươi lăm ô vuông, ở những chỗ hai đường thẳng ngang dọc cắt nhau xuất hiện nút ấn hình tròn, một số nằm ngang với bề mặt bàn cờ, một số gồ hẳn lên, song cũng có một số nút lõm xuống, thoạt trông rất giống một cuộc cờ.

“Mật mang?” Trác Mộc Cường Ba đọc chữ viết trên bệ cơ quan, sau khi hiểu được đại khái, gã liền giải thích với Merkin: “Đây là cờ Mig mang, được du nhập vào Thổ Phồn từ trước đời Đường. Lạ thật, tôi chưa từng thấy bàn cờ nào như vậy… Á, chết rồi!” Gã bật máy tính của giáo sư Phương Tân lên, chỉ thấy màn hình toàn một màu đen kịt. Gã cuống quýt khởi động lại thấy màn hình nhấp nháy một chút, rốt cuộc cũng lên hình, chắc là do va đập khi tranh giành với Popo ban nãy.

Merkin cũng bị một phen hú hồn, giờ đây chiếc máy tính này gần như đã trở thành pháp bảo giúp họ sinh tồn trong mê cung Cửu Cung biến, pháp bảo mà mất linh, Cáo Lửa y có giảo quyệt đến mấy cũng chẳng làm gì được.

Đợi khoảng hai ba phút đồng hồ, mãi vẫn không thấy Trác Mộc Cường Ba làm gì, Merkin lại thắc mắc: “Vẫn chưa được à?” Nói đoạn, liền ngó đầu qua xem, chỉ thấy Trác Mộc Cường Ba đã nhập bố cục bàn cờ vào máy tính, phần mềm đang phân tích tính toán, những con số bên cạnh không ngừng nhảy lên, đã tính mấy triệu nước đi rồi mà vẫn chưa ra đáp án. Nếu những câu đố logic đơn giản như trước, máy tính sớm đã hoàn thành công việc từ lâu rồi.

Merkin lại quay sang nhìn bàn cờ, y vẫn có cảm giác cách sắp xếp loại cờ này dường như rất quen thuộc, bèn hỏi Trác Mộc Cường Ba: “Cờ Mig mang này, rốt cuộc là trò gì vậy?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Chính là cờ vây của Trung Quốc đó, có điều, xưa nay tôi chỉ thấy bàn cờ mười chín ô giảm xuống còn mười bảy ô, chứ loại bàn cờ lớn, kích cỡ mỗi chiều lên đến hai mưới lăm ô thế này thì chưa gặp bao giờ.”

Merkin sực hiểu ra, chẳng trách hình dáng bàn cờ này lại trông quen mắt đến vậy, thì ra chính là cờ vây. Nói vậy thì, đây chính là một tàn cuộc. Sự chú ý của Merkin giờ đã hoàn toàn tập trung lên bàn cờ. Lịch sử phát triển của cờ vây từng trải qua mười mấy lần biến hóa, từ bàn cờ 9×9 đến bàn cờ 13×13 rồi 17×17, cuối cùng mới hình thành bàn cờ 19×19. Số lẻ thỏa mãn được điều kiện hai bên thi đấu nhất thiết phải có một bên giành phần thắng, 19 lại là số đại diễn trong triết học cổ đại Trung Quốc, khi phát triển đến bàn cờ mười chín ô này, năng lực tư duy của con người đã đạt đến cực hạn, vì vậy mới không tiếp tục phát triển nữa. Nhưng giờ đây, ở trước mắt Merkin lại là một bàn cờ cỡ 25×25, lớn hơn rất nhiều. Nếu coi những nút ấn lõm xuống là quân đen, nút gồ lên là quân trắng, vậy thì cuộc cờ này tựa như hai con rồng khổng lồ đang quấn chặt vào nhau, ác đấu không phân thắng bại vậy.

Kỳ lạ là, cuộc cờ này thoạt nhìn tưởng rằng hạ cờ xuống đâu cũng được, những nghĩ kỹ lại, thì dù đi nước nào đối phương cũng có cách ứng phó, giống như hai cao thủ võ lâm đang đối đầu vậy, dù ai ra tay trước, xuất chiêu thức gì chăng nữa, đối phương cũng có thể lập tức nghĩ ra chiêu thức phá giải, chỉ có không xuất chiêu mới là cảnh giới cao nhất, một dạng cảnh giới vô chiêu thắng hữu chiêu!

Merkin tiếp tục chăm chú quan sát, chỉ thấy hai loại cờ dần dần biến ảo thành hai đạo quân đối đầu. Hai cánh quân đen trắng, quân tiên phong lao vào nhau, binh sĩ chia từng cặp chém giết điên cuồng, tiểu đội trưởng phối hợp hài hòa, đại đội trưởng bày mưu lập kế… bên tai y phảng phất vang lên tiếng gươm giáo khua nhau, trống trận rầm rầm như sấm dậy, mặt đất rung lên, người nghiêng ngựa ngả, tiếng chém giết, tiếng gào thét quện vào nhau. Merkin chợt thấy trước mắt tối sầm, suýt chút nữa là ngất xỉu tại chỗ. Y vội vàng nhắm chặt mắt, lùi lại một bước, cảm giác như thể bị người ta dùng búa tạ đập cho một cú vào ngực vậy, lùi một bước, rồi lại loạng choạng lùi thêm nửa bước nữa mới đứng vững.

Lúc này, máy tính của giáo sư Phương Tân vẫn đang chạy tính toán, Merkin liếc mắt nhìn thử, thấy đã tính đến bước thứ hai trăm triệu hơn rồi, vậy mà những con số bên cạnh vẫn đang nhảy với tốc độ mắt thường không thể nào phân biệt được. Y ủ rủ lắc đầu nói: “Vô dụng thôi, không tính ra được đâu.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tại sao?”

Merkin cười rầu rĩ: “Đây là một chân các.” Thấy Trác Mộc Cường Ba không hiểu, y lại giải thích thêm: “Chân các, là giai đoạn gần như kết thúc trung bàn, nhưng chưa thâu quan(32) trong một ván cờ vây, cục diện đột nhiên xuất hiện sự hài hòa tột độ, tiếp sau trừ phi xuất hiện một nước cờ cực diệu, bằng không một bên nhất định sẽ giành phần thắng. Tình huống như vậy, được gọi là chân các. Chân các trong phức tạp hơn, vì nước cờ của nó nhiều hơn, biến số cũng lớn hơn gấp bội. Tôi từng gặp qua một chân các giống như thế này, sau khi quân đen đi, quân trắng chỉ có một cách đối phó duy nhất, chỉ cần đặt sai là ắt sẽ đại bại; nhưng sau khi quân trắng hạ cờ, quân đen lại cũng chỉ có một cách ứng phó duy nhất, chỉ cần đặt sai chỗ sẽ thua chắc. Tiếp sau đó, cứ lặp đi lặp lại như vậy, một trăm hai mươi tám nước, nước nào cũng thế, chỉ có một cách ứng đối duy nhất, nhưng chưa một ai có thể nghĩ ra tình huống sau nước thứ một trăm hai tám, kể cả máy tính cũng không…”

Trác Mộc Cường Ba nhíu chặt hai hàng lông mày. Merkin tiếp tục nói: “Số lượng phép tính phải thực hiện quá lớn, mặc dù bộ nhớ máy tính này không tệ, bộ vi xử lý cũng khá mạnh, nhưng anh đừng quên, đây là bàn cờ lớn 25×25, tổng cộng có tới 625 điểm. Máy tính không thể tiến hành xử lý mơ hồ, vì vậy, để phá giải thế cờ, nó chỉ có thể dùng một trong hai cách: so sánh với các thế cờ có sẵn trong bộ nhớ, hoặc dùng phép thử thô bạo(33). Loại bàn cờ lớn này, cổ kim đều chưa từng gặp, máy tính của anh chắc chắn không thể có sẵn thế cờ trong bộ nhớ, vậy thì chỉ có thể dùng cách thử lần lượt để tính toán nước đi chính xác, cũng có nghĩa là liệt kê ra mọi khả năng có thể xảy ra trong cuộc cờ. Anh có biết, với một bàn cờ như thế này, sẽ có bao nhiêu khả năng không? Số lượng những khả năng này sẽ tăng lên theo cấp số mũ, là một con số cực kỳ khổng lồ. Chỉ nói bàn cờ mười chín ô, nếu dùng siêu máy tính có tốc độ tính toán 100.000.000.000.000 phép tính một giây để phân tích thì cũng phải mất mười nghìn năm mới xong, nếu đổi thành bàn cờ 25×25 này …” Merkin lắc đầu.

Trác Mộc Cường Ba trợn tròn mắt nhìn vào màn hình, trị số đã lên đến 12 con số. Vậy mà máy tính vẫn chưa đưa ra được nước cờ tiếp theo. Gã đành nói: “Vậy phải làm sao bây giờ?”

Merkin hít sâu một hơi, thở dài nói: “Chúng ta đành tự làm lấy vậy, cũng may vẫn chưa thấy cơ quan nào khởi động.”

“Không,” Trác Mộc Cường Ba nói, “Tôi thấy không ổn, tuy chưa biết là chuyện gì, nhưng tôi có cảm giác cơ quan đã khởi động rồi, chỉ là chúng ta chưa phát hiện ra thôi.”

“Cơ quan vô hình à?” Merkin nói: “Tôi chưa từng gặp qua thứ cơ quan cạm bẫy nào như vậy, trừ phi là sương độc hay khói độc?” Nói đoạn, y ghé mặt sát vào phía tường, phỏng chừng muốn nhìn rõ xem có làn khói sương mờ mịt nào lan ra không. Nhìn thì không thấy gì, nhưng Merkin dường như đột nhiên phát hiện được thứ gì đó, vội áp tay vào kẽ tường, kế đó chửi toáng lên: “Chết tiệt! Chó má thật!”

“Gì thế?” Trác Mộc Cường Ba cũng đưa tay lại chỗ mép tường đó, cảm thấy có lực hút, hút ngón tay gã dính lên tường.

Mặt Merkin xám như chì, y nói: “Áp suất âm, anh nói đúng, cơ quan đã khởi động rồi, chỉ là chúng ta không nhìn thấy thôi. Nó sẽ hút sạch không khí, biến gian phòng này thành môi trường chân không.”

“Nhưng máy tính không thể tìm ra nước đi chính xác, tôi cũng không biết chơi loại cờ này, làm sao bây giờ?”

Merkin nghiến răng nói: “Không ngại, để tôi thử!”

“Ông?…”

“Cờ vây rốt cuộc là gì?” Merkin đột nhiên hỏi một câu, nhìn vẻ mặt ngơ ngơ của Trác Mộc Cường Ba, rồi tiếp: “Đây là vấn đề đầu tiên ông nội hỏi tôi khi dạy tôi chơi cờ vây. Ông bảo tôi, cờ vây không chỉ là một trò chơi đơn giản, cũng không chỉ là đấu trí đấu lực giữa hai kỳ thủ. Hai loại quân cờ đen trắng, đại diện cho ánh sáng và bóng tối, chính và phụ, có và không, đây là tư tưởng triết học đơn giản nhất, đồng thời cũng cao siêu nhất. Nó biểu thị khởi nguyên và cấu thành của vạn vật, hết thảy biến hóa của sự vật trên đời đều không thoát ly khỏi tư tưởng này.”

Ngón tay Merkin bắt đầu đặt lên điểm nút đầu tiên. Ngay sau nút này bị ấn thụt xuống, liền có một nút khác tương ứng bật lên. Người xưa đã chuẩn bị sẵn nước cờ để đối phó, nếu y chọn sai, chắc hẳn gian phòng này sẽ không mở ra nữa, cho đến khi hai người chết mục, bị phu quét đường dọn dẹp sạch sẽ.

“Cảnh giới tối cao của cờ vây là sự hài hòa,” Merkin lại đi nước cờ tiếp theo, chậm rãi nói, “người mới học, thường hay tính toán sự được mất của một hai quân cờ phía góc; người hơi hiểu cờ vây một chút, liền học được cách phán đoán tình thế và thực địa; còn cao thủ đấu với nhau, lại là cuộc đọ sức về sự hài hòa.”

Mỗi khi đi một bước, Merkin đều hết sức dè dặt, tránh để bị mất đất. Y giống như người đang chơi cờ với chính mình, dần dần tiến vào trạng thái vong ngã, quên luôn cả sự tồn tại của Trác Mộc Cường Ba. Y không ngừng lẩm bẩm, chừng như trước mặt có một cao thủ cờ vây đang ngồi chễm chệ, bọn họ không chỉ so đấu sức cờ, mà còn đang sửa chữa lý thuyết chơi cờ của nhau nữa. “Thời xưa đánh giá kỳ thủ, toàn dựa vào việc người đó có thể nhìn được bao nhiêu nước đi phía sau, ai nhìn được chừng bảy bước đã là cao thủ đẳng cấp quốc gia rồi. Nhưng cách thức đánh giá này, lại hoàn toàn không thích hợp với môn cờ vây. Con người sở dĩ là con người, là bởi lẽ, ngoại trừ những tính toán và suy đoán lý trí ra, con người vẫn luôn có một thứ trực giác siêu lý tính, cũng chính là cảm tính. Cảm tính khiến chúng ta có thể đưa ra những phán đoán mơ hồ, cảm tính cũng là công cụ để chúng ta phân biệt giữa đẹp và xấu.”

Merkin lại đi thêm một nước cờ, nút ấn hình tròn gồ lên liền trở lại vị trí ngang bằng với mặt bàn.

“Chúng ta lên đỉnh núi cao, chỉ để ngắm nhìn phong cảnh trải dài vô tận dưới chân; chúng ta đối mặt với biển lớn, chỉ để cảm nhận sóng biển cuồn cuộn dâng trào; chúng ta ngưỡng mộ lũ chim trời, bởi chúng ta thấy được tự do trong đôi cánh chao liệng của chúng. Thứ con người theo đuổi, thực ra là một sự cân bằng giữa cảm tính và lý tính. Vì sự theo đuổi này, mà cờ vây được sáng tạo ra, nó không đại diện cho việc vây sát chém giết, mà là sự cân bằng ở bên trong mâu thuẫn!”

Merkin hạ cờ mỗi lúc một chậm hơn, năng lực tính toán của y bắt đầu không theo kịp, những nước đi của bệ cơ quan liên tiếp dồn ép, sát cơ ẩn hiện, mỗi bước như một liều chất xúc tác, khiến hai con rồng đen trắng càng thêm cừu hận, sát khí nồng đậm. Còn Merkin lại như một vị chuyên gia đàm phán hòa giải, mỗi nước cờ đều ẩn nhẫn nhẹ nhàng, cơ hồ muốn làm nguôi lửa giận của hai con rồng, chuyển từ cục diện đang quấn lấy nhau không chết không thôi sang hòa bình yên ả.

