Trong tiệm đồ cổ nhỏ bé, hương trà ngào ngạt tỏa khắp phòng, buổi sáng cứ thế chầm chậm trôi đi. Phương Hồng Khanh rót nước vào ấm trà, không nhanh không chậm kể lại câu chuyện năm xưa. Tần Thu không thích nghe hắn kể chuyện, đã đi vào phòng trong tự lúc nào, chỉ còn lại Tiểu Thực trợn mắt há miệng ngồi nghe. Khi Phương Hồng Khanh vừa dứt lời, Tiểu Thực vội vàng hỏi: “Sau đó? Sau đó thì sao?”
Phương Hồng Khanh nhấp một ngụm trà, nheo mắt cười nói: “Sau đó hả? Có người bị rút giấy phép hành nghề bác sĩ, đến Nam Kinh mở một tiệm đồ cổ.”
“Á? Tại sao lại như thế?” Tiểu Thực không hiểu. “Đứa bé ấy không phải đã được chữa khỏi bệnh rồi ư? Tại sao lại phạt Tần Thu chứ?”
Phương Hồng Khanh cười nói: “Chắc tại ai đó bình thường sống không đủ tốt, gây thù chuốc oán khắp nơi. Cũng không biết là kẻ nào đã nhìn thấy anh ta cõng bệnh nhân vào trong nhà xác, liền báo cáo lên lãnh đạo bệnh viện. Chuyện này mà để người nhà bệnh nhân nghe được thì làm thế nào? Do đó, anh ta bèn bị gán cho tội “gây sự cố nghiêm trọng trong lúc điều trị” và bị sa thải. Này Tần Thu, tôi đã nói là anh đừng có trưng bộ mặt lầm lì ấy ra cả ngày mà. Thấy chưa? Làm người ta ngứa mắt đấy!”
Mấy câu sau là hắn cố ý nói vọng vào phòng trong, Tần Thu vẫn giữ khuôn mặt lạnh lùng, lừ lừ đi ra ngoài, ném một vật gì đấy vào đầu Phương Hồng Khanh. Phương Hồng Khanh lập tức giơ tay đón lấy, chộp được một chén trà làm bằng tử sa[18*] tinh xảo. Phương Hồng Khanh vuốt ve chiếc chén đẹp đẽ này, xuýt xoa vài tiếng rồi nói: “Ấy ấy, một đồ vật tốt như vậy, anh không sợ làm vỡ nó à?”
“Rót trà vào đó mà uống đi, đừng lải nhải nữa!” Tần Thu chỉ ném lại đúng một câu rồi tiếp tục đi làm việc của mình.
Ánh mặt trời mùa đông lặng lẽ chiếu qua khung của sổ kiểu cổ, rọi lên mái tóc màu bạch kim của Phương Hồng Khanh, lung linh óng ánh, làm toát lên một vẻ rạng rỡ, ấm áp không thể diễn tả thành lời. Hắn lười biếng ngồi phơi nắng trên chiếc ghế bành bằng gỗ lim, cầm chiếc cốc tử sa xinh xắn trên tay, thưởng thức hương vị thanh nhã của nước trà, môi mỉm cười, ánh mắt đầy vẻ thoải mái, mãn nguyện. Có lẽ vì màu tóc của hắn mà giây phút đó, Tiểu Thực bỗng cảm thấy người thanh niên trước mặt dường như không phải người phàm trần mà là một vị thần tiên.
Tiểu Thực giật mình, lắc lắc đầu để vứt bỏ ý nghĩ kì quái ấy, sau đó tiếp tục hỏi: “Vậy sau này thì sao? Phương Hồng Khanh, anh có bị cảnh sát bắt không? Còn nữa, tóc anh sao lại biến thành màu trắng vậy?”
Phương Hồng Khanh cười cười, trả lời cậu. Thì ra năm ấy, không lâu sau khi hắn đem trả cây tiêu sáu lỗ về ngôi mộ cổ của người con gái thời Tần, hắn liền nhận được điện thoại của thầy giáo hướng dẫn, bị thầy mắng cho một trận nên thân. Thế nhưng thầy hắn làm công việc liên quan đến di vật văn hóa cũng mấy chục năm rồi, có chuyện gì mà ông chưa từng gặp qua chứ? Đến khi Phương Hồng Khanh mồm năm miệng mười kể lại câu chuyện mình đã trải qua, thầy giáo chẳng những không mắng hắn “lắm chuyện” mà lập tức nói luôn: “Chuyện này phải thương lượng kĩ càng để tìm cách giải quyết! Trước tiên, hãy đem nộp chiếc cốc thạch anh kia cho nhà nước, còn vụ cây tiêu sáu lỗ thì từ từ tính sau.” Phương Hồng Khanh cứ theo thế mà làm, hơn nữa, từ trước đến giờ trong đầu hắn chưa từng nghĩ đến chuyện sẽ đem bán chiếc cốc thạch anh. Dù sao nó cũng là bảo vật quốc gia, tuyệt đối không thể để bị tuồn ra chợ đen rồi trôi dạt ra nước ngoài. Thế là, không cần nghĩ ngợi nhiều, đem nộp chiếc cốc thạch anh cho Cục bảo tồn văn vật. Sau đó, không biết thầy giáo hắn đã làm cách nào mà tội danh của hắn bỗng chốc được “xóa sạch”. Thế nhưng Viện trưởng Viện bảo tàng Kim lăng vừa nhìn thấy hắn liền cảm thấy đau đầu, dù được thuyết phục thế nào cũng không dám cho hắn thực tập tiếp nữa. Thế là tên phá hoại Phương Hồng Khanh đành ngoan ngoãn ngày ngày cùng giáo sư học tập, nghiên cứu, lúc nào rảnh rỗi lại chạy đến tiệm đồ cổ mà Tần Thu mới mở. Trong lúc đi thu thập đồ cổ, họ từng gặp vài chuyện quái lạ, cũng từng đi đến nhiều nơi khắp trời nam đất bắc. Còn về mái tóc bạch kim của Phương Hồng Khanh là do gặp phải một chuyện trong một ngôi mộ.
Tiểu Thực vừa định hỏi rốt cuộc đó là chuyện gì thì đột nhiên nghe thấy tiếng cười của con gái vọng vào từ ngoài cửa. Cả hai nhìn về phía ấy, chỉ thấy có ba nữ sinh đứng trước cửa tiệm chỉ chỉ trỏ trỏ một cách hiếu kì, sau đó cùng bước vào trong tiệm.
Ông chủ của tiệm là Tần Thu cứ như chẳng nhìn thấy gì, vẫn lặng lẽ cầm chiếc khăn vải lau chùi kệ tủ. Phương Hồng Khanh thì lại giống như đại gia, nửa nằm nửa ngồi ở đấy, uống trà phơi nắng, cũng không hề chào hỏi tiếng nào. Tiểu Thực thầm mắng, hai người này làm ăn buôn bán mà cư xử như vậy thì cầm chắc thất bại rồi. Cậu vốn số trời vất vả, bèn đứng dậy nói mấy câu với khách hàng: “Hoan nghênh quý khách!”
Mấy cô sinh viên nhìn nhau rồi cùng quay sang nhìn cậu, sau đó bật cười khúc khích. Tiểu Thực liên cảm thấy mặt mình nóng bừng. Cậu quay sang nhìn Phương Hồng Khanh cầu cứu, nhưng đối phương vẫn cứ nhàn nhã uống trà, nở nụ cười mỉm như có như không, ánh mắt gian xảo như một con hồ ly vậy. Tiểu Thực đành quay đầu lại, bỗng thấy một khuôn mặt xinh đẹp, thanh tú đang ở ngay trước mắt.
Giây phút đó, chợt có tiếng thủy triều gào thét vang lên, như nuốt chửng lấy cậu!
Sóng vỗ cuồn cuộn, nước tràn vào trong mũi cậu, cả người cậu bị chìm trong biển nước. Cậu cố sống cố chết vùng vẫy, thế nhưng từng con sóng cứ thi nhau xô tới, đập thẳng vào mặt cậu, như muốn dìm cậu xuống đáy. Dưới nước như có vật gì kéo chân cậu, cậu ra sức quẫy đạp nhưng chỉ càng khiến bản thân chìm sâu xuống.
Sức lực toàn thân dần yếu đi theo từng động tác vùng vẫy vô vọng, mi mắt càng lúc càng nặng trịch. Đúng vào khoảnh khắc cuối cùng trước khi ý thức hoàn toàn biến mất, cậu bỗng lờ mờ nghe thấy tiếng gõ trống, từng tiếng, từng tiếng một, giống như đang nặng nề gõ vào tim cậu, vô cùng mãnh liệt. Có người huýt sáo một tiếng rồi cất giọng ca vang:
“Mũi kiếm thẳng trời xuyên thấu màn sương.
Ánh sáng rạng ngời mặc chiến tranh khói lửa!
Phất tay bắt lấy vì sao sáng, thay đổi đất trời,
Ngưng đọng…”
“Tiểu Thực! Tiểu Thực!”
Bên tai vang lên giọng nói của Phương Hồng Khanh, Tiểu Thực cố lắc lắc đầu, khó khăn lắm mới mở mắt ra được, liền phát hiện mình đang ngồi trên chiếc ghế bành. Phương Hồng Khanh bỏ tay ra khỏi huyệt nhân trung của cậu, nói như trút được gánh nặng: “Được rồi, không sao rồi!”
“Hồng Khanh, hình như tôi nhìn thấy…” Tiểu Thực còn chưa nói hết câu, Phương Hồng Khanh đã liếc cậu một cái rồi dẩu môi về phía một cô gái. Tiểu Thực nhìn theo hướng hắn chỉ, bèn thấy cô gái đứng đầu – cũng chính là cô gái có khuôn mặt thanh tú mà cậu đã nhìn tháy trước đo – đang đeo một cái ba lô có treo một tấm ngọc bài. Tiểu Thực lập tức hiểu ý. Lần này chỉ e cậu lại bị từ trường của một vật quái quỷ nào đó ảnh hưởng đến rồi.
