Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Ngày Mai (Demain)

Chương 7: Những đường song song

Tác giả: Guillaume Musso

Sợ hãi không thể thiếu hy vọng

và hy vọng không thể thiếu sợ hãi.

Baruch SPINOZA

Ngày hôm sau

21 tháng Mười hai

Ngày hôm sau, khi thức dậy, Emma và Matthew có chung một phản xạ: cả hai cuống cuồng mở hộp thư điện tử và nhẹ nhõm khi không thấy có thư nào mới.

– Bố ơi, sáng nay mình đi chọn quà Giáng sinh cho con chứ ạ? Emily hỏi trong lúc ùa vào bếp như một cơn lốc tố để lao vào vòng tay anh.

Anh kéo con bé ngồi lên ghế quầy bar ngay cạnh mình.

– Trước tiên bố con mình chào nhau đã chứ, Matthew chỉnh con gái.

– Chào bố, cô bé vừa lí nhí vừa dụi mắt.

Anh nghiêng sang để thơm con bé. Con bé cố nài:

– Vậy thì mình đi chứ bố? Bố hứa với con rồi mà!

– Nhất trí, con yêu. Bố con mình sẽ chọn quà cho con trong các cửa hàng để con có thể viết thư gửi ông già Noel.

Cái tục lệ viết thư gửi ông già Noel này… Anh có nên duy trì nỗi ảo tưởng và sự cả tin trong Emily? Anh chưa có ý kiến dứt khoát về vấn đề này. Nhìn chung, anh không thích nói dối con gái, và xét từ điểm này, không còn tin vào ông già Noel nữa sẽ là một bước tiến tới tuổi trưởng thành và sự hình thành một tư duy duy lý. Nhưng mặt khác, có lẽ còn hơi sớm để tước đoạt của con bé phép mầu nảy. Sau chấn thương tâm lý do cái chết của Kate gây ra, Emily đả trải qua một năm hết sức khó khăn. Giữ vững trong con gái niềm tin vào điều huyền diệu dường như sẽ có lợi cho tinh thần con bé. Thế nên vào dịp lễ này, Matthew đã quyết định kéo dài quãng thời gian thần tiên ấy và dời việc tiết lộ “bí mật lớn lao” này sang năm sau.

– Ai muốn dùng món ngũ cốc trộn sữa chua nào? April vui vẻ hỏi trong lúc bước xuống cầu thang.

– Cháu! Cháu ạ! Emily vừa reo vừa nhảy từ trên ghế xuống, lao ra ôm hôn cô gái.

Cô dang tay đón con bé rồi nựng nịu nó.

– Cô tới cửa hàng đồ chơi cùng hai bố con cháu chứ? Emily hỏi.

– Hôm nay cô April phải làm việc con ạ, Matthew đáp.

– Nhưng hôm nay là Chủ nhật mà! Cô bé nhắc.

– Giờ là dịp cuối tuần sau cùng trước lễ Giáng sinh, April giải thích. Bọn cô đang mở cửa tất cả các ngày trong tuần để người lớn cũng có thể chọn mua quà tặng cho nhau, nhưng phải tầm trưa cô mới tới gallery, thế nên cô có thể đi cùng hai bố con cháu cả buổi sáng.

– Tuyệt quá! Rồi cô làm cho cháu một cốc sô cô la nóng thật to uống cùng kẹo bông được không ạ?

– Nếu bố đồng ý…

Matthew không phản đối vụ ăn đồ ngọt này. April nháy mắt với anh rồi bật đài lên và chuẩn bị bữa sáng.

– Tối qua thế nào? cô hỏi.

– Thất bại thảm hại, anh vừa thì thào vừa dốc một túi nhỏ cà phê vào máy pha.

Anh liếc nhìn Emily. Trong lúc chờ cốc ca cao, con bé đang chơi với máy tính bảng, hất cẳng lũ lợn xanh với bầy Angry Birds. Matthew hạ giọng kể cho cô bạn sống cùng nhà nghe về cuộc phiêu lưu khó tin của mình ngày hôm qua.

