Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Đứa Con Người Yêu

Chương 2

Tác giả: Pearl S. Buck

Laura qua nhìn ra cửa sổ phi cơ để được nhìn thấy Chris một lần chót. Ông đã phải hấp tấp chạy lên sân thượng để nhìn cho được chiếc phi cơ cất cánh. Tay ông vẫy vẫy chiếc khăn màu hạt dẻ.

Chưa bao giờ Laura sống với chồng ba ngày như vậy: ba ngày thật là gần gũi mà cũng thật là xa cách. Họ không nghi ngờ về mối tình của họ, họ biết rằng không gì chia rẽ họ được và tin vào lòng chung thủy của nhau, nhưng không ai nói ra. Suốt đêm, Laura phân vân: bà không biết có nên sang phòng của Chris không, nếu chồng bà không đến với bà? Chuyến viễn du của bà sẽ kéo dài bao lâu? Cái đêm cuối cùng này lẽ ra hai vợ chồng phải cận kề bên nhau, nhưng điều đó đã không xảy ra, như vậy nó có ảnh hưởng đến tâm trí họ một cách thái quá hay không, trong khi họ phải xa nhau, dẫu chỉ là một sự xa cách vắn vỏi? Theo Laura thì bà chỉ vắng mặt trong vài ngày.

Chris đã nói :

– Dầu sao đi nữa, anh cũng chỉ yên tâm khi nào em đã trở về. Hãy vì anh mà tương nhượng cũng như anh đã tương nhượng em. Để em đi một mình, anh không biết chuyện gì sẽ xảy đến với anh đây. Anh ăn sẽ không ngon, ngủ sẽ không yên cho đến bao giờ em trở về. Anh có cảm tưởng như là thân anh bị xẻ làm đôi. Ngay cả Triều Tiên bây giờ ra sao anh cũng không biết nữa.

Ngồi trong phi cơ, Laura hồi tưởng lại mấy ngày vừa qua. Nhửng ngày nặng nề làm sao! Để mặc Greta xoay xở việc nhà, bà lao mình vào công việc khảo cứu để tìm sự quên lãng. Dầu đau khổ đến đâu con người cũng chịu đựng được, miễn là làm việc. Bà đã viết xong một chương nói về sự ích lợi của các loài hải thực vật và hải động vật, chẳng hạn như loài điện ngư sản xuất được chất chống hơi độc, loài hải đởm giúp bạch huyết cầu ngăn ngừa các bệnh truyền nhiễm, loài sứa lửa được sử dụng trong công cuộc tìm kiếm những sự kích ứng của cơ thể. Nhờ có tinh thần kỷ luật, Laura đã tìm cho mình được một niềm an ủi tuyệt diệu trong sự làm việc và do đó đã tạo ra được sự quân bình về tâm trí.

Chiếc phản lực cơ chuyển động rồi bay lên cao. Laura dựa lưng vào thành ghế, mắt nhắm lại. Bà đang đi đến một vùng đất mới, mới đối với bà ở tận Á châu, nơi mà bà chỉ biết qua sách vở. Hơn mười năm trước, lúc Chris hồi hương, vì quá vui niềm vui tái ngộ nên Laura không hỏi gì chồng về cái xứ Triều Tiên này.

Khi Laura mở mắt ra thì phi cơ đang bay ở cao độ. Trong đời bà chưa bao giờ bà cảm thấy đau khổ, cô đơn đến thế! Phải chăng bà đã có lý khi đem hết sức mình ra chống trả với dĩ vãng? Hay vì ghen tuông, bà không muốn để Chris gặp lại Sương. Có lẽ… bà phải chính mình gặp Sương để xem cô ta có ba đầu sáu tay thế nào và để biết cô ta duyên dáng và quyến rũ đến đâu. Bà không tin Chris có thể say mê một cô gái chẳng ra gì, không nhan sắc, không giá trị. Chồng bà tính tình phức tạp, có những sở thích khó chiều, nhưng đã làm cho bà hài lòng vì ông rất tế nhị.

Còn vấn đề thằng bé nữa, cố nhiên. Nhưng trước hết bà muốn gặp Sương để nhận xét về cô ta một cách khách quan như nhận xét về một mẫu hải thực vật, để biết rõ ai mới thật là người bạn lòng đầu tiên của chồng bà.

Theo dòng tư tưởng, Laura nhớ lại đêm tân hôn của mình. Là một cô gái còn tân, nàng cũng muốn biết chồng nàng có còn tân như nàng không, nhưng rồi vì quá tự ái, quá thẹn thùng và quá ngây thơ, nàng đành giữ im lặng. Đến bây giờ Laura mới nhận ra những điều mà Chris đã học được trong cái túp lều bé nhỏ bên xứ Triều Tiên là những điều đáng lý ra bà phải đoán được ngay khi ông mới hồi hương. Chris đã học hỏi ở Sương sự dạn dĩ và khéo léo trong tình chăn gối mà Laura không thấy ở chồng trong những ngày trăng mật ngắn ngủi. Chris thật sự đã “sống” với Sương ư? Không, không chắc, vì ông đâu có yêu Sương như đã yêu bà. Vả lại, Sương không thể yêu Chris như bà được. Sương chỉ là một con bé Triều Tiên ngu si vô học…

Trước ngày Laura khởi hành, Chris về nhà sớm. Hai vợ chồng ngồi uống rượu tại phòng khách, bà đã hỏi ông :

– Cô Sương làm nghề gì?

Lần đầu tiên trong đời, bà ngạc nhiên nhìn thấy chồng bà đỏ mặt. Ông hỏi vặn lại :

– Em hỏi thế này là có ý gì?

– Em chỉ muốn hỏi cô ấy làm nghề gì. Chẳng hạn như làm giáo viên, y tá hay các nghề nghiêp tương tự.

– Ồ, không. Cô ta chẳng có nghề gì cả, nhưng không phải cô ta mù chữ đâu. Người Triều Tiên thích âm nhạc. Cô ấy giọng tốt và hát luôn mồm.

Laura không hỏi gì nữa, bà sợ phải nghe Chris nói nhiều về Sương. Kỷ niệm đêm tân hôn một lần nữa lại hiện ra với Laura, dẫu bà đã cố gắng không nghĩ đến.

… Hồi đó, hai người làm lễ cưới thật đơn sơ, nhưng cũng thật là vui vẻ, trong một ngôi giáo đường cổ ở khu Park Avenue, nơi Laura đã được rửa tội. Nàng bận chiếc áo cưới của bà nội nàng, chiếc áo còn mang dấu hiệu của nhà may Worth de Paris và chiếc khăn voan viền đăng ten thứ thiệt. Tiếng đại phong cầm chấm dứt buổi lễ, chàng và nàng ra khỏi giáo đường như bồng bềnh đi trên ngàn vạn niềm vui. Ngày cha mẹ nàng thết tiệc tại nhà thật là vui vẻ. Laura đã nhìn thấy mọi nghi thức trang nghiêm và thích thú.

Hồi còn bé, nàng thường bảo sẽ sang Nouvelle Angleterre để hưởng tuần trăng mật và nàng đã thực hiện điều đó. Vợ chồng nàng đã được ông chú già tiếp đón ân cần. Hai vợ chồng đã về vùng quê chơi, trong lòng ngập tràn hạnh phúc. Việc gì đối với họ cũng đều mới mẻ, lúc bấy giờ Laura nghĩ rằng ngay chính họ cũng là những con người mới, họ chỉ sống cho nhau… Đến nay Laura mới biết rằng mình không phải là người đàn bà duy nhất trong đời chàng…

Bà tránh không muốn nghĩ thêm. Có thể, Chris đã nói hết sự thật với bà. Trong đêm cuối cùng ấy Laura đã đem hết can đảm nói với chồng :

– Anh ơi, không biết vì sao em lạnh quá!

Em rét run lên không sao giữ được.

– Lại đây với anh, anh ôm cho ấm.

Chris ôm vợ vào lòng, rồi hỏi :

– Trong người em có gì thay đổi không?

– Không, em không có gì thay đổi cả. Em cảm thấy ở trong một trạng thái kỳ lạ, người như vừa mới khỏi bệnh, yếu ớt, chán chường, không thể cử động. Thật là một cảm giác lạ kỳ… nhưng sắp hết rồi. Có lẽ em bị xây xẩm đây thôi.

Nàng gượng cười :

– Nó làm như vừa lặn sâu ở dưới nước lên, lên quá vội. Thân thể bị tê liệt hết.

Chris thì thầm, giọng như lạc đi :

– Em tha lỗi cho anh.

Laura ngẫm nghĩ xem trong mình có gì thay đổi không. Bà tự nhủ: “Không phải con người ta thay đổi mà là tất cả những gì còn lại đã thay đổi. Nếu ta không tin tưởng Chris nữa, lúc ấy tất cả sẽ thay đổi. Ta sẽ đi đến một nơi không ai biết”.

Hết kỷ niệm này đến kỷ niệm khác cứ thể hiện ra trong đầu Laura. Trước ngày cưới, mẹ bà đã nói :

– Con ạ, mẹ không mong con thử thách chồng con với một mối tình quá lớn.

Laura đã trố mắt ngạc nhiên hỏi lại :

– Tại sao mẹ bảo tình của con đối với chồng con là quá lớn?

– Tại vì sự lợi ích của chính con.

Hồi ấy mẹ bà đã giải thích như vậy nhưng Laura không hiểu gì hết.

Bây giờ bà mới hiểu. Bà đã hiến dâng trọn vẹn cho chồng cũng như đã hiến dâng cho công cuộc khảo cứu mà bà đang đeo đuổi và cho chính đời sống của bà. Bà không bị chia sẻ vì những tình bạn vớ vẩn và những trò vui giải trí lăng nhăng. Không có con, bà hoàn toàn hy sinh cho chồng và cho công việc. Khi nghe những người đàn bà khác nói chuyện bếp núc, chồng con, bà ngỡ rằng mình hơn họ. Bây giờ bà mới thấy tủi nhục. Nếu có một đứa con, có phải là cuộc đời của hai người đáng giá hơn không. Trong lòng bà, Chris hết là vị “chủ nhân ông” duy nhất rồi.

Laura thử tưởng tượng đến việc hai vợ chồng bà có một đứa con và bà sẽ phải nghỉ việc – không, bà không thể nghĩ đến điều đó. Bà chợt nhớ lại trong mấy ngày gần đây, chồng bà đã cố gắng làm ra vẻ tự nhiên, nhưng Laura cũng đoán được là ông đã cảm thấy sự khác thường và đau khổ nơi bà. Lúc chia tay, Chris đã ôm chặt lấy Laura và bảo :

– Anh chỉ yêu em và mãi mãi chỉ yêu em.

Rồi ông hôn vợ say đắm.

Bây giờ bà vẫn còn cảm thấy chiếc hôn ấy như còn đọng lại ở trên môi, bà chợt hiểu rằng: Chris không có đổi thay gì mà mình cũng thế. Nhưng Laura đã lầm khi tưởng rằng mình đã hiểu Chris tường tận. Trong bao năm qua, Chris đã âm thầm giữ kín chuyện này, không nói cho bà biết. Nhưng bà hết sức yêu ông, tại sao bà không tiếp tục yêu ông như vậy được nhỉ? Bà tự hỏi với biết bao nhiêu tha thiết ở trong lòng, nhưng bà không sao tìm ra câu giải đáp.

Chiếc phi cơ chở Laura đang bay trong không gian, giữa cảnh trời và đất, chẳng khác nào tâm trạng của bà cũng đang đứng ở giữa ngã ba đường.

Mây trời dày đặc che kín cả không gian, qua những khoảng trống nhỏ bé, thấp thoáng màu xanh của biển cả, xanh thẫm như màu xanh của da trời. Trong khi đó, thủ tục hàng ngày vẫn tiếp diễn. Người ta mang đến cho bà những bứa ăn thịnh soạn, bà ăn thịnh soạn, bà ăn một cách uể oải, nhưng uống những hai ly rượu cốc-tay, một ly rượu mùi và một cốc cà phê sau điểm tâm.

Đêm ấy, Laura ngủ không yên giấc. Mới tảng sáng bà đã thức dậy. Sau khi rửa mặt, đánh răng, bà trang điểm và chải đầu, nhưng đó chỉ là những cử chỉ máy móc, cũng giống như những nụ cười xã giao mà bà đã đáp lễ những người xa lạ chung quanh khi họ mỉm cười với bà vì lịch sự. Bà có cảm tưởng rằng, “cái tôi đích thực” của bà không còn nữa, nó đã biến mất giữa cái khung cảnh bao la này, không còn quá khứ, không còn hiện tại, không có cội rễ, dứt bỏ tất cả. Giả sử bà mất đi giữa chuyến đi này không trở về với gia đình nữa thì sao? Không, bà đã vạch ra cho mình một sứ mệnh thì bà phải hoàn thành cho tới cùng.

° ° °

Khi đặt chân đến Hán Thành, Laura nhận thấy ngay những nét đặc biệt của người dân xứ này là đôi mắt và mái tóc màu đen. Chung quanh bà, người ta nói chuyện bằng một thứ tiếng xa lạ. Nhưng Chris đã chỉ dẫn cho bà rất kỹ lưỡng, nào là tên khách sạn, nào là địa chỉ, nào là thủ tục quan thuế v.v… Lòng bà nhẹ nhõm biết bao, khi nghe một nhân viên quan thuế trẻ tuổi hỏi bà bằng tiếng Anh :

– Thưa bà, bà ở lại đây bao lâu?

– Chưa biết.

– Hai tuần phải không ạ?

– Tôi hy vọng không ở quá hai tuần.

– Nếu bà ở trên hai tuần, bà phải xin phép.

– Tôi chắc là không quá hai tuần đâu.

Anh ta cười, hai hàm trăng trắng và đều :

– Thưa bà, ở đây có nhiều phong cảnh đẹp lắm. Tôi hy vọng bà sẽ ở chơi lâu.

Bà nhã nhặn cám ơn và cảm động vì sự tử tế của anh ta.

Để khỏi phải bỡ ngỡ Laura gọi taxi, đó là một chiếc xe Jeep có thùng bằng tôn. Người tài xế còn trẻ, mặc áo vải, vá nhiều miếng, hắn chỉ biết cười vì không biết nói tiếng Anh. Hắn biết ngay tên khách sạn ghi trên mảnh giấy của Laura, hắn hớn hở đưa bà đến đây.

Chiếc xe xịch đỗ, người tài xế nhảy xuống, hai tay xách hai cái va li và gọi ầm lên báo cho khách sạn biết. Rồi hắn nhã nhặn chỉ vào bảng giá biểu để đòi tiền, luôn luôn tươi cười, hàm răng trắng nhởn. Hắn lại tiếp tục phóng xe đi, nhập vào đám đông xe cộ đang lưu thông khắp phố phường. Lúc ấy, một tên tiểu đồng từ khách sạn bước ra xách hành lý cho Laura. Bà bước theo nó.

Chris đã lo liệu tất cả. Ông đã gởi điện tín báo trước cho khách sạn và nhân viên tiếp tân ở đây đã biết rõ tên bà.

Y nói :

– Thưa bà, có hoa gửi cho bà ở trong phòng đây ạ.

Chris gửi cả hoa đến cho bà nữa. Bà cầm bức điện tín trong tay và theo một tên tiểu đồng khác đến phòng khách của bà. Những bông hoa chờ đợi bà màu sắc rực rỡ, nhưng không có hương thơm. Laura cho tiền đứa nhỏ, khóa cửa lại, rồi mở bức điện tín ra đọc:

“Anh ở bên em – Anh ở bên em cả ngày lẫn đêm. Yêu em”.

Bỗng dưng Laura bật khóc, bà chưa từng khóc bao giờ, nhưng bây giờ những giọt nước mắt này làm cho lòng bà vơi bớt đau khổ. Chồng bà vẫn yêu bà, vẫn nghĩ đến bà. Ở nơi xứ lạ quê người này bà không còn lẻ loi cô độc nữa. Laura nhớ nhà, nhớ Chris, hẳn chồng bà cũng đau khổ vì cô độc. Ôi gia đình yêu dấu! Mong sao đừng có gì xảy ra có thể phá hủy hạnh phúc gia đình và nhất là đừng có sự yếu hèn nơi những con người đang tìm một gia đình để làm nơi nương ẩn. Bà tự ép mình phải kiên nhẫn và tha thứ. Không tha thứ thì quả là hẹp hòi và là tự đầy ải mình vào trong một nỗi cô đơn khủng khiếp.

Laura thức dậy vì những tia nắng đầu tiên từ một đỉnh núi rọi vào. Hôm qua bà chỉ nhìn thấy đường phố, nhưng hôm nay, từ cửa sổ, bà được ngắm toàn cảnh của đô thị – những ngôi nhà cổ, nho nhỏ, chen lẫn với những toà nhà tân tiến nằm trong một thung lũng. Dãy núi ở đây không giống như những ngọn đồi ở Vermont. Một dãy núi đá hùng vĩ được mặt trời tô điểm ánh nắng vàng. Chính tại nơi đây, Chris, chồng bà, đã đau khổ, đã chiến đấu, đã bệnh hoạn vì mệt mỏi và cô độc. Tim bà thắt lại vì xót xa. Laura nhớ đến những điều Chris kể lại cho mình nghe về cái quốc gia đau khổ này. Thế nhưng, chồng bà đã không nói gì về Sương cả. Nghĩ đến đây, tim bà cứng rắn trở lại.

Một giờ sau Laura xuống phòng ăn điểm tâm. Thực khách đều là người Mỹ, xen lẫn một vài người Triều Tiên mặc Âu phục. Đứng ở ngưỡng cửa, Laura đưa mắt tìm chỗ, nhưng chỉ còn một chỗ trống nơi một bàn hai ghế kê gần cửa sổ trông ra vườn. Bàn ấy đã có một người ngồi rồi, một người đàn ông Triều Tiên đứng tuổi, cao ráo, đẹp đẽ, nước da tái xanh và vẻ mặt nghiêm nghị. Một tên bồi bàn tiến đến nói :

– Xin bà cảm phiền, lúc này không còn chỗ.

Bà hất hàm về phía chỗ trống hỏi :

– Tôi muốn ngồi chỗ kia, được không?

Tên bồi bàn do dự, rồi tiến về phía người Triều Tiên. Người này ngẩng đầu, ngạc nhiên nhìn Laura và đứng ngay dậy chỉ vào chỗ ghế trống :

– Xin mời bà.

– Cám ơn ông.

Laura vừa nói vừa ngồi xuống ghế. Bà gọi thức ăn và trong lúc chờ đợi, bà nhìn ra cửa sổ: một vườn non bộ với những lối đi trải cát. Bà ngắm những bông hoa nho nhỏ nép mình giữa những hốc đá, và những cây cảnh nhỏ bé nghiêng mình là là trên mặt hồ nước tí hon. Bà liếc nhìn người đàn ông ngồi đôi diện mà không nói gì. Ông ta lên tiếng trước. Ông nói tiếng Anh rất sỏi :

– Thưa bà, bà cho phép tôi được tự giới thiệu?

Ông rút ra ở ví một tấm danh thiếp, để lên bàn trước mặt Laura. Bà khẽ đọc:

“Chu Dự Liên”.

– Nghiệp chủ – Giám đốc Dược phẩm cuộc. – Ông ta vừa cười, vừa đọc tiếp. Laura ngước mắt lên và bắt gặp nét nhìn đầy thiện cảm của ông Chu.

– Chào ông Chu.

Ông khẽ hỏi :

– Thưa bà, bà đi du lịch có một mình?

– Vâng. Tôi đi có việc nhà.

– Chắc bà ở lại đây lâu.

– Tôi mong rằng không phải ở lại đây lâu. Dạ, xin ông chớ hiểu lầm, vì tôi có việc bận phải về ngay. Vả lại, tôi ít có thì giờ đi du lịch. Thật tiếc, tôi chỉ ở lại được có mấy ngày.

Bà đoán ngay ông Chu là một người thượng lưu và giàu kinh nghiệm. Ông dùng điểm tâm theo lối người Anh: trứng chiên dăm bông, bánh mì nướng phết bơ, cà phê và trái cây.

Ông Chu nói :

– Xin bà thứ lỗi, tôi không dám khoe khoang. Thật tôi còn giữ được một kỷ niệm hết sức đẹp đẽ trong thời gian du học tại Đại học Yale năm 1935. Bây giờ, mỗi năm có việc trở lại đấy, tôi cảm thấy niềm vui như được đổi mới. Người nước bà thật hiếu khách.

Ông Chu ngập ngừng, rồi tiếp :

– Thưa, đây là lần đầu tiên bà sang Triều Tiên phải không?

– Vâng.

Một lần nữa ông Chu lại ngập ngừng. Laura cảm thấy đôi mắt đen và đẹp của ông Chu như ngạc nhiên, như dò hỏi. Bà vẫn im lặng.

Tên bồi bàn mang điểm tâm đến cho Laura, gồm có cam, cà phê, trứng gà “la coóc” và bánh mì nướng phết bơ, khi hắn ta đi khỏi, ông Chu tiếp :

– Một lần nữa, xin bà tha lỗi cho tôi về tội đường đột, nhưng quả thật tôi rất ít khi có dịp đền đáp lại lòng tử tế mà người nước bà đã dành cho tôi lúc tôi còn ở bên ấy. Nếu tôi có thế giúp bà được việc gì ở đây thì thật hân hạnh cho tôi lắm. Nhà tôi thất lộc năm ngoái nên tôi cư ngụ luôn tại đây. Cuối mỗi tuần tôi về thăm thân mẫu tôi một lần. Con trai tôi cũng đang theo học tại Đại học Yale, nơi mà tôi đã theo học ngày xưa. Tôi chỉ có mỗi một mình nó.

Laura chăm chú nhìn ông Chu, vừa lắng nghe ông nói, vừa nhủ thầm rằng chưa bao giờ bà nhìn thấy một người đàn ông nào xinh trai hơn, cao lớn, thanh lịch. Ông bận Âu phục màu xám bằng hàng Ănglê cắt may thật tuyệt hảo. Mái tóc hoa râm làm nổi bật đôi mắt đen tuyệt đẹp của ông. Ngoại trừ đôi mắt hạnh đào ấy, người ta có thể tưởng nhầm ông là người Ý, hay người Tây Ban Nha. Cử chỉ của ông hòa nhã, thái độ của ông thẳng thắn đã khiến Laura tin tưởng. Tự nhiên bà mở ví lấy tấm danh thiếp của Chris đã ghi địa chỉ của Sương ra hỏi :

– Ông có thể chỉ giùm tôi địa chỉ này không?

Ông Chu nhìn thấm danh thiếp, vẻ mặt trở nên nghiêm trọng :

– Địa chỉ này khó kiếm lắm, vì rất xa, ở mãi tận cuối thành phố. Bà đi đến đây bằng gì? Bằng xe hơi phải không ạ?

– Tôi đi taxi.

– Bà không đi một mình chứ?

– Tôi không quen ai ở đây cả.

Ông Chu suy nghĩ :

– Bà có thể đi với một bà nhân viên Tòa đại sứ Mỹ?

Laura liền cự tuyệt :

– Ồ, không. Đây là một việc riêng.

Ông Chu trả lại Laura tấm danh thiếp, bà bỏ vào ví. Ông ta ngồi im lặng, suy nghĩ, trong lúc Laura ăn nốt bữa điểm tâm. Khi bà ăn xong, ông Chu đẩy những chiếc đĩa ra xa, rồi bất chợt hỏi :

– Bà có cho phép tôi đưa bà đi không?

Ngạc nhiên, Laura từ chối :

– Không dám. Ông bận. Tôi sợ làm phiền ông.

– Tôi sắp đặt lại thì giờ và chỉ cần điện thoại về sở là đủ. Bà hãy tin tôi. Chúng tôi không dám để một người đàn bà ngoại quốc đi một mình ở một vài khu vực trong thành phố này. Nếu bà muốn, ngày mai tôi sẽ bảo cô thư ký của tôi đưa bà đi, vì quả thật, bà chưa hiểu tôi.

Laura bối rối :

– Thưa ông, không phải vậy.

– Chắc bà muốn đi một mình? Nếu vậy, tôi có thể chờ bà ở ngoài taxi.

Laura ngượng nghịu, bà cố gắng giải thích :

– Thật ra, tôi chẳng liên quan gì đến chuyện này cả. Đây là chuyện của chồng tôi.

– Vậy, bà đã có gia đình?

– Vâng. Tôi là bà Winters, Christopher Winters.

– Bà ở tỉnh nào?

– Tôi ở Philadelphie.

Một nụ cười nở ra trên khuôn mặt nghiêm nghị của ông Chu :

– À, Philadelphie, tỉnh này đẹp lắm! Tôi có đến nghỉ lễ Noel ở đây với gia đình ông bà bác sĩ Harmsworth. Bà có biết ông ấy không nhỉ?

