Tình yêu là một kiểu chiến tranh.
OVIDE
Từ: Matthew Shapiro
Tới: Emma Lovenstein
Tôi không hiểu tại sao cô lại nổi giận, Emma ạ. Thậm chí tôi còn thấy cơn giận ấy kỳ cục và không đúng lúc. Sao cô lại có thể từ chối giúp tôi nhỉ?
Matt
Từ: Emma Lovenstein
Tới: Matthew Shapiro
Tôi đâu có nói là sẽ không giúp anh.
E.
10 giây sau.
Nhưng cô cũng đâu có nói là sẽ giúp!
Nếu cô từ chối ngăn chặn vụ tai nạn xảy ra cho Kate thì cô sẽ là tòng phạm gây ra cái chết của cô ấy!
10 giây sau.
Thôi nói với tôi bằng cái giọng ấy đi! Và cùng đừng đe dọa hay khiến tôi cảm thấy tội lỗi nữa!
Nhưng đây là mạng sống của vợ tôi đấy, đồ điên!
Chớ có bao giờ gọi tôi là đồ điên nữa!
Vậy thì hãy làm những gì tôi nói với cô, hiểu chứ?
Nếu không thì sao? Anh sẽ báo cảnh sát bắt tôi chắc? Anh sẽ tìm tới nhà tôi ở thời điểm 2011 chắc?
Quả là tôi khó có thể làm như vậy…
Tại sao?
2 phút sau.
Tại sao thế?
1 phút sau.
Vì năm 2011 thì cô đã chết rồi, Emma ạ…
Sao anh lại nói vậy?
Vì sự thật là vậy đấy. Bất hạnh thay.
Anh nói dối…
1 phút sau.
Anh nói dối!
Hoang mang, cô đợi thêm năm phút nữa cho tới khi một bức mail mới hiển thị trên màn hình. Người gửi là Matthew, nhưng bức mail chỉ chứa một tệp tin đính kèm dạng PDF. Cô mở ra trong tâm trạng e sợ. Đó là một bài báo của tờ The White Plains Daily Voice, tờ báo địa phương của một thành phố thuộc vùng ngoại ô New York.
THẢM KỊCH TẠI WHITE PLAINS: một phụ nữ trẻ lao vào tàu hỏa
Chiều qua, một phụ nữ ba mươi tư tuổi đã tự vẫn vào khoảng hơn 15 giờ, bằng cách lao vào đoàn tàu hỏa đang chạy qua White Plains. Tàu North Railroad chạy hướng Wassaic-New York vừa rời ga được khoảng một ki lô mét thì một phụ nữ bất ngờ lao ra từ một chỗ rẽ nhằm thẳng đầu tàu. Bị bất ngờ, người lái tàu đã kéo phanh, nhưng không thể làm gì để ngăn chặn thảm họa.
Cảnh sát và cứu thương có mặt tại hiện trường cùng lúc, nhưng chỉ có thể lập một biên bản chứng tử: cái xác nát bươm của người phụ nữ trẻ này vẫn nằm sõng soài trên đường ray.
Nạn nhân, Emma L., người gốc New York, đã được nhận dạng nhanh chóng nhờ các giấy tờ tùy thân tìm thấy trên người cũng như một lá thứ viết tay nhét trong ví, và trong lá thư đó cô giải thích nguyên do dẫn tới hành động tuyệt vọng của bản thân.
Do tâm lý thiếu ổn định nên từ nhiều năm nay, người phụ nữ trẻ này đã được bác sĩ tâm lý theo dõi.
Sau khi thảm kịch xảy ra, giao thông đường sắt bị gián đoạn cả hai chiều suốt hơn hai tiếng đồng hồ, trong lúc tiến hành các thủ tục pháp lý và di chuyển xác nạn nhân…
Phải tới sau 17 giờ, giao thông trên tuyến Harlem Line mới có thể bình thường trở lại.