– Chuyện này có vẻ không ổn, cô công nhận. Giờ anh định làm gì?

– Đúng ra là chẳng làm gì hết. Quên nỗi thất vọng này đi và hy vọng không còn nhận được bức thư nào từ người phụ nữ đó nữa.

– Em chẳng cảnh báo anh rồi còn gì: tán chuyện bông lơn trên mạng là nguy hiểm lắm đấy.

– Em thổi phồng lên thì có! Mà dẫu sao cũng chính em đã xúi anh mời cô ta tới nhà hàng dùng bữa!

– Chỉ là để không sống trong ảo tưởng mãi thôi! Anh phải thừa nhận rằng chuyện đó hơi quá tốt đẹp nên khó mà là thực được đi, người phụ nữ đó hóm hỉnh giống anh, có chung sở thích với anh và còn có thể khiến anh mất cảnh giác quá nhanh bất chấp mọi sự cẩn trọng.

– Lẽ ra anh nên dè chừng hơn mới phải, anh nhượng bộ.

Như để xát thêm muối vào vết thương và khơi thêm lo lắng trong anh, April kể cho anh nghe một loạt những tin tức đáng sợ liên quan đến những trò lừa bịp trên mạng. Những câu chuyện nhơ nhớp liên quan tới những người khờ khạo tin là đã gặp được ý trung nhân qua mạng trước khi nhận ra, chỉ ít lâu sau, rằng mình đã rơi vào một cái bẫy moi tiền.

– Hoặc là cô gái này đầu óc không bình thường, hoặc cô ta có dụng ý xấu, cô nói tiếp. Trong cả hai trường hợp ấy dĩ nhiên cô ta đã phải tìm hiểu kỹ về anh thì mới có thể đưa anh vào tròng dễ dàng đến thế. Hoặc giả, đó là một người hiểu anh quá rõ và liên lạc với anh bằng danh tính giả.

Lẽ nào là một trong những học trò của mình? Matthew băn khoăn tự nhủ.

Anh chợt nhớ tới một tấn thảm kịch diễn ra hồi năm ngoái tại Emmanuel College, một đại học Công giáo ở Boston. Đinh ninh rằng mình đang chat qua mạng cùng người yêu, một sinh viên nữ đã đồng ý cởi đồ rồi tự vuốt ve trước webcam. Rủi thay, người đang ngồi trước màn hình bên kia không phải là vị hôn phu của cô, mà là kẻ đã đánh cắp tài khoản của anh ta. Gã trai đểu cáng đó đã ghi lại toàn bộ để tống tiền cô gái. Gã đòi cô một khoản tiền lớn, đổi lại sẽ không phát đoạn băng. Để lời đe dọa của mình có thêm sức nặng, ngay trong đêm đó gã đả gửi cho vài người quen của cô sinh viên kia một số trích đoạn băng ghi hình. Quá hổ thẹn và khiếp sợ những hậu quả do hành động của mình gây, cô gái đã treo cổ tự vẫn trong phòng riêng và được tìm thấy vào sáng ngày hôm sau…

Ký ức về tấn thảm kịch này khiến Matthew rùng mình kinh hãi. Mồ hôi toát ra khiến sống lưng anh ớn lạnh.

Mình thật thiếu cảnh giác! anh tự trách mình lần nữa. Ngẫm cho kỹ, anh vẫn mong người phụ nữ đó chỉ là một kẻ lừa đảo, nhưng anh lại nghiêng về phương án đó là một con bệnh tâm thần hơn. Ai đó nghĩ mình đang sống ở năm 2010 thì ắt là hết sức khùng điên.

Vậy thì nguy hiểm tiềm tàng.

Anh thống kê tất cả những gì đã tâm sự với cô ta: họ tên, khu phố nơi anh sống, trường đại học nơi anh giảng dạy. Cô ta cũng biết anh có một đứa con gái bốn tuổi rưỡi, biết anh thường chạy bộ thể dục trong công viên mỗi sáng thứ Ba và thứ Năm hằng tuần, biết con gái anh theo học trường Montessori, biết hoàn cảnh vợ anh qua đời…

Cô ta biết tất cả… Dẫu sao cũng là quá đủ nếu cô ta muốn hãm hại anh hoặc tấn công anh. Hoặc làm hại Emily. Vì thổ lộ tâm tình như thế, anh bỗng có cảm tưởng đã khiến một phần đời mình bị nguy hiểm.

