Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Đứa Con Người Yêu

Chương 3

Tác giả: Pearl S. Buck

Chris đợi Laura và bé Kim tại phi trường Los Angeles. Chàng xinh trai biết bao! Laura thầm nghĩ. Không phải bà đã quên điều đó, nhưng vì bà đã quen nhìn một loại đàn ông xinh trai khác mà ông Chu là tiêu biểu. Bây giờ bà có cảm tưởng rằng thế giới này chia thành hai loại đàn ông và đàn bà mà Kim Christopher thì đứng một mình ở giữa cô độc. Không, nó không cô độc vì bà đã chấp nhận nó kể từ khi nó cất tiếng đầu tiên gọi bà bằng mẹ.

Nó đã dứt bỏ mọi quá khứ để theo bà, Sương là một người đàn bà tế nhị và có giáo dục: cái chi phiếu mà bà đã đưa cho nàng, khoảng năm Rgàn đô la, nàng chỉ liếc mắt trông qua và để xuống bàn mà không gấp lại bỏ ngay vào túi. Tại phi trường, nàng đã dặn dò bé Kim từng li từng tí, chẳng sót điều gì.

Nàng nói :

– Con hãy vâng lời cha con. Con cũng phải vâng lời bà Winters bởi vì bà là vợ yêu quý của cha con. Con ráng nhớ lời mẹ dặn. Khi cha con bước vào phòng, con phải lễ phép đứng dậy. Con hãy chăm lo học hành hằng ngày để cha con được vui lòng. Ban sáng, con hãy mang trà lại cho cha con trước tiên. Trong bữa ăn, con phải đợi cha con bắt đầu ăn trước. Con hãy nhớ tất cả những gì mẹ đã dặn con nhé!

Nàng tỏ cho Laura biết, nàng là một người khéo dạy con. Kim Christopher chăm chú nghe, không nói gi. Hơn nữa nó đã lẳng lặng mãi cho đến khi phi cơ cất cánh. Chi khi đó mới quay sang Laura và cất tiếng gọi “Mẹ!”.

Bà đã mỉm cười cùng nó, nhưng hai mắt bà rưng rưng ngấn lệ.

Bây giờ đã về đến Mỹ quốc, Kim Christopher nhìn cha nó. Nó nghiêng mình chào và im lặng chờ đợi.

Cha nó nói :

– À con.

Có vẻ ngượng nghịu, ông ngắm nhìn đứa bé – đích thực là con trai của ông, không nghi ngờ gì nữa – với những đường nét giống nhau đến thế thì làm sao chối cãi được? Tim ông bắt đầu đập mạnh hơn.

Ông ngắm nhìn Kim Christopher và thương yêu nói :

– Con cao lớn lắm!

Hai cha con lai nhìn nhau không chớp mắt. Laura cầm tay đứa bé, bà cố lấy một giọng hết sức tự nhiên để hỏi ông :

– Nào, chúng ta sẽ làm gì bây giờ nào?

– Anh đã mướn một khu phòng tại một khách sạn bên bờ bể, ở Laguna. Chúng ta có thể nói chuyện. Anh nghỉ vài hôm để tìm hiểu, ngay cả với em. Các bức thư của em chẳng thiếu đủ vào đâu cả. Chúng ta có nhiều chuyện để nói cùng nhau, ơ nhà, dạo này rộn ràng lắm; ngay cả ở đây anh cũng phải lẩn tránh các nhà báo. Anh đã nhờ Berman đi theo để lo lắng công việc giúp anh. Trong giai đoạn này, chỉ một chút sơ hở để cho thiên hạ biết cũng là một điều bất hạnh. Chúng ta đi ngay đi. Berman sẽ lo nhận hành lý. Em đưa mấy cái vé cho anh.

Laura buông bàn tay của đứa trẻ, nó đã bất đầu rịn ướt mồ hôi trong tay bà. Chồng bà vừa nói chuyện, vừa sãi những bước dài.

Bà bảo đứa trẻ :

– Nhanh lên con, Kim Christopher.

Nó vâng lời bà và vội rảo bước cho kịp hai người. Laura đã quen với bước chân sãi dài của chồng bà, nhưng đứa bé thì theo một cách vất vả và dường như Chris đã không biết có nó theo sau. Berman đang đứng đợi họ ờ cửa, ông ta bắt tay Laura và liếc nhìn đứa trẻ mà không nói gì.

Chris hỏi vợ :

– Nó có biết tiếng Anh không?

– Không. – Laura đáp.

– Biết chút ít thôi. – Kim Christopher mỉm cười chữa lại.

Động lòng trước sự can đảm của đứa trẻ, Chris mỉm cười nói với nó :

– Rồi con sẽ học thêm. Ở trong trường, học chẳng mày chốc.

Laura sửng sốt :

– Ở trong trường?

– Anh sẽ giải thích với em sau.

° ° °

Hai giờ sau, họ ngồi bên nhau trong phòng riêng tại khách sạn. Sau khi ăn uống và tắm rửa, đứa trẻ đã đi ngủ.

Chris nói :

– Thế là xong, mọi việc đã được thu xếp, ngôi trường tốt lắm.

– Nếu em biết trước, anh không chịu đưa nó về nhà, thì em đã để nó ở lại với mẹ nó. Ít ra, bề ngoài nó cũng còn có một gia đình.

Bà vừa tắm gội xong, lộng lẫy và tươi mát trong chiếc áo màu hồng bằng hàng mỏng, tuy vậy bà chẳng lộ vẻ gì là mềm yếu, phục tòng. Ông đã thử ôm lấy bà vào lòng nhưng bà đã cưỡng lại, một sự đối kháng tuy dịu dàng nhưng cương quyết.

Bà nói :

– Anh quyết định ra sao về đứa trẻ?

Như vậy một cuộc thảo luận bắt đầu và có thể trở thành cãi vã, nhưng đó là tình yêu hỗ tương của hai người. Sau đó, Laura lại biểu lộ tình yêu và chồng bà chỉ có việc khuất phục, dĩ nhiên là ông có giận dỗi đôi chút nhưng đồng thời cũng thích thú nhiều.

– Kìa, không phải là em đã làm cao với anh sao? Cưng ơi, em yêu sách anh để đòi hỏi anh làm theo ý em chớ gì? Song hạng người như em đâu cần phải làm thế!

Tuy nói vậy, Chris vẫn thấy Laura thật là hấp dẫn, thật là tươi mát.

Tức giận, bà liền nói :

– Chris, anh nói những điều như vậy mà không hổ thẹn sao? Đó chỉ vì em không muốn nghĩ đến… đến…

– Trước khi giải quyết xong cái vấn đề mà em đã bận lòng, em muốn nghĩ sao thì nghĩ. Anh biết, anh biết.

Cuộc tranh chấp lại tiếp tục trong cái khung cảnh thơ mộng của bãi bể California, mà Chris đã dày công chọn lựa để làm nơi tái ngộ của hai người. Từ hàng hiên họ nhìn ra bãi cắt trắng mịn mà sóng bể Thái Bình Dương yên tĩnh đuổi nhau xô vào và tan ra thành bọt. Giữa cái màu xanh đồng nhất của chân trời và mặt nước, sóng bể tạo thành những đường rãnh có bọt trắng. Hai đầu vịnh? Những mõm đá cao mọc ra ngoài biển. Khung cảnh đã làm cho chàng ưa thích: sự vắng vẻ thơ mộng này rất thích hợp cho cuộc tái ngộ của hai vợ chồng sau bao ngày xa cách; ông mong nhớ bà kinh khủng.

Hai vợ chồng ngồi duỗi chân trên hai cái ghế dựa dài, nhìn ra bể.

Ông cầm bàn tay bà và nói :

– Hãy nghe anh, mình. Nếu mình để đứa bé xen vào giữa chúng ta…

Bà phản đối :

– Không có gì xen vào giữa chúng ta hết. Nó là “nó”, chỉ có thế, chúng ta sẽ làm gì nó đây?

– Gởi nó vào trường.

– Rồi sao nữa?

– Tới đâu hay đây!

– Thôi được đi. Nhưng gởi nó vào trường nào, ở đâu?

– Gởi nó vào trường trung học Waite tại New Hampshire. Đó là ngôi thường Trung học tư thục nổi tiếng nhất trong vùng.

– Nhưng bây giờ đang độ nghỉ hè mà?

– Tuy đang hè nhưng vẫn còn nhiều học sinh trọ học ở lại, những đứa trẻ có cha mẹ ở Âu châu chẳng hạn… Thằng bé sẽ phải học rút trong thời gian này để đến ngày tựu trường bắt cho kịp những đứa khác.

– Thật chẳng khác nào một đứa trẻ mồ côi!

– Đâu có phải vậy.

– Em muốn nói rằng nó phải sống cảnh côi cút. Nếu biết thế thì thà em để nó lại cho cô Sương cho rồi.

– Cưng ơi, em đừng quá bi quan. Em hãy nghĩ tới cảnh sống của nó ở Triều Tiên ngày trước, ổ đây nó sẽ được tiếp nhận một nền giáo dục tốt đẹp nhất.

– Phải, nhưng nó không có được một gia đình, một người cha…

Ông bật đứng dậy, tức giận :

– Thôi được rồi, tôi không màng nữa. Tôi sẽ rút đơn ứng cử lại và chúng ta sẽ ở chung cùng đứa bé, bất cứ nơi nào. Nhưng đó phải là cái nơi mà mọi người không biết tôi là ai và là nơi mà tôi có thể làm lại cuộc đời khởi sự bằng một con số không.

Bà đề nghị :

– Hay là em gởi thằng bé về với mẹ nó.

Ông đứng tựa cùi tay vào lan can nhô ra mặt bể lấp lánh. Rồi quay về phía bà, ông nói :

– Không, không thể được.

– Tại sao?

– Tại vì việc em đi Triều Tiên là điều rất hợp lý. Anh biết rõ cái bổn phận và nghĩa vụ của một kẻ làm cha. Anh biết rằng anh còn mắc nó một món nợ. Nhưng anh không nghĩ rằng vì nó mà anh buộc lòng phải hy sinh cả cuộc đời của anh, những tham vọng của anh và tất cả những gì anh có thể thực hiện được cho bao nhiêu người nếu anh đắc cử. Đối với anh bây giờ không còn là lúc phải dừng bước vì số phận của một cá nhân nữa. Laura ạ, dẫu cá nhân ấy là con trai của chúng ta. Như thế là đòi hỏi ở anh quá nhiều.

Bà trả lời với một vẻ bình tĩnh cố ý :

– Em không đòi hỏi gì mình hết Chris ạ, nếu không là để biết các kế hoạch của mình. Bây giờ anh đã nói ra những diều đó khiến em hối hận vô cùng. Thà em đừng có bao giờ biết đến đứa trẻ ấy. Thà anh giữ lấy cái bí mật ấy cho mình mà hơn.

Đột nhiên bà òa khóc khiến ông bối rối hết sức, vì xưa nay ít khi bà khóc như vậy. Chỉ bây giờ ông mới biết được cái tầm quan trọng của hành động ngày xưa. Phân tách một cách kỹ lưỡng thì đây chỉ là cái tội mà người thanh niên đã trót phạm vì quá cô đơn và vì sự thúc bách của cái nhu cầu tự nhiên của con người. Ông lập tức đứng dậy và ôm lấy bà vào lòng. Bà đang khóc rấm rứt. Tim ông như thắt lại, ông lắp bắp :

– Mình tha lỗi cho anh, tha lỗi cho anh…

Bà ngước nhìn ông, hai má ướt lệ :

– Em không nghĩ gì về anh hết. Em biết rõ hoàn cảnh của anh, em không có chỉ trích gì hành động của anh trong quá khứ cả. Em hiểu biết lắm và chẳng có quan tâm gì đến những điều đó. Chỉ có điều là giá như không có đứa bé thì chẳng sao. Nhưng bây giờ đã có nó. Nó phải ở cùng chúng ta bao lâu chúng ta còn sống. Chúng ta sống ở đâu, nó phải ở đấy.

Bà gục đầu vào vai chồng. Ông dịu dàng siết chặt vợ vào lòng, nhưng ông không có thể nói lời nào, chẳng biết nói gì vì quả thật, thằng bé còn đấy.

° ° °

Họ trở về ngôi nhà của họ ở thành phố Philadelphia, ngôi nhà đang ngập chìm trong một sự thanh vắng hoàn toàn. Nhưng giữa đêm khuya có gì lạ không? Bà vào trước, trong khi ông trả tiền taxi và lấy hành lý. Bà bật đèn trong phòng khách và nhận thấy Greta đã giữ gìn nhà cửa thật tươm tất. Gian phòng sạch như chùi nhưng trống rỗng, không có hoa. Chris không có bảo trước cho cô ta biết ngày nào hai vợ chồng sẽ trở về, mà chính ông cũng không biết chắc điều đó. Ngay sáng hôm ấy, hai ông bà đã gởi Kim Christopher vào một trường tư thục Waite. Ông đã mướn một chiếc phi cơ nhỏ để trở về nhà liền sau đó. Bà ngồi xuống ghế cất mũ và cởi găng tay. Đây là nhà của bà, là gia đình, là tổ ấm của bà, nhưng bà trở về nơi đây không một chút vui nào trong lòng. Bà cảm thấy thiếu thốn lạ lùng, nếu không nói là bồi hồi trong dạ.

Xa bé Kim, bà không ngờ bà lại khổ tâm đến thế. Đối với bà, nó không còn là một bổn phận bà phải chu toàn mà bây giờ nó là một thành phần của đời bà, lệ thuộc bà. Nhưng bà đang ở vào một thế kẹt, vì bà đã cảm thấy những điều đó hơn chồng bà – luôn luôn tỏ vẻ thận trọng đã vội vã đem… giấu đứa bé đi… mà không minh định rõ địa vị của nó trong gia đình.

Bà nghe tiếng ông khóa cửa rồi bước vào, đến bên bà :

– Được trở về nhà, lại được có em ở bên cạnh, thì thật là yên chí.

Ông cúi xuống nâng cằm bà lên để hôn. Bà đáp lại chiếc hôn nồng ấm của chồng. Bà biết, bà không thể hành động một mình. Bà không thể để mất đĩ sự hòa thuận của gia đình, cũng không thể chịu đựng nổi cái ý nghĩ sống mà không có ông. Bà cũng không biết làm gì hơn cho đứa bé. Trong mấy ngày, ông đã thuyết phục được bà, không phải bằng lời nói mà bằng thái độ của một người cha đối với con trai mình, mà chỉ người cha là có tư cách quyết định lối sống cho nó. Sau phút bỡ ngỡ ban đầu. Chris đã chinh phục được vợ bằng những cử chỉ nồng nhiệt bề ngoài đối với Kim Christopher. Cuối cùng, hai vợ chồng đã cùng nhau cười thích thú vì những câu nói bập bẹ của đứa trẻ.

“Và cái này, ba là cái gì?”

Đứa trẻ hỏi liên miên, bất cứ gì nó thấy và muốn biết, lẫn lộn nào thức ăn, xe cộ nhà cửa và những chứ in, chữ viết, nói tóm lại tất cả những gì tạo thành cái thế giới mới của nó. Họ ở lại Waite một ngày để mua sắm các vật dụng cho một học sinh nội trú gặp bác sĩ Barilet, giám đốc trường và thảo luận việc dạy Anh ngữ cho bé Kim. Họ cũng đã biết mặt cậu học sinh sẽ là bạn tương lai ở chung phòng với Kim Christopher, một đứa trẻ tóc vàng người Nữu Ước, cha mẹ nó đã ly dị nhau ở Ba Lê.

Laura có cảm tình ngay với bác sĩ Bartiet vì ông ta chấp nhận lời giải thích của bà một cách tự nhiên, dẫu ông có thấy đứa bé giống hệt chồng bà, ông cũng không nói gì. Bà nói với bác sĩ Bartlet rằng trong một cuộc du hành sang Triều Tiên, bà nhìn thấy đứa bé khôn khổ quá, bà xúc động nên đã quyết định nuôi nó và mang nó về Mỹ và bà thêm, đứa trẻ xem vợ chồng bà như cha mẹ ruột, nhưng bà muốn gởi nó ở đây để nó học tiếng Anh được nhanh hơn ở nhà, vì họ không có con.

Bác sĩ Bartiet, giám đốc nhà trường nói :

– Vâng thưa bà, việc đó chỉ cần trong vài tuần. Trường chúng tôi có một cậu học sinh từ Rio đến trọ học, lúc mới vào không biết nói tiếng Anh, nhưng bây giờ thì…

Ông cất tiếng gọi, một cậu bé chạy đến, da rám nắng, hai mắt xanh ngơ ngác. Bác sĩ Bartlet xoa vào đầu tóc nâu quăn và ngắn của cậu và nói :

– Thầy vừa nói với ông bà đây rằng con học tiếng Anh mau lắm. Con phải giúp cậu Christopher đây đừng nản chí.

– Dạ vâng.

Đứa trẻ nhã nhặn đáp và cầm lấy tay Christopher kéo đi. Chỉ vài phút sau, hai đứa đã chơi đá cầu rồi.

Tuy vậy, sáng hôm ấy không dễ gì mà giải thích cho Kim Christopher hiểu rõ hoàn cảnh này. Nó chưa biết rằng việc gởi nó vào trường liên quan đến việc nó phải xa cách cha mẹ nó. Khi vợ chồng ông ra về, nó giữ chặt cánh tay bà không muốn rời, nó giữ chặt lấy, Chris đã phải trấn an nói :

– Này con, con cứ an tâm ở lại học hành. Ba má sẽ đến thăm con luôn.

Bây giờ Kim Christopher buông tay bà Laura để chộp lấy cánh tay cha nó và im lặng nhìn ông với hai mắt đầy lệ :

– Chris, em không thể… chịu nổi cảnh này – Laura năn nỉ với một giọng đứt quãng – Nó từ Triều Tiên sang đây để tìm cha tìm mẹ và bây giờ nó phải ở một mình. Anh muốn nó hiểu, hiểu thế nào được chứ? Em cảm thấy em có trách nhiệm…

Bác sĩ Bartlet xen vào :

– Tôi khuyên ông bà nên đi ngay đừng chần chờ. Chúng tôi sẽ giải thích cho cậu bé hiểu dần. Chỉ vài ngày thôi.

Hai ông bà đã phải nghe theo lời khuyên của bác sĩ giám đốc, họ gỡ tay đứa trẻ và bước nhanh ra khỏi trường như chạy trốn để nó lại cho bác sĩ Barllet.

Bây giờ đây, trong phòng khách trống rỗng không hoa, Laura như sống lại cái cảnh ấy. Bà đột ngột đứng dậy và bước đến phía cầu thang. Chris bước theo vợ sau khi đã vặn tắt đèn. Hai vợ chồng dìu nhau bước lên lầu.

Bà thở dài :

– Em ân hận đã không để cho nó được nhìn em ít ra là một lần cuối.

– Kìa, em…

– Tội nghiệp, nó còn quá bé.

– Em phải biết điều một chút mới được.

– Vâng em biết, em biết. Bà lại thở dài thườn thượt.

Cái điều mà bà biết là phải quên đứa trẻ đi, nhưng bà cảm thấy khó lòng quên được nó. Bà phải sống trở lại cuộc sống bình lặng ngày xưa cùng chồng, nhưng điều này cũng thật là khó khăn. Trao trả chàng quả tim nguyên vẹn ngày trước? Không, bà không thể! Có giá trị gì một con tim tan nát? Ồ, bà phải cố gắng hết sức để duy trì cuộc sống thường nhật. Bao lâu cuộc vận động tranh cử còn đang tiếp diễn, bấy lâu bà con phải giữ đúng vai trò của một người vợ.

° ° °

Kim Christopher đã nhìn thấy hai ông bà Winters ra đi nhưng nó không tin vào mắt mình. Nó tin tưởng vào họ, nó thuộc về họ, nhưng bây giờ họ để nó ở lại một mình giữa những kẻ xa lạ. Không thể tin được… nhưng đó là sự thật. Nó nhìn thấy hai ông bà bước lên taxi, nó muốn chạy theo nhưng một bàn tay cứng như thép đã giữ nó lại.

Người đàn ông giữ nó, bảo :

– Christopher hãy bình tĩnh.

Nó chẳng biết gì về người đàn ông này hết, chỉ biết tên ông ta là bác sĩ Barilet. Dáng người ông ta cao lớn, mảnh khảnh, đã đứng tuổi, có vẻ tốt bụng. Nhưng ông Chu không phải là một người tốt bụng đấy là gì? Thế mà ông ta cũng như tất cả mọi người khác không còn ở bên nó nữa. Nó nghĩ đến mẹ và bà ngoại nó, người đã đẩy nó ra khỏi cửa vào phút chót và hét lên:

“Đi đi, đi đi. Đi về với cái thằng cha Mỹ của mày đi!”

Chính vì bà cụ ấy, vào phút chót nó mới quyết định ra đi. Đã được mấy lần bà cụ không đánh mắng nó là đồ ăn hại! Còn mẹ nó, bà mẹ thật là xinh đẹp của nó, đã không cho nó được phép gọi bà bằng mẹ…

Cuối cùng, Kim Christopher nghĩ rằng nó đã lầm lẫn khi phải rời bỏ cái xứ mà ít ra nó cũng hiểu được ngôn ngữ của mọi người chung quanh. Bỗng nhiên mọi can đảm trong lòng nó biến mất, cái can đảm đã giúp nó ăn miếng trả miếng, đối đáp lại những lời lăng nhục của lũ trẻ Triều Tiên, đã cho nó yêu thương mẹ nó. Đã làm nó yên lòng rời bỏ xứ sở để đi đến một miền xa lạ với bà vợ của cha nó. Trong khi tìm lại được cha nó, nó nghĩ rằng từ đây cuộc đời nó sẽ được an toàn. Nhưng không… Chẳng có gì là an toàn cả. Nó lại phải sống một mình, đơn côi.

Bé Kim vụt quay lại, gục đầu vào ngực người đàn ông xa lạ này và khóc lớn, tiếng khóc như vò xé nát tâm can nó. Nó buộc mồm nói một tràng tiếng Triều Tiên, thứ tiếng mà không ai có ở đây có thể hiểu được.

– Ta chỉ có một mình… một mình. – Nó vừa khóc vừa nói.

Bác sĩ cúi xuống đứa bé. Ông không hiểu nó đã nói lắp bắp những gì dĩ nhiên, nhưng nếu trời đã không cho ông có được một đứa con để săn sóc thì ông chấp nhận mọi đứa trẻ, con của thiên hạ những người mà ông chẳng một mảy may quen biết. Ông chỉ biết có một điều: người ta mang lại giao cho ông những cậu bé nhỏ dại. Tại sao người ta có thể hành động như vậy? Ông không biết, người ta đã giao nhờ ông và phải săn sóc chúng. Để giáo dục chúng, nuôi dưỡng chúng, ông phải dùng các nhân viên có kinh nghiệm, và buộc họ phải có lòng thành thật và nhân ái.

Ông khẽ vuốt ve đầu tóc cứng của đứa trẻ đang rung rung vì thổn thức và dịu dàng dỗ dành nó :

– Thôi nín đi con. Cha mẹ con sẽ trở lại thăm. Các ông các bà ấy hễ có dịp là đến thăm con cái luôn đây mà. Con hãy ở lại đây chơi với các cậu bé, nín. Trong vài hôm, con sẽ quen dần. Chắc con cũng đã đói rồi. Đi, đi với thầy, thầy kiếm cho con cái gì để ăn.

Cái liều thuốc hiệu nghiệm nhất của ông để xoa dịu các nỗi buồn khổ đang giày vò tâm can trẻ thơ là một bữa ăn ngon và một cậu bé để làm bạn chơi đùa chuyện vãn. Ông có được một bà quản gia rất giỏi, đó là bà Battle, sành sõi việc bếp núc biết nấu những món ăn thích hợp với khẩu vị của các cậu bé. Ông dẫn Kim Christopher xuống bếp ngay vào lúc bà quản gia đang uống trà.

Bác sĩ Bartlet nói :

– Bà Battle, đây là cậu học trò mới. Hoàn cảnh như thường lệ, nhưng cậu ta nói tiếng Anh chưa sõi. Cậu được ông bà Winters mang từ Triều Tiên về. Ông bà ấy ở tại Philadelphie và để cậu bé trọ học lại đây, dĩ nhiên là vì một lý do nào đó không tiện nói ra nhưng trong số học trò trọ học tại trường ta đứa nào mà chẳng vì lý do này hay lý do khác? Cậu bé đã đói rồi đây bà Battle ạ, mang cho cậu chút gì ăn đi. Cậu tên là Christopher.