Hai con rồng lúc thì nhe nanh múa vuốt hung tàn, lúc lại quấn chặt lấy nhau, dịu dàng nhu thuận, mà thứ khiến chúng nảy sinh biến hóa nghiêng trời lệch đất như vậy, chỉ là những nút Merkin bấm xuống và bàn cờ tự động bật lên đối ứng. Đi được khoảng hơn ba mươi nước cờ, không khí trong phòng không biết đã bị hút mất bao nhiêu, Trác Mộc Cường Ba vẫn chưa cảm thấy có gì bất thường, nhưng đầu Merkin đã bắt đầu xuất hiện những cơn đau nhói. Y hiểu rất rõ, đó ra do máu và ôxy không được cung cấp đầy đủ, đồng thời bộ não y lại đang tiêu hao một lượng lớn chất đường và ôxy trong cơ thể. Merkin không thể không day day chỗ giữa hai chân mày, cố gắng làm bộ não đang nóng bừng lên vì hoạt động quá độ bình tĩnh trở lại. Cũng có lúc, y nhắm mắt, diễn dịch lại toàn bộ quá trình chinh chiến sát phạt trên bàn cờ.

Thời gian trôi đi từng giây, Trác Mộc Cường Ba cũng tiến vào trạng thái minh tưởng, ngồi xếp bằng dưới đất. Gã cần phải giữ bình tĩnh cho Merkin, đồng thời cũng cố gắng giảm nhịp thở xuống, để Merkin hít được nhiều ôxy hơn. Hai người cứ vậy lặng lẽ phối hợp, nỗ lực giành mảnh giấy thông hành đến cõi người sống từ trong tay thần Chết.

“Khụ khụ …” Merkin đột nhiên cảm thấy nôn nao bất an, y đẩy khẽ vào Trác Mộc Cường Ba đang ngồi bên cạnh. Trác Mộc Cường Ba mở mắt ra, chỉ thấy khóe miệng Merkin rỉ máu, giọng nói cũng trở nên thều thào vô lực, “nhanh… tôi không xong rồi, dùng máy tính, mau lên!”

Trác Mộc Cường Ba bấy giờ mới nhìn thấy, trên bàn cờ vẫn còn khoảng bốn năm chục ô trống, vội vàng nhập vào máy tính, bắt đầu tính toán lại. Khi bắt tay thực hiện, gã mới nhận ra bàn tay mình đang run lên nhè nhẹ, rõ ràng là do không đủ ôxy, hệ thần kinh của gã cũng bắt đầu tê liệt rồi.

Máy tính phân tích sắp xếp lại hơn năm mươi ô trống, rồi bắt đầu một lượt tính toán mới. Trác Mộc Cường Ba điều chỉnh lại hơi thở để giữ cho ý thức tỉnh táo, nhìn bộ dạng Merkin, chắc hẳn thần trí y đã rơi vào trạng thái mơ hồ, nếu cả gã cũng ngã gục ở đây, thì hai người chỉ có thể ở lại nơi này mãi mãi mà thôi.

Lại mấy phút nữa trôi qua, bàn tay Trác Mộc Cường Ba run run, ấn một nút nữa xuống. Sau đấy, tốc độ tính toán của máy tính mỗi lúc một nhanh hơn, cuối cùng, chỉ nghe “xì” một tiếng, tựa như một cái túi lớn bị xì hơi. Trác Mộc Cường Ba thở phào nhẹ nhõm, gã biết, mình lại có thể há miệng hít thở không khí một cách bình thường được rồi. Thần kinh đang căng như dây đàn được buông lỏng, Trác Mộc Cường Ba cũng không gắng gượng nổi nữa, mí mắt sụp xuống, loạng choạng ngã vật ra đất. Trong lúc thần trí vẫn đang mơ hồ, gã lờ mờ cảm thấy sàn nhà được nâng lên, gạch lát cuồn cuộn như sóng biển đưa gã đến một nơi khác. “Cửu Cung biến, lại chuyển động rồi sao?” Trác Mộc Cường Ba mang theo ý nghĩ ấy thiếp đi, hoàn toàn không còn tri giác.

Khi Trác Mộc Cường Ba mở mắt ra, gã thấy mình đang ở trong một đại điện rộng rãi, trần vòm có tranh vẽ thiên thần. Gã gắng sức ngẩng đầu lên, thấy chính giữa đại điện có bốn cây cột chống, hai bên là tượng Phật, phía trước là một hồ nước, ba dòng nước trong mắt phun ra từ miệng ba chiếc đầu thú kỳ dị mà gã không biết tên đổ xuống hồ. Merkin đang ngồi trên bên bờ hồ, trầm tư nhìn xuống mặt nước, hơi nước mù mịt, không khí nóng bức dị thường.

Trác Mộc Cường Ba vươn mình ngồi dậy, cảm thấy gân cốt toàn thân mềm nhũn, nhưng lại hết sức dễ chịu, như vừa được ngủ một giấc sau khi massage vậy.

“Đây là nơi nào? Chúng ta đã thoát rồi hả?” Trác Mộc Cường Ba ngước mắt nhìn quanh.

Merkin nói: “Ừm, chắc là đã ra khỏi Cửu Cung biến rồi, tôi nghe nói, trong hơn một vạn gian phòng, có một gian được bố trí cơ quan phức tạp nhất, sau khi phá giải cơ quan, căn phòng ấy sẽ tự động dịch chuyển đến lối ra. Phỏng chừng, bàn cờ hai mươi lăm ô kia chính là cơ quan phức tạp nhất rồi.”

Trác Mộc Cường Ba nhổm người đứng dậy bước đến gần Merkin, chỉ thấy hai bên trái phải đại điện này đều có cửa mở, nhìn qua khung cửa cỏ thể thấy hai gian bên cạnh cũng có hai hồ nước. Gã ngờ vực hỏi: “Đây chính là trung tâm thần miếu mà người Qua Ba cổ đại muốn bảo vệ sao?”

Gương mặt Merkin cũng lộ ra vẻ nghi hoặc, y nói: “Tôi cũng lấy làm lạ, nơi này giống như một phần của Cửu Cung biến hơn. Tôi đi xem thử rồi, những gian phòng này cũng có cùng kết cấu, chẳng qua chúng không di chuyển thôi. Có lẽ chúng ta đang ở dưới đáy của Cửu Cung biến dưới một hình thức khác.”

“Dưới đáy của Cửu Cung biến?” Trác Mộc Cường Ba ngẩng đầu lên. “Chúng ta rơi từ bên trên xuống hả?” Merkin chỉ chỉ ngón tay, trong bức tranh trên trần đại điện có một lỗ hình vuông, khi phiến đá khép lại, đường rãnh ẩn vào trong tranh, nhìn thoáng qua không dễ phát hiện. Trác Mộc Cường Ba nói: “Vậy ông đã tìm được lối ra chưa?”

Merkin lắc đầu: “Tôi đi xem hết một lượt rồi, những gian đại điện này bố trí thành hình chữ hồi(34), đi một vòng liền trở lại chỗ cũ. Vừa nãy tôi đang nghĩ, không biết liệu dưới hồ nước này có cơ quan gì không nữa.”

Trác Mộc Cường Ba thò tay xuống nước, giật mình thốt lên: “Nóng quá!”

Merkin nói: “Nhiệt độ ở đây rất cao. Chắc chúng ta đã ở rất gần mắt núi lửa toàn nham thạch nóng chảy rồi.” Tuy bọn họ mặc đồ liền thân, nhưng cũng không cảm thấy nóng bức gì, có điều phần đầu mặt lộ ra ngoài đã đầm đìa những hạt mồ hôi to như hạt đậu.

“Đi, tôi dẫn anh đi xem thứ này.” Merkin đi trước, dẫn Trác Mộc Cường Ba vòng sang một gian điện khác, chỉ thấy kết cấu gian đại điện này không khác gì những gian xung quanh, ở góc cũng có một hồ nước, hai bên là tượng Phật. Chỉ khác một điều là, diện tích gian điện này lớn hơn một chút, dài chừng hai mươi mét, rộng mười mét, đối diện với hồ nước là một hàng rào lớn, bên trong hàng rào dường như đặt mấy bức tượng Phật.

Merkin dẫn Trác Mộc Cường Ba tới trước hàng rào, bây giờ gã mới nhận ra, thứ xếp sát tường bên trong hàng rào kia không phải là tượng Phật, mà hình như là những bộ áo giáp, tạo hình giống võ sĩ thời cổ đại.

Gã hỏi: “Đây là cái gì vậy? Áo Giáp à?”

Merkin đáp: “Không giống, tôi chưa từng thấy áo giáp nào như vậy. Anh nhìn kỹ chỗ tiếp giáp ở phần đầu mà xem, bên trong không rỗng đâu. Tôi thấy chúng không giống áo giáp, mà giống những cỗ máy hơn. Còn cả hàng rào này nữa, cái lỗ dưới đất này chắc là do vật nặng rơi xuống khoét ra, tôi có cảm giác hàng rào này có thể nâng lên được, chỉ là chúng ta không đủ sức nâng nó lên mà thôi.”

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn bốn phía xung quanh: “Có lẽ cơ quan ở ngay gian đại điện này đấy.”

Merkin lắc đầu nói: “Tôi đã thử tìm rồi, không phát hiện gì cả.”

Trác Mộc Cường Ba lại nói: “Tìm lại lần nữa, chúng ta cùng tìm xem.”

Tìm kiếm thêm một lượt khắp đại điện, không thấy có cơ quan nào, nhưng Trác Mộc Cường Ba và Merkin lại phát hiện một số dấu vết khác, có người đã đi qua nơi này! Đám người ấy không chỉ đã tới đây, mà còn xóa sạch mọi dấu vết. Có điều, chắc do người đông quá, chúng vẫn để sót lại một số đầu mối mờ nhạt.

Trác Mộc Cường Ba càng lúc càng thêm khẳng định: “Cơ quan chắc chắn là ở đây, chỉ là đã bị che dấu đi thôi. Bọn chúng không muốn chúng ta phát hiện ra cơ quan, ừm …” Nghĩ tới đây, Trác Mộc Cường Ba chợt nhớ đến những món vũ khí từng bị người khác dịch chuyển ở Địa ngục nước và lửa trong Địa cung Ahezt. Gã lập tức nói: “Cơ quan ở trên tượng Phật kia.”

Hai người liền leo lên các tượng Phật, kiểm tra những thứ trên tay, đeo ở lưng các bức tượng, quả nhiên không ngoài dự đoán, họ phát hiện ra sự bất thường trên hai bức tượng gần hồ nước. Hai tượng Phật này có tạo hình phẫn nộ, nhưng trên tay mỗi bức tượng đều có một vật chứa. Một bức cầm bát nước lớn, giơ cao quá đầu, bộ dạng như đang chuẩn bị ném ra, trên bốn cánh tay khác đều có vũ khí; bức tượng còn lại ôm một vò rượu, áp sát vào ngực, như muốn nâng lên đổ vào miệng.

Trác Mộc Cường Ba và Merkin không tốn sức mấy đã nhẹ nhàng lấy được hai vật chứa đó ra khỏi tượng Phật.

.

.

XUYẾT THUẬT(35), XẠ PHÚC(36), GIẢI ĐỐ

.

Trác Mộc Cường Ba phát hiện, trong bát nước có khắc một hàng chữ nhỏ: “Khi cái Một phủ khắp cái Nhiều, cái Nhiều có thể chứa đựng cái Một; khi cái Nhiều phủ khắp cái Một, cái Một có thể chứa đựng cái Nhiều.”(37) Trác Mộc Cường Ba không hiểu câu thiền ngữ này cho lắm, dịch thế nào cũng thấy không ổn, bật máy tính ra xem thì chỉ thấy màn hình đen kịt, không thể khởi động được nữa. Merkin nói đùa: “Máy tính hoạt động quá độ, nên bãi công phản đối rồi.”

Không có sự trợ giúp của máy tính, hai người nhất thời cũng không biết phải làm sao. Merkin chợt phát hiện bên trong bầu rượu y đang ôm cũng có chữ, hai người liền cúi đầu vào xem xét thật kỹ. Sau một hồi vừa dịch vừa đoán, suy đi tính lại, hai người đại khái cũng hiểu được ý đồ của cổ nhân. Hai vật chứa này, một cái đáy nông miệng rộng, một cái cổ cao thân hẹp, trọng lượng và dung tích cũng hoàn toàn khác nhau, nếu muốn cơ quan khởi động, thì hai pho tượng này phải ôm vật chứa có trọng lượng bằng nhau mới được. Ngoài ra, cổ nhân còn cung cấp một con số cụ thể, yêu cầu hai vật chứa này đều phải nặng bằng đúng chín cân.

Nhìn yêu cầu nghiêm ngặt trong vật chứa, hai người cùng nhăn mặt không biết giải quyết thế nào. Trên tay họ lúc này không có công cụ cân đo đong đếm, vì vậy họ hoàn toàn không biết hai vật chứa này nguyên bản nặng bao nhiêu, làm sao có thể đong ra được trọng lượng chín cân một cách chuẩn xác chứ? Cổ nhân đã cho sẵn một loạt các con số, như đường kính miệng và đáy vật chứa, chu vi vòng lớn nhất, độ cong mặt gấp… hiển nhiên là yêu cầu họ phải tính toán một hồi. Khốn nổi, kiến thức toán học của cả hai đều có hạn, có một đống số liệu ấy rồi mà vẫn chẳng biết làm thế nào.

Trác Mộc Cường Ba ngẫm nghĩ một hồi, đột nhiên buột miệng thốt lên: “Xuyết thuật!”

“Cái gì cơ?” Merkin không hiểu.

Trác Mộc Cường Ba đáp: “Tương truyền nhà toán học lớn của Trung Quốc thời cổ đại là Tổ Xung Chi cùng với con trai ông ta đã soạn ra một bộ sách toán học, tên là Xuyết thuật, trong sách nhắc đến các phương pháp tính toán khác nhau, tất nhiên có cả công thức tính thể tích của những khối hình học bất quy tắc, như hình cầu, hình bán cầu… chỉ có điều, nội dung bộ sách này quá sâu sắc, nên đến thời Tống thì đã thất truyền. Dụng ý của hai vật chứa này, hiển nhiên là muốn chúng ta sử dụng Xuyết thuật để tính toán thể tích của chúng, sau đó mới tính ra lượng nước cần thiết để nó đạt được trọng lượng chín cân.”