The White Plains Daily Voice – 16 tháng Tám năm 2011
***
Emma cảm thấy cổ họng tắc nghẹn. Một cơn rùng mình khiến cô đờ ra trong vòng vài giây. Bàng hoàng, cô đóng màn hình máy tính rồi vội vã rời khỏi bệnh viện. Ra tới bãi đỗ xe, có bắt đầu chạy như thể cái chết đang rượt đuổi đằng sau. Hai mắt cô nhòa đi. Tuyệt vọng, hoảng loạn, cô lang thang vô định qua các phố, đầu cúi gằm, bị nỗi sợ hãi quật ngã. Ánh nắng phản chiếu trên tuyết hòa lẫn với nước mắt cô, khiến cho tầm nhìn của cô ra thế giới xung quanh bị biến dạng. Trên đường đi, cô va phải những người đi bộ và băng qua một đường phố lớn giữa lúc xe cộ qua lại đông đúc, nhận về một loạt tiếng còi xe cùng những tràng rủa xả. Kiệt sức, cô bước vào quán cà phê đầu tiên gặp trên đường.
Cô chọn ngồi vào góc trong cùng của quán và lả đi trên ghế hồi lâu. Khi nhân viên phục vụ bàn tiến lại gần chỗ cô ngồi, cô gạt nước mắt, cởi áo măng tô ra rồi gọi một ly vodka tonic. Thậm chí cô còn cuống cuồng lục tìm mấy vỉ thuốc trong túi xách trước cả khi đồ uống được mang ra. May thay, cô vẫn luôn mang theo mình “tủ thuốc cá nhân di động”. Cô thuộc lòng các loại thuốc và liều dùng: hai viên an thần và hai giọt chống loạn thần. Cô nuốt món cocktail thuốc chống trầm cảm và an thần, rồi nhờ phép màu của phản ứng hóa học, gần như ngay tức khắc tìm lại được một vẻ ngoài cân bằng. Dẫu sao cũng đủ để lôi chiếc laptop ra và đọc lại bài báo thông tin về vụ tự tử của mình.
Đó là một cảm giác lạ lùng: hay tin về cái chết của chính mình qua tờ nhật báo buổi chiều… Lạ kỳ thật, nhưng không đến mức quá kỳ dị. Vậy là như thế đấy, cô lại một lần nữa biến suy nghĩ thành hành động. Và lần này, cô đã không thất bại.
Đúng vậy đấy, cô gái, ít ra ta cũng có thể nói cô đã rút được bài học kinh nghiệm từ những sai lầm, cô trâng tráo nghĩ. Đúng thật là con tàu này hiệu quả hơn những viên thuốc ngủ hoặc trò cắt mạch máu…
Cô nhìn ngày tháng trên tờ báo: cô đã tự vẫn ngày 15 tháng Tám năm sau, ngay giữa mùa hè. Thời điểm cô e ngại nhất ở New York: thời điểm mà bầu không khí nóng nực, ẩm thấp và ngột ngạt luôn kích hoạt những cơn đau nửa đầu nặng trĩu khiến tâm trạng của cô trở nên bất ổn.
Nhưng ngày tháng nào có quan trọng gì. Đã từ rất lâu rồi cô luôn sống với ý nghĩ muốn kết thúc cuộc đời mình, đến mức chuyện đó hẳn sẽ xảy ra, chỉ là ngày này hay ngày khác mà thôi. Cô lại nhớ tới cơn khủng hoảng tự vẫn đầu tiên đã trải qua trong đời. Trạng thái đó vẫn mãi khắc sâu trong cô. Một nỗi đau tâm lý khó lòng chịu thấu mà cô không biết làm cách nào để ngăn lại. Một nỗi tuyệt vọng nhấn chìm cô. Một nỗi cô đơn cùng cực, một sự hỗn loạn, bản thân hoàn toàn bị nỗi sợ hãi xâm chiếm. Một sự bào mòn ý thức bởi những ý nghĩ bệnh hoạn mà cô không thể kiểm soát.