– May thay tôi vừa làm xong một ít bánh nhỏ! Bác sĩ để cậu ấy đây cho tôi.

Bà đặt một cái tách ra bàn; rót đầy trà và mang lại một dĩa bánh. Bà nói :

– Đến đây cậu Christopher. Ngồi xuống ăn bánh đi.

Đứa trẻ vâng lời bà, đưa tay chùi miệng. Bà Battle cười với nó trong khi bác sĩ giám đốc nhà trường rón rén rút lui. Hai người ngồi uống trà, thinh lặng vì không đồng ngôn ngữ. Bà mời nó ăn bánh, nó có vẻ thích loại bánh ấy và tách trà đậm nóng như vậy. Tội nghiệp thằng bé! Nó không còn khóc nữa. Nó đã bình tĩnh trở lại, dễ chịu hơn và có vẻ buồn ngủ.

Bà quản gia đứng dậy :

– Đến đây con, con đến nằm xuống cái “đi văng” này đi. – Vừa nói bà vừa vỗ vỗ vào lớp nệm dày trên một cái “đi văng” có lò xo đã cũ, xập xệ vì lâu ngày chịu đựng sức nặng của bà – Con nằm nghỉ ở đây, bà sẽ đi kiếm chăn đắp cho. Ngủ đi một lát, khi con trở dậy mọi sự sẽ tốt đẹp ngay đây mà!

Thằng bé nhìn cử chỉ và nghe giọng nói của bà ta nó liền hiểu bà muốn bảo gì. Nó làm theo ý bà. Khi nó nằm xuống, bà quản gia liền lấy một cái khăn dệt bằng chỉ màu sặc sỡ đắp cho nó. Mệt lã người vì cuộc hành trình vì nỗi buồn khổ trong lòng, nó ngủ thiếp đi.

° ° °

Cách đây rất xa, tại “Vạn Hoa Đình” Kim Sương đang chuẩn bị dọn đi nơi khác. Nàng sẽ ra đi một cách kín đáo và điều đó đã trở thành nhất định. Ông Chu đã tỏ ra là một người rất đứng đắn. Cuộc dạm hỏi đã được thực hiện qua trung gian của ông Đỗ Bách, bạn ông, một kỹ nghệ gia giàu có. Kể từ ngày Triều Tiên thiết lập giao thương cùng Nhật Bản, cái ông bạn tinh ranh này đã ký kết với người Nhật những hợp đồng thương mãi mà ông ta đã viện nhiều lý do khác nhau để rút lui nơi người Mỹ. Ông ta không thích những người Mỹ lương thiện vì khó mua chuộc và khinh bỉ những người Mỹ bất lương vì mua chuộc họ quá dễ dàng. Tại Triều Tiên, hai hạng người này ở sát bên nhau. Đối với người Nhật Bản, không có việc mua chuộc, hối lộ, chỉ công việc quyết định. Ông Bách là một trong những người Triều Tiên cảm thấy nhục nhã vì sự ngu ngốc của những người lính Mỹ trẻ tuổi đã gieo vãi mầm giống của họ một cách quá dễ dàng trên khắp các quốc gia mà họ chiếm đóng và để lại tại các quốc gia này hàng đàn trẻ con lai. Ông thường cổ xúy trong đám bạn hữu thân tình và trong số những người đáng tin cậy rằng đối với lũ con lai ấy nên bóp chết chúng đi, ngay từ hồi còn trứng nước, hoặc, ít ra lũ con trai phải được thiến đi. Dòng máu nguyên ròng của dân tộc Triều Tiên không thể để bị nhơ nhuốc vì những đứa con lai bất hợp thời hợp cảnh như thế. Mặc dầu nước ông đã từng bị lệ thuộc người Trung Hoa và Nhật Bản hàng bao thế kỷ dài nhưng dòng máu ấy vẫn được bảo toàn nguyên vẹn, bây giờ chẳng lẽ lại để cho nó hủ hóa vì sự lỗi lầm của những tên Mỹ mất dạy này?

Trong một cuộc đàm thoại cởi mở cùng ông Chu, ông Bách đã nói :

– Phải quét sạch những đứa trẻ ấy ra khỏi nước chúng ta; chỉ có việc quẳng chúng xuống biển là yên chuyện.

Ông Chu không tỏ ra có những định kiến cố chấp như vậy, những năm du học tại Mỹ quốc đã khiến ông mềm dẻo đôi chút. Nhưng ông cũng nhận thấy rằng người ta nên đưa lũ con lai về Mỹ, quê hương của cha chúng nó. Người Mỹ chẳng bận tâm gì nhiều về sự tinh tuyền huyết thống của họ. Họ đã nhìn thấy khá đủ các sự đa tạp về màu tóc, màu mắt và ngay cả màu da trong nước họ.

Trước khi nhờ bạn giúp đỡ, ông Chu buộc lòng kể cho bạn ông nghe câu chuyện ông đã góp phần vào việc đưa về Mỹ một đứa trẻ con lai mà mẹ nó đang hành nghề trong một “nhà Hoa”. Rồi ông ngỏ ý muốn ông Đỗ Bách giúp ông đứng mai mối hỏi Kim Sương làm vợ. Ông Bách vui vẻ nhận lời, bởi vì – ăn miếng chả, trả miếng nem – ông Chu có nhiều nhà máy sản xuất hóa phẩm mà ông đang muốn ký kết một giao kèo thương mãi.

Vì vậy, trong buổi sáng mùa thu đẹp trời này, một chiếc xe hơi huê kỳ đã đợi sẵn ở trước cửa “Vạn Hoa Đình”. Trong phòng riêng, Kim Sương đã thu nhặt những vật dụng cuối cùng của cô. Chẳng còn gì ngoài những vật dụng, trong ngăn kéo bàn phấn luôn luôn khóa. Sương đã đuổi người giúp việc của nàng ra ngoài để được ở một mình trong phòng. Nàng mở ngăn kéo lôi ra những tấm hình của con nàng và của thằng bé. Nàng cảm thấy tim mình đau nhói khi nhìn cái khuôn mặt xinh trai này. Nàng đã không thành thật khi xác nhận với ông Chu rằng, nàng không có yêu thương gì cái anh chàng người Mỹ này và ông ta đã tin tưởng như vậy. Nhưng trong giờ phút này đây, con tim nàng đã nói lên sự thật. Nếu chàng và nàng còn gặp lại nhau – một giấc mơ mà nàng biết không thể nào có được – nàng sẽ trở lại yêu chàng. Đó là mối tình đầu tiên của đời nàng và không bao giờ nàng có thể yêu ai khác được. Giữa hai người, ngay cả khi ngôn ngữ còn bất đồng, họ đã trao đối cho nhau những cảm tình sâu đậm nhất. Chàng đã yêu nàng, điều này nàng biết chắc. Vợ của chàng chỉ chiếm một địa vị thứ yếu trong tim chàng. Sương tuyệt đối tin tưởng như vậy; không thế thì nàng đã không quyết định rời bỏ “Vạn Hoa Đình” để lấy ông Chu; tuy thế, nàng phải lấy ông ta vì trải qua nhiều năm tháng về nghề nghiệp nàng đã thành công tuyệt đỉnh. Trong một hai năm nữa người ta sẽ bắt đầu để ý đến niên kỷ của nàng và một thiếu phụ trẻ hơn, đẹp hơn, sẽ thay thế địa vị nàng. Nhưng với tư cách là vợ chính thức của ông Chu – dầu là kế thất – nàng sẽ giữ được địa vị của mình trong xã hội mãi cho đến ngày nhắm mắt. Nàng nhìn lại lần cuối cùng khuôn mặt xinh trai của người tình cũ, không, nàng không nên giữ hình ảnh của bất cứ người đàn ông nào trong nhà của chồng nàng. Sương chỉ do dự trong khoảnh khắc; sau đó nàng quẹt diêm châm cây nến đặt trên chiếc bàn nhỏ bằng sơn mài, đốt mấy tấm hình và nhìn nó tiêu thành tro.

Chỉ còn lại tấm hình cuối cùng, tấm hình do ba đứa trẻ chụp lúc nó vừa đầy tháng, nàng đang ẵm nó trong tay. Nàng chăm chăm nhìn ngắm khuôn mặt của chính mình. Độ ấy nang tươi trẻ biết bao! Và xinh đẹp… – phải – xinh đẹp biết bao! Đứa trẻ mặc đồ Mỹ, thật là dễ thương! Nó đã lớn lên và đổi khác… Đứa trẻ đã đi theo người đàn bà Mỹ dường như chẳng liên hệ gì đến đứa hài nhi trong bức hình cả. Sau nhiều năm tháng, nàng đã không còn yêu thương đứa bé, kể từ khi nào? Có thể, vì oán ghét người cha không được nên vô tình nàng đã đâm ra oán ghét đứa con mà chàng đã để lại cho mình. Sống bên đứa trẻ, nàng cảm thấy như hết sức gần gũi với người cha, bởi vì hai cha con giống nhau như hai giọt nước. Nhưng con nàng là một đứa trẻ ngoại quốc, một đứa con bất đắc dĩ, nên không có lý do tồn tại. Tấm hình này cũng được đốt ra tro. Sương thở dài và lượm các mảnh tro tàn để vào lòng bàn tay. Rồi nàng tiến đến bên cạnh cửa lùa, mở nhìn ra phía khu vườn, nàng đưa tay hắt ra ngoài để những mảnh tro tàn bay đi tứ phía, rải rác trên nền đá sạn, trên những thảm rêu và trên mặt nước phẳng lặng của chiếc hồ cá nhỏ.

Tuy vậy, nàng biết rằng không thể nào xóa bỏ được một kỷ niệm một cách dễ dàng như thế. Trong tận đáy lòng nàng, các kỷ niệm về chàng trai xa lạ kia vẫn còn tồn tại mãi, người mà nàng đã yêu thương, một người ngoại quốc, cho đến nay vẫn mãi mãi là một người ngoại quốc và anh ta không còn bao giờ trở lại cùng nàng nữa. Nhưng nàng đã từng kết hợp làm một cùng chàng và những gì nàng đã tiếp nhận nơi chàng đã sống và kết tình thành một đứa con. Mặc dù không gian chia cách họ thế nào đi nữa, bao lâu đứa con còn sống, nó vẫn là cái bằng chứng hùng hồn của sự kết hợp giữa hai người. Không gì có thể hủy diệt được đứa con ấy, kể cả sự chết, bởi vì nó đã được sinh ra và chứng tỏ rằng một khi nó đã được sinh ra, nó có khả năng truyền giống lại. Đứa con mang trong người nó hai dòng máu hoàn toàn khác biệt nhau, và sẽ lưu truyền lại mãi mãi hai dòng máu ấy cho hậu duệ của nó sau này.

Đó là những ý nghĩ trong đầu óc Sương khi nàng sắp sửa ra đi. Không khờ dại cũng không quá giản dị, nàng cũng có những tình cảm sâu sắc và những tư tưởng cao xa thoạt hiện ra trong tâm trí như những con hải âu chao mình xuống mặt biển. Nhưng nàng vội gạt bỏ những cảm nghĩ ấy sang một bên và đảo mắt một lần cuối nhìn quanh gian phòng đã từng là của nàng để được chắc rằng không bỏ sót lại vật gì. Sau đó nàng gọi con Sen vào và bước xuống đường. Ra cổng, nàng quăng mình vào nệm chiếc xe hơi sang trọng, chiếc xe nổ máy phóng đi tức khắc.

Con Sen kề môi vào tai nàng khẽ hỏi :

– Cô không sợ sao cô?

– Sợ gì?

– Về ở nhà ông Chu cô không sợ sao? Nghe đâu nhà cửa to lớn lắm!

– Không, ta không sợ, ta bắt đầu sống một cuộc sống mới.

Tuy đã là thiếu phụ nhưng chưa từng được giữ vai trò làm vợ, bây giờ phải lấy ông Chu, Sương không khỏi không lo ngại đôi chút trong lòng.

° ° °

Bấy giờ đang độ mùa hè.

Greta soạn điểm tâm cho ông bà Winters. Cô đã dọn ra bàn hai ly nước cam tươi và từ bếp mùi cà phê, mùi thịt sấy bay vào thơm phức.

Chris hỏi vợ :

– Thư của ai đây mình?

– Thư của ông Wilton ở viện khảo cứu. Ông ấy muốn em trở lại tiếp tục điều khiển công cuộc nghiên cứu tính chất của các loại hải tảo. Ông ta chú ý đặc biệt đến Engtena.

Chris cười :

– Englena! Nếu anh nghĩ không lầm thì đó không phải là một người đàn bà.

– Không, không phải là một người đàn bà, nhưng chúng em ít quan tâm đến nó. Đó là một loại rêu xanh bao phủ các ao hồ trong mùa hạ, một loại cây tự dưỡng.

Bà ngước mắt nhìn chồng, chờ ông hỏi tiếp. Trước đây, ông thường hỏi bà như vậy, vì ông quan tâm đến công cuộc khảo cứu của vợ và lấy làm tự hào nữa là đằng khác.

– Ồ, không. Anh không có ý hỏi em Engiena là gì.

– Kìa anh, em sẽ giảng cho anh rõ mà: Đó là một loại thảo mộc cần thức ăn như súc vật. Thay vì cung cấp các loại sinh tố như đa số các loại thảo mộc khác thì nó lại cần sinh tố để sống. Nó cần loại sinh tố B12.

– Rồi sao nữa em?

– Nghiên cứu loại rong này có thể chúng ta sẽ khám phá ra một cái gì đây liên quan đến chứng thiếu máu của con người, có thế cả chứng bạch huyết nữa, biết đâu.

Nhưng bà thấy rõ ràng ông đang theo đuổi những tư tưởng của riêng ông mà không nghe bà nói gì hết.

Cuối cùng ông nói :

– Theo anh nghĩ thì trong lúc này em chưa nên trở về viện khảo cứu vội.

– Nhưng em biết làm gì đây anh?

– Em hãy bằng lòng cái vai trò hoàn toàn có tính cách trang trí của em, ít ra là tạm thời, với tư cách là vợ của anh. Cuộc vận động tuyển cử của anh rất hấp dẫn, anh cần có người vợ xinh đẹp mê hồn của anh ở bên cạnh.

– Em không có khiếu giao thiệp chắc anh cũng đã biết.

– Vấn đề giao thiệp cứ để mặc anh. Em chỉ có việc đi bên anh và luôn luôn tươi cười là đủ. Em cứ phải sử dụng nụ cười của em hồi còn trình diễn y phục thời trang. Nụ cười thật quyến rũ.

– Ồ, đã lâu quá rồi anh!

– Chỉ mấy năm. Trước khi em trở thành nữ khoa học gia Laura de Witt.

– Anh đã tỏ ra khá kiên nhẫn.

– Tự hào nữa chứ. Không phải ông Thống đốc nào cũng có thể có một bà vợ xinh đẹp lẫn thông minh.

Bà nhận ra nét chữ của Christopher trên một phong bì trong đống thư. Bà cầm lấy và nói :

– Này mình, thư của bé Christopher. Tuồng chữ xem đã có vẻ chững chạc lắm.

– Nó viết gì thế?

– Thư đề gởi cho mình như thường lệ. Em bóc nhé?

Ông gật đầu. Bà mở phong thư và lớn tiếng đọc:

“Ba thân mến

Hôm nay con viết thư cho ba.

Bây giờ con đã biết bơi và lặn. Con cũng chơi đá cầu và các loại banh khác. Học trò phần đông đã về nhà nghỉ hè. Còn con, khi nào ba muốn con về? Nói cho con biết nghe ba? Rồi đây trường sẽ chỉ còn lại vài học sinh thôi. Ngày nào cũng thế, con ước mong gặp ba kinh khủng. Ba sẽ đến thăm con chứ? Con học khá lắm.

Con của ba”.

Chris nói :

– Thằng bé dễ thương thật!

Hai vợ chồng ít khi nói chuyện về đứa trẻ. Và họ biết nói gì? Họ chỉ biết nói lên lời giải đáp câu hỏi mà họ đã đặt ra trong lòng. Bà biết chồng bà luôn luôn tưởng nhớ đến con trai của ông và mặc dầu đứa trẻ ở xa, cả hai vợ chồng đều cảm thấy như có sự hiện diện của nó trong nhà.

– Mình viết thư trả lời cho con chứ mình?

– Em viết đi.

– Nhưng về vấn đề nghỉ hè thì sao?

– Anh đang bận lắm, nên để nó ở lại trường, ở đây có tổ chức trại hè? Học trò ở lại cũng nhiều. Những đứa trẻ có cha mẹ ly dị, đi du lịch xa, hoặc quân nhân thuyên chuyển.

Laura gấp lá thư bỏ lại vào phong bì. Bà nói :

– Một ngày nào đó, nó sẽ không còn bằng lòng việc em thay mình viết thư cho nó nữa. Bảo rằng mình quá bận việc mà không viết thư cho nó, làm sao nó có thể chấp nhận được?

– Anh xin em, Laura!

Bà ngước nhìn chồng, ngạc nhiên vì giọng bối rối của ông, bà liền dịu giọng :

– Em xin lỗi anh. Nhưng anh nên hiểu rằng chính chúng ta đã mang nó về đây. Bây giờ nó phải sống giữa mọi người xa lạ trong một quốc gia xa lạ…

– Chúng ta sẽ cùng đến nghỉ lễ Giáng sinh với nó kia mà.

– Ồ Chris, thật không anh?

– Sao không? Vả lại em sẽ không bằng lòng nghỉ lễ Nôen với anh một mình. Chúng ta cả hai sẽ không còn cô độc nữa.

– Chỉ vì…

– Anh biết, anh biết. Đó là lỗi của anh.

– Em không muốn nói vậy. Nhưng thằng bé quá cô độc anh ạ. Nếu trước đây anh quyết định để nó lại với cô Sương thì em đã quên nó một cách dễ dàng rồi.

– Không phải anh. Để nó sống trong cái xứ hư hỏng…

– Xứ của cô Sương mà anh…

– Vậy thì gởi trả nó về.

– Nếu anh muốn, em sẽ đưa trả nó về cùng mẹ nó.

Ông đặt thìa xuống bàn :

– Em không nói giỡn chứ?

– Không. Phải có một người sống bên nó Chris ạ, một người mà nó yêu thương.

– Laura, em chọc tức anh đấy à?

– Ở đây nó được nuôi nấng, học hành. Nó sẽ được lớn lên trong một quốc gia mà mỗi người đều có cơ hội của mình. Nếu nó có chí thì sẽ nên. Anh sẽ hết lòng giúp đỡ nó ăn học.

– Vâng, anh giúp nó tất cả, ngoại trừ cái điều mà nó cần hơn hết, đó là một gia đình, một tổ ấm…

Ông ném cái khăn ăn ra giữa bàn :

– Thôi được! Tôi rút lui! Tôi sẽ thông báo cho Berman biết rằng tôi rút lui không tranh cử nữa. Quãng đời con lại của chúng ta sẽ dùng để săn sóc đứa trẻ ấy.

– Kìa, ai sẽ dứt khoát. Nếu dứt khoát như thế thì tôi sẽ ly dị ngay.

– Laura!

– Và rồi anh cũng sẽ dở sống dở chết.

– Không, anh không thể nói rằng anh thích có sự hiện diện của nó.

– Vì em có phải không?

Hai vợ chồng vẫn thường tranh luận, nhưng chưa bao giờ quyết liệt như lần này. Bà nhìn thấy đôi mắt màu xanh của ông trở nên giá lạnh vì giận dữ, tim bà thắt lại đau đớn. Làm sao để giải thích cho chồng hiểu rằng cuộc tranh luận đã vượt xa khỏi vấn đề đứa bé? Làm sao để thú nhận cùng ông rằng bà đã bắt đầu ngờ vực ông. Ngỡ ông trốn tránh trách nhiệm của một kẻ làm cha, chẳng khác nào con chim đà điểu giấu đầu đằng sau một tảng đá? Cái ý tưởng phỉnh gạt này đã làm cho bà đau đớn khôn tả, bà không thể nào chịu đựng nổi.

“Mình không công bằng, bà tự nhủ. Mình đã đoán xét chàng khắc nghiệt quá! Nếu bé Kim là con của ta thì ta có thừa nhận nó không, nếu sự thừa nhận ấy buộc là phải từ bỏ những gì mà ta yêu quý nhất? Nhưng đối với ta, Chris là người mà ta yêu quý nhất trên đời này”.

Bà tiếp tục suy nghĩ, nếu bà có một đứa con tự sinh, đã được gởi vào một cô nhi viện, và nếu bà biết rằng ông không muốn biết điều đó thì bà có dám nói với ông không?

Hay là bà mãi mãi giữ im lặng? Làm sao có thể giải đáp được thắc mắc này, bởi vì đây chỉ là một giả thuyết? Đối với Chris không có vấn đề để mất đi một con người mà là vấn đề hy sinh những tham vọng quá đỗi đắt giá. Ông không tham vọng ích kỷ, bà biết: chồng bà tâm hồn rất cao thượng và nhân cách khuôn rập theo truyền thống tổ tiên, những người theo Thanh giáo, quen phục vụ đồng bào. Thật vậy, chồng bà có tham vọng trở thành một vị Thông đốc tốt vì xét thấy dân chúng là những người có quyền đòi hỏi những nhà hành chánh thanh liêm và tận tụy. Sau khi tốt nghiệp đại học, ông chỉ chuyên tâm nghiên cứu hoạch định các dự án cải cách Tiểu bang. Ông cổ xúy việc dùng một Tiểu bang làm thí điểm thực hiện các chương trình cải cách ấy để rút kinh nghiệm cho một công cuộc cải cách rộng lớn trên toàn quốc gia.

Bao giờ ông sẽ trở thành Tổng thống Hoa Kỳ? Tuy chưa từng đặt thành câu hỏi, nhưng cả hai vợ chồng đều đã từng nghĩ đến điều đó. Mới đêm hôm trước đây ông đã thức giấc nửa khuya, đi bách bộ trong phòng, rồi đánh thức bà dậy để trình bày cho bà nghe cái quan điểm cuối cùng của ông về kế hoạch cải cách thuế khóa.

Bà đã lắng nghe, chăm chú đến giọng nói trịnh trọng, đôi mắt ngời sáng cũng như bài diễn văn hùng hồn của ông.

Bà nói :

– Ôi, mình! Em tin tưởng mình hoàn toàn.

Lúc bây giờ ông tiến đến bên vợ, ôm bà vào lòng, cả hai như bị cuốn đi trong tình yêu thác lũ và họ chỉ thiếp đi khi trời vào hừng sáng.

Thế mà chỉ có mấy giờ đồng hồ sau cái đêm ân ái ấy họ đã cãi nhau như vậy đây! Tình yêu của bà đối với ông không một chút suy giảm, nhưng bà cảm thấy có một sự rạn nứt bên trong.

Ông không nói gì với bà về cô Kim Sương cả, điều đó có thể thông qua. Nhưng ông đã thu giấu đứa bé. đó là điều mà bà không thể nào tha thứ được. Bởi vì đứa bé không chịu trách nhiệm gì hết về việc nó phải sinh ra đời. Tuy nó không làm gì để được sinh ra nhưng nó có quyền được sống, không phải là sống một cuộc sống lén lút, tủi hổ mà phải là một cuộc sống tự do trọn vẹn. Thật vậy, Laura nhận thấy lòng quý trọng chồng có sự nứt rạn nhưng bà không biết xác định ra sao. Tuy nhiên, bà vẫn yêu chồng và mãi mãi chỉ yêu ông.

Bà nói cùng chồng :

– Ôi, Chris, tha lỗi cho em. Em yêu anh!

Lòng ông hiền dịu lại. Có trời đất chứng giám lòng anh, anh cũng yêu quý em, em ạ. Đời anh không còn có ai khác ngoài em. Chính vì em mà anh muốn làm tất cả những gì có thể. Anh muốn em hãnh diện về anh.

Ông bước đến ôm lấy bà.

– Xin lỗi…

Hai người giật mình rời khỏi nhau. Berman đứng ở ngưỡng cửa, mặt ửng đỏ, bối rối.

– Xin lỗi. Tôi rất ân hận đã quấy rối ông bà. Thời đại bây giờ mà yêu thương nhau như vậy thật là một hiện tượng hiếm thấy.

– Ồ, không có gì – Chris vừa cười vừa nói – Vào đi anh. Laura, em rót cà phê mời anh Joe đi em. Chúng tôi vừa mới thảo luận về việc nhà tôi giúp tôi vận động tranh cử đây anh ạ. Ngồi xuống đi anh.