Merkin chưng hửng: “Thất truyền rồi? Vậy thì anh đừng nói còn hơn, giờ chúng ta phải nghĩ cách để hai cái thứ này đều nặng đúng chín cân đi.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Chúng ta có thước đo khảng cách bằng laser, có thể đo được độ dài chuẩn xác. Chúng ta có cọc tiêu, dây thừng, có palăng định hướng, có thể làm thành một cái cân, nhưng vấn đề là phải có vật tham chiếu trọng lượng làm quả cân…”

“Gượm đã, anh nói vật tham chiếu trọng lượng hả?” Merkin nói, “tôi…tôi biết trọng lượng của từng cây súng, chuẩn xác đến đơn vị gram!”

Trác Mộc Cường Ba chộp lấy hai vai Merkin nói: “Vậy là được rồi! Bắt tay làm thôi!”

Sau mấy phen thử đi thử lại, rốt cuộc họ cũng khiến hai vật chứa ấy đạt được cân bằng, sau đó lại đổ thêm vào mỗi bên mấy giọt nước, đặt về chỗ cũ, kiên nhẫn đợi cho nước sôi sùng sục bên trong bay hơi bớt đi.

Đầu tiên, cột nước phun ra từ ba cái đầu thú nhỏ dần, rồi biến mất. Kế đó, lại nghe một loạt tiếng “ào ào”, nước nóng trong hồ cuồn cuộn đổ ra, phần đáy hồ không ngờ lại nghiêng đi tạo thành một con dốc thoai thoải. Trác Mộc Cường Ba và Merkin đưa mắt nhìn nhau, gã bất giác thốt lên: “Lại phải đi xuống nữa hả? Rốt cuộc là xuống đến tận đâu đây?”

Merkin nói: “Chúng ta từ lúc vào trong thần miếu này, toàn là đi xuống, e rằng đã xuống đến tầng bình đài thứ nhất rồi cũng nên?”

“Không.” Trác Mộc Cường Ba lắc đầu nói. Khác với bọn Merkin, nửa chừng mới nhảy dù xuống, nhóm người của gã leo lên đây từ tầng thấp nhất, nên hiểu được rất rõ ba tầng bình đài này rốt cuộc cao chừng nào. Trác Mộc Cường Ba điềm đạm nói: “Chúng ta đang ở trong lòng núi, áng chừng đã xuống đến độ cao ngang với tầng bình đài thứ hai rồi, tiến lên thôi!”

Hai người giữ thăng bằng, trượt xuống con dốc vẫn còn ướt nước, rơi vào gian phòng phía dưới. “A!” Vừa chạm đất, Trác Mộc Cường Ba đã nhíu mày. Gian phòng này không có gì đặc biệt, giống hệt như gian phòng phía trên nó, cũng có hồ nước như thế, cũng những bước tượng như thế, chỉ là ở đầu phía bên kia không có hàng rào và những bộ áo giáp bên trong mà thôi.

Merkin nói: “Tôi nói không sai đúng không? Chúng ta vẫn đang ở trong Cửu Cung biến, chẳng qua chỉ đổi sang một dạng thức khác thôi.”

Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát, rồi gật đầu công nhận: “Ông nói đúng, có lẽ chúng ta đang ở dưới đáy của Cửu Cung biến thật. Tôi nghĩ, tôi đoán được kết cấu của Cửu Cung biến này là như thế nào rồi.”

“Hả?” Merkin tròn mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ông xem, chúng ta rơi xuống giữa gian phòng nhỏ này, mà phía bên trên lại là hồ nước ở sát tường. Những gian phòng này cũng quây lại thành hình chữ “hồi”, vậy có nghĩa là, các phòng bên dưới nhỏ hơn phòng bên trên một cỡ.”

Merkin nói: “Vậy thì sao?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Cửu Cung biến không phải một khối lập phương vuông vắn, ông có thể nói nó như một khối rubic khổng lồ, chỉ là, khối rubic này lại cắm một góc nhọn xuống, giống như con thoi vậy.”

Merkin hiểu được ý Trác Mộc Cường Ba, nhíu mày nói: “Ý anh là, giống như hai cái kim tự tháp một xuôi một ngược chập vào nhau?” Trác Mộc Cường Ba gật đầu, Merkin lại biến sắc mặt tiếp lời: “Cũng có nghĩa là, chúng ta càng đi xuống, hành lang càng nhỏ, đến gian phòng cuối cùng, tức là đến được lối ra cuối cùng rồi.” Hai người đều không biết, không chỉ Cửu Cung biến này, mà toàn bộ Bạc Ba La thần miếu đều có kết cấu như vậy.

Sau khi biết được phương hướng đi tiếp, tinh thần hai người đều phấn chấn hẳn lên. Họ bắt đầu lần lượt tìm kiếm trong các gian phòng nhỏ xếp thành hình chữ “hồi” này, gian nào lớn hơn đồng thời có hàng rào sắt, chắc chắn là có cơ quan thông xuống tầng bên dưới.

Đi được nửa vòng, hai người đã tìm thấy căn phòng lớn hơn kia. Chỉ thấy phía trước hồ nước trong phòng có bày một bàn đá dài, nói liền hai bức tường. Mặt bàn phía bên bọn Trác Mộc Cường Ba có sáu đường rãnh, trên mỗi đường rãnh có một khối cầu bằng đá tròn nhẵn. Phía trước những đường rãnh này là bốn lỗ tròn, kích cỡ vừa khít với khối cầu đá. Phía bên hồ nước lại chỉ thấy có tám lỗ nhỏ. Bất thình lình trông thấy một thứ cổ quái như vậy, Merkin buột miệng hỏi: “Hả, đây là cái gì?”

Trác Mộc Cường Ba cẩn thận xem xét hàng chữ ở mé bên chiếc bàn đá, rồi giải thích: “Tôi hiểu rồi, cơ quan này tương tự với trò chơi xạ phúc rất thịnh hành thời Hán Đường, cũng là một dạng trò chơi giải đố. Quy tắc thời bấy giờ là giấu thứ gì đó dưới cái bát, đồng thời cung cấp một số gợi ý nhất định, người chơi sẽ dựa theo những manh mối đó mà suy đoán xem thứ giấu bên dưới cái bát là gì.”

“Vậy cái này thì sao?” Merkin hỏi.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Sáu quả cầu đá này kích cỡ giống hệt nhau, nhưng trọng lượng thì khác, chỉ có bốn quả là phù hợp quy tắc, chúng ta có bốn lần cơ hội, mỗi lỗ chỉ có thể bỏ một quả cầu vào, sau đó tám cái lỗ nhỏ ở phía trên kia sẽ cho chúng ta gợi ý. Trong tám lỗ ấy sẽ xuất hiện tám cọc báo hiệu, bốn đen bốn trắng, nếu anh chọn được quả cầu có trọng lượng phù hợp thì sẽ xuất hiện một cọc báo hiệu màu trắng. Nếu quả cầu có trọng lượng phù hợp ấy lại được bỏ vào đúng lỗ, thì sẽ xuất hiện một cây cọc báo hiệu màu đen. Chỉ khi chọn được quả cầu có trọng lượng phù hợp đồng thời bỏ nó vào đúng lỗ, cơ quan mới mở ra.”

Merkin nói: “Tổng cộng chỉ có sáu quả cầu đá, lấy đâu ra bốn lần cơ hội?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi không biết, dựa theo những gì khắc trên đó mà dịch ra thì là như vậy.”

Merkin chăm chú quan sát hai bên đường rãnh, nói: “Ồ, tôi hiểu rồi, hai đầu đường rãnh này có cửa chập, sau khi bỏ bốn quả cầu đá vào lỗ, cửa chập sẽ mở để bốn quả cầu ấy lăn ra. Sáu quả cầu chọn bốn quả, sau đó lại phải xác định được thứ tự bốn quả cầu ấy, vậy mà chỉ có bốn lần cơ hội, có lẽ chúng ta phải dựa vào vận may rồi.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Sáu quả cầu chọn ra bốn quả chính xác, ít nhất cũng phải mất hai lần, thứ tự của bốn quả cầu này, lại có hai mươi bốn loại tổ hợp…” gã gập ngón tay lại tính toán, hai hàng lông mày bắt đầu nhíu lại.

Merkin xua tay can: “Đừng tính nữa, tính thế nào cũng không được đâu, giờ máy tính cũng không dùng được, vậy thì cứ làm như tôi nói đi, dựa vào vận may vậy, may mắn thì bốn lần cơ hội cũng đủ rồi, không may thì khó nói lắm.” Dứt lời, ý liền cầm một quả cầu đá lên.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Đợi đã, loại cơ quan này có thể phá giải được, không cần phải đối chiếu từng cách một. Chúng ta chia sáu quả cầu này ra làm hai nhóm, mỗi nhóm ba quả, rồi chọn ra hai quả từ mỗi nhóm.”

Merkin và Trác Mộc Cường Ba lần lượt cầm quả cầu ở đường rãnh thứ nhất thứ hai và thứ tư thứ năm lên, bỏ vào các lỗ từ một đến bốn. Các lỗ nhỏ phía bên kia bàn hiện lên hai cọc báo hiệu màu đen. Hai người cả mừng, cảm thấy vận may của mình cũng không tệ lắm. Hai cọc màu đen có nghĩa là trong bốn quả cầu họ chọn có hai quả là chính xác, vả lại cũng đã được bỏ vào đúng lỗ của nó.

Chỉ nghe “cách” một tiếng, cửa chập bên mé phải đường rãnh mở ra, hai quả cầu còn lại lăn vào. Tiếp đó, cửa chập bên trái cũng mở ra, lại có đủ sáu quả cầu xếp ngay ngắn. Lúc này, Trác Mộc Cường Ba và Merkin có thể khẳng định, hai quả cầu còn lại nhất định là có trọng lượng phù hợp, chỉ là không biết bỏ vào lỗ nào mới đúng. Tiếp sau đấy, họ chọn quả số một và số hai trong bốn quả cầu ban đầu, vị trí cũng không thay đổi, cộng với quả số ba và số sáu. Lần này, cọc báo hiệu hiển thị hai trắng một đen. Trác Mộc Cường Ba chau mày, cũng có nghĩa là, trong quả số một và số hai chỉ có một quả phù hợp cả hai điều kiện, còn quả số ba và số sáu đều sai vị trí. Lần tiếp theo, bọn họ để lại quả cầu số một, chọn quả số năm, số ba và số sáu thì cho vào lỗ số hai và số ba.

Lần này xuất hiện hai cọc màu trắng, Merkin trầm ngâm giây lát rồi hoan hỉ nói: “Tôi biết cách phá giải rồi.”

Trác Mộc Cường Ba gật đầu, gã cũng đã biết. Hai người bỏ các quả cầu đá vào lỗ, cơ quan chầm chậm mở ra, lại là một con dốc thoai thoải khác. Hai người xuống tầng dưới, cứ lặp đi lặp lại như vậy, cuối cùng chỉ còn bốn gian phòng, xuống thêm một tầng nữa thì chỉ còn một gian phòng duy nhất.

Diện tích căn phòng này lớn hơn gian phòng có cơ quan ở tầng trên nhiều. Trác Mộc Cường Ba dùng mắt áng chừng, cảm giác cả bốn gian phòng ở tầng trên cộng lại cũng không lớn hơn gian phòng này là mấy.

Trong phòng không có tượng thần Phật, cũng không có hồ nước, dưới đất chỉ có một vũng nước đọng, nhưng vẫn còn hàng rào sắt và những bộ giáp bên trong. Bệ cơ quan được đặt ngay chính giữa phòng, cao chừng hơn một mét, trông rất giống bục diễn giảng. Trên bệ cơ quan khắc một câu đố logic: “Thần Hiệp Ốc Ương Cách nhìn thấy cây thần, dự kiến sau khi chiến tranh kết thúc sẽ đến Ngạn quốc, hy vọng có thể ngăn chặn được cuộc phân tranh giữa Ngạn quốc và Gia quốc. Ở cửa Ngạn quốc có bốn vị Đốn (một loại ma quỷ trong Bản giáo) và bốn Quán Ba (một loại ma quỷ chuyên rải bệnh dịch trong Bản giáo), nghe Hiệp Ốc Ương Cách trình bày ý định xong, bọn họ liền đưa ra một câu đố nhằm khảo nghiệm trí tuệ của Hiệp Ốc Ương Cách…

Vị Đốn thứ nhất nói: “Trong chúng ta ít nhất có một kẻ nói thật.”

Vị Đốn thứ hai nói: “Trong chúng ta có ít nhất ba kẻ nói thật.”

Vị Đốn thứ ba nói: “Trong chúng ta có ít nhất năm kẻ nói thật.”

Vị Đốn thứ tư nói: “Trong chúng ta có ít nhất bảy kẻ nói thật.”

Vị Quán Ba thứ nhất nói: “Trong chúng ta ít nhất có một kẻ nói dối.”

Vị Quán Ba thứ hai nói: “Trong chúng ta ít nhất có hai kẻ nói dối.”

Vị Quán Ba thứ ba nói: “Trong chúng ta ít nhất có bốn kẻ nói dối.”

Vị Quán Ba thứ tư nói: “Trong chúng ta ít nhất có sáu kẻ nói dối.”

Hỏi: “Có mấy kẻ nói dối.”

Bên dưới đề mục là một hàng nút bấm hình dạng giống như chiếc lược nhỏ, hiển nhiên là yêu cầu phải chọn con số đúng. Các con số trong đề mục cũng là nút bấm, có thể biến động.

Trác Mộc Cường Ba và Merkin nghĩ ngợi một lúc lâu, càng nghĩ lại càng thấy hồ đồ. Merkin thậm chí còn chất vấn Trác Mộc Cường Ba xem gã dịch có chuẩn xác không, Trác Mộc Cường Ba khẳng định như đinh đóng cột: “Chữ này nghĩa là “ít nhất” thì đúng rồi, không thể sai được, còn lại toàn là số và những chữ đơn giản, không thể nhầm được.”

Merkin lẩm bẩm nói: “Thêm một chữ “ít nhất” là cả đề mục hoàn toàn thay đổi đấy, một người nói thật và ít nhất một người nói thật, là hai ý nghĩa khác hẳn nhau.”