Các cô gái đứng trong tiệm nhìn ngó một hồi, mặt đầy vẻ tò mò nhưng hoàn toàn không có ý định mua bán gì cả. Có lẽ không khí trầm mặc trong tiệm đồ cổ đã làm ảnh hưởng đến bọn họ nên bọn họ không còn cười đùa rôm rả như lúc mới bước vào cửa tiệm nữa, chỉ thỉnh thoảng chỉ trỏ vài món đồ rồi nói mấy câu. Phương Hồng Khanh đưa chiếc cốc tử sa cho Tiểu Thực để cậu uống một hớp cho bình tĩnh lại, còn mình thì chầm chậm đi đến bên cạnh đám nữ sinh, đứng trước cô gái dẫn đầu, cười nói:
“Có câu ‘gái Nam Sư, trai Đông Đại[19*]’, nữ sinh của trường Đại học Sư phạm Nam Kinh quả nhiên danh bất hư truyền.”
Ba cô gái cùng nhìn hắn một cái rồi cười trộm. Nữ sinh đứng đầu cười tươi nhất, tò mò hỏi: “Sao anh nhìn ra được? Chúng tôi không đeo huy hiệu trường mà.”
Phương Hồng Khanh lắc đầu, cười. “Chẳng phải tôi chỉ đang bắt chuyện thôi sao? Nếu như đoán trúng thì tốt, còn nếu đoán sai thì có thể nói “Ai da, thì ra người đẹp trường X cũng không tệ tí nào?. Cô nói xem, đây có phải một lời mào đầu rất tốt không?” Nói đến đây, Phương Hồng Khanh tự giới thiệu mình: “Tôi là người của trường Đại học Nam Kinh. Tính ra mấy trường đại học tốt ở Nam Kinh chúng ta đều thuộc chung một nhà. Vậy thì tôi cũng có thể xem là đàn anh của các em rồi.”
Kiểu làm quen lộ liễu này khiến Tần Thu cũng phải ngoái lại nhìn một cái vẻ khinh thường. Dựa vào thân phận đồng môn, dường như Phương Hồng Khanh đã kéo gần khoảng cách giữa hắn và nhóm nữ sinh kia. Chỉ qua vài câu nói, mấy người bọn họ đã có thể trò chuyện vui vẻ. Phương Hồng Khanh thuận tay chỉ vào miếng ngọc bài treo sau lưng cô gái, hỏi: “Em gái, em kiếm được miếng ngọc bài này ở đâu vậy?”
Cô gái thuận miệng trả lời: “Mua được từ một cửa tiệm quê em.”
Phương Hồng Khanh cười nói: “Nghe giọng em không phải là người tỉnh khác.”
“Quê em không xa lắm, ở ngay Trấn Giang thôi.”
Tần Thu không chịu được cách nói vòng vo của Phương Hồng Khanh, liền vứt miếng giẻ lau lên mặt bàn, đi thẳng đến bên cô gái, hỏi: “Miếng ngọc bài này cô có bán không? Ra giá đi!”
Cô gái ngẩn ra một lúc, dường như kinh ngạc vì thứ đồ chơi không đáng tiền này cũng có người muốn mua. Nhưng chỉ mấy giây sau, cô ta nhướng mày lên, hỏi: “Các anh muốn mua vật này hả?”
Nhìn cô ta có vẻ như muốn giở trò, Tần Thu không chút kiên nhẫn, nói: “Ra giá đi!”
Cô gái đảo mắt mấy vòng, sau đó giơ tay, nói: “Năm trăm.”
Tần Thu không nói thêm lời nào, móc tiền ra. Nhìn thấy y lấy trong ví ra năm tờ một trăm nhân dân tệ, cô gái lập tức cảm thấy hối hận, đôi mắt lại đảo quanh. “Không được! Các anh muốn nó đến thế, chắc chắn đây là đồ tốt, nói không chừng là cổ vật có giá trị mấy trăm vạn cũng nên.”
Phương Hồng Khanh lắc đầu cười, không biết phải nói sao. “Cô em này khôn lanh thật đấy!”
Tần Thu trừng mắt nhìn hắn một cái, nói: “Muốn đòi thêm tiền hả? Không bán thì thôi!”
Nói xong, y bèn quay người định bước vào phòng trong. Nhìn y bỏ đi, cô gái lại chần chừ một lát. Cô ta đặt miếng ngọc lên tay, lật tới lật lui xem xét, nhưng vẫn không nhìn ra nó có điểm gì đặc biệt. Đúng lúc đó, không biết vì sao miếng ngọc bỗng tuột khỏi tay cô ta, rơi xuống đất, sứt mất một góc.
Trong tiệm đồ cổ vắng lặng, tiếng vỡ vang lên nghe giòn tan. Tân thu quay đầu lại nhìn, nói ra ba chữ: “Không cần nữa!”
Cô gái lập tức đổi giọng: “Lúc nãy đã thỏa thuận xong rồi, anh cũng đưa ra năm trăm tệ rồi. Chỗ này đông người như vậy, ai cũng có thể là chứng. Anh không thể lật mặt như vậy được!”
Bây giờ tình huống đã đổi ngược lại, cô gái đang rất muốn bắn miếng ngọc đi. Tiểu Thực nhìn Tần Thu, khuôn mặt y vẫn lạnh lùng, không nhìn ra được bất cứ biểu cảm gì. Cậu lại quay sang nhìn Phương Hồng Khanh, chỉ thấy hắn đang cười trộm giống như mèo ăn vụng cá vậy. Cậu đột nhiên hiểu ra. Hai người này đang chơi trò “muốn bắt vờ thả” đây mà!
Tần Thu trả năm trăm tệ xong, liền tiễn nhóm nữ sinh kia ra ngoài. Đợi ba người bọn họ đi khỏi hẻm nhỏ, y bèn đóng cửa tiệm lại. Phương Hồng Khanh ngồi xuống bên cạnh Tiểu Thực, bảo cậu kể lại chi tiết cảnh tượng mơ hồ mà cậu gặp phải lúc nãy.
Nghe Tiểu Thực mô tả xong, Phương Hồng Khanh suy nghĩ một lúc rồi nói: “Cậu nghe thấy tiếng hát vang? Có phải là ca khúc này không?
Trường Giang ngàn dặm,
Phơi bày chẳng hết chí khí trời thu chất ngất.
Đừng nói chi cung Tần trướng Hán,
Đài ngọc cung ngân.
Mũi kiếm thẳng trời xuyên thấu màn sương.
Ánh sáng rạng ngời mặc chiến tranh khói lửa!
Phất tay bắt lấy vì sao sáng, thay đổi đất trời,
Ngưng đọng…”
“Đúng rồi, đoạn đầu tôi không nghe thấy, nhưng mấy câu cuối chính xác là như vậy.”
Phương Hồng Khanh gật gật đầu, lại nói: “Cậu chỉ nghe được có một nửa, bài từ này còn thiếu mất một đoạn:
Rồng cọp gầm, phượng hoàng khóc.
Hận ngàn thu, sông Hoài thấu tỏ.
Một lòng sắt son vì tổ quốc,
Nước mắt quyện máu tươi tưới ngập đất trời.
Nước sông Biện buổi đêm róc rách chảy,
Ngân nga cùng tiếng sáo dân tộc Khương.
Chim loan hót khúc Liêu Dương,
Tiến công thẳng,
Hỏi trời cao, trăng tròn hay khuyết?”
Nghe hắn đọc thuộc cả bài từ, Tiểu Thực ngờ vực nói: “Hồng Khanh, anh có manh mối rồi sao?”
Tần Thu thu dọn đồ đạc xong, liếc nhìn hai người, nói: “Ai kêu cậu rảnh rỗi chạy tới đây vậy? Có thời gian thì ở nhà mà học đi!”
Bị Tần Thu ném cho một câu như vậy, Tiểu Thực bày ra vẻ mặt khổ sở, ánh mắt cầu cứu nhìn về phía Phương Hồng Khanh. Phương Hồng Khanh cười cười, vỗ vai cậu, nói: “Nghe không hiểu cũng là chuyện bình thường, bài từ này vốn không nổi tiếng lắm, trong sách giáo khoa cũng không có. Chắc cậu đã nghe qua tên tuổi của vị danh tướng kháng Kim nổi tiếng Hà Thế Trung chứ?”
“Hàn Thế Trung?” Tiểu Thực nhíu mày suy nghĩ hồi lâu, cuối cùng mới bừng tỉnh, vỗ tay. “Có một chút ấn tượng! Là người cùng thời với Nhạc Phi phải không? Đại tướng kháng Kim của Bắc Tống.”
Phương Hồng Khanh gật đầu, cười nói: “Trong giấc mơ của cậu có sóng nước ào ạt, có tiếng trống, còn có bài thơ này. Hơn nữa, cô gái vừa rồi nói rằng quê cô ta ở Trấn Giang, tôi liền nghĩ ngay đến trận chiến Hoàng Thiên Đãng của quân Tống và quân Kim năm xưa.”
Quân Tống và quân Kim thì Tiểu Thực biết, nhưng trận chiến gì gì đấy thì cậu chẳng có chút ấn tượng, cùng lắm chỉ biết đến điển tích “Nỗi nhục Tĩnh Khang” do xem phim Anh hùng xạ điêu mà thôi. Tiểu Thực bèn ngồi ngay ngắn, ngoan ngoãn nghe Phương Hồng Khanh kể chuyện lịch sử.