Berman ngồi xuống giữa hai người. Anh nói :

– Tôi đến gặp ông bà chính là vì vấn đề đó. Thưa ông Winters, các câu lạc bộ và các hiệp hội phụ nữ muốn được nghe bà nhà nói chuyện. Tôi sẽ lập một chương trình thật sát để bà duyệt trước. Cuộc tiếp xúc sẽ bắt đầu tại các câu lạc bộ ở thành phố, sau đó sẽ lan dần hoạt động khắp tiểu bang.

Laura kinh ngạc :

– Ồ, các bà họ muốn nghe nhà tôi nói chuyện chứ đâu có phải muốn nghe tôi.

Berman cười :

– Thưa bà, xin bà để ông nhà tiếp xúc với các nam cử tri. Đặt địa vị bà là một cử tri xin cho biết bà quan tâm đến gì?

Chris bật cười :

– Đừng có hỏi nhà tôi như vậy. Bà ấy chỉ quan tâm đến các tạo vật kỳ lạ hơn từ đáy biển sâu: thảo mộc bà xem như là súc vật; ít ra là bà đã không xem súc vật như cỏ cây. Các bà ấy sẽ cho thế là gàn, nhưng họ sẽ nghe nhà tôi đấy.

Phân vân, Berman hỏi gặn :

– Ông không đùa chứ?

Laura nói :

– Tôi nghiên cứu về hải dược vật. Nhà tôi trêu anh đây.

– Nhưng thưa bà, tôi ngỡ rằng một người trình diễn y phục thời trang…

– Vâng, hồi trước tôi làm nghề trình diễn y phục để kiếm thêm tiền theo học ở đại học.

Chris vui vẻ :

– Hãy là cô gái trình diễn y phục thời trang nghe mình. Vai trò ấy thích hợp nhất. Kìa, Berman đừng có sợ!

– Tôi không sợ. Bà có thể nói về các hoạt động khoa học của bà với các sinh viên, còn đối với các người khác thì bà có thể nói về các kinh nghiệm của bà về trang phục.

Chris hỏi :

– Còn tôi, tôi sẽ là cái thứ gì ở trong đó?

– Ờ, bà ở đâu, ông phải ở đấy. Các bà họ muốn xét đoán tư cách làm chồng của ông: họ muốn biết ông có giúp bà rửa chén đĩa hay không, ông có yêu thương con cái…

Anh ta im bặt, Laura bình tĩnh nói :

– Chúng tôi rất tiếc vì không có con. Anh không nên có những kết luận sai lầm.

– Berman, nhà tôi sẽ ứng biến tài tình. Anh có thể hoạch định ngay chương trình tiếp xúc. Phải bắt đầu thuyết phục các bà đi thì vừa.

Laura se sẻ đứng dậy và rút lui khỏi phòng, nhẹ nhàng đến nỗi chồng bà và Berman đã không biết bà tự động rút lui hồi nào. Bên ngoài khu vườn rạng rỡ dưới ánh mặt trời mùa hạ. Có được một khu vườn tại giữa thành phố thì thật là đáng giá hết sức. Trong khoảng trống giới hạn bởi các bức tường thành vây quanh, bà đã cho trồng một vài khóm cây cảnh, một bụi hồng nho, một cây mi-mô-sa cành lá rủ xuống bên mặt đường. Một hồ cái, hai cái ghế và một cái bàn tròn mà bà đã cho đặt trong vườn.

Thật là kỳ lạ, bỗng nhiên bà nhớ lại thật rõ ràng phong cảnh của xứ Triều Tiên, những dãy núi hùng vĩ và cô tịch chạy dài bên trên thành phố Hán Thành, những tòa lâu đài cổ kính với những mái ngói uốn cong, những đám đông và trẻ con… Ôi! Những khuôn mặt trẻ thơ, nhất là những đứa trẻ giống Kim Christopher, những đứa mà bà đã nhận ra ngay khi chợt nhìn thấy chúng ở giữa đám đông…

Bà ngồi xuống chiếc ghế đặt trong vườn. Trên một cây si già bên vệ đường mà cành lá vươn rũ vào bên trong vườn nhà bà, một con chim bắt đầu cất tiếng hót. Bà không chú ý gì đến tiếng hót của con chim mà đang trầm ngâm nghĩ ngợi. Thành phố Hán Thành là nơi sinh sống của một dân tộc cổ xưa có nhiều phong tục tập quán lâu đời, thế mà chính những người Mỹ, cái dân tộc nhỏ bé này lại xen vào đời sống cổ kính ấy và mang vào đây nguồn sinh lực sôi bỏng của họ. Bỗng nhiên, không biết tại sao, trong tâm tưởng của bà hiện lên khuôn mặt trung úy Brown, sắc diện khẩn trương của anh ta, những đường nét in dấu sự chiến đấu nội tâm, những bản năng và nền giáo dục nghiêm cách của anh, sự tiết dục mà anh ta đã tự buộc mình phải giữ, đã làm mòn sức anh còn hơn là sự buông thả nữa. Nào ai biết được? Làm sao bà có thế kết án Chris, Chris của bà rất chi là vui vẻ, rất chi là quả đoán và đáng yêu, nếu như chồng bà cũng giống như trung úy Brown thì bà không thể yêu thương ông nồng nhiệt hay sao? Sao lại trách chàng đã yêu, dẫu chỉ trong một thời gian ngắn ngủi, một thiếu nữ xinh đẹp như Kim Sương?

Bà nghe tiếng đóng cửa nhanh. Thói quen thường lệ của Chris, bà hiểu ngay Berman đã ra về. Bà đứng dậy trở lại cùng chồng. Đến bên ông, bà vòng tay quanh cổ chồng và dịu dàng nói :

– Em sẽ hết lòng giúp anh, anh ạ.

° ° °

Khi Laura xuống taxi và bước vào tòa nhà rộng lớn của bà Alien thì trời bắt đầu lác đác mưa. Bây giờ bà đã quen nói chuyện trước đám đông tại câu lạc bộ phụ nữ, bà không còn rụt rè e sợ nữa. Vả lại, bà có cảm tình đặc biệt với ông cụ Henry Allen, không phải vì cụ đã bảo trợ chồng bà mà vì chính con người của cụ ấy. Bà nhận thấy ông cụ là cái thế tựa vững vàng cho chồng bà và với bà thì cụ lại là một người bạn tốt. Ông cụ đối với bà rất niềm nở, tế nhị và dịu dàng như đối với con gái của cụ, nếu quả tình cụ có con gái. Cụ chỉ sinh được sáu người con trai và mặc dầu rất tốt với các con dâu, cụ vẫn tiếc là đã không có được một mụn con gái nào. Sự hiện diện của cụ làm cho Laura khỏi bỡ ngỡ. Bà tìm gặp ở cụ một sự hiểu biết thấu đáo mà bà chưa bao giờ gặp ở bất cứ ai khác, kể cả thân phụ của bà, một giáo sư đại học, đối với con cái thật là ơ hờ lơ đễnh.

Laura tìm thấy một sự an ủi vô bờ trong cái tác phong ngay chính của cụ Henry Allen và bà biết bà không sợ ở ông cụ bất cứ cử chỉ mờ am nào.

Bà dùng thang máy để lên tầng lầu thứ mười tám. Cụ Henry Allen đang đợi tiếp đón bà ở cửa. Cụ nói :

– Vào đi, Laura. Mọi người đã tề tựu đông đủ, các bà chủ băng, các bà thuộc Tân giáo như tôi, các bà quản thủ các sản nghiệp thừa kế. Họ đều là những người tiết kiệm, nhưng chúng ta phải móc hầu bao của họ, có phải không? Bà phải nói cho họ hiểu thế nào là một người đàn ông thông minh, một người hoạt động và bảo thủ, một nhân vật mới như cỡ Chris mới có thể bảo vệ quốc gia chống lại bất cứ những gì mà họ sợ hãi, tất cả những gì mà họ liệt vào hạng đê hèn và dính dấp đến Cộng sản. Bà phải thuyết phục họ. Họ sẽ mở rộng lòng và hầu bao của họ cho phe hữu mới mà Chris là một mẫu người ưu đẳng, và là kẻ dám nói dám làm. Hãy chú ý đến cái bà lão đội nón tím cao như ngọn tháp kia. Bà ta có thể tài trợ tất cả chi phí chương trình vận động tranh cử của Chris nếu bà muốn. Tôi chỉ muốn bà ta tài trợ để giúp ông nhà mở các cuộc thăm viếng trong khắp tiểu bang trước tiên và có thể bà ta sẽ dài thọ một cuộc du hành vòng quanh thế giới để tăng thêm phần uy tín cho Chris. Đó là điều cần thiết trong thời đại hiện tại.

Laura theo cụ Henry Allen bước vào gian phòng khách sang trọng, có gần một trăm bà mệnh phụ đang ngồi đợi trên các ghế bành thếp vàng. Bà tươi cười để mọi người nhìn bà tận mặt. Kinh nghiệm của nghề trình diễn y phục thời trang đã giúp bà rất nhiều, với một vẻ duyên dáng tuyệt hảo, bà đã làm cho người ta khâm phục lòng tin tưởng và sự kiều diễm của bà. Rồi bà làm quen với các bà thính giả. Không nên tỏ ra quá tự tin để khỏi làm cho người ta ghen ghét mà phải làm cho họ động lòng vì sự thận trọng và trẻ trung của bà. Về đời tư, Laura chỉ tỏ ra cái vẻ là một người vợ trẻ của một chính khách tương lai. Bà phải lượng trước thời gian đọc diễn văn và dự liệu thời giờ đủ để trả lời các câu hỏi của họ, vì kinh nghiệm bà biết rằng đó là lúc nhấn mạnh các luận cứ để thuyết phục. Đồ sộ trong bộ y phục màu xám nhạt, với một vẻ mặt nhân từ, bà Alien đứng dậy giới thiệu Laura. Bà nói :

– Giới phụ nữ chúng ta, thường muốn biết rõ các bà vợ của các ứng cử viên, có phải không các bạn? Nhưng không dễ gì chúng ta có được một bà xinh đẹp và khả ái để mà giới thiệu như bà Winters hôm nay đây. Quý vị thường nhìn thấy hình ảnh của bà Winters trên các báo chí vì bà là một thiếu phụ hoạt động, luôn luôn theo chồng khắp nơi. Nhưng đa số quý vị ở đây, bây giờ là lần đầu tiên quý vị nhìn thấy bà Winters một mình.

Bà khôn khéo không đề cập gì đến Laura de Witt, cô gái giới thiệu trang phục ngày xưa. Vai trò đó không lấy gì làm quý phái hấp dẫn.

Bà nói :

– Và đây, tôi xin trân trọng giới thiệu cùng quý vị, bà đệ nhất phu nhân tương lai của chúng ta.

Laura đứng dậy, mỉm cười, vẻ rụt rè.

Bà nói :

– Tôi đã cố làm ra vẻ rất quen thuộc với các cuộc hội họp như thế này nhưng thật ra tôi chưa có quen gì hết. Chúng tôi sống một cuộc sống trầm lặng. Tôi đến đây hôm nay để tiếp xúc với quý vị thay mặt nhà tôi. Nhà tôi rất ước ao được đích thân đến đây hôm nay nhưng lại phải bận đi các nơi khác. Tôi không biết phải mở đầu cuộc nói chuyện như thế nào, có lẽ tôi phải giới thiệu qua cùng quý vị con người của nhà tôi trước. Nhà tôi vóc người to lớn, cao một mét tám. Đôi mắt xanh ngời sáng những khi quan tâm đến một vấn đề gì hoặc những lúc tức giận. Ông chơi quần vợt rất giỏi, có tài kỵ mã và trượt tuyết rất cừ. Cả hai chúng tôi đều thích cưỡi ngựa. Nhà tôi thích chơi dã cầu, nhưng tôi thì không. Nhà tôi tốt nghiệp đại học Havard về khoa học kinh tế. Ông khởi sự làm việc trong một ngân hàng ở Nữu Ước để quen với các vấn đề tài chánh và cách thức điều hành các ngân quỹ. Sau đó, ông trở lại đại học Havard để nghiên cứu luật pháp. Ông đã mãn hạn quân dịch tại Triều Tiên và sau đó, ờ, sau đó ông vào làm trong một cơ quan luật pháp kỳ cựu của thành phố cho đến nay. Đó là những nét bên ngoài. Bây giờ tôi xin nói đến tính tình. Trong gia đình, nhà tôi là…

Bà ngập ngừng, cúi đầu, suy nghĩ. Rồi bà ngước lên mỉm cười :

– Kính thưa quý vị.

Tôi biết trình bày cùng quý vị sao đây về gia đình? Chúng tôi không có con. Chúng tôi rất ân hận về điều đó. Tôi chắc nhà tôi sẽ là một người cha tốt. Ông là một người có kỷ luật, có xu hướng quản thủ, tinh thần hợp lý và thấm nhuần đức công bình. Nhà tôi rất công bình.

Bà lại ngập ngừng và hình ảnh của Kim Christopher đột nhiên lại hiện ra trong tâm trí bà. Không, không nên nghĩ đến nó lúc này. Bà vội vã nói tiếp rất mau :

– Trên bình diện chính trị, nhà tôi tiêu biểu cho một hình ảnh tốt đẹp nhất trong giới thanh niên Cộng hòa, hay ít ra là tôi nghĩ như vậy và đã được nhiều người khác đồng quan điểm như thế.

Bà tiếp tục cuộc nói chuyện với một vẻ tự nhiên, được nghiên cứu trước, nên đã thu được cảm tình nồng nhiệt của các cử tọa. Trước những cảm tình nồng nhiệt như vậy, bà lấy làm hối tiếc đã không có quyền trả lời các câu hói của họ một cách tuyệt đối thẳng thắn. Bà ước ao được nói với họ về Kim Christopher, nhưng bà không có quyền, bởi vì chính Chris cũng không để nói ra điều đó.

Ngay sau khi kết thúc bài diễn văn ngắn, bà đã trả lời các thắc mắc của cử tọa một cách nhẫn nại và kính cẩn. Thật thế, đối với các bà sống một cuộc sống ổn cố như vậy, họ thường tỏ ra rất thông thạo các công việc của tiểu bang và sẵn sàng tán rộng sự hiểu biết của họ sang các vấn đề của quốc gia và quốc tế.

Laura nhớ đến một chuyện, ngày xưa cha bà đã kể, sau một năm viếng thăm nước Trung Hoa. Ông nói :

– “Các người nhà quê Trung Hoa chẳng biết đọc biết viết gì hết, nhưng họ là những con người văn minh và phức tạp. Phương tiện chuyển vận độc nhất của họ là xe cút kít và xe lừa. Nhưng khi con đường sắt đầu tiên được thiết lập, họ đổ xô đi xe lửa với những tay nải và quang gánh trên vai. Rồi khi có đường hàng không, họ đi phi cơ cũng với một vẻ thư thái vững vàng như vậy. Ba nhìn thấy một ông lão bước lên máy bay không một chút ngần ngại tay xách tòn ten khoang năm sáu con gà. Ông lão đến ngồi bên cửa hông tàu và thản nhiên châm điếu hút. Người ta nói rằng suốt đời ông chỉ du hành bằng máy bay. Theo viên thông ngôn của ba cho biết thì đây là lần đầu tiên ông cụ công nhận một phương tiện di chuyển khác nhanh hơn đi lừa. Tại các tỉnh xa xôi nơi ông cụ ở không có đường xe lửa”.

Laura tự nghĩ các bà phì nộn và phục sức sang trọng này sẽ cũng dễ dàng biết rời bỏ cuộc sống êm đềm của họ để bước vào cái cuộc sống mà Chris hy vọng sẽ cai trị một ngày nào đó.

Bà kết thúc bài diễn văn khoảng một giờ sau, bà nói :

– Cuộc tiếp xúc đã mãn. Tôi đã rút được nhiều điều bổ ích trong các vấn đề quý vị đã đặt ra, một lần nữa tôi xin trân trọng cám ơn quý vị.

Bà bước về chỗ ngồi và ngay khi ấy bà Alien đặt tay vào cánh tay bà ngăn lại. Bà nói :

– Hãy thong thả; tôi còn có điều giới thiệu bà thêm lần nữa.

– Các bạn thân mến, tôi đã giới thiệu cùng các bạn bà Christopher Winters, phu nhân của vị Thống đốc mới của chúng ta – À, ờ tôi chắc như vậy – nhưng bây giờ đây tôi xin giới thiệu cùng các bạn một người đàn bà khác. Đó là Laura de Witt, một khoa học gia đã cộng tác trong việc tìm kiếm hải dược vật cùng với hai nhà bác học lừng danh của nước ta. Nếu các bạn không hiểu chữ hải dược vật là gì, xin chớ ngại: chính trước đây tôi cũng không hiểu, phải tra tự vị kia đấy. Nó có nghĩa là tìm kiếm các chất thuốc mới từ các động vật và thảo mộc tại các vùng biển. Có phải vậy không bà Laura?

Các bà hiện diện vỗ tay hoan nghênh nồng nhiệt. Bây giờ diễn giả trở nên ngượng nghịu thật.

Sau đó, ai nấy tiến đến quầy rượu. Trong khi Laura nói chuyện, một tay cầm tách trà một tay cầm miếng săng-uých, không ai hỏi gì về các hoạt động chuyên môn của bà cả.

Vào lúc sắp mãn cuộc, bà nhã nhặn trách bà chủ nhà :

– Sao bà lại giới thiệu em như vậy? Bây giờ các bà ấy giảm bớt cảm tình với em rồi đây.

Với một giọng quả quyết, bà Alien nói :

– Bà Winters thân mến, đã đến lúc giới phụ nữ phải hãnh diện có được những người cùng phái thông minh thiên bẩm như bà.

Bà ôm lấy Laura và mở cửa.

° ° °

Trong thư, Kim Christopher viết:

“Ba thương mến,

Tuần tới sẽ là ngày 4 tháng 7 rồi. Đó là một ngày lễ lớn: có lẽ cha mẹ học sinh đều đến trường cả. Nếu không có gì trở ngại, xin ba đến xem những tia lửa xẹt.

Kim Christopher”.

Laura đưa lá thư cho Chris mà không nói gì. Ông đọc và ngẩng đầu hỏi :

– Thư mới tới hôm nay à?

– Vâng. Anh uống “cốc-tay” không để em pha?

– Cho anh một cốc đi. Dĩ nhiên chúng ta không thể nào đến với nó vào ngày 4 tháng 7 được. Anh đã thông báo sẽ đọc một bài diễn văn quan trọng tại thủ đô của tiểu bang. Đến tối có thết tiệc và em phải ở bên anh. “Lửa xẹt” là gì nhỉ?

– Chắc là pháo bông.

– À, phải. Đáng tiếc thật! Nhưng anh đã hẹn đến với nó vào dịp Noel mà.

– Rượu đây anh.

Noel còn xa quá đối với một đứa trẻ. Bà tự nhủ. Nhưng không phải là từ rày bà đã quen với hoàn cảnh như thế ấy rồi sao? Cuộc vận động tranh cử đang hồi náo nhiệt nhất. Bà khâm phục Chris hết lòng và trong khi công việc bận rộn đến ngập thở thì một sự nghi ngờ nhỏ bé đang gậm nhấm cõi lòng bà. Diễn văn của ông càng đọc bao nhiêu càng tuyệt hảo bấy nhiêu. Dân chúng khâm phục ông và tán thưởng ông rất nhiều. Họ cho ông là một người can đảm. Ông đề cập đến mọi khó khăn và đưa ra nhiều phương pháp giải quyết, trong khi đó ông không ngừng thâu thập tất cả mọi tài liệu, mọi dữ kiện có thể. Không ai, kể cả chính mình, Chris ngờ rằng bà khát khao được nhìn thấy ông tìm ra một giải pháp cho các vấn đề của riêng ông, để bà được an tâm và tin tưởng rằng ông đích thực là một con người can đảm. Bà không thể quên được câu chuyện của ông Grover Clevelaud, một ứng cử viên Tổng thống, chấp nhận cả việc đưa ra ánh sáng đứa con tư sinh của ông ta. Chris có can đảm như ông Grover Clevelaud không? Cái thắc mắc này đã làm khổ hai vợ chồng không ít.

Chris nói :

– Sau này bầu cử, anh phải đi một vòng quanh thế giới. Có lẽ vào dịp lễ Noel. Dạo đó rảnh nhất. Em và anh, cả hai chúng ta cùng đi.

– Vâng, chúng ta cùng đi, nhưng không phải đi vào dịp lễ Chúa giáng sinh. Chúng ta đã hứa sẽ đến mừng lễ với Kim Christopher rồi.

– À, phải. Chúng ta đã hứa với nó rồi.

Laura suy nghĩ. Lễ mồng bốn tháng bảy, nghỉ bốn ngày. Bác sĩ Wilton đã năn nỉ bà đến viện khảo cứu để quan sát một vi sinh thể mà ông đã cô lập được trong lúc thí nghiệm.

Ông viết:

“Tôi đang cần đến đôi mắt sắc bén và bộ óc tinh nhạy của bà. Con vật bé nhỏ này – không biết có phải là một con vật không? Nó có khả năng tự động và tự dưỡng. Hơn nữa nó giống như một loại cây – không biết có phải là cây hay không?

– Có mang chất diệp lục tố và có thể thực hành quang hợp. Nghiên cứu nó có lẽ ta có thể khám phá ra một nguyên tắc chống bệnh ung thư. Hy vọng…”

Laura nói với chồng, trong khi hai người đang uống rượu :

– Chris, em muốn nghỉ một ngày để đến viện khảo cứu, anh có vui lòng không? Bác sĩ Wilton cho biết rằng ông vừa khám phá ra một vi sinh vật mới.

– Ờ, được. Được.

Ông trả lời ngay một cách rộng lượng như thế nên bà tránh không đặt câu hỏi tiếp, bà muốn nhân cơ hội đến thăm Kim Christopher một ngày để an ủi nó, vì ba nó vắng mặt trong ngày lễ mồng bốn tháng bảy. Không, đừng nói gì cả là hơn. Khi bà đã đến viện khảo cứu và khi cúi mình xuống ống kính hiển vi, có lẽ điều đó sẽ hóa ra ít cấp bách hơn.

Bà nói :

– Cám ơn anh.

– Đó là điều mà ít ra anh có thể làm, thật vậy. Cụ Henry Allen nói rằng hôm qua em đã làm cho các bà thính giả hâm mộ hết sức. Họ cho em là hấp dẫn đấy cưng ạ. Họ thông minh hơn anh tưởng nhiều.

Ông tiến đến bên vợ và ôm hôn bà một cách say đắm. Luôn luôn, cứ mỗi lần ông hôn bà như vậy thì toàn thân bà rung lên.

Một tuần sau, bà trở lại viện khảo cứu hai ngày. Sau một thời gian gián đoạn khá lâu, bà vui mừng hơn khi được nhìn thấy trong ống kính hiển vi cái vật thể mới mà bác sĩ Wilton đã khám phá ra. Đó là một trong những hải nguyên sinh vật mà trước đây bà đã chú ý nhưng không phân tích nổi trong một đám phiêu sinh vật của vùng biển Sargasses.

Bác sĩ Wilton lẩm bẩm :

– Bà có một trí nhớ kinh khủng thật… Tất nhiên bà nhớ rõ cái này ngay cả nếu bà thấy nó lúc còn bé. Vậy bà không bao giờ quên gì hết cả sao?

Sáng hôm sau, trên xa lộ của thành phố New Hampshire, bà tự nghĩ: bà không quên gì ráo, đó chính là một trong những nỗi khó khăn cho bà. Vì thế bà đã nhớ lại những giờ phút ngắn ngủi nhất mà bà đã trải qua cùng Kim Christopher; vẻ linh động ít ỏi nhất khi khuôn mặt nó thay đổi và, nỗi thất vọng khi nó biết rằng cha nó không đến.

Mặc dầu rất muốn khóc nhưng nó đã tỏ ra can đảm. Mặc dầu say sưa với công việc ở viện khảo cứu, trong hai ngày ấy Laura đã không thể nào quên được nỗi khốn khổ tột độ của đứa trẻ. Vì thế, lần đầu tiên bà đã biết nói dối và cố ý nói dối chồng.

Chiều hôm qua bà đã điện thoại cho chồng bà, nói :

– Chris em chưa thể trở về nhà ngày mai như đã dự định. Em phải ở lại thêm hai hoặc ba ngày nữa.

– Em không về nhà kịp ngày mồng bốn à?

– Có chứ anh. Chậm lắm là em sẽ có mặt ở nhà vào khuya ngày mồng ba. Có thể vào ngày mồng hai cũng nên.

– Và ngày kia em sẽ mệt lữ.

– Không, không mệt đâu anh.