Không đâu, mày cứ lo quá đấy thôi, anh tự lý giải. Có lẽ anh sẽ không còn nghe nhắc gì tới cô nàng Emma Lovenstein đó nữa, và trong tương lai, điều không may này sẽ như một bài học đối với anh. Anh đặt xuống khay tách đồ uống April vừa đưa cho rồi quyết định quên hẳn câu chuyện này đi.

– Tới đây ngồi đi nào, con yêu, món sô cô la của con xong rồi đây.

***

– Hai bố con cười nào!

Một giờ sau, April đang chụp ảnh cho Emily và Matthew trước lối vào của Toys Bazaar, một trong những tòa nhà lớn của thành phố.

Nằm ở góc quảng trường Copley giao với phố Clarendon, Bazaar là khu thánh đường dành cho các loại đồ chơi tại Boston. Chỉ còn vài ngày nữa là tới lễ Giáng sinh, bầu không khí đã trở nên vô cùng náo nhiệt: các trò chơi, âm nhạc, phát kẹo… Emily được bố và April mỗi người dắt một bên. Đứng hai bên cửa ra vào là hai nhân viên gác cửa cải trang thành những nhân vật bước ra từ bộ phim hoạt hình Max và những quái vật Maximonstre chào đón ba người họ bằng cách tặng kẹo mút. Họ nhìn bao quát những gian hàng đầu tiên mà không kìm nổi nỗi kinh ngạc xen lẫn thán phục. Nếu các tầng trên của cửa hàng được dành cho những loại máy móc công nghệ cao (tay game, robot nhận diện bằng giọng nói, các trò chơi điện tử…), thì tầng trệt lại được dành để trưng bày các món đồ chơi truyền thống dễ thương: thú bông, đồ chơi ghép hình bằng gỗ, LEGO, búp bê…

Emily tròn xoe mắt trước những con thú nhồi bông to như thật.

– Mềm quá! cô bé ngạc nhiên thốt lên khi vuốt ve một chú hươu cao cổ cao sáu mét.

Không thể chối cãi được: nơi này thật kỳ diệu, ngoạn mục và khiến người ta nhanh chóng quay trở lại thời thơ ấu. April ngây ngất hồi lâu trước bộ sưu tập búp bê Barbie đồ sộ trong lúc Matthew mắt tròn mắt dẹt khi nhìn thấy một đoàn tàu điện khổng lồ với hệ thống đường ray dài hàng chục mét chạy uốn lượn.

Anh để Emily chạy thêm vài phút nữa giữa các gian hàng, rồi anh quỳ gối để mình ở ngang tầm với con bé.

– Được rồi, con biết rõ quy tắc rồi nhé: con có thể chọn hai món quà, nhưng chúng phải vừa cỡ phòng ngủ của con.

– Vậy là con không được chọn hươu cao cổ ạ, Emily vừa đoán vừa cắn môi.

– Con hiểu hết rồi đấy, con yêu.

Có April cùng đi nhưng cô bé con cũng mất hồi lâu mới chọn được một chú gấu teddy giữa khoảng trăm mẫu được bày bán. Matthew lơ đãng dạo bước trong khu vực bày bán những mẫu đồ chơi Meccano bằng kim loại rồi trao đổi vài lời với một ảo thuật gia đang biểu diễn một loạt các trò trước cầu thang máy. Ngay cả khi không đứng gần, anh vẫn để ý trông chừng con gái, vui sướng khi thấy cô bé phấn khích đến thế. Nhưng những khoảnh khắc hạnh phúc này cũng làm sống lại nỗi đau mất Kate. Anh cảm thấy thật bất công khi không thể chia sẻ những thời khắc này cùng với cô. Anh đang chuẩn bị tới chỗ April thì điện thoại đổ chuông. Số của Vittorio Bartoletti hiển thị trên màn hình. Anh nghe máy và cố gắng nói át tiếng ồn xung quanh.