– Có phải ông ấy là một nhà khảo cứu Đông phương nổi tiếng không?

– Vậy ra bà cũng có quen ông ấy.

– Chúng tôi có gặp nhau đôi ba lần.

– Vậy chắc bà con nhớ ông ta. Chúng tôi không thể nào quên ông ấy được. Tôi gọi ông ấy là “Người cha Mỹ của tôi”. Bây giờ ông già lắm rồi. Mỗi lần sang Mỹ, tôi đều đến thăm ông ấy. Con trai tôi hiện nay cũng tiếp tục truyền thống ấy, nó đến nghỉ hè tại nhà ông. Tiếc quá, vợ ông đã mất rồi!

Lỗng nhiên Laura cảm thấy bà có thể hoàn toàn tin cậy ông Chu và yên tâm có được một người bạn ở đây. Bà chậm rãi :

– Tôi rất sung sướng được ông đưa đi.

Ông Chu hỏi :

– Bao giờ bà đi?

° ° °

Trong khi xe chạy qua các đường phố Hán Thành. Laura quyết không nói thêm điều gì nữa. Ngay từ hồi còn bé Laura đã học được tính không bộc lộ tâm sự và cũng không giải thích thái độ của mình. Mẹ bà có mắng mỏ hay rầy la, bà chỉ trả lời bằng cách im lặng. Nhờ cái thói quen ít lời mà bà đã sống được một cuộc sống yên tĩnh.

Là một người trí thức và lịch sự, ông Chu không hỏi những gì mà Laura không thể trả lời. Trên đường, ông chỉ cho Laura biết các đền đài quan trọng. Ông hy vọng bà có thì giờ đi thăm các cung điện, các viện bảo tàng, và ông sẽ tự nguyện là người hướng dẫn.

Tươi cười, Laura nhã nhặn từ chối và liếc trộm cái khuôn mặt nhìn nghiêng tuyệt đẹp của ông Chu. Làm việc chung với đàn ông đã quen, nhưng lần này bà nhận thấy mình đang ở trước một người đàn ông khác lạ, không những chỉ khác lạ bề ngoài mà còn khác lạ cả trong tâm hồn nữa.

Ông Chu làm cho người ta liên tưởng đến một thứ ngà voi già, trơn tru, trắng đục, nhưng rắn chắc và quý giá. Phức tạp và khó hiểu thật – bà thầm nghĩ. Tự nhiên bà tin tưởng ông Chu, nhưng bà không chắc là…

Bà quan sát ông Chu với tất cả kiên nhẫn như quan sát một giống hải thực vật tại phòng thí nghiệm. Ông Chu vừa cứng rắn, vừa mềm dẻo, một sự mềm dẻo thiên bẩm. Ông đã tỏ ra ngay thẳng, không một chút e dè, tuy thế ông vẫn kín đáo. Ông biết đặt những câu hỏi khéo léo để Laura tùy ý trả lời.

– Thưa bà, bà là một nghệ sĩ phải không ạ?

– Không, tại sao ông nghĩ tôi là nghệ sĩ?

– Trông bà có vẻ như thế, bà vừa cởi mở vừa hiểu biết.

– Tôi là nhà sinh vật học.

– Một nữ sinh vật học? Như thế có mâu thuẫn không?

– Ở nước tôi, đàn bà theo học ngành sinh vật học không có gì mâu thuẫn, nhưng cũng không có nhiều. Cũng như ông, tôi đã học được và đồng thời tôi học thêm cả nghành hải dương học để có thể khảo cứu sinh thực vật ở dưới biển.

– Bà có đi thám hiểm để lấy mẫu về điều chế thuốc không? Ở nước tôi người ta cũng dùng hải sản để chữa bệnh.

– Có, tôi có tham dự các cuộc thám hiểm, nhưng không thường xuyên bằng hồi tôi chưa lập gia đình.

– Bà nghiên cứu loại gì?

– Kỳ thám hiểm cuối cùng, chúng tôi thu thập các loại phiêu tảo tại biển Panama.

– Chắc không phải chỉ có một mình bà?

– Vâng, tôi và ba nhà khoa học khác. Chúng tôi nghiên cứu về địa thế các đáy bể, tính chất của nước bể về phương diện vật lý và hóa học, những luồng nước và các sinh thực vật. Đó là một công cuộc khảo cứu trường kỳ. Mỗi người chúng tôi đều có trách nhiệm riêng. Phần tôi, tôi thường nghiên cứu về các cơ thể hải sinh thực vật có đặc tính vừa là sinh vật vừa là thảo mộc.

– À ra thế. Vậy thì quan trọng thật. Nhưng bà đã làm cho tôi ngạc nhiên.

Laura chưa kịp nói gì thì chiếc taxi đã đậu ngay trước một căn nhà nhỏ nằm giữa hai ngôi nhà lớn hơn. Ông Chu nói tiếng Triều Tiên với người tài xế, anh ta gật đầu. Ông quay sang Laura :

– Thưa bà, đã tới nơi. Nếu bà cho phép, tôi sẽ đưa bà vào giới thiệu, rồi ra xe đợi bà.

Nhưng lúc ấy Laura cảm thấy không thể nào một mình đương đầu nổi với thử thách. Bà nói :

– Ông làm ơn đưa tôi đi. Tôi không hiểu gì hết. Tôi xin nói để ông rõ, tôi đến đây để tìm một đứa trẻ và mẹ của nó.

– Nếu vậy thì…

Ông Chu xuống xe và ra hiệu cho tài xê ngồi chờ.

– Bây giờ, bà cho phép tôi vào trước để hỏi thăm xem đã. Thưa bà, người ấy tên là gì?

– Cô ta tên Kim Sương.

Ông Chu bình thản gõ vào cánh cửa mở hé và hắng giọng thật to. Một bà già bận áo cộc xanh và váy đen, vá nhiều chỗ, đi ra mở cửa. Hai người trao đổi vài câu, rồi ông Chu quay lại nói :

– Thưa bà Winters, cô Sương còn ngủ. Cô đi làm đêm ở… làm đêm nên dậy muộn. Đây là bà cụ thân mẫu cô Sương. Bà cụ mời bà vào nhà chơi. Bà cụ sẽ đi đánh thức cô ấy.

Laura ngẫm nghĩ, định quay trở về.

Bà hỏi :

– Nhà có đứa trẻ nào không ông?

Ông Chu chuyển câu hỏi sang bà cụ và dịch câu trả lời :

– Có.

– Con trai phải không ạ?

– Con trai.

– Nó có nhà không ạ?

Bà cụ lắc đầu rồi nói một thôi một hồi. Ông Chu giơ tay ra hiệu bảo bà cụ im và dịch lại :

– Bây giờ nó không có nhà. Nó nghịch ngợm lắm, trốn đi chơi, đói mới mò về. Bà cụ và mẹ nó không ai trị nổi nó. Nó là một đứa trẻ khó dạy. Nó mới có mười một tuổi.

– Để tôi vào nhà. Tôi muốn gặp mẹ nó để nói chuyện. Tôi ân hận đã làm cô ấy thức dậy khi cô còn mệt. Nhưng tôi ở xa đến và muốn trở về ngay càng sớm càng tốt.

Ông Chu trịnh trọng nói :

– Vâng, thưa bà tôi hiểu.

Hai người bước vào một căn phòng nhỏ, đồ đạc ngổn ngang, nền nhà sạch như chùi. Một chiếc bàn thấp, vài quyển sách, mấy chiếc đệm để ở đất. Một bức tranh phong cảnh treo trên tường, loại tranh cuốn. Ngoài ra không có thứ đồ gỗ nào khác. Bà cụ vỗ vỗ vào chiếc ghế đệm. Ông Chu nói :

– Bà cụ mời bà ngồi.

Hai người ngồi xuống đệm. Bà cụ đi khỏi.

Họ im lặng chờ đợi, Laura tự hỏi không biết có nên giải thích cho ông Chu rõ vì sao bà đến đây hay không, nhưng rồi với thói quen cố hữu, bà giữ im lặng. Bà mới biết ông Chu cách đây có mấy giờ và có lẽ không còn gặp lại ông nữa. Bà nhìn ông Chu và mỉm cười tỏ lòng biết ơn. Ông Chu giải thích như để bào chữa :

– Gia đình này nghèo quá. Tôi không biết cô Sương làm nghề gì. Nếu cô đã lấy chồng, có lẽ người chồng làm công cho một tiệm buôn, hay nhân viên bưu điện, hoặc một nghề gì tương tự. Tôi không nghĩ là chồng cô ấy ở trong ngành giáo chức, trừ phi là giáo viên Tiểu học. Có thể cô ấy là “gái bán ba”. Phần nhiều các cô “bán ba” có chồng đều đi làm buổi tối, khi người chồng đã trở về trông nom con cái. Hơn nữa, cô Sương còn mẹ già phải nuôi dưỡng và có lẽ người chồng cũng phải đi làm đêm, vì giá sinh hoạt đắt đỏ quá!

Laura không trả lời. Cánh cửa mở từ từ, Sương đứng ngoài ngưỡng cửa. Laura nhận ra ngay. Sương không còn ở cái thuở ban đầu của tuổi trẻ nữa. Nàng đang trong cái thời kỳ mà sắc đẹp nảy nở trọn vẹn. Nàng mặc quốc phục Triều Tiên, váy dài màu sẫm, thân áo trên màu trắng có thắt dây phía trước. Mái tóc của nàng đen nháy, cột thành búi trên gáy và dưới hai hàng mi tô đậm nét, đôi mắt nàng dịu dàng làm tươi khuôn mặt trắng xanh. Trông nàng thật dịu hiền, thật mềm mại và thật duyên dáng, đến nỗi Laura không thể nào không có thiện cảm. Bà tự tin vào thiên tư của mình và biết rằng cái tình cảm đầu tiên này đã dứt khoát. Lúc ấy Laura mới thành thật nhìn nhận rằng trước đây bà đã muốn coi Sương như một tình địch.

Bà đã nói với chồng :

– Em sẽ mặc người đàn bà ấy vì không muốn mắc mớ gì với cô ta. Nhưng còn đứa trẻ, nó là con anh, em muốn nó được đi học, không phải ở đây mà ở quê hương của nó.

Chris đã ngạc nhiên nhìn vợ :

– Ừ, thì ở quê hương của nó chứ sao.

Sương từ ngoài bước vào nhè nhẹ với đôi giày vải đế cao su. Nàng đến trước ông Chu và nói một tràng dài, giọng nàng trong thanh như giọng một đứa bé gái. Ông Chu lắng nghe, mỗi lúc một ngạc nhiên hơn, môi ông như mím lại.

Laura hỏi :

– Cô ấy nói gì đây ông?

– Cô ấy bảo là cô ấy biết tôi. – Ông Chu trả lời một cách vắn tắt.

Laura chờ đợi, rồi bà lại hỏi :

– Cô ấy có nói gì khác không ông?

– Không. Bây giờ thì tôi nhớ ra cô ấy rồi.

Bà do dự, nhận ra sự bất lực của mình. Sương đã ngồi xuống và câu chuyện giữa hai người trở nên tương đắc như muốn bỏ quên Laura. Mẹ Sương bước vào, bà cụ ngồi xổm dưới đất, dựa lưng vào tường, ở ngoài cửa, trẻ con lối xóm tò mò bu lại, xô đẩy chen lấn nhau để được coi cho rõ. Ông Chu làm nghiêm, đe dọa, chúng mới tản đi chỗ khác. Nhưng khi câu chuyện tiếp tục, chúng lại lò dò bu đến trước cửa như cũ.

Laura chờ đợi; mới có nửa giờ mà bà xem như đã suốt buổi. Khi ấy ông Chu mới quay sang nói với bà :

– Xin bà tha lỗi. Cô Sương đang có chuyện xích mích với chủ phố. Con cô ấy ngỗ nghịch nên người ta muốn cô ấy dọn đi nơi khác. Hình như nó đã ăn cắp đồ của lối xóm. Cô ấy không có chồng lại phải nuôi mẹ già con dại.

Laura hỏi :

– Thế cô ấy làm ở đâu?

Hơi khó nói, ông Chu lấy khăn thấm mồ hôi trán và lau tay :

– Tôi sẽ giải thích với bà sau. Cô Sương đã cho tôi biết nỗi lo lắng chính của cô. Con cô ấy không phải như những đứa trẻ khác. Nó là con của một người Mỹ. Cách đây mười hai năm, khi cuộc chiến chấm dứt, Sương đã gặp người Mỹ ấy ở đây. Hai người sống với nhau được một năm thì người Mỹ ấy về nước. Ông ta hứa sẽ trở lại và Sương hy vọng sẽ được làm lễ cưới. Lúc bấy giờ thằng bé mới được một tháng. Rồi từ bấy đến nay Sương không nhận được tin tức gì của người Mỹ ấy nữa. Bây giờ cô ta phải một mình nuôi dưỡng nó. Trách nhiệm đâu phải là cô ta.

Laura lắng nghe, tim đập mạnh. Bà không phản bội Chris. Nhưng bà mong được họ tin rằng bà đến đây với tư cách một người bạn, chứ không phải một người vợ.

Bà nói :

– Sao? Đây là trách nhiệm của cô ấy chứ. Cô ấy là mẹ đứa bé mà.

Ông Chu bình tĩnh lắng nghe, hai bàn tay để trên gối :

– Ở nước chúng tôi, người cha có trách nhiệm về đứa trẻ. Không cha thì không có gia đình, đứa trẻ sẽ là đứa con hoang. Nó sẽ không được đi học và không thể kiếm được việc làm, vì không được người cha khai sinh cho. Đối với chúng tôi, nó kể như không có. Không có gia đình bảo vệ, người ta xem nó như chưa ra đời.

Laura kêu lên một cách bực bội :

– Kỳ cục thật! Nếu đứa trẻ đã ra đời, thì nó phải ở đây, nó phải sống chứ?

– Nhưng không được hợp pháp.

Laura im lặng; thật là một thế giới kỳ dị, lạ lùng, bà không làm sao hiểu nổi… Bà quay nhìn Sương, ánh mắt như van lơn. Là bạn đàn bà với nhau, chắc hẳn giữa hai người đã có sự liên đới, cảm thông? Như để đáp lại nét nhìn van lơn cầu khẩn ấy, Sương đứng dậy đến chiếc bàn thấp. Nàng rút ngăn kéo lấy chiếc phong bì bọc trong một vuông lụa. Nàng cầm hai tấm hình đưa cho ông Chu và dịu dàng giải thích.

Ông Chu nhìn hai tấm hình, rồi trao cho Laura và nói :

– Đây là hình của cha đứa bé.

Laura không muốn nhìn hai tấm hình ấy, nhưng cứ cầm xem. Đúng Chris rồi, Chris của thời xuân trẻ mà Laura đã yêu say đắm với một mối tình trinh nguyên, e lệ, trong sáng và hạnh phúc. Tấm hình chụp Chris mỉm cười quàng vai Sương; Sương rất tươi trẻ, sung sướng ngước mắt nhìn chàng. Tấm hình kia chụp Chris bế con và Sương đứng tựa đầu vào vai chàng.

Laura buồn rầu tự nhủ: “Ta chưa bao giờ được diễm phúc nhìn Chris bồng con ta trong lòng”.

Bà nén khổ đau trả lại Sương mấy tấm hình và từ phút ấy bà cảm thấy cần nói chuyện với cô ta.

– Cô còn nói được tiếng Anh không?

Sương lắc đầu :

– Bây giờ tôi còn nói được ít lắm.

Ông Chu khuyến khích :

– Cô đừng ngại. Bà đây là bạn, bà đến đây để gặp cô.

Sương chỉ tay vào ngực nàng :

– Để gặp tôi?

– Vâng. Tôi từ xa đến đây để gặp cô.

Nếu bà không nói rõ sự thật thì làm sao có thể tiếp tục câu chuyện được? Bà liếc nhìn Sương và ông Chu. Bà thấy trên khuôn mặt hai người một sự ngạc nhiên rất lễ độ, một sự kiên nhẫn đầy xã giao, họ im lặng như chờ đợi, như tò mò. Sương châm thêm trà nóng vào mấy cái tách để trên bàn. Chu cầm một tách trà lên vừa uống từng ngụm lớn vừa xuýt xoa. Sương ngồi ở chiếc đệm giữa nền nhà, khoanh tay trên gối. Cả hai đều nhìn Laura, chờ đợi. Laura hiểu rằng đã đến lúc phải nói hết. Bà mở ví lấy ra một khung ảnh bằng da. Đây là hình của Chris, chồng bà đang mỉm cười, nhưng Chris không còn trẻ như xưa nữa. Nét nhìn ngay thẳng. Laura lẳng lặng trao tấm hình cho Sương.

Sương chăm chú nhìn một hồi lâu, rồi quay sang Laura :

– Chính anh ấy!

Giọng Sương nhỏ như tiếng thì thầm, nhưng Laura vẫn nghe và gật đầu. Sương đưa tấm hình cho ông Chu. Ông Chu quan sát :

– Cô ấy bảo đây là hình của cha đứa bé.

Laura bình tĩnh :

– Vâng.

Bà cảm thấy xây xẩm, tai ù, tim đập mạnh. Ông Chu quay sang hỏi Sương một câu bằng tiếng Triều Tiên. Nàng trả lời, một cách chậm rãi và rõ ràng :

– Chrit-to-pha Winter-s.

Ông Chu trao tấm hình lại cho Laura, và nói :

– Thưa bà, bà là một người chân thật, can đảm và độ lượng.

Laura sửng sốt thấy nước mắt mình trào ra và chảy dài xuống má. Bà tìm chiếc khăn tay của mình mà không thấy, nên đã nhận chiếc khăn lụa của ông Chu để lau nước mắt.

Bà nói :

– Tôi muốn được nói chuyện riêng với ông. Chúng ta ra xe thôi.

– Vâng, xin tùy ý bà.

Ông Chu đáp rồi dịch lại cho Sương nghe. Sương đứng dậy ngập ngừng. Cô bước đến bên Laura như muốn nói điều gì, nhưng Sương đã không nói, và Laura cảm thấy có một bàn tay nhè nhẹ lướt qua má bà như một cánh bướm.

Vào trong xe, ông Chu nhìn Laura ngồi bên cạnh, tay mang găng và đặt trên cái xắc. Từ khi rời khỏi ngôi nhà nhỏ bé của Sương, Laura không nói một lời. Bà bắt gặp nét nhìn của ông Chu và cố mỉm cười mà không được. Mặc dầu chỉ có hai người, nhưng bà cũng chẳng nói được lời nào.

Những con đường phố đông đúc với những tấm bảng hiệu khó hiểu này và những ngọn núi lạnh lùng vây quanh thành phố, tất cả đổi với bà đều có vẻ xa lạ, cả người đàn ông này nữa, đang ngồi ở bên cạnh bà, cũng là một kẻ mà bà chưa hề quen biết. Đi đâu một mình với ông ta bây giờ? Hơn nữa, bà đã nhất định nói chuyện với ông ta chưa? Bà chưa hề biết thổ lộ tâm tình với ai. Ít nói ngay từ hồi còn nhỏ, và sau này lấy chồng cũng vậy, tình yêu của bà được biểu lộ bằng hành động hơn là bằng lời nói. Nhưng, sáng nay, Chris ở quá xa, quanh bà chẳng có ai trừ người đàn ông này tình cờ bà đã gặp hồi sáng và có lẽ phải nhờ cậy vì ông ta là người nói được tiếng Anh.

Ông Chu hỏi :

– Bà mệt phải không? Bà nên uống một tách trà hay ăn một chút gì cho lại sức. Bây giờ cũng đã quá ngọ rồi. Tôi muốn mời bà…

Ông ngập ngừng, rồi tiếp :

– Ờ phải. Sao lại không nhỉ? Bà là người Mỹ. Tôi biết rõ phong tục của người Mỹ. Xin mời bà lại nhà tôi dùng cơm. Ở đây chúng ta có thể nói chuyện với nhau. Mẹ tôi đã già, không biết nói tiếng Anh, nhưng cụ sẽ hài lòng được biết bà. Cụ vẫn nhớ ơn người Mỹ đã tử tế với tôi hồi còn du học ở xứ bà. Sau tôi, bây giờ con trai tôi cũng được hưởng cái ân huệ ấy.

Laura khẽ nói :

– Xin đa tạ ông.

Chiếc xe lao mình qua những đường phố đông đúc, inh ỏi tiếng còi rồi rẽ vào một đám đông như một con tàu rẽ sóng. Ông Chu im lặng mãi cho đến khi hai người ra khỏi thành phố, tới một con đường trồng dầy bạch dương dẫn đến một chiếc cổng gỗ, sơn đỏ, tường gạch. Sau tiếng gọi của người tài xế, một lão bộc ra mở cống.

Xuống xe, ông Chu giới thiệu :

– Đây là ngôi tổ đình của chúng tôi.

Ông dẫn Laura đi qua một khu vườn rộng rãi tĩnh mịch, có ngôi nhà một tầng xinh xắn, mái ngói cong cong, cột kèo đều sơn son đỏ chót rất chắc chắn.

Laura nói :

– Ở đây thật yên tĩnh.

– Bây giờ mới được yên tĩnh vậy đây. Hồi trước, người Nhật và sau đó, người Mỹ chiếm ngụ đâu có được như thế này. Chúng tôi mới thâu hồi lại được mười hai năm nay.

Một tỳ nữ đợi hai người ở cửa để cởi giày da và mang giày vải cho họ. Ông Chu khẽ bảo cô ấy lui ra và giải thích với Laura :

– Cô ấy đi báo tin cho bà cụ tôi biết là chúng ta đã về. Trong lúc chờ đợi, xin bà nghỉ ngơi chút đã, vội chi. Mời bà ngồi dậy. Chỗ này bà có thể trông ra vườn và hồ nước. Sau mùa đông, mùa này là mùa vạn vật được hồi sinh. Tôi mong đó là một điềm lành cho bà.

Gian phòng rộng rãi, trang hoàng theo lối Tây phương: một bộ salông, một chiếc đi-văng, một tấm thảm và màn gió hai lớp bằng xa tanh vàng óng ánh. Một trong những tường ngăn là một cánh cửa lùa, nhưng người ta không thể nào biết được sau đó có gì, Laura ngồi xuống ghế, bà nhìn ra lối đi lát đá, ngoằn ngoèo qua sân cỏ, dẫn đến một hồ nước, xa xa thấp thoáng những mái nhà cong cong.

Ông Chu mở một hộp sơn mài, khảm xà cừ hình một cành đào màu hồng, lấy thuốc ra mời Laura, nhưng bà lắc đầu từ chối. Ông Chu châm thuốc hút một mình. Người tớ gái đã bưng khay trà lên, một người khác bưng đĩa bánh mứt theo sau.

– Mời bà giải lao, rồi nghỉ ngơi cho lại sức. Bà bị xúc động nên mệt mỏi đấy.

Laura uống trà trong cảnh yên lặng và cảm thấy khỏe khoắn. Khi bà đặt chiếc tách xuống bàn, ông Chu châm đầy thêm trà nóng. Hai người nhìn nhau và bà nhận thấy đôi mắt ông đầy khích lệ.

Bà nói :

– Tôi thật có lỗi, không biết ông quen vđi cô Sương.

– Mọi người đều biết cô ấy. Mời bà xơi bánh. Bà cụ tôi làm đây. Chúng tôi rất thích thứ bánh này.

Laura cầm bánh lên ăn và khen :

– Ngon tuyệt! Mà sao ai cũng biết cô Sương vậy hả ông?

– Cô Sương nổi tiếng vì nghề nghiệp của cô ta. Bà có thể coi cô ta như một người chủ chứa, nhưng cô ta không phải là hạng người tầm thường. Bà cũng đã nhìn thấy nếp sống giản dị của cô ta. Trước đây, nhà cửa của cô ta, địa chỉ của cô ta ở đâu tôi cũng không biết. Ngay cả tên thật của cô ta tôi cũng mù tịt, vì tên gọi trong nghề là một tên khác. “Nhà Hoa” của cô được nổi tiếng là sang trọng, nhiều gái đẹp và hợp thời trang. Cô ta đã dạy cho họ ca và múa, mặc dầu cá nhân cô không còn hành nghề ca hát như xưa. Cô đặt ra một quy lệ hết sức khắt khe, là khách hàng phải là người Triều Tiên, thuộc hạng sang giàu và chịu chi nhiều tiền.

Ông Chu có thường lui tới chơi bời ở “Nhà Hoa” này hay không? Ông không nói ra. Tuy vậy, ông quen biết Kim Sương. Ồ, mà quan hệ gì đến bà? Bà đến đây chỉ vì Chris.