Bước chuyển sang hành động của cô chẳng có gì hợp lý. Trong một sự bột phát cuối cùng, cô đã từ bỏ cuộc chiến đấu, lựa chọn sự tự do sau cùng này mà thực ra cũng chẳng phải là một sự tự do. Cô đóng laptop lại, xì mũi vào tờ khăn giấy rồi gọi thêm một ly cocktail. Lúc này, các loại thuốc đã phát huy đầy đủ công dụng. Tất cả đám phân tử hóa học mà cô nốc từ nhiều năm qua ít ra cũng được cái tác động nhanh chóng và cho cô một chỗ dựa vào bất cứ lúc nào ngăn cô khỏi chìm nghỉm. Cô cố gắng nhìn nhận mọi sự dưới một góc độ mới mẻ. Thế nếu cú sốc này có khả năng cứu nguy thì sao nhỉ? Nói cho cùng, thông tin về vụ tự tử của cô có thể được coi như cơ hội thứ hai mà cuộc sống ban tặng. Cô cũng sẽ đánh bại tương lai. Cô không muốn tự sát. Không muốn kết thúc như một mớ giẻ dưới gầm tàu hỏa. Cô sẽ đánh bại lũ quỷ. Con quỷ trong cô. Bấy lâu nay cô vẫn biết gót chân Asin của mình, cội nguồn của mọi nỗi đau trong cô: cảm giác cô đơn và bị ruồng bỏ này luôn bóp nghẹt cô. Cô nhớ lại câu của Emily Dickinson được cô chép vào nhật ký thời trung học: “Để bị ám thì chẳng cần phòng chẳng cần nhà, bộ não sẵn có những hành lang đoạn này lại ngoắt ngoéo hơn đoạn khác.” Emma bị nỗi cô đơn và sự bất an trong tình cảm ám ảnh. Mỗi tối, cô đều cảm thấy chán ngán thêm một chút bởi viễn cảnh sẽ trở về nhà mình mà không gặp được một ai. Cô cần một cuộc sống được gây dựng vững vàng. Bằng một người đàn ông mạnh mẽ, một đứa trẻ, một ngôi nhà. Từ tuổi niên thiếu, cô vẫn rình chờ người đàn ông đó, người có thể hiểu được cô. Nhưng anh ta không đến. Và niềm tin chắc rằng anh ta sẽ không đến khiến cô hao mòn. Hôm nay cô có một mình. Ngày mai và ngày kia cô cũng vẫn chỉ có một mình. Cô sẽ chết trong cảnh đơn chiếc thôi.
Tuy thế, buổi chiều nay, điều gì đó đã xui khiến cô đừng cam chịu và hình mẫu tương lai lý tưởng của cô đột nhiên xuất hiện ngay trước mắt với vẻ sáng rõ như pha lê: cô muốn có cuộc sống giống như Kate Shapiro.
Chính xác hơn, cô muốn chính cuộc sống của Kate Shapiro.
Thế vào chỗ của chị ta.
Ý nghĩ len lỏi hình thành trong tâm trí cô giữa một sự pha trộn cảm giác ghê tởm lẫn hấp dẫn.
Cô xem xét lại cách mà toàn bộ câu chuyện này bắt đầu. Bằng một cuộc trò chuyện từ xa, cô đã lấy được cảm tình của Matthew. Cô đã quyến rũ được anh mà vẫn là chính mình. Cô biết cách khiến anh quý mến đến mức ngay ngày hôm sau anh đã mời cô dùng bữa tại nhà hàng. Anh đã không ngần ngại đáp máy bay tới New York chỉ để ăn tối cùng cô. Giờ đây, cô chắc chắn một điều: nếu có thể gặp nhau như đã định, họ sẽ phải lòng nhau. Cô hẳn sẽ thay thế Kate trong trái tim anh. Cô hẳn sẽ là một người mẹ tốt đối với Emily. Một người vợ đáng yêu đối với Matthew.
Có điều Kate vẫn còn sống sờ sờ.
Nhưng không còn lâu nữa.
Cô gạt phăng toàn bộ cảm giác tội lỗi.
Cô không phải người quyết định cái chết này.
Mà chính là số phận, sự tình cờ, cuộc đời. Có lẽ là Chúa nếu như ngài tồn tại…
Cô vừa uống một ngụm rượu vừa tiếp tục dòng suy tưởng. Khi rơi vào trạng thái kích động, những ý nghĩ thoạt đầu phun tóe ra rồi dần vào chỗ như những mảnh ghép hình để tạo nên một lối ứng xử mạch lạc. Lần này là một kế hoạch tác chiến không thể ngăn cản. Nó xuất phát từ một ghi nhận hết sức đơn giản: “Matthew của 2011” không hề có ảnh hưởng nào lên cô bởi lúc đó cô đã chết rồi. Đó là phương diện tích cực của cái chết: nó khiến chúng ta trở nên không thể bị tác động. Vậy thì Matthew tay không, không có cách nào gây sức ép để buộc cô phải cứu Kate.
Và cô sẽ không làm điều đó.