– Chào cậu, Vittorio.

– Chào cậu, Matt. Cậu đang ở đâu thế, trong một nhà trẻ hay sao?

– Đang đi mua quà Giáng sinh, cậu ạ.

– Cậu gọi lại cho tớ sau nhé?

– Chờ tớ hai phút thôi.

Anh ra hiệu từ xa cho April biết anh ra ngoài hút một điếu thuốc rồi anh rời khỏi cửa hàng và băng qua phố để tới quảng trường Copley.

Trồng nhiều cây xanh và có một đài phun nước ở chính giữa, quảng trường này nổi tiếng với những chi tiết phản trong kiến trúc. Mọi du khách tới đây đều chụp một bức ảnh đẹp mê hồn: những ô cửa tò vò, những hàng hiên và những ô kính ghép màu của nhà thờ Trinity phản chiếu trên những ô cửa kính mặt gương của Hancock Tower, tòa cao ốc đồ sộ nhất của thành phố. Vào ngày Chủ nhật rực rỡ ánh nắng như hôm nay, nơi này hết sức náo nhiệt nhưng vẫn yên tĩnh hơn nhiều nếu so với bên trong cửa hàng đồ chơi. Matthew ngồi xuống một băng ghế rồi gọi lại cho bạn.

– Alô, Vittorio này, Paul sao rồi? Đã khỏi viêm tai chưa?

– Thằng bé ổn rồi, cảm ơn cậu. Thế còn cậu, đã hoàn hồn sau buổi tối kỳ cục kia chưa?

– Tớ quên luôn và ngay rồi.

– Thực ra tớ gọi cho cậu chính là về việc đó đây. Sáng nay, tớ đã kể cho Connie nghe chuyện không may của cậu và cô ấy đã hết sức bối rối.

– Thật sao?

– Cô ấy chợt nhớ ra chuyện gì đó. Cách đây chừng một năm, vào một buổi tối tớ không có mặt ở cửa hàng, Connie đã tiếp một cô gái tại nhà hàng. Một cô gái tự nhận là có hẹn với cậu. Cô ta đã chờ cậu hơn một tiếng đồng hồ, nhưng còn cậu thì biệt tăm không thấy tới.

Matthew bỗng cảm thấy máu giần giật dồn về thái dương.

– Nhưng tại sao Connie chưa bao giờ kể tớ nghe chuyện đó?

– Chuyện đó xảy ra chỉ cách tai nạn của Kate có vài ngày. Connie đã định gọi điện báo cho cậu biết, nhưng cái chết của vợ cậu đã biến sự việc đó thành ra vặt vãnh. Thậm chí Connie đã quên khuấy đi và chỉ nhớ lại vào sáng nay khi tớ thuật lại chuyện tối qua.

– Cậu có biết cô gái đó trông như thế nào không?

– Theo lời Connie thì đó là một cô gái người New York, tuổi chừng ba mươi, nói cho đúng ra là xinh xắn và thanh lịch. Connie đang ở nhà mẹ đẻ cô ấy cùng với Paul, nhưng tớ đã nhắn cô ấy gọi lại cho cậu trong chiều nay. Cô ấy sẽ kể cho cậu biết nhiều hơn.

– Cậu có cách nào biết chính xác ngày tháng cô gái ấy tới ăn tối tại nhà hàng của các cậu không?

– Nghe này, tớ đang ngồi trong xe, đang trên đường tới nhà hàng. Tớ sẽ cố gắng tìm lại thông tin đặt bàn trên cơ sở dữ liệu của nhà hàng. Connie còn nhớ đó là buổi tối khi ông anh họ của cô ấy từ Hawaii tới ăn tối.

– Cảm ơn, Vittorio. Tớ chờ cậu gọi lại nhé. Chuyện này thực sự quan trọng đấy.

***

New York

Nhà hàng Thống Soái

Ca trưa

Bàn tay của Emma hơi run khi rót rượu vang trắng vào những chiếc cốc pha lê hình thoi.