“Năm đó, Hoàn Nhan Tông Bật dẫn quân Kim đi về phía nam, tấn công vào vùng Giang Chiết. Hoàng đế nhà Tống là Triệu Cấu vì muốn bảo toàn tính mạng nên tháo chạy một mạch về phía bờ biển. Quân Kim không giỏi thủy chiến, cũng vì chiến sự mà tiến sâu xuống Giang Nam, nếu trú lại quá lâu sẽ gặp bất lợi. Sau khi càn quét, cướp bóc một hồi, chúng chuẩn bị quay về phương bắc. Lúc đó, Hàn Thế Trung đang đóng quân ở phía tây Chiết Giang, nghe nói quân Kim sẽ quay về phía bắc, lập tức điều động tám nghìn thủy quân đến Trấn Giang để vây đánh. Quân Kim có mười vạn binh sĩ, quân Tống chỉ có tám nghìn, trận chiến này khó khăn như thế nào, không cần nói cũng biết. Thế nhưng Hàn Thế Trung đã lợi dụng địa hình, liên tiếp đánh lui quân Kim, khiến quân Kim không tài nào qua sông được…”
Tiểu Thực không kìm được ngợi khen: “Thật lợi hại!”
Phương Hồng Khanh lại nói: “Nhưng cuối cùng quân Tống vẫn thất bại.”
“A! Tại sao lại thế?”
“Hoàn Nhan Tông Bật giết người tế trời đất, cầu xin một ngày lặng gió. Quân Tống vốn chỉ sử dụng loại thuyền to, vì nó vững chãi và có khả năng tấn công tốt, nhưng nếu không có gió thì sẽ rất khó di chuyển. Hoàn Nhan Tông Bật nhìn ra được điểm này, bèn phát động tổng tấn công quân Tống vào một ngày không có gió. Hắn dùng thuyền nhỏ phóng hỏa, dùng hỏa tiễn tấn công vào cánh buồm của những chiếc thuyền bên quân Tống, khiến cho quân Tống đại bại, hai vị đại tướng tử trận. Tiếng trống mà cậu nghe thấy chính là tiếng trống trận. Còn bài từ ấy chính là do Hàn Thế Trung ngẫu hứng sáng tác ra trong lúc đương đầu với quân Kim suốt bốn mươi tám ngày.”
Tiểu Thực “Ồ” một tiếng, nghĩ ngợi một lúc, hai mắt bỗng sáng rực, liền tóm lấy cánh tay Phương Hồng Khanh, nói: “Hồng Khanh, anh mua miếng ngọc này, phải chăng lại định làm gì đấy?”
Nhìn vẻ mặt cậu, Tần Thu lập tức cắt ngang: “Cậu ở nhà ngoan ngoãn học hành cho tôi!”
“Tôi vẫn đang trong kì nghỉ mà” Tiểu Thực lớn tiếng giải thích. “Chẳng mấy khi được nghỉ đông, cho tôi đi cùng hai người để mở mang kiến thức đi mà! Trấn Giang cũng không xa lắm, chỉ ngồi tàu hai tiếng là tới rồi! Hồng Khanh, cho tôi đi với, cho tôi đi với!”
Nhìn thấy dáng vẻ nài nỉ của cậu, Phương Hồng Khanh bật cười, cuối cùng cũng nhả ra một câu “Được”. Tiểu Thực mừng đến mức nhảy loạn một vòng quanh tiệm đồ cổ, bắt đầu tính toán xem nên mang theo vật dụng gì. Nhìn thấy bộ dạng vui mừng đến không biết trời đất gì của cậu, Tần Thu tiến đến gần Phương Hồng Khanh, cau mày, nhỏ giọng nói: “Rõ ràng cậu biết cậu ta…”
“Tôi biết.” Phương Hồng Khanh ngắt ngang lời y, ngước mắt nhìn bạn mình, mỉm cười, nhẹ nhàng nói. “Mặc cho số trời vậy.”
Tân Thu không nói thêm lời nào, chỉ đưa mắt nhìn bạn một cái rồi im lặng.
Khó khăn lắm mới được đi du lịch một chuyến như thế này, Tiểu Thực rất háo hức. Nghĩ đến chuyện sẽ được chứng kiến những sự việc kì lạ hiếm có, cậu hưng phấn đến mức cả đêm không ngủ được. Ngày hôm sau, khi lên tàu, cậu vẫn không hề thấy buồn ngủ, từ đầu đến cuối cứ nghểnh cổ nhìn ngắm cảnh vật bên ngoài cửa sổ, dường như nhìn hoài không chán vậy. Phương Hồng Khanh ban đầu còn trêu chọc cậu, nói mấy câu kiểu “Cẩn thận kẻo ngoẹo cổ luôn bây giờ”. Nhưng đi được một lúc, hắn bắt đầu ngủ gà ngủ gật, cái đầu với mái tóc bạch kim lắc lư theo chuyển động đều đều của xe lửa. Tần Thu ngồi bên càu nhàu: “Chẳng biết cổ ai sắp ngoẹo nữa” , sau đó cam chịu đỡ đầu Phương Hồng Khanh gục lên vai mình.
Chớp mắt đã hơn một tiếng đồng hồ trôi qua, khi đến ga tàu, Tần Thu lay Phương Hồng Khanh dậy. Hắn mắt nhắm mắt mở, nói: “Đến rồi hả?” Tần Thu chẳng buồn trả lời, chỉ phủi phủi vai, đứng dậy xách hành lí, chuẩn bị xuống tàu. Tiểu Thực đeo ba lô lên lưng, cười hì hì, nháy mắt ra hiệu với Phương Hồng Khanh. Phương Hồng Khanh vừa định đùa một câu “Chuột rút hả?” , liền thấy Tiểu Thực trỏ ngón tay về phía miệng mình. Phương Hồng Khanh ngẩn ra một lúc, sau đó đưa tay chùi khóe miệng. Hắn lập tức cảm thấy mất hết mặt mũi, rồi nhớ đến động tác phủi vai của Tần Thu lúc nãy. Hắn nhìn qua, quả nhiên thấy trên vai áo đối phương có một vết nước dãi, không kìm được bèn cười bẽn lẽn.
Ra khỏi ga tàu, ba người liền tìm ngay một quán ăn để lấp kín cái bụng rỗng. Bát mì nóng hổi với mùi dầu mè thơm phức, cộng thêm màu xanh ngắt của hành lá và màu vàng của lớp váng dầu, thật khiến cho người ta thèm đến chảy nước miếng. Bến trên còn sắp mấy lát thịt, Tiểu Thực ăn ngốn ngấu đến mức suýt nữa cắn phải lưỡi. Phương Hồng Khanh hứng chí, gọi một vò rượu Đan Dương, cười tít mắt, hớp luôn mấy ngụm. Tần Thu lại càng ghê gớm, uống liền hai chén mà mắt vẫn không đổi sắc, còn thúc giục hai người bọn họ ăn nhanh lên. Sau này, Tiểu Thực mới biết, tác động của loại rượu này vô cùng khủng khiếp. Truyền thuyết nói Quan Công mặt đỏ như thế là do uống loại rượu này, cả đời không thể phai được.
Ăn xong, ba người mở bản đồ ra, bắt đầu tìm kiếm Hoàng Thiên Đãng ngày xưa. Ở trấn Bảo Hoa thuộc thành phố Câu Dung ngày nay, khu vực sông bên cạnh đường chính nghìn năm trước được người ta gọi là “Sông con cò”. Nhưng vì trong trân đại chiến Tống – Kim năm ấy, máu chảy thành sông, mười vạn quân Kim dùng gươm đao quyết chiến đến vong mạng để mở ra một con đường vượt sông, cho nên về sau người ta mới gọi là “Sông đao kiếm”. Sau đó, mấy trăm năm vội vã trôi qua, một mảnh sông nước mênh mông, cuồn cuộn với cỏ lau dập dờn ngày ấy giờ đã biến thành một vùng đất đai rộng lớn, màu mỡ.
Tần Thu thuê một chiếc thuyền. Người lái đò chèo thuyền đi, sóng nước dập dềnh, con thuyền lướt về phía trước mấy mét, để lại sau lưng một màn sóng rẽ nhàn nhạt. Thuyền xuôi theo dòng sông, người lái đò dùng chất giọng địa phương của mình kể lại trận chiến mấy trăm năm trước. Mặc dù Tiểu Thực nghe không rõ lắm thứ tiếng địa phương ấy nhưng ít nhiều cũng đã hiểu được một chút về trận chiến Hoàng Thiên Đãng. Cho đến bây giờ Tiểu Thực mới biết, thì ra cái tên Hoàng Nhan Tông Bật mà Phương Hồng Khanh kể chính là viên tướng Ngột Truật của nhà Kim trong sách lịch sử mà cậu đã từng đọc qua.
“Này, Hồng Khanh, Hàn Thế Trung lợi hại đến thế, có thể khiến cho quân Kim rẽ sông Con Cò tháo chạy, vậy tại sao cuối cùng lại thua trận?” Điều khiến Tiểu Thực nghi hoặc nhất chính là điểm này. “Anh nói Ngột Truật giết người tế trời, cầu xin một ngày lặng gió mới có thể đánh thắng. Ông chủ à, thuật vu cổ tế trời gì gì đấy thật sự có hiệu quả sao?”
Cậu vừa dứt lời, người lái đò lúc nãy còn cười ha hả kể chuyện, xem ra có vẻ hòa nhã dễ gần bỗng nhiên vứt mái chèo xuống, quay lại tát bốp một cái vào miệng Tiểu Thực. Cái tát này vừa mạnh vừa chuẩn xác, bàn tay thô ráp, chai sạn vả mạnh vào mặt Tiểu Thực, khiến mặt cậu lập tức ửng đỏ.
Tiểu Thực liền ngây người, chẳng hề có phản ứng gì. Cậu hoàn toàn không biết tại sao người lái đò lại đột nhiên đánh mình, chỉ biết ôm khuôn mặt đau rát, ngơ ngẩn nhìn đối phương. Điều khiến cậu càng ấm ức hơn là Phương Hồng Khanh và Tần Thu đều không hề bênh vực cậu, chỉ ngồi trơ mắt nhìn, tuyệt nhiên không có ý định bảo vệ cậu.