Đối với các câu đố mang tính logic kiểu này, Trác Mộc Cường Ba và Merkin trước giờ đều dựa vào máy tính giúp sức, giờ máy tính đã hỏng, hai người nhất thời cũng chỉ biết gãi đầu gãi tai. Thêm vào đó, Merkin lấy làm đau đầu với thứ tiếng Trung mà Trác Mộc Cường Ba dịch ra, y bèn dứt khoát không nghĩ nữa, để một mình gã tự tính toán. Trác Mộc Cường Ba phân tích đi phân tích lại một hồi lâu, cuối cùng khẳng định, chắn chắn có bốn người nói dối.

Bốn nút gồ lên được nhấn xuống, một thoáng sau không thấy động tĩnh gì, không có cánh cửa nào mở ra, cũng không rung chuyển gì, Merkin bắt đầu có một dự cảm chẳng lành, y căng thẳng nhìn sang phía Trác Mộc Cường Ba: “Này…”

“Cạch cạch…” Sau lưng đột nhiên vang lên tiếng cơ quan chuyển động, hai người ngoảnh đầu lại nhìn, chỉ thấy hàng rào sắt kia đang từ từ dâng lên, đồng thời mấy “cỗ áo giáp” bên trong dường như cũng bắt đầu động đậy. Đúng lúc hai người quay đi đó, bệ cơ quan trước mặt bất thình lình “bùng” một tiếng, phun khói mù mịt. Hai người vội dùng một tay che kín mũi miệng, tay kia khua loạn xạ.

Khói mù tan đi, Merkin đẩy mạnh Trác Mộc Cường Ba một cái: “Anh ấn sai rồi! Trời ạ! Đã đến gian phòng cuối cùng rồi, mà anh lại ấn sai! Ở đây chúng ta biết chạy đi đâu bây giờ!”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Giờ không phải là lúc oán trách, tôi không hiểu, những bộ giáp kia sao lại chuyển động được, nhân lúc bọn chúng còn chưa ra, mau nghĩ cách khác đi.”

Merkin xòe hai bàn tay ra nói: “Tôi còn cách gì nữa đây? Phải xem thứ kia là gì rồi tính tiếp!” Cả căn phòng rung lên một chập, cảm giác như chiếc thang máy bị kẹt giữa lưng chừng, đang rơi xuống từng chút từng chút một, tốc độ không nhanh lắm, cứ thụt một cái rồi lại dừng.

Mấy bộ áo giáp kia giống như những người máy đã được bật công tắc khởi động, đứng thẳng dậy. Thoạt nhìn gai góc gồ lên lởm chởm, những mảnh giáp sáng lấp lánh toát lên sát khí ngùn ngụt là biết chúng chẳng phải thứ tử tế gì.

“Nhanh lên, nhân lúc bọn chúng còn chưa hoàn toàn khởi động!” Merkin rút súng ra, gí họng súng vào khe hở trên hàng rào, bắn quét một loạt đạn. Chỉ nghe “tinh tinh tinh tinh…” như thể những hạt trân châu rơi xuống khay ngọc, ánh lửa bắn tóe khắp phòng, đạn bắn vào đều bị bật tung ra, sém chút nữa chính bản thân y cũng bị thương.

Bị hai viên đạn sượt qua mặt, Trác Mộc Cường Ba chỉ thấy má mình bỏng rát, gã vội kêu lên: “Giáp dày quá, không thủng đâu, đừng phí đạn nữa.” Dứt lời, gã rút hai quả lừu đạn cuối cùng, ném vào trong hàng rào.

Sau tiếng nổ, chỉ thấy ba bộ áo giáp ở mé bên phải đã bị hất ngã ngửa, bụi đất mù mịt, nhưng tay chân vẫn không ngừng chuyển động, hiển nhiên không bị tổn thương gì lớn lắm. Trác Mộc Cường Ba hất tay xua bụi xung quanh mình, vừa ho sặc sụa vừa nói: “Đây là cái thứ gì vậy chứ, khục khục …”

Lúc này, hàng rào sắt cũng hoàn toàn mở ra, ba bộ áo giáp bên trái đã đứng thẳng lên bước tới. Chúng dường như cảm ứng được sự có mặt của Trác Mộc Cường Ba và Merkin, chầm chậm ngoảnh đầu lại phía hai người, phỏng chừng phần đầu bộ áo giáp là một khối đặc ruột, không có khe hở nào, cũng không có lỗ mở cho mắt mũi tai miệng. Sau khi hướng mặt về phía Trác Mộc Cường Ba và Merkin, ở bên dưới vị trí vốn là cái miệng đột nhiên bắn ra mấy cây đinh dài, nhằm thẳng vào chỗ hai người. Lúc này, Merkin không hiểu đã phát hiện ra điều gì, vẫn đứng bần thần ra đó.

“Tránh ra!” Trác Mộc Cường Ba bổ tới, đè Merkin ngã lăn ra đất.

Mấy cái đinh bắn xuống sàn, hoa lửa bắn tóe. Trác Mộc Cường Ba nói: “Ông đần thối mặt ra đó nghĩ cái gì vậy?”

Merkin chỉ tay vào chỗ gã vừa ném lựu đạn nói: “Hình như có đường ra!”

Trác Mộc Cường Ba vội nhìn theo hướng ấy, bức tường sau lưng mấy bộ áo giáp bị hất ngã ngửa ấy đã lung lay, trong các kẽ hở dường như có ánh sáng chiếu vào. Trác Mộc Cường ba ngạc nhiên thốt lên: “Bức tường này chỉ có một lớp mỏng thôi à!”

Hai người nhanh chóng tính toán, nếu ném một quả lựu đạn đã trông thấy ánh sáng chiếu vào, vậy chỉ cần ném thêm một hai quả nữa, nói không chừng có thể nổ ra một lối thoát. Trác Mộc Cường Ba vội nói: “Nhanh lên!”

Merkin lấy lựu đạn ra, ngần ngừ nói: “Chỉ còn lại một quả cuối cùng thôi.” Lúc này mấy bộ áo giáp bên trái dường như đã khóa chặt vị trí của Trác Mộc Cường Ba và Merkin, đang sải chân đi thẳng tới, đồng thời, mấy bộ bị ngã ngửa ra dưới đất cũng đã ngồi dậy được.

Merkin nhắm vách tường có ánh sáng hắt ra, ném quả lựu đạn vào đó, lại một tiếng nổ nữa, bức tường đã bị phá ra một lỗ thủng đường kính chừng một mét. Ánh lửa đỏ rực từ bên ngoài chiếu vào gian phòng, mấy bộ áo giáp đã ngồi dậy được kia lại bị vụ nổ làm cho ngã lăn ra đất lần nữa.

“Nhanh lên!” Merkin xông thẳng lên, nhân lúc thân thể nặng nề của bộ giáp còn chưa kịp phản ứng, nhẹ nhàng lướt qua bên cạnh mấy bộ giáp ở mé trái, rồi lại nhảy luôn qua bộ giáp nằm ngang dưới đất, lao thẳng ra ngoài. Trác Mộc Cường Ba theo sát sau lưng y.

Vừa đến mép lỗ, Merkin chợt hét lên: “A!” Y không kịp dừng lại, vội quay người tóm lấy Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba chạy phía sau, tốc độ hơi chậm, vừa nghe Merkin kêu lên cũng vội vàng phanh két lại. Liền ngay sau đó, chỉ thấy chỗ áo trước ngực bị thắt lại, thì ra đã bị Merkin tóm vào rồi.

.

.

CON RỐI THÚ

.

Hai cánh tay Trác Mộc Cường Ba dang rộng, bàn tay vặn ngược bám vào mép lỗ hổng trên tường, Merkin bám vào vạt áo Trác Mộc Cường Ba, cả người lơ lửng giữa không trung. Bên ngoài lỗ hổng do lựu đạn phá ấy không phải là đất bằng, mà là vách núi cheo leo, chẳng những vậy… bên dưới vách núi đó còn là dung nham đang sôi sùng sục!

Nham thạch nóng trông như chất keo chảy chầm chậm, ánh lửa đỏ rực cả không gian xung quanh, những tiếng “ùng ục ùng ục” vang lên liên hồi kỳ trận, thoạt nhìn như thể chỉ cách trong gang tấc, cũng không biết khoảng cách thực sự giữa hố lửa và chỗ bọn họ là bao nhiêu nữa, Merkin có cảm giác như mình bị ném vào một lò lửa rực cháy.

Trác Mộc Cường Ba vừa trụ vững được thân hình, còn chưa kịp kéo Merkin lên, thì bộ giáp phía sau gã dường như đã lấy được đà, hùng hục lao thẳng tới. Trác Mộc Cường Ba đang chuẩn bị dồn sức ngả về phía sau, chợt liếc thấy bộ áo giáp đó, gã liền vội vàng buông một tay ra, lách người né tránh.

Bộ giáp đó không hãm được đà lao, cứ thế húc thẳng vào tường, làm sụt ra một mảng lớn nữa rồi rơi thẳng xuống dưới, một lúc lâu sau mới hóa thành một chấm nhỏ, chìm trong dòng dung nham nóng bỏng, không còn tăm tích. Trác Mộc Cường Ba bấy giờ mới nhận ra, hố dung nham bên dưới kỳ thực còn cách họ rất xa, chỉ là nhiệt độ ở trên này thôi cũng đã vượt quá sức chịu đựng của da người rồi.

Không để Trác Mộc Cường Ba thêm nhiều thời gian để suy tính ba bộ giáp ở mé bên trái đều lần lượt chạy tới. Gã đã buông một tay ra, mà bờ tường chỗ tay còn lại đang bám vào cũng bắt đầu lung lay, có thể sập xuống bất cứ lúc nào, trước ngực lại đeo thêm Merkin, khiến gã phải hơi khom người ra phía trước. Gã có thể tránh được bộ giáp thứ nhất, nhưng hai bộ phía sau e rằng khó lòng thoát nổi.

Cũng may, đúng lúc này Merkin chợt buông tay thả mình rơi xuống, kế đó bám chặt vào mép vách đá cheo leo. Y đeo mình phía ngoài, nhìn rõ được tình huống xung quanh hơn Trác Mộc Cường Ba. Vách đá này hình dạng như cái lưỡi, đỉnh vòm phía trên cách bọn họ chừng bốn năm mét, cao bằng gian phòng kia. Vách núi đen đúa lơ lửng phía trên đỉnh đầu như thể Thái Sơn áp đỉnh, khiến người ta có cảm giác nặng nề khó tả. Ở vị trí này, Merkin có thể nhìn rõ bốn mặt của gian phòng kia kỳ thực đều chỉ có một lớp tường mỏng. Cả gian phòng này giống như được đẽo từ khối đá buông phía trên xuống, vừa khéo nằm ngay mép bình đài hình dạng như cái lưỡi thè ra này. Bọn họ đã nổ nhầm bức tường, nếu cho nổ bức tường phía sau, hai người có thể trực tiếp ra ngoài bề mặt bình đài rồi. Lúc này, họ chỉ có thể bám vào mép bình đài, vòng qua vị trí của gian phòng đá.

Bên trong gian phòng, Trác Mộc Cường Ba thấy trước ngực nhẹ bẫng, áp lực giảm đi đáng kể, lập tức lộn người sang một bên, tránh được bộ giáp nặng nề ục ịch. Bộ giáp kia chừng như cũng muốn giành lại, nhưng cơ hồ không thể vặn người, đành cứ thế bật người lên đè vào Trác Mộc Cường Ba dưới đất. Đã thấy bộ giáp đầu tiên tông đổ tường lao ra vách đá bên ngoài, Trác Mộc Cường Ba cũng biết thứ này cực kỳ nặng nề, liền lăn một vòng dưới đất tránh né, bộ giáp đập thẳng xuống, mặt đất rung lên bần bật.

Merkin ở bên ngoài hét lên: “Nhanh lên, xuống đây, vòng qua chỗ này là có thể leo lên được!”

Lúc này, Trác Mộc Cường Ba đang đối mặt với bộ giáp thứ ba. Gã cũng là kẻ tài cao gan lớn, bật người lên theo thế “Lý Ngư đả đỉnh”, kế đó chống tay lấy đà nhảy qua đầu bộ giáp thứ ba, lúc ở trên không lại xoay người mượn lực, đạp một cái lên vai bộ giáp, rồi thả người trầm xuống, bám vào mép bình đài.

Những bộ giáp kia hình như rất sợ ánh lửa, không dám đến gần miệng lỗ, cứ chạy vòng vòng lung tung trong gian phòng như lũ nhặng cụt đầu. Trác Mộc Cường Ba và Merkin cẩn thận treo mình bên ngoài vách đá, từ từ dịch chuyển vào mé bên trong của bình đài hình cái lưỡi.

Bên dưới chính là hố dung nham nóng chảy hai người không dám lơ là.

Nhìn từ dưới lên, Trác Mộc Cường Ba phát hiện, ở mé bên ngoài bức tường có mấy lỗ hình vuông nhỏ, mỗi bề chừng mười xăng ti mét. Vị trí của mấy lỗ vuông này hình như chính là chỗ các bộ giáp ngồi lúc đầu. Chẳng lẽ những lỗ hình vuông này và mấy bộ giáp trên kia có mối liên hệ gì đó?

Gã cũng không có thời gian nghĩ ngợi nhiều, hai người vòng qua gian phòng đá, leo lên bề mặt bình đài. Merkin chỉ vào bức tường trước mặt, nói: “Nếu chúng ta cho nổ bức tường này thì có thể thoát ra luôn rồi. Nếu anh không đoán sai số, bức tường này chắc cũng đã mở ra rồi.” Y ngẩng ngẩng đầu lên nhìn khe hở giữa bức tường và tầng nham thạch phía trên, hiển nhiên, bức tường này cũng giống như hàng rào sắt kia, có thể nâng lên trên.

Trác Mộc Cường Ba lại ngoảnh đầu nhìn ra sau lưng, rốt cuộc bọn họ cũng thoát khỏi Cửu Cung biến, ở đầu kia của bình đài hình chiếc lưỡi này là một hang động, dưới ánh lửa hắt lên, chỉ thấy hai bên đều có một bức tượng, trông cổ phác mà trang nghiêm. Trác Mộc Cường Ba thoạt nhìn đã nhận ra, hai bức tượng này chính là Diệu thần giám thị công đức và tội ác trên thế gian, cùng với Trát Lạp, Thần bảo vệ của các chiến sĩ. Sâu bên trong hang động, thấp thoáng ánh lên những tia sáng màu vàng kim.