– Thưa quý vị, để chiêu món đùi ếch thắng đường và món đậu tằm chiên tỏi trong vỏ bánh mì tẩm gia vị tán vụn mà quý vị đang dùng, tôi xin đề xuất loại vang có xuất xứ từ vùng thung lũng sông Rhône: một chai Condrieu 2008, giống nho Viognier.

Cô gái nuốt nước bọt để giọng nói trong trẻo hơn. Không chỉ có bàn tay cô đang run. Mọi thứ trong cô đều đang chao đảo. Buổi tối hôm trước đã khiến cô hoàn toàn chấn động. Cả đêm cô hầu như không chợp mắt nổi và những cơn đau dạ dày dữ dội lan dọc lên theo đường thực quản.

– Quý vị có thể nhận thấy vị gắt mà đầm của rượu Condrieu, hài hòa, nồng đượm. Đây là một loại vang thơm nồng đượm hương hoa.

Cô kết thúc việc rót rượu phục vụ khách rồi ra dấu cho viên trợ lý để báo cho anh ta biết là cô đang cần nghỉ ngơi ít phút.

Thấy xây xẩm mặt mày, cô lén rời khỏi phòng rồi nhốt mình trong toa lét. Cô đang bồn chồn, mồ hôi vã ra như tắm và khoan vào đầu cô là âm thanh ù ù nhức nhối không dứt. Những tia a xít đốt cháy đường tiêu hóa của cô. Tại sao cô lại khó ở đến thế nhỉ? Tại sao cô lại cảm thấy mình yếu đuối đến vậy? Kiệt sức đến vậy? Cô cần ngủ. Hễ mệt mỏi là mọi thứ trong đầu cô đều tăng tốc. Những ý nghĩ tiêu cực vây hãm cô không ngừng nghỉ, hất cô vào một thế giới huyền hoặc và kinh khủng, xa rời thực tại.

Lên cơn co giật toàn thân, cô cúi xuống bồn cầu để nôn vào đó toàn bộ bữa sáng rồi giữ nguyên tư thế đó một lúc, cố gắng hít thở đều. Câu chuyện về những bức thư điện tử đến từ tương lai này khiến cô khiếp hãi. Lúc này là tháng Mười hai năm 2010. Cô không thể thư từ qua lại với một người đàn ông đang sống ở tháng Mười hai năm 2011 được! Vậy thì gã đàn ông này hoặc là một con bệnh tâm thần hoặc là một kẻ có dụng tâm xấu. Bất kể là trường hợp nào thì đây cũng là một mối đe dọa. Đối với cô và đối với sức khỏe tâm thần của cô. Cô đã gặp đủ những gã biến thái rồi. Lần này thì quá lắm! Những tháng gần đây, tình trạng của cô đã dần ổn định, nhưng hôm nay thì cô cảm thấy mình lại chìm đắm trong lo sợ. Hẳn là phải dùng thuốc cô mới có thể tìm lại được chút bình tâm. Cô cần nói chuyện với bác sĩ tâm lý riêng, nhưng ngay cả Margaret Wood cũng đã bỏ bê công việc mà đi nghỉ Giáng sinh tại Aspen.

Mẹ kiếp!

Cô đứng thẳng dậy rồi soi mình trong gương, đôi bàn tay chống vào thành bồn rửa. Một dòng mật rót xuống từ môi cô. Cô dùng khăn giấy lau sạch rồi vỗ chút nước lên mặt. Cô phải nghe theo lý trí và tĩnh tâm lại. Gã đàn ông này không thể làm gì phương hại đến cô. Nếu gã ta tìm cách bắt liên lạc lại, cô sẽ lờ tịt những lá thư của gã. Nếu gã còn cố, cô sẽ báo cảnh sát. Và nếu gã thử lại gần cô, cô biết mình sẽ đón tiếp gã bằng cách nào: cô vẫn luôn mang theo trong túi một khẩu súng xung điện. Với màu sắc hồng như kẹo của nó, khẩu Taser của cô giống với một món sex-toy hơn là một vũ khí tự vệ, nhưng nó vẫn cực kỳ hiệu quả. Đã bình tâm hơn đôi chút, Emma hít một hơi thật sâu, chỉnh trang mái tóc rồi quay trở lại làm việc.