Từ bé đến lớn, Tiểu Thực chưa từng chịu oan ức như thế này bao giờ, sống mũi liền cay cay. Vết tát bỏng rát trên mặt không thể nào so sánh được với mùi vị xót xa dấy lên tận trong tim. Cậu nhìn Phương Hồng Khanh, sau đó lại nhìn Tần Thu, đột nhiên cảm thấy gương mặt không chút biểu cảm của hai người trở nên xa lạ biết bao.
Người lái đò tát Tiểu Thực xong, không thèm đếm xỉa gì đến cậu, bước thấp bước cao tiến về phía đầu thuyền rồi đột nhiên quỳ xuống, dập đầu, miệng lẩm nhẩm niệm: “Lão Miêu[20*], lão Miêu xin đừng lấy làm lạ, tiểu nhân làm việc sẽ tự chịu trách nhiệm. Lão Miêu, lão Miêu xin đừng nổi giận, lúc nãy chỉ là chó xì hơi mà thôi.” Đọc một lúc lâu, người lái đò lại dập đầu ba cái rồi nhặt mái chèo lên, tiếp tuch chèo thuyền, không quên trừng mắt với Tiểu Thực.
Tiểu Thực tức đến đỏ mắt, mở miệng định hỏi: “Ông dựa vào cái gì mà đánh người chứ?” Thế nhưng câu này chưa kịp nói ra, cậu đã bị Phương Hồng Khanh giơ tay bịt miệng lại. Tiểu Thực kêu “ư ư” mấy tiếng, nhưng bàn tay của Phương Hồng Khanh càng bóp chặt hơn. Chính vào lúc đó, thân thuyền đột nhiên lắc lư rất mạnh. Hai người nghiêng về một bên, suýt chút nữa thì ngã khỏi thuyền. Tần Thu kịp thời vươn tay ra, kéo hai người trở lại, đẩy luôn vào trong khoang thuyền.
“Bên trái sông. Heo!”
Sắc mặt người lái đò thay đổi, ông ta kêu to một tiếng rồi bắt đầu chèo thục mạng. Khoang thuyền nhỏ bé lắc lư dữ dội. Mặt sông vốn dĩ đang rất yên tĩnh, bỗng nhiên từng đợt sóng cao không ngừng nổi lên, đập vào mạn thuyền, khiến con thuyền nhỏ bị xô nghiêng về một bên.
Tần Thu bị xô từ trái qua phải, lập tức bám chặt mũi thuyền mới không bị đẩy xuống sông. Phương Hồng Khanh ôm chặt Tiểu Thực vào lòng. Trong khoảnh khắc nguy cấp ây, tuy nhận ra bất cứ lúc nào cũng có thể bị rơi khỏi thuyền, rớt xuống nước làm ma chết trôi, thế nhưng Tiểu Thực lại rất bình tĩnh, cánh tay Phương Hồng Khanh ôm chặt cậu cũng không phải là giả vờ. Bọn họ không phải là không quan tâm đến cậu, Tiểu Thực lập tức không cảm thấy sợ hãi nữa.
Sau khi bình tâm trở lại, Tiểu Thực lấy hết can đảm nhìn xuống mặt sông phía dưới. Chỉ thấy trên mặt nước bỗng xuất hiện một vòng xoáy, sóng nước cuồn cuộn, dâng cao hơn nửa mét. Thời tiết vốn dĩ rất đẹp, lúc này bỗng nhiên thay đổi. Mây đen ùn ùn kéo đến, che lấp mặt trời, cả bầu trời bỗng xám xịt hẳn, giống như có thể đổ mưa bất cứ lúc nào. Đột nhiên Tiểu Thực nhìn thấy một bóng đen đang rẽ nước, bơi về phía con thuyền. Ngay sau đó, chiếc thuyền như bị vật gì đấy đâm sầm vào, sóng nước tràn cả vào mạn thuyền, tạt lên mặt cậu ướt đẫm.
Người lái đò vẫn đang lẩm bẩm đọc gì đấy bằng thứ tiếng địa phương mà Tiểu Thực nghr không hiểu. Nhưng nhìn vẻ mặt của ông ta, có thể doán được là ông ta đang nói mấy câu đại loại như “Ông trời phù hộ” gì gì đấy. Thấy ông lão vứt mái chèo đi để dập đầu lạy, Tần Thu vội chạy lên phía trước, nhặt mái chèo lên, ra sức chèo thuyền. Con thuyền nhỏ lướt nahnh về phía bờ sông, cái bóng đen dưới nước dường như đã nhìn ra được ý đồ của bọn họ, lập tức bơi quanh nó vài vòng. Vòng nước xoáy giữa sông càng lúc càng to và sâu. Một lực rất mạnh kéo con thuyền về phía tâm của vòng xoáy, như thể quyết tâm không lật được thuyền không thôi.
Tần Thu vừa nhìn đã biết không còn cơ hội thoát thân, bèn đá vào mạn thuyền, làm bật ra một tấm ván gỗ, vứt cho Phương Hồng Khanh, còn bản thân mình thì mở toang chiếc ô sắt, điên cuồng nhảy xuống lòng sông.
Tiểu Thực kêu “Á” một tiếng, nhìn chằm chằm vào mặt nước, trái tim như vọt lên tận cổ họng, chỉ sợ Tần Thu sẽ quyết chiến cùng con quái vật. Chính vào lúc này, Phương Hồng Khanh giơ ngang tay, ôm chặt eo Tiểu Thực, nói vào tai cậu một câu “Tóm chặt lấy” rồi dùng tay phải bám chặt lấy tấm ván gỗ.
Một tiếng ầm lớn vang lên, trên mặt sông nổi lên một đợt sóng cao tận hai mét. Ngọn sóng lớn đâm thẳng vào chiếc thuyền nhỏ, sức mạnh khủng khiếp của nó khiến con thuyền nghiêng qua một bên. Lại thêm một đợt sóng nữa quất xuống, cuối cùng cũng lật ngược được con thuyền.
Cả người đột ngột rơi xuống sông, bị làn nước lạnh buốt nuốt chửng, bên tai chỉ còn vọng tới tiếng trầm đục của sóng vỗ. Tiểu Thực học theo động tác của Phương Hồng Khanh, bám chặt lấy tấm ván gỗ. Cậu cố gắng mở mắt, muốn nhìn cho rõ trận chiến giữa Tần Thu và con quái vật, nhưng chỉ có thể nghe thấy tiếng sóng nước gầm gừ.
Bỗng nhiên, Tiểu Thực cảm thấy dưới chân lạnh buốt, thậm chí còn lạnh hơn cả lúc tiếp xúc với mặt nước sông lạnh lẽo. Ngay sau đó, một sức mạnh kì quái kéo giật cậu xuống dưới đáy sông. Cậu vùng vẫy điên loạn, đạp mạnh hai chân, nhưng chỉ càng bị vật kia bám chặt hơn. Cậu cố gắng quạt mạnh hai tay, muốn ngoi lên mặt nước, nhưng vùng phổi bị ép chặt đau đớn khiến cậu không kìm được hít vào một hơi, nước sông lập tức tràn vào hai lỗ mũi.
Tiểu Thực cảm thấy mình sắp chết đến nơi, nước sông đã tràn vào khí quản của cậu. Cậu đã trở nên bất lực trước sức mạnh thần bí đang kéo chân mình, đành để mặc nó lôi xuống đáy nước tối om phía dưới. Trong lúc mơ màng, cậu nghe thấy có người kêu la, gào thét. Tiếng trống dồn dập vang lên, giống như đang gõ vào trong đầu cậu vậy.
Không can tâm, không can tâm, không can tâm!
Tiếng trống, tiếng hô hào, tất cả cùng đập vào tai cậu. Tiểu Thực nghe thấy có người kêu gào thảm thiết, có người bi ai đọc thơ, ngọn lửa bốc lên cao theo tiếng nổ, nặng nề ập xuống khiến cả người cậu run bần bật.
Một lòng sắt son vì tổ quốc…
Nước mắt quyện máu tươi tưới ngập đất trời…
Không can tâm!
Mũi kiếm thẳng trời xuyên thấu màn sương…
Không can tâm!
Phất tay bắt lấy vì sao sáng, thay đổi đất trời…
Không can tâm! Quê hương bị tàn phá, bản thân bị bắt làm tù binh, đại sự chưa thành, sao có thể để thân vong mạng?
Cố gắng mở to mắt, nhìn xuyên qua làn nước xanh sâu thẳm đang chuyển động, cậu thấy từng đợt ánh sáng chói lòa mắt. Chân cậu vẫn đang bị kéo xuống. Cậu cúi đầu nhìn, chỉ thấy một bộ xương trắng đang bám chặt lấy chân cậu không buông, hai hốc mắt trống rỗng nhìn trừng trừng vào mặt cậu.
Cậu bèn đạp mạnh vào bộ xương, mượn lực để trồi lên. Dưới chân cậu bỗng nhẹ bẫng. Thì ra bàn tay của bộ xương vốn đang nắm chặt lấy chân cậu đã bị rời ra khỏi thân thể. Tiểu Thực chẳng buồn quan tâm đến điều gì nữa, để mặc khúc xương tay ấy bám dính lấy chân mình, ra sức bơi lên trên mặt nước.
Tiếng trống trận càng lúc càng gần, chiến sự đang đến lúc cao trào nhất, ánh lửa sáng rực soi đỏ cả mặt nước. Tùng… Tùng… Từng tiếng từng tiếng một, vừa sôi sục vừa hào hùng. “Ông ta” vẫn còn…
“Tiểu Thực!”
Cảnh chiến trận đỏ rực ánh lửa trước mắt bỗng dưng tan biến, thay vào đó là khuôn mặt lo lắng của Phương Hồng Khanh và Tần Thu. Cảnh vật bài trí xung quanh vừa xa lạ vừa quen thuộc, cho thấy cậu vẫn đang nằm trong khách sạn. Tiểu Thực bỗng hắt xì một cái, Phương Hồng Khanh bèn kéo chiếc khăn bông lại, trùm lên người cậu. Bây giờ Tiểu Thực mới cảm thấy lạnh, răng va vào nhau lập cập.