Trác Mộc Cường Ba chỉ mới nhìn lướt qua, Merkin đã ở đằng sau huých nhẹ vào cánh tay gã. Gã ngoảnh đầu lại, chỉ thấy y nói nhanh: “Này, không ổn lắm, đi thôi.”

“Ầm!” một tiếng, bức tường sau lưng hai người rung lên, bột phấn rơi lả tả, hiển nhiên là năm bộ giáp bên trong đang húc vào. Gã và Merkin đều cho rằng những bộ giáp ấy chỉ là cỗ máy vô tri, chẳng ngờ bọn chúng lại có thể khóa được vị trí của hai người ở cách một bức tường, còn biết phá tường xông ra. Cả hai tròn mắt ngạc nhiên nhìn nhau, không hẹn mà cùng quay người, chạy về phía hang động ở đầu bên kia bình đài hình cái lưỡi.

Vừa vào trong hang, hai người cùng lúc hít sâu một hơi, bầu không khí bên ngoài kia nóng bỏng mà vào đến trong này thì lạnh toát. Chỉ thấy đại điện điển nhã không màu mè này trông giống như La Hán đường ở những ngôi chùa bình thường vậy, trên bệ đá dài cao chừng một mét có vô số tượng kim thân La Hán ngồi dựa lưng vào nhau. Những vị La Hán này lớn hơn người thường một chút, dáng ngồi ngay ngắn, hai mắt khép hờ, dung mạo hoàn toàn không khác gì người thật, đồng thời tướng mạo mỗi bức mỗi khác nhau.

Cổ nhân đã dùng cách tương tự trên hành lang có các cột sáng ở tầng trên cùng để lấy ánh sáng. Họ dựng vô số tấm gương đồng trong đại điện, ánh sáng đỏ rực của nham thạch nóng chảy được gương đồng phản xạ, biến thành những tia sáng vàng kim chói lọi. Những cột sáng đan nhau tạo thành một tấm lưới, bao phủ lên vô số tượng Phật tựa như một chiếc lồng chụp khổng lồ. Những bức tượng kia vốn đã dát vàng dát bạc, được ánh sáng chiếu vào lại càng toát lên thần thái trang nghiêm, sống động như thật, tựa hồ như La Hán hạ phàm, Tôn Giả giáng thế.

Merkin ngước mắt quan sát, thấy những bệ đá dài ấy nối tiếp nhau san sát, bên trên toàn là tượng kim thân La Hán, số lượng phải lên đến hàng vạn, không khỏi tắc lưỡi nói: “Đây toàn là vàng ròng sao? Nhiều như vậy! Haha… chúng ta tìm được rồi! Chúng ta đến trước! Chúng ta đến trước rồi!”

Trước khi Merkin kịp hưng phấn đến nỗi ôm chầm lấy Trác Mộc Cường Ba nhảy cẫng lên, gã đã dội cho y một chậu nước lạnh vào đầu: “Sợ là ông phải thất vọng rồi, đây không phải tượng Phật bằng vàng ròng, mà chỉ là tượng dát vàng thôi, xem đi…” Gã chỉ mấy pho tượng La Hán ở đằng xa, lớp vàng trên bề mặt đã bong tróc, lộ ra mầu nâu của bùn đất bên trong.

Trác Mộc Cường Ba bước lại gần, trên bức tượng ấy, không ngờ lại phát hiện đồ dệt may. Một ý nghĩ đáng kinh ngạc lóe lên trong đầu, gã vội vàng dùng ngón tay nhè nhẹ phẩy lên lướp bùn đất, quả nhiên, bên dưới lớp vải dệt đó, là một tầng vật chất dạng sừng khô cứng. Có thể khẳng định, đây là da người đã khô kiệt. Nhìn xa hơn một chút nữa, không sai, cả vạn pho tượng La Hán ở đây, kích cỡ tương đương nhau, đều chỉ lớn hơn người thật một chút. Trác Mộc Cường Ba rốt cuộc cũng khẳng định lại ý nghĩ trong đầu mình, gã kính cẩn đứng lên, nói với Merkin: “Tuy không phải tượng Phật bằng vàng ròng, nhưng còn quý giá gấp bội phần, những La Hán này, toàn bộ đều là nhục thân kim tượng đó!”

“Nhục thân kim tượng?” Merkin cũng chạy tới.

“Đúng thế,” Trác Mộc Cường Ba nhìn những bức tượng dát vàng đang ngồi xếp bằng trên bệ đá, thần thái nghiêm trang kính cẩn, chậm rãi tiếp lời, “không chỉ trong Mật giáo có ghi chép lại, mà cả Đại Thừa Hiển giáo cũng có cách làm tương tự. Một số vị cao tăng đại đức có tu vị Phật học đạt đến cảnh giới Đại Trí Tuệ, sau khi tọa hóa, nhục thân không bị thối rữa. Người đời sau kính ngưỡng, liền mang thân thể không thối rữa ấy làm phôi, bên ngoài trét thêm bùn đất, rồi sơn son thếp vàng để cúng tế.”

Merkin biến sắc thốt lên: “Ý anh là, mỗi bức tượng ở đây …”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Đúng, mỗi bức tượng La Hán kim thân ở đây, đều là nhục thân của một vị tiền bối đại sư sau khi tọa hóa.” Gã chợt nhớ lại những tượng nhục thân trong tư thế đứng ở Đảo Huyền Không tự, hiển nhiên, đây là mật pháp truyền thừa của các Mật tu giả.

Hai người xuyên qua đại điện xếp đầy kim thân La Hán, đi thẳng về phía trước, thấy một cánh cửa đá chặn ngang đường. Trên cửa có vẽ một con rắn được trừu tượng hóa, Merkin bảo nó giống rồng, còn Trác Mộc Cường Ba lại cho rằng đây là Na Tháp, con rắn vô biên, Đa Cát ở thôn Công Bố cũng từng nhắc đến một truyền thuyết tương tự. Merkin lại bảo chưa chắc, đây đã là con rắn vô biên gì đó, cũng có thể là rắn thần trong tín ngưỡng của bộ tộc Qua Ba. Gần như trong tất cả mọi tôn giáo, hình tượng rắn đều có địa vị rất quan trọng. Trong tín ngưỡng cổ, rắn tượng trưng cho tính dục, vương quyền, trường sinh và những mối nguy không thể dự báo.

Cho dù thế nào, khi đối diện với cánh cửa đá cong tựa như màn hình chiếu phim cỡ lớn này, hai người cũng hiểu rõ, chỉ dựa vào sức trâu hoặc chất nổ thì không thể nào mở nó ra được, cần phải xem cơ quan chốt lẫy ở đâu.

“Này, Cường Ba, lại đây mà xem!” Merkin chỉ vào miệng rắn đang ngoác rộng, ở chỗ chiếc răng sắc nhọn có một vết máu lờ mờ, lan dần lên phía trên rồi biến mất. Ở chỗ mắt rắn, những sợi tơ máu mờ mờ lại tản ra theo hình mắt lưới, khiến con mắt tròn ấy trở nên hung hăn dữ tợn lạ thường.

Trác Mộc Cường Ba đưa tay sờ vào mắt rắn, ở trung tâm nhãn cầu, một hình thoi dài hẹp có khe hở rất nhỏ với những bộ phận xung quanh. Những khe hở này khớp với đường nét trên bức phù điêu, không rờ tay vào thì khó lòng nhận ra được.

Merkin dùng ngón tay phác một nét trên vị trí của mắt rắn, đoạn nói: “Anh xem, cấu tạo này có giống một cái huyết trì cỡ nhỏ không?”

Nét mặt Trác Mộc Cường Ba đổi sắc, gã khe khẽ gật đầu. Merkin nói đúng, hút máu ở chỗ răng rắn, lan dần đến mắt rắn, đích thực rất giống một huyết trì. Bên này, Merkin bắt đầu hành động, ý rút dao ra, nhấn đầu mũi dao lên ngón tay mình, lẩm bẩm nói: “Có khi máu của tôi lại dùng được.”

Mũi dao đâm nhẹ vào, một giọt máu nhểu ra, Merkin đặt ngón tay vào chỗ răng rắn. Giọt máu chảy ra khỏi đầu ngón tay liền bị ống hút bên trong răn rắn chầm chậm hút vào. Huyết trì cỡ nhỏ này không cần nhiều máu lắm, Merkin chỉ khẽ nhấn ngón tay một cái, răn rắn đã không hút thêm máu nữa. Không lâu sau, từng sợi từng sợi tơ máu bắt đầu lan đến gần mắt rắn, rồi men theo vòng ngoài vươn dần vào bên trong, khi những sợi tơ máu rẽ nhánh chạm vào con ngươi hình thoi bên trong nhãn cầu, chỉ nghe “tách” một tiếng rất nhẹ, con ngươi ấy liền thụt vào bên trong. Đồng thời, dường như một lớp màng được mở ra, chính giữa con mắt lộ ra một cái lỗ nhỏ hình thoi màu đen, chỉ lớn hơn đầu ngón tay một chút, ngoài ra, toàn bộ đại điện đều không có gì thay đổi.

“Đây là cái gì vậy?” Nhìn cái lỗ nhỏ hình thoi ấy, hai chân mày Trác Mộc Cường Ba nhíu lại, hiển nhiên tác dụng của huyết trì này chỉ là mở ra một cái lỗ nhỏ. Từ độ sâu của cái lỗ nhỏ này, có thể thấy cần phải cắm thứ gì đó vào, họa may mới khởi động được cơ quan.

Merkin thấy cái lỗ nhỏ hình thoi ấy thì mừng ra mặt, cười cười nói: “Đây là lỗ khóa, cần có khìa khóa mới mở được, chúng ta có chìa khóa!” Y thấy Trác Mộc Cường Ba đần mặt ra, hoang mang không hiểu gì, liền lặp lại lần nữa: “Chỉ chúng ta mới có chìa khóa.”

“Chìa khóa?” Trác Mộc Cường Ba càng thêm ngờ vực, gã chưa bao giờ nhớ là mình có chìa khóa gì, rốt cuộc Merkin đang nói đến thứ gì vậy?

Ngay sau đó, Merkin liền giải đáp mối nghi hoặc của gã. Y thò tay vào sâu trong áo, lấy ra một thanh kiếm đồng nhỏ, gần như giống hệt với thanh kiếm gia truyền của Trác Mộc Cường Ba.

Vừa nhìn thấy kiểu dáng và hoa văn khắc trên thanh kiếm, Trác Mộc Cường Ba cả kinh thốt lên: “Đây là…” Đồng thời, phản ứng đầu tiên của gã cũng chính là lần tìm thanh kiếm đồng trên người mình.

.

BÍ MẬT CỦA CHÌA KHÒA

.

Merkin cầm thanh kiếm đồng nhỏ trông như chiếc thập tự giá sáng lấp loáng, nhìn thẳng vào mắt Trác Mộc Cường Ba nói: “Đây chính là chìa khóa! Đây là thứ gia tộc nhà anh truyền qua không biết bao nhiêu đời, thứ mà dù trong trường hợp nguy hiểm nhất cũng tuyệt đối không thể đánh rơi, vậy mà anh lại không biết nó dùng để làm gì ư?”

Trác Mộc Cường Ba cũng lấy ra thanh kiếm đồng nhỏ giấu ở túi áo trong của gã ra. Hai thanh kiếm gần như giống hệt nhau, chỉ khác ở chỗ, chuôi kiếm của Trác Mộc Cường Ba là con Tỳ hưu ba sừng, bên dưới là bốn con thú sư tử, rồng, hổ, đại bàng, còn chuôi kiếm của Merkin lại khắc thành hình Kỳ lân, bên dưới là bốn con quỷ Si, Mị, Võng, Lượng.

Hai thanh kiếm đồng đặt cạnh nhau, kích cỡ giống hệt, chất liệu giống hệt, công nghệ giống hệt, chỉ cần nhìn lướt qua, bất cứ ai cũng có thể khẳng định hai thanh kiếm đồng này được làm ra ở cùng một nơi, cùng một thời điểm, thậm chí là bởi cùng một người thợ. Trác Mộc Cường Ba nhìn chằm chằm vào chúng, cơ hồ vẫn không dám tin vào mắt mình: “Đây là chìa khóa ư? Ông lấy ở đâu ra vậy?”

Merkin nghi hoặc nhìn Trác Mộc Cường Ba, nói: “Giống anh thôi, đều là các tiền bối trong gia tộc truyền thừa xuống, chẳng lẽ anh thật sự không biết? Mặc dù anh không nói gì với những người trong nhóm của mình, nhưng tôi thấy anh coi trọng nó như vậy, cứ tưởng anh đã biết thanh kiếm đồng này là gì rồi chứ.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi coi trọng nó, chỉ vì nó là vật truyền thừa của gia tộc thôi. Trước nay tôi vẫn luôn nghĩ rằng, nó chỉ là một vật có ý nghĩa lịch sử đối với gia tộc mình.”

Merkin nghiêm nét mặt lại nói: “Đã vậy thì để tôi nói cho anh biết, chiếc chìa khóa này không chỉ là tượng trưng cho truyền thừa lịch sử, quan trọng hơn, nó là một sự chứng nhận đối với huyết thống và thân phận, mà quan trọng nhất, nó là một chiếc chìa khóa! Bao đời nay, gia tộc chúng tôi vẫn truyền lại cho đời sau rằng, không có chìa khóa này, cho dù có tìm được thần miếu cũng không thể mở được kho báu cuối cùng. Có điều, theo như truyền thừa của gia tộc chúng tôi, lẽ ra chỉ có một chiếc chìa khóa mới đúng. Tôi cũng lấy làm lạ, không hiểu tại sao anh cũng có một chiếc? Vả lại, hai chiếc chìa khóa này tuy rằng hình dạng tương tự, kỹ thuật chế tác cũng giống nhau, nhưng vẫn có những điểm khác biệt rõ rệt.”

Tâm tư Trác Mộc Cường Ba lúc này đang cuộn lên những đợt sóng lớn, vô số ý nghĩ cũng dâng trào lên trong óc gã. Trong gia tộc không hề lưu lại bất cứ ghi chép nào liên quan đến chiếc chìa khóa này, cha gã cũng không nhắc nhở gì đặc biệt, nhưng các trưởng lão thôn Công Bố lại nhận định gã là Thánh Sứ… Merkin là hậu nhân của Tây Thánh Sứ, vậy còn bản thân gã…? Rốt cuộc chuyện này ẩn chứa bí mật gì? Truyền thừa nghìn năm, rốt cuộc bị đứt đoạn từ khi nào? Đoạn lịch sử thất lạc ấy sao lại bị vùi chôn trong dòng chảy hỗn loạn của thời không? Thân phận của gã rốt cuộc là gì? Gia tộc của gã khởi nguồn từ đâu? Gã và Bạc Ba La thần miếu này có quan hệ như thế nào? Các trưởng lão thôn Công Bố nói gã sẽ thức tỉnh? Gã vốn chỉ muốn tìm Tử Kỳ Lân thôi mà, sau lại biến thành như vậy?