Bà sắp xếp câu chuyện cho có thứ tự và tiếp :

– Mười hai năm trước, nhà tôi đến xứ Triều Tiên. Anh ấy đã gặp cô Kim Sương khi cô còn là một thiếu nữ. Hai người đã có với nhau một đứa con. Lâu nay nhà tôi chẳng nói gì với tôi về chuyện ấy cả. Gia đình chúng tôi sống trong hạnh phúc. Có lẽ chồng tôi chẳng có lý do gì để nói ra chuyện ấy, phần tôi thì tin tưởng rằng hai chúng tôi chẳng có gì giấu diếm nhau. Nhưng vừa rồi đây đứa trẻ đã viết thư cho nhà tôi để phàn nàn rằng nó chẳng được đi học. Tôi đến đây để…

Ông Chu nghiêng về phía Laura và thân mật hỏi :

– Bà Winters thân mến, bà muốn nói rằng ông nhà đã gởi bà sang đây để…

Laura cắt ngang :

– Thưa ông, tôi sang đây là hoàn toàn do ý tôi muốn. Chúng tôi đang trải qua một giai đoạn khó khăn. Nhà tôi không thể nào vắng mặt đi xa được. Vả lại, tôi cũng cảm thấy trách nhiệm của mình đối với tương lai của đứa trẻ đó. Tôi không muốn con trai của chồng tôi phải sống trong sự ngu dốt, và…

Laura ngập ngừng, và vì bản tính chân thật, bà không thể nói dối, bà tiếp :

– Và… tôi cũng muốn xem cho tận mắt người đàn bà ấy ra sao.

Ông Chu dịu dàng nói :

– Còn gì tự nhiên hơn! Bà yêu chồng. Trong bất cứ quốc gia nào, dân tộc nào, người vợ cũng đau khổ khi khám phá ra bóng dáng một người đàn bà khác trong đời sống của chồng mình.

– Chúng tôi đã thỏa thuận với nhau.

Bà nhìn ông Chu và đọc được trong đôi mắt ông biết bao niềm thông cảm, xót thương, đến đỗi bà không cầm được nước mắt. Tuy nhiên, bà đã cố mỉm cười nói tiếp :

– Vợ chồng chúng tôi sống hạnh phúc. Ngay cả… bất cứ điều gì xảy ra cũng không thể nào chia rẽ chúng tôi được. Điều đó xem ra khó tin, nhưng chúng tôi hiểu biết lẫn nhau và mỗi người cố gắng hòa dịu… chia sẻ…

Ông Chu trịnh trọng :

– Tôi hiểu. Nhưng vết thương còn đây phải chữa chạy cho nó lành đã. Bà đến đây trước tiên là để gặp cô Sương, sau đó mới đến đứa bé, có phải như thế không ạ? Vậy thì, thưa bà, bà nghĩ sao về cô Sương?

Laura nghĩ ngợi :

– Tôi cũng không rõ nữa. Trong trường hợp này, tôi đành phó thác cho tình cảm hơn là lý trí. Cô ta là một người dịu hiền và đáng thương.

– Ồ, thế nhưng cô ta cứng như thép đấy!

– Nhưng cô ta đã vuốt vào má tôi.

– Cô ta cũng có lòng thương hại.

– Thương hại tôi sao?

– Thương hại một người đàn bà khác. Đối với bọn đàn ông, cô ta chẳng có mơ tưởng gì. Bà nên nghe cô ta khuyến cáo lũ người làm công.

Ông cười thầm và tiếp :

– Tôi biết cô ta rất nhiều… biết nhiều lắm. Vả lại, tôi là khách hàng của cô ta. Bà nên biết, cô ta rất nổi tiếng. Cô ta hận… hận đời và trả thù đời bằng cách từ chối không tiếp bất cứ người khách ngoại quốc nào. Không một người Tây phương nào kể cả người Mỹ không được phép bước vào ngưỡng cửa “Nhà Hoa” của cô. Cô ta thường bực tức nói “bọn ấy chỉ đáng được tiếp ở những nơi mạt hạng!” Những người Triều Tiên sang giàu, chịu chi nhiều tiền, ít ra họ cũng tin được rằng gái ở “Vạn Hoa đình” không có tiếp khách ngoại quốc, hoặc tiếp những hạng người mạt lưu trong xã hội. Chúng tôi biết rằng gái tại đây đều sạch sẽ được chọn lựa kỹ càng và nhất là họ đều là người Triều Tiên.

Laura ngồi nghe, công phẫn và kinh ngạc, nhưng nhạy cảm về tính cách bi hài của hoàn cảnh. Thật đáng thương cho Chris…

Bà hỏi :

– Cô ta luôn luôn hận đời như thế sao?

– Không, không phải luôn luôn như thế. Lần đầu tiên tôi gặp cô ta…

Ông Chu ngập ngừng, khẽ ho khan.

– Xin ông cứ nói, đừng ngại. Chúng ta đều đã trải qua giai đoạn đó cả rồi. Mặc dầu chúng ta vừa mới quen biết nhau.

Ông Chu cười :

– Vâng, bà là một người một người rất hiểu biết. Khi tôi gặp cô Sương, cô ấy chưa làm chủ cơ sở làm ăn bây giờ. Cô ta hát và vũ tại một nhà khác rất nổi tiếng. Nói tóm lại cô ta là một vũ nữ. Tôi đã bị thu hút bởi vẻ buồn ray rứt tiết ra từ khuôn mặt của cô, ngay cả khi cô diễn xuất một màn hài hước cũng thế. Tôi đã cho mời cô đến ngồi bàn với tôi và chúng tôi bắt đầu nói chuyện. Cô cho tôi biết cô phải nuôi mẹ già và con dại. Mãi sau này tôi mới rõ sự thật về thằng bé ấy và biết rằng cô Sương vẫn còn nuôi hy vọng gặp lại người cha, mặc dầu ông ta chưa bao giờ trả lời thư cô ấy.

Ông cười :

– Tôi nhớ lại hồi đó tôi cũng có ghen hờn đôi chút. Nhưng tôi biết rõ cô Sương chẳng có nhận được thư từ gì cả, nên tôi đã khuyên cô mở một nhà hàng riêng. Tôi đã cho cô mượn tiền và sau đó cô đã trả lại đầy đủ. Cô Sương là một người đàn bà đáng tin cậy.

Laura thầm nghĩ và lấy làm ngạc nhiên rằng sự tình cờ quả đã run rủi bà gặp được nhiều điều hay, xui khiến bà gặp ông Chu, một người quen biết với Kim Sương. Bà chưa kịp nói gì thì người tớ gái đã hiện ra ở ngưỡng cửa và nói gì với ông Chu bằng tiếng bản xứ.

Ông Chu quay sang bà :

– Thưa bà, mẹ tôi đã sẵn sàng xin mời bà.

Người tớ gái đưa Laura và ông Chu vào gian phòng chính mà các bức tường gỗ ngăn dọc hành lang đã được mở rộng để có thể nhìn thấy các phòng khác chung quanh. Gian phòng tuyệt đẹp, sàn nhà sạch bóng như gương, những tấm đệm ngồi bọc nhung đỏ và xa-tanh đen, một cái bàn chân quỳ thấp và các tủ sách đều bằng gỗ sơn mài khảm xà cừ lóng lánh. Một bà cụ vóc người nhỏ nhắn đang ngồi đợi trong phòng. Dưới mái tóc bạc như tuyết, khuôn mặt của bà cụ vẫn còn giữ được những đường nét thanh tú với đôi mắt đen nồng ấm sáng ngời.

Ong Chu nghiêng mình chào và nói đôi lời bằng tiếng Triều Tiên. Bà cụ nhìn Laura, vẻ mặt cụ vẫn trang nghiêm. Bằng một giọng nói trầm bổng và hơi gay gắt, cụ hỏi một câu. Ông Chu thông dịch lại :

– Mẹ tôi muốn biết, bà đã có mấy cháu rồi?

– Tôi không có con.

Bà cụ nói và ông Chu dịch :

– Mẹ tôi khen bà đẹp, nhưng cụ không thích màu tóc và màu mắt của bà.

Nhận xét này đã khiến Laura bật cười :

– Tôi thường tiếc rằng mình không có được một mái tóc màu đen và đôi mắt đen. Nhưng biết làm sao được. Trời sinh ra sao đành phải chịu vậy.

Ông Chu thông dịch lại cho mẹ ông nghe, khiến một nụ cười phớt ra trên khuôn mặt trắng ngà của bà cụ.

Bà cụ khẽ nói với ông Chu và ông nghiêng mình nói với Laura :

– Cuộc diện kiến chấm dứt. Mẹ tôi sống gần như một thanh tu, không quen nói chuyện nhiều. Chúng tôi không bao giờ dám làm gì trái ý cụ và cụ càng sống lâu chúng tôi càng hãnh diện. Bà cụ là trung tâm điểm của gia đình.

Laura cúi thật thấp để chào bà cụ. Ông Chu kéo khép bớt một cánh cửa lùa để ngăn làn gió nhẹ từ vườn khẽ phất vào. Sau đó, ông đưa Laura ra xe, chiếc xe đang đậu chờ họ trước cổng.

Ông nói :

– Sau nửa ngày dài, bà đã mệt. Tôi xin đưa bà trở về khách sạn và nếu bà còn cần đến tôi thì chúng ta sẽ gặp nhau lại vào sáng mai…

Trên đường trở về khách sạn, lối nửa giờ đồng hồ, cả hai đều im lặng. Phải, Laura đã thấm mệt, bà bị bao vây bởi quá nhiều điều mới lạ và đồng thời quá nhiều xúc động. Sự im lặng này đã làm cho bà bình tĩnh trở lại.

Về đến khách sạn, ông Chu đưa bà tới tận cầu thang máy. Ông lễ phép nghiêng mình chào bà một cách thản nhiên và bà trở về phòng. Bà ngạc nhiên nhìn thấy trên bàn có một chậu sứ màu xanh, trồng một cây mận nhỏ đang trổ hoa mà những cành hoa mỏng manh lóng lánh bạc dưới ánh nắng trời chiều.

Bà liếc nhìn tấm danh thiếp và biết rõ đây là món quà của ông Chu. Không rời Laura một bước sao ông có thể mua được món quà này để tặng bà, có lẽ ông đã sai người đầy tớ gái. Dầu sao, ông cũng đã tế nhị nghĩ đến bà đang cô độc. Cây mận tượng trưng cho một cuộc sống trường tồn. Cuộc sống? Cuộc sống khá mệt nhọc đối với bà ngày hôm nay, bà chỉ muốn trốn thoát. Ở nhà bà có thể lẩn tránh vào phòng thí nghiệm hoặc có thể là dưới đáy biển sâu. Nhưng trong phòng khách sạn này thì chỉ có thể lánh mình vào giấc ngủ.

° ° °

Khi Laura thức dậy thì trời đã rạng đông. Bà lấy làm lạ là bà đã ngủ rất ngon, không mộng mị, bây giờ không còn âu lo mệt nhọc gì nữa. Ngay cả sự nôn nóng bứt rứt như lúc ban đầu bà đến xứ này cũng đã biến mất. Vì thế bà nằm rán thêm một giờ nữa. Sau đó, bà dậy rửa mặt, đánh răng, và khoan thai thay áo quần.

Laura đi xuống phòng ăn, mặc dầu trời vẫn còn quá sớm. Bà chỉ nhìn thấy ở đấy có ba chàng thanh niên; ông Chu chưa tới vì lúc ấy còn quá sớm, vả lại bà muốn ngồi một mình. Bà muốn đi dạo sau bữa điểm tâm, rồi viết thư cho chồng. Sau đó, bà sẽ quyết định.

Khi Laura bước ra khỏi khách sạn thì đường phố đã tấp nập, đàn ông đi làm, đàn bà đi chợ, trẻ con đi học. Trên đường phố, cũ mới, sang hèn lẫn lộn. Phía trước khách sạn, nơi một khoảng đất tâm điểm của một ngã tư, có hai người phu đang lăng xăng thay những chậu kiêng nặng nề. Dường như họ đang bàn cãi nhau một cách linh động về việc làm sao xếp dọn cho được những chậu cây kiểng màu lá khác nhau. Laura nhìn họ và thích thú với ý nghĩ rằng, các điệu bộ ấy và cái khung cảnh ấy, có thể nhìn thấy trên bất cứ một quốc gia nào khác.

Bỗng nhiên bà cảm thấy như có ai đang rụt rè kéo chéo áo mình. Bà quay phắt lại và nhìn thấy năm sáu đứa trẻ áo quần rách rưới đang chìa những bàn tay dơ bẩn về phía bà để xin tiền.

Trước đây, chồng bà đã từng căn dặn :

– Em đừng có cho tiền lũ ăn mày. Bọn trẻ con cũng thế, đừng cho. Nếu không, em sẽ bị chúng quấy rầy mãi.

Bà sắp bỏ đi thì chợt nhìn thấy xa xa có một con bé gầy gò, khó lòng xác định được tuổi tác nó bao nhiêu. Không cần nghe đến tiếng van xin của lũ trẻ ăn mày, bà tiến về phía con bé. Bà đưa một ngón tay đỡ cằm nó lên để xem mặt. Hai mắt nó nhỏ và xếch, nhưng không phải màu đen mà là mắt thau, óng xanh xanh. Tuy đầu tóc dơ bẩn và rối tung, nhưng người ta cũng có thể đoán được nó màu hung hung đỏ chớ không phải màu đen. Đứa bé không có dáng dấp mảnh khảnh của giống người châu Á, chân tay nó to lớn hơn những đứa trẻ khác. Thế thì nó không phải là một người châu Á rồi.

Bà cúi xuống để nhìn cho kỹ hơn khuôn mặt của con bé. Mặt nó đầy cáu ghét nhưng rất xinh đẹp, tuy nhiên buồn ảm đạm.

– Con cái nhà ai như thế này?

Bà khẽ nói với nó, mặc dầu bà biết nó không hiểu.

Lũ trẻ ăn mày vây quanh Laura im lặng tò mò. Thằng bé lớn nhất thấy bà chú ý đến con nhỏ, liền cầm lấy tay nó, ép nó xin tiền. Nhưng con bé cưỡng lại vụt chạy đi một cách nhanh chóng và mềm mại.

– Ồ, nó chạy mất rồi!

Laura gạt lũ trẻ sang một bên và đuổi theo con bé. Bà đi vòng quanh khách sạn và tìm thấy nó đang đứng trước cửa nhà bếp, thông ra một con hẻm nhỏ. Bà nép mình vào một góc tường của khách sạn và quan sát đứa trẻ. Nó có vẻ như đang chờ đợi ai. Trong khi bà đang tìm hiểu thì chợt thấy một người lao công trong khách sạn mở cửa bếp và khuân một giỏ rác ra đường hẻm. Đứa trẻ nhìn quanh để được chắc rằng không có ai rình rập mình. Rồi nó thọc tay vào giỏ rác lục kiếm đồ ăn thừa. Nó ăn ngốn ăn ngấu những gì nó kiếm được nhanh như một con thú.

Biết làm gì bây giờ đây? Có nên ló mặt ra không? Thế nào con bé cũng bỏ chạy. Nhưng ví thử như bà có giữ nó lại được thì bà sẽ giúp đỡ nó bằng cách nào? Những đứa trẻ loại này thiếu khối! Bà đến đây để tìm một thằng bé và đã tìm ra rồi. Hoặc ít nữa là bà đã tìm ra chỗ ở của nó. Không, bà không nên mất công dây dưa vào những đứa trẻ khác. Bà sinh quán tại thành phố Boston, nơi mà con người vốn nổi tiếng là dè dặt và thận trọng. Ở đấy, người ta lo cho bản thân mình trước sau đó mới…

Nhưng con bé tóc hung đã nhìn thấy bà. Nó bốc lấy một nắm đồ ăn và vùng chạy nhanh như chớp, biến mất vào một khúc quanh của con đường hẻm. Laura không còn đuổi theo nó nữa, quay trở ra đại lộ, nhưng bà hết muốn đi dạo phố. Bà trở về khách sạn và bắt đầu viết thư cho chồng.

Lá thư này thật khó viết biết bao? Tuy nó không mấy dài nhưng hầu như là bà đã phí mất cả một buổi sáng. Làm sao để diễn tả cho được cảm tưởng của ông Chu về Kim Sương – sự trái ngược giữa việc hai bàn tay của Sương đã vuốt nhẹ lên má bà với câu nói của ông Chu, rằng: “Cô ta cứng như thép” Và rồi, bà vẫn còn chưa gặp đứa bé cơ mà. Tuy vậy, viết thư cho Chris, Laura vẫn cảm thấy được an ủi rất nhiều.

Bà viết:

“Bây giờ vẫn còn quá sớm để quyết định anh ạ, nhưng em đã bắt đầu công việc rồi. Em đã gặp cô Sương nhưng chưa nói gì hết. Nếu có thể hôm nay em sẽ đi gặp thằng bé. Em e rằng cô Sương sẽ không chịu xa nó. Em không muốn thằng bé sống với bà già cô Sương. Cô ấy…”

Bà xóa bỏ mấy chữ. Bà chưa nói gì với chồng bà về “Nhà Hoa” khi bà chưa thể viết sơ qua về ông Chu. Chỉ mới có một ngày thôi mà đã xảy ra biết bao nhiêu việc. Bà cũng không nói gì về con bé lai đói khổ. Điều đó thật khó nói. Nhưng bà viết những gì mà ông cho là quan trọng nhất, đó là hai chữ: “Em yêu anh”. Rồi bà niêm phong bức thư lại.

Bây giờ bà phải trở lại nhà của Kim Sương, đi một mình, và tiếp xúc một mình với cô ấy. Có lẽ bà sẽ gặp đứa trẻ ở đấy. Bà phải đến vào buổi sáng, vì buổi chiều cô Sương bận đến “Vạn Hoa Đình”. Trời quá nóng bức; cây mận lùn để trên bàn dường như đang héo đi vì thiếu nước. Bà lấy một cốc nước trong phòng tắm, cẩn thận tưới vào cây mận trước khi ra đi.

° ° °

Vì quen định hướng, bà kiếm nhà Kim Sương không khó theo sự chi dẫn của bà, dường như hôm nay chiếc taxi đi nhanh hơn ngày hôm qua bà đã đi với ông Chu. Kim Sương bước ra cửa vừa khi chiếc xe ngưng lại trước ngôi nhà gạch của nàng. Nhìn thấy Laura, nàng liền nhẹ nhàng cất cái ví và chiếc dù để niềm nở tiếp đón khách. Trong nhà chẳng còn ai khác, không có bà cụ già cũng không có đứa trẻ.

Laura hơi cảm thấy bối rối khi phải mặt đối mặt với Kim Sương như thế này, nhưng bà biết rằng như thế tiện hơn. Nhưng không biết Sương có thạo Anh ngữ để hiểu những gì bà nói hay không.

Vì Sương không tiếp khách người Mỹ tại “Vạn Hoa Đình” và những gì mà nàng đã học trước kia hẳn nàng đã phải quên đi ít nhiều. Hôm nay không còn có ông Chu để làm thông ngôn cho hai người nữa. Laura theo Kim Sương bước vào một căn phòng mà hôm qua bà chưa được biết, chắc là phòng ngủ, vì ở đây có một chiếc giường kiểu tây thật lớn, nhưng trên giường có che màn đôi hai màu rất tương hợp, và trên sàn nhà rải rác mấy tấm đệm ngồi theo lối Triều Tiên. Trên bàn phấn của Sương có dựng một khung hình của Chris trẻ măng. Nhìn cái khuôn mặt chân thật, tươi cười của chàng thanh niên đầy tràn hy vọng ấy, Laura chỉ muốn ứa nước mắt. Phải chăng gian phòng này là tổ ấm của hai người?

Bắt gặp nét mặt của Laura, Sương quay khung hình vào tường.

Nàng nói bằng tiếng Anh :

– Đã lâu rồi, quá lâu rồi! Bây giờ không còn người đàn ông ấy nữa. Ông ta là chồng của bà. Đối với tôi, chỉ là một kỷ niệm không hơn không kém.

– Nhưng còn đứa bé?

Sương liếc nhìn Laura :

– Bà muốn mang nó đi à?

– Không.

– Vậy thì bà đến đây làm gì?

Laura lắc đầu :

– Tôi cũng không biết nữa. Nhưng bởi vì thằng bé đã viết thư cho… cho nhà tôi, nói cho đúng ra thì tôi đến đây để xem nó có cần gì không, và có phải là nó không được đi học hay không?

Sương phản ứng liền :

– Đó không phải là lỗi tại tôi. Nó không đi học là vì không khai báo được. Và vì nó bị thiên hạ chế nhạo. Người ta nói với nó những lời lẽ đê tiện, bởi vì cha nó là dân Mỹ làm sao giải thích được, khó lắm. Tuy vậy nó cũng được dạy dỗ đối chút. Đôi khi rỗi rảnh tôi đã dạy cho nó học, dạy ở nhà.

Laura liếc nhìn Sương, hai người đang ngồi trên hai tấm niệm đặt giữa sàn nhà, trước một cái bàn thấp, chân quỳ. Cánh cửa lùa mở rộng trông ra một khu vườn non bộ mà ở đây một con chim đang cất tiếng hót.

Laura lẩm bẩm :

– Sao cha nó lại là người Mỹ nhỉ?

Sương im lặng một lật, rồi nói :

– Ban đầu tôi chẳng có yêu gì anh ấy hết. Nhưng nhà tôi quá nghèo. Sau chiến tranh mọi người đều túng thiếu. Cha tôi bị giết, nhà cửa nát tan vì bom đạn. Riêng tôi còn quá bé. Hạng gái như tôi quá nhiều. Vậy, nếu không đi hát, đi múa, hoặc đi lấy Mỹ thì làm gì? Ban đầu, tôi chỉ muốn đi hát đi vũ mà thôi.

– Hồi đó cô bao nhiêu tuổi?

Hai mắt Sương mở ra thật lớn :

– Tính theo tuổi Tây thì có lẽ hồi ấy tôi cũng đã được mười bảy mười tám tuổi gì đó. Về vóc dáng thì cũng đã cao lớn như bây giờ. Nhưng tôi rất sợ đàn ông, sợ tất cả mọi người đàn ông. Khi một người đàn ông nhìn tôi, tôi e thẹn quay mặt đi. Thế rồi, một buổi tối, tôi nhìn thấy một người đàn ông bước vào quán, anh ta hơn tất cả mọi người đàn ông khác.

– Hơn ra sao?

– Phải, hơn. Anh ta cao lớn, rất xinh trai nhưng vẻ mặt thật buồn, buồn không chịu được. Anh ta không cười đùa la hét như mọi người khác mà chỉ thinh lặng và buồn rầu. Anh ta chẳng hề nhìn đến gái. Một hôm, một người Mỹ xứ Texas la hét ồn ào, gã kéo tôi đến ngồi chung ghế với gã. Gã bắt ép tôi uống rượu. Tôi kêu van khóc lóc. Anh chàng buồn rầu và cao lớn ấy liền đứng dậy đến gỡ tôi ra và đưa tôi về ngồi chung cùng bàn. Tôi khóc anh ta đưa khăn tay cho tôi lau nước mắt và ân cần tử tế với tôi.

Câu chuyện không giống như những gì Chris đã kể. Có lẽ Sương đã nhầm với một người đàn ông khác, hoặc đã lẫn lộn một kỷ niệm này với một kỷ niệm khác. Nếu không, câu chuyện do Sương kể phải là chuyện thật. Sự hoài nghi đã lan dần. Hai mắt Sương rưng rưng ngăn lệ hồi tưởng đến những kỷ niệm xa xưa.

– Anh ấy thật tốt bụng, tôi chưa từng gặp ai tốt như thế bao giờ. Thế rồi, ngày hôm sau anh ta trở lại. Tôi liền chạy đến ngồi bàn với anh ta để được yên thân.

Kim Sương ngừng lại không kể tiếp, nàng lắc đầu và lấy khăn thấm ngấn lệ. Ngoài vườn, con chim vành khuyên lại cất tiếng hót, thanh âm dịu dàng và buồn bã :

– Rồi sao nữa?

– Sau đó, chúng tôi đi dạo cùng nhau ở trong rừng, hoặc tối tối đi khiêu vũ tại các phòng trà. Chúng tôi chuyện trò. Tôi không biết anh ta đã có vợ. Tôi mơ ước được làm vợ anh ta. Lỗi tại tôi cả, vì tôi luôn luôn mơ mộng và mơ mộng quá nhiều! Tôi mơ ước anh ta cưới tôi và đưa tôi về Mỹ. Nước Mỹ quê hương của mộng mơ! Anh ta ôm lấy tôi hôn, rồi chúng tôi đi tìm mướn một túp lều nhỏ. Mùa đông quá nhiều tuyết giá và lạnh lẽo, chúng tôi không thể đi dạo núi, cũng không thể luôn luôn đi đến các vũ trường. Thế rồi, những gì phải xảy ra đã xảy ra…

Laura nói :

– Tôi hiểu. Anh ấy không bao giờ hứa hẹn cưới cô sao?

– Không. Nhưng tôi hy vọng.

– Sau đó bao lâu thì cô biết cô đã có thai?