“Hồng Khanh, tôi nhìn thấy…” Cậu vội kể lại những chuyện xảy ra dưới nước lúc nãy, nhưng Phương Hồng Khanh đã giơ tay ngăn lại.
“Cứ nghỉ ngơi trước đã, chuyện khác từ từ nói sau.”
Tần Thu không nói gì, chỉ bưng đến một bát canh gừng, nâng cằm cậu lên, đổ vào miệng cậu. Mùi vị cay cay nóng nóng trong miệng khiến cậu bật ho rũ rượi, mãi một lúc sau mới hít thở bình thường lại được.
Phương Hồng Khanh giơ tay sờ lên trán cậu, đo nhiệt độ một lúc mới nói: “Được rồi, không việc gì đâu.”
Sau khi đã hồi phục sức lực, Tiểu Thực bèn kể lại cảnh tượng kì quái dưới đáy sông cho hai người bọn họ nghe. Lúc cậu nói đến đoạn bàn tay của bộ xương cứ sống chết bám lấy chân cậu không buông, Phương Hồng Khanh và Tần Thu liền quay sang nhìn nhau, rồi đột nhiên cùng lật chiếc chăn của cậu ra. Chỉ thấy dưới mắt cá chân của Tiểu Thực có một dấu tay đen sì. Tiểu Thực chợt ngẩn người, chẳng lẽ lúc nãy không phải là ảo giác sao?
Phương Hồng Khanh hỏi nhanh như chớp: “Tiểu Thực, ngày sinh âm lịch của cậu có phải là Mười chín tháng Chạp không?”
“Hả?” Tiểu Thực ngớ người, không hiểu tại sao Phương Hồng Khanh lại hỏi đến chuyện này, thế nhưng cậu vẫn gật đầu.
“Giờ Sửu?”
Tiểu Thực lại ngơ ngác. “Giờ gì cơ?”
Phương Hồng Khanh nhẫn nại giải thích: “Là từ một đến ba giờ sáng.”
“Vâng, đúng rồi, sao anh biết vậy?”
Phương Hồng Khanh không trả lời, lại hỏi tiếp: “Tuổi rắn?”
Tiểu Thực mở to mắt, cảm thấy Phương Hồng Khanh thật tài giỏi. “Đúng rồi, sao cái gì anh cũng biết vậy?”
Tần Thu liếc nhìn họ một cái vẻ khinh thường, thấp giọng chửi thề một câu rồi nói: “Thật khâm phục hai người!”
Tiểu Thực chẳng hiểu mô tê gì, chỉ có thể nhìn Phương Hồng Khanh vẻ cầu cứu. Phương Hồng Khanh ho khẽ một tiếng, vui vẻ giải thích cho cậu:
“Tương truyền vào thời nhà Đường, có một vị thuật sĩ chuyên xem tướng, tên gọi Viên Thiên Canh. Ông ta viết ra một bộ sách gọi là Thuật xem xương cốt của Viên Thiên Canh tiên sư. Mặc dù không thể so sánh với bộ Xem tướng tứ trụ của Từ Tử Bình nhưng loại hình xem xương cốt này cũng rất dễ thực hành, được truyền bá rộng rãi. Theo Viên Thiên Canh, ngày sinh, tháng sinh, năm sinh, tuần sinh, giờ sinh của mỗi người đều có trọng lượng nhất định, đem khớp với các chữ số tương ứng thì có thể đoán được độ nặng nhẹ của xương cốt người đó, từ đấy có thể đoán được họa phúc, tuổi thọ, vận mệnh cát hung.”
Tiểu Thực lúc này mới hiểu ra. “Thế nên lúc nãy anh mới điều tra ngày sinh của tôi?”
Phương Hồng Khanh làm ra vẻ bất đắc dĩ. “Ngày sinh của cậu, nếu dựa theo thuật đoán xương này, xương cậu nặng hai lạng mốt…”
Thấy Phương Hồng Khanh nói lấp lửng, Tiểu Thực bèn hỏi tiếp: “Sao thế? Hai lạng mốt không tốt hả?”
“Tốt cái con khỉ.” Tần Thu bỗng dưng khó chịu cắt ngang. “Theo thuật xem xương cốt, nhẹ nhất là hai lạng đấy. Chẳng trách cậu dễ đụng phải mấy thứ không sạch sẽ.”
Tiểu Thực “Á” một tiếng. Thật ra, cậu không để ý lắm đến mấy chuyện tướng số này, trước lời nói của Tần Thu, cậu không hề sợ sệt mà tò mò nhiều hơn. “Thế ánh Hồng Khanh thì sao? Ông chủ thì sao? Của hai người nặng bao nhiêu vậy?”
Phương Hồng Khanh cười nói: “Tôi với cậu kẻ tám lạng, người nửa cân, xương tôi nặng hai lạng hai, là số mệnh cả đời vất vả. Thế nhưng có người ấy mà ha ha, nặng vừa đúng bảy lạng, trong khi mệnh cao nhất trong thuật đoán xương này là bảy lạng hai. Mệnh của anh ta cả đời vinh hoa phú quí, thiếu hai lạng nữa thì chính là mệnh đế vương hiếm gặp rồi.”
Nghe giọng điệu trêu chọc của hắn, Tần Thu quay sang lườm hắn một cái. “Nói thật, từ lúc gặp phải thứ sao chổi là cậu, mệnh của tôi đã biến thành một đời vất vả rồi. Thật không biết kiếp trước đã mắc nợ gì cậu.”
Phương Hồng Khanh không hề để bụng lời cằn nhằn này của Tần Thu, ngược lại còn thuận thế phản bác: “Đấy nhé, anh đã thừa nhận tôi là chủ nợ của anh, vậy tôi cung kính không bằng tuân lệnh.”
Nhìn Phương Hồng Khanh và Tần Thu chí chóe lẫn nhau, trong lòng Tiểu Thực bỗng cảm thấy ấm áp trở lại. Quả nhiên cứ như thế này là hợp với họ nhất, kiểu lạnh lùng như lúc ở trên thuyền tuyệt đối không thể là ý muốn của bọn họ. Cậu không kìm được, nói ra hết tất cả những thắc mắc trong lòng: “Tại sao người lái đò đó lại đánh tôi vậy? Hồng Khanh, cả anh và Tần Thu đều không thèm để ý đến tôi.”
Câu cuối cùng để lộ hàm ý giận hờn và tủi thân. Phương Hồng Khanh chỉ cười phì một tiếng, còn Tần Thu ném về phái cậu ánh mắt sắc như dao. “Cậu đáng đánh lắm!”
“Là thế này, những ngư dân sống ở vùng sông nước Giang Nam có một điều kiêng kỵ.” Phương Hồng Khanh cười, giải thích. “Họ kiêng nói những từ như “lật” , “chìm”. Khi ăn cá, họ cũng không dám lật bụng cá lại để ăn mặt bên kia. Lúc ở trên thuyền, cậu hét lên một tiếng “Ông chủ” , từ này cũng là từ kiêng kỵ. “Ông chủ[21*]” đồng âm với “lao bản” , có nghĩa là “thuyền hỏng, người vong”. Ngư dân tin rằng, khi có người trên thuyền nói sai câu gì, bọn họ phải tát vào miệng người đó một cái, những người bên cạnh không được cản trở. Họ đánh càng mạnh, khả năng loại trừ được sự xúi quẩy càng cao.”
Bây giờ Tiểu Thực mới hiểu vì sao lúc trước Phương Hồng Khanh và Tần Thu chỉ ngồi trơ mắt nhìn cậu bị đánh mà không nói lời nào. Thế nhưng ngay sau đó, lại một điều thắc mắc nữa nảy ra trong đầu cậu. “Vậy sau đó tại sao trên mặt nước lại đột nhiên xuất hiện một thứ kì quái như vậy? Thực sự là do tôi đã nói sai sao?”
Phương Hồng Khanh cười nói: “Chẳng liên quan gì đâu, chỉ là trùng hợp thôi. Khu vực sông Trường Giang có một loại động vật quí hiếm, chính là cá heo không vây. Ngư dân gọi nó là heo nước, cho rằng nó chính là hóa thân của thần sông, còn biết ăn thịt người, thế nhưng đó cũng chỉ là chuyện truyền miệng mà thôi.”
Tiểu Thực còn định hỏi tiếp, thế nhưng vừa mở miệng liền hắt xì một cái. Phương Hồng Khanh bèn dặn dò cậu nên ngủ nhiều một chút, nghỉ ngơi cho khỏe rồi nói sau. Tiểu Thục cũng bắt đầu mơ mơ màng màng, nghe thấy tiếng Phương Hồng Khanh và Tần Thu đi ra khỏi phòng rồi đóng cửa lại. Chỉ một lúc sau, cậu đã chìm vào giấc ngủ.
Phì… Phì…
Tiếng hô hấp nặng nề vang lên bên tai, Tiểu Thực cảm thấy một hơi thở ẩm ướt, đều đặn phả vào mặt mình, khiến cậu choàng tỉnh giấc. Cậu cố gắng mở to mắt nhưng chỉ thấy một màn đen.
Phì… Phì…
Hơi thở vừa ẩm ướt vừa lạnh lẽo dường như ở ngay trước mặt, còn mang theo cả vị tanh tưởi dưới lòng sông. Thứ mùi ấy khiến Tiểu Thực buồn nôn vô cùng. Trong bóng tối đen kịt, mắt cậu không thể nhìn thấy gì, nhưng cậu vẫn cảm nhận được có thứ gì đấy đang đè nặng trên ngực mình, khiến cậu không thở nổi.
Chẳng lẽ đây chính là bóng đè sao? Ý nghĩ này chợt lóe lên trong đầu cậu. Cậu nhắm chặt mắt, cố hết sức bò dậy. Thật ra, Tiểu Thực rất sợ sẽ đột nhiên nhìn thấy một bộ xương khô hoặc một khuôn mặt cổ quái của cương thi xuất hiện ngay trước mắt. Đến lúc đó, còn chưa bị đè chết thì cậu đã bị dọa chết rồi.