***

Boston

– Con muốn gọi một suất lobster roll[1] ăn kèm khoai chiên được không ạ? Emily hỏi.

[1] Bánh mì kẹp xúc xích nóng kèm xa lát tôm hùm. (Chú thích của tác giả)

– Ăn kèm xa lát thì hơn, Matthew đề nghi.

– Ứ, tại sao thế ạ? Khoai chiên mới ngon chứ!

– OK, anh nhượng bộ, nhưng nếu vậy thì không có món tráng miệng nữa đâu nhé. Con nhất trí chứ?

– Nhất trí ạ, cô bé đồng ý rồi cố gắng nháy mắt với bố.

Matthew dặn bồi bàn các món cần gọi rồi trả lại cho anh ta quyển thực đơn. Hai bố con đang ngồi ngoài sân hiên của nhà hàng Bistrot 66 nằm trên phố Newbury. Sau khi dạo trong cửa hàng đồ chơi, April đã tạm biệt hai bố con để tới phòng tranh. Matthew hạnh phúc khi thấy trong mắt Emily vẫn lấp lánh niềm vui. Anh hỏi con bé muốn xin những món quà nào trong bức thư gửi ông già Noel. Emily rút ipad từ trong chiếc ba lô nhỏ xíu ra rồi hỏi liệu có thể gửi một bức thư điện tử cho ông già Noel được không nhưng Matthew từ chối. Xu hướng đưa công nghệ vào tất cả chiều kích của cuộc sống thường ngày càng lúc càng khiến anh phát bực. Đặc biệt là ngày hôm nay.

Món bánh kẹp tôm hùm vừa được mang ra thì điện thoại của anh đổ chuông. Người gọi là Vittorio. Connie vẫn chưa về, nhưng anh vẫn tự tiến hành tìm kiếm và đã tìm ra chính xác cái ngày xuất hiện cô gái tự nhận có hẹn trước với Matthew!

– Hôm qua là vừa tròn một năm: ngày 20 tháng Mười hai năm 2010.

Matthew nhám mắt lại, thở dài. Cơn ác mộng vẫn tiếp diễn.

– Nhưng thế vẫn chưa hết đâu, ông chủ nhà hàng nói tiếp. Cậu nên nhớ là tớ còn có hẳn một đoạn băng ghi lại hình ảnh rõ ràng.

– Của ai kia?

– Cô gái đó.

– Cậu đùa sao?

– Để tớ giải thích cậu nghe: tháng Mười một năm ngoái, nhà hàng của bọn tớ đã bị trộm đột nhập và phá phách hai lần vào ban đêm, mà hai vụ xảy ra cách nhau có vài ngày.

– Tớ vẫn nhớ. Cậu nghĩ đó là trò bẩn của anh em nhà Mancini.

– Đúng đấy, họ không bao giờ chấp nhận chuyện bọn tớ mở nhà hàng cạnh tranh với họ, nhưng tớ chưa bao giờ chứng minh được giả thiết đó. Tóm lại, hồi đó cả cảnh sát lẫn hãng bảo hiểm đều khuyên bọn tớ nên trang bị camera giám sát. Trong khoảng ba tháng trời, các camera này đã hoạt động hai tư trên hai tư giờ. Mọi hoạt động đều được ghi hình, chuyển tới một máy chủ và lưu vào ổ cứng.

– Và cậu đã tìm ra những hình ảnh ghi lại được tối hôm 20 tháng Mười hai?

– Chính xác. Mà thậm chí tớ còn tìm ra cả cô gái đó nữa. Người khách nữ duy nhất đi một mình tối hôm đó.

– Bất ngờ quá, Vittorio ạ! Cậu gửi cho tớ một bản sao nhé?

– Tớ gửi mail rồi đấy, anh bạn.