Hai bàn tay Kim Sương đang ôm lấy mặt liền buông xuống gối, bất động, lòng bàn tay ngửa ra như những cánh hoa sen.

– Tôi đã bảo, tôi không muốn có con. Nhưng anh ấy năn nỉ tôi sinh cho anh ấy một đứa.

Cái gì? Không, không có thể… Chris không bao giờ.

– Tại sao?

Sương khẽ cau mày :

– Anh ấy nói rằng, anh ấy có thể chết trước khi về đến nhà. Anh nói, đã hưu chiến, nhưng chiến tranh chưa chấm dứt. Nếu anh tử trận, anh sẽ tuyệt tự.

– Vì thế, cô đã sinh con cho anh ấy?

– Vì tôi quá yêu anh.

Laura nhìn thẳng vào đôi mắt hạt huyền của Kim Sương và nàng đã đón nhận nét nhìn ấy mà không chớp mắt.

Nàng giải thích :

– Tôi đã suy nghĩ, luôn luôn suy nghĩ rằng, anh ta không thể nào bỏ được con anh. Vì thế, anh sẽ đưa tôi cùng đứa trẻ về Mỹ. Nếu tôi sinh con cho anh thì chẳng khác nào tôi là vợ của anh. Và một hôm, anh ấy nhận được một lá thư.

– Thư nào?

– Thư của bà. Tôi biết đọc. Khi anh ấy ngủ, tôi lên móc bức thư ra đọc. Bà mong anh ấy trở về với bà. Đọc xong bức thư, tôi biết anh ấy sắp đi. Tôi lẳng lặng gấp bức thư đút lại vào túi áo cho anh ấy. Tôi không nói một tiếng. Có điều là tôi càng yêu anh ấy hơn trước. Tôi hy vọng. Nhưng toi công. Anh ấy đã nghe theo tiếng gọi của bà. Anh đã ra đi. Ngày hôm sau khi anh đi, bạn anh mang đến cho tôi một phong thư của anh kèm theo một số bạc. Anh ấy cho tôi biết địa chỉ, nơi anh ở với bố mẹ, để nếu cần gì thì tôi viết về đây.

Laura nói :

– Đó là địa chỉ của chúng tôi. Cha mẹ anh đã mất cả rồi. Cô còn giữ bức thư ấy không?

– Có. Tôi còn giữ mãi.

Sương mở một cái tủ nhỏ đặt ở góc tường và lục lọi trong một ngăn kéo. Nàng sững sờ trở lại chỗ Laura đang ngồi.

– Lạ thật, không biết ai đã lấy mất bức thư! Ờ, phải rồi. Chắc thằng bé đã lấy. Thằng quỷ sứ! Tôi đọc cho nó nghe luôn. Vì nó thường hỏi: Cha tôi là ai? Cha tôi ở đâu? Tại sao cha tôi không viết thư? Tại sao cha tôi không về? Tôi phải đọc bức thư ấy cho nó nghe và dặn dò nó đừng có động đến.

Vì thế thằng bé mới biết được địa chỉ.

Bây giờ Laura đã rõ rất cả. Nhưng bà đã viết gì cho Chris để đến nỗi anh ta phải bỏ rơi hai mẹ con người này mà không hẹn ngày tái ngộ? Và bà đã phải đền tội sự thiệt hại ấy ra sao? Không con. Bà đã không có con…

Sương bắt đầu khóc nức nở. Laura đến bên nàng, tim bà se lại.

– Đừng khóc nữa cô Sương! Theo tôi, cô chẳng có trách nhiệm gì hết. Chính anh ấy mới là người chịu trách nhiệm. Lẽ ra anh ấy phải biết, phải suy nghĩ.

Đột nhiên Sương có nghị lực, nàng ngẩng đầu, nói :

– Tôi cũng như anh ấy, không có ai trách nhiệm hết. Người chịu trách nhiệm chính là bà.

– Tôi? Nhưng tôi có biết gì đâu?

– Chính vì cái thơ ấy…

Bây giờ Laura mới nhớ lại. Hôm ấy là ngày kỷ niệm sinh nhật thứ hai mươi ba của nàng, nhằm một ngày đông giá tháng mười một, Laura đang ở nhà cha mẹ tại Nữu Ước và đang chờ đợi các bạn bè đến dự tiệc mừng sinh nhật. Cửa sổ phòng nàng trông ra công viên Gramercy. Quang cảnh công viên lúc bây giờ thật tiêu điều, mưa không ngớt tạt vào cửa kiếng, đường phố u sầu ảm đạm, khiến bà buồn ray rứt. Ba năm trước đó. Chris và Laura ngày ngày đi dạo công viên, lần đầu tiên họ nắm tay nhau; rụt rè, e ấp, họ vụng về tìm hiểu nhau. Nhưng điều đó đối với Laura còn là quá sớm, vì nàng phải trở lại đại học để học cho xong cái ngành mà nàng hằng ước mơ. Với một giọng nói khàn khàn, Chris đã hỏi liệu nàng có thể trả lời thư của chàng không, và không nói gì thêm.

Lúc bây giờ họ chẳng bận tâm gì đến nước Triều Tiên cả. Có chăng, họ chỉ biết đó là một quốc gia bé nhỏ đang có chiến tranh. Nàng đã hứa hồi thư cho chàng, nhưng lại không giữ lời trọn vẹn. Sợ quá đi sâu vào tình trường, Laura chỉ viết cho chàng những bức thư ngắn và vô hại.

Lồi đó, Laura bị ảnh hưởng của Lawson, người mà nàng đã hứa đi theo với ba nhà bác học khác, trong một cuộc thám hiểm xuống đáy bể sâu. Lúc bây giờ Laura còn quá trẻ… Nhưng nàng có thật sự trẻ không? Đó là cái nhược điểm của một người đàn bà mà trời đã phú cho một “bộ óc siêu việt của nam giới”, như những người đàn ông thường nói. Nhưng Laura không thể nào chịu đựng được cái phương thức làm cho người ta tưởng rằng trí thông minh là đặc hữu duy nhất của nam giới mà không kể gì đến sự di truyền và ngẫu nhiên.

Phải, Laura nhớ lại rất rõ cái hôm lễ sinh nhật thứ hai mươi ba của bà. Trước đó, Laura có nhận được vài ba lá thư của Chris, nhưng bà không phúc đáp vì cảm thấy những lá thư ấy rỗng tuếch chẳng có gì. Ngồi bên cửa sổ, Laura bị giày vò vì những ý nghĩ đen tối và cảm thấy cần sự hiện diện của Chris đến đỗi bà đã viết cho chồng một bức thư náo cả lòng.

“Anh yêu mến,

Hôm nay kỷ niệm sinh nhật của em. Em vừa đúng hai mươi ba tuổi. Anh đã quên rồi hay sao mà không có thư từ gì về cho em cả vậy? Hôm nay em ước mong nhận được thư anh hoặc được anh điện thoại về, mặc dầu em biết rằng gọi điện thoại rất khó. Hôm nay anh có nghĩ gì đến em không? Trời mưa lạnh lẽo, gió cuốn sạch lá vàng ngoài công viên. Khi nào anh mới trở về với em hả anh? Em băn khoăn tự hỏi không biết bây giờ anh đã ra sao? Anh có thay đổi gì không? Và em, có gì thay đổi? Em không tin có sự đổi thay. Chỉ có điều, già thêm một tuổi em thấy mình càng chín chắn hơn. Nếu nhận dược tin anh, em đã từ chối không đi thám hiểm đáy bể với Don Lawson và các người khác. Anh ơi! Hãy viết cho em một bức thư thật dài. Hay là anh đã tái đăng bên ấy rồi? Nếu thế thì em sẽ đi với Don Lawson”.

Phải, Laura đã nhớ lại rõ ràng bức thư ấy, nhớ lại từng chữ, từng hàng. Đợi thư chẳng được, Laura bèn tham dự cuộc thám hiểm đáy bể với Don Lawson và các bạn trên một chiếc du thuyền mà họ đã mượn được. Ngày ngày, trong khi Don Lawson thu lượm các hải tảo dưới đáy bể thì Laura vớt các phiêu sinh vật trong một cái lưới dòng theo hông tàu. Laura bận đồ tắm đứng trên bong tàu và mải mê theo công việc. Các bạn đàn ông đã nói: “Nàng chỉ nghĩ đến công việc”. Nhưng họ đã nhầm, không giờ phút nào mà Laura không nghĩ đến Chris. Tại sao Chris không viết thư về như thế nhỉ? Cứ ba ngày một lần, Laura điện thoại về nhà hỏi :

– Có thư không mẹ?

Và đầu dây, tiếng mẹ nàng trả lời :

– Không có thư Triều Tiên con ạ.

Nhưng khi Laura trở về thì Chris đã ở nhà. Chàng vừa mới về tới. Phải, quả thật chàng muốn gia hạn quân vụ mà không tái đăng vì nếu tái đăng thì chàng có thể sẽ được gởi sang Âu châu. Hoặc chàng chỉ muốn lưu lại Á châu là nơi định sở của người đàn bà xinh đẹp, duyên dáng này, người đàn bà có một đôi mắt huyền bí.

Sương thở dài :

– Anh ấy đã bỏ tôi để trở về với bà.

Trong khi suy nghĩ, Sương đưa tay mân mê thân áo lụa của mình và gấp thành từng nếp nhỏ. Nhìn đôi mắt dài và cong giao nhau trên đôi má hòng mịn của Sương, Laura cảm nghe như tim mình thắt lại. Phải chăng Chris thích có được một người đàn bà biết hiến dâng mình cả tâm hôn lẫn thể xác? Vợ chồng bà thường thảo luận về điều đó trong những giờ phút thân mật, khi mà bà hiến dâng cho chồng trọn vẹn, nhưng cả hai đều biết rằng sự hiến dâng ấy chưa trọn vẹn. Vì, sau những giờ phút yêu đương, trí óc bà lại hướng về những vấn đề khó khăn phức tạp hơn thú vui vợ chồng nhiều. Nó đã làm cho bà quên hẳn chồng bà trong nhiều giờ, và cả trong nhiều ngày nữa. Nhưng Chris đã hóm hỉnh chế nhạo :

– Cưng ơi! Em không nghĩ gì đến anh cả sao? Anh là chồng của em đây này. Em hãy tạm quên cái “ông già biển cả” ấy đi một chút có được không. Chúng ta hãy lấy máy bay đi Banamas chơi.

Điều đó xảy ra rất thường đối với họ, mặc dầu bà cảm thấy như mình có lỗi nhưng bà đã gạt bỏ ý tưởng đó đi; trên bình diện cá nhân, dĩ nhiên bà cũng có toàn quyền sống tự do như ông. Phần ông, ông cũng đã quên hẳn bà khi ông mải mê tổ chức các cuộc vận động tranh cử và toan tính xem một ngày nào đó hai vợ chồng sẽ là chủ nhân của Tòa Bạch Ốc – đối với một người chồng như Chris, chẳng có gì là khó khăn cả. Những lúc như thế, ông đã quen bà, bà biết lắm. Bà chẳng nhận thấy gì đáng phiền trách ông cả. Đó chỉ là những quên lãng tạm thời và về phần bà, bà càng thích nữa là khác, vì những lúc ấy bà có thể miệt mài với công việc của mình và quên tất cả.

Bà đang miên man suy nghĩ về nhận xét của Kim Sương, thì đột nhiên tiếng bà cụ già hét ở trước cửa đã kéo bà trở về thực tại. Tiếng bà cụ khàn khàn gay gắt đối đáp với tiếng một đứa trẻ láu lỉnh xấc xược.

Sương ngẩng đầu lên và hai người nhìn nhau. Laura nói :

– Tôi muốn gặp đứa trẻ.

Sương đứng dậy, nhẹ nhàng bước ra vườn không một tiếng động. Nàng quay lại, tay vịn trên thành bức tường ngắn, nói :

– Tôi không trở lại đâu. Nó sẽ đến đây gặp bà.

Sương bước đi, và Laura nhìn thấy cái xiêm màu hồng của nàng thấp thoáng giữa các hàng cây trong vườn, rồi cuối cùng khuất sau một khóm lệ liễu nghiêng mình trên một bồ nước nhỏ?

° ° °

Bà phải chờ đợi trong bao lâu? Bà không biết, có thể rất lâu mà cũng có thể chỉ trong chốc lát. Trong khu vườn thanh vắng, con chim vành khuyên đã ngừng tiếng hót. Laura vẫn ngồi bất động, tinh thần căng thẳng. Đứa trẻ sẽ từ khu vườn bước vào hay từ cánh cửa lùa khép kín phía sau lưng bà bước ra? Bà chợt có ý nghĩ rằng, Sương có thể tưởng lầm bà, cô ta đã cùng với đứa bé trốn đi, để bà chờ đợi, rồi thất vọng ra về.

Chính vào lúc ấy, bà nhìn thấy đứa trẻ. Nó đi quanh ngôi nhà và đến đứng trước mặt bà. Hình dáng bé nhỏ của nó in lên nền cây xanh tươi của khu vườn. Laura cảm thấy như nghẹt thở vì nhận ra thằng bé giống hệt chồng bà. Có thể nói được rằng, đây là Chris hồi mười hai tuổi. Với tuổi mười hai, đứa trẻ như thế cũng đã là khá lớn. Thân mình nó rất cân đối. Nó mặc áo sơ mi ngắn tay màu trắng, bận quần cộc màu xanh đã rách, đi chân đất. Tóc nó mới cắt, đầu còn ướt. Phải, đó chính là hình bóng của Chris, ngoại trừ nước da chì và đôi mắt hạnh đào. Nhưng cái miệng thì giống Sương…

Đứa trẻ nói :

– Kính chào bà.

Rồi nó chờ đợi, rụt rè nhưng không một chút ngượng ngập. Nó có vẻ hết sức quan tâm đến bà nhưng với một niềm tin thầm lặng. Thật không ngờ nó đã sớm già trước tuổi. Dẫu sao đi nữa, nó cũng không còn là một trẻ thơ.

– Chào em – Bà đáp – Tên em là gì?

– Thưa bà, con cùng một tên với ba con: Christopher. Con tên là Kim Christopher.

– Em nói tiếng Mỹ khá lắm.

Đứa bé bước vào phòng, đến ngồi bên tấm nệm mà mẹ nó vừa ngồi trước đó. Thằng bé rất lễ phép và đẹp trai, nhưng hết sức dè dặt. Laura thầm nghĩ. Cả hai đều đang ở trong một hoàn cảnh khó xử.

Bà nói :

– Chúng tôi đã nhận được thư em. Nhà tôi – ba của em – muốn đích thân đến đây nhưng ông đang bận tranh cử, không thể nào bỏ đi được. Vì vậy, tôi đến đây thay cho nhà tôi.

Bà quyết định cư xử với đứa bé như một người lớn. Nhưng nó có hiểu như thế không? Dẫu sao, nó cũng đã giữ một thái độ hết sức lễ phép.

– Thưa bà, ba con – có mạnh khỏe không?

– Ồ, ông mạnh khỏe lắm.

– Bà có tấm ảnh nào mới của ông không?

– Có đây.

Bà lấy trong cáí xách tay tấm hình mà bà đã đưa cho Sương xem trước đây. Tấm hình này chồng bà vừa mới chụp chưa đầy một tháng: đúng là cái phong thái hiện thời của Chris. Đứa trẻ cầm lấy và nhìn một cách thèm thuồng.

– Tóc đã bạc rồi! – Nó lẩm bẩm.

– Chỉ bạc một ít ở hai bên thái dương.

– Ba con không già chứ, thưa bà?

– Không, không già nhưng cũng không còn trẻ.

– Bà đẹp thật. – Nó lẩm bẩm.

Rồi nó ngước đôi mắt rất đẹp lên nhìn bà :

– Bà cho con xin tấm hình này nhé?

Bà ép lòng trả lời :

– Nếu em thích. Nhưng tôi tưởng em sẽ thích một tấm hình lớn hơn, tôi sẽ gởi em sau.

– Không, con thích cái này cơ. – Rồi nó lại ngắm nghía tấm hình – Ba con có thích con không?

Laura tránh không trả lời mà hỏi lại nó :

– Em có muốn xa mẹ em không?

Khôn khéo, đứa trẻ lại tránh né câu hỏi của Laura :

– Con cũng thích cả ba con nữa.

– Làm thế nào được?

– Ba con bảo làm thế nào con sẽ làm thế ấy. Con thuộc về ba con chứ không phải thuộc mẹ con.

– Nhưng mẹ em chỉ có một mình em.

– Mẹ con là đàn bà. Mẹ con phải vâng lời ba con. Nếu ba con bảo con về với ba con, mẹ con phải nghe theo.

– Nhưng nếu ba em bảo em ở lại với mẹ em thì sao?

Nó đưa tay phác một cử chỉ tuyệt vọng :

– Ở đây, con không là cái thá gì hết. Con là một con số không to tướng. Ngay nếu như ba con có gởi tiền bạc cho con đi học, con cũng chịu thôi. Con không phải là người Triều Tiên, con là người ngoại quốc. Ba con là người Hoa Kỳ. Tại sao con phải sinh ra thế?

Vào tuổi này, Chris có thể cũng đã chống đối một cách mãnh liệt như thế và cũng có những nỗi phiền muộn như thế. Bà đưa tay cầm lấy cánh tay đứa trẻ :

– Đấy, em thấy không. Chúng tôi không biết phải làm gì khác hơn. Em nói đi: em thương mẹ em lắm phải không? Mẹ em đối xử tốt với em chứ?

Nói vùng vằng dang ra :

– Đôi khi thương, đôi khi không.

– Mẹ em dịu hiền như thế tại sao em không thương mẹ em?

Nó không trả lời, đăm đăm nhìn ra khu vườn, cố nén lòng không để lộ ra mặt những sôi động của con tim. Biết bao uất hận có thể thốt nên lời mà nó dằn lòng không nói, tại sao?

Cuối cùng bà hỏi :

– Em đang nghĩ gì em có thể nói cho tôi biết không?

– Không. – Đứa trẻ nói, giọng chắc nịch. Đột nhiên nó đứng dậy gật đầu chào.

– Thưa bà, nếu bà không còn gì để nói với con nữa thì xin bà tha lỗi…

Nó chạy ra lối khu vườn và với một động tác hết sức nhanh nhẹn, nó biến mất như có phép tàng hình. Laura nấn ná một lát rồi đứng dậy. Cũng ngay vào lúc đó, cánh cửa lùa bật mở và một bà lão hiện ra. Bà lão như đang rình rập Laura. Laura theo chân bà lão ra khỏi nhà và bước lên chiếc taxi đang chờ trước cửa. Bà bảo tài xế :

– Về khách sạn!

° ° °

Mùa xuân đột ngột biến mất nhường chỗ cho mùa hè với những cơn nắng hanh vàng gay gắt.

Trên đường trở về khách sạn, Laura cảm thấy khó chịu vì mệt nhọc và vì khí trời oi bức. Bầu trời nặng nề ngột ngạt. Những đám mây đen tụ lại sau những dãy núi xa xa. Laura cảm thấy quá xa cách Chris, bà ao ước được điện đàm cùng chồng. Phải chờ đợi hơn nửa giờ đồng hồ để liên lạc với đường dây ở Mỹ, nhưng rồi toi công.

Tiếng của cô điện thoại viên người Triều Tiên thánh thót trong ống nghe :

– Xin bà tha lỗi, chúng tôi không thể liên lạc được với Mỹ quốc vì đường dây quá bận.

Vì rỗi rảnh, có thể bà sẽ viết thư cho chồng? Không, như thế quá sớm. Bà chưa biết gì nhiều về đứa trẻ để viết về nó. Mà biết đâu bà sẽ không bao giờ còn gặp lại nó nữa.

Cơn giông đang gầm thét trên trời. Để thoát khỏi cảnh bứt rứt hiện tại, chỉ có một giải pháp độc nhất là ngủ. Một giờ sau, bà tắm xong, chải đầu buộc tóc cho gọn, và nằm ngủ một cách yên lành trong lúc trận mưa giông ào ạt đổ xuống thành phố.

Mưa tạnh vào lúc hoàng hôn. Được nghỉ ngơi, tinh thần bớt căng thẳng. Laura thức dậy và cảm thấy đói bụng, bà mới chợt nhớ ra rằng từ sáng đến giờ chưa có ăn uống gì cả. Bà dậy thay áo quần và xuống tầng dưới để ăn tối. Trong phòng ăn của khách sạn chỉ còn có hai quân nhân Mỹ. Khi bà bước vào cửa, họ ngẩng nhìn bà, quan sát bà trong lúc bà khoan thai đến ngồi ở một bàn ăn cạnh đấy. Họ đã ăn xong nhưng còn chờ uống cà phê. Bà nhìn họ mỉm cười và lập tức cả hai người cùng xô ghế đứng lên một lượt, họ tiến đến bên bà.

Người trẻ tuổi, tóc hung nói :

– Xin lỗi bà, dường như chúng ta đã gặp nhau ở đâu rồi, tôi trông bà quen quá!

Bà cười :

– Tôi không tin như thế. Vì tôi vừa mới đến đây hôm qua…

– Vậy thì, thưa bà chúng tôi có thể hân hạnh được làm quen với bà không ạ?

– Sao không? Tôi là bà Chris Winters.

Anh ta tỏ vẻ buồn :

– May mắn cho tôi quá. Tôi là Jim Traynor, tôi xin hân hạnh giới thiệu với bà anh bạn của tôi đây, trung úy Lucius Brown. Chúng tôi thuộc quân trấn Hoa Kỳ tại đây. Trên nguyên tắc quân nhân không được phép vào các khách sạn… Nhưng người ta vẫn cứ vào đại. Sao lại không? Bởi vì thịt bò ở đây ngon tuyệt, nhập cảng từ Nhật Bản. Bò Kobé đấy, ăn thịt bò này bà sẽ thấy nó mềm và thơm không chịu được. Bà dùng cá sao? Tiếc thật!

– Bà có cho phép chúng tôi được mời bà cùng đi chơi không ạ? – Trung úy Brown hỏi.

Anh ta là một thanh niên phong nhã, từ tốn, kiểu cách, xuất thân từ các gia đình kỳ cựu ở Boston.

Jim thì trái lại, chắc chắn anh ta sinh trưởng trong giới bình dân; nhìn anh người ta có thể liên tưởng ngay đến lũ nhóc trong các khu lao động đông đúc ở Chicago chẳng hạn.

– Hân hạnh lắm, – Bà nhận lời – tôi vừa tự hỏi tối nay không biết phải làm gì.

Họ ngồi vào bàn bà. Jim hỏi :

– Bà đã đến chơi ở Walker Hill chưa ạ?

– Tôi chưa đi đâu hết.

Hai chàng thanh niên nhìn nhau. Jim nói :

– Chúng mình đưa bà đi Walker Hill đi.

– Xong rồi.

Một giờ sau, bà đã cùng với hai chàng dại gái đến một gian phòng lớn, ở đây nhiều người Mỹ đi một mình hoặc đi cùng những thiếu nữ Triều Tiên trẻ tuổi đang ngồi giải khát trong một sự huyên náo kinh khủng. Nào tiếng nhạc, tiếng khua ly tách và tiếng chuyện trò cười nói âm ĩ. Trên bục cao một nữ vũ công người Triều Tiên đang biểu diễn một điệu vũ gần như là thoát y, ưỡn ẹo thân mình một cách quái dị buồn cười. Trên sàn nhảy, các quán quân Hoa Kỳ đang khiêu vũ với các cô gái bản xứ phục sức theo lối Tây phương: áo ngắn hở cổ, tóc từng lọn xếp đống trên đỉnh đầu.

Laura ngập ngừng nói :

– Tôi tự hỏi, chúng ta đang ở đâu đây?

Jim cười :

– Thưa bà, không nên ác cảm với gái Triều Tiên, họ cứ tưởng rằng họ giống hệt gái Mỹ trong lúc họ bắt chước theo những tuần báo điện ảnh cũ rích. Họ bắt chước các minh tinh Hồ ly vọng nhưng…

Anh ta lắc đầu. Trung úy Brown ngắt lời giải thích :

– Thưa bà Winters, đó là một hiện tượng kỳ quái rất đáng chú ý. Con gái Triều Tiên chưa bao giờ thấy đàn bà Mỹ thật sự, tưởng rằng tất cả phụ nữ nước ta hết thảy đều giống các minh tinh màn ảnh. Vì vậy họ hết lòng bắt chước. Họ lại còn tưởng tượng những điều khác ngoài các cử chỉ và trang phục của các cô đào màn bạc, cho nên họ đã tự dấn thân vào cuộc sống phóng đãng, thác loạn, không từng có ở nước ta.

Jim thêu dệt thêm :

– Mày nói đi. Hôm kia, một con bé níu kéo tao ngoài đường…

Bạn anh lừ mắt ra hiệu không cho nói hết.