Đúng lúc, Tiểu Thực giơ tay vùng vẫy, cố đuổi vật đó đi thì cảm giác bị đè nặng trên ngực đột ngột biến mất. Tiếng hít thở bên tai cũng biến mất theo. Tất cả mọi thứ trở về với vẻ tĩnh lặng ngày thường. Tiểu Thực từ từ mở mắt, thấy căn phòng tối om đến mức không nhìn thấy năm đầu ngón tay giờ đã sáng lên một chút. Ngoài cửa sổ, vầng trăng rực rỡ đang treo trên ngọn cây, ánh trăng sáng ngời xuyên qua tấm rèm sa mỏng treeo trên ô cửa sổ khách sạn, dịu dàng chiếu vào phòng. Tiểu Thực mở điện thoại ra xem, vừa đúng mười hai giờ.
Tiểu Thực nổi hết gai ốc. Hầu như tất cả tiểu thuyết và phim kinh dị đều chọn giờ này để mở đầu câu chuyện, không biết đây có phải là một loại qui ước ngầm hay không. Tiểu Thực thầm niệm đúng ba lần câu “Tôi không sợ” , sau đó cuộn mình trong chăn, chuẩn bị ngủ tiếp. Đột nhiên, cậu thoáng thấy bên ngoài cửa sổ có vật gì đó đang bò nhanh đến.
Cậu cố gắng kìm nén cảm giác sợ hãi, mặc áo khoác vào, chầm chậm rời khỏi giường, đi đến bên cửa sổ. Dưới ánh trăng chiếu rọi, bên cạnh bóng cây đung dưa, một bóng người từ từ xuất hiện bên ngoài ô cửa, in lên tấm rèm sa mỏng màu trắng, giống như đang diễn kịch bóng vậy.
Cái bóng đen ấy chầm chậm đưa tay lên vẫy chào Tiểu Thực.
Nửa đêm thanh vắng, tự dưng xuất hiện một cái bóng đen không nhìn rõ mặt mũi, lại còn vẫy tay chảo mình một cách ma quái, cảnh tượng này đúng là thử thách lòng can đảm của người ta. Tiểu Thực cảm thấy toàn thân mình nổi da gà. Càng đáng sợ hơn nữa là cậu lại bắt đầu nghe thấy tiếng hít thở nặng nề, từng hơi thở mang theo mùi vị ẩm ướt, tanh tưởi đang phả vào tai cậu.
Thứ đó đang đứng ngay bên cạnh cậu. Tiểu Thực ý thức được điều này, cả người lập tức cứng lại. Trước mặt có bóng quỷ, sau lưng có hồn ma, Tiểu Thực bị vây ở giữa, tiến thoái lưỡng nan, bất giác siết chặt nắm đấm. So với thứ vừa hôi thối vừa tanh tưởi bên cạnh, cậu muốn xem thứ bên ngoài cửa sổ là yêu quái gì hơn.
Tiểu Thực lấy hết can đảm, bước nhanh về phía trước, “soạt” một tiếng, kéo rèm cửa sổ ra.
Cảnh vật trước mắt khiến cậu kinh ngạc đến đờ người.
Nào có bóng cây, khách sạn hay đường cái, trước mắt cậu là một con phố nhỏ với những tòa lầu mang phong vị cổ xưa, lớp ngói lưu ly, mái hiên cong vểnh. Bến góc mái hiên còn treo một chiếc chuông gió, mỗi khi có gió thổi qua lại kêu leng keng, mấy tiếng vô cùng vui tai. Kiến trúc ở đây chẳng hề giống với thời hiện đại mà ngược lại trông hệt như trong phim cổ trang vậy.
Đêm đã về khuya nhưng trên phố vẫn rất đông đúc, nhộn nhịp. Các tiểu thương đang bày biện hàng quán, trên các mái nhà treo đủ loại đèn lồng với kiểu dáng, màu sắc khác nhau, làm cả con đường toát lên một vẻ phồn hoa náo nhiệt. Những chiếc đèn lồng sặc sỡ được tôn lên nhờ ánh sáng của vầng trăng đang treo giữa trời. Trong chốn nhân gian, không còn cảnh sắc nào có thể rực rỡ hơn thế.
Trên con phố náo nhiệt, tiếng chào hàng, tiếng bước chân đi lại và cả tiếng cười nói rộn ràng, tất cả cùng hòa làm một. Dưới vầng trăng sáng, ánh đèn rựcrỡ tươi đẹp soi rõ từng gương mặt khác nhau. Người đi trên đường đương nhiên ăn vận theo lối cổ trang, đa số đều vui vẻ nói cười, chăm chú ngắm đèn lồng. Thế nhưng không biết vì sao khi nhìn thấy những nụ cười rạng rỡ ấy, trong lòng Tiểu Thực lại dâng lên một nỗi chua xót. Đó là nỗi đau thương từ nơi sâu thẳm nhất của trái tim, không thể nói rõ thành lời.
Cậu bước đi trên nền đá xanh. Tất cả những phồn hoa náo nhiệt xung quanh dường như không thể khiến cho cõi lòng băng giá của cậu ấm áp trở lại. Cậu mơ màng nhưng rất kiên định bước về phía trước, từng bước từng bước, không hiểu tại sao bước chân mình lại nặng nề đến vậy. Cuối cùng, cậu lúng túng đứng yên trước cửa một tòa nhà giăng đầy vải sa đỏ, bên tai vang lên một giọng nói ngọt ngào đến chết người:
“Ai da, quân gia, mời vào trong!”
“Quân gia?” Cậu cúi đầu nhìn, thấy mình đang mặc áo giáp, tay cầm một thanh trường kiếm. Cậu lại ngẩng đầu nhìn trước mặt, đó là một người phụ nữ trung niên bôi son trát phấn đầy mặt, đang cong môi nói gì đấy, bộ dạng cười đùa lẳng lơ khiến cậu cảm thấy buồn nôn. Cuối cùng cậu cũng hiểu được mình đang ở đâu. Kỹ viện.
Tú bà vẫn đang hết sức nhiệt tình mời chào cậu vào kỹ viện tìm thú vui. Cậu lại cảm thấy trái tim mình trống rỗng, trong lòng dâng lên niềm chua xót và nỗi nhớ mong không thể nói rõ thành lời, ngơ ngơ ngẩn ngẩn đi theo tú bà vào trong kỹ viện. Mùi hương của son phấn trộn lẫn với mùi rượu nồng nặc toát lên một vẻ thấp kém, dung tục. Tiểu Thực cảm thấy trái tim mình giống như bị ai đó đục khoét một lỗ, không còn cảm giác gì.
Không rõ đã qua bao lâu, cậu cứ như đã hóa thành một cái xác không hồn, không ngừng đi về phía trước, cho đến khi có một tiếng cười khổ vang lên bên tai.
“Đừng nói với tôi, anh cũng đến để tìm thú vui.”
Trái tim như bị ai đó siết chặt, vô cùng đau đớn. Cậu ngước mắt lên, thấy trước mặt mình là một gương mặt thanh tú, xinh đẹp, vừa lạ lẫm vừa thân quen. Mày liễu mắt sáng, vừa dịu dàng lại vừa toát lên khí phách.
“Tiểu thư…”
Cậu nhỏ giọng gọi một tiếng. Lúc miệng cậu bật ra hai từ ấy, lòng cậu bỗng đau như cắt.
Cô gái cười lớn, nói: “Ở đây còn có tiểu thư nào ư?”
Nghe nàng cười nói như thế còn khiến cậu đau xót hơn cả khi thấy nàng khóc. Cậu siết chặt bàn tay, khổ sở nói: “Đi theo tôi! Tiểu thư ở nơi phong trần như thế này, tôi…”
Lời còn chưa dứt, những cảnh tượng khác chợt hiện ra trong đầu cậu, ào ạt như nước thủy triều đang ập xuống. Cậu nhìn thấy ân sư bị giải ra pháp trường, chém đầu thị chúng. Cậu nhìn thấy quan binh đang được điều động đến, tập trung trước cửa lầu son. Cậu nhìn thấy nàng thân mang xiềng xích, bì đày vào chốn phong trần. Một người con gái hiên ngang mạnh mẽ, cưỡi ngựa nhanh như tên bắn, có tài thiện xạ bách phát bách trúng, khuôn mặt vui vẻ tươi cười như thế, cuối cùng lại rơi vào nông nỗi này.
Rất nhiều điều muốn nói, nhưng cuối cùng chỉ có hai hàng nước mắt chảy dài.
“Sư huynh!” Nàng nhẹ nhàng gọi, mỉm cười nhìn cậu. Nụ cười của nàng vẫn thoải mái như thế, giống như tất cả những chuyện trời long đất lở xảy ra trước đây không thể đánh bại nàng. “Thất bại bị khép tội, về lí mà nói là đúng! Chỉ mong có một ngày có thể tự tay bắt giữ Phương Lạp, trả nợ máu, rửa hận cho gia đình.”
Từng chữ, từng chữ vang lên, đầy khí phách hào hùng.
Tiểu Thực bừng tỉnh từ trong giấc mộng, khuôn mặt đầm đìa nước mắt. Cảm giác đau đớn trong lòng vẫn không hề nguôi ngoai, khiến cậu muốn gào thét điên loạn. Cảnh tượng trong mơ vẫn đang hiển hiện trước mắt, bên tai vẫn còn văng vẳng tiếng trống trận dồn dập và tiếng nước vỗ ào ào.
Không can tâm, không can tâm, không can tâm! Tuyệt đối không thể bỏ mạng, giặc chưa giết được, chưa bình định được Thần Châu, và còn cả nàng…
Tiểu Thực biết rằng đây không phải là ý nghĩ của bản thân mình, thế những tiếng gào thét giận dữ đó không ngừng vang lên trong đầu cậu, mãi không dứt được. Tiếng trống trận hào hùng khiến trái tim đau đớn như bị ai đâm, nước mắt không kìm được rơi ướt đẫm khuôn mặt. Khóc vì bản trường ca hùng tráng, chỉ hận không thể trút bỏ được nỗi oán hận trong lòng.