Merkin không phát hiện ra tâm trí Trác Mộc Cường Ba lúc này đang rối tơ vò, chỉ thấy ánh mắt gã hơi đờ đẫn, liền khẳng định: “Nếu vậy, chắc chắn anh cũng không biết phải mở cái chìa khóa này ra như thế nào rồi, đúng không?” Dứt lời, y liền ở trước mặt Trác Mộc Cường Ba, cầm chuôi thanh kiếm đồng ấy vặn vẹo mấy cái, cũng không biết là ấn vào những chỗ nào, thoắt cái chuôi kiếm đã mở ra. Bên trong chuôi kiếm là một ống kim loại, miệng ống xòe rộng ra như cái bát. Chỗ miệng bát tuy đã được chà xát cho sạch, nhưng vẫn còn vương lại vết máu, một hai vệt đã chuyển thành màu xanh lục, không biết đã có từ mấy trăm năm trước. Nhìn chuôi kiếm đã mở hẳn ra, Merkin mới nói: “Tôi có thể khẳng định với anh, đây là một chiếc chìa khóa không thể phục chế, anh nhìn những ký hiệu totem chạm trổ trên thân kiếm đi, chúng không chỉ là những biểu tượng, mà thực ra là lò xo có thể co duỗi được. Bên trong chiếc chìa khóa này, cũng là một huyết trì cỡ nhỏ, chỉ cần một giọt máu… một giọt thuần huyết!”

Trước cặp mắt chăm chú của Trác Mộc Cường Ba, Merkin bóp nhẹ vết thương vẫn chưa khép miệng trên đầu ngón tay, lại một giọt máu nữa nhỏ vào cái lỗ nhỏ hình miệng bát. Một loạt tiếng “tách tách tách” rất nhẹ như sâu phá kén vang lên. Cùng với những âm thanh ấy, những hình chạm nổi trên thân kiếm lại bật ra những hình trụ tròn, to thì bằng đầu đũa, nhỏ thì như tăm xỉa răng. Không chỉ thế, xung quanh những hình trụ tròn ấy, lại bật ra những mũi gai nhọn li ti, trên thân mũi gai lại bật ra tiếp rất nhiều những răng nhọn nhỏ như sợi lông, hai bên răng nhọn ấy dường như cũng bật ra những sợi nhỏ hơn nữa, mắt thường không thể nào phân biệt nổi, đại khái chỉ có thể trông thấy trên bề mặt răng nhọn phủ một lớp màng như tơ nấm mốc mà thôi.

Trác Mộc Cường Ba trợn tròn mắt, kinh ngạc thốt lên: “Đây là…?”

Merkin nói: “Không cần nhìn kỹ thế đâu, chỗ nhỏ nhất phải dùng đến kính hiển vi phóng đại một trăm lần mới phân biệt được cơ. Chúng tôi có lý do để tin rằng, những sợi lông nhỏ li ti này đều là răng cưa của chìa khóa, nó là chìa khóa duy nhất ứng với những lỗ nhỏ ở vách bên trong cái lỗ hình thoi này.”

Trác Mộc Cường Ba ngẫm nghĩ giây lát, đoạn nói: “Cho dù là vậy, với công nghệ ngày nay, muốn phục chế một chiếc chìa khóa như vậy chắc cũng không phải quá khó chứ?”

Merkin cười khẩy, nói: “Anh nghĩ đơn giản quá rồi, đầu tiên phải dồn nén vô số răng chìa khóa thành một vật thể hình thoi, đồng thời lợi dụng một lực nào đó để khiến những răng chìa khóa này hoàn toàn bật ra. Chẳng những vậy, còn giữ được cả nghìn năm không hề hư hao tổn hại chút nào. Theo tôi được biết, trình độ khoa học công nghệ hiện nay vẫn chưa làm được điều đó đâu. Gia tộc chúng tôi đã làm thống kê, phần bật ra này chiếm một nửa thể tích chiếc chìa khóa, nhưng diện tích bề mặt lại bằng một trăm ba mươi lần diện tích bề mặt chiếc chìa khóa ban đầu.”

Trác Mộc Cường Ba ngạc nhiên hỏi: “Bọn họ làm cách nào vậy?”

Merkin đáp: “Sinh vật, giống như huyết trì vậy. Chúng ta có thể nói thế này, toàn bộ chiếc chìa khóa giống như một thể sống có vỏ ngoài bằng kim loại. Bên trong chìa khóa này có dấu vết của sự sống, tổ tiên của tôi đoán đó là một loại khuẩn niêm hợp hoặc chân khuẩn gì đó, phạm vi sinh tồn của chúng giới hạn ở bên trong chiếc chìa khóa này. Quan hệ của chúng và chìa khóa, cũng giống như san hô với rặng đá san hô vậy. Đồng thời, khi được máu tươi kích hoạt, chúng sẽ sinh ra lực hướng ngoại rất mạnh, làm các răng chìa khóa bật ra ngoài.”

Nhìn vẻ mặt ngạc nhiên của Trác Mộc Cường Ba, Merkin lại mỉm cười nói tiếp: “Không chỉ có vậy, loại sinh vật này kén chọn máu nữa, cũng giống như bộ phận kết hợp của thụ thể(38) trong hệ thống miễn dịch ở cơ thể người vậy. Tôi đoán, có lẽ đã đi sâu vào phạm trù gene rồi.”

Trác Mộc Cường Ba không hiểu đống thuật ngữ chuyên ngành Merkin vừa xổ ra, lại thắc mắc: “Thế nghĩa là sao?”

Merkin giải thích: “Tức là, ngoại trừ tôi và những người mang huyết thống trực hệ trong gia tộc, máu của người khác hoàn toàn không có tác dụng gì với nó.”

Thấy hai mắt Trác Mộc Cường Ba lại trợn tròn lên, Merkin nghiêm túc nói: “Chúng tôi đã thực nghiệm rất nhiều lần, sự thực chứng minh, ngoài máu của những thành viên nam còn sống trong gia tộc, máu hay chất lỏng nào khác trên cơ thể của bất cứ ai cũng hoàn toàn không có chút hiệu quả nào.” Y thoáng ngập ngừng một chút, rồi tiếp tục giải thích: “Sở dĩ tôi nói đã liên quan đến phạm trù gene, là vì cho dù thành viên nam giới trực hệ trong gia tộc chúng tôi, không phải người nào cũng có thể làm chiếc chìa khóa này bật ra được. Cha tôi là một ví dụ, ông ấy không thể làm chìa khóa bật ra, đến đời tôi, máu của tôi lại làm được, vì vậy…”

“Di truyền cách đời!” Trác Mộc Cường Ba lại biến sắc mặt.

“Đúng vậy,” Merkin gật đầu nói: “Chúng tôi cũng nghĩ thế, thông qua việc kết hợp với cá thể khác giới, một số gene di truyền có thể lặn hoặc trội, khiến cho trong gia tộc tôi cũng có người này người nọ, nhiều trường hợp dù là huyết thống trực hệ cũng không thể làm chìa khóa này bật mở ra được.”

Trác Mộc Cường Ba nén cảm giác ớn lạnh trong lòng xuống, lẩm bẩm: “Di truyền, cổ độc, Đông Tây y kết hợp…”

Merkin gật đầu lia lịa nói: “Đúng, đúng, tôi cũng cho rằng đây là một phương thức vận dụng cổ độc của người Qua Ba. Thật khó tin là trình độ sử dụng cổ độc của họ đã đến giai đoạn nghiên cứu lợi dụng gene di truyền rồi.” Y vừa dứt lời, chợt vang lên tiếng “xẹt xẹt xẹt xẹt”, sau đó những răng chìa khóa bật ra lại rụt trở về, tốc độ cực nhanh, chỉ chớp mắt vài cái chìa khóa đã trở lại hình dạng thanh kiếm đồng như lúc ban đầu.

Trác Mộc Cường Ba không kìm được, đưa mắt liếc nhìn y. Merkin lại nói: “Chúng tôi cho rằng, trong máu của những thành viên nam có gene trội trong gia tộc mình có một loại hoạt chất đặc biệt. Đối với thứ sinh vật bên trong chìa khóa, loại hoạt chất này giống như thuốc kích thích vậy. Hoạt chất trong máu có thể khiến sức lực của chúng tăng lên gấp bội, đủ để làm bật ra các răng chìa khóa. Sau khi hoạt chất này tiêu hao hết, chúng sẽ tự động rút trở về.” Không lâu sau đó, lại nghe “tách” một tiếng, lỗ nhỏ hình thoi bên trong mắt rắn lại đóng lại, con ngươi cũng bật trở ra, mọi thứ đều khôi phục trạng thái ban đầu.

“Hả?” Merkin quay sang chỗ mắt rắn, hân hoan kêu lên: “Xem ra nguyên lý của lỗ khóa này cũng giống như chìa khóa, lợi dụng hoạt chất trong máu của tôi làm nguồn động lực.”

Trác Mộc Cường Ba bắt đầu nôn nóng, gã giục giã: “Đừng nói nhiều nữa, cho chìa khóa vào rồi thử xem sao, để xem sau cánh cửa này rốt cuộc có thứ gì?”

Máu ở đầu ngón tay Merkin đã khô, y bèn chọn một ngón khác, luôn miệng nói: “Được rồi, được rồi.” Răng rắn hút máu, mắt rắn mở ra lỗ nhỏ hình thoi, Merkin cắm thanh kiếm đồng vào trong. Trác Mộc Cường Ba bây giờ mới phát hiện, lỗ mở hình miệng bát ở chuôi kiếm có thể uốn cong. Merkin hướng miệng bát lên phía trên, nhểu vào một giọt máu, sau đó chăm chú lắng nghe động tĩnh bên trong lỗ khóa. Sau một loạt tiếng “tách tách”, y cho rằng đã được rồi, liền bắt đầu chuyển động phần chuôi của chiếc chìa khóa hình thập tự giá.

Dần dần, sắc mặt Merkin bắt đầu biến đổi, từ hân hoan trở nên nghiêm trọng, từ nghiêm trọng trở nên nặng nề, cuối cùng thì nhăn mặt cười khổ với Trác Mộc Cường Ba: “Không đúng, không xoay được.”

Trác Mộc Cường Ba nhắc nhở: “Liệu có phải cắm ngược không?” Dù sao thì cả bốn mặt của chiếc chìa khóa đều có thể hướng lên trên.

Merkin khẳng định: “Không đâu, anh xem…” Y chỉ vào thanh ngang trên chuôi kiếm, nói: “Theo như tổ tiên tôi truyền lại, chỗ này hướng lên trên là đúng rồi.”

Trác Mộc Cường Ba lẳng lặng gật đầu, thanh ngang đúng là đã hạn chế chìa khóa chỉ có thể cắm vào theo hướng này. Gã lại nói: “Hay là, để tôi thử xem?”

Merkin đành ủ rũ gật đầu: “Cũng được.”

Trác Mộc Cường Ba cầm thanh kiếm đồng gia truyền trên tay, nghĩ mãi không hiểu nổi, tại sao thứ này lại thành ra một chiếc chìa khóa? Gã cẩn thận quan sát vị trí Merkin vặn ra ở chuôi kiếm, rồi lại nhìn thanh kiếm trên tay mình, chẳng thấy kẽ hở nào, căn bản không nhìn ra chỗ nào có thể vặn mở được. Gã thử vặn qua vặn lại một hồi, song đều vô hiệu. Merkin đứng bên cạnh thấy vậy liền lên tiếng: “Không đúng, không phải làm vậy.” Nói đoạn, y giật lấy thanh kiếm nhỏ trên tay Trác Mộc Cường Ba, bảo gã: “Có mấy chỗ này, yêu cầu thủ pháp phải khéo léo.” Chỉ thấy y ấn ấn, xoay xoay lên đầu, mình và chân con Tỳ hưu, không hiểu làm cách nào mà đã mở ra được. Cũng giống như chìa khóa của Merkin, chuôi kiếm mở ra xong, bên trong là một ống kim loại, miệng ống loe ra như miệng bát, cũng có vết máu, đã chuyển sang sắc xanh lục.

Nhìn những vết máu ấy, ánh mắt Merkin nhìn Trác Mộc Cường Ba càng thêm nghi hoặc, ý tứ rất rõ ràng, rành rành tổ tiên nhà anh cũng biết cách sử dụng chiếc chìa khóa này, tại sao đến đời anh lại quên hoàn toàn như vậy? Trác Mộc Cường Ba cũng chỉ biết lắc đầu, tỏ ý mình chẳng biết gì cả. Merkin kéo kéo chiếc chìa khóa của y, thời gian chưa hết nên vẫn chưa rút ra được. Y đưa con dao cho Trác Mộc Cường Ba, ý bảo gã thử xem máu gã có thể làm chìa khóa bật ra hay không.

Trác Mộc Cường Ba có chút thấp thỏm bất an, lúc mũi dao rạch vào đầu ngón tay, tay gã hơi run lên, một giọt máu nhểu xuống. Gã cơ hồ không dám tin vào mắt mình, chiếc chìa khóa trong tay gã cũng “tách tách tách” biến đổi, thân kiếm bật ra những gai nhọn tua tủa, trên những gai nhọn ấy lại bật ra những mũi gai nhỏ hơn, hình dạng cuối cùng trông như một cây thông Noel.

Merkin mỉm cười quan sát quá trình biến đổi, lẩm bẩm nói: “Tôi bảo rồi mà.”

Trác Mộc Cường Ba chỉ khe khẽ lắc đầu, sao lại thế này nhỉ? Cha có biết hay không? Ông biết nhưng không nói với mình, hay là bản thân ông cũng không biết? Không, cha cũng không biết, từ thái độ của ông lúc giao chiếc chìa khóa này cho mình chắc chắn là cha không biết gì cả. Gia tộc nhà mình, đã để sự việc này chìm vào quên lãng từ khi nào vậy? Hậu nhân của Thánh sứ, không ngờ mình cũng là hậu nhận của Thánh sứ!

Một lát sau, Merkin rút chiếc chìa khóa của y ra, trong khi hai người chờ chiếc chìa khóa của Trác Mộc Cường Ba hoàn nguyên trạng thái ban đầu, mắt rắn cũng đã đóng lại.