Trong khi đó, một thiếu nữ Triều Tiên có khuôn mặt nhìn nghiêng tuyệt đẹp, đến bên thì thầm vào tai Jim :

– Đi chơi không anh…

– Cút đi. – Jim rít lên giữa hai hàm răng khép chặt.

Laura bật cười, cởi mở :

– Đấy, Jim xem. Đẹp trai cũng khổ!

Bà vui vẻ khiến họ ít giữ ý hơn. Họ đi cùng với một bà đã có chồng, một người Mỹ mà họ có thể nói chuyện.

Jim phàn nàn :

– Thưa bà Winters, nếu bà biết được… Chúng tôi không dám đi chơi rong một mình ngoài đường phố, cái hạng gái ấy chúng bu vào chúng tôi như ruồi thấy mật. Một hôm, ngay cả ban ngày ban mặt, thế mà một đứa đã chộp lấy cái khóa quần của tôi và…

– Thôi chớ có dài dòng nữa cậu – Trung úy Brown ngắt lời – Thưa bà, đó là sự thật, tôi xin dám chắc với bà như thế. Không nên kết tội người đàn ông, trách nhiệm không hoàn toàn do họ. Đối với tôi, không có sự cám dỗ. Tôi đã có vị hôn thê khá đẹp ở Boston. Nhưng Jim thì…

Anh ta cười còn Jirti thì càu nhàu :

– Hà hà, rồi đến phiên tao, tao sẽ kể chuyện mày. Tốp đi cho con nhờ bố ơi!

Viên trung úy tiếp tục :

– Hãy lấy ví dụ những thanh niên ở nông thôn, những chàng trai từ mười tám đến hai mươi lăm tuổi. Chúng sống phóng túng bừa bãi. Không phải chúng sống buông thả như vậy cho đến khi nào chúng tìm gặp được một cô gái vừa ý, nhưng vì chúng đã chán ngấy cuộc sống ở đây, và chúng sẵn sàng làm tất cả. Thời buổi chiến tranh, đó là chuyện dĩ nhiên. Bà hãy xem cái “thằng lõi” kia.

“Thằng lõi”, là một thiếu niên đang ôm một cô gái Triều Tiên thật đẹp, uốn éo khiêu vũ.

Chàng trung úy nói :

– Thằng lõi ấy, ở bên nước ta con gái chẳng ai thèm nhìn đến. Cái thằng ấy thật là… thật là…

– Thật là thô bỉ. – Jim nói.

– Phải, thật là thô bỉ nhưng nó luôn luôn tán tỉnh cô gái đẹp nhất, cô gái được mọi người ưa chuộng nhất, cô gái đó không phải để cho hắn. Cái cô gái mà nó đang ôm sát vào lòng ấy.

Jim xen vào :

– Cô ta đã làm cho nó tin tưởng rằng cô chưa từng thấy một thanh niên nào đẹp trai hơn nó. Từ lâu nó chờ đợi một lời khen tặng như thế nơi một cô gái trẻ, từ hồi còn ở ấu trĩ viện, khi mà cô gái con ông bà hàng xóm tống cổ nó đi…

Laura lắng nghe họ nói nghĩ ngợi :

– Điều đó chẳng lấy gì làm quan trọng, – Bà thở dài – nếu không có sự đe dọa của một đứa con tư sinh…

Jim nói lớn :

– Ồ, tụi lõi ấy chúng chẳng chừa một việc gì. Chúng dám làm tất cả! Trong các làng mạc, người ta thấy hàng đống.

Một điệu nhạc kích động trỗi lên. Một cô ca sĩ đơn ca một bài hát tầm thường bằng tiếng Anh với giọng ngô nghê.

Laura nói :

– Cô ta có hiểu cô ta hát gì không nhỉ?

Jim lắc đầu một cách tiêu cực :

– Không hiểu một chữ. Cô ta học hát bài ấy mhư một con vẹt, do một dĩa hát cũ nhặt ở bất cứ đâu.

Laura yên lặng trong cảnh ồn ào náo nhiệt của gian phòng; bà có nên nói cho hai người đồng bào của bà rõ cái lý do đã khiến bà đến xứ này không? Họ có thể giúp đỡ bà được gì? Và giúp đỡ bằng cách nào? Trong khi đang phân vân như vậy, bà ngạc nhiên nhìn thấy ông Chu bước vào cửa vũ trường. Cao lớn, hiên ngang, ông dừng lại ở ngưỡng cửa và đưa mắt nhìn quanh như đang tìm kiếm ai. Khi nhìn thấy bà, ông liền bước tới, nhanh nhẹn và duyên đáng, lách mình tránh không đụng vào những cặp trai gái đang đắm chìm trong cái thế giới nhỏ bé huyền ảo đã khiến họ quên hết ngoại cảnh chung quanh.

Vừa đến bên bà, ông Chu vừa nói :

– À, bà đây rồi! Tôi đang kiếm bà đây.

– Sao ông biết tôi ở đây mà kiếm?

– Tôi hỏi ở khách sạn.

Ông chờ đợi, không nói gì thêm, buộc lòng bà phải giới thiệu hai người Mỹ cùng đi với bà.

Laura hỏi :

– Ông có thể ngồi cùng bàn với chúng tôi không ạ?

– Không, có người nhờ tôi đến đây để mời bà và tôi chắc rằng bà khó có thể từ chối.

– Thế à? Ai đây ông Chu?

– Cô Sương kính mời bà đến thưởng thức một màn trình diễn đặc biệt tại “Vạn Hoa Đình” đêm nay. Bà sẽ là người phụ nữ Mỹ đầu tiên được vào đấy.

Laura liền đứng dậy nói với hai người Mỹ :

– Xin lỗi các ông nhé! Tôi có một lý do riêng phải nhận lời mời này.

Hai chàng thanh niên cùng đứng dậy :

– Xin bà cứ tự nhiên. Không hề gì ạ.

Khi ra đến cửa, bà quay lại và thấy họ đang nhìn theo bà với đôi mắt phân vân.

Ông Chu nói :

– Tôi chỉ sợ không thể kiếm ra bà trước giờ giới nghiêm.

Họ bước lên một chiếc xe hơi sang trọng và người lái xe đi xuyên qua một đám đông trên đường phố.

– Thật may, ở khách sạn người ta đã cho tôi iết nơi bà đến chơi tối nay; người ngoại quốc đi đâu đến đâu họ đều phải biết rõ.

– Tại sao?

– Thời buổi nhiễu nhương. Trong trường hợp có sự lộn xộn bất ngờ, chúng tôi phải biết rõ ở đâu người ngoại quốc năng lui tới để bảo vệ họ.

– Ông đang sợ có sự lộn xộn xảy ra sao? Đảo chính à?

– Thiên hạ sợ đủ thứ chuyện. Riêng tôi, tôi tin chắc, rằng tình hình còn ổn định ít nhất là trong vòng một năm nữa. Do truyền thống, nước chúng tôi theo thể chế Quân chủ. Người Nhật đã xâm chiếm quốc gia chúng tôi, giải tán chính phủ và ép Đông Cung thái tử kết hôn với một nàng công chúa Nhật Bản. Chúng tôi đã sống hàng chục năm trời dưới sự hà khắc của quân đội Nhật. Bây giờ với sự cố vấn của người Mỹ, chúng tôi thử thiết lập một thể chế mà chúng tôi không được am tường lắm, một thể chế dân chủ mà ai nấy còn hết sức bỡ ngỡ. Lẽ tất nhiên không làm sao tránh phát sinh những sự va chạm giữa các cấp lãnh đạo nhiều tham vọng mà mỗi người đều có phe phái trong quân đội. Còn lâu mới có hòa bình. Phái trẻ công phẫn, nhất là từ khi ký hết hiệp ước thương mãi cùng Nhật Bản. Họ bị bọn cộng sản miền Bắc tuyên truyền xúi giục. Chúng chủ trương đòi hỏi thống nhất hai miền Nam Bắc với bất cứ giá nào.

Chăm chú nghe ông Chu nói, Laura hiểu rất rõ giá trị của cái bài diễn văn dài dằng dặc này; nhưng bà không thể không nghĩ đến đứa bé, con trai của chồng bà.

– Trong trường hợp đó, những gì sẽ xảy đến cho những đứa trẻ như Kim – Christopher.

Ông Chu trả lời không một chút do dự :

– Chúng sẽ bị thủ tiêu. Nhiều đứa đã chết.

– Ông muốn nói gì?

– Trong mười năm gần đây, đã có lúc, một số lớn trẻ con lai Mỹ đã biến mất một cách hết sức bí mật.

– Chúng biến mất sao?

– Phải. Chúng đã chết. Bằng nhiều cách. Một số con trai bị thiến đi. Không phải chỉ ở đây mà thôi, ở Nhật cũng thế. Thật vậy. Người ta đã thấy điều đó. Bà sẽ lên án chúng tôi, chúng tôi là thủ phạm, nhưng xin bà hãy nhớ cho rằng dân tộc chúng tôi là một dân tộc hết sức cổ xưa và cũng là một dân tộc hết sức kiêu hãnh. Vả lại, bà chỉ nhìn thấy những gì xảy ra tại nước bà, khi thực hiện những sự pha giống. Những cuộc mưu sát…

Bà liếc nhìn khuôn mặt Đông phương nghiêng nghiêng tuyệt đẹp của ông Chu và nóng lòng vì khiếp sợ những điều mà ông vừa phát giác, bà liền quyết định :

– Vậy thì ông phải giúp tôi đưa bé Kim đi khỏi nơi đây ông Chu ạ.

– Đó là phương cách độc nhất để bảo vệ nó.

Xe hơi ngừng lại trước một cổng lớn có vẽ hoa bằng sơn rực rỡ ánh đèn. Hai thiếu nữ Triều Tiên vận quốc phục đứng đón ở cổng, tay mỗi người ôm một bó hoa.

Ông Chu nói :

– À, họ đang chờ đón chúng ta.

Hai người bước xuống xe. Các thiếu nữ tiến tới dâng hoa và thay nhau nói :

– Xin kính chào quý khách. Xin kính chào quý khách.

– Cám ơn. – Laura đáp.

Tay ôm bó hoa, bà theo họ đi vào sân trong và bước lên bậc thang bằng cẩm thạch, đến gian phòng chính. Hai bên tiền đình, những cánh cửa khép kín, Sương đang đứng phía bên trong phòng chính, nàng mặc áo dài bằng xa tanh thêu hoa, thân trên màu vàng nhạt. Thay vì tết tóc thành bím, nàng đã chải đầu cao, và khi nàng bước ra đón tiếp, Laura cảm thấy tim mình thắt lại. Quả cô ta là một thiếu phụ tuyệt đẹp, bà chưa từng thấy ai đẹp như vậy bao giờ. Bà thầm nghĩ: hồi còn dan díu cùng Chris chắc cô ta phải đẹp hơn nhiều. Cũng màu da trắng ngà ấy, cũng đôi mắt đen long lanh ấy, cũng cái khuôn mặt thanh tú đặc biệt Á đông ấy, chẳng có gì thay đổi cả.

Sương đỡ lấy bó hoa danh dự trong tay bà đưa cho một thiếu nữ xinh đẹp, nhỏ nhắn, bận áo chẽn và xiêm rộng bằng lụa xanh.

Nàng nói với Laura :

– Quá nhiều hoa, chắc bà ngột thở. Xin mời bà vào.

Nàng cầm lấy bàn tay bà, hết sức nhẹ nhàng, dẫn vào trong một gian phòng rộng. Tại đây nhiều người đàn ông đang ngồi trên những tấm nệm bọc xa-tanh để giữa sàn nhà. Mỗi người đều có một thiếu nữ xinh đẹp hầu hạ, pha trà, châm thuốc, thỉnh thoảng phe phẩy chiếc quạt, khúc khích cười nghe khách đùa giỡn hoặc chịu nhận sự vuốt ve mơn trớn của họ.

Sương mời Laura ngồi trên một tấm nệm bọc nhung đỏ có tựa lưng. Đó là chỗ dành riêng cho bà và khi nhìn thấy bà muốn từ chối. Sương lịch sự ép bà ngồi xuống. Bên bà là chỗ của ông Chu. Một thiếu nữ trẻ đẹp ngồi cạnh ông để phục dịch.

Sương không ngồi chung cùng khách. Nàng trang nghiêm tiến đến một sân khấu nhỏ, bước lên và chờ đợi. Người ta không biết nàng chờ đợi gì, nhưng khi nàng sốt ruột vỗ tay ra hiệu thì một đứa trẻ từ hậu trường bước ra. Nó phục sức theo lối cổ truyền, màu trắng, đội tóc giả đen, cứng và mũ cối tết bằng lông đuôi ngựa. Nó cầm một thứ nhạc khí mà Laura chưa từng thấy – một cây đàn tì bà – ngồi xếp xuống và bắt đầu gảy. Tiếng đàn trôi phần tâu khúc ngắn và Sương bắt đầu cất tiếng hát. Nàng có giọng nữ kim trong sáng tuyệt vời làm cho ca khúc Triều Tiên tăng thêm phần giá trị.

Laura lắng nghe nàng hát, thán phục và suy nghĩ. Tranh đua thế nào với một người đàn bà như vậy? Tại sao Chris có thể giấu kín trong lòng hình ảnh Sương từ bao năm nay như thế được? Nếu không có gì phải che giấu, tại sao chồng bà không nói với bà? Trong khi bà âu sầu tự hỏi như vậy. Bà nhìn nó kỹ hơn và nhận ra đó chính là Kim Christopher.

Bà quay sang hỏi ông Chu :

– Tại sao ông đưa tôi đến đây?

– Cô Sương đã nhờ tôi mời bà.

– Nhưng tại sao lại mời tôi? Tại sao?

Ông ra hiệu bảo :

– Hãy nghe hát đi.

Bà đành im lặng.

Khi Sương kết thúc bài hát, Laura ra về ngay không muốn nói với cô ta lời nào. Thấy vậy ông Chu bèn phản đối :

– Thưa bà, những đêm hát như thế này thường được kết thúc bằng một bữa tiệc.

– Thế thì tôi về một mình vậy.

– Ồ, không. Để tôi đưa bà về.

Ông Chu đành phải đưa bà trở về khách sạn. Khi hai người ngồi vào xe, bà hỏi ông :

– Ông có biết đứa trẻ kia không?

– Không. Thưa bà tôi không biết.

– Đó là con của chồng tôi.

Ông Chu quay nhìn bà, sửng sốt :

– Nhưng, thưa bà đó là một đứa trẻ Triều Tiên!

– Vì lý do gì đêm nay cô Sương đã hóa trang nó thành một đứa trẻ Triều Tiên thật tôi không hiểu.

– Cô Sương tinh khôn lắm. Đàn bà đẹp đều thế cả.

– Cô ta sẽ làm gì thằng bé?

– Ai biết được? Có thể cô ta sẽ dùng nó để tìm khách.

Bà thẳng thắn hỏi :

– Nhưng thưa ông, nơi ấy có gì khác một nhà điếm đâu?

Ông miễn cưỡng trả lời :

– Thưa bà, người ta cũng có thể gọi là “Nhà Hoa”. Song xin bà hãy biết cho rằng trong những quốc gia cổ xưa như quốc gia của chúng tôi, con người biết sống hơn ở xứ bà nhiều. Hoặc chúng tôi sống lệ thuộc quá vào trật tự xã hội đến nỗi để bảo tồn nó, chúng tôi đã tạo ra những luật lệ những tập quán dựa trên kinh nghiệm hiểu biết về nhân tính? Chẳng hạn, chúng tôi biết rằng ngoài sự hỗ tương người đàn ông cần người đàn bà trên một bình diện nào đó. Thật ra, đàn ông chúng tôi rất giản dị. Chúng tôi cần người đàn bà để làm vợ và làm mẹ bầy trẻ. Nhưng chúng tôi cần người đàn bà để thỏa mãn thú vui nhục dục. Thật hiếm có một người đàn bà nào có thể có cùng hai ưu điểm ấy. Chúng tôi nhìn nhận sự thật như thế nên đã chia đàn bà ra làm hai hạng. Một hạng đàn bà muốn có một đời sống vững vàng của một người vợ một người mẹ nên chỉ hiến mình cho hôn nhân. Một hạng khác vì nhiều lý do riêng, họ không cần đến sự vững vàng ấy nên họ sắn lòng miệt mài trong chốn thanh lâu. Nhưng thưa bà, chúng tôi không có xài những danh từ sống sượng. Đối với chúng tôi những người đàn bà ấy là những “cái hoa” hơn là những “con đĩ”.

Nhưng Laura không muốn kéo dài câu chuyện trong quan điểm triết học, bà liền phủ nhận :

– Một con đĩ là một con đĩ không hơn không kém.

Ông Chu nói, với một giọng hết sức dịu dàng :

– Thưa bà, liệt họ vào loại người này hay loại người khác, có gì là quan trọng?

– Có chứ. Đối với chúng tôi rất quan trọng. Người ta chẳng cần phải lựa lời..

– À, đúng, chẳng kể gì đến tình cảm.

– Người ta chỉ che giấu sự thật.

– Phải, chẳng gì khác ngoài bản tính tự nhiên của con người. Nhưng thưa bà, tôi nghĩ rằng dẫu sao chúng tôi cũng quân tử hơn quý vị. Chúng tôi chấp nhận gái nhà thổ như một thành phần tất yếu của xã hội. Thân phận họ trong xã hội đã quá rõ ràng. Nhưng vì lý do tình cảm, chúng tôi gọi là “Hoa”.

Cả hai đều im lặng. Khi về tới khách sạn, ông Chu đưa bà vào khách sảnh bây giờ trống trơn chẳng có một ai ngoại trừ mấy người tiếp viên đang túc trực.

Ông Chu hỏi bà :

– Bà định xử trí ra sao về đứa bé?

– Tôi đến đây với cái ý định duy nhất là ký thác nó vào một trường học để nó được giáo dục… và để ngày sau nó có một cuộc sống xứng đáng hơn.

– Bà muốn nói, nó làm một người Triều Tiên?

– Ờ, thì nó chẳng là người Triều Tiên chớ là gì nữa? Nó đã được sinh ra ở đây.

– Đối với bà thì có thể, nhưng đối với chúng tôi thì không phải vậy. Chúng tôi xem nó là con của cha nó, nghĩa là con của một người Mỹ. Tại sao cha nó không nhìn nhận nó? Nếu cha nó thuận nhận nó, thì chẳng có gì khó khăn trở ngại nữa.

Bà tìm cách giải thích :

– Kìa ông Chu. Ông đã biết rõ quê hương chúng tôi, ông đã từng sống ở đây…

Ông Chu quả quyết nói :

– Bên nước bà, con người được pha trộn bởi nhiều giống khác nhau. Một đứa trẻ lai Triều Tiên chẳng có gì đáng nhục nhã hết. Ở đây không như vậy. Chúng tôi là một dân tộc cổ xưa nhất thế giới, một dân tộc văn minh nhất. Khi tổ tiên của quý vị còn đang ăn lông ở lỗ thì tổ tiên của chúng tôi đã là những nghệ sĩ, những học giả uyên thâm.

– Ồ, tôi biết. Tôi đã đọc nhiều sách về vấn đề… không phải chuyện đó, nhưng…

Ông chờ đợi, chỉnh lại dáng ngồi một cách trịnh trọng, sẵn sàng đón nhận một vết thương về phần mình. Phần bà, bà cảm thấy nét nhìn trong sáng của ông như đâm xuyên qua mình. Không sao tránh khỏi nét nhìn ấy, bà phải thú thật :

– Chẳng giấu gì ông, nhà tôi đang ứng cử Thống đốc Tiểu bang của chúng tôi. Các đối thủ của ông đang thèm khát một chuyện như vậy để bu vào công kích. Tôi không đành lòng nhìn thấy một sự nghiệp tốt đẹp như thế bị hỏng mất do một lỗi lầm ngu ngốc của tuổi trẻ, chỉ vì quá cô độc và khiếp sợ sự chết mà ra.

– Nói một cách khác, bà không muốn mang đứa trẻ về cùng cha nó, về cái chỗ mà đúng ra là của nó.

– Chúng tôi nghĩ rằng đây mới là chỗ của nó.

– Kìa bà, chuyện quan hệ đến một con người mà bà. Sao có thể đùn qua đùn lại như thế được? Bà Winters à, bà không nên lẩn tránh mà phải nhìn thẳng vào sự thật.

Cuộc đối thoại bị cắt ngang vì trung úy Brown và Traynor bước vào cửa, cả hai đều say bí tỉ.

– À, à bà… đây rồi – Jim kè nhè nói giọng đứt quãng – Khắp nơi… chúng tôi… đã… tìm bà khắp nơi.

Trung úy Brown nhắc lại nhỏ hơn :

– Khắp nơi… ở, khắp nơi…

Ông Chu hấp tấp nói :

– Tôi đưa bà về phòng.

Ông xen vào giữa Laura và hai thanh niên, cầm lấy khuỷu tay bà đưa đến thang máy dẫn về phòng bà.

Vừa thích thú vừa bực tức lẫn lộn, bà mỉm cười nói :

– Cám ơn ông. Cám ơn ông đã không giao tôi cho chính các đồng bào của tôi.

Ông khẽ nghiêng mình, nhưng vẫn đứng yên một chỗ. Thấy bà tỏ vẻ ngạc nhiên, ông nói :

– Thưa bà tôi muốn được nghe tiếng khóa cửa phòng bà khóa lại.

– Ồ, một lần nữa tôi xin cám ơn ông. Chào ông và chúc ông ngủ ngon.

Bà khóa trái cửa phòng lại. Và ngay lúc ấy, đột nhiên bà cảm thấy cô độc lạ lùng, nỗi cô độc mà bà đã từng cảm thấy mỗi khi lặn xuống đáy bể sâu, một mình giữa biết bao tạo vật lạ lùng chung quanh, những tạo vật vô tri giác. Bà đã tìm cách chế ngự những nỗi kinh hoàng ấy; bà chế ngự nó để tiếp tục cái nghề hải dương học của bà. Nhưng kể từ đó bà không còn xuống đáy biển sâu một mình nữa. Bà nhớ lại một hôm, vào buổi trưa, bà cùng ông John Wilton lặn xuống một vùng biển sâu không xa hòn đảo Saboga mấy, để nhặt những mẫu rong bể. Rong bể dật dờ theo dòng nước như những khóm cây nảy lộc trong một cánh rừng bé nhỏ trước cơn gió, nhẹ nhàng và mỏng manh, một vẻ đẹp thần tiên và diễm ảo, nhưng có thể trong đó tàng ẩn một sinh vật dữ tợn như cá mập, cá xà. Thận trọng, đề phòng mọi bất trắc có thể xảy ra, bà đã tiếp tục công việc và nhặt được nhiều loại hải tảo mà các phòng thí nghiệm có thể rút được nhiều chất kháng sinh mới để chữa bệnh hoặc những chất phân hóa tố dị thường, những loại kích thích tố có thể biến cải hẳn sự sống và ngay cả biến giống nữa.

Bà trở lại với thực tế và tự hỏi bà sẽ làm gì trong cái thế giới xa lạ và khó hiểu này. Quả cách xa Chris, bà cô độc một mình giữa những người xa lạ chẳng giúp đỡ gì được bà. Bà không có đủ yếu tố cần thiết để sống trong một thế giới như vậy, bà không đủ yếu tố giải quyết một vấn đề không phải của riêng cá nhân bà mà tệ hại hơn là bà không còn có đủ ý chí để giải quyết nữa. Bà chỉ muốn từ bỏ tất cả để trở về nhà, chịu nhận mình đã thất bại, nhưng bà đã cố chống lại nỗi ước muốn ấy. Dầu sao, đó không phải chỉ là một trong những điều rắc rối, hậu quả của vô số các biến động chiến tranh và những va chạm không thể tránh được giữa các dân tộc có quá nhiều dị biệt.

Ngay chính vào lúc bà đưa tay ra như để thốt lên một tiếng kêu cầu cứu thì chuông điện thoại reo vang. Bà cầm lấy ống nghe và nghe một người Triều Tiên có tiếng Anh giọng nhát gừng ở đằng kia đầu dây.

– Phải bà Christopha Wintal không ạ?

– Vâng, chính tôi đây.

– Xin bà nói chuyện với Mỹ quốc.

Bà chưa kịp reo lên kinh ngạc thì tiếng nói của Chris đã văng vẳng đến tai bà, xuyên qua đại dương và đêm tối. Kỳ lạ biết bao! Tiếng của chồng bà rõ ràng như đang nói từ căn phòng kế bên, nhưng cường độ âm thanh đều đặn biến đổi chứng tỏ nó từ rất xa vẳng đến.

– Laura đây à?

– Ồ Chris anh! Em mừng quá! Em đang tủi thân đây!

– Khi nào em về?

– Chưa biết. Em vừa mới đi về thì anh gọi. Em đã tìm ra thằng bé rồi anh ạ.