Trước cái giọng nói vui vẻ và quả quyết này ông đã nhượng bộ và họ trao đổi cho nhau những lời âu yếm như thường lệ.

Suốt ngày du hành một mình bằng xe hơi bây giờ bà biết rằng bà đã có lý để hành động như vậy. Sau khi chấm dứt công việc nghiên cứu ở phòng thí nghiệm, bà đã soạn thảo một bản phúc trình và tâm hồn bà trở lại yên tĩnh – sự yên tĩnh mà bà chỉ có khi công việc đã chu toàn bà bèn cân nhắc đến vấn đề bé Kim.

Bà suy nghĩ giờ này sang giờ khác một cách chậm rãi, cuối cùng bà đi đến cái kết luận chắc chắn rằng không nên kéo dài sự bất quyết này lâu hơn. Hoặc đứa trẻ phải được sống công khai cùng hai vợ chồng bà với tư cách là con trai của Chris, hoặc bà phải mang nó trở lại Triều Tiên cho mẹ nó… nếu Chris bằng lòng. Yên tâm bởi giải pháp ấy, bà tiếp tục cuộc hành trình và ngày hôm sau bà đã tới cửa trường “The Waite School”, bà chủ tâm đến bất ngờ để được nhìn thấy Kim Christopher trong sinh hoạt thường nhật. Nghe tiếng chuông, một cậu học sinh lớn tuổi ra mở cửa.

Bà Laura hỏi :

– Bác sĩ Barilett có nhà không cậu?

– Thưa bà, bác sĩ còn ở trong văn phòng, nhưng con chắc bác sĩ sắp ra về đây ạ.

– Vậy, nhờ cậu vào thưa rằng có tôi là bà Chris Winters muốn gặp.

Bác sĩ Barlett vội bước ngay; vẻ mặt đầy kinh ngạc. Ông nói :

– Kính chào bà Winters. Tất cả đều êm đẹp chứ, thưa bà?

– Vâng, êm đẹp cả. Tôi đến đây chỉ để thăm cháu Christopher.

– Vậy thì tốt. Xin mời bà vào, tôi sẽ cho người đi tìm cháu.

– Thưa bác sĩ, tôi có thể cùng đi kiếm cháu không ạ? Tôi muốn được nhìn thấy cháu đang sinh hoạt xem ra sao.

Họ tìm gặp bé Kim trong thư viện, giờ này vắng vẻ vì đã quá muộn. Nó đang đứng tựa mình bên thanh cửa sổ để đọc một cuốn sách lớn.

Bác sĩ hiệu trưởng gọi :

– Christopher!

Nó ngẩng đầu quay lại. Khi nó hấp tấp bước ra, bà nhận thấy nó đã cao lớn hơn nhưng lại gầy ốm hơn.

– Mẹ đến thăm con! – Nó hỏi giọng nghẹn ngào.

Ngạc nhiên và lúng túng, bà nhìn thấy nó do dự, rồi gục đầu vào vai bà òa khóc. Bà xiết nó vào lòng và nhìn bác sĩ hiệu trưởng với đôi mắt trách móc :

– Con tôi khổ sở lắm sao?

Chính đứa bé trả lời bà; nó ngẩng đầu mỉm cười qua dòng lệ.

– Bây giờ con sung sướng rồi. Mẹ đến thăm con. Con cám ơn lắm.

Bác sĩ Bartlett quả quyết nói :

– Nó không thể khổ, nhưng dĩ nhiên là tinh thần nó xuống thấp trong buổi ban đầu. Dầu sao, nó phải sống trong một xứ xa lạ và nó chưa được biết ông bà nhiều lắm. Ông Winters và bà.

Không ai đó hỏi gì ông hiệu trưởng về lai lịch của đứa trẻ, và mặc dầu nghi ngờ, ông vẫn chẳng hỏi bà. Laura do dự: Có nên nói cho ông ta rõ tất cả sự thật hay không?

Ông hiệu trưởng giải thích :

– Thưa bà Winters, xin bà chớ quá lấy làm điều về những dòng nước mắt ấy. Tôi đã nhiều lần có dịp sang Á châu, và sống lâu ở Nhật Bản trong thời chiếm đóng. Trong các nước này, một người khóc không có gì đáng hổ thẹn cả. Người ta cho đó là cách để chứng minh nỗi lòng và niềm cảm xúc. Cậu Christopher của chúng ta đây có cả hai điều ấy, tôi đã nhìn thấy như vậy. Nhưng có thể là cậu ta đã có nhiều nỗi khô tâm.

Bà quả quyết nói :

– Rồi chúng ta sẽ bàn đến chuyện ấy. Trong lúc chờ đợi, bác sĩ có thể cho tôi một chỗ trú qua đêm chăng?

– Chuyện đó dĩ nhiên rồi; chúng tôi xin dành căn phòng khách đẹp nhất của nhà trường cho bà dùng. Christopher, trò có thể đưa bà Winters đến căn phòng phía đông, rồi đi bảo nhà bếp chuẩn bị cơm tối cho bà. Thưa bà Winters, tôi sẽ đi bảo mang hành lý của bà đến, và tôi xin để cậu bé ở cùng bà. Dầu sao bà đến đây hôm nay chính là để thăm cậu ấy.

Bác sĩ bước đi, Laura cảm động nhận thấy Christopher không biết mình đã khá lớn mà cầm tay bà đi ngang qua các hành lang đầy học sinh đang nô đùa. Nó dẫn bà vào một căn phòng lịch sự, màn cửa bằng vải dầy tươi sáng và vải mỏng màu trắng thanh lịch. Bà ngồi vào ghế phô-tơi và kéo đứa trẻ đến bên bà. Bà nói :

– Bây giờ, để ta xem con nào. Con đã khá lớn rồi đây, nhưng gầy quá! Con ăn có đủ không?

Thằng bé gật đầu, đột nhiên lúng túng. Bà ngạc nhiên nhìn thấy đôi mắt nó lại rưng rưng ngấn lệ. Bà không nói gì. Những dòng nước mắt này dễ dàng chảy ra là vì trong lòng bất an và căng thẳng. Không thể để mãi như vậy.

Thằng bé hỏi :

– Khi nào ba con đến?

Bà cố ý vui vẻ nói :

– Ba con sẽ đến. Thế nào Noel cũng đến. Con biết Noel là gì không?

Nó gật đầu :

– Phải, Noel ba con sẽ đến – Bà nhắc lại – Bây giờ, con hãy cho ta rõ…

Một ý nghĩ đột nhiên lóe ra trong đầu bà. Bà buông tay đứa trẻ và kéo một cái ghế đến bên. Bà hỏi :

– Con có biết chơi trượt tuyết không?

Nó vừa ngồi xuống ghế, vừa đáp :

– Con biết trượt tuyết là gì rồi, nhưng con không biết chơi ra sao.

– Vậy thì con sẽ được học cách chơi. Cha con là một tay trượt tuyết đại tài. Đó cũng là môn thể thao mà ta ưa thích. Noel ba mẹ trở lại, trời sẽ có tuyết, chúng ta sẽ dẫn con lên núi chơi. Mẹ chắc tất cả con trai đều biết chơi trượt tuyết. Rồi con cũng sẽ trở thành một tay trượt tuyết cừ. Con thích chứ?

Nó luôn luôn trả lời bằng cách gật đầu, nhưng nét nhìn đã lấp lánh niềm vui và hai má đã ửng hồng. Laura cảm thấy an ủi ở trong lòng. Bà nói tiếp :

– Mẹ sẽ truyền lại cho con những bài học hay mà mẹ đã học của một huấn luyện viên trượt tuyết tài ba. Mẹ sẽ mua cho con tất cả đồ trang bị của môn thể thao này ở đây.

Đứa trẻ hỏi :

– Mẹ cũng biết chơi trượt tuyết nữa sao?

– Ừ, nhưng không giỏi bằng ba con.

Hai người vui vẻ chuyện trò trong một tiếng đồng hồ rồi tiếng chuông vang dội báo giờ ăn tối, họ bèn đến nhà ăn.

Trong bữa ăn, bà quan sát đứa bé, nó ngồi ở một bàn khác, giữa đám bạn bè, nó ăn ngon miệng và nói chuyện vui vẻ. Lúc bây giờ, bà quyết định không nói ra cái điều bí mật mà Chris đã muốn giữ kín. Biết giải thích ra sao về thái độ của ông? Đối với ông, dầu sao bà cũng phải tỏ ra thành thật.

Tối hôm ấy bà cùng Christopher đến xem một vở hài kịch ngắn do các lưu học sinh trình diễn và khi nó đưa bà về phòng, đến cửa, nó chào bà. Nhớ lại trong suốt chiều tối hôm đó Kim Christopher tươi cười vui vẻ nên bà cảm thấy lòng mình nhẹ nhàng thư thái.

Bà nói :

– Sáng mai mẹ con ta cùng ăn điểm tâm với nhau. Sau đó, mẹ phải trở về với ba con.

Đứa trẻ sa sầm nét mặt.

Nó cúi đầu chào :

– Chúc mẹ an giấc.

Bà nhìn theo nó đi dọc hành lang, xa dần, và khép cửa lại khi nó đã khuất dạng.

° ° °

– Chris, anh có biết không, vì vấn đề đứa trẻ chưa được giải quyết nên em cần phải gặp lại nó và cần biết chắc rằng, nó không khổ, để lương tâm em khỏi cắn rứt, ít ra là tạm thời trong lúc này. – Bà đã nói với chồng như vậy khi trở về nhà.

Bà về đến nhà rất muộn, khoảng nửa đêm. Chồng bà ngôi đợi bà ở phòng khách, chung quanh đầy báo chí.

Sau khi tắm gội, bà thay áo lụa hồng và đến ngồi bên chồng trên một ghế tựa dài đặt trước bao lơn. Dưới ánh trăng họ vừa trò chuyện vừa uống một thứ rượu nhẹ ướp đá.

Ông nói, giọng bối rối :

– Anh không thể hiểu được tại sao em lại đi một mình như vậy. Nếu em gặp tai nạn dọc đường anh sẽ không sao biết được em ở đâu để tìm kiếm. Chắc em không cho viện khảo cứu biết em đi đâu. Phải, chắc chắn như thế, vì bác sĩ Wilton vừa điện thoại về đây cho em sáng nay. Nếu ông ta điện thoại chiều hôm qua trước khi em gọi về thì có lẽ anh sẽ điên lên vì lo lắng. Thời đại bây giờ biết bao chuyện có thể xảy ra, Laura… Em không có quyền…

– Em biết, lẽ ra em phải nói trước cho anh rõ, nhưng em buộc lòng phải đi đến đó một mình. Em nhất định phải đến thăm nó.

– Tại sao?

– Em không thể nào quên nó được.

– Còn bây giờ, em đã có thể quên chưa?

– Không, không hoàn toàn quên được, bao lâu chúng ta còn chưa giải quyết dứt khoát chúng ta sẽ làm gì cho nó.

Ông thở dài :

– Nếu nó không giống hệt anh như thế thì…

– Kìa anh, nó giống hệt anh, đó là sự kiện hiển nhiên. Sớm hay muộn sự thật sẽ được phơi bày. Lẽ thường là thế.

– Sau sẽ hay khi anh đã nhậm chức…

– Sau khi nhậm chức, điều đó sẽ tồi tệ hơn nhiều. Nếu là ngài Thống đốc thì thật là một sự hèn đểu! Còn nếu là ngài Tổng thống thì là một sự xấu xa của thế kỷ! Chris, không có ai có thể có được tất cả mọi sự. Anh không thể giấu diếm đứa trẻ được lâu. Một ngày nào đó, thế nào anh cũng phải quyết định nếu anh chọn vinh dự cho con anh và nếu quả thật thế thì, bà tự nghĩ, giày vò vì đau khổ, anh sẽ không có được cái điều mà em tin tưởng. Nếu anh cứ kéo dài mãi cái tình trạng này thì anh không thể thành thật khi anh đọc bài diễn văn nói về giá trị con người.

Bị xúc phạm Chris liền biện bác :

– Sự chọn lựa không phải ở chỗ đó. Anh muốn có con trai, đó là cái chắc. Anh vẫn luôn luôn ước muốn điều đó cơ mà.

Ông không nhìn thấy nét mặt bà nhăn lại nên cứ tiếp tục nói mà không biết là đã làm cho bà đau đớn.

– Trong trường hợp khác, nếu anh là một người thường, anh sẽ nhận lấy đứa trẻ thằng bé ấy và anh sẽ la lên trước mặt thiên hạ rằng anh là cha nó. Nó vinh dự? Anh không cho như thế là cho nó vinh dự. Ngón tay ông gõ gõ xuống thành ghế. Thời đại bây giờ bất cứ một tên ngu ngốc nào cũng có thể tự kiếm lấy vinh dự. Chỉ cần thàn thật.

Ông quay lại và trong đôi mắt ông, Laura đọc được sự giận dữ tột độ.

– Tại sao em là vợ anh mà em không hiểu anh.

Bà dịu dàng :

– Anh muốn có quyền hành Chris ạ. Đó là điều tự nhiên, và em biết rằng anh sẽ sử dụng quyền hành một cách đúng đắn. Em biết rõ điều đó hơn bất cứ ai khác. Anh thích như thế, chẳng có gì đáng trách cả, chỉ có điều là…

– Laura!…

Ông vung tay với một cử chỉ nóng nảy.

– Kể cả em nữa, anh cũng phải nói huỵch toẹt ra cả sao? Anh ứng cử là vì anh muốn được làm một vị Thống đốc tốt của đồng bào. Đó không phải là để thỏa mãn tham vọng cá nhân nhưng để có khả năng sửa chữa một số bất công xã hội. Nếu có thể – và anh sẽ làm bất cứ gì có thể đạt đến – một ngày kia anh sẽ là Tổng thống Hoa Kỳ cũng không phải vì tham vọng cá nhân mà vì anh muốn sửa chữa những bất công trên toàn quốc. Anh nói lên điều đó với tất cả lòng khiêm tốn và anh sẽ cần đến sự giúp đỡ của nhiều người – trước hết là sự giúp đỡ của em. Laura ạ.

Ông lại lớn tiếng vì giận dữ làm bà hết sức khổ tâm.

Ông im lặng một lát rồi say sưa nói tiếp :

– Anh tin tưởng vào chính mình, anh tin chắc những ý định của anh hoàn toàn trong sạch. Anh muốn rằng kỷ nguyên của chúng ta phải là một kỷ nguyên của chúng ta phải là một kỷ nguyên vĩ đại và anh sẽ đạt được điều đó. Anh đã tìm được một số phương thức, một số giải pháp rồi. Vậy thì, anh xin hỏi em, anh có nên hy sinh tất cả các ước nguyện ấy và cả chính mình anh để từ bỏ tất cả các điều lợi ích mà anh có thể thực hiện cho xứ sở chỉ vì một lỗi lầm của tuổi trẻ hay không?

Ông ngồi hẳn dậy, quay sang bà, đăm đăm nhìn mặt vợ dưới ánh trăng. Nhưng bà đưa hai tay ôm lấy mặt, quay nhìn nơi khác. Bà run lên vì giọng nói sắc bén của ông, ông đã hỏi bà và chỉ hỏi một mình bà mà thôi.

– Hồi đó anh đã nghĩ rằng anh sắp chết Laura ạ, và nếu anh đã chết thì bây giờ em chẳng có thành kiến gì hết. Anh đã sống ngụp lặn trong một hỏa ngục trần gian. Đối với anh, dường như em đang ở trong một thế giới khác. Trong tuyệt vọng, anh cần một con người, một khuôn mặt, một sức ấm. Về phương diện này, anh không khác gì bất cứ một tên lính Mỹ nào hết, nhưng anh đã cố gắng để khỏi hư thân với lũ gái điếm chung quanh. Nếu không gặp Kim Sương, anh vẫn cô độc một mình. Nàng cũng đau khổ vì cô độc. Mặc dầu anh đã gặp nàng trong chốn ăn chơi nhưng nàng không phải là một con điếm. Và theo như em đã kể thì cho đến bây giờ nàng vẫn luôn luôn không phải là điếm mặc dầu nàng làm nghề chủ chứa. Em có thể tự mình xét đoán về Kim Sương. Nàng đã yêu anh Laura ạ, và nàng đã cần đến anh cũng như anh đã cần đến nàng. – Tiếng nói ông nhỏ dần như những tiếng thì thầm – Cái mối tình mà anh đã dành cho Kim Sương chẳng có chút thú tính nào. Nếu ngày xưa anh chưa ý thức được trách nhiệm và đã tỏ ra là sơ thiển thì đó chỉ vì anh còn quá trẻ. Nhưng hoàn toàn không phải vật chất, anh cam đoan với em như vậy. Tuy nhiên, so với mối tình của anh đối với em thì nó trở thành vô nghĩa, hoàn toàn vô nghĩa.

Bà ra dấu cho ông tiếp tục. Điều ấy bà đã biết từ đầu và đó là một niềm an ủi cho bà. Nhưng bà vẫn chưa có thể ngước mắt nhìn ông, lòng bà đang rối loạn, bà khổ tâm biết bao!

– Và thế rồi đứa bé ra đời. Anh không bao giờ muốn như thế cả. Anh chán nản vô cùng. Anh cảm thấy ghê sợ, cảm thấy có tội. Tuy nhiên, anh xin thành thật thú nhận rằng, đôi khi, anh đã lấy làm thích thú vì có được một đứa con trai. Nhưng anh chưa bao giờ cảm thấy thực nó là con anh. Anh chưa bao giờ có ý nghĩ đưa nó về đây. Nó được sinh ra ở Triều Tiên, nó phải sống ở Triều Tiên. Và rồi, anh nghĩ nhưng đây chỉ là đề trấn an lương tâm rằng nhờ có đứa trẻ, Kim Sương sẽ ít cô độc hơn, vì anh phải hồi hương.

Hai người lặng nhìn nhau một hồi lâu. Đoạn ông nói tiếp với một giọng trầm buồn!

– Đòi hỏi người vợ thông cảm một trường hợp như vậy quả thật là quá đáng Laura ạ. Vì vậy, anh không thể nào kể cho em nghe được khi anh về đến nhà. Và cũng bởi vì anh quá yêu em, người vợ tuyệt vời của anh, sắc đẹp của em, trí thông minh của em, sự dịu dàng tuyệt diệu của em, đã làm mờ nhạt ảnh hình kỷ niệm của cái cô gái Triều Tiên bé nhỏ kia và đứa con của cô ta. Anh chẳng có hứa hẹn gì với cô ta cả, giữa anh và cô ta điều đó đã được mặc nhiên thỏa thuận, quá khứ thuộc về quá khứ. Nếu như anh mà nghĩ đến đứa trẻ thì liền nghĩ ngay đến cô ta. Anh làm sao biết được cô ta xem đứa trẻ hoàn toàn là của anh và theo luật pháp xứ Triều Tiên thì nó thuộc về anh?

Không bao giờ đồng bào chúng ta có thể chấp nhận một sự việc như vậy nơi một ứng cử viên Thống đốc có triển vọng trở thành Tổng thống Hoa Kỳ. Con người phần đông khắc nghiệt. Anh biết rõ cái tầm mức khắc nghiệt và bất công của họ. Vậy anh phải từ bỏ tất cả cuộc đời hữu ích của anh để làm trò cười cho thiên hạ hay sao? Anh không tự nộp mình cho họ như thế. Anh không tự nộp mình cho họ như thế. Anh không muốn phá hỏng cuộc đời của anh bởi vì sau đó anh sẽ không còn phục vụ gì đồng bào được nữa cả. Em có thể cho thế là tự phụ, nếu em muốn, nhưng anh thì anh cho đó là một sứ nhiệm.

Bà chăm chú lắng nghe và hiểu rằng câu hỏi đó ông không còn riêng hỏi một mình bà. Ông đã biện minh cho trường hợp của ông trước một tòa án vô hình; dân chúng, tổ quốc, thế giới hoặc ngay cả cuộc sống nữa. Bà thông cảm ông về điều đó và vì thế bà không có nói gì hết. Bà đến bên ông, quỳ xuống ấp mặt vào ngực chồng. Bà cảm nghe tiếng quả tim ông đập nhịp nhàng và vững chắc trong lồng ngực.

° ° °

Tháng này tháng khác trôi qua, ngày đêm Laura mệt phờ người, mệt đến nỗi đôi khi bà cảm thấy như là đang ở trong những xứ miền xa lạ, giữa những con người xa lạ mà bà không hiểu cả ngôn ngữ. Mặt bà đã xếp nếp nhăn vì phải luôn luôn tươi cười, những ngón tay như tê dại vì phải bắt tay cả ngàn lần. Bà đã gầy sút và tấm thân mảnh dẻ của bà đã hóa thành yếu ớt. Đó là một lối sống ngoài lề của cuộc sống. Hai vợ chồng bà giống như các diễn viên, những tên mãi võ, những đào kép hát. Bà phải có một tủ áo hùng hậu luôn luôn thay để khỏi phải nhắm mắt những khi xuất hiện trên hình ảnh báo chí.

Về phần Chris, ông không tỏ vẻ mệt nhọc chút nào cả. Hăng say nhiệt thành trong sứ nhiệm của mình, ông đã bắt đầu tin tưởng vào cái giá trị đặc biệt của sứ nhiệm ấy. Ông hết lòng thuyết phục các cử tri rằng chỉ có ông là người xứng đáng được chọn làm Thống đốc tiểu bang.

Người ta đang sống trong một thời đại rối ren. Thế giới khẩn trương, chiến tranh tại Đông Nam Á, cuộc đấu tranh giữa các quốc gia đang bành trướng, và những sự hỗn loạn nội bộ tại Hoa Kỳ v.v…

Sự khẩn trương. Laura nghĩ ngợi, đó là ngọn lửa tàn phá của các quốc gia. Một đám cháy, dầu ở xa, cũng có thể bắn ra những tia lửa chung quanh những lưỡi lửa len lỏi khắp nơi làm gia tăng sự hiểm nguy của những lò lửa nguy hiểm.

Buổi tối, bà thở dài nói với ông :

– Chris, chúng ta đang sống trong một thời đại nguy hiểm. Em muốn được sống trong một thời khắc…

Ông vui vẻ bảo :

– Đừng có nói dại! Chưa bao giờ người ta được sống trong một thời đại hồi hộp như bây giờ.

– Thời đại bây giờ có nhiều khả nãng dĩ nhiên, nhưng lại lệ thuộc quá nhiều vào một chữ “nếu”: nếu dân chúng muốn thế này hoặc thế khác…

– Anh không có ý để mặc cho dân chúng muốn làm gì thì làm mà anh phải hướng dẫn họ, từ từ, từng bước một… cho đến khi nào tiến tới được cái đích mà anh đã định.

– Thế nghĩa là thế nào?

– Chúng ta đang có đầy dẫy các tập đoàn dân chúng, các hiệp hội, các tổ chức thân hữu, các đoàn thể quốc gia, các nhóm tôn chủng và các tổ chức mang nhiều nhãn hiệu khác. Họ quên rằng họ được làm dân Mỹ. Tổ quốc còn xa, bao lâu chúng ta còn nghĩ đến tư lợi. Rồi em xem… – Ông đưa ngón tay phải hăm he bà với một nụ cười trào lộng – Thật thế, rồi em sẽ biết, khi anh cầm quyền anh sẽ là một nhà độc tài tốt bụng.

– Nếu anh nói trước mặt công chúng những điều như vậy, Berman sẽ không thích đâu.

– Khi đáng nói thì nói, lúc không đáng nói thì phải ngậm thinh, anh chẳng dại gì nói bừa nói bãi. Trong lúc chờ đợi, anh thuận chịu kê khai các nguyên tắc ái quốc của anh, sau đó, khi đã thành công, anh sẽ ban bố các quyết định.

Trong khi tiến dần đến ngày vắn số, họ chỉ sợ có một điều: những sự dèm pha thâm hiểm mà họ không thể công khai tranh luận. Bà còn nhớ rõ câu chuyện mà thân sinh bà đã kể về Tổng thống Harking: trong lúc tranh cử, các đối thủ của ông đã tố cáo trong người ông có máu da đen. Kể từ đó, đã hai thế kỷ rồi mà loại thành kiến này vẫn còn nghiêm khắc. Dù sao ông Harking cũng đã đắc cử, nhưng suốt đời không bao giờ ông ta có thể xua đuổi được sự ám ảnh ấy trong lòng.

Ông Grover Cleveland, người đã bị khám phá ra là đã có một đứa con tư sinh, cũng đã đắc cử. Nhưng nếu có dư luận về việc Chris có con riêng, thì tiếng nổ sẽ lớn gấp đôi, cả hai thành kiến sẽ bùng nổ một lần.