Khi Phương Hồng Khanh gõ cửa bước vào, liền nhìn thấy Tiểu Thực đang ngồi trên giường, gục mặt vào hai đầu gối, khóc một trận trời long đất lở. Phương Hồng Khanh rất ngạc nhiên, bèn bước đến trước mặt Tiểu Thực, định hỏi xem đã xảy ra chuyện gì. Tần Thu đi theo sau cũng nhăn mày lại, nhìn quanh phòng với vẻ phòng bị, tay sờ vào chiếc thắt lưng da đang quấn quanh eo.
Tiểu Thực cảm thấy bản thân mình thật yếu đuối, “người” trong giấc mộng ấy sẽ không khóc hu hu như vậy. Cậu cảm nhận được “người đó” đang siết chặt nắm đấm, đến mức móng tay bấm sâu vào da thịt. Cậu nghe thấy tiếng ngựa hí vang, tiếng kêu khóc thảm thiết, tiếng hàng vạn binh mã, tiếng lửa tràn mặt sông. Cậu nhìn thấy ánh lửa đỏ rực đốt cháy hàng lau sậy bên bờ, nhìn thấy nàng một thân áo giáp nhuộm đầy máu đỏ. Tiếng trống trận nổi lên, từng nhịp từng nhịp, như đang gõ thẳng vào trái tim cậu. “Người đó” lặng im không nói gì, chỉ có Tiểu Thực khóc như mưa. Cậu cảm thấy ở tận nơi sâu thẳm nhất trong trái tim mình có tiếng kêu gào đến tận trời xanh: Không can tâm!
Sau dó, nước sông lạnh lẽo từ từ nuốt chửng lấy “người ấy”. Dưới mặt nước, dường như có vô số cánh tay ma quỷ kéo “người ấy” xuống tận đáy sâu u tối. Máu không ngừng loang ra, nhuộm đỏ cả dòng sông, cũng nhuộm đỏ cả hàng lau sậy trắng muốt bên bờ. Câu nói tận nơi sâu nhất trong lòng chưa từng được “người ấy” nói ra, nhưng “người ấy” cũng không còn sức lực để nói nữa. Giờ phút này, “người ấy” chỉ muốn nhìn thấy nàng một lần, cho dù chỉ từ đằng xa mà thôi.
Thấy Tiểu Thực khóc dữ dội như vậy, Phương Hồng Khanh bèn kéo cậu vào lòng, vỗ vỗ vào lưng cậu để an ủi, miệng không ngừng thủ thỉ “Không sao đâu”. Tần Thu chỉ yên lặng ngồi bên cạnh hai người, không nói câu nào.
Tiểu Thực chỉ là một thiếu niên mới lớn, chưa hoàn toàn thoát khỏi tâm lí trẻ con. Từ trước đến giờ cậu chưa từng trải qua cái gọi là sinh ly tử biệt, nhưng thứ tình cảm quanh quẩn ngàn năm vốn không thuộc về cậu lại đang ảnh hưởng đến trái tim cậu. Cậu cảm nhân được sự tôn thờ từ sâu thẳm trái tim, sự lưu luyến không nỡ rời, sự tuyệt vọng đến mức chết không nhắm mắt đang lấp đầy trái tim cậu, tạo thành một tiếng gào thét ầm ĩ vang trời. Chỉ có khóc đến long trời lở đất mới có thể giải tỏa được. Khó khăn lắm mới ngừng khóc được một lát, nỗi đau đớn trong lòng tiêu tan đi một ít, Tiểu Thực mới nghẹn ngào kể lại cảnh tượng mà cậu đã gặp trong giấc mơ cho Phương Hồng Khanh và Tần Thu nghe.
Hai người nghe xong, gương mặt lộ vẻ xúc động, Phương Hồng Khanh thở dài, nói: “Tôi biết người con gái đó là ai rồi. Người tự tay đánh trống trước trận chiến Hoàng Thiên Đãng giữa hai quân Tống – Kim năm ấy chính là nữ anh hùng Lương Hồng Ngọc. Tương truyền năm đó nàng đi theo phu quân của mình là Hàn Thế Trung chinh chiến khắp nơi, nhiều lần nổi trống trước trận đánh, làm khuấy động lòng quân.”
Nghĩ đến người con gái có khuôn mặt thanh tú nhưng đầy khí phách đã gặp trong giấc mơ, Tiểu Thực gật đầu, nói: “Vậy người đàn ông tôi gặp trong giấc mơ chính là Hàn Thế Trung sao?”
“Có lẽ không phải.” Phương Hồng Khanh lắc đầu, nói: ” Thứ nhất, Hàn Thế Trung không chết trận. Sau khi bị Hoàng đế Nam Tống ghẻ lạnh, ông cáo lão về quê, cuối cùng chết già bên bờ Tây Hồ. Thứ hai, người đàn ông cậu gặp trong giấc mơ gọi cô ấy là “tiểu thư” , thế nên tôi nghĩ có lẽ người đó thuộc hạ của Lương tướng quân.
Lương Hồng Ngọc vốn là con nhà tướng, từ nhỏ đã văn võ song toàn, giỏi cưỡi ngựa bắn cung. Năm Tuyên Hòa thứ hai, một người dân ở Mục Châu là Phương Lạp đứng lên khởi nghĩa, quy tụ mấy trăm nghìn dân miền núi, liên tiếp chiếm lĩnh các châu và quận. Lương Hồng Ngọc vì muốn bưng tai bịt mắt người khác, nhiều lần cải nam trang, thay phụ thân đi truyền tin tức từ chiến trận về hậu phương.
Sau đó, chiến sự vô tình, Lương tướng quân vì một phút sơ hở mà bỏ lỡ mất thời cơ, thua thảm hại nên bị khép vào tội chết. Từ đó, Lương gia sụp đổ, phụ thân và huynh trưởng bị xử tử, Lương Hồng Ngọc cũng bị đày làm kỹ nữ.
Cuộc nổi dậy của Phương Lạp gây ra tai họa cho sáu châu, năm mươi hai huyện, sát hại hơn hai triệu bách tính. Triều đình phái Đồng Quán, Đàm Trinh thống lĩnh đại quân đi trấn áp. Cuối cùng, Phương Lạp bại trận bỏ chạy, bị một tên lính bắt được. Người đó họ Hàn, tên là Thế Trung.
Năm đó, Hàn Thế Trung ba mươi mốt tuổi. Ông mình hổ vai gấu, ngay thẳng chính trực, lại thích giúp đỡ người khác, là một hán tử vào hào sảng vừa ngay thẳng. Lúc ấy, ông chỉ là một tên lính quèn nhưng lại bắt được Phương Lạp, lập được đại công. Tướng quân Đồng Quán khải hoàn trở về, đi ngang cổng kinh đô liền mở tiệc khao mừng binh sĩ thắng trận, kêu kỹ nữ đến chúc rượu. Lương Hồng Ngọc chính là một trong số đó.
Đây chính là lần đầu tiên Hàn Thế Trung và Lương Hồng Ngọc gặp nhau. Lương Hồng Ngọc vì muốn báo đáp ân tình bắt được Phương Lạp của Hàn Thế Trung nên đã quyết định trao thân cho ông. Hàn Thế Trung cũng không vì thân phận kỹ nữ của Lương Hồng Ngọc mà bạc đãi nàng, từ đó hai người kết mối lương duyên. Sau đó, Lương Hồng Ngọc nhiều lần theo chồng xuất binh. Trong trận Hoàng Thiên Đãng, nàng đã xung phong ra tiền tuyến.”
Đến bây giờ, Tiểu Thực mới hiểu, tại sao trong giấc mơ mình lại đi đến kỹ viện, tại sao nhìn thấy nàng lưu thân trong chốn lầu xanh liền cảm thấy lòng đau như cắt, tại sao nàng lại nói ra câu: “Thất bại bị khép tội, về lí nói là đúng! Chỉ mong có một ngày có thể tự tay bắt giữ Phương Lạp, trả nợ máu, rửa hận cho gia đình.”
Cuối cùng cậu cũng hiểu được, tại sao “người” trong giấc mơ đến khoảnh khắc cuối cùng trước khi chết vẫn không thể buông bỏ được tiếng trống trận và cả nỗi niềm tưởng nhớ ở trong tim, mãi mãi không thể nói ra được.
“Vậy sao đó thì sao?” Tiểu Thực hỏi gấp. “Sau đó Lương Hồng Ngọc thế nào?”
Phương Hồng Khanh lại thở dài một tiếng, cảm khái nói: “Cuộc đời sau này của vị nữ anh hùng đó lại không được tốt đẹp lắm. Trong lần theo chồng ra trận ở Sở Châu, bị quân Kim mai phục, nàng bị trọng thương. Nàng liền lấy khăn áo băng bó vết thương, tiếp tục đánh trận, cuối cùng máu thấm qua áo giáp, sức cùng lực kiệt, ngã ngựa mà chết. Lúc đó, nàng mới ba mươi ba tuổi. Quân Kim vì muốn tranh thưởng, liền cướp xác Lương Hồng Ngọc về, phân thi thể nàng ra làm nhiều mảnh…”
Nghe đến đây, Tiểu Thực lại nghẹ ngào rơi lệ. Lần này, cậu biết cảm giác đau lòng và buồn bã không chỉ thuộc về “người đó” mà còn của bản thân mình. Tiểu Thực cảm thấy Lương Hồng Ngọc thật đáng thương, khiến cậu vừa cảm động vừa kính phục. Cậu lấy tay lau nước mắt trên mặt rồi nói: ““Người đó” muốn gặp nàng! Hồng Khanh, hay chúng ta giúp “người đó” gặp nàng đi, được không?”
Phương Hồng Khanh và Tần Thu đưa mắt nhìn nhau rồi cùng gật đầu.