Matthew dập máy rồi lấy từ trong túi ra chiếc laptop để kết nối với mạng wifi của Bistrot 66. Vẫn không có mail nào từ Emma Lovenstein, nhưng thay vào đó lại có mail của Vittorio. Đoạn băng video khá nặng và phải mất một lúc lâu mới tải được xuống.

– Con ăn một chiếc bánh phồng sô cô la loại nhỏ được không bố?

– Không được đâu, con yêu, bố con mình đã nhất trí là không có món tráng miệng nữa rồ mà. Ăn nốt bánh của con đi.

Matthew cho phát đoạn video ở chế độ toàn màn hình. Không có gì đáng ngac nhiên khi hình ảnh mờ xỉn và nhiều chằng chịt như thường thấy ở các camera giám sát. Đoạn băng Vittorio đã tách riêng có độ dài chưa đầy hai phút. Camera được đặt cố định ở vị trí khá cao trong một góc phòng chính. Đồng hồ kỹ thuật số hiển thị góc dưới màn hình cho thấy vào lúc 20 giờ 01 có một cô gái ăn vận thanh lịch đẩy cửa bước vào nhà hàng. Có thể thấy cô gái đó trao đổi ngắn gọn với Connie trước khi ra khỏi khuôn hình. Một màn hình toàn vệt nhiễu chỉ ra rằng đoạn băng đã được cắt xén, cảnh tiếp theo diễn ra sau đó chừng tiếng rưỡi đồng hồ, chính xác vào lúc 21 giờ 29. Có thể thấy rõ vẫn cô gái đó đang rời khỏi nhà hàng không chút nấn ná. Rồi hình ảnh nhòe đi và đoạn băng ngưng chiếu. Matthew mở ra xem lại lần nữa rồi ấn nút PAUSE để tạm dừng hình ảnh chính xác ở thời điểm khi cô gái bước vào nhà hàng. Không nghi ngờ gì nữa. Đó đúng là Emma Lovenstein, thật điên rồ quá sức tưởng tượng.

– Khoác áo măng tô vào nào con yêu, chúng ta đi thôi.

Matthew lấy từ túi áo ra ba tờ 20 đô rồi rời khỏi nhà hàng mà không chờ tiền trả lại.

***

– Anh phải đứng lớp gấp, April ạ. Em cho anh mượn ô tô và trông Emily giúp anh khoảng một hai tiếng nhé.

Bế con gái trên tay, Matthew vừa lao vào gallery nơi cô gái cùng thuê nhà với anh làm quản lý. Bốn phía tường của phòng trưng bày treo đầy những bức xuân hoa khắc gỗ của Nhật Bản và những bức ảnh phong tình chụp trong các chốn ăn chơi hưởng lạc đầu thế kỷ XX. Không gian còn dành chỗ cho những bức tượng Phi châu không chút úp mở, một triển lãm những loại khổ hình ống và những tác phẩm điêu khắc hiện đại mang hình dạng sinh thực khí nam khổng lồ. Ngay cả khi nơi này không liên quan gì tới một sex-shop thì nó cũng không phải nơi dành cho loại người cả thẹn hay trẻ em.

Matthew rảo bước ngang qua căn phòng để gửi Emily vào “nương náu” trong phòng làm việc của April.

– Con nhớ phải thật ngoan và chờ bố ở đây nhé, đồng ý không con yêu?

– Không ạ! Con muốn về nhà!

Anh lấy chiếc máy tính bảng ra khỏi ba lô của con bé rồi đề xuất:

– Con muốn xem phim không? Gia đình mèo Aristocats? Hay Cáo và chó săn?

– Không ạ, mấy phim đó chán lắm! Con muốn xem Trò chơi vương quyền!

– Không được, phim đó quá bạo lực. Thứ đó không dành cho các bé gái.

Emily cúi đầu rồi khóc váng lên. Matthew day day thái dương. Anh bị đau nửa đầu còn con gái anh thì đã thấm mệt, kích động vì đã chạy khắp Toys Bazaar. Con bé ngủ trưa, yên ổn nằm trên giường riêng chứ không phải xem một xê ri phim dành cho người lớn trong căn phòng đợi của một lãnh địa khiêu dâm thế này.