– Nó ra sao?

– Nó giống anh như tạc.

Đầu dây im lặng. Bà vội kêu lên :

– Chris?

– Anh đây.

– Em không biết anh tính sao cho thằng bé cả.

– Nhét nó vào trường, bất cứ ngôi trường nào em muốn rồi trở về với anh. Anh đang cần đến em, em ạ! Anh tin rằng anh sẽ đắc cử.

– Ồ, em xin chúc mừng anh.

– Chưa xong đâu em. À, em có đủ tiền tiêu không?

– Khá đủ. Em chưa tiêu gì nhiều cả… Em cũng đã gặp cô Sương rồi.

– Cô ta đòi hỏi tiền bạc gì không?

– Cô ấy không đá động gì đến tiền bạc cả.

– Nếu em gặp bất cứ điều gì phiền phức hãy nhờ gọi sứ quán Hoa Kỳ nghe em – giúp đỡ em, đó là vai trò của họ.

– Chẳng có gì phiền phức… Nhưng, em không biết phải quyết định ra sao.

– Thôi về đi em.

– Không anh ạ. Em đã sang đây, em phải giải quyết cho xong vấn đề đứa bé.

– Em muốn anh bay sang với em không?

– Không. Em sẽ làm những gì em thấy phải.

Họ không còn gì để nói với nhau nữa, nhưng Laura vẫn dán tai vào ống nghe để còn được nghe tiếng chồng bà.

– Chris, anh không có kể cho em nghe gì ở đây hết, ở đây cái gì cũng tuyệt đẹp anh ạ, nhưng cũng hết sức lạ lùng, ở đây em không hiểu gì họ cả. Cảm nghĩ của họ không giống chúng ta mấy.

– Em nên yêu cầu người Mỹ giúp đỡ.

– Vâng.

Đột nhiên, giọng nói của chồng bà yếu đi: Ông vẫn nói nhưng bà không còn nghe gì nữa. Bà kêu lớn: “Chris… Chris…” nhưng thế là chấm dứt.

Bà chỉ biết đặt lại ống nghe vào máy và đi ngủ.

° ° °

Sáng hôm sau, bà tự hỏi phải chăng bà đã không nằm mơ cuộc điện đàm ấy, song bà vẫn còn nhớ lại rõ ràng câu nói của chồng bà: “Hãy nhờ người Mỹ giúp đỡ”. Bà quyết định vâng lời chồng.

Một giờ sau, bà tới văn phòng khách sạn :

– Sứ quán Mỹ ở đâu?

– Thưa bà, ở đối diện với khách sạn đây ạ.

Bà đi băng qua đường và bước vào sứ quán; nơi đây người ta đưa bà đi qua hết văn phòng này đến văn phòng khác. Cuối cùng, bà đến trước một người đàn bà đã có tuổi, khô khan, nói giọng Ohio :

– Thưa bà Winters, bà cần tôi giúp đỡ bà điều gì?

Laura ngồi xuống ghế. Bà nói :

– Tôi đến đây để kiếm một đứa trẻ… lai Mỹ.

– Thưa cô…

– Pitman. Tôi tên là Pitman. Con của chồng bà phải không?

– Sao cô biết?

– Bà không phải là người độc nhất gặp trường hợp này. Nhưng thường thì chính người đàn ông đến tìm con. Tuy vậy, đa số trẻ con bị bỏ rơi không có ai nhìn nhận nên đã sống vất vưởng.

– Vậy, chính phủ ta không có biện pháp nào về trường hợp của chúng nó cả sao?

– Thưa bà không. Chúng tôi không nhận được chỉ thị nào về các việc ấy. Người Mỹ chúng ta hiện đang có mặt trên khắp bảy nước Á châu, chúng ta…

– Nhưng rồi đây những đứa trẻ ấy sẽ ra sao?

– Thưa bà, tôi không biết, chúng tôi không có lệnh…

– Điều đó cô đã nói rồi.

Cô Pitman xếp các giấy tờ. Cô nói :

– Nếu tôi có thể giúp được bà…

– Giải pháp nhận con nuôi như thế nào là tiện nhất?

– Cái đó tùy theo cách bà muốn làm.

– Tôi không biết tôi phải làm những gì.

– Bà chỉ có việc chọn một trong hai điều: Để đứa trẻ ở lại đây hoặc đưa nó về Mỹ.

– Nó sẽ ra sao nếu tôi để nó lại ở đây? Dĩ nhiên là tôi sẽ gởi nó vào ký túc xá.

– Ở đây không có ký túc xá ngoại trừ… nó mấy tuổi rồi nhỉ?

– Mười hai tuổi.

– Vậy thì không có ký túc xá. Nó không được xem như là trẻ mồ côi, tất nhiên.

– Vậy thì phải làm sao?

– Hãy quên nó đi. Đa số người Mỹ đã làm như thế. Đã có hàng ngàn đứa trẻ ở vào trường hợp này.

– Rồi chúng sẽ ra sao?

– Tất cả đều tùy thuộc những gì sẽ xảy ra ở đây. Nếu quân cộng sản xâm lăng, điều đó có thể lắm, nếu các hoạt động của chúng ta tại Việt Nam bắt buộc phải rút bớt quân ở đây để tăng viện cho bên ấy – trong trường hợp đó, chúng sẽ bị tàn sát hoặc chúng sẽ trở thành cộng sản, bởi vì dường như không một ai ở đây ưa thích chúng cả.

Laura nhìn cô Pitman đang chăm chú vào tập hồ sơ trước mặt cô.

– Cô Pitmin, cô có thể dửng dưng như vậy với điều đó sao?

– Tôi không thể chuốc vào mình những tình cảm vô ích; và dầu thế nào đi nữa, tôi cũng không có thể làm gì được hết.

– Nhưng riêng phần tôi, tôi có thể làm gì được cho đứa bé này.

Cô Pitman nhìn bà ngang qua kẽ hở bên trên cặp kiếng trễ xuống mũi.

– Nếu chồng bà thừa nhận đứa trẻ, bà có thể mang nó về Mỹ với tư cách là một công dân Hoa Kỳ.

– Chỉ đơn giản có thế thôi sao?

– Vâng. Chỉ có thế.

Bà đứng dậy :

– Cám ơn cô lắm.

– Không có gì ạ.

Vậy thì bà có thể quyết định một trong hai giải pháp sau đây: Bỏ rơi đứa trẻ và trở về nhà, hoặc yêu cầu chồng bà thừa nhận tính cách phụ hệ của ông đối với đứa trẻ rồi đưa nó theo bà về Mỹ. Bà trở về khách sạn để viết thư cho chồng bà và kể cho ông nghe cuộc tiếp xúc này. Điều này sẽ giúp bà dễ dàng nói rõ sự thật với ông và bà sẽ mang đứa bé theo. Bà mang nó về nhà? Nó giống Chris biết bao!

Từ cửa sổ tầng lầu trên, ông Chu nhìn thấy bà Winters đi băng qua đường đến Sứ quán Mỹ và trở về. Bây giờ có lẽ bà đang ở trong phòng của bà. Đã lâu, ông không có dịp nói chuyện với một người đàn bà Mỹ và trong lòng ông chợt hiện lên hết bao kỷ niệm xa xưa. Trong suốt năm học cuối cùng ở đại học Yalte, ông đã yêu say đắm một thiếu nữ Mỹ, có đôi chút giống cái bà Winters, cũng không đẹp như bà, nhưng hồi ấy ông xem cô là người thiếu nữ đẹp nhất trên đời. Ông đã viết thư về Triều Tiên xin phép cha mẹ để cưới nàng. Nhưng song thân ông đã khẩn cấp gởi thư năn nỉ van lơn, xen vào những câu dọa dẫm và dấu vết của những giọt nước mắt cố ý phơi bày rải rác trên giấy, nên ông đành phải khước từ tình yêu và nhẫn nhục học cho xong niên học cuối cùng trước khi hồi hương cưới người thiếu nữ do gia đình đã chọn lựa.

Vợ ông đã sinh liền một loạt con gái và cuối cùng, một đứa trai. Sau khi lo việc gả chồng cho con gái và nuông chiều cậu con trai đến ngày khôn lớn, bà đã qua đời để lại ông Chu trong tình trạng phóng túng hiện tại. Vì hiu quạnh, ông dễ dàng hết chạy theo Sương, cô kỹ nữ xinh đẹp, đến chạy theo bà Winters, một thiếu phụ ngoại quốc yêu kiều. Tuy vậy, ông là một kẻ biết diều, ông không nghĩ gì đến việc tục huyền cả. Đối với ông, cưới một kỹ nữ về làm vợ là điều không cần thiết. Vả lại, mặc dầu ông là người chịu chi nhiều tiền cho Sương, nhưng chẳng thâu lượm được kết quả gì khác ngoài những nụ cười duyên của người thiếu phụ. Về phần Laura thì bà ta đã có chồng. Tuy vậy, ông vẫn cảm thấy rung động mãnh liệt trước vẻ yêu kiều của họ và cái điều mà ông lấy làm thích thú nhất là vì cả hai người đàn bà ấy đều thuộc về một người đàn ông mà chắc hẳn ông ta phải có một nhân cách đặc biệt, hiện ông đang dấn thân vào một cuộc tranh cử quan trọng.

Ông bị mê hoặc bởi cái sắc đẹp tương phản của hai người thiếu phụ: một người thì rất ủy mị, đầy nữ tính, là một kỹ nữ tuyệt vời, còn người kia lại là loại đàn bà thon, cao, khỏe mạnh, như con trai, một hạng đàn bà đặc biệt ở Mỹ quốc, có thân hình của thân vệ nữ và có trí thông minh của nam giới. Tối hôm qua, ông đã phân tích cho bà Winters rõ sự tương phản này. Bà lắng nghe ông nói, chăm chỉ đến nỗi ông đã có đôi chút hy vọng kéo dài câu chuyện trên một bình diện thân mật hơn, sau khi đã đưa bà Winters về đến cửa phòng bà. Nhưng thái độ của bà chẳng có gì khích lệ cả. Trong lúc chờ đợi tìm hiểu sự việc một cách rõ ràng hơn, sau khi người mật báo viên tại sứ quán Mỹ đến báo cáo cho ông rõ chi tiết cuộc tiếp xúc giữa bà Winters và cô Pitman, ông liền quyết định đến gập cô Sương và nếu có thể cả thằng bé lai Mỹ mà cô ta đã từng nói đến với bao buồn vui lẫn lộn.

Một giờ sau, ông ngồi trong phòng riêng của Sương lại “Vạn Hoa Đìinh”. Nàng đang kể cho ông nghe chuyện của Christopher Winters, ông Chu rất lấy làm khâm phục Sương khi nghe nàng dùng những lời lẽ văn hoa để diễn tả câu chuyện, những lời lẽ mà nàng chỉ dùng khi tiếp xúc với những khách hàng nàng đã chọn lựa kỹ, nàng chỉ chịu tiếp những người Triều Tiên thanh lịch như ông mà thôi.

Nàng nói :

– Thật khó mà diễn tả lại câu chuyện ấy đã xảy ra như thế nào.

Ngồi trên một tấm nệm đặt giữa sân, Sương tì hai khuỷu tay vào chiếc bàn thấp đặt giữa hai người. Nàng mặc váy màu xanh lá cây, áo màu vàng nhạt để lộ hai cánh tay trắng như ngà, hai bàn tay tuyệt mỹ, mềm mại, xinh xắn, với những ngón tay thon nhỏ, móng tay óng ánh như xà cừ.

– Trước tiên, xin ông biết cho rằng tôi không phải là hạng người sinh trưởng trong giới hạ lưu như phần đông các cô gái lấy Mỹ. Cha mẹ tôi là những người có học thức, cha tôi làm giáo học, tôi là con một. Tôi đã từng kể cho ông nghe nhà cửa của chúng tôi bị bom tàn phá như thế nào, cha tôi đã chết ra sao rồi. Không một đồng xu dính túi, hai mẹ con tôi kinh khiếp chạy lang thang ngoài đường để tìm một nơi nương náu và kiếm một chút gì để nhét vào cái bụng trống trơn. Ông cũng đã biết quân lính ngoại quốc chiếm đóng thành phố chúng ta ra sao rồi. Chúng chẳng khác nào một đàn châu chấu thèm mồi. Không người đàn bà nào có thể thoát khỏi tay chúng ngay cả mẹ tôi cũng thế. – Sương úp mặt vào hai bàn tay một lát rồi tiếp – Tôi không thể nào nói ra đây được. Nhưng tôi biết ràng tôi phải cứu mẹ tôi. Và đó là cái lý do chính khiến tôi đi theo những người con gái khác, những cô gái không cửa không nhà, mồ côi mồ cút vì chiến tranh. Và thế rồi tôi bắt đầu tập nhảy và ca hát để kiếm tiền sinh sống. Trong lúc đi làm tôi có thể mướn một căn phòng cho mẹ tôi ở.

Nhưng hồi ấy vì thế chất tôi quá mảnh mai, yếu đuối, nên cứ ốm đau hoài. Các bạn tôi mạnh khỏe hơn tôi nhiều. Vì nhân ái, họ chia cơm xẻ áo cùng tôi. Nhưng, tôi không thể xin họ cưu mang cả mẹ tôi nữa. Một đêm nọ, lòng tôi thắt lại vì đau khổ, tôi tìm đến một cái “ba”, nơi mà những người Mỹ đang khiêu vũ, mặc dầu chúng tôi sợ họ hơn tất cả mọi sự trên đời này. Tôi chú ý đến một thanh niên ngồi một mình một bàn. Hắn ta còn rất trẻ, đẹp trai và buồn bã. Hắn không nhảy. Tôi ghê tởm cái lối khiêu vũ nham nhở của lính Mỹ. Trong lúc họ nhảy, họ làm những việc thiếu tế nhị. Tôi thầm nghĩ, nếu ta đến bên chàng trai cô độc ấy, chắc những kẻ khác sẽ để cho ta được yên thân. Dolly, cô bạn gái của tôi cũng đã khuyên tôi như vậy. Câu chuyện khởi đầu là thế.

Sương ngừng lại, vẻ mặt trở nên mơ mộng.

Ông Chu nói :

– Đành rằng khởi đầu là thế, nhưng rồi tại sao lại có đứa bé ấy?

Sương dựa vào cái tựa lưng, hai tay giao nhau trên váy lụa.

– Tôi chỉ sợ mất chàng – Nàng thú nhận – Thật vậy, chàng đã che chở tôi khỏi bị những kẻ khác hành hạ, những thanh niên thô tục và ồn ào. Họ đã để tôi yên khi chúng tôi ở bên nhau. Cuối cùng, chúng tôi đã lập tổ uyên ương trong một túp liều nhỏ. Chàng đã nộp tiền thế chân cho người chủ nhà hết một trăm năm chục đô la. Người chủ nhà giao nhà cho chúng tôi và thâu tiền mướn, nhưng ông ta đã trả lại cho chàng số tiền thế chân khi chàng hồi hương. Để có phương tiện sinh sống chàng đã mua tất cả những gì có thể mua được ở P.X – Ông biết P.X là gì rồi chứ?

Ông Chu gật đầu.

– Tôi bán với giá chợ đen tất cả những gì chàng đã mang về để mua thực phẩm và vật dụng cần thiết. Như vậy, chúng tôi đã làm tất cả những gì có thế làm được với những người bạn Mỹ của chúng tôi. Cha mẹ chàng cũng có gởi cho chàng một ít tiền, nhưng chàng muốn giao cho tôi. Chàng nói rằng, bạc Mỹ cấm lưu hành tại miền Nam, bởi vì lũ gián điệp miền Bắc sẽ mua loại bạc này để mang đi sử dụng tại các quốc gia khác, bạc Mỹ có giá trị trên khắp thế giới.

Ông Chu dịu dàng nói :

– Điều đó vẫn chưa giải thích được việc thằng bé.

Sương bừng đỏ mặt. Trên làn da tươi sáng của nàng màu hồng hiện ra rất nhanh.

Nàng rụt rè thú nhận :

– Tôi bắt đầu yêu chàng thanh niên người Mỹ ấy. Tôi không còn có thể thiếu vắng chàng. Từ trước tôi chưa từng biết yêu đương là gì. Chàng đã tỏ ra rất tốt với tôi; hơn nữa, chàng không có giao du với bất cứ một người đàn bà nào khác mà chỉ sống với tôi. Khi tôi đòi chàng cưới tôi, chàng đáp: có thể, nhưng không có hứa hẹn gì hết. Lúc bây giờ tôi nghĩ rằng, nếu tôi sinh cho chàng một đứa con, chắc chắn chàng sẽ đưa cả hai mẹ con tôi về Mỹ. Khi tôi báo cho chàng biết tôi đã thụ thai, chàng tỏ ra vừa mừng vừa giận, đến nỗi tôi không biết điều tôi làm là đúng hay sai. Ngay cả sau khi sinh con, khi chúng tôi biết rằng đứa bé là trai, tôi vẫn không chắc chắn gì hết. Cha đứa bé đôi khi đã tỏ ra vui sướng, nhưng cũng có những lúc bất chợt tôi nhìn thấy nét mặt chàng rầu rĩ. Và thế rồi một hôm chàng đã ra đi. Trong suốt thời gian chung sống cùng chàng, tôi xa hẳn mẹ tôi, tôi cũng không cho bà đến nơi tôi cùng chàng trú ngụ. Chàng tưởng tôi là gái mồ côi.

– Tại sao?

– Bởi vì tôi muốn chàng tin rằng tôi không vướng bận một ai mà chỉ lệ thuộc chàng trọn vẹn. Tôi tưởng như thế chàng sẽ chẳng đời nào bỏ rơi tôi. Nhưng thưa ông, chàng vẫn rứt áo ra đi. Từ Mỹ quốc, chàng đã viết thư cho tôi chỉ một lá thư thôi. Trong thư chàng nói với tôi rằng chàng hết sức thương nhớ tôi và có thể chàng sẽ trở lại cùng tôi trong một ngày nào đó không báo trước. Bức thư ấy tôi vẫn còn cất giữ tại phòng riêng của tôi ở nhà.

– Nhưng ông ta không có hứa hẹn gì với cô cả sao?

– Không. Chẳng bao giờ.

– Cô có biết ông ta đã có vợ rồi chứ?

– Chàng chẳng nói gì với tôi về chuyện ấy cả.

– Cô không hỏi sao?

– Tôi muốn được chính chàng nói ra, có thể vì tôi e sợ sự thật nên không dám hỏi.

– Còn cô… cô vẫn còn yêu ông ta mãi chứ?

– Không. Đã từ lâu, tôi không còn yêu anh ấy nữa.

– Thế thì sao?

– Anh ấy phải trả tiền để bắt con.

° ° °

Bên ngoài khung cửa, Kim Christopher nép mình sau một khóm sơn trà để lắng nghe. Câu chuyện giữa mẹ nó và ông Chu là một phát giác mới mẽ đối với nó, vả lại nó chỉ mới biết tên của cha nó trong thời gian gần đây. Nhưng nó đã biết từ lâu rằng nó là thành phần một giống người mới trên cái xứ Triều Tiên này.

“Chúng ta phải giải quyết lũ trẻ lai này làm sao đây?”

Đó là câu nói đầu môi của bao người trên đường phố, trong các quán hàng. Đôi khi câu hỏi ấy trở thành gay gắt và giọng nói của họ đã làm cho Kim khiếp sợ. Một hôm giữa đám đông, một người hung hãn đứng lên đọc một bài diễn văn thật hấp dẫn. Ông nói:

“Cái lũ trẻ lai ấy, chúng ta phải quăng chúng xuống biển nếu không có cách nào khác để thanh toán chúng”. Kim Christopher không thể cắp sách đi học. Lũ trẻ Triều Tiên chế nhạo nó và chỉ vào nó mà nói rằng: “Mẹ mày là một con điếm bởi vì cha mày là người Mỹ! Chỉ có những con điếm mới ngủ với Mỹ!”. Chúng liệt nó vào loại “mắt xanh mũi lõ”. Tuy vậy mắt nó không xanh và nó không nhìn thấy mũi nó lõ. Nó nhớ lại đã từ lâu, nó biết rằng nó không có thể sống trong cái xứ này. Bà ngoại nó khi thì tỏ ra thương yêu nó, khi thì đánh mắng nó. Nó thương yêu mẹ nó vì mẹ nó xinh đẹp, nhưng nó không thích bà vì bà sống một cuộc sống riêng rẻ. Đêm qua là lần đầu tiên nó bước vào ngôi nhà do mẹ nó làm chủ, ngôi nhà đầy gái đẹp. Mẹ nó đã gọi đến nó “Vạn Hoa Đình” bắt nó tắm gội, cắt tóc, và tuyên bố rằng từ rày trở đi nó sẽ phụ giúp bà trông nom công việc. Nhưng bà muốn nó phụ giúp công việc gì? Nó thích ca hát, gảy đàn tỳ bà. Nó hấp thụ cái năng khiếu ấy của mẹ nó và nó đã tập dượt để làm vui lòng bà. Hơn nữa nó đã mua cây đàn ấy với số tiền quét hè phố mà nó đã kiếm được. Tuy cây đàn thuộc loại rẻ tiền nhưng nó cũng đã luyện được những ngón hay và đã được thử thách một cách rất hãnh diện tối hôm qua khi mẹ nó cất tiếng hát trước các quan khách.

Sau khi chấm dứt cuộc trình diễn, đa số các người đàn ông hiện diện đều cặp tay các cô gái lui vào phòng riêng. Nhưng không có người đàn ông nào bước vào phòng của mẹ nó cả. Kim ngủ chung phòng với người gác cổng, một lão già mới đặt mình xuống giường đã ngáy pho pho.

Sáng hôm nay, ông Chu, một người đàn ông cao lớn, nghiêm trang và đáng kính, đã đến gặp mẹ Kim. Nó đã nấp ngoài hiên để nghe lỏm câu chuyện. Khi ông Chu cáo từ ra về, nó thu mình chờ đợi như một con vật đang rình mồi. Một bà già bước vào hỏi mẹ nó có uống trà không; nhưng chẳng biết vì sao mẹ nó đã thét lên giận dữ :

– Cút đi, cho tôi yên một chút.

Bà già lui ra, Kim nghe tiếng mẹ nó khóc. Nó nhìn xuyên qua những cành cây sơn trà. Mẹ nó ngồi một mình trên tấm nệm giữa sàn nhà, đầu cúi xuống hai cánh tay khoanh lại trên chiếc bàn thấp. Mẹ nó khóc rấm rứt. Nó ngập ngừng tiến đến bên bà với những bước chân do dự.

– Bây giờ con đã biết – Nó nói bằng tiếng Triều Tiên.

Sương ngẩng đầu hỏi :

– Mày biết gì?

– Biết con là ai.

– Mày là con tao – Bà nói – Mày không biết vậy sao?

– Con biết tên cha con là người Mỹ.

– Bất cứ cha mày tên gì cũng mặc, vì cha mày đã không nhìn nhận mày, cha mày chẳng gởi cho mày một đồng xu nhỏ cũng không có hỏi mày còn sống hay đã chết.

Nó liếc nhìn mẹ nó và tự hỏi bà có biết nó đã viết thư cho cha nó hay không?

Đột nhiên nó nói :

– Con biết địa chỉ của cha con rồi.

Mẹ nó thét lên :

– À, mày đã viết thư cho cha mày? Mày đã lục ngăn kéo của tao, đánh cắp lá thư và viết thư cho cha mày để phàn nàn tao!

– Không, không phải thế… Con không có phàn nàn gì mẹ cả.

Nó nói lắp bắp như mỗi lần mẹ nó làm cho nó sợ hãi. Mẹ nó đọc được sự sợ hãi trong đôi mắt nó, bà đứng dậy và tát tới tấp vào mặt nó. Nó cúi gập người xuống tránh đòn và cố không sợ bà. Bây giờ nó cũng cao lớn xấp xỉ bà, tại sao còn sợ bà? Không, đây không phải là sự sợ hãi mà gần như là một niềm lo âu, nếu người mẹ đã sinh ra nó mà không thương yêu nó thì ai yêu thương nó bây giờ? Nó sẽ trơ trọi một mình, xa lạ giữa một xứ xa lạ. Kim ngồi xổm, hai tay che đầu, mặt úp vào hai gối để tránh đòn. Nó đưa lưng nhận chịu những cái đá của mẹ nó. Mẹ nó vừa đá vừa thét :

– Mày hãy đi đi, đi cho khuất mắt tao. Dù sao mày cũng đã oán trách tao về những gì tao đã làm cho mày.

Kim ngước mặt khóc :

– Không, con không oán hận gì mẹ cả.

– Có. Mày oán tao. Mày chỉ biết thương thằng cha mày, người đã chẳng bận tâm gì đến sự sống chết của mày.