Tục nữ nói rất đúng, “Trên có thiên đàng, dưới có Tô Hàng”. Đang là đầu mùa đông nhưng thành phố Tô Châu vẫn xanh ngắt một màu. Dòng nước trong veo uốn lượn theo con mương nhỏ trong cổ trấn, tường trắng ngói đen ẩn hiện trong màn mưa phùn, như xa xăm, như gần gũi. Cảnh đẹp như trong một bức họa. Khi đi đến núi Linh Nham, mưa rơi rả rích khiến cho những bậc thềm đá ướt sũng. Trên những tán lá xanh ven đường, nước mưa lạnh lẽo nhỏ xuống mặt đất như lệ ai đang tuôn rơi.
Núi Linh Nham là một ngọn núi nổi tiếng của Phật giáo, trên núi có nhiều tảng đá kì lạ cao sừng sững, hình thù lởm chởm kì quái, mờ ảo như không phải cảnh thật, thế nên mới có danh xưng “Thập nhị kỳ thạch”[22*].Cảnh tượng trên núi cũng rực rỡ tươi đẹp, chùa chiền nghi ngút khói hương. Lúc bình thường, nếu tự dưng được đến một nơi vừa thú vị vừa đẹp đẽ như thế, Tiểu Thực nhất định sẽ vui đến mức nhảy cẫng lên. Nhưng giờ khắc này, cậu chỉ nắm chặt miếng ngọc trong tay, cúi đầu ủ rũ, lặng lẽ bước lên núi.
Mưa phùn gió rét quất vào mặt khiến người ta cảm thấy lạnh lẽo. Những bậc thềm lên núi bằng đá xanh bị nước mưa làm cho ẩm ướt, biến thành màu xám xịt. Nước mưa nhỏ xuống những bậc đá lồi lõm, làm bắn lên không trung những giọt nước trong như ngọc, rồi từ từ rớt xuống chân núi giống như những giọt lệ. Càng đi lên núi, Tiểu Thực càng cảm thấy trong lòng nặng nề. Cậu biết nỗi đau khổ của “người đó” đang làm ảnh hưởng đến cậu. Tuy trong đầu không còn tiếng gào thét “Không can tâm!” nữa, nhưng bờ lau sậy năm đó, ánh lửa phản chiếu trên mặt nước, màu máu đỏ tươi, tiếng hô xung trận cùng tiếng trống trận vẫn đang hiển hiện sống động. Nỗi tiếc nuối day dứt mà ngàn vạn ngôn từ không thể nào diễn tả hết được chính là vì một nguyện vọng rất đơn giản: Muốn gặp nàng lần cuối.
Thế nhưng có thể gặp nàng ở đâu đây? Tiểu Thực tự hỏi. Phương Hồng Khanh đã kể lại với cậu rằng Lương Hồng Ngọc tử trận nơi sa trường, bị quân Kim phân thây. Sau đó, bách tính nước Tống vì chịu ân huệ của nàng nên lặng lẽ thu gom, mai táng cho nàng. Cuối cùng đến năm 1151, Hàn Thế Trung bị bệnh qua đời, di thể của Lương Hồng Ngọc cũng được dời đến Tô Châu, hai vợ chồng họ được hợp táng dưới chân núi Linh Nham thuộc Tô Châu. Đến bây giờ, nơi đây đã trở thành một trong những thắng cảnh nổi tiếng của Tô Châu. Tần Thu nói, ba người họ tuyệt đối không thể đào mộ của Hàn Thế Trung mà chui vào đó được. Chưa nói đến khía cạnh pháp luật, bọn họ sao có thể phá hoại ngôi mộ của một vị võ tướng nổi tiếng như vậy?
Tiểu Thực vẫn cúi đầu ủ rũ, tuyệt không nói một lời nào. Phương Hồng Khanh vỗ nhẹ lên vai cậu, lôi kéo sự chú ý của cậu.
“Tiểu Thực.” Hắn nhẹ giọng nói, khóe miệng khẽ nhếch lên, tạo thành nụ cưởi mỉm như thường lệ, vừa dịu dàng vừa ấm áp. “Chúng ta chỉ có thể đưa “người ấy” tới đây thôi. Thế này đã là cố gắng hết sức rồi, còn lại phải nghe theo số trời, “người ấy” nhất định sẽ hiểu.” nhìn nụ cười của Phương Hồng Khanh, Tiểu Thực nặng nề gật đầu, càng nắm chặt miếng ngọc trong tay.
Ba người thuận theo thế núi đi xuống chân núi phía tây nam, liền nhìn thấy một lăng mộ. Sau khi kế vị, Tống Hiếu Tông Triệu Thận thuận theo ý dân, không chỉ xử lại vụ án oan của Nhạc Phi mà còn gột sạch oan khuất cho Hàn Thế Trung, truy phong ông là Kỳ Vương, tên thụy là Trung Võ, đồng thời cho xây dựng lăng mộ này. Ngoài ra, chùa Linh Nham trên núi cũng được đổi tên thành chùa Sùng Báo để thể hiện sự tôn trọng người có đức, có công với đất nước.
Đi vào chưa được bao lâu, họ đã nhìn thấy một tấm bia đá rất to, cao tận ba, bốn tầng lầu, trên mặt bia đá có một số dấu vết nứt vỡ vì năm tháng. Phương Hồng Khanh nhìn thấy, không khỏi cảm khái, nói: “Thật đáng tiếc! Trên tấm bia đá này có khắc mười chữ “Trung tâm tá mệnh định quốc nguyên huân chi bài”[23*], còn được Triệu Hùng viết tặng hơn một vạn ba nghìn chín trăm chữ về cuộc đời và công danh của Hàn Thế Trung lúc sinh thời. Tấm bia đá này cao hơn tám mét, xét về độ cao hay độ dài của văn bia đều được tính là vật hiếm có trên thế gian. Tiếc là vào năm 1939, nó bị gió lốc thổi ngã, vỡ thành hơn mười mảnh. Đến năm 1946, các tăng nhân mới dùng xi măng trộn lẫn với gang để ghép nó lại, sau đó dựng nó lên, nhưng dù thế nào cũng không thể dựng lại đúng vị trí trên bệ đỡ hình rùa như trước kia.”
Tần Thu hừ một tiếng, nói: “Thiên tai cái gì chứ? Là do đám người kia quá sức hung hăn, ngang ngược, đến ông trời cũng thấy không thuận mắt!”
Tiểu Thực ngẩn người, không hiểu “đám người kia” mà Tần Thu vừa nói là ai. Ngẫm nghĩ lại, năm 1939 chẳng phải là thời kì kháng chiến chống Nhật sao? Đó còn là năm Đức và Ý kí hiệp ước đồng minh nữa.
Tiểu Thực còn chưa hiểu rõ lời của Tần Thu thì Phương Hồng Khanh đã nhìn bạn mình, cười nói: “Này Tần Thu, anh bắt đầu tin vào số trời từ khi nào vậy?”
Tần Thu vẫn giữ nguyên khuôn mặt lạnh lùng, trầm giọng nói: “Chẳng lẽ cậu không tin là trời cao có mắt à?”
“Tôi tin.” Phương Hồng Khanh khẳng định. Hắn nhẹ nhàng sờ lên tượng rùa đá bên cạnh tấm bia, hướng về phía ngôi mộ, chậm rãi, trầm giọng ngâm:
“Hào khí ngất trời xơi sạch thịt quân Hồ,
Cười ngạo nghễ uống cạn máu giặc Hung Nô.
Cẩn thận giữ gìn, bảo vệ kĩ nước non tổ quốc,
Không thẹn với trời xanh.”
Tiểu Thực cảm thấy trong lòng chấn động. Tiếng sóng dữ, tiếng lửa cháy hừng hực, tiếng trống trận dồn dập và tiếng hô giết đang vang ầm ầm bên tai bỗng từ từ lắng xuống. Cậu nớ đến tiếng gọi “Tiểu thư” đầy khắc khoải, đau đớn như cắn xé ruột gan. Cậu cũng nhớ lại nỗi bi thương, xót xa khi cầm kiếm hô to một câu “Mũi kiếm thẳng trời xuyên thấu màn sương…”
Thì ra, thứ mà “người đó” không thể nào buông bỏ được chính là trang nhi nữ anh hùng lưu danh trong sử sách Lương Hồng Ngọc. Điều mà “người đó” không can tâm chính là nửa phần đất nước vẫn đang bị quân thù giày xéo. Rợ Hồ vẫn chưa diệt, thân không thể chết! Đây chính là niềm oán hận của “người đó” !
Tiểu Thực đứng trước tấm bia đá, nắm chặt tay lại, bước về phía ngôi mộ hợp táng của Hàn Thế Trung và Lương Hồng Ngọc. Cơn gió thổi qua, mơn man trên mặt cậu. Cậu không che ô, chỉ đứng nhìn ngôi mộ qua màn mưa, sau đó ủ rũ nhìn miếng ngọc ướt đẫm trên tay, nhẹ nhàng nói: “Cô ấy đang ở đây, ngài có thể yên tâm rồi.”
Mưa bụi mịt mờ, cảnh vật im ắng. Phương Hồng Khanh và Tần Thu cầm một chiếc ô đen, lặng lẽ nhìn theo từng động tác của Tiểu Thực. Chỉ thấy cậu ngẩng đầu nhìn trời, nhìn rừng cây xanh ngắt trước mặt, rồi lại nhìn những du khách đang cười nói, đi đi lại lại.
“Chúng tôi cũng rất ổn. Con cháu đời sau, vạn lí giang sơn, tất cả đều rất ổn.”
Chỉ nghe thấy một tiếng “rắc” giòn tan, miếng ngọc bỗng tự nứt thành nhiều mảnh. Một miếng ngọc hoàn hảo như thế, giờ đã không thể ghép lại nữa rồi.
Những mảnh ngọc vỡ bé nhỏ rơi xuống từ trên tay Tiểu Thực, theo những giọt mưa hòa vào nền đất trước mộ, lấp la lấp lánh.