April tới chi viện.

– Em nghĩ tốt hơn hết là em nên về nhà cùng Emily.

– Cảm ơn em! Anh chỉ bận tối đa một tiếng rưỡi thôi.

– Giờ giảng gì thế?

– Anh sẽ kể cho em nghe sau, anh hứa.

– Anh để ý giúp em chiếc xe nhé! cô vừa rào đón trước vừa quăng cho anh chùm chìa khóa.

***

Matthew đi lấy chiếc Camaro đậu dưới hàng cây cổ thụ của đại lộ Commonwealth. Như thể đang đi làm, anh rời Back Bay theo lối cầu đại lộ Massachusetts bắc qua sông rồi tiếp tục quãng đường tới Cambridge. Anh vượt qua trường đại học rồi vòng qua hồ Fresh Pond rộng mênh mông, sau đó tiếp tục lái xe nhiều ki lô mét nữa để tới Belmont. Anh cần phải gặp lại người đàn ông đã bán cho anh chiếc máy tính xách tay. Địa chỉ người khách hàng của April vẫn lưu trong thiết bị GPS, điều này cho phép anh dễ dàng tìm tới con phố hai bên nhà cửa san sát thuộc khu phố dân sinh. Lần này, anh đỗ xe ngay trước ngôi nhà ốp ván gỗ với phần mái y hệt mái giáo đường. Trước cánh cổng chính, anh được chào đón bằng những tiếng gầm gừ của chú chó giống Shar-pei với bộ lông màu sáng mà anh đã để ý từ hôm mua đồ thanh lý dọn nhà. Rụt cổ trong những nếp da nhăn không khác nào trong một chiếc áo choàng quá rộng, chú chó đứng thủ thế vẻ vừa cảnh giác vừa khiêu khích.

– Clovis! Đây cơ mà! người chủ vừa ra tới ngưỡng cửa bèn hét lên.

Trong khi người đàn ông băng qua bãi cỏ để tới chỗ anh, Matthew nhận ra cái họ khắc trên chuông: Lovenstein.

– Anh muốn gì?

Đây đúng là người đã nhượng lại cho anh chiếc MacBook cũ. Vẫn dáng người cao gầy ấy, vẫn cặp kính gọng vuông ấy, vẫn bộ trang phục của nhân viên nhà tang lễ ấy.

– Xin chào, anh Lovenstein, anh có thể dành cho tôi vài phút không?

– Về chuyện gì vậy?

– Cách đây hai ngày, anh đã bán cho tôi một chiếc laptop, trong đợt bán thanh lý đồ đạc mà…

– Đúng, tôi nhận ra anh rồi, nhưng xin báo để anh biết, tôi không làm dịch vụ hậu mãi đâu.

– Không phải chuyện đó. Tôi chỉ muốn hỏi anh vài câu. Tôi vào nhà được chứ?

– Không. Dạng câu hỏi gì thế?

– Anh đã nói chiếc máy tính này vốn thuộc về em gái anh, điều đó chính xác chứ?

– Ùm, anh ta trả lời cụt ngủn.

Không hề nản chí, Matthew lấy từ trong túi áo măng tô ra những bức ảnh anh đã in sẵn.

– Em gái anh có phải người phụ nữ xuất hiện trong những bức ảnh này không?

– Phải, đây là Emma. Làm sao anh có được những bức ảnh này…

– Chúng được lưu trong ổ cứng của máy tính. Nếu anh muốn tôi sẽ gửi qua mail cho anh.

Người đàn ông lặng lẽ lắc đầu.

– Anh có thể cho tôi biết giờ Emma đang ở đâu không? Matthew nói tiếp. Tôi rất muốn nói chuyện với cô ấy.

– Anh muốn nói chuyện với con bé ư!

– Đúng vậy, chuyện riêng tư thôi. Và khá quan trọng.

– Anh vẫn có thể thử xem sao, nhưng tôi không tin là Emma trả lời anh đâu.

– Tại sao vậy?

– Bởi vì con bé mất rồi.

Bình luận