Bây giờ bà đâm ra lo lắng, bà không còn đến viếng thăm Kim Christopher như trước nữa và chỉ gởi cho nó những tấm bưu thiếp không có ký tên, sợ rằng một anh nhà báo quá tò mò có thể ngửi thấy một cái gì đó dưới sự tương đồng về tên họ.

° ° °

Tháng mười một đã gần kề, những hạt tuyết đầu tiên đã xuất hiện, lá cây đã biến sang màu đỏ và vàng rồi xám nâu, trong khi đó, những cơn gió bấc lạnh lùng vi vu thổi, cuốn theo hàng loạt lá úa đến tận những chiếc lá cuối cùng. Lúc bấy giờ, Laura nhận thấy vẻ mặt của chồng bà như đanh lại. Từ tảng sáng ông không rời Berman một bước. Cuối cùng, vì quá lo âu, bà đã buột miệng hỏi chồng :

– Chris, anh có điều gì lo nghĩ phải không?

– Không. Anh chỉ bực mình về phương thức tranh cử. Ban đầu anh đã định thông qua nhưng rồi anh chống lại. Nhưng hoặc là chấp nhận hoặc là bãi bỏ. Nếu anh muốn đắc cử, anh phải theo dùng cái phương thức ấy, chỉ có thế. Càng nghĩ càng bực mình.

– Anh Berman nói sao?

– Anh ta cứ luôn luôn bảo anh rằng: “Anh phải tìm kiếm địa vị cho một số người, anh phải bảo đảm những lời giao ước với họ. Người ta đã tranh nhau để tham dự buổi đại diện cuối cùng – tối thiểu là một ngàn đô la mỗi người – ai chịu chi nhiều hơn thì sẽ được chỗ tốt hơn”. Anh không bao giờ nghĩ rằng anh phải điều đình! (Ông nhún vai, tức bực). Sự thể là như vậy. Anh thuận điều đình, nhưng bực tội lắm không thể buông xuôi tất cả được. Trong lúc chờ đợi, em có biết người ta đã bươi móc cuộc đời của anh như thế nào không? Người ta bươi móc nào là tôn giáo của anh, nào là tư cách của anh, những ngông cuồng của tuổi trẻ, những giao kèo thương mãi, số tiền đã tỏ ra để vận động tranh cử v.v… tất cả đều được xem xét dưới ống kính hiển vi của một đối thủ chính trị có đôi mắt phản trắc. Thể diện của tiểu bang tùy thuộc vào cuộc đầu phiếu này của toàn thể dân chúng. Riêng đối với anh, em không muốn khuyên khích anh tranh cử chính đáng hay sao, Laura? (Ông nở một nụ cười chua chát) Anh đã bỏ ra trên một triệu đồng để chi tiền trong cuộc tuyển cử này và các đối thủ của anh không có thể khám phá ra một đồng xu nhỏ nào là không do tiền túi của anh. Thế mà, họ đã xúi giục dân chúng chống đối lấy cớ rằng mang tài sản cá nhân ra để chi phí là phản dân chủ, vì với số tiền đó thì chỉ có những tên tài phiệt mới có khả năng bao thầu một cuộc vận động tuyển cử! Tất cả chỉ vì “vị đối thủ khả kính” của anh xuất thân trong một gia đình tầm thường, trong khi anh có nhiều may mắn hơn. Thế thì, anh phải làm những gì đáng làm cho đến khi cuộc tuyển cử chấm dứt. Chỉ có vài tuần nữa thôi.

Đã mấy tuần nay hai ông bà không nhắc nhở gì đến đứa trẻ cả. Ngày hôm ấy cũng không.

° ° °

Trong văn phòng, bác sĩ Bartlett đang soát lại các thông tín bạ của học sinh để tuần tới gởi cho cha mẹ chúng. Trong số năm chục học sinh của nhà trường, ông biết rõ từng đứa một. Ông đích thân săn sóc việc học hành của chúng.

Nghe tiếng gõ cửa, ông nói :

– Cứ vào.

Cánh cửa mở rộng. Kim Christopher bước vào. Ngày sắp tàn, vị hiệu trưởng đã có ý định về sớm để chúc mừng kỷ niệm sinh nhật vợ ông và biếu bà một món quà nhỏ. Nhưng ông phải lo cho lũ học sinh trước, và đặc biệt là thằng bé này.

Ông bảo Kim Christopher :

– Ngồi xuống đi con.

Kim Christopher ngồi ngay xuống bờ chiếc ghế đặt trước bàn giấy hiệu trưởng. Nó lễ phép nói :

– Xin lỗi thầy. Con có quấy rầy thầy không ạ.

Nó học tiếng Anh rất nhanh, đến nỗi chỉ mới ba tháng mà nó đã có thể nói chuyện rất trôi chảy. Bác sĩ Barllett bắt đầu tin tưởng rằng cái thằng bé mảnh khảnh và chóng lớn này sẽ là một đứa trong số rất ít học sinh sẽ làm cho ông hài lòng.

Ông thân mật nói :

– Không. Không có gì.

Ông giở từng tờ tập thông tín bạ của Kim Christopher và tiếp :

– Ta vừa xem điểm của con xong, khá lắm. Ta rất bằng lòng môn sử ký và Anh văn chưa được giỏi nhưng nhờ môn toán học con đã bù lại được số điểm thiếu.

– Con thích toán. Hôm nay con đến đây để hỏi thầy xem thử con có thể học khoa học trong tháng ba tới không?

Bác sĩ Bartlett trố mắt nhìn :

– Thường thì người ta không có học khoa học trước năm đệ nhị.

– Con rất thích học khoa học.

– Con thích học môn nào?

– Con thích môn vật lý học.

Bác sĩ Bartlett dựa vào lưng ghế :

– Con đã bao nhiêu tuổi rồi?

– Mười hai.

– Từ ngày con đến ở đây, con đã kỷ niệm ngày sinh nhật chưa?

– Thưa rồi. Tuần lễ vừa qua.

– Con có nói với ai không?

– Thưa thầy không.

– Đáng tiếc thật. Chúng ta rất muốn biết các ngày kỷ niệm sinh nhật của học sinh. Mỗi khi như thế, bà Battle đều có làm một bánh ga-tô để mừng. Con hãy hứa lần sau con phải báo cho ta biết. A, khoan, để ta ghi ngày sinh nhật của con.

– Ngày hai mươi sáu tháng mười.

Hai thầy trò không ai đả động gì đến gia đình của Christopher nhưng cả hai đều nghĩ đến. Kim Christopher giữ im lặng; nó không dám ngồi lâu, tuy vậy nó cũng không muốn ra về.

Bác sĩ Barllett nhã nhặn hỏi :

– Còn gì nữa không con?

– Nếu thầy cho phép, con có điều muốn nói.

– Cứ nói đi, đừng ngại.

– Nói về con.

– Ơ kìa, không nói về con thì nói về ai?

– Xin thầy cho con biết, con là ai?

Bác sĩ hiệu trương nhìn nó với đôi mắt kinh ngạc. Ông nói :

– Thì con là một trong các con ta.

Christopher nhẫn nại :

– Vâng, nhưng đối với con thì con là ai?

Bác sĩ hiệu trưởng mân mê ở cừm ra chiều nghĩ ngợi. Biết trả lời sao đây?

– Vậy thì, con nói cho thầy biết, con là ai nào?

– Thưa thầy, con không biết. Con nghĩ rằng con là con của cha con. Cha con tên là Winters, như thầy đã rõ. Nhưng con không lấy làm chắc. Có lẽ con chỉ là con của mẹ con. Mẹ con là Kim.

– Mẹ con hiện ở đầu, Christopher?

Nó thận trọng tiến sâu vào một phạm vi rải rác nhiều cạm bẫy, có lẽ bị cấm đoán, nhưng nó chỉ nói ra những gì có thể nói được.

– Thưa thầy, mẹ con ở bên Triều Tiên. Mẹ con là người Triều Tiên.

– Con hãy nói về mẹ con cho ta rõ.

Kim Christopher đỏ mặt :

– Nói rằng biết thì con không có biết gì nhiều. Con chỉ biết mẹ con rất đẹp. Con cũng có bà ngoại người Triều Tiên nữa. Bà ngoại rất già và không được tốt lắm, bà luôn luôn nổi cáu vì con ăn nhiều và vì các lý do khác. Nhưng mẹ con thì không thế. Mẹ con luôn luôn trầm lặng, tuy đôi khi…

Nó lúc lắc đầu và nín bật. Bác sĩ Bartlett gợi ý :

– Đôi khi sao?

Kim Christopher quay đầu đi nơi khác. Nó nói :

– Đôi khi mẹ con ghét con.

– Ơ kìa!

Bác sĩ Barlett cãi lại nhưng ông cảm thấy đó là một vết thương sâu xa.

Kim Christopher tiếp :

– Mẹ con ghét con, đôi khi. Có lẽ vì con là người Mỹ giống như cha con. Tại Triều Tiên con là người Mỹ. Nhưng ở đây thì con không chắc lắm. Ở đây, người ta cho con là Triều Tiên. Ở đây bên ấy người ta gọi con là thứ “mắt tròn”, ở đây người ta gọi con là thứ “mắt xếch”.

Bác sĩ hiệu trưởng phẫn nộ hỏi :

– Đứa nào bảo thế?

– Một đứa trẻ. Nhưng điều đó không quan trọng. Con chỉ muốn biết con là ai bất cứ đâu.

Bác sĩ hiệu trưởng cảm thấy đau nhói ở trong lòng. Có biết bao đứa trẻ đã tìm đến ông với những nỗi buồn lo như vậy! Chúng nó có nhiều thắc mắc không được giải đáp và với một cõi lòng tuyệt vọng đến thế thì cuộc sống ấu thơ của chúng nặng nhọc biết bao! Và những thắc mắc của đứa trẻ này nó cũng có một cường độ riêng biệt. Làm sao giải thích cho Christopher biết được nó là ai? Ông cảm thấy không được rõ vấn đề lắm nên ông phải hết sức thận trọng.

– Chrsitopher này, bởi vì con thích môn khoa học cho nên chúng ta cần nói chuyện đôi chút về sinh vật học. Có một số cơ thể động vật rất quan trọng trong vũ trụ, nhưng người ta không biết phải liệt chúng vào lại hạng nào, đó là địa phương vật hay là địa phương thảo; nó được tạo ra như vậy để nói lên một cái gạch nối giữa thế giới động vật và thế giới thảo mộc. Bà Winters là một chuyên viên về loại này. Con có nói cho bà biết rằng con thích khoa học không? Không sao? Này, con hãy hỏi bà nhờ bà giải thích ảnh hưởng địa phương là gì. Con hiểu mấy danh từ này chứ?

– Dạ hiểu. Thưa thầy con đã tìm trong từ điển.

– Chúng ta hãy lấy một ví dụ cụ thể. Con đã thấy con chuồn chuồn chưa?

– Bên Triều Tiên nhiều lắm.

– Đây cũng nhiều. Chúng đã bắt đầu cuộc sống trong các vùng đầm lầy. Nhưng một ngày nào đó, chúng cảm thấy cần ngoi lên trên mặt nước, ở đó, chúng đã thoát xác và để lộ ra đôi cánh. Chúng không biết đôi cánh là gì, dĩ nhiên, nhưng chúng biết sử dụng bởi vì, ngay khi đó chúng bay bổng lên trời và không bao giờ xuống lại đáy nước nơi chúng đã được sinh ra. Thầy muốn giải thích cho con rõ rằng có nhiều sinh vật đã được tạo thành một thứ trung gian quý giá giữa hai loài. Cái hiện tượng này cũng đã được nhận thấy trong nhân loại. Ta cho rằng chứng rất quý vì chúng đưa đến sự hợp nhất sáng tạo. Phân chia ra, người ta sẽ không giữ được một đặc tính trường tồn.

– Vì con mà thầy đã nghĩ như thế phải không?

– Phải. Một ngày nào đó ở trên thế giới này sẽ có không biết bao nhiêu người giống như con và khi ấy sẽ không ai còn nghĩ đến việc lăng nhục con nữa. Đó là sự tiến hóa của trời đất, không có gì ngăn chận được. Con có một tầm quan trọng đặc biệt, con là cốt yếu. Ta không thể giải thích cho con rõ do hoàn cảnh ngẫu hợp nào con đã trở thành một trong những phần tử trung gian bởi vì ta không biết rõ chuyện của con. Nhưng một ngày nào đó, con sẽ biết. Trong lúc chờ đợi, con đừng quên cái giá trị của con: nhờ con, tạo hóa đã tiếp tục sự tiến hóa rộng lớn để tiến tới hợp nhất và hòa đồng con người.

Có lẽ đứa trẻ không hiểu gì nhiều về cái bài diễn văn quá cao siêu này, nhưng mặc, ông không muốn giải thích gì cả. Ước gì đứa trẻ này cố gắng để giải tỏa nỗi buồn khổ của nó về các thắc mắc không giải đáp được! Kim Chritopher nhìn bác sĩ hiệu trưởng bằng đôi mắt mà – đột nhiên – ông nhận thấy rất đẹp. Ông đứng dậy, thân mật :

– Bây giờ thầy phải về Christopher ạ! Bởi vì hôm nay là ngày kỷ niệm sinh nhật của vợ thầy, thầy muốn dùng cơm tối với bà.

Kim Christopher cũng đứng dậy theo và cúi chào trước khi bước ra.

° ° °

Tối hôm ấy, bác sĩ Bartlett biếu vợ một cái hoa trâm cổ, rất đẹp. Ông vừa ăn, vừa kể cho vợ ông nghe câu chuyện của bé Kim. Cái hoa trâm cài trên ngực áo của bà Bartlett. Bà đang chăm chú nghe ông nói chuyện.

Nghe xong câu chuyện, bà nói với một giọng quả quyết :

– Lý lịch đứa bé thì đã rõ ràng rồi. Chắc chắn cha nó là ông Winters, nó được sinh ra trong thời chiến tranh Triều Tiên, chỉ có thế. Tại sao ông ta đưa nó về Mỹ, tôi không biết, nhưng tôi biết rõ cái lý do nào đã khiến ông ta gởi nó trọ học tại trường chúng ta. Đó là vì hiện ông ta đang ở vào một giai đoạn lúng túng nhất. Một nhân vật đang tranh ngôi Thống đốc không thể đột nhiên phát hiện có một đứa con lai Á, có phải không?

Bác sĩ Bartlett đưa mắt nhìn vợ :

– Ờ nhỉ, vậy thì khi nào một nhân vật như ông ta mới có thể tiết lộ cho mọi người biết về đứa con lai Á ấy?

Với một vẻ nghĩ ngợi, ông tiếp :

– Quả thật không thuận lợi chút nào. Nếu ông ta đắc cử, với tư cách là Thống đốc, ông sẽ nói sao với dân chúng về đứa con mười hai tuổi ấy? Nếu ông ta thất cử… nhưng tôi không tin rằng ông ta thất cử, bởi vì trong giai đoạn hiện tại ông ta là người được tín nhiệm nhất, ông ta là một nhà hùng biện nổi tiếng và tất cả báo chí đều trích đăng các diễn văn của ông.

Bác sĩ Bartlett thở dài, vẻ mặt nghiêm trang :

– Đứa trẻ rồi sẽ ra sao đây?

Vợ ông vừa rót thêm cà phê vào cốc cho ông vừa đáp :

– Khó nói lắm. Nhưng dầu sao đi chăng nữa, cũng không nên giấu diếm đứa trẻ quá lâu ngày.

Trong phòng ngủ, Kim Christopher suy nghĩ về hoàn cảnh của mình và so sánh các điều lợi hại. Ở đây nó được ăn uống thỏa thuê, nhà trường bằng lòng nó; nó có nhiều bạn, áo quần bảnh bao nó thích chơi thể thao; nó có cảm tình với các giáo sư, còn đối với bác sĩ hiệu trưởng thì nó tôn kính thật sự và tiếc rằng ông ta không phải là cha của nó. Đối với cha nó thì tình cảm của nó còn đang lẫn lộn. Nó cảm thấy mình bị hấp dẫn bởi người đàn ông cao lớn đang còn trẻ ấy, nhưng ở nơi ông vẫn còn có một cái gì làm cho nó không dám đến gần, giống y như mẹ nó, vì thế nó không muốn trở về với bà. Nó nhớ lại hồi còn thơ ấu, mẹ nó yêu thương nó nồng nhiệt nhưng pha lẫn những cơn giận dữ vô cớ, và đôi khi còn biểu lộ sự căm thù và cay nghiệt. Ở đây, ít ra là không có ai đánh mắng nó, cũng không ai mong thấy nó biến đi. Nếu nó không cần thiết cho ai thì ít ra nó không phải là đồ bỏ. Đối với ngừoi vợ của cha nó, người mà nó thích gọi bằng “Mẹ”- Nhưng không bao giờ bà gọi nó là “Con của mẹ” – nó không biết đặt bà ở đâu trong lòng. Bà luôn luôn tỏ ra hết sức thương mến nó, nhưng nó không cảm thấy nó là tất cả của bà. Và rồi nó sẽ đóng cái vai trò gì trong đời sống của “cha mẹ” nó, trong khi nó chưa bao giờ được nhìn thấy ngôi nhà của họ và chỉ liên lạc với họ bằng thư từ? Vả lại, bây giờ họ không còn viết thư cho nó nữa. Nó đã sống trong một thứ hoàng hôn. Cái hình ảnh này hiện ra trong tâm trí nó khi nó nhìn ánh mặt trời khuất sau những dãy núi xa và bóng tối phủ khắp đồng nội.

° ° °

Trong khi mặt trời cũng khuất sau công trường Ritterhouse thì Laura thở dài nhẹ nhõm, tay cầm một cuốn sách, đến ngồi bên lò sưởi. Đó là một trong những giờ nghỉ hiếm thấy nhất mà bà được hưởng trong mùa tuyển cử. Bà kiếm dấu ngăn ở trang 218. Cuộc đời của Kim Christopher là mọi vấn đề đã làm cho bà bận tâm lo nghĩ, cuối cùng bà đã tìm ra được một giải pháp trong các tác phẩm về nhân loại học – nếu không phải là để giải quyết thì ít ra là để được yên lòng – Lúc này đây bà đang đọc cuốn: “Man’s Most Dangerous Myth, The Fallacy of Race”.

Tác giả, ông Ashley Montagu đã viết:

“Về vấn đề này, người ta đã nói rằng khó đạt đến được một sự pha giống hoàn hảo hơn cái giống mà người ta đã có. Nhưng đó là một trong những khái niệm tổng quát chỉ những người thiếu óc phê phán mới có thể dễ dàng chấp nhận. Nếu chúng ta hợp khinh khí và dưỡng khí lại với nhau thì chúng ta sẽ có nước… Nếu chúng ta pha kẽm và đồng, chúng ta sẽ có được một loại hợp kim khác, đó là đồng đỏ, một kim loại cứng hơn và tốt hơn mỗi một thứ kim loại nguyên thủy đã tạo ra nó. Như thế phải chăng là người ta đã có được một hợp chất tốt hơn cả hai chất nguyên thủy? Khi hai loại cây hợp lại để sinh ra một loại cây nào đó, thì loại cây mới này luôn luôn cung hiến nhiều phẩm chất và đặc điểm đáng ao ước hơn là các cây me. Súc vật cũng thế. Vậy thì, ta có thể tin rằng sự hợp chủng có khả năng tạo nên những con người mới, có nhiều đặc điểm mong muốn hơn là những con người thuần chủng”.

Bà đặt cuốn sách xuống bàn, trong lòng đột nhiên hứng khởi, niềm hứng khởi mà lẽ ra bà đã cảm thấy sớm hơn. Đứa trẻ ấy – hết sức gần gũi bà – tiêu biểu cho một giống người “lai” đầy tràn trên thế giới. Lần đầu tiên bà thẹn thùng nghĩ đến Kim Christopher, như nghĩ đến một đứa con do chính bà sinh ra. Lâu nay bà chỉ xem nó như một con người được ghép vào cuộc sống của vợ chồng bà bằng cách nào đó, để tiếp nối hình ảnh chồng bà! Nếu chỉ một mình Chris mà thôi thì ông có thể sinh được một con người quan trọng hay không?

Cái ý tưởng này đột nhiên phong phú hóa trí tưởng tượng của bà đến đỗi bà lại cảm thấy giày vò vì hối hận. Nếu đứa trẻ ấy là một phần tử ưu tú thật thì sao? Nếu nó có một sứ mạng phải chu toàn trong tương lai khi hai vợ chồng bà đã già và trở thành vô dụng thì sao? Vợ chồng bà phải làm những gì để chuẩn bị cho đứa trẻ có một tương lai xứng đáng? Từ nay bà hiểu rằng Kim Christopher mang trong người dòng máu của người cha Mỹ và mẹ Á châu, có thể trọng yếu hơn Chris nhiều -trên bình diện nhân loại – giả thiết ngay cả khi Chris đã trở thành Tổng thống Hoa Kỳ, phải, trên bình diện nhân loại cũng như trên bình diện sinh vật học. Cái đầu óc khoa học của bà – đôi khi bà cho là vô dụng đối với một người phụ nữ, những lúc bà theo chân chồng đi từ tỉnh này sang tỉnh nọ – đã bắt đầu hoạt động và bà xem Kim Christopher như là một trách nhiệm mới đới với bà, một trách nhiệm thú vị thật nhưng không kém phần nặng nề. Cái sự kiện sinh một đứa con ra đời vốn tiêu biểu một trách nhiệm vĩ đại, nhưng việc tạo dựng Kim Christopher đã vượt qua tất cả những gì bà có thể dự liệu. Sự việc được cụ thể hóa trong một tương lai mà cả bà lẫn chồng bà vẫn còn chưa biết rõ.

Ồ, vợ chồng bà không nên bỏ quên nó trong một trường học!

Bà nói lớn, mặc dầu chỉ có một mình bà trong phòng sách :

– Không, không phải thế Chris ạ. Bảo đảm cho nó có một đời sống ấm no và học hành tử tế chưa đủ. Phải lo săn sóc cho nó nhiều hơn, nhiều hơn thế nữa.

Nhưng bao giờ bà có thể nói với chồng bà câu nói ấy? Bây giờ thì chắc là không rồi. Không nên tái diễn lại cái cảnh cãi vã nhau mà bà đã làm hồi tháng bảy. Cuộc bỏ phiếu sẽ khởi sự trong vài hôm nữa và tất cả mọi sự đều diễn tiến tốt đẹp.

Tính ngay thẳng của Chris, lòng tận tụy đối với sứ mệnh mà chàng đã quyết tâm theo đuổi, dáng dấp uy nghi và giọng nói nồng ấm của chồng đã luôn luôn kích động quần chúng.

Joe Berman đã bắt đầu thổ lộ:

“Chưa nghe dư luận gì về chuyện Kim Christopher cả”.

Một hôm, trong khi Joe đang cùng Laura nghe đến đoạn cuối bài diễn văn của Chris, anh ta đã nói với bà :

– Tôi chỉ sợ một kẻ ti tiện nào đó biết được câu chuyện đứa bé, nhưng hiện nay thì tôi nghĩ rằng chưa. Dẫu sao chúng ta cũng phải thận trọng mới được. Nếu có gì tôi sẽ thông báo cho bà biết ngay bà Winters ạ.

– Tôi không tin ngăn cản được dư luận. Tôi không tin cả những người làm công. Những hóa đơn…

– Bà đã đích thân trả tiền học cho nhà trường theo hóa đơn à?

– Phải, chính tôi lo lấy tất cả các việc ấy, nhưng anh chớ quên rằng ở trường học, không ai biết sự thật ra sao và cũng không có ai nghi ngờ gì hết. Có thể, ở đó người ta nói đến một đứa trẻ mà chúng tôi đã quan tâm đặc biệt.

Berman lẩm bẩm :

– Không nên xảy ra điều đó.