Cuối cùng, chìa khóa trong tay Trác Mộc Cường Ba cũng đã thu vào, gã thầm hít sâu một hơi, dùng máu mình mở mắt rắn ra, rồi cắm chìa khóa vào, nhỏ một giọt máu, sau đó chầm chậm xoay chuyển chuôi kiếm trong ánh mắt chăm chú và đầy kỳ vọng của Merkin. Một lần, hai lần… ánh mắt nóng bỏng của Merkin từ từ trở nên ảm đạm, Trác Mộc Cường Ba ủ rũ ngoảnh lại, lắc đầu, tỏ ý vẫn không xoay được. “Không thể nào!” Merkin cuống lên. “Không thể nào! Sao cả hai chiếc chìa khóa đều không mở ra được?”

So với Merkin, Trác Mộc Cường Ba còn bình tĩnh hơn, gã giải thích: “Nếu tôi không lầm, chắc hẳn còn một chiếc chìa khóa nữa, đừng quên, bấy giờ sứ giả đã mang ra ba món tín vật, chia ra đưa cho ba người khác nhau. Nếu tôi và ông mỗi người đều có một chiếc chìa khóa, vậy hẳn phải còn một chiếc chìa khóa thứ ba nữa.”

Merkin thất vọng nói: “Ý anh là… chỉ có chiếc chìa khóa thứ ba kia mới mở được cánh cửa này?”

Merkin không cam tâm chút nào, nghe thấy chìa khóa của Trác Mộc Cường Ba thu trở về trạng thái ban đầu, y lại nói: “Thử lại lần nữa, thử lại lần nữa xem sao!”

Đáp ứng yêu cầu của Merkin, Trác Mộc Cường Ba lại thử thêm lần nữa, sau đó Merkin cũng thử lại một lần, nhưng rất rõ ràng, chìa khóa của họ đều không mở được cánh cửa đá dày nặng này. Merkin lại rút chìa khóa ra, nhìn Trác Mộc Cường Ba với ánh mắt gần như tuyệt vọng, nói bằng giọng van lơn: “Anh thử lại lần nữa xem sao?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Có lẽ số mệnh đã định sẵn chúng ta không thể đến được nơi sâu nhất của Bạc Ba La thần miếu, ông hà tất phải cưỡng cầu làm gì?”

“Vậy bây giờ tính sao đây? Chúng ta bị kẹt ở đây rồi? Không thấy gì cả, không tìm được gì cả, chỉ bị kẹt cứng ở đây chờ chết? Không! Tôi tuyệt đối không chấp nhận!” Merkin vung tay giằng lấy chìa khóa của Trác Mộc Cường Ba, nhét vào lỗ khóa rồi tóm ngón tay gã nặn máu ra, hai người nhìn giọt máu từ từ biến mất trong miệng ống loe ra.

Vốn dĩ hai người cũng không ôm nhiều hy vọng lắm, nhưng đúng lần này, giọt máu vừa nhểu xuống, sau một loạt tiếng “tách tách tách”, đột nhiên có thêm một âm thanh khác, nghe như tiếng đàn đứt dây hay bảo kiếm rời vỏ, nhẹ mà rất rõ. Liền ngay sau đó, lại vang lên tiếng vật nặng rơi xuống đất, tiếng bánh răng, tiếng trục quay, tiếng ma sát kèn kẹt hòa trộn vào nhau. Không cần chuyển động gì thêm, mắt rắn đã tự xoay tròn, lỗ khóa xoay cùng với chìa khóa, cả con rắn khổng lồ chạm trổ trên cánh cửa như thể sắp sống dậy, một vài đường vân thụt vào, một số đường vân khác lại nổi gồ lên. Tiếp đó, cả gian đại điện bắt đầu thay đổi, bệ đá bên dưới kim thân của các vị tiền bối bắt đầu chuyển dịch vị trí, tiến trước lùi sau, hoặc sang trái hoặc sang phải, tạo thành một thứ âm thanh hỗn tạp. Trong đại điện này, duy chỉ có hai người đàn ông đang trợn tròn mắt há hốc miệng trước cánh cửa đá là không phát ra bất cứ âm thanh nào.

.

.

BÁU VẬT NHÀ PHẬT

.

Trong đầu hai người đều đang thắc mắc cùng một vấn đề, tại sao hai lần trước không được, mà lần này lại thành công như thế? Ngay sau đó, cả hai đều hiểu ra. Hai lần trước, họ dùng máu của một người để mở lỗ khóa và nhỏ vào chìa khóa, còn lần này, lại dùng máu của Merkin khiến mắt rắn mở ra, sau đó cắm chìa khóa của Trác Mộc Cường Ba vào, trong chìa khóa lại nhỏ máu của Trác Mộc Cường Ba. Phỏng chừng, phải đồng thời sử dụng máu của cả hai người, mới có thể phát huy được tác dụng thực sự.

Trác Mộc Cường Ba còn nghĩ xa hơn, mấu chốt không phải ở chìa khóa, cả hai chiếc chìa khóa ấy chỉ là vật dẫn, máu của hai người mới là thứ có tác dụng thực sự. Hai dòng máu thuần chủng đã truyền thừa hơn nghìn năm của các vị Thánh sứ. Bấy giờ, họ mới ngộ ra được ý nghĩa thực sự của hàng chữ “một người có huyết thống thuần chủng” được khắc nổi bật trên cánh cửa lớn Bạc Ba La thần miếu.

Chỉ thoáng sau, bố cục của gian đại điện đã hoàn toàn biến đổi, đồng thời thân rắn trên cánh cửa cũng gồ lên vô số vảy, dưới bụng mọc thêm chân có móng vuốt, trông không còn giống rắn nữa … mà hơi giống … một con rồng?

Chỉ có điều, sau màn chấn động ấy, cánh cửa trước mặt họ vẫn đóng chặt. Trác Mộc Cường Ba khẽ lay nhẹ, rút chìa khóa ra. Vẫn là Merkin nhanh mắt hơn, y chỉ tay vào cây cột mới xuất hiện ở chính giữa đại điện, hỏi: “Đó là cái gì vậy?”

Hai người đến gần cây cột, chỉ thấy bốn mặt cây cột hình vuông mỗi cạnh dài chừng hai mét này đều có bậc thang, trên đỉnh hình như khoét rỗng, không gian có thể chứa được người. Hai người quyết định leo lên xem sao.

Cây cột đá này được thả từ đỉnh vòm của đại điện xuống, Merkin lên trước, phát hiện ở giữa cây cột là một trụ kim loại đường kính khoảng nửa mét. Một vòng xung quanh trụ kim loại ấy có thể đứng được năm sáu người. Sau đấy, Trác Mộc Cường Ba cũng leo lên, Merkin cười lớn nói: “Ha ha, thì ra cánh cửa kia chỉ là vật che mắt, ai mà ngờ được lối vào thực sự lại ở chính giữa đại điện chứ, nếu không rõ chân tướng, cứ cố cho nổ hoặc phá hoại cánh cửa đá kia, nói không chừng phía sau chỉ là toàn là đá núi mà thôi.”

Trác Mộc Cường Ba vừa đứng vững, chưa kịp nói gì, cột đá đã được trụ kim loại ở giữa dẫn động, chầm chậm dâng lên. Thấy cột đá vẫn tiếp tục dâng cao, Trác Mộc Cường Ba thầm nhủ, chỉ sợ khi cột đá này trở lại vị trí ban đầu, dù là ai đến được đây, cũng sẽ chỉ nghĩ cách phá hoại cánh cửa kia hoặc đào sâu xuống dưới mà thôi. Có kẻ nào nghĩ ra được việc đào lên phía trên mấy chục mét chứ?

Dọc đường, có một quãng hoàn toàn tối đen, tuy rằng khoảng cách rất ngắn, nhưng trong không gian tối đen kín mít ấy, Trác Mộc Cường Ba vẫn cảm thấy ngạt thở. Không gian nhỏ hẹp này rõ ràng không đủ dưỡng khí cho hai người, đúng vào lúc cảm giác hoảng loạn manh nha xuất hiện, thì bọn họ đến được tầng trên. Thứ đầu tiên đập vào mắt hai người, là ánh sáng!

Ánh sáng này khác với thứ ánh sáng ở bên dưới, không phải sắc đỏ của dung nham và màu vàng cam của những pho tượng dát vàng, mà là một thứ ánh sáng mạnh đến chói mắt. Ánh sáng xuất hiện quá bất ngờ, quá mạnh mẽ, đến nỗi Trác Mộc Cường Ba và Merkin vừa ra khỏi vùng tối tăm không thể không giơ tay chắn trước mắt, quan sát hoàn cảnh xung quanh qua những kẽ ngón tay.

Qua kẽ ngón tay, tròng mắt họ dần dần mở to, không phải vì bị ánh sáng mạnh kích thích như lẽ thường… Trước mắt họ lúc này đây, toàn là những thứ đủ khiến những người bình thường phát điên phát rồ… Báu vật!

Cột đá càng lúc càng dâng cao, số lượng báu vật đập vào mắt họ cũng tăng lên theo cấp số nhân, không còn nghi ngờ gì nữa, chỉ thấy vô số quầng sáng rực rỡ chói mắt, tựa như cầu vồng tan vào dòng nước cuồn cuộn, cơ hồ muốn vươn mình thoát ra khỏi những báu vật kia, chảy tràn đi khắp chốn.

Không gian rộng mở, lượng ôxy trong không khí cũng tăng lên, Trác Mộc Cường Ba hít vào một hơi, cả người liền nhẹ bẫng như thể muốn bay lên. Gã cũng từng nghe truyền thuyết về châu quang bảo khí, tương truyền trên bền mặt những món châu báu thực sự quý hiếm đều có một tầng linh khí, dù bị chôn vùi dưới lòng đất sâu, những món báu vật ấy vẫn phát ra ánh sáng rực rỡ, nhưng gã chưa từng gặp báu vật nào như thế. Cho dù trước đây, cũng từng có người nhờ gã cầm hộ những viên bảo thạch trị giá hàng chục triệu, nhưng trong mắt gã, đó chẳng qua cũng chỉ là mấy viên đá có màu sắc đặc biệt một chút mà thôi. Nhưng mỗi một món báu vật ở đây đều tỏa ra thứ ánh sáng lóa mắt, khiến Trác Mộc Cường Ba thậm chí không biết nên hình dung những gì gã đã nhìn thấy như thế nào nữa, cảm tưởng như trên bề mặt mỗi món phẩm vật ở nơi này đều phủ một lớp chân khuẩn có thể phát ra ánh sáng huỳnh quang, hoặc trên bề mặt kim loại mọc chi chít những sợi lông mao phát quang vậy. Thứ ánh sáng đó mới đầu thì hơi chói mắt, nhưng chỉ thoáng sau gã đã phát hiện ra nó rất dịu dàng, chập chờn rung động, khiến ánh mắt người ta bất giác bị hút chặt không rời.

Merkin há miệng, hít thở từng ngụm không khí lớn. Đứng trước cả một kho báu mênh mông, y đột nhiên không biết mình nên cười hay nên rơi nước mắt, chỉ đờ người ra, cặp mắt đã bị ánh sáng các loại báu vật chiếm giữ, đầu óc hoàn toàn rỗng không. Đây mới thực sự là một gian đại điện huy hoàng rực rỡ. Ở nơi này, mặt sàn không biết được dát lên một lớp vàng mỏng, hay là những viên gạch bằng vàng ròng dày nặng nữa. Mỗi cây cột trong đại điện đều bọc một lớp áo vàng, điêu khắc hình trồng hình phượng giữa mây lành, ngay cả bốn bức tường và đỉnh vòm, cũng được bao phủ trong sắc vàng kim chói lóa.

Trước mắt hai người, là một hàng Phật tháp được xây bằng gạch xương, rất đậm đà bàn sắc dân tộc Tạng, mỗi tháp cao chừng một mét, bệ tháp và đỉnh tháp đều đúc bằng vàng ròng, thân tháp còn có một vành đai bằng vàng, đỉnh tháp khảm các loại bảo thạch, mỗi viên to như mắt rồng. Gạch xương màu trắng điểm xuyết trên ánh sáng màu vàng, trông như một hàng vệ binh hiên ngang chỉnh tề. Thân tháp đều mở ra, tạo thành một am thờ nhỏ, bên trong đặt các tượng Phật vàng lớn nhỏ, tạo hình khác nhau. Đằng sau nhưng Phật pháp này là một số đồ trang trí bằng vàng. Họ có thể thấy tượng vàng của thập đại niên thần, một thứ trông như cái giường lớn kiểu cổ của Trung Quốc, cũng bằng vàng ròng, chất đầy ngọc ngà châu báu. Ngoài ra, còn một cái tủ bằng vàng trông như quan tài, điêu khắc thành hình một động vật họ chó. Xa hơn chút nữa, là những tượng Phật kích cỡ lớn hơn. Đáng chú ý nhất, phải kể đến hai bức tượng cỡ đại cao ít nhất cũng tầm bốn mét ở chính giữa đại điện, thoạt nhìn không giống tượng Phật, mà là một nam một nữ. Người nam tướng mạo trang nghiêm oai vệ, toát lên khí thế của kẻ ngạo thị thiên hạ, còn người nữ lại đoan trang từ ái, bờ môi hơi nhếch lên tựa như nụ cười của nàng Monalisa.

Trác Mộc Cường Ba lập tức bị hai pho tượng vàng lớn nhất này thu hút, đây nhất định là tượng vàng cao ba trượng của Tạng vương Tùng Tán Can Bố và công chúa Văn Thành mà sách sử ghi chép. Đơn vị đo lường thời đó và ngày nay có sự sai biệt nhất định, nhưng hai bức tượng này cũng xứng danh là những bức tượng vàng ròng lớn nhất thế giới rồi.

Ánh mắt Merkin lại hoàn toàn bị hút vào đống báu vật đặt trên thứ vật dụng giống như chiếc giường. Y thậm chí còn không dám chắc rốt cuộc nên gọi thứ đó là gì nữa, chỉ biết nó được chạm trổ bằng kỹ thuật chạm rỗng, bên trên có hình mây trôi và hoa lá, toàn bộ những viên bảo thạch đính xung quanh đều không tầm thường. Có điều, những thứ bày trên giường kia mới thực sự khiến tâm thần Merkin đắm say ngây ngất. Báu vật vô giá, mỗi một món trên giường đều là báu vật vô giá.