Hai mẹ con nhìn nhau mặt đối mặt và ngay lúc ấy Kim cảm thấy bừng lên trong lòng một nghị lực mới. Nó nói :

– Có lẽ mẹ muốn cho con trở thành một kẻ chẳng ra gì? Sau này khôn lớn con sẽ ra sao chứ? Con sẽ là một tên đi nhặt giẻ rách? Hay một đứa ăn mày?

– Mày sẽ phụ giúp tao, tao sẽ chỉ dẫn mày.

– Làm đầy tớ à?

– Có thể lắm, nếu mày có đủ sức làm đầy tớ.

Trong khi hai mẹ con căm giận nhìn nhau, đột nhiên Kim hiểu rõ – điều mà từ trước tới nay nó chưa bao giờ nghĩ đến – rằng nó cũng là con của người đàn bà này. Nó giống hệt bà. Đã lâu, vì quá mơ tưởng đến người cha Mỹ của nó, nên nó đã tự xem mình như một người Mỹ chính cống, nhưng nó đã quên rằng nó còn giống cả mẹ nó nữa.

Nó hỏi :

– Vậy mẹ muốn con sẽ ra sao?

Kiệt sức vì tức giận, bà thở dài ngồi thịch xuống tấm nệm để trên sàn.

– Mày có thể phụ giúp công việc cho tao. Mày hát hay và đàn giỏi.

– Phụ giúp… phụ giúp mấy cô gái thì có… – Nó càu nhàu.

Mẹ nó ngọt ngào :

– Chỉ lúc đầu thôi con ạ. Rồi con sẽ hiểu biết công việc dần và cai quản ngôi nhà này. Khi nào mẹ về già, mẹ sẽ giao cho con tất cả.

Kim nghĩ ngợi. Nó không còn là trẻ con nữa, nó biết, có nhiều đứa con trai còn nhỏ hơn nó, cũng lai như nó, đã chạy quanh các trại binh Mỹ để bắt mối cho chị chúng làm tiền. Một đứa trong bọn chúng là bạn thân của nó, nếu giả thiết rằng nó có nhiều bạn. Thường thì tụi lính Mỹ từ chối nhưng nó đã làm cho họ chấp nhận hoặc ít ra là làm cho họ ngừng lại để kết tình quen biết với lũ trẻ. Một người lính Mỹ đã cho nó tiền để nó dẫn vào “Vạn Hoa Đình”, nhưng Kim Christopher chưa bao giờ vào đó và vì quá sợ mẹ nên nó đã từ chổi.

Mẹ nó hỏi :

– Con nghĩ gì thế?

Nó nhún vai không đáp, lê bước đi. Bà lại giận dữ hét lớn :

– Quay lại đây thằng khốn. Tại sao tao hỏi mà không trả lời. Rồi mày sẽ biết tay tao!

Nó cứ bước đi. Bỗng nhiên nó không còn sợ mẹ nó nữa. Nó biết, từ nay nó sẽ không bao giờ còn sợ bà. Bởi vì mẹ nó muốn nó phục tùng bà, giúp đỡ bà khai thác việc bán phấn buôn hương. Vì vậy nó quyết định trở về cùng cha nó.

° ° °

Laura đang nằm nghỉ trên giường thì nghe tiếng gõ cửa: tiếng gõ nhẹ nhàng, rụt rè và do dự. Bà mở mắt, nhưng không dậy. Bà đang mệt nhọc: một nỗi mệt nhọc lạ kỳ không do thể chất đã làm cho bà trở nên não nề. Tiếng gõ cửa lại tiếp tục mạnh hơn. Bà chỗi dậy và quàng cái áo ngủ vào người. Bà bước tới mở cửa, đứa bé đứng trước mắt bà. Bà không ngờ nó đến thăm bà. Nó im lặng nhìn bà. Nó mặc chiếc áo cụt tay, quần xà lỏn ngắn, chân mang dép rơm như thường lệ.

Kinh ngạc, bà ngập ngừng nói :

– Vào đi Kim Christopher.

Nó bước vào nhưng vẫn đứng nhìn quanh gian phòng. Bà bảo :

– Ngồi đi con.

Bà ngồi xuống một cái ghế đối diện nó. Bà nhìn thấy trên mặt nó có một vệt đỏ bầm.

Bà hỏi :

– Mặt con sao thế?

– Mẹ con… – Nó nói và chấm dứt với một cử chỉ ý nghĩa.

– Khổ chưa! – Bà nói và đứng dậy một cách tự nhiên, đến bên và vuốt ve má đứa bé. Da dẻ nó mịn màng.

“Bên ngoại nó người Triều Tiên”, bà thầm nghĩ.

– Tại sao mẹ con đánh thế?

Với lối nói tiếng Anh chập chững, nó cố gắng giải thích :

– Mẹ con… bảo ở lại với mẹ con.

– Con muốn nói rằng mẹ con bảo con ở lại “nhà hoa” phải không?

Nó gật đầu :

– Để làm việc.

– Con có thích không?

– Không.

Bà chăm chú nhìn đứa trẻ, cố đoán những ý nghĩ trong đầu óc nó :

– Con có thương mẹ con không?

Nó hiểu rất rõ nhưng không thể giải thích được. Nó nói :

– Đôi khi…

– Đôi khi? Mẹ con tử tế với con chứ?

Nó ngập ngừng :

– Không đi học.

– Bà ngoại ra sao?

Nó diễn lại trò giẫm chân và đánh đòn của bà ngoại nó.

Nó nói :

– Bà ngoại đánh con như thế này này.

Nó lại ngồi xuống ghế, quàng tay lên hai đầu gối gầy teo, đầu cúi xuống bất động, bóng đen của hai hàng mi có thể nhìn thấy trên hai má nó. Thằng bé thật giống Chris! Mà đồng thời nó cũng thật khác chàng! Bà thầm nghĩ. Điều gì sẽ xảy tới cho thằng bé này nữa?

Bà hỏi :

– Nếu ta gởi con vào trường học, con nghĩ sao?

Nó lắc đầu quầy quậy.

– Con không muốn à?

Nó ngước nhìn bà :

– Đi Mỹ.

Bà thở dài, lo lắng về điều mà đứa trẻ đặt ra. Nó sẽ được sinh ra quá sớm trong một thế giới không sẵn sàng để tiếp nhận nó.

– Ba con… Xin bà giúp con.

– Ờ, ta hiểu… ta biết…

Bà đứng dậy và tiến đến bên cửa sổ để nhìn ngắm cái thành phố xa lạ này. Không những bà chỉ giải quyết vấn đề khó khăn cho đứa bé mà thôi mà còn phải nghĩ tới Chris nữa. Riêng bà, bà có thế từ bỏ tư kiến dễ dàng, một phần vì bà có tâm hồn siêu thoát của một nhà bác học và phần khác vì bà là một người biết xem thường tiếng thị phi. Nhưng cuộc đời và sự nghiệp của Chris tùy thuộc vào tính thất thường của các cử tri, tùy thuộc các thành kiến và những tư tưởng hẹp hòi của họ. Chồng bà sẽ ăn nói làm sao nếu bà mang về một đứa trẻ khá giống ông để gây nên một trận phong ba bàn tán. Trận phong ba ấy có thể phá đổ sự nghiệp của chồng bà. Trong hoàn cảnh này chỉ một mình đứa bé là hoàn toàn vô tội.

Bà tiến đến bên nó và cầm lấy tay nó. Áo quần nó tồi tàn làm sao! Trước hết bà phải cho nó thay quần áo mới. Rồi bà sẽ dẫn nó đến ăn sáng tại phòng ăn của khách sạn. Mình nó chỉ có da bọc xương.

– Kim Christopher, trước hết phải mua quần áo mới cho con đã. Nào hãy chỉ cho ta tiệm bán áo quần.

Bà sờ áo Kim, trề môi và lắc đầu.

– A! – Nó reo lên.

Nó đã hiểu. Nó bước ra cửa một cách hăng hái. Nó vui vẻ nói :

– Con hiểu, con hiểu rồi.

Họ đi mua sắm chưa tới một giờ đồng hồ. Bây giờ đứa trẻ đã mặc áo quần mới và mang giày mới.

– Bỏ những cái giẻ rách này đi.

Bà vừa nói vừa ném bộ quần áo cũ của Kim vào góc phòng.

Bà nhận thấy nó có vẻ bất bình, nhưng bà chẳng nói gì. Bà dẫn Kim đi trên đường phố; trong bộ quần áo như vậy thằng bé có vẻ oai phong lắm, khiến bà rất lấy làm hãnh diện. Ước gì chồng bà có thể nhìn thấy nó bây giờ! Cảm thấy mình hân hoan quá đáng, bà vội kiềm hãm bớt cõi lòng. Thằng bé rất xinh trai, thật vậy, nhưng còn có gì vượt quá sự bình thường: dầu sao, đó là con của Chris và Sương – Phải rộng lượng thừa nhặn điều đó – Nhưng chắc đây là một trường hợp đặc biệt, vì bà chưa từng thấy một đứa bé nào tại Triều Tiên cũng như tại Mỹ quốc đẹp như Kim Christopher. Không phải nó chỉ đẹp về đường nét, về màu da, mà còn đẹp về sự pha trộn của vẻ thanh nhả và cương quyết nữa. Đứa bé này manh dẻ hơn lũ trẻ Hoa Kỳ, nhưng sức mạnh hơn lũ trẻ Triều Tiên. Bà nhớ lại cơ thể của các hải thao mà bà đã nghiên cứu tại phòng thí nghiệm, mềm mại như cây sậy nhưng mạnh khỏe như voi.

Bà trở về với thực tại. Kim Christopher đang kiên nhẫn chờ đợi lời bình phẩm của bà. Bà ngắm nghía nó và nói :

– Ồ, đẹp lắm.

– Giống Mỹ chứ? – Nó hỏi với đôi mắt chứa chan hy vọng.

– Giống lắm.

Bà nói vậy nhưng sự thật không hoàn toàn đúng thế. Quả vậy, tại cái xứ Triều Tiên này thì Jiim Christopher có vẻ rất Mỹ, nhưng tại Mỹ – Nếu bà mang nó về Mỹ – thì bà biết chắc rằng người ta sẽ nhìn thấy cái vẻ Á đông nơi nó. Vậy thì nó thuộc xứ nào?

Bà bảo Kim Christopher :

– Chúng ta trở về khách sạn để ăn điểm tâm.

Khi bước vào khách sạn, bà nhìn thấy ông Chu đang ngồi ăn sáng nơi cái bàn mà ông thường ngồi cạnh cửa sổ mọi ngày. Bà mỉm cười vẫy tay chào ông, nhưng bà chọn một bàn khác xa đấy để được ngồi một mình cùng đứa trẻ. Nét nhìn tò mò của ông Chu đã làm cho bà thích thú thật sự. Không phải chỉ có một mình ông ta tò mò mà thôi, các du khách ngoại quốc cũng đang nhìn theo bà và bé Kim. Bà nghĩ đến những tư tưởng và ước đoán của họ. Bà kín đáo nhìn đứa trẻ ngồi đối diện bà với đôi mắt của một người từ mẫu. Nhưng đứa trẻ vẫn vô tình không hiểu, nó tò mò bắt chước lối cầm muỗng cầm dao của bà. Nó vừa mới biết đến cái khăn ăn, nó liền làm theo. Bà xúc động nhìn thấy đứa bé chăm chú làm theo bà.

Ông Chu không thể dằn được tính tò mò, khi ăn xong, ông đến bên bàn bà. Ông hỏi bà một cách lịch sự như thường lệ :

– Thưa bà, hôm nay bà mạnh khỏe không ạ?

– Cám ơn ông, tôi vẫn mạnh. Tôi vừa mới đi một vòng cùng Christopher về đây.

Lần đầu tiên bà gọi đứa trẻ là Christopher mà không thêm họ Kim, họ Triều Tiên của nó và ngay bà cũng cảm thấy ngạc nhiên về chính mình.

Đôi mắt sắc bén của ông Chu nhìn trệch sang nơi khác. Ông nói :

– À, thì ra thế. Chú bé quá thanh lịch như vậy, người ta sẽ ngỡ là dân Mỹ chính cống. Thưa bà, bà có đưa nó về Mỹ không ạ?

Laura cười cùng Christopher :

– Con nghĩ sao?

– Con xin sẵn lòng nếu bà muốn. – Nó nhiệt thành đáp.

Ông Chu dò hỏi :

– Nhưng phải có sự đồng ý của mẹ nó chứ, phải không thưa bà?

– Tôi hy vọng bà Sương sẽ bằng lòng. – Bà dằn mạnh từng tiếng và càng ngạc nhiên hơn về những phản ứng của chính mình. Mặc dầu bà chưa có một quyết định nào dứt khoát cả, nhưng thái độ của ông Chu và cái lối phát biểu của ông như thúc đẩy bà quyết định.

– Vâng, tôi cũng hy vọng thế. – Ông thở dài và bỏ đi.

Dù sao bà vẫn bối rối về quyết định này, cái quyết định do ông Chu gợi ý ít nhiều. Bà tiếp tục bữa điểm tâm. Christopher tráng miệng với một cốc kem thật lớn. Bây giờ, bà tự hỏi: phải làm gì đứa trẻ đây? Còn quá nhiều điều phải quyết định và nhiều việc phải làm.

Khi bà trao cho Christopher gói quần áo mới, bà dặn :

– Ngày mai trở lại nghe!… Phải đấy, ngày mai con ạ! – Bà nhắc lại như để xác nhận.

– Thưa bà, vâng.

Bà xuýt buột miệng nói: “Đừng gọi tôi bằng bà”, nhưng biết bảo nó gọi sao bây giờ? Gọi là bà Winters thì quá nhạt nhẽo, mà gọi là Laura thì quá thân mật. Gọi bằng mẹ cũng không thể được bởi vì nó còn có mẹ cơ mà. Trong lúc chờ đợi, đừng có thay đổi cách xưng hô là hơn; vả lại tất cả đều tùy thuộc vào các quyết định sau này.

Để khỏi hôn đứa trẻ, bà khẽ quàng lấy nó vào lòng và nói :

– Thôi con về.

° ° °

Bà nhận được thư của chồng tại phòng riêng, lá thư đầu tiên kể từ ngày bà đến Hán Thành. Tuy chỉ mới đến đây có mấy hôm mà bà xem như là đã trót tháng. Bà cầm lấy phong thư, buông mình xuống ghế phô-tơi và quên đi tất cả những gì khác.

“Cưng ơi, thư em quá vắn…”.

Phải mình ạ, vì rằng em chưa có gì chính xác để nói với mình, bà lẩm bẩm…

“Anh hóa điên lên được. Anh muốn bỏ tất cả và nhảy lên chuyến phi cơ đầu tiên để đến cùng em, nhưng như thế chỉ làm khó khăn thêm cho em mà thôi. Bây giờ, em chắc chắn đã nhìn thấy đứa bé rồi chứ?…”

Ôi! Mình, em cũng muốn cả mình nhìn thấy nó nữa, bà thầm nói, như thế việc quyết định sẽ dễ hơn nhiều. Ít nhất… phải ít nhất điều này không làm trái…

“Anh hy vọng rằng người đàn bà ấy không làm điều gì khó dễ em…”.

Dòng chữ này đã nói lên sự lo lắng của chồng bà, ông muốn được chia sẻ cùng bà những nỗi khó khăn mà bà đang gặp phải. Sau đó, ông hăng say kể lại mọi diễn tiến của cuộc vận động tranh cử. Bà tưởng tượng như đang nhìn thấy ông vội vàng tiếp các khách khứa, bạn bè, cử tri v.v… và ông đang đọc diễn văn trên màn ảnh của vô tuyến truyền hình. Chàng ăn ảnh kinh khủng! Bà thầm nghĩ. Bà ngốn ngấu đọc hết mấy trang thư. Chàng đã tiếp nhận hàng đống thư từ. Chàng đang chống đỡ cuộc tấn công ráo riết của nhóm thủ cựu, họ đã căng một màn lưới trinh thám chuyên bới móc đời tư và ngay cả quá khứ của chàng, kể từ hồi còn thơ ấu. Đó là những gì phương pháp tranh cử đáng khinh bỉ, nhưng lại có lợi cho chàng trong cuộc chiến đấu quyết liệt này. Thuở thiếu thời chàng rất đứng đắn. Và còn vẻ xinh trai phi thường của mình nữa mình ạ. Bà lẩm bẩm.

“Cụ Henry Allen là một người đỡ đầu vững như bàn thạch, chồng bà viết tiếp. Thế lực của cụ không những chỉ vững vàng trong tiểu bang mà khắp cả toàn quốc. Đối với anh, tên của cụ chẳng khác gì một cây lệnh kỳ. Thật vậy, anh phải xứng đáng sự tín nhiệm của cụ và cuộc vận động tranh cử của anh phải ngay thẳng. Nhưng dù sao, sự trái ngược đã làm cho anh kinh sợ”.

Lẽ tự nhiên, Laura hãnh diện nghĩ. Bà gấp lá thư lại, đưa lên môi hôn và nhét vào ngực áo. Rồi bà để lòng tưởng nhớ đến chồng. Bà ngả người ra ghế dựa, mắt nhắm lại, gợi lên trong tâm trí hình ảnh chồng bà. Ở vào cái thời đại mà ái tình chân chính đã bị quá nhiều tiếng xấu và giảm xuống ngang hàng với thú vui thế tục, may mắn biết bao bà đã gặp được một người chồng hiểu biết tình yêu này!

“Chàng yêu ta vì chính con người thật sự của ta mà không tìm đến cách biến ta thành lệ thuộc chàng”. Bà nghĩ. Cái loại hạnh phúc như vậy rất hiếm, không nên để bị mất đi vì một đứa trẻ sinh ra từ phía bên kia góc bể chân trời, một đứa trẻ vô thừa nhận, ngẫu nhiên mà sinh ra. Một đứa trẻ thật xinh đẹp và dễ thương, nhưng cũng không nên vì nó mà phá hỏng một sự hiện hữu tốt đẹp đến thế, có thể hữu ích cho hàng ngàn hàng triệu người… Phải hàng triệu người nếu sự nghiệp của Chris không bị đổ vỡ vì một vài đối thủ ích kỷ, có thế sử dụng đủ mọi thủ đoạn miễn là đạt được mục đích của họ. Cái tên Henry Allen đã làm cho quả tim bà thắt lại. Chồng bà có nên thú thật cùng cụ hay không? Nếu giấu cụ, chồng bà có phải là người chính trực hay không? Ôi! Những nhu cầu bắt buộc của danh dự!

Bà bắt đầu viết thư cho chồng với những dòng chữ lớn và rõ ràng:

“Mình ơi! Mình không nghĩ rằng thế nào rồi cụ Henry Allen cũng biết rõ câu chuyện bé Christopher hay sao? Quả là bó buộc, nếu không được sống như một người dân thường, để có thể bất chấp dư luận. Ở đây có hàng ngàn trẻ con giống như nó, chúng ta chỉ có việc đưa nó về Mỹ và nói rằng chúng ta nuôi nó làm con nuôi rồi để mặc thiên hạ muốn nói gì thì nói. Điều đó cũng chẳng quan hệ gì. Nhưng khốn nỗi thằng bé nó quá tinh anh, chẳng khác mình tí nào cả thì biết ăn nói làm sao đây. Em không thể khuyên mình khước từ việc thừa nhận đứa trẻ, không, em không thể làm như thế, chỉ vì một lỗi lầm nhỏ…”

Bà gạch bỏ chữ “lỗi lầm” để khỏi đọc được, thay vào chữ “từng trải” và hấp tấp viết tiếp:

“Mình không nên nghĩ quấy rằng, thà đừng sinh ra nó còn hơn, bởi vì thằng bé đẹp lắm mình ạ, nó giống mình như đúc, nhưng đồng thời nó cũng khác mình. Thật khó mà biết rõ nó nghĩ gì về mẹ nó, nhưng nó ước ao được mình mang nó về sống với mình. Hôm nay em đã mua áo quần mới cho nó…”.

° ° °

Viết xong bức thư, bà chợt nhận ra rằng bà đã nói quá nhiều về bé Kim: những năm trang đầy. Bà không ngờ bà có thể viết hết câu chuyện dài dòng như vậy. Khi bà đã gởi lá thư bằng đường hàng không, bà cảm thấy cần đến sự hiện diện của chồng bà biết bao. Bà cần ở bên chồng để được ngả vào lòng ông mà thổn thức vì đau khổ. Bà cảm thấy nhớ nhung hết sức, không chỉ nhớ nhung chồng mà còn nhớ đến nơi ăn chốn ở, nhớ cả cái cuộc sống yên vui mà bà hằng thương mến. Bà tưởng nghĩ đến ngôi nhà của vợ chồng bà tọa lạc trên một đường phố yên tĩnh cạnh công trường. Nhà họ rất rộng lớn, mặt tiền xây bằng cẩm thạch trắng, phòng khách chính bằng cẩm thạch trắng rất mát mẻ với một cầu thang tráng lệ cũng bằng cẩm thạch trắng dẫn lên lầu trên. Ngày xưa một vị trong gia đình họ Winters hồi còn xuân trẻ đã yêu say đắm một thiếu nữ người Pháp; nhưng cô ta không muốn rời bỏ tòa lâu đài thân mến của cô nên chàng thanh niên đa tình đã phải cam kết sửa chữa tòa nhà của mình ở Mỹ giống hệt như nhà của người yêu tại Pháp. Với số chi phí thật khổng lồ, người Mỹ đã thành công trong việc bài trí bên trong lâu đài chẳng khác một mảy may chỗ ở cũ của người yêu.

“Ôi! Nhớ nhà làm sao! Laura thầm nghĩ, nhớ những hàng cây hai bên đường, nhớ cả các bạn láng giềng…”. Tuy nhiên, thường ngày bà không để ý tới họ bao nhiêu, vì bà là người ít giao thiệp, hơn nữa vì bà quá say mê việc nội trợ và công cuộc khảo cứu của bà.

Bây giờ đây cách xa hàng ngàn cây số, trong một khách sạn xa lạ giữa cái thành phố Á châu này, ngôi nhà đối với bà cũng có vẻ xa cách như trong một giấc mộng: nhưng chính đó là nơi mà Chris đang sống và bà phải vội vã lo cho xong công việc để trở về cùng chồng. Chồng bà đã căn dặn ba phải luôn luôn giữ trong mình một vé phi cơ khứ hồi, một giấy thông hành và tập chi phiếu du lịch.

Ông đã nói:

“Không ai có thể biết được những gì sẽ xảy ra. Mình chớ quên rằng Hán Thành chỉ cách xa vùng địch quân chiếm đóng khoảng một trăm ba mươi lăm cây số mà thôi. Mình phải luôn luôn sẵn sàng để ra đi bất cứ lúc nào”.

Bà ước ao được ra đi ngay tức khắc. Bà chỉ việc xuống đường, lấy taxi ra phi trường và bước lên chiếc phi cơ đầu tiên để về Mỹ. Bà đã đi trên con đường từ phi trường vào thành phố, nhưng bà cũng biết rằng bà không thể ra đi như thế được. Bà không phải là hạng người có thể lẩn tránh bổn phận. Không, bà phải tự mình thu xếp. Tiếng chuông điện thoại reo vang dường như để đáp lại câu hỏi mà bà đã đặt ra.

– A lô?

– Thưa, phải bà Winters đây không ạ? – Tiếng của trung úy Brown – Jim và tôi muốn mời bà đi du ngoạn một vòng bằng xe hơi rồi sau đó chúng ta đến ăn tối và khiêu vũ tại Walker Hill.

– Một ý kiến hay! – Bà đáp vì cảm thấy buồn cô độc.

– Tốt! Vậy thì thưa bà lát nữa, khoảng nửa giờ, chúng tôi đón bà bên dưới nhé, bà nhé?

– Vâng.

° ° °

Hai chàng thanh niên mặc quân phục dạo phố trông thật khỏe mạnh, bảnh bao.

Trên chiếc xe hơi đưa bà ra vùng quê du ngoạn, bà hỏi :

– Hai anh quen biết nhau trước khi sang đây à?

Trung úy Brown trịnh trọng nói :

– Thưa bà không. Chúng tôi quen nhau từ khi Jim cứu tôi thoát chết. Một hôm, sinh viên Triều Tiên tổ chức biểu tình ngoài đường phố để chống lại một hiệp ước vừa ký kết với Nhật Bản – dĩ nhiên việc ký kết này ít nhiều do áp lực của Hoa Kỳ – họ bất thần tấn công tôi là người Mỹ độc nhất đi trên đường, họ xúm vào đánh đập tôi chí tử. May thay, Jim đi qua đây và kéo tôi ra khỏi trận đòn hội chợ, nhưng tôi cũng đã bị thương khá nặng.

– Tại sao họ chống lại bản hiệp ước ấy?