Bà nhìn Berman. Anh ta là một trong những chính khách thuộc hạng người mà bà đã cố gắng không khinh bỉ, và là một người mà bà biết đã hết sức tận tụy với chồng bà. Phải chăng, chồng bà có biệt tài lôi cuốn sự chú ý của mọi người? Từ rày bà đã quen nghe các bà kháo với nhau: “Đó là người đàn ông có duyên nhất mà tôi được biết”. Nhưng Joe Berman thì trái lại, thật hiếm thấy một người đàn ông như anh ta, một người thô lỗ, cứng cỏi, thật thà vừa phải, sẵn sàng chết và hy sinh cho Chris. Tuy nhiên sự tận tụy hết mình của anh đã làm cho bà cảm thấy khó chịu và bà tỏ sự khó chịu đó ra bằng một câu chống đùi :

– Ồ, rồi một ngày nào đó, thế nào thiên hạ cũng biết. Một sự bí mật sẽ hết còn là bí mật khi được bộc lộ. Dù thế nào đi nữa Chris cũng không thể tiếp tục mãi như thế được. Làm sao anh ta có thể cứ mỗi buổi sáng thức dậy, trong trí cứ nghĩ rằng…

Berman ngắt lời bà :

– Đó chính là một trong những cái tài thiên phú của ông, là không nghĩ đến nếu không muốn. Buổi sáng, khi thức dậy, ông ấy chỉ nghĩ đẽn những gì phải làm trong ngày và quả quyết gạt bỏ tất cả mọi sự còn lại. Đó là thiên phú, tôi xin nói rõ với bà như vậy. Bà xem, làm việc như thế mà ông chẳng có đau ốm gì cả.

Joe đã có lý, dĩ nhiên. Bà có thể hóa bệnh, nhưng Chris thì không. Vậy người hóa bệnh sẽ là bà – có thể – ông sẽ lãnh lấy phần giải quyết trường hợp bé Kim. Ồ, chớ chi bà đừng phát giác ra cái khía cạnh mờ ấy, cái khía cạnh đã làm cho bà thấy rõ vấn đề còn cấp bách hơn! Nó vẫn luôn luôn ở đây, trước ngưỡng cửa lương tâm bà, nhưng bà phải học ông đóng cửa lại. Tuy thế bà vẫn nhìn thấy nó ở đây, và luôn luôn chờ đợi…

Christopher đang cắm cúi làm việc trong góc phòng riêng của nó. Hồi còn thơ ấu, nó không có dịp chơi đùa thỏa thích. Tại Hán Thành, nó biết phận của nó là một đứa bé lai, luôn luôn phải đứng cách xa những người khác, mỗi khi đi xem các trò giải trí, nếu nó mon men đến gần, người ta liền đẩy lui. Nhưng ở đây, trong ngôi trường này nó được tham dự vào các trò chơi giải trí và người ta đã khuyến khích nó chơi hết mình. Ban đầu, nó không dám nghĩ rằng nó cũng có quyền chơi và có quyền chạy đuổi bắt một quả bóng. Nó không ồn ào vì bản tính mà cũng vì trước kia nó hay bị la rầy, nhưng bây giờ nó đã biết reo lên để biểu lộ sự thích thú. Bạn hữu của nó bằng lòng cho nó chơi chung và nó chơi với chúng suốt ngày. Nhưng chiều tối, vào lúc rỗi rảnh giữa giờ thể thao và giờ ăn tối, nó đã làm mấy hình múa rối.

Khi thằng bạn chung phòng với nó bận ở nơi khác, nó đóng cửa lại kéo ra một cái hộp giấy nằm khuất sau cánh màn và bày một cảnh mà nó sẽ trình diễn ba hình múa rối bằng gỗ anh đào do nó làm lấy. Một hình là người mẹ Triều Tiên của nó, hai hình kia là cha nó và vợ của ông ta, người đàn bà mà nó muốn xem như mẹ của mình, nhưng – không hiểu sao – nó không làm được. Nó kéo ra nhân vật thứ tư; một thằng bé bận đồ Mỹ. Chỉ có hình mẹ nó là bận đồ Triều Tiên; còn thì bận Âu phục. Hình đứa bé trẻ làm chưa xong; Kim Christopher mở con dao nhíp và bắt đầu đẽo cái mặt.

Nó không nhớ rõ nó thích chơi trò múa rối tự bao giờ. Ở Hán Thành không mấy người chơi trò này vì phần đông dân chúng thích xem chiếu bóng và các trò giải trí tân thời, nhưng nó có quen với một ông lão, sinh quán tại Hán Thành, chuyên làm hình múa rối và đã trình diễn ở đó gần bốn chục năm trời. Một hôm, Kim Christopher nhìn xem ông đẽo khuôn mặt mấy hình nộm như thường lệ, ông lão đã than thở :

– Đã từ tốn chục năm nay ta chuyên trình diễn hình múa rối nhưng bây giờ thì chẳng còn có ai thích xem nữa, ngay cả những vở tuồng nổi tiếng cũng chẳng ai thèm!

Đứa trẻ đã nói lớn :

– Có tôi, tôi thích, tôi muốn xem!

Ông lão hất cặp kiếng lên trán và mỉm cười nói với nó :

– Vậy thì cháu sẽ được xem. Tối nay ta sẽ diễn ở chùa, ít ra là cháu sẽ được xem một đoạn, vì có rất nhiều đoạn.

Nhưng rốt cuộc Kim Christopher đã xem được tất cả các đoạn của vở tuồng dài gồm năm sáu chuyện khác nhau. Kể từ khi đó, nó ước mơ có được một sân khấu hình múa rối của riêng mình. Nhưng vì không có vải, không có dụng cụ, giấc mộng của nó chưa bao giờ thực hiện được. Bây giờ đây, trong ngôi trường này, người ta đã khuyến khích nó tạo hình các nhân vật trong những giờ học thủ công. Một trong những đoạn mà nó thích nhất của vở tuồng dài do lão già ở Hán Thành trình diễn là đoạn mà vai chính là một thanh niên dân giả chế nhạo một nhà quý phái. Kim Christopher không có ý định chế riễu ai, nhưng nó thầm có cảm tình với chàng thanh niên dân giả và đã đồng hóa đôi chút với hắn ta.

Chiều hôm ấy, nó cẩn thận tạc cái khuôn mặt nhỏ nhắn tượng trưng cho chính nó. Nó chưa biết rõ phải kết thúc như thế nào câu chuyện mà nó tưởng tượng cho các nhân vật do nó đã tạo ra. Các hình nhân bé nhỏ này mang dáng dấp của nó sẽ ra sao trong câu chuyện? Tiếng chuông báo hiệu đến giờ cơm tối reo vang, John, bạn cùng phòng với nó đột ngột chạy vào. Nó cúi nhìn ngang qua vai Christopher và nói :

– Chà chà, giống mày dữ!

– Chính tao đó.

– Còn mấy hình kia, tượng trưng cho ai?

– Cha tao và mẹ tao.

– Còn hình kia?

– Tao có hai mẹ.

– Đâu có được. Người gì lại có hai mẹ.

Biết nói sao đây? Kim Christopher đành im lặng.

John lại gặn hỏi :

– Có phải không mày? Đâu có thể được!

Kim Christopher vắn tắt đáp :

– Nếu ở Triều Tiên thì được.

Nó vấp con dao nhíp, gói cái hình người đang làm dở vào một vuông khăn trắng, và xếp gọn tất cả lại rồi kéo tấm màn phủ cái hộp giấy dùng làm sân khấu. Công việc này đã mang lại cho nó một niềm an ủi mà nó không sao phân tích nổi. Nó chỉ bứt rứt vì câu chuyện vở tuồng. Biết kết thúc ra sao, khi nó chưa nhìn thấy giải pháp nào khả dĩ?

° ° °

Laura cùng chồng đang ở trong phòng riêng, hôm nay bà mặc dạ phục xa tanh trắng trông đẹp hơn bao giờ hết. Dường như màu trắng dã làm tăng thêm sắc đẹp của bà. Thân hình bà mảnh mai, cao và thẳng, dáng điệu như một bà hoàng, mái tóc màu hung và đôi mắt màu xám đã luôn luôn làm cho ông say đắm. Hơn nữa, ông biết rõ chẳng những bà đẹp rực rỡ mà còn có một vị trí thông minh tuyệt đỉnh, một tâm hồn giản dị biết thương người.

Laura đã hỏi chàng :

– Thỉnh thoảng anh có nghĩ đến bé Kim Christopher chứ?

Ông đáp :

– Có, chúng ta phải tuần tự giải quyết mới được.

Berman không phải ngốc, anh ta đã đoán được sự thật: Chris không muốn nghĩ đến đứa trẻ, ít ra là không nghĩ theo cái chiều hướng mà Laura mong muốn. Cái chiều hướng mà bà không thể dằn lòng không nghĩ, còn ông thì thích tin vào trực giác hơn. Ông có thể tránh không quyết định suốt ngày một vấn đề, đến tối ngay trước khi đi ngủ ông mới giải quyết. Ông có cái tìa tách rời các ý nghĩ bực bội ra một bên đợi cho đến khi có cảm hứng giải quyết. Chính nhờ vậy mà ông đã tách biệt hẳn vấn đề bé Kim trong tâm trí và nói với bà: “Hãy giải quyết tuần tự…”

Trong phòng ngủ, hai ông bà đứng trước một tấm kiếng lớn, bà đang thắt cà vạt cho ông.

Bà gặn hỏi :

– Khi nào mình mới quyết định tương lai thằng bé?

Bà biết, lẽ ra bà không nên hỏi ông như vậy vì ông chưa sẵn sàng giải đáp. Nhưng kể từ khi bà ý thức được sự quan trọng tiềm tàng trong cuộc đời đứa trẻ, thì bà không thể nhịn được mà không nói ra điều đó với chồng. Chính vì thế mà bà đã hỏi ông vào lúc hai vợ chồng đang sửa soạn đi dự buổi đại tiệc quan trọng này – buổi dạ tiệc trị giá một ngàn đồng một khẩu phần.

Ông đáp :

– Anh không biết. Không nên quyết định những loại chuyện ấy trong lúc này. Anh sẽ làm những gì cần làm, vào lúc thuận tiện. Chuyện đó rồi cũng sẽ được giải quyết, dĩ nhiên.

Không thể thúc giục ông được trong lúc này, bà thở dài. Bà biết, chồng bà sẽ không bao giờ có những quyết định đột ngột như bà. Bà đã nhiều lần nhìn thấy ông gạt ra bên ngoài mọi vấn đề mà dường như ông chưa biết phải giải quyết ra sao. Ông không giải quyết vấn đề theo luận lý học như bà mà còn cảm thấy khó chịu nữa là đàng khác. Ông cứ chậm rãi để thấm nhuần một vấn đề và thâu thập đầy đủ các dữ kiện trước khi quyết định. Bà rất tin tưởng ở ông vì ít khi ông lầm lẫn. Lần này nữa, bà cũng phải tin tưởng ở chồng bà.

Ngay vào tối hôm đó, ông phải đọc một bài diễn văn trước một đám đông bạn hữu và các đồng chí trong đảng của ông, nhưng Laura biết rõ bài diễn văn ấy không có soạn trước. Khi ông đứng lên, đối diện với các thính giả, chính họ đã tạo cho ông niềm cảm hứng và ông sẽ nói ra một cách chính xác những gì mà họ đang mong đợi và những gì mà họ đang cần. Ông chỉ nói lên sự thật. Đối với các cử tọa, ông có biệt tài tỏ ra như là bạn chí thân của từng người, nhưng vào hồi kết thúc thì bà là của riêng ông. Laura biết chắc ông sẽ là một vị Thống đốc tốt. Bà tin rằng một ngày kia ông sẽ trở thành một vị Tổng thống nổi tiếng.

Một giờ sau, Laura ngồi ở bàn tiệc danh dự cùng chồng, bà nhìn quanh gian phòng khiêu vũ chật ních những thực khách và ngập đầy hoa. Cụ Henry Allen ngồi phía tay mặt của bà, trông cụ có vẻ mệt.

Bà hỏi :

– Cụ nghĩ sao về kết quả cuộc bầu cử?

Ông cụ quả quyết :

– Chắc chắn ông nhà sẽ đắc cử. Và bây giờ mới là giai đoạn quan trọng. Chắc tôi không thể chịu đựng nổi thêm một ngày nào nữa. Nhưng bà hãy xem ông ấy! Ông chẳng có mệt nhọc gì ráo; tươi rói! Không, không có gì có thể cản ông ấy được cả.

Thật không gì cản nổi sao? Một vài tiếng thì thầm, một câu hỏi sẽ được đặt ra vào lúc tế nhị nhất và bây giờ sẽ ra sao? Giá như Kim Christopher đã được thừa nhận từ trước thì sự thật sẽ làm vô hiệu lời dèm pha! Laura cảm thấy tinh thần căng thẳng tột độ trong khi bà cố làm ra vẻ như đang nghe âm nhạc và mắt nhìn đám đông các thực khách chung quanh.

Bà có cảm giác Berman cũng đang lo âu như bà. Anh ta ngồi bên Chris, vẻ mặt khẩn trương mắt dán chặt vào hàng cửa ra vào. Tối hôm ấy, nếu một đối thủ đứng lên để tuyên bố những lời lẽ không thể sửa chữa được thì tất cả công trình xây dựng khó nhọc của biết bao cộng sự viên trong nhiều tuần lễ có thể sụp đổ, hóa ra tro bụi và hàng triệu đô la sẽ biến thành mây khói. Trong tưởng tượng, bà nhìn thấy chồng bà thất cử, vẻ tươi vui trên khuôn mặt bà vui tắt ngúm. Nếu xảy ra trường hợp đó, làm sao bà có thể sống được?

Cụ Henry Allen hỏi :

– Tối hôm nay sao bà có vẻ đăm chiêu thế bà Winters?

Bà công nhận :

– Vâng, quả thế. Có một cái gì làm cho tôi lo. Nghĩ đến trách nhiệm phải gánh vác…

– Ông nhà thật xứng đáng. Tôi đã đọc đâu đó một định nghĩa rất hay về thiên tài: đó là một khả năng vô hạn có tính cách đa năng và đa hiệu. Ông nhà có cái thiên tài ấy. Tôi không có ý nói châm biếm. Ông nhà có cái thiên phú lôi cuốn quyến rũ được mọi người chung quanh về với mình, ông sống trong cái tài thiên phú ấy và những người khác sống nhờ sức sống ấy truyền sang; đó là một loại tổng hợp ánh sáng tinh thần.

– Tôi run sợ nghĩ đến những gì sẽ xảy ra trong trường hợp anh ấy thất cử!

Vừa nói, bà vừa cảm thấy rằng bà đã không nói sự thật. Nếu Chris trở lại làm một người dân thường thì bé Kim sẽ có một gia đình. Nhưng một người như Chris làm sao có thể trở thành một người thường được? Vì ông chẳng có gì là thường hết!

Cụ Henry Allen quả quyết :

– Kìa, bà. Ông nhà sẽ đắc cử mà! Tôi nghĩ, bà cũng tin như vậy, có phải không thưa bà?

– Ở đời, bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy ra cả. – Bà đáp và dường như muốn thổ lộ cùng ông cụ nỗi lo âu của mình.

– Không có gì ông ấy không thể vượt qua được. Quần chúng cử tri là của ông ấy. Cuộc vận động của ông rất hấp dẫn. Tôi nghĩ rằng, không có quận nào không Tiểu bang mà ông không đến thăm ít ra là ba lần. Ông đã làm sáng tỏ mọi quan điểm và chẳng giấu diếm gì hết. Người ta tin cậy ông bởi vì ông đã xác định rõ lập trường của mình. Chỉ có ông nhà mới khả dĩ là đối thủ của vị Thống đốc đương kim.

Cụ nghĩ ngợi một lát rồi nói tiếp :

– Bà có biết không, trong khi nhìn ông nhà làm việc, tôi có ý nghĩ rằng ông ấy đã thấu triệt cái phương cách sáng tạo của mọi nhà nghệ sĩ. Sự sáng tạo ở nơi ông, còn hơn cả một kỹ thuật, đó là một thiên tài thật sự và còn hơn thế nữa, vì nó không phải theo quy lệ nào cả. Một nhà họa sĩ vẽ một bức tranh, một văn sĩ viết một cuốn sách không biết trước sẽ vẽ gì hay viết gì nhưng bôi cảnh đã hiện ra dần dần các yếu tố mà ông ta có: đó là tiến trình sáng tạo. Chris đã làm việc như vậy: các yếu tố đó là những tư tưởng và con người. Ông sống giữa họ, phục vụ họ, hiểu biết họ và tạo ra một đoàn thể mà từ trước họ không có.

Câu chuyện bị gián đoạn khi Berman đến nói thầm vào tai cụ Henry Allen :

– Thưa cụ đã đến giờ giới thiệu ứng cử viên rồi. Cụ chuẩn bị cho, lối mười phút.

Cụ Henry Allen đứng dậy :

– Cái đó không có lâu đến thế đâu.

Berman lại thì thầm.

– Xin cụ hãy thong thả, cụ nói đôi lời cho quần chúng lưu ý. Anh ta chỉ đợi có thế.

Trong gian phòng khiêu vũ rộng mênh mông các thực khách ngồi một cách trịnh trọng trong khi các bồi bàn đang hấp tấp xếp dọn. Ánh sáng từ những cây đèn treo hai mươi bốn ngọn chiếu lấp lánh trang sức cùng áo dạ phục của các bà và làm nổi bật hai màu trắng đen của những bộ vản phục đàn ông. Ban nhạc đang chơi những bài êm dịu, nhưng khi cụ Henry Allen bước lên diễn đàn thì họ trỗi một khúc quân hành và sau đó ngừng hẳn. Giọng nói trầm ấm và rõ ràng của ông cụ vang dội khắp gian phòng im phăng phắc. Cụ nói:

“Kính thưa quý vị.

Hôm nay tôi rất lấy làm vinh dự được nói với quý vị về một nhân vật đã sinh sống giữa chúng ta, xuất thân từ một gia đình danh tiếng tại một thành phố trong Tiểu bang của chúng ta, một người được giáo dục trong những truyền thông quý giá nhất”.

Đó là một bài diễn văn đặc biệt; ông cụ đã nói với một giọng thân mật, giản dị, nhưng dần dần trở nên nồng nhiệt. Cụ nói về thời thơ ấu của Chris, tuổi thanh xuân của ông ta, cụ nói đến các năm học của Chris ở đại học Havard rồi đến những bước đầu tốt đẹp của ông trong nghề luật sư với tư cách cố vấn pháp luật của thành phố. Cái hình ảnh mà cụ đã mô tả về Chris thật rõ ràng, đồng thời cụ cũng xác nhận ông ta là một người cương quyết và khả ái, một người thông minh, xuất sắc, một người bạn có khả năng và lý tưởng, nói tóm lại ông sẽ là một người có thế thực hiện được nhiêu mộng ước.

Để kết thúc, cụ nói :

– Vậy, tôi xin hân hạnh giới thiệu cùng quý vị nhân vật đáng kính ấy: ông Christopher – Winters. Ông đã phục vụ quý vị ngay trong thành phố của quý vị và bây giờ ông muốn được phục vụ trên một cấp bậc cao lớn hơn.

Cụ Henry Allen nhích sang bên, Chris tiến ra phong thái rất là ung dung, tự nhiên, đồng thời cũng rất hãnh diện và thận trọng. Tiếng vỗ tay hoan nghênh vang dậy khắp phòng. Ông đứng đợi, tươi cười – nụ cười trở nên huyền diệu. Khi bắt đầu cuộc nói chuyện thì ông nói bằng một giọng quả quyết và dễ nghe, với tất cả nghệ thuật tuyệt hảo của một nhà hùng biện đại tài.

“Các bạn thân mến…”

Laura lắng nghe, trống ngực đập mạnh. Bà biết đây là bài diễn văn hay nhất của chồng bà.

° ° °

Đã nửa đêm, trong văn phòng của Chris chỉ còn lại một nhóm nhỏ các cộng sự viên đang tính số phiếu do Ủy ban truyền cử chuyển đến. Tảng sáng, sự đắc thắng xem như đã nắm chắc. Với số phiếu hơn năm triệu rưỡi, ông đã có thừa bảy mươi lăm ngàn lá thăm trên túc số.

“Hoan hô – ông Thống đốc!” Berman la lớn giọng anh ta đã hóa khàn.

“Hoan hô! Hoan hô!” – Các người khác hô theo.

Họ bao quanh Chris; ông tươi cười, hơi xúc động. Bà nhận thấy ông đã kiệt sức nhưng đắc thắng siết tay mọi người, những bàn tay của những kẻ đã giúp đỡ ông, phục vụ ông, theo ông. Laura vẫn đứng yên, vì họ là những người có công lao nhất trong lúc này.

Sau rốt, bà tiến đến bên và hôn chồng. Bà nói với ông :

– Mình sẽ là một Thống đốc nổi tiếng.

° ° °

Laura đang nằm trên giường trong phòng riêng. Mặt trăng đã bị mây che khuất hay đã lặn, bà cũng không biết nữa. Đã lâu, bà không có thì giờ ngắm trăng. Tuy nhiên, ánh trăng vẫn thường giúp bà dễ dàng suy nghĩ và luôn luôn những khi một mình và hoặc cùng với chồng nằm trên giường này bà đã triền miên nghĩ ngợi suốt canh thâu.

Tối hôm ấy Chris ngủ say vì quá mệt. Không ai có thể tiên đoán được – lần đầu tiên chính bà đã bị lây theo sự dễ dãi của ông, tính tươi vui ra vẻ nhún nhường khả ái của ông trong khi ông xúc động tiếp nhận những lời ca ngợi của mọi người.

Ngay khi cuộc đắc cử đã nắm phần chắc các phóng viên báo chí cũng tin tưởng như vậy và đã bu lại phỏng vấn, nhưng Chris nhã nhặn thoái thác, ông tươi cười nói :

– Xin quí vị vui lòng cho hẹn đến ngày mai. Vâng, chắc chắn ngày mai. Hôm nay tôi không thể nói với các vị được điều gì; xin quý vị cho tôi được nghỉ ngơi lấy lại sức…

Hai cánh cửa khép lại, ông lảo đảo suýt ngã, bà phải đỡ ông.

– Không, không hề gì – Ông nói – Anh chẳng có đau ốm gì hết. Anh chỉ choáng váng một chút… vì mệt.

Laura giúp chồng cởi áo và trong khi ông tắm bà soạn đồ ngủ cho ông. Bà đã kéo chăn đắp cho ông ngủ, rồi đi sang phòng bà mở các cửa sổ. Bà khép cánh cửa thông thương giữa hai phòng để ông được yên giấc.

Riêng bà không ngủ được. Trận chiến đã toàn thắng, nhưng khải hoàn để làm gì? Bà thong thả tắm gội, thay áo quần, và lên giường nằm. Trong bóng tối bà nằm nghĩ ngợi về câu nói của cụ Henry Allen.

“Chris là một nghệ sĩ, ông ta đã hành động giống như vậy”.

Phần bà, bà phải tỏ ra kiên nhẫn và tin tưởng ở ông: phải chờ đợi cho đến ngày lễ Thiên Chúa giáng sinh – đó là điều cần thiết. Khi ông và bà ở bên cạnh đứa bé, khi cả ba người cùng họp mặt bên nhau, ông sẽ quyết định và bà cũng sẽ quyết định nữa, bởi vì bà với ông chỉ là một. Y nghĩ này đã mang lại cho bà sự bình an và bà ngủ thiếp đi.

° ° °

Hai ông bà Winter đang đợi Kim Christopher ở phòng khách của nhà trường. Học sinh đã nghỉ lễ Noel từ chiều hôm trước. Phần đông đã trở về nhà, để lại ngôi trường trống rỗng và im lặng. Bên ngoài đang mưa tuyết và bầu trời như thấp hơn.

Bác sĩ Bartlett, nói :

– Cậu bé rất dễ thích nghi với hoàn cảnh. Bạn bè về tất cả, bây giờ cậu phải chơi với những con hình múa rối.

Bà Winters kinh ngạc :

– Hình múa rối?

– Cậu ta có khiếu về nghệ thuật.

Ông Winters hỏi :

– Bạn bè nó có thích nó không?

– Cậu ấy thích chơi với ai thì người đó thích chơi lại. Còn thì có vẻ như là… kính nể cậu. Có thề nói được là cậu rất đứng đắn. Cậu học Anh văn chóng giỏi một cách lạ kỳ. Giọng cậu rất tốt. Cậu hát trong ban hợp xướng của nhà trường, và có vẻ thích lắm.

– Nó không thích thể thao sao?

– Thích chứ, nhưng trong các môn thể thao cậu ấy thích túc cầu nhất. Cậu chơi đá cầu cũng tài nhưng lại thích quần vợt. Cậu thiếu cái óc tranh thủ rất cần yếu trong thời đại bây giờ mà người ta tìm cách làm cho nó phát triển nhờ các trò chơi toàn đội. Cậu thích chơi thể thao và chơi giỏi, nhưng chẳng có quan tâm gì đến việc hơn thua.

Câu chuyện gián đoạn khi Kim Christopher bước vào. Kim Christopher – hoặc Christopher vắn tắt như bà Winters đã thường gọi. Trên đường đến trường học, bà đã nói với chồng :

– Mình không nghĩ rằng đã đến lúc phải bỏ bớt chữ “Kim” hay sao?