Không biết bao lâu sau, tâm trí hai người mới bình tĩnh trở lại. Họ chầm chậm đặt chân lên sàn đại điện màu vàng kim, men theo hàng Phật tháp tiến về phía trước.

Dọc đường, bất giác Merkin cứ không ngừng so sánh những thứ ở trước mắt với những thứ y lưu trữ trong ký ức, những món báu vật được phát hiện từ thuở nhân loại bắt đầu có lịch sử.

Chế phẩm bằng vàng ròng lớn nhất thế giới, phải đổi lại…

Kia là kim cương lam, không ngờ… không ngờ lại có viên kim cương màu lam lớn đến vậy!

Viên kim cương lớn nhất thế giới, phải đổi lại…

Viên hồng ngọc lớn nhất thế giới, phải đổi lại…

Viên ngọc mắt mèo lớn nhất thế giới, cũng phải đổi lại…

Kia là phỉ thúy sao? Sao lại có thứ phỉ thúy xanh mướt đẹp đến thế…

Viên phỉ thúy đẹp nhất lớn nhất thế giới, phải đổi lại…

Vương tọa, vương trượng, mũ miện khảm nạm nhiều châu báu nhất thế giới, đều phải đổi lại…

Sau mỗi bước chân, hơi thở của Merkin càng lúc càng thêm gấp gáp. Y đã không kiểm soát nổi cơ thể mình nữa, toàn thân run lên bần bật. Dọc đường bước tới, y gần như tuyệt vọng nhận ra, phàm là những món châu báu thiên nhiên hoặc nhân tạo được cho là nhất trong lịch sử mà y nhớ được, chỉ trong một chớp mắt, toàn bộ đều đã bị soán ngôi! Liếc mắt nhìn ngang, bên trái có một cái cây bằng vàng ròng, cao chừng mét bảy mét tám, cành cây chĩa nhánh, buông xuống những chuỗi bảo thạch long lanh như giọt lệ, không có gió cũng tự đung đưa. Không phải những chuỗi bảo thạch ấy đung đưa, mà là ánh sáng tỏa ra từ chúng.

Hơi dịch ánh mắt đi một chút, lại sẽ thấy một chiếc kim luân lớn, ở đầu mỗi tia hào quang chiếu ra đều gắn một viên bảo thạch tròn nhẵn trong nhờ nhờ giống như ngọc trai, nhìn kỹ hơn sẽ kinh ngạc phát hiện ra, những viên bảo thạch ấy, hóa ra chính là Ngọc thời gian trong truyền thuyết. Cứ cách một quảng thời gian nhất định, một trong các hạt châu này sẽ phát ra ánh sáng, kéo dài đến khi hạt châu tiếp theo sáng lên, lặp đi lặp lại như vậy, nghìn năm cũng không sai lệch.

Không cần dịch chuyển ánh mắt, chỉ cần nhìn xa hơn chút nữa, phía sau kim pháp luân ấy là một khay Mantra(39) cao hơn một mét rưỡi, do những viên trân châu to tướng ghép lại mà thành, từ trên xuống dưới tổng cộng có năm tầng, không biết rốt cuộc phải dùng đến mấy nghìn mấy vạn viên. Đặc biệt nhất là, mỗi viên đều to nhỏ bằng nhau, trắng ngần không tỳ vết.

Phóng tầm mắt ra chút nữa, trên bức tường màu vàng phía xa sừng sững một tấm vách màu ngọc bích, còn cao hơn cả Merkin, trông như một vầng trăng tròn màu xanh ngọc. Nhìn sắc xanh biêng biếc đặc biệt ấy, lẽ nào, đó lại là phỉ thúy? Một miếng phỉ thúy đường kính hơn hai mét, hoàn toàn không tỳ vết? Miếng phỉ thúy ấy có màu xanh như lá cỏ mới nhú lúc đầu xuân, lại thấp thoáng có thể nhìn xuyên qua, trông thấy phù điêu chạm nổi trên bức tường vàng phía sau nó. Phẩm chất của miếng phỉ thúy này thế nào, thiết tưởng không cần phải nói nữa. Thứ này còn thuộc về nhân gian nữa hay sao? Miếng phỉ thúy lớn thế, rõ ràng có thể dùng làm bình phong, thậm chí làm tường ngăn cũng được, đúng là lấy ngọc làm tường, lấy ngọc làm tường!

Cuối cùng, hai chân Merkin cũng không đỡ nổi trọng lượng của cơ thể nữa, y ngã nhào lên một bức tượng Phật vàng ròng ngồi trên đài sen. Bức tượng này kể cả đài sen bên dưới thì cao gần hai mét, gần bằng người thật, một chân khoanh lại, một chân hơi duỗi ra, bốn tay đều cầm pháp khí. Bộ cà sa khoác trên thân tượng Phật không phải được chạm nổi, mà đúng là một bộ áo Phật dệt bằng tơ vàng. Những sợ tơ vàng được se ra còn mảnh hơn sợi tóc, chạm tay vào, cảm giác mềm mại trơn bóng như lụa. Cả tấm áo cà sa lớn như vậy mà cầm trên tay cảm giác nhẹ như lông hồng, áng chừng tổng trọng lượng cũng không quá một trăm gam, thực xứng là một tác phẩm thần kỳ. Những bảo thạch khảm nạm trên các pháp khí óng ánh rực rỡ, ánh sáng xuyên thấu, chiết xạ qua các pháp khí, Trác Mộc Cường Ba còn nhìn rõ được sự biến ảo của màu sắc và quỹ tích của chùm sáng. Bảo thạch trên các pháp khí kết hợp với những viên bảo thạch ở trán, ngực và bụng tượng phật, lợi dụng chùm sáng bảy màu, vạch ra trên không trung một ký hiệu tựa như hình Lục Mang tinh(40).

Merkin ngã bổ nhào lên tượng Phật, không nhúc nhích nữa, cục yết hầu không ngừng cuộn lên cuộn xuống, hít hà một cách tham lam, tựa như hít được mùi tỏa ra từ những món báu vật này có thể khiến y thư thái, sảng khoái lâng lâng toàn thân vậy. Cuối cùng, Merkin cũng hít đủ linh khí của báu vật, trông y lúc này như thể tên nghiện vừa được thỏa mãn, người mềm nhũn, mặt ngửa tựa vào lòng pho tượng, tay chân dang rộng, tạo thành một chữ “đại” lớn, cơ hồ bao nhiêu sức lực đã bị rút kiệt, chỉ còn lồng ngực phập phồng lên xuống không dứt. Hai mắt trợn trừng nhìn lên trần, thân thể như đang đắm chìm ngụp lặn trong ảo giác, miệng y lẩm bẩm nói mớ: “Ha ha… ta phát hiện ra rồi… toàn bộ đều của ta… báu vật vô giá… toàn bộ đều là báu vật vô giá… ông nội, cháu tìm được rồi! Ha ha ha… khục khục…”

Không biết bao lâu sau, Merkin mới sực nhớ ra vẫn còn một kẻ tên Trác Mộc Cường Ba ở bên cạnh mình, lý trí rốt cuộc cũng hồi phục phần nào, y khó nhọc ngẩng đầu lên, lập tức trông thấy Cường Ba thiếu gia. Trác Mộc Cường Ba đang đứng cách đài sen nơi Merkin ngả ngốn chừng năm mét, lạnh lùng nhìn y chằm chằm. Merkin lại nằm xuống, cười lớn nói: “Anh đã thấy chưa, Cường Ba, tất cả những thứ này, đều là của tôi!”

“Không!” Trác Mộc Cường Ba hờ hững trả lời, “Những thứ này, không phải của ông.”

“Cái gì!” Merkin giật bắn mình, nhảy dựng lên như một con báo hung hãn, trừng mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba quát: “Ngươi … Nói cái gì?”

Sát khí! Trác Mộc Cường Ba lập tức cảm nhận được sát khí ngùn ngụt tỏa ra từ Merkin, trông y lúc này chẳng khác nào một con dã thú đang liều mạng bảo vệ lãnh địa, trợn mắt nhìn kẻ ngoại lai xâm nhập, sát khí cuộn trào mãnh liệt.

Trác Mộc Cường Ba cảm thấy khó hiểu, cùng một con người, tại sao chỉ trong nháy mắt có thể thay đổi nhiều đến vậy. Những thứ châu báu này, thực sự có thể thay đổi linh hồn của một con người hay sao? Hay đây mới là bộ mặt thật của Merkin?

Nếu là trước khi vào thần miếu, Trác Mộc Cường Ba hẳn còn e dè khi đối mặt với sát khí ngùn ngụt ấy, có điều lúc này, gã thấy rất rõ, tâm lý của Merkin vừa trải qua một trận đại chiến dữ dội, cho dù về mặt thể lực y vẫn còn sung sức, nhưng tinh thần của y lại đang ở trong trạng thái cực độ yếu ớt. Bởi vậy, trước câu hỏi của Merkin, gã vẫn chậm rãi trả lời, nhấn từng chữ một: “Tôi nói, những thứ này, không thuộc về… ông…”

Chữ cuối cùng vừa thoát ra khỏi miệng gã, Merkin đã hung hăng nhào tới, cặp mắt trần trụi hệt như dã thú săn mồi, thậm chí vẻ giảo hoạt như rắn vốn luôn thấp thoáng ẩn hiện trong đôi mắt ấy cũng biến mất. Trác Mộc Cường Ba không nhân nhượng, ngược lại còn xông thẳng tới nghênh đón…

Trước những cú đấm như trời giáng của Cường Ba thiếu gia, lí trí của Merkin dần dần hồi phục, y đau đớn phát hiện ra, gã đàn ông này đã mạnh lên rất nhiều so với lúc mới tiến vào Bạc Ba La thần miếu… Merkin vùng vẫy, y không can tâm. Y không hiểu nổi, suốt mấy tháng lang thang trong thần miếu, y và Trác Mộc Cường Ba ăn cùng một thứ, làm những việc giống nhau, nhưng tại sao đối phương dường như mỗi ngày một mạnh lên, càng lúc càng mạnh. Bản thân y lúc này đã không thể duy trì được cục diện cân bằng với gã nữa rồi! Đương nhiên, Merkin cũng hiểu, y đã phải gắng hết sức trong trận chiến với Khafu, thương thế vẫn chưa hoàn toàn hồi phục, thêm nữa, lúc này y không thể điều chỉnh để tinh thần có trạng thái tốt nhất. Nhưng cho dù là vậy, y cũng không thể kém cỏi tới mức này chứ! Mỗi chiêu thức của Trác Mộc Cường Ba đều có xu thế chèn ép y, khiến y không thở nổi. Đối với sự thay đổi này, Trác Mộc Cường Ba cũng không hiểu rõ lắm, gã chỉ lờ mờ cảm thấy giữa hai chân mình có một vật thể hình bánh xe đang chầm chậm chuyển động, thân thể mình dường như mỗi ngày đều có biến hóa. Gã không biết dùng ngôn từ như thế nào để hình dung sự biến hóa này, chỉ khi đang quan sát, tiếp xúc, cảm tri môi trường xung quanh, gã mới phát hiện ra những điểm khác biệt rất nhỏ.

Merkin lại dính thêm mấy đòn nặng, bắt đầu không giữ vững được trọng tâm, y vẫn còn vũ khí, nhưng một thứ bản năng nguyên thủy lại ghìm y lại, không cho y sử dụng, một tiếng nói cứ liên tục lặp đi lặp lại trong tiềm thức: “Đừng rút súng, rút súng là ngươi sẽ chết chắc!”

Cuối cùng, khi Merkin bị đánh cho ngã nhào vào một bức tượng Phật, loạng choạng mấy bước liền vẫn chưa đứng vững, y mới tỉnh hẳn, cuống quýt nói: “Đừng… đừng đánh nữa, Cường Ba… Cường Ba thiếu gia… tôi, tôi là Merkin đây!”

“Hả? Ông tỉnh lại rồi hả?” Trác Mộc Cường Ba bước lên trước, tước vũ khí của Merkin. Lúc này, Merkin vẫn đang ở trong trạng thái cuồng bạo, có trời mới biết y sẽ làm ra những chuyện gì. Merkin không phản kháng, chỉ gật đầu lia lịa nói: “Tôi, tôi tỉnh lại rồi. Vừa nãy, vừa nãy không hiểu làm sao… giống như bị ma ám vậy. Ừm, chết tiệt, thậm chí tôi còn không biết rốt cuộc mình đã làm những gì nữa!”

Nghe câu trả lời của Merkin, Trác Mộc Cường Ba chỉ cười nhạt. “Đừng tin bất cứ chữ nào, câu nào của y,” gã vẫn còn nhớ rõ lời cảnh cáo cuối cùng của Nhạc Dương. Merkin chậm rãi bước đến, y đã sáng tỏ tình huống lúc này, chỉ cần y không ra tay, Trác Mộc Cường Ba cũng sẽ không tấn công. Y ngập ngừng giây lát, rồi mở miệng: “Nhìn đi, Cường Ba thiếu gia, đây mới là kho báu thật sự, mỗi một món đồ ở đây, chỉ cần mang ra ngoài kia, chắc chắn sẽ làm cả thế giới chấn động. Những thứ này do chúng ta phát hiện, chúng là của chúng ta đấy!”

“Chúng ta?” Trác Mộc Cường Ba liếc mắt nhìn Merkin.

“Đúng vậy.” Ánh mắt Merkin đầy kích động. “Chúng ta, mỗi người một nửa…” y vừa nói, vừa nhìn Trác Mộc Cường Ba. Thoáng sau, y chợt biến sắc mặt: “Chẳng lẽ.. chẳng lẽ anh muốn… một mình… độc chiếm!” Mấy chữ cuối cùng, Merkin nói có vẻ rất khó nhọc, giờ đây vũ khí cũng bị đối phương đoạt mất rồi, sắc mặt y trở nên hết sức khó coi. “Anh… anh không thể mang hết đi được! Những thứ này, một mình anh, liệu, liệu có thể mang đi được bao nhiêu? Những món châu báu này, chỉ cần tiện tay vơ một nắm, cũng đủ khiến chúng ta trở thành người giàu nhất thế giới rồi, không phải anh muốn độc chiếm tất cả đấy chứ?”

“Không.” Nghe thấy câu nói này, Merkin mới thở phào nhẹ nhõm. Nhưng tiếp đó, Trác Mộc Cường Ba lại nói: “Những thứ này không thuộc về chúng ta, chúng thuộc về nhà nước.” (Ôi! mẹ ơi! Cường Bà ơi là Cường Ba!!!)

Bình luận
× sticky