– Đó là lẽ thường, bởi vì người Nhật Bản đã áp bức họ trong gần nửa thế kỷ. Cho đến lúc đó Triều Tiên đã được độc lập và thưa bà, chắc bà cũng biết lòng tự ái dân tộc của họ ra sao rồi. Người Nhật Bản không có làm gì nửa vời cả; họ cố hủy diệt nền văn hóa Triều Tiên, họ bắt buộc dạy tiếng Nhật trong các trường v.v… Ở đây người ta đa nghi và họ sẽ đa nghi mãi, tôi chắc thế. Họ nghi ngờ người Nhật Bản rắp tâm nhúng tay vào quốc gia họ. Trước hết bằng kinh tế rồi các việc khác sẽ đến sau. Có thể họ có lý. Dầu sao đi nữa…

Bà Laura hỏi ngang :

– Còn lũ trẻ lai Mỹ có can gì không?

– Tôi tưởng chúng nó cũng bị hành hung gì đó trong mươi lăm phút.

– Thế thôi sao? – Jim nói – Anh chớ có quên rằng người ta đã giết chết một số khá nhiều.

– Ồ không, không lẽ!

– Thưa bà đó là sự thật! Bà không để ý đến một số trẻ vị thành niên loại này sao? Người ta đã thanh toán chúng vào năm 1950. Nhiều đứa trong số này đã chết. Một số khác đã bị thiến.

– Câm mồm đi, Jim!

– Ờ, thì tao nói sự thật mà! Tao có quen một viên sĩ quan hầu cận đại tướng, hắn ta nói rằng chính hắn đã nhìn thấy những đứa trẻ khốn khổ này, những mảnh nhỏ, tất cả…

– Thằng khốn, tao đã bảo mày câm đi kia mà! – Trung úy Brown hét lớn.

Jim lách tay lái để tránh một cái ổ gà và ngậm thinh.

Trong khi ánh mặt trời hoàng hôn yên tĩnh chiếu sáng cảnh vật đẹp như tranh thì cả ba đều im lặng nghĩ đến số phận thê thảm của những đứa trẻ nạn nhân của chiến tranh. Bóng tối đã đè nặng lên những khoảng lõm của các thung lũng khi mặt trời ngã trên đỉnh núi. Các đỉnh núi biến sang màu hoa cà, các thung lũng màu xanh lá cây. Đó đây, một cây bạch dương lá úa vàng vì đã sang thu, đứng sừng sững giống như một bó đuốc đang bừng cháy nổi bật lên trên nền sẫm của những lèn đá lởm chởm. Trong các ngôi làng ở giữa những cánh đồng rộng có những người đàn ông cao lớn, mặc áo dài lụa trắng, đội nón rộng vành tết bằng lông đuôi ngựa có quai máng ở cằm. Laura nhận thấy ở nơi họ có một vẻ gì trang nghiêm lạ kỳ. Đàn bà hầu hết đều chưng diện những cái váy rộng lụng thụng dính liền với thân áo trên, và có thói quen mang nặng trang sức trên đầu làm cho họ có dáng điệu của những bà hoàng. Laura nghĩ đến bé Christopher. Chắc bà phải đền đáp xứng đáng cho Sương vì cô ta đã bảo vệ sự sống còn của đứa trẻ… ít ra là thế, nếu không…

Đang suy nghĩ, chợt bà lớn tiếng nói :

– Thật tôi không thể nào hiểu được tại sao các binh sĩ ta có thể… giao du thân mật với những người đàn bà này mà lại để phải có con.

Jim cắt ngang câu nói của bà, mắt vẫn dán chặt xuống mặt đường.

– Tôi có một cô bạn nhỏ ở đây, bà Winters ạ. Cô ta khá xinh và chỉ lấy một mình tôi. Nhưng tôi đã báo trước với cô ta: “Nếu một ngày nào đó em nói với anh rằng em đã thụ thai thì lập tức anh sẽ bỏ rơi em đấy!” Vì vậy, cô ta đã thận trọng. Cô ta biết rằng tôi không muốn có con, bao lâu cô còn vâng lời tôi…

Trung úy Brown nói xen vào, giọng nghiêm khắc :

– Và tìm cách phá thai.

Jim bẻ lại :

– Đó là việc của nó.

– Cái hạng đàn bà này, một số đã phải bắt buộc phá thai tám chín lần trong một năm.

Jim cắt ngang :

– Ồ điều ấy chẳng can hệ gì đến tao hết.

Xe đang chạy bon bon thì có ba đứa trẻ rách rưới xuất hiện trước mắt họ đột ngột đến nỗi chiếc xe phải lái lệch sang một bên và suýt đụng phải một cái miễu nhỏ bên vệ đường. Chúng chìa ra những bàn tay dơ bẩn, miệng xin tiền rối rít.

Tay móc túi, miệng Jim lẩm bẩm :

– Chẳng khác gì lũ sói…

Trung úy Brown nhìn chúng nói :

– Đứa nào cũng lai hết.

Jim thở dài :

– Trong các làng, thiếu khối.

Rồi quay sang một đứa trẻ :

– Đây mày!

Anh ta ném qua cửa xe những đồng bạc lẻ, ba đứa trẻ nhào đến lượm giữa đống bụi cát bên đường, chúng giành nhau, đánh nhau chẳng khác gì bầy chó tranh xương.

Laura cũng để ý đến chúng nó. Quả thật, chúng là những đứa trẻ lai Mỹ. Một thằng nhỏ có mái tóc nâu, mặt đầy tàn hương, một con bé khuôn mặt có những đường nét như thiên thần vừa đấm vào lưng lũ con trai vừa khóc.

Bà nói :

– Chúng ta đi thôi. Tôi nhìn thấy đã quá đủ rồi!

° ° °

Ăn tối xong, họ đang chậm rãi uống cà phê. Laura lưỡng lự ngại lúc trở về khách sạn phải cô độc một mình. Trong gian phòng rộng đầy những người Mỹ mặc quân phục và những cô gái Triều Tiên mặc đầm. Laura không muốn khiêu vũ, hơn nữa bà chán ngấy cái đám người đong đưa nhúc nhích trên sàn nhảy. Jim đang quay tít trong vòng tay một nữ gầy nhưng cao lớn hơn anh ta.

Bạn anh nói :

– Coi chừng đấy, cô ta trông có vẻ bị lao.

Jim đáp, giọng cộc lốc :

– Không có con.

Trung úy Brown hạ giọng nói với Laura :

– Bà xem, trông cô ta có vẻ như bị lao…

Bà hỏi :

– Cô ta không đi chữa bệnh sao?

– Có thể là không. Bởi vì cô ta phải làm việc. Ít ra là một nửa con họ đều ho lao.

– Đến một nửa sao? Tôi hy vọng rằng không nhiều đến thế.

– Sao không? Có ai lo lắng gì đâu.

Nghe cái giọng nói khô khan và chua chát của Brown, bà đoán anh ta là một con người nhân hậu đã hấp thu một nền giáo dục nghiêm túc, vẫn còn khe khắt với cả chính mình.

– Ai lo? Thì chính anh đang lo đấy chứ ai?

– Tôi đâu có quyền.

Đột nhiên người điều khiển chương trình xuất hiện trên sân khấu và âm nhạc vụt tắt, đám đông đang khiêu vũ ngừng lại, trong phòng im phăng phắc. Anh ta nhoẻn miệng cười, cất tiếng giới thiệu :

– Kính thưa quý vị, hôm nay chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cùng quý vị một màn vũ bụng đặc sắc do một vũ nữ nổi danh tại Mỹ quốc vừa từ Cựu Kim Sơn đến trình diễn. Sau đó, quý vị sẽ được thưởng thức tiếng oanh vàng của nữ ca sĩ Kim Sương. Đêm nay, cô Kim Sương trình bày ca khúc này thể theo lời yêu cầu đặc biệt.

Laura giật mình :

– Anh có biết cô ta đến trình diễn tại đây đêm nay không?

– Thưa bà không. Thỉnh thoảng cô ta có đến hát ở đây, nhưng ít khi lắm. Vừa rồi cô ấy có đến trình diễn trong một cuộc tiếp tân các nhân vật công du. Được cô ta nhận lời đến giúp vui dường như là không phải dễ. Người ta nói rằng, được cô Kim Sương chiếu cố đến trình diễn là một vinh dự vì cô ta không hát ở đâu khác ngoài nhà hàng của cô.

– Cô ta có giá trị gì?

– Trong lãnh vực nghề nghiệp, cô là một người đáng giá. Dầu sao đi nữa cô cũng là một người nổi tiếng là khó với bất cứ hạng đàn ông nào.

– Ngay cả những người đàn ông Triều Tiên cũng thế sao?

– Vâng.

Người vũ nữ xuất hiện trên sân khấu: một cô gái đầy đặn, cân đối, cô ta gần như khỏa thân: một cái khố và hai hạt dẽ vàng trên khuôn ngực. Những người khiêu vũ đã trở về chỗ ngồi và ban nhạc bắt đầu chơi một bản nhạc giật gân vang dội inh ỏi. Người vũ nữ bắt đầu chuyển động. Từng thớ thịt một, dường như đang vùng vẫy giẫy giụa một cách sống động quanh cái bộ xương bất động của người vũ nữ. Laura bật cười không thể nào dằn được, bởi vì khuôn mặt của người vũ nữ vẫn không cảm xúc dường như chẳng biết đến những gì xảy ra bên dưới. Đôi mắt màu xanh của cô ta vẫn dửng dưng làn môi đỏ chót vẫn hờ hững.

Laura liếc nhìn các khán giả: những lính Mỹ vui cười, còn những người Á đông thì im lặng. Cuối cùng bà cảm thấy như ngượng ngùng. Cô gái ấy là ai? Cô ta từ đâu đến? Cô ta làm gì trên cái xứ xa lạ này? Màn vũ chấm dứt, những người Mỹ vỗ tay tán thưởng ồn ào nhưng những người Á châu thì chẳng to vẻ gì. Cô vũ nữ khẽ cúi chào và lui vào bên trong.

Người điều khiển chương trình bước ra nói :

– Tiếp theo đây, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cùng quý vị: Cô Kim Sương!

Sương bước ra trong khi mọi người im phăng phắc. Dường như luôn luôn phục sức theo lối Triều Tiên, nàng mặc một cái váy gấm rộng màu hồng, thân áo trên bằng lụa dệt ngân tuyến óng ánh bạc. Bím tóc của nàng buông thỏng sau lưng, đôi hài màu bạc mũi nhọn vểnh lên theo lối cổ miền Trung Á.

Nàng đứng đợi, hai tay chắp lại một cách bình thản. Âm nhạc bắt đầu trổi lên, khe khẽ trong khi tiếng trống vỗ nhịp theo tiết điệu du dương của tiếng đàn dây. Sau phần tấu khúc dài, Sương ngước mắt lên và cất tiếng hát. Đây không phải là ca khúc Triều Tiên mà là giai điệu bản “Con người cô độc” của Tchaikowsky. Về phía người Mỹ, họ không còn cười đùa nữa mà người ta cũng không còn nhìn thấy vẻ ngạc nhiên nơi những người Á châu. Bài ca này không ai là không hiểu. Trong sự im lặng tuyệt đối, giọng nữ kim trong trẻo của Sương nổi bật lên mọi âm thái, từ tiếng kêu van tha thiết đến tiếng thì thầm hết sức êm dịu. Khi nàng hát xong, căn phòng dường như rơi vào một sự im lặng ma quái, rồi tiếp theo là những tràng vỗ tay tán thưởng vang dội rào rào. Nàng cúi chào và lui ra với những bước chân hết sức nhẹ nhàng, dường như nàng không cất bước mà là lướt đi một cách êm ái. Tiếng vỗ tay vẫn còn tiếp tục không ngừng, người điều khiển chương trình phải bước ra nói:

“Cô Kim Sương có lời cám ơn sự hâm mộ của quý vị, nhưng cô xin cáo lỗi. Cô không hát lại lần thứ hai một bản nhạc nào bao giờ”.

Laura đã lắng nghe Kim Sương hát, thoạt tiên bà ngạc nhiên, rồi khâm phục và cuối cùng ngạc nhiên hơn. Tại sao Sương đã trình bày bản nhạc ấy? Cô ta đã học ở đâu? Phải chăng đây là một dụng ý? Nếu phải thì chỉ là để ngỏ cùng bà mà thôi. Nhưng sao cô ta lại biết chắc có sự hiện diện của bà đêm nay ở đây? Laura không thể tìm ra được câu giải đáp nào mà ngay cả thắc mắc sau đây cũng không thể giải đáp được: Kim Sương thuộc hạng đàn bà nào?

Bà vụt đứng dậy và nói với hai chàng thanh niên :

– Xin lỗi. Tôi cần phải đi gặp cô Kim Sương ngay.

Bà đi về phía hậu trượng thô sơ. Trong một căn phòng nhỏ hẹp có trang bị một bàn phấn. Sương đang khóc nức nở đầu gục xuống hai vòng tay.

Laura ngừng lại ở ngưỡng cửa, rồi bước vào và đặt, tay lên vai Sương. Bà dịu dàng nói :

– Cô Sương! Tôi đây.

Sương ngẩng đầu và lùi lại với một vẻ giận dữ khiến Laura hết sức ngạc nhiên. Hai mắt và má đẫm lệ, nàng hỏi :

– Bà đến đây làm gì? Tại sao?

– Cô… cô hát quá hay – Laura lắp bắp – Nhưng bài hát ấy… tại sao… Ai đã dạy cho cô?

Sương cau có :

– Điều đó quan hệ gì đến bà?

– Quan hệ lắm chứ, nhưng tôi không hiểu tại sao. – Với một giọng nói ngập ngừng bà giải thích cho Sương hiểu điều mà bà cảm thấy – Chúng tôi cần phải hiểu cho nhau cô Sương ạ! Tôi không có ý làm cho cô đau khổ. Tôi mong rằng đó chỉ là vấn đề hỗ tương. Chúng ta có thể cùng nhau quyết định tương lai của đứa trẻ. Tôi xin thành thật thú nhận cùng cô rằng tôi không nghĩ gì đến cô cả mà chỉ nghĩ đến tôi và… chồng… chồng… cha của đứa trẻ.

Sương thấm lệ bằng một khăn lụa nhỏ. Nàng đứng dậy đóng cửa phòng lại. Rồi nàng ngồi xuống ghế và ra hiệu mời Laura ngồi. Sương cắn môi, nói :

– Tôi không phải là hạng đàn bà can đảm. Chỉ là giả vờ can đảm đấy thật. Tôi yêu chồng của… Tôi yêu anh ấy lắm. Vì vậy, tôi tự học lấy bài hát ấy. Nó nói lên điều mà tôi nghĩ, điều mà tôi cảm thấy. Tôi quá mơ mộng. Tôi mơ một ngày nào đó anh ấy sẽ trở lại với tôi. Tôi không thể nào yêu ai khác được.

– Cô muốn nói rằng cô giữ đứa bé phải không?

Sương lắc đầu :

– Không, tôi không nói vậy. Nó cũng như cha nó. Tôi biết nó chẳng thương yêu gì tôi, chẳng bao giờ…

Nàng cắn chặt đôi môi duyên dáng đang bắt đầu run run.

Laura nói :

– Tôi xin có. Cô muốn gì? Tôi sẽ cố hết sức mình để có thể làm cho cô vừa lòng.

Sương lại nức nở khóc và đưa mảnh khăn lụa lên thấm nước mắt.

– Bây giờ thì tôi không còn ước muốn gì hết ngoài tiền. Tôi muốn có tiền.

– Tiền? – Laura ngạc nhiên hỏi.

Sương ngước nhìn Laura với đôi mắt đen to :

– Tôi muốn sống một mình, dẹp nhà hoa, dẹp hết gái, dẹp tất cả. Chỉ một mình tôi sống trong nhà tôi, với những người giúp việc cũ, chỉ có thế. Nếu anh ấy không còn yêu thương tôi nữa thì hãy cho tôi một cái nhà để tôi sống một mình.

– Nhưng… Kim Christopher?

– Nếu không có tiền, tôi buộc lòng giữ nó lại để giúp tôi khai thác “nhà hoa”. Nếu có tiền, bà cứ việc mang nó theo.

Laura liền quyết định :

– Thế thì tôi sẽ mang nó đi.

Mặc dầu muốn ra về ngay, nhưng bà không thể nào rứt khỏi người thiếu phụ quá đẹp và quá cô đơn này. Trong một quốc gia khác vào một thời gian khác có thể tình bạn hữu sẽ nảy sinh giữa hai người. Cái gì đã ngăn cách họ, không phải chủng tộc cũng không phải ngôn ngữ, mà là những đảo lộn của chiến tranh và là mối tình mà cả hai đã hiến dâng cho cùng một người đàn ông.

Laura đặt tay lên vai Sương. Bà khẽ nói :

– Tôi thật tiếc… tiếc lắm.

Nhưng Sương tránh đi. Nàng nói với một giọng dửng dưng :

– Bà có phước, còn tôi thì không.

Và rồi, dường như không có việc gì xảy ra hết, dường như nàng chẳng biết đến việc sắp phải từ bỏ con mình, Sương nghiêng người soi vào gương và cẩn thận tô lại đôi môi tuyệt mỹ bằng thỏi son mua chợ đen, sản phẩm của bang PX Hoa Kỳ.

Laura phải thông báo cho Chris biết điều bà đã quyết định. Không nên để đứa trẻ ở lại đây. Phải đưa nó về Mỹ.

° ° °

Tối hôm ấy, lại phòng riêng ở khách sạn, bà đã viết cho chồng:

“Mình ơi, chúng ta hãy khởi sự từng giai đoạn. Tương lai, em chẳng biết rồi sẽ ra sao, chẳng có gì rõ ràng hết. Vấn đề vẫn còn nguyên vẹn. Nhưng điều em phải làm trước tiên là đưa đứa bé về Mỹ. Chẳng có gì giản dị hơn. Anh hãy gởi cho em một giấy thừa nhận phụ hệ. Sứ quán ta tại đây sẽ giúp em việc đó. Anh hãy khai rằng Kim Christopher là con của anh và của cô Sương rằng em là vợ của anh và anh muốn em đưa nó theo em về Mỹ. Chỉ có thế. Phần còn lại, em sẽ lo. Nếu anh gởi cho em tờ giấy nói trên ngay sau khi đọc thư này thì em có thể trở về nhà trong vòng một tuần nữa. Anh đến đón em tại Cựu Kim Sơn. Lẽ tự nhiên là em phải chi cho cô Sương một món tiền”.

Bà tả lại cho chồng bà biết cuộc tiến xúc với Sương. Cần phải gởi bao nhiêu tiền? Bà để ông quyết định. Nhưng cần nó rõ tổng số tiền phải trả và trả một lần mà thôi để đề phòng mọi sự khiếu nại khác. Năm ngàn đô la? Cho vay lấy lãi, số tiền này sẽ đủ cho Sương sống. Có thể là mười ngàn đô-la. Không, không nên xem như là một việc mua bán đứa con. Nhưng mà là để cung cấp phương tiện cho Sương thay vì số tiền sẽ do đứa bé kiếm được cho mẹ nó.

Laura viết:

“Cô Sương muốn có tiền, nhưng với một lý do rất ý nghĩa. Cô ấy muốn từ bỏ cách sinh sống hiện tại để lui về ẩn dật một mình. Em tự cảm thấy em có lỗi đối với cô ấy bởi vì em là vợ của mình và bởi vì em đã chiếm cái địa vị mà cô ta hằng mong ước. Em tin chắc rằng cô Sương yêu anh thật”.

Bà dừng bút và sau khi suy nghĩ lại, gạch bỏ dòng chữ cuối cùng. Không: bà không bao giờ biết rõ các tình tiết một cách chính xác và tốt hơn hết là không nên nhắc nhở gì nhiều cho Chris cả.

° ° °

Sương thảo luận cùng ông Chu trong “Nhà Hoa”.

– Ông xem, tôi không thể nào tiếp tục như thế này được. – Nàng nói và với một cử chỉ duyên dáng, khoát tay chỉ căn phòng bài trí trang nhã và các đồ vật chưng diện thẩm mỹ chung quanh.

Ông Chu nghe nàng nói với một cảm tình hết sức sâu đậm. Ông hiểu rõ ràng đã cảm nghĩ như thế nào và đã sống ra sao. Trong mấy năm gần đây tiếng hát của nàng đã mất đi ít nhiều âm sắc êm ái và khuôn mặt kiều diễm của nàng cũng đã bắt đầu tàn phai. Nàng đã trở thành một ca sĩ hạng nhì và là một bà chủ chứa.

– Tôi hiểu lắm. – Ông nói.

Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu ông Chu, không phải là lần đầu tiên, thật vậy. Nếu Kim Sương đóng cửa “Nhà Hoa” và bắt đầu sống trở lại một cuộc sống khác, không phải là ông không thể cưới nàng làm vợ. Người ta cho rằng, một người vợ kế không bao giờ có thể bằng được người vợ trước. Vả lại, nàng là một nghệ sĩ nổi tiếng ít nhiều và là một người uy tín. Người ta có thể chỉ trích người Mỹ nhưng phải nhìn nhận các lợi ích do họ mang lại. Hơn nữa, nếu đứa trẻ ấy – dĩ nhiên là lai Mỹ – lên đường trở về Hoa Kỳ cùng cha nó, thì cuộc đời Sương sẽ không còn lại dấu vết nào về lỗi lầm của nàng trong thời xuân trẻ. Lúc bây giờ, ông có thể chính thức cưới nàng về làm vợ. Ông đưa tay che miệng khẽ ho.

– Tôi khuyên cô nên gởi thằng nhỏ về với cha nó. Thanh danh của nó vẫn được bảo toàn nguyên vẹn. Cô đã hết sức khéo léo giấu nó ở nhà cùng bà ngoại nó, khuất mắt thiên hạ. Theo tôi thì chắc chẳng có ai biết nó là con của cô.

– Thật vậy; nó chỉ mới đến đây có một lần và tôi đã xem nó như một người làm.

– À, ra thế. – Ông thở ra như trút được một gánh nặng – May thay, nó giống bố nó mà không giống cô. Người Mỹ thô tháp hơn nên những đứa trẻ lai luôn luôn giống bố nhiều hơn. Cô nên xa nó càng sớm càng tốt. Cô hãy chấp nhận những gì mà người ta đề nghị đền bồi cho cô, mặc dầu sự đền bồi ấy không thấm vào đâu so với những nỗi khổ đau mà cô đã chịu.

Ông đã mạo muội nhìn nàng với đôi mắt có vẻ trìu mến và tiếp :

– Tôi có những dự tính cho cô – và cho tôi. Những điều khả dĩ có thể thực hiện được. Cô phải quên đi đứa trẻ một khi nó đã ở bên kia bờ đại dương. Cô phải quên đi tất cả quá khứ của cuộc đời cô và chỉ nên nghĩ đến tương lai. Sương, cô cô độc quá! Tôi cũng thế!

Cảm thấy đã nói đủ những điều mình muốn nói, ông Chu bèn đứng dậy. Sương cũng đứng dậy theo. Nàng hiểu hết những lời bóng gió xa gần của ông Chu và rất lấy làm cảm kích, nhưng đồng thời nàng cũng cảm thấy buồn da diết. Nàng biết rõ, kể từ nay nàng sẽ mãi mãi mang nặng một mối sầu thương trong lòng. Con tim yếu mềm của nàng nhắc nhở cho nàng biết rằng, cho dầu ông Chu có đủ tư cách làm nàng kính phục, nhưng nàng sẽ không bao giờ có thể yêu ông.

Ngày xưa, nhiều năm về trước, một chàng trai người Mỹ đã đi vào cuộc đời của nàng biến nàng trở thành một người thiếu phụ, bây giờ nàng đành hy sinh cho mối tình ấy nên không thể yêu ai khác dẫu người đàn ông đó chẳng kém gì chàng về mọi phương diện.

Một điều hết sức trái ngược là nàng cứ hy vọng mãi ngày trở lại của chàng thanh niên ấy. Bây giờ đây nàng mới biết đó chỉ là những hy vọng hão huyền, vì chàng đã nhờ vợ chàng đến đây, một người vợ xinh đẹp, một sắc đẹp kỳ lạ, như bao phủ hào quang, một thứ sắc đẹp mà nàng phải công nhận và kính phục. Nàng đã không biết lấy vẻ diễm kiều và sự ngoan ngoãn của mình để giữ chàng thanh niên ấy. Chắc những người đàn ông Mỹ có tư tưởng độc lập, khó tính và chuyên đoán như thế, chỉ có thể yêu những người đàn bà có tính cách cương nghị như vậy. Chắc họ thích một mối tình ở trong sự bình đẳng tranh chấp hơn là một mối tình ở trong sự bình lặng êm hòa.

Sau những lời thuyết phục của ông Chu, Sương chẳng nói năng gì. Nàng đưa ông ra tận cửa. Ông Chu chào Sương và nàng cúi mình thật thấp để chào đáp lại.

Bình luận
720
× sticky