Ông đã lơ đễnh đáp :

– Cái đó tùy mình.

Ông lẳng lặng lái xe và trong suốt cuộc du hành hai ông bà rất ít nói về đứa trẻ. Cả hai đều muốn đến thăm đứa bé trước, xem thử nay nó đã ra sao, rồi mới nói chuyện về nó.

Hai ông bà đều nhận thấy ngay rằng Kim Christopher đã thay đổi quá nhiều, mặc dầu bà Winters chỉ vừa mới gặp nó trong thời gian mới đây. Nó đã khá lớn và mặc quần dài trông có vẻ như lớn hơn. Mới mấy tháng trời nhưng dường như nó không chỉ cao lớn thôi mà còn già dặn hơn trước. Nét buồn đã in sớm trên khuôn mặt nó, làm lu mờ vẻ trong sáng của tuổi thơ.

Bác sĩ hiệu trưởng không tìm cách làm cho câu chuyện bớt phần uể oải. Ông nhận thấy đó là vì đứa trẻ nói với những người mà nó xem như cha mẹ, dẫu cuộc thăm viếng của họ đã làm cho nó ngạc nhiên. Khi đứa trẻ nói với “người cha” lời lẽ của nó dường như kém tự nhiên hơn. Lâu nay ông ta không còn viết thư cho nó thường như trước nữa. Bác sĩ hiệu trưởng đã kín đáo dò xét và khám phá ra rằng đứa trẻ không còn viết thư trong mấy tuần gần đây và trong khi đó, nó cũng không nhận được thư mà chỉ nhận những bưu thiếp. Nó không nhận được bất cứ một sự giải thích nào.

Laura không nói gì hết. Trong suốt cuộc hành trình dài, bà gần như im lặng. Bà đã quyết định để yên cho chồng bà nói chuyện với đứa trẻ vì nó là con của ông. Hai cha con phải làm quen nhau. Trong khi họ nói chuyện, bà chỉ đóng vai trò một nhân chứng thinh lặng. Vì thế, khi Kim Christopher bước vào phòng khách, bà chỉ cười với nó mà không nói gì.

Chritopher nhìn bà, do dự, khẽ cười đáp lại rồi nghiêm trang nhìn cha nó. Nó không biết chắc giờ nào hai ông bà Winters đến nơi, nên nó đợi họ suốt cả ngày. Nó không bước ra khỏi phòng một bước ngoài trừ đi ăn cơm; nó cũng không màng đến cái khuôn mặt tròn quay của đứa bé Triều Tiên mà nó đã gọt đẽo. Đó là nhân vật cuối cùng mà nó đã hết sức thận trọng gọt đẽo với một thỏi gỗ cứng và bền. Ngón tay của nó đã bị con dao cứa đứt và đã được băng lại bằng một mẩu vải nhỏ.

Chris nhìn bác sĩ hiệu trưởng rồi nhìn vợ ông, như chờ họ nói lời mở đầu, nhưng họ im lặng, nên ông nói với bé Kim với một giọng vui vẻ nhưng lúng túng :

– Christopher! Vào đây con.

Ông cầm lấy bàn tay nó và ngắm nghía nói :

– Con đã lớn hơn trước nhiều.

Christopher giải thích :

– Ngày nào con cũng ăn thịt.

Nó im lặng bước đến ghế ngồi, dường như để cho những người lớn quyết định lập trường của họ. Vả lại Kim Sương mẹ ruột của nó đã từng dạy nó: “Con phải đợi cha con hỏi mới được trả lời và phải nói một cách khúc chiết rõ ràng?”

Chris nói :

– Tốt. Trẻ mới lớn lên phải ăn thịt hằng ngày, có phải không bác sĩ Bartlett?

Bác sĩ hiệu trưởng tươi cười đáp :

– Vâng, chúng tôi nghĩ thế.

Bởi lẽ người ta cần đến ông nên bác sĩ đã nói với bé Kim bằng một giọng tự nhiên, không giấu diếm :

– Ta vừa nói chuyện với cha con và bà Winters đây rằng con có năng khiếu về điêu khắc. Con có thể đưa cha con và bà về phòng để xem các tác phẩm điêu khắc của con.

Đứa bé đỏ mặt. Nó nói :

– Con làm chưa được khéo như con muốn. Con mắc cỡ lắm. Trước đây con chưa từng làm những công việc đó bao giờ.

Laura nói :

– Nhưng đó là cái mà chúng ta thích được xem. Sau đó bác sĩ Barllett đã cho phép con đi ăn cơm với chúng ta ngoài khách sạn. Thưa bác sĩ, chúng tôi sẽ đưa cháu trở về trường sớm.

– Vâng, xin bà cứ tự tiện.

Bác sĩ hiệu trưởng đứng dậy, lòng nhẹ nhõm, ông nói tiếp :

– Thường thì chúng tôi muốn học sinh phải trở về trường lối mười giờ tối, nhưng trong những dịp nghỉ lễ như hôm nay chúng tôi cũng có thể châm chước.

Chris quả quyết :

– Ồ, chúng tôi sẽ đưa cháu về trước mười giờ tối. Tôi hơi mệt.

– Ông đã mở một cuộc vận động tranh cử tuyệt hảo, tôi xin có lời mừng cuộc đắc thắng của ông.

Chris cười :

– Những điều lo lắng đã bắt đầu. Bây giờ tôi phải thực hiện những gì tôi cam kết và cải tiến tất cả những gì cần cải tiến.

Bác sĩ hiệu trưởng lễ phép nói trước khí rút lui :

– Tôi tin chắc ông, sẽ thành công.

Chris cũng đứng dậy. Ông nói với bé Kim :

– Đi con. Con dẫn đường đưa chúng ta đi xem các tác phẩm của con.

Hai ông bà đi theo bé Kim qua các hành lang và bà để ý đến cái vẻ duyên dáng đặc biệt Á đông trong bước đi của nó – Cái duyên dáng của tất cả những người Triều Tiên mà bà đã nhìn thấy trên khắp các đường phố Hán Thành. Nó đi rất thẳng với những bước chân nhịp nhàng mềm mại, nhưng dáng dấp nó thì lại là dáng dấp của một người Mỹ, một người Tây phương có một tấm thân vững chãi và hai bàn tay khá lớn. Vài phút sau, bà liền nhìn thấy những gì mà hai bàn tay ấy có thể làm được khi bà bước vào phòng ngủ của Christopher và khi nó kéo bức màn che một cái thùng giấy, để sát ở góc phòng. Trong một phòng khách tí hon – trang sức giống phòng khách của nhà trường – một đôi vợ chồng đang ngồi trong những chiếc ghế bành sang trọng; người đàn ông đang đọc sách, người đàn bà đang vá may. Laura nhận ra ngay đó chính là vợ chồng bà.

Bà kêu lên :

– Christopher! Con khéo tay biết bao! Xem kìa, Chris, người đàn ông giống hệt anh!

Bà cầm lấy hình nộm đàn bà để xem kỹ hơn: mọi chi tiết đều giống hệt bà: đôi mắt, làn tóc – tóc thật, đã được dán từng sợi trên cái sọ gỗ – và bộ y phục nhại lại thật giống.

Chris nói :

– Giống kinh khủng!

Nhưng trong khi nhìn cái khuôn mặt tí hon giống như thật này, ông chợt có một cảm giác rất lạ kỳ.

Đứa trẻ lặng lẽ nhận lãnh lời khen ngợi và khi hai ông bà xem xong, nó kéo màn che cái thùng lại.

Laura vừa nhìn nhanh vừa hỏi :

– Phòng của con đây à?

– Con một nửa, John một nửa.

Laura nói :

– Nửa phòng bên này khác hẳn nửa bên kia. Người ta thấy ngay con và cậu John tính tình không giống nhau.

Phần nửa phòng của John thì nào là những phù hiệu, những hình máy bay, vũ khí nguyên tử, v.v… ghim đầy tường. Phía tường của Christopher thì trống trải, ngoại trừ một bức tranh phác họa một ngọn núi có áng mây mờ vất ngang.

Laura hỏi :

– Con vẽ đây à?

Bé Kim gật đầu.

Laura quay lại nói với chồng :

– Chúng ta có một nhà nghệ sĩ.

Ông nói :

– Phần đông con trai đều trải qua một giai đoạn yêu chuộng nghệ thuật. Vào tuổi ấy, anh đã vẽ nhiều thuyền bè và mẹ anh là đề tài mà anh đã mơ mộng rất nhiều.

Một cảm giác khó chịu thoáng qua trên nét mặt mọi người. Laura vội nói :

– Chúng ta đi ăn cơm chứ? Tôi đã đói rồi.

° ° °

Sáng hôm sau trong phòng ngủ tại khách sạn, Laura vừa mặc áo, vừa hỏi chồng :

– Mình nghĩ sao về Christopher?

Chồng bà đáp :

– Nó quá trầm mặc.

Bà quay lại, tức giận :

– Có gì lạ đâu? Đó chỉ vì nó không biết rồi đây nó sẽ ra sao.

Chris vẫn còn mặc đồ ngủ, ông vươn vai nói :

– Còn chúng ta thì sao? Chúng ta biết à?

Bà chỉnh lại :

– Không phải là “chúng ta” mà là “anh”. Chính anh là người quyết định chớ không phải em. Anh quyết định làm sao, em sẽ nghe theo như vậy, nhưng em sẽ không quyết định thay anh.

– Vậy thì nếu đặt em vào địa vị của anh, em sẽ giải quyết ra sao?

– Không có nếu gì cả.

Bà hấp tấp nói khiến ông phải phì cười :

– Anh không “đánh cắp” giải pháp của em đâu! Laura ạ, anh nói thật, em đừng có nghĩ rằng anh không chịu tìm cách thu xếp việc thằng nhỏ. Mà cũng đừng có cho rằng anh thờ ơ lãnh đạm đối với những sự việc liên quan đến con của anh. Nhưng anh xin nhắc lại, chính những luận cứ mà anh đã từng nói với em. Có lẽ, sau khi anh đã chứng tỏ khả năng là một Thống đốc đặc biệt, lúc bây giờ chúng ta có thể đưa nó về chung sống với chúng ta. Dầu sao, dân chúng cũng đã tiến bộ nhiều. Ở đây, tại nước Mỹ này không thiếu gì dòng máu lai, người ta đã bắt đầu biết điều đó. Nhưng trong lúc này đây, khi mà anh chưa tạo được một thế đứng vững chắc đối với công chúng thì như thế là tự sát việc gì cũng vậy, phải tùy lúc tùy thời. Đừng ép anh.

– Thằng bé quá chóng lớn Chris ạ. Nó cũng có những tình cảm, những suy tư. Tâm hồn của nó đang hình thành. Chẳng bao lâu, rất gần đây sợ rằng quá muộn.

– Quá muộn? Thế là sao?

– Chúng ta sẽ không thể nào làm cho nó thông cảm được. Nó sẽ từ bỏ chúng ta bởi vì nó sẽ cho rằng chúng ta đã bỏ rơi nó.

– Ơ kìa, Laura, đó là những luận điệu lỗi thời hơi quá. Thằng nhỏ ấy phải hiểu rằng nó đã sống trong một cảnh ngộ đặc biệt mà nó phải chấp nhận. Trong cuộc đời của nó, nó sẽ phải suy đi nghĩ lại nhiều lần để tìm hiểu nó là ai – đối với mọi người và đối với chính mình. Nó càng sớm chấp nhận hoàn cảnh của nó bao nhiêu thì càng tốt cho bấy nhiêu. Ngay cả nếu hôm nay đây, chúng ta có đưa nó về nhà chung sống chăng nữa, nó cũng sẽ không phải là đứa con mà chúng ta mong ước, con của anh và em.

– Không, nhưng chúng ta có thể giúp nó chấp nhận hoàn cảnh của nó, cái hoàn cảnh mà chính chúng ta đã bằng lòng chấp nhận.

– Vậy có phải là em đã quyết định phương pháp giải quyết, mặc dầu em đã phủ nhận hay không?

Bà thối thác :

– Không, đó là em thử bào chữa một vấn đề khó khăn, thế thôi. Như vậy, em sẽ có thể nói rằng, đối với những người khác, giản dị cho nó hơn cả là đừng giải thích gì về sự có mặt của chúng ta, và vì lẽ đó để nó sống một mình là tiện nhất.

– Nó đâu có sống một mình.

– Có, trên bình diện bản thể.

– Tất cả chúng ta ai mà chả thế.

– Đại để, vào tuổi của nó người ta không sống một mình, hơn nữa nó từ rất xa xôi đến đây.

– Nói một cách khác, chúng ta nên gởi trả nó về Triều Tiên có phải không?

– Chúng ta không thể gởi trả nó về Triều Tiên được nữa. Ngay nếu như chúng ta có gởi trả nó về chăng nữa, nó cũng sẽ không còn giống như trước, vì một phần chính của nó sẽ lưu lại đây. Từ rày, nó đã biết anh là cha của nó. Nó sẽ cảm thấy mình xa lạ ở Triều Tiên. Trước kia nó đã từng thấy như thế, vì người ta không muốn có nó, nhưng bây giờ thì nó đã biết rõ điều ấy, đó là sự khác biệt. Không anh ạ, mối dây liên hệ sẽ đô vỡ. Nó đang bềnh bồng giữa đại dương và đang tìm cách bơi vào bờ.

° ° °

Chris tung chăn vùng dậy khỏi giường. Ông thầm nghĩ:

“Nếu chúng ta nghĩ đến việc lợi dụng một ngày đẹp như hôm nay để chơi trượt tuyết thì thích biết bao”.

Điều đó đối với họ chẳng khó khăn gì vì khí trời thật trong lành, tuyết thật tốt. Sau khi đã điểm tâm, hai ông bà đến tìm Christopher tại phòng khách chung của khách sạn mà nó đang đợi họ ở đây, áo mũ sẵn sàng, hai tay cầm ván trượt tuyết. Mặt nó lộ vẻ hiếu kỳ pha lẫn một chút hồ nghi và một niềm vui mong đợi. Nó là một đứa trẻ đã nếm mùi thất vọng quá nhiều nên phó mặc hoàn toàn cho sự rủi may.

Laura nhận thấy thằng bé rất đẹp, mắt nó màu xanh nâu, làn da mịn nổi bật trên nền đỏ của chiếc áo thể thao. Ngày sau, chắc không thiếu gì phụ nữ chạy theo nó. Một ngày nào đó, nó có bị trở ngại gì trong tình yêu vì nguồn gốc Á đông của nó hay không? Laura tự trách mình quá lo xa và tưởng tượng quá nhiều.

Chris hỏi :

– Con có thích chơi trượt tuyết không?

Laura có cảm giác rằng chẳng bao lâu nữa chồng bà sẽ gọi đứa nhỏ là “con cưng của ba” nhưng còn phải chờ… và cũng có thể là bà sẽ không bao giờ được nghe tiếng gọi thương yêu ấy.

Christopher đáp :

– Vâng, con thích. Nhưng không thích lắm.

Laura hỏi :

– Vậy thì con thích gì?

Hai ông bà đang xếp các dụng cụ trượt tuyết lên trần xe hơi, sau đó họ ngồi vào xe, riêng Christopher ngồi ở băng sau.

Laura lại gặn hỏi :

– Kìa con, nói đi. Con thích gì?

Bé Kim nghĩ ngợi một lát. Nó là một đứa trẻ không bao giờ trả lời phớt qua một điều gì. Tính thận trọng và hoài nghi cuộc đời đã khiến nó dè dặt. Cuối cùng, nó nói :

– Con thích ca hát.

Laura bảo :

– Chúng ta hãy ca một bài gì đi. Ta chưa nghe con hát bao giờ nên chưa biết tài của con.

Bé Kim do dự một lát, rồi, chẳng nói chẳng rằng, nó ngước mặt lên cao cất tiếng hát một bài ca bằng tiếng Triều Tiên. Hai ông bà Winters lắng nghe sửng sốt, cái giọng Kim trong trẻo này chưa bị vỡ tiếng vì tuổi dậy thì, và bà nghĩ rằng một giọng ca như vậy phải là một kho tàng quý giá. Làm sao người ta có thể thu giấu một đứa trẻ tài hoa như thế được? Bà không nói cùng chồng ý nghĩ của bà, nhưng khi đứa trẻ dứt tiếng hát, bà khẽ nói :

– Cám ơn.

Chris không nói gì, Laura định gợi chuyện, nhưng đột nhiên ông hỏi :

– Này con, bây giờ chúng ta hát một bài Mỹ nhé!

Không một chút do dự, Christopher cất tiếng hát “Oh beautiful for spacious skies…”

Nó hát hết tất cả các điệp khúc, trong khi Chris lái xe, hai mắt nhìn con đường xa lộ thẳng tấp và những ngọn núi phủ tuyết dưới ánh bình minh. Khi tiếng hát chấm dứt, ông im lặng một lát, đoạn nói với đứa trẻ :

– Ba rất thích bài này, con biết hát, ba bằng lòng lắm.

Mười lăm cây số cuối cùng trôi qua trong im lặng và khi đến nơi, ai nấy lăng xăng mang ván trượt tuyết để lên núi. Khi đã lên tới đỉnh núi, Chris dặn dò :

– Này con, Laura đi trước, con đi giữa, ba đi sau, có gì thì đã có ba.

Chris chưa tin vào khả năng của đứa trẻ đối với môn thể thao mới mẻ này, ông lo lắng dặn dò :

– Con có biết lượn vòng ở những khúc quanh hay không? Hãy nhìn thật kỹ, Laura làm sao con làm vậy – phải đây, con có thể gọi tên là Laura và Chris, nếu con muốn. Chúng ta đều là bạn, có phải không? Được rồi. Nào, đi!

Trong khi đang lao mình từ trên một đường dốc xuống. Laura không dám quay đầu nhìn lại. Bà dừng chân ở cuối đoạn đầu dốc và nhìn Christopher nó đi vòng vèo để tránh các chướng ngại vật thật đúng cách. Trên cao, Chris tăng gia tốc. Họ gặp nhau ở chân đồi. Cả ba người má đều ửng đỏ vì lạnh và mắt ngời sáng vì thích thú. Chris đã quên đi mọi nỗi khó khăn phiền lụy.

Ông vui vẻ vỗ vai Chirstopher và nói lớn :

– Mày sẽ là một tay trượt tuyết cừ khôi, con ạ!

Christopher đáp :

– Cám ơn ba.

Hai cha con nhìn nhau, đôi mắt của Chris lộ vẻ nửa thích thú nửa ngượng nghịu, còn đôi mắt của đứa trẻ thì lộ vẻ nghiêm trang.

Chẳng giải thích gì thêm, ông nói :

– Tốt.

° ° °

Thật khó mà không vui lây niềm vui của thiên hạ trong dịp lễ Thiên Chúa Giáng Sinh. Tuy vậy, trong mấy ngày áp lễ hai ông bà Winters đã không mua một món quà nào, họ như bị lạc vào một nơi xa lạ giữa những đám xương mù bất quyết. Nhưng lễ Thiên Chúa Giáng Sinh đã đến gần với những ngày đẹp trời nối tiếp nhau và dường như không còn có một đám sương mù nào tồn tại giữa họ nữa.

Một hôm nọ, vào buổi sáng, Chris nói với vợ trong khi ông đang thay áo quần :

– Thằng nhỏ cần một cặp gỗ trượt tuyết tốt hơn. Anh đi mua cho nó một cặp để làm quà Giáng Sinh và chỉ cho nó cách giữ gìn.

– Em sẽ đi mua cho nó một bộ áo quần trượt tuyết mới. Nó cần thêm một bộ nữa giống như bộ hôm trước nó đã mặc. Nó cũng cần có một bộ dụng cụ dùng để điêu khắc. Em có thấy một bộ thật đẹp, hàng Đan Mạch, trong một tiệm tạp hóa ở góc đường.

Lúc bây giờ họ không còn cưỡng lại mà hòa mình vào cái vui chung của mọi người trong ngày Noel, niềm vui cố cựu như chính những tập tục của ngày lễ. Tuy vậy, Chris vẫn luôn luôn nói một cách ác ý rằng lễ Noel chỉ là một phát minh có tính cách thương mãi. Nhưng trong ngôi làng bé nhỏ này, nơi mà mọi sự đều giản dị. Noel cũng được thể hiện bằng các vật trang trí hào nhoáng. Trong các gia đình, người cha đã vào rừng chặt thông mang về nhà cho đàn trẻ tô điểm. Hôm áp lễ, Laura sửng sốt khi nghe chồng bà bảo rằng, ông và Christopher vào rừng đến một gốc thông mang về làm cây Noel. Laura lo kiếm đồ trang trí và cả ba người sẽ cùng nhau trang hoàng.

Khi chồng bà và Christopher đã vào rừng, bà bắt đầu đi mua sắm những đồ trang trí giản dị và trang nhã rồi trở về nhà đợi “hai bố con” như bà vẫn thường gọi họ như thế trong lòng.

Chris mang về một cây thông nhỏ, làm một cái giá dựng lên giữa nhà và họ bắt đầu trang hoàng. Thằng bé chưa từng được nhìn thấy cây Noel bao giờ; nó ngồi bệt xuống đất, nhìn Laura tháo những vật trang trí rất mỏng manh xinh đẹp gói trong những tờ giấy vàng và bạc. Nó vơ lấy mấy tờ giấy và xếp những con bướm, những con chim.

Laura khen :

– Ồ, tuyệt đẹp! Để treo lên cành cây.

Chris quan sát cả hai người và nghĩ ngợi rất lung tung. Biết bao điều “khả dĩ” đã lần lượt hiện ra trong tâm trí ông… những điều “khả dĩ” chứ không chỉ những điều “bất khả”… Do trực giác Laura đoán được tư tưởng của chồng qua nụ cười, qua ánh mắt của ông. Bà tự nghĩ: có thể, một giải pháp đã hình thành trong tâm trí ông, rất mờ nhạt xa vời. Sau lễ Noel, khi đã trở về nhà, biết đâu ông sẽ quyết định, vì sự thúc đẩy của một trong những khích động phi thường của con tim…

Thường thì Chris không muốn để lòng yếu mềm vì tình cảm nhưng đêm Noel hôm ấy ông không thể nào không xúc động trước vẻ kỳ diệu của ngôi làng này, nơi đây giống hệt một cánh Noel tuyết giá in trên những tấm bưu thiếp. Bên ngoài trời tuyết phủ trắng xóa, những cây thông treo đèn kết tụi sáng trưng xếp trước ngưỡng cửa mỗi nhà, Chris và Laura đã trang trí xong cây Noel của họ, cây còn tươi, phảng phất mùi dầu thông. Đối với Christopher đây là lễ Noel đầu tiên trong đời nó, có nên kể cho nó nghe câu chuyện truyền kỳ bất diệt mà thiên hạ đã từng kể lại cho hàng triệu trẻ em nghe chăng!

Với một giọng dịu dàng êm ái, Laura kể cho Christopher nghe sự thích Chúa sinh ra đời trong một chuồng bò giữa miền đồng vắng, sự sùng kính của Ba Vua cùng các mục đồng, và để tưởng nhớ đến sự tích ấy, người ta đã dựng cây Noel làm tượng trưng. Christopher lắng nghe một cách thèm thuồng còn Chris thì ngồi im lặng.

Laura kể xong, đoạn kết luận :

– Con của Thiên Chúa đã chịu sinh ra nơi chuồng bò hèn mọn bởi vì Ngài không có nơi nương tựa…

Christopher siết chặt vòng tay bó lấy gối, thở dài. Mơ màng, nó khẽ nói :

– Con cũng vậy. Ngày trước con thường không biết nương tựa nơi đâu. Bà ngoại con luôn luôn bất bình đánh mắng con, con phải lẩn tránh và ban đêm, nhiều khi con phải ngủ đường ngủ chợ…

Chris và Laura nhìn nhau với một nét nhìn ý nghĩa. Nét nhìn của Laura rõ ràng có ý hỏi rằng: “Chúng ta có nỡ gởi trả nó về Triều Tiên hay không?”

Đêm tối xuống dần trong khi ba người gói quà tặng. Tất cả những điều đó thật là mới mẻ, tuyệt diệu, đối với đứa trẻ. Vừa gói quà, lòng nó vừa tràn ngập niềm vui. Vẻ trang nghiêm trên khuôn mặt nó đã biến mất: hai mắt ngời sáng, nó quên hắn cái tư cách mà nó phải giữ, nó vừa cười vừa hỏi :

– Thế này phải không ạ? Có phải thế này không?

Nó gói một cái hộp nhỏ.

Chris chỉ bảo nó :

– Đấy, thế này này. Được rồi. Bây giờ con hãy để trên tấm danh thiếp tên người mà con muốn gởi tặng.

Christopher cười nói :

– Cái này con tặng ba. Con tặng ba và con biết chắc ba sẽ thích cái này. Để con mở ra cho ba xem nhé, ba nhé!

– Không, không, phải đợi đến sáng mai. Tất cả mọi người đều cùng mở một lượt; thế mới thích.

Nghe vậy, Chirstopher cảm thấy như hăng hái hơn, lòng nó ngập tràn tình thương mến, nó nhảy bổ tới ôm lấy cha nó và kêu lên :

– Ối ba! Con thương ba, con thương ba lắm, con thương ba nhiều!

Chris ôm lấy hai vai thằng bé và dịu dàng trách :

– Không nên yêu ba nhiều quá.

Ông nhẹ nhàng buông đứa bé, nhưng ông nghĩ rằng sở dĩ ông buông rời nó ra lúc bây giờ là chỉ vì ông quá thương nó.

Ông nói :

– Ồ, đã gần nửa đêm rồi phải đi ngủ.

Sáng hôm sau, khi đã dùng điểm tâm trước cây Noel rực rỡ ánh đèn, và trong khi mọi người bắt đầu mở các gói quà với những tiếng reo vui mừng thì ông hiểu rằng như thế là hơi quá, tình thương biểu lộ quá nhiều. Trong đống quà của ông có một cái hộp gỗ nhỏ, chạm trổ thật đẹp, do chính tay Christopher làm lấy.

Nó thành thật thú nhận :

– Cái hộp này con đã dùng rồi, con đựng tem thư; nhưng con muốn biếu ba.

Chris nói một cách nghiêm trang :

– Đúng là cái hộp mà ba cần để đựng nút áo.

Nhưng đứa trẻ say sưa vì vui thích, nó đã lục tìm nói ván trượt tuyết mới và hỏi :

– Cho con à! Chỉ cho một mình con thôi sao?

Chắc chắn một lần nào đó, nó phải mang đôi giầy mới và gắn ván trượt tuyết vào. Tiếng chuông nhà thờ đổ dồn báo hiệu đến giờ lễ sáng, người ta vẫn chưa mở hết các gói quà tặng. Mọi người hấp tấp mở quà, vì Christopher còn bận hát trong ban hợp xướng nhà thờ. Chris, Laura và Christopher mặc đồ thật ấm, họ bước ra đường ngập đầy tuyết trắng như bông và gặp dân làng đang lũ lượt kéo nhau đi dự lễ. Tới cổng nhà thờ, Christopher tách riêng một mình vào hậu cung và thay áo chùng trắng như những cậu trai khác trong ban hợp xướng Thánh ca. Từ khán đài, nó đưa mắt tìm kiếm Chris và Laura.

– Chẳng biết tại sao – nó nhìn họ mãi cho đến khi, ngay trước giờ thuyết giáo nó phải đơn ca một bài. Nó tiến đến bờ khán đài, hai tay chắp lại sau lưng và cất tiếng hát, dường như từ trước tới nay chưa bao giờ được hát.

“Thằng bé con ai thế?…”

Tiếng hát của nó cất cao lên vang dội khắp các vòm nhà thờ, Laura khẽ nắm lấy bàn tay chồng, không giữ nổi hai hàng nước mắt. Chris quay nhìn vợ và thấy mắt bà đẫm lệ.

Bà thì thầm :

– Anh, người ta nói đúng đây: thằng bé con của ai?

Ông không trả lời.

Noel qua đi hai ông bà đã trở về nhà, nhưng bà cảm thấy chòng bà có vẻ lo lắng, lơ đãng và nói hơi nhiều. Đã bốn ngày nay kể từ khi hai ông bà dẫn Christopher trở lại trường học, họ chẳng nói gì với nhau ngoài những chuyện phiếm. Chris bận dời văn phòng của ông đến điện Capitol, còn Laura thì lo việc dọn nhà sang dinh Thống đốc. Tuy nhiên, họ muốn giữ nguyên ngôi nhà cũ của họ; không thay đổi một vật gì và giao cho Greta coi sóc. Ngôi nhà này là nơi mà họ sẽ dùng để nghỉ ngơi vào những ngày cuối tuần và trong những dịp nghỉ hè. Đây là nơi mà, trước khi sang dinh thự mới họ sẽ tổ chức tiệc tất niên như mọi năm để thết đãi tất cả bạn hữu.

Larua hỏi chồng :

– Anh có muốn kể cho cụ Henry Allen nghe chuyện thằng bé hay không?

Chris không trả lời. Chỉ có hai vợ chồng họ muốn tận hưởng giây phút thân mật của những đêm cuối cùng trong ngôi nhà này. Laura ngồi trong một ghế bành bọc nhung màu hồng, đối diện với Chris, bên một lò sưởi có mấy thanh củi đang cháy bập bùng. Vì ông làm thinh nên bà tiếp tục thêu, một công việc mà bà đã bỏ dở từ mấy năm nay và thỉnh thoảng lấy ra làm vào buổi tối để vui tay mà không bao giờ có ý định chấm dứt cả.

Trong khi ông vẫn thinh lặng, bà nói tiếp :

– Em cảm thấy anh đã tự làm khổ mình, và em biết anh bị giày vò vì vấn đề Christopher. Có phải vậy không anh?

– Đúng thế.

– Vậy, nếu anh không muốn bàn chuyện Christopher với em, cái chuyện mà em hiểu rất rõ vì anh nghĩ rằng em sẽ có những ý kiến thiên vị – thì tại sao anh không giãi bày tâm sự với cụ Henry Allen!

– Anh tự quyết định lấy một mình.

Laura không nói gì thêm, bà tiếp tục thêu một cách lặng lẽ. Chris đang nghĩ gì? Bà cảm thấy ông có vẻ xa vời, cách biệt, và nỗi ghen hờn lại siết chặt tìm bà. Phải chăng ông đang nghĩ đến Kim Sương? Phải chăng hình ảnh Christopher và Kim Sương đã kết hiệp làm một trong tâm trí ông? Bà thở dài, xếp cất tấm vải đang thêu dở. Bà nói :

– Em đi ngủ. Tối nay em cảm thấy mệt trong người.

– Em không đau ốm gì chứ?

– Không. Có lẽ em phải làm việc trở lại.

– Ồ, công việc của em… đó chỉ là một phương cách để trốn tránh…

– Có lẽ. Nhưng không phải là tất cả chúng ta đều cần một phương cách để trốn tránh sao, anh?

Ông cảm nhận sự lạnh lùng trong giọng nói của bà, ông cầm lấy tay vợ khi bà đi ngang qua chỗ ông ngồi.

– Đừng giận nghe cưng.

– Không, có gì phải giận đâu. Nhưng anh đã để em ở mãi quá lâu trong sự ngờ vực.

– Như em đã rõ; anh phải hành động theo ý riêng của anh.

– Anh đã luôn luôn hành động theo ý riêng có phải không?

– Kia, đó là điều mà em muốn, đúng không?

Mặc dầu rất muốn rút tay ra khỏi tay chồng nhưng bà vẫn cứ để vậy và ngồi xuống một cái ghế nhỏ bên cạnh chiếc ghế bành của ông.

Bà nói :

– Đúng. Thông thường thì em muốn thế. Em vẫn luôn luôn muốn anh được tự do. Nhưng những gì liên quan đến đứa trẻ ấy, em có quyền muốn biết ý nghĩ của anh. Nói tóm lại, nó cũng chính là con của em. Nó không có ai là mẹ ngoài em. Khi em rứt nó ra khỏi tay của Kim Sương – cái điều mà em sẽ không bao giờ làm, nếu em biết ngay lúc ấy hoặc sau này em khó lòng thương được nó – em đã nhận lãnh cái trách nhiệm làm mẹ nó, “một người mẹ khác” dĩ nhiên, một người thay quyền làm mẹ, thì cái người đàn bà kia không còn có tư cách là người mẹ nữa. Như vậy, chắc anh đã hiểu, em muốn chia sẻ các suy tư của anh về đứa trẻ là một việc rất thường.

Ông lắng nghe bà nói, đôi mắt ông ánh lên một tia sáng cương quyết. Bà ngước mắt nhìn chồng, chờ ông trả lời.

Cuối cùng, ông nói :

– Rất tiếc, không thể được. Anh phải tự mình nhìn thấy rõ phương pháp giải quyết. Anh vẫn còn chưa biết rồi đây kết quả sẽ ra sao, nhưng anh tiến từ từ từng bước một. Cuộc đời của anh, sự nghiệp của anh đều liên lụy đến quyết định này.

– Cụ Henry Allen.

– Không, không ai biết, kể cả cụ ấy.

Bà nhìn thấy hình ảnh bà phản chiếu trong đôi mắt ông, rất nhỏ.

– Anh không bao giờ nghĩ rằng, nếu anh quyết định một cách nào đó, anh sẽ mạo hiểm… vì em sẽ khinh bỉ hay sao?

Ông đáp mà không cười :

– Đó là một sự mạo hiểm.

Bà đứng dậy hôn nhẹ vào trán chồng và trở về phòng riêng. Ở đó, bà do dự một chút bên cánh cửa thông sang phòng chồng bà, – thường thì mở rộng – cuối cùng, bà quyết định khóa trái lại. Bà bước đi, rồi ngập ngừng quay lại mở khóa, nhưng vấn đề cánh cửa khép hờ.

° ° °

Hai ngày sau, nhà ông bà Winters thết tiệc tất niên, vang dội tiếng vui cười huyên náo. Một ban nhạc chơi các bản nhạc khiêu vũ mà người ta chỉ có thể nghe được trong tất cả các phòng. Các quan khách đều tấm tắc khen ngợi việc chưng dọn hoa tươi trong nhà. Laura đã đích thân làm việc này với sự phụ giúp của một cô hàng hoa. Bà rất thích loại công việc này và vì bận bàn bạc với cô hàng hoa nên bà quên được cái tình trạng chờ đợi và bất quyết lâu nay. Bà không nhận đợc thư từ gì của Christopher – tức là Kim Christopher trong trí bà. Tại sao? Chắc đó là một sự phản ứng do bản năng tự vệ, bà chuẩn bị cho một quyết định bất ngờ của Chris.

Bà Alien nói :

– Chào bà Winters.

Laura quay lại tiếp đón các bạn hữu. Ông cụ Alien bận lễ phục tuy mới cắt tại Luân Đôn cách đây vài năm nhưng bây giờ đã căng chặt ở bụng, còn vợ ông thì diện cái áo dạ phục bằng lụa dày màu đen như thường lệ.

Bà cụ bắt tay Laura và nói :

– Bà Winters thân mến, cái áo trắng đã tôn sắc đẹp của bà lên. Tất cả đẹp hơn trước, từ rầy, bãi bỏ một buổi dạ tiệc. Tất Niên như thế này thì thật là đáng tiếc!

– Ồ, không. Chúng tôi không bỏ. Chúng tôi vẫn sẽ tiếp đãi bạn bè hằng năm vào dịp Tất Niên như thường lệ.

Hai ông bà cụ mỉm cười bước vào trong và Laura quay ra tiếp đón các tân khách khác. Cả ba gian phòng rộng chẳng bao lâu đã chật ních, trong phòng ăn các bồi bàn đã chực sẵn; ở phòng khách người ta đã khiêu vũ và trong thư viện, Laura cùng chồng đang tiếp các tân khách. Nhưng… chồng bà đang ở đâu vậy kìa? Mới hồi nãy đây ông còn đứng bên bà và bây giờ, ông đã biến đâu mất! Bà đưa mắt tìm tứ phía, nhưng Chris vẫn biệt dạng. Có lẽ ông phải vào văn phòng với Berman! Ôi, Chrirs! Anh không thể quên công việc trong một buổi tối được sao? Mặc dầu hết sức ước muốn được có mặt chồng bên cạnh, Laura không thể bỏ đi tìm ông, bởi vì khách khứa dồn dập và vì họ ngạc nhiên không nhìn thấy chồng bà.

Họ hỏi :

– Ông nhà đâu rồi? Sao không thấy ông ấy đâu cả!

Bà phải bịa chuyện để xin lỗi :

– Ồ, nhà tôi mới đâu đây, để tôi đi kiếm.

Nhưng đột nhiên, ông hiện ra như có phép lạ. Ông từ phòng trước bước vào, trông có vẻ tự tin, hai má ửng hồng như đi đâu ra ngoài mới về. Ông đến đứng bên bà và các tân khách. Bà hỏi :

– Kìa anh, đi đâu từ nãy đến giờ?

– Em sẽ biết sau.

Họ không có thì giờ để nói chuyện, vì bận rộn khách khứa nhưng dầu sao họ cũng khiêu vũ cùng nhau và ông đã thì thầm vào tai vợ :

– “Một đêm tuyệt diệu! Em là một bà vợ khéo tổ chức”.

Nhưng rồi, một vũ nam khó tính đã đến chia cách hai người và bà chỉ còn thấy ông xa xa. Gần như hầu hết các bạn hữu của họ đều đến dự, Laura tính đến gần hai trăm người. Chốc chốc bà lại nhìn lên chiếc đồng hồ treo. Chỉ còn ba mươi phút nữa là đúng nửa đêm; năm mới bắt đầu!

Khi tiếng chuông đồng hồ đánh mười hai tiếng báo hiệu đã sang xuân, luôn luôn đó là giây phút long trọng nhất, nhưng tối hôm ấy nó còn mang một ý nghĩa đặc biệt. Năm mới sẽ dành cho họ những gì? Vấn đề nghi thức lại được đặt ra. Laura lẻn ra vườn giữa đêm đông để tìm một phút cô quạnh. Thật thế, năm mới này sẽ dành cho họ nhiều điều mới lạ hơn những năm trước: chắc chắn bà sẽ nhìn thấy chồng bà khởi sự làm Thống đốc và bà là Đệ Nhất phu nhân của Tiểu bang. Nhưng còn hơn thế nữa, năm nay bà sẽ biết rõ những gì bà đã thắc mắc về chồng bà. Dầu ông đã làm những gì chăng nữa bà vẫn sẽ mãi mãi yêu ông. Nhưng đối với bà cũng như đối với ông, chỉ tình yêu có đủ không? Điều gì sẽ xảy ra nếu bà mất đi cái mà bà đã bằng hết sức quan tâm, đó là lòng tôn kính mà bà đã dành cho chồng?

Bà tự nhủ: “Nhưng dầu sao, ta có quyền gì buộc chàng phải nhận một trình độ luân lý mà chàng không tự mình chọn lựa?”.

Đột nhiên ở cửa có sự lộn xộn. Ban nhạc ngừng chơi. Nhưng còn quá sớm kia mà, Laura kinh ngạc. Chưa đến nửa đêm và thông thường thì trái lại ban nhạc phải gia tăng nhịp điệu cho đến khi chuông đồng hồ đánh tiếng đầu tiên và chỉ khi đó họ mới chơi bản “Auld Lang Syne” bài hát giã từ.

“Các bạn thân mến!”.

Chris đứng ở ngưỡng cửa tiền phòng và tiếng ông vang dội khắp tất ca các phòng khác. Laura từ nhà kiếng ở trong vườn bước ra, nhưng bà không chen vào đám đông các tân khách. Bà chưa bao giờ nhìn thấy Chris nói với một vẻ linh động như vậy kể cả khi ông đọc diễn văn trong cuộc lễ tấn phong Thống đốc.

“Tôi xin trình cùng các bạn, là những người đã hiểu biết tôi rất nhiều, là những người đã ủng hộ tôi, giúp đỡ tôi, đã đưa tôi lên chức vụ Thống đốc. Tôi không muốn tôi không thể – giấu các bạn cái mà đối với tôi nó có nghĩa là tham vọng. Bởi vì tôi là một kẻ có tham vọng, phải, tôi có nhiều mộng ước để thực hiện. Tôi muốn trở thành một Thống đốc tốt. Tôi muốn phục vụ các bạn và phục vụ mỗi một người trong tất cả đồng bào của chúng ta. Tôi tin chắc tôi có thể làm được điều đó. Nhưng đêm hôm nay, tôi muốn được chia sẻ cùng các bạn một khía cạnh trong cuộc đời của tôi mà cho đến bây giờ các bạn vẫn còn chưa biết rõ”.

Laura hiểu ngay ý định của chồng bà, bà nín thở lắng nghe mà không biết gì đến hai hàng lệ đang ròng ròng chảy trên má và con tim đập mạnh vì quá cảm xúc. Ông mô tả lại nỗi đau lòng của các thanh niên mà chiến tranh đã đày đọa họ xa quê hương, nhận chìm họ trong những cảnh sống khủng khiếp dã man.

“Họ là đồng bào của chúng ta, những người mà tôi trình bày cùng quý vị đó là con em của chúng ta. Hiện bây giờ đây, họ đang sống và chết trong khắp bảy nước Á châu. Họ đều là những người trẻ tuổi, trẻ một cách bi đát. Họ đã sống trong những ngôi nhà như nhà của các bạn, nhà của tôi, ở trong tình thương của gia đình, trong sự ấm cúng và vững an. Ngày hôm nay đây họ đang cảm thấy hoàn toàn cô độc. Tại sao tôi biết được điều ấy? Bởi vì tôi đã từng là một trong những người trẻ tuổi đó, trong nước Triều Tiên, ngày trước”.

Ông ngừng lại, môi mím chặt trước khi nói tiếp:

“Con em của chúng ta đã tìm cách tiêu sầu. Tôi không muốn chỉ trích họ, cũng không bào chữa cho họ. Tôi đã từng là người như họ. Họ ôm chặt lấy sự sống trong vòng tay, giữ nó lại cho mình vì họ không thể nào biết được họ còn sống hay chết trong một giờ sau. Tôi đã từng là người như họ.

Họ đã tụ tập nhau lại trong các vũ trường. Nếu không, họ chẳng biết đi đâu! Họ tiếp xúc với đàn bà. Họ có thể mua ái tình càng nhiều càng tốt. Phải, họ biết rằng đó là một thứ ái tình rẻ mạt, một thứ tình yêu giả vờ, nhưng họ có thể đòi hỏi những gì khác hơn? Sống trong sự tối tăm mà lưỡi hái của tử thần đang treo lủng lẳng ở trên đầu, họ chỉ biết tìm cách ẩn náu trong vòng tay của người đàn bà, một kẻ xa lạ, dĩ nhiên, nhưng là đàn bà. Tôi đã là một người như họ, nhưng ngày trước tôi có may mắn hơn họ, vì người đàn bà mà tôi đã gặp, tuy là một kẻ qua đường, nhưng không phải là thứ tình yêu giả vờ. Tuy nhiên, câu chuyện không chấm dứt ở đây, nếu không, kể lại để làm gì? Trường hợp giống nhau như thế rất thường xảy ra, nghĩa là câu chuyện chưa chấm dứt. Sự kết hợp ngắn ngủi này, nếu thường thường chấm dứt bằng sự chết thì đôi khi lại nảy sinh sự sống. Đó là sự sống của một đứa trẻ. Trong bảy quốc gia Á châu nơi mà các con em chúng ta đang sống, đang chiến đấu, và đang chết ngày hôm nay đây, những đứa trẻ đó đã được sanh ra. Sự hiện hữu của chúng nó mang ý nghĩa gì? Đây chúng nó tiêu biểu cho một dân tộc mới, những đứa trẻ của ngày mai được sinh ra quá sớm, trước khi thiên hạ sẵn sàng để đón nhận chúng. Không ai sẵn sàng để tiếp nhận chúng cả: không một quốc gia nào, không một cá nhân nào, đàn ông cũng như đàn bà. Chúng nó không có quốc tịch. Cha của chúng chỉ biết đến sự hiện hữu của chúng mà thôi có phải không? Không hẳn như thế. Dầu sao đi nữa, cái điều mà cha chúng không biết, đó là phong tục Á châu: trong những quốc gia Đông phương con thuộc về cha. Tôi đã từng là một trong những người không biết đến phong tục này mãi cho đến cái ngày mà chính mình tôi biết rõ: tôi cũng có một đứa con trong số trẻ ấy. Bây giờ tôi đã biết”.

Ông im lặng một lúc rất lâu. Mắt nhìn sững lên khoảng không đàng trước, hai hàm răng cắn chặt, ông đang suy nghĩ và Laura nhìn thấy đường tĩnh mạch trên cổ ông nhảy phập phồng. Một sự im lặng hoàn toàn đang ngự trị khắp gian phòng: không một cử động, không một tiếng thì thào, không một tiếng ho khuấy phá ông. Chris quay lại và từ cánh cửa hé mở, ông dẫn Christopher ra phòng khách. Hai cha con đứng yên bên nhau. Đứa con đưa mắt ngước nhìn người cha; cha nó mỉm cười cùng nó. Hai cha con giống nhau như tạc; giống từ đôi mắt, giống cái miệng giống cả nét nhìn nghiêng.

Chris nói lớn :

– Christopher, đây là các bạn hữu của ba. Ba muốn các bạn ba biết con và con biết họ, vì bây giờ con đã ở ngay tại nhà của con và đây chính là nơi mà con sẽ sống. Ba cũng muốn các bạn hữu của ba được biết ba là người thế nào. Chính vì thế mà ba đã nói cuyện với họ về con.

Đứa trẻ chẳng nói chẳng rằng, hai mắt vẫn nhìn sững cha nó. Chris lặp lại câu nói, nhưng với một giọng nói hoàn toàn khác biệt, dịu dàng và vui vẻ.

“Vâng, thưa các bạn, tôi xin giới thiệu cùng các bạn con trai của tôi – con trai của chúng tôi, vì nhà tôi cũng cùng một lòng như tôi. Chính nhà tôi đã sang tận Triều Tiên để đưa Christopher, con của chúng tôi về đây. Con tôi có giọng ca tuyệt vời và tôi muốn nó hát mừng quý bạn một bài. Hát đi con, Christopher!”

Christopher bước tới một bước và ngẩng đầu lên cao cất tiếng hát:

“My country, 'tis of thee…”

Laura đứng xa các tân khách, bà nức nở :

– “Ôi Chris. Anh chứ chẳng ai khác… chẳng ai khác…”

Bà cố sức trấn tĩnh lại. Điệp khúc cuối cùng chấm dứt, bà phải đứng bên chồng và con bà. Nhưng bà chưa kịp tiến lên thì hai ông bà cụ Allen đã bước tới bên đứa bé. Bà cụ nắm lấy cánh tay nó và với giọng oang oang, hách dịch bà nói :

– Chào Christopher. Chúng ta rất vui mừng được nhìn thấy từ nay con đã trở về với gia đình.

Ông cụ Alien nói lớn trong khi hai bàn tay cụ ấp lấy hai bàn tay đứa bé :

– Hoan nghênh bé cưng!

Rồi cụ quay sang Chris và tiếp :

– Tôi xin có lời mừng ông, ông Winters ạ! Ông có một đứa con tuyệt diệu… Tôi rất bằng lòng về việc ông đã tìm lại nó… tôi rất bằng lòng… bằng lòng tất cả.

Những người khác do dự, bất quyết, vội vã cùng nhau xô đến gần để bắt chước hai ông bà cụ này, những người mà họ luôn luôn chờ đợi làm gương để noi theo. Laura vừa đi vừa chạy xuyên qua căn phòng trước và đến đứng bên cạnh chồng. Giữa những cái bắt tay chúc mừng, những ánh mắt tò mò những nụ cười ý nhị của tân khách, bà tìm cách thì thầm cùng chồng :

– Và bây giờ, sao đây cưng của em…?

Ông đáp lại với một nụ cười bí hiểm :

– Ai biết đâu?

Bà vẫn còn nói khẽ :

– Dầu sao đi nữa từ nay chúng ta đã ba người.

– Cho đến giờ phút này, mọi sự đều êm đẹp.

– Phải, cho đến giờ phút này.

Laura nói, quặt tay lại đàng lưng nắm lấy tay của Christopher.

Trong khi đồng hồ khởi sự đánh mười hai tiếng chuông huyền diệu thì mọi người cùng nhau cất tiếng hát bài giã biệt.

Trội hơn tất cả mọi người, tiếng hát trong thanh của Christopher cất lên cao vút:

“Should and acquaintance be forgot…”

“Tuy xa, nhưng ta hằng mong, có ngày gặp nhau…”

Không, không bao giờ, Laura thầm nghĩ, một vài kỷ niệm nào đó sẽ mãi mãi in sâu trong lòng bà. Nhưng Kim Sương, ông Chu và nước Triều Tiên từ đây thuộc về quá khứ và đêm hôm nay một năm mới bắt đầu.

Hết

Bình luận
720
× sticky