Cô sẽ để mặc cho vụ tai nạn xảy ra. Cô sẽ lờ đi những bức mail của anh, cô sẽ quay về New York, sẽ trở lại với công việc và chờ đợi cho thời gian trôi qua. Cô sẽ không tự tử vào tháng Tám tới đây nữa. Bởi từ nay cô đã có một lẽ sống hết sức hợp lý…
Giờ thì cô đã hiểu tại sao Matthew lại sở hữu chiếc laptop của cô và nếu cô không tự tử, anh trai cô sẽ không được thừa kế đồ đạc của cô nên sẽ không thể bán lại chiếc laptop của cô được, còn Matthew không thể mua nó. Điều này có nghĩa rằng anh sẽ không bao giờ liên lạc với cô qua mail vào tháng Mười hai năm 2011.
Kịch bản này có ổn không nhỉ? Tình huống cô đang trải qua hiện giờ bất chấp toàn bộ logic. Trong những bộ phim hoặc tiểu thuyết hư ảo, cô chưa bao giờ hiểu được cái vòng luẩn quẩn của các nghịch lý thời gian. Nhưng anh trai cô vốn giảng dạy vật lý trong trường đại học từng nói với cô về những nhà khoa học đặt ra giả thiết về sự tồn tại của những vũ trụ song song với vũ trụ của chúng ta, thậm chí những vũ trụ nhân bội mà trong đó tất cả các khả năng được thực hiện trên những dòng thời gian khác biệt.
Có lẽ tồn tại một “dòng thời gian” nơi cô có thể gặp một Matthew góa vợ, người không hề có chút ký ức về những cuộc trò chuyện trước đó giữa họ. Một Matthew mà cô biết cách khiến cho yêu cô. Một Matthew có một đứa con gái mà cô hẳn sẽ biết cách chăm sóc.
Đắc ý, cô quyết định kiên trì thực hiện kế hoạch này. Cô thanh toán hóa đơn rồi quay lại khách sạn. Màn đêm vẫn chưa buông, nhưng cô vẫn kéo kín rèm. Đầu óc cô quay cuồng. Vì sợ một cơn hỗn loạn nữa lại hình thành trong tâm trí mình, cô uống thêm hai viên chống trầm cảm nữa rồi đi nằm luôn.
***
2011
– Bố ơi, cho con xem SOS Fantômes nhé?
Matthew ngước khỏi màn hình máy tính.
Đang nằm trên trường kỷ trước ti vi, Emily vừa đánh chén hai gói M&M’s thay cho bữa trưa.
– Con đã xem phim đó cả chục lần rồi còn gì…
– Vâng ạ, cô bé cười. Nhưng con vẫn muốn xem khi bố đang ngồi đó! Như thế con đỡ sợ hơn!
– Nhất trí, anh đầu hàng.
Từ đằng xa, anh quan sát con bé đặt đĩa DVD vào đầu đọc rồi bật xem “như người lớn”.
Đó là ngày đầu tiên trong kỳ nghỉ của trường học và cô nhóc con đã dậy muộn. Hôm nay anh quyết định nới lỏng kỷ luật – kẹo bánh thả cửa và xem ti vi tùy thích, phần nhiều là vì tiện cho bản thân chứ không phải vì cho thế là đúng. Quả thực, toàn bộ năng lượng của anh đều bị hút theo Emma Lovenstein.
Matthew giận bản thân vô cùng. Quá muộn anh mới hiểu mình sai lầm biết bao khi cáu bẳn với người duy nhất có khả năng mang vợ về với mình. Sao anh có thể để cho cơn giận của bản thân mặc sức hoành hành trong khi sẵn biết tâm lý Emma rất yếu đuối? Anh vừa gửi cho cô hai bức mail xin lỗi mà vẫn chưa nhận được hồi âm. Hiện tại, anh đang đối diện với một phụ nữ bất ổn đang sắp trở nên không thể kiểm soát nổi. Nhất là người đó lại đang nắm giữ một lợi thế mang tính quyết định so với anh. Trong khi người phụ nữ trẻ này có toàn quyền để thay đổi tương lai thì anh lại không thể can thiệp vào bất cứ chuyện gì. Kể từ giờ, anh buộc phải chờ Quý cô Lovenstein chấp nhận nối lại liên lạc.
Tình huống bất cân xứng này thật khó lòng chịu đựng. Lúc này là ngày 22 tháng Mười hai. Chỉ còn hai ngày nữa để tránh vụ tai nạn dẫn tới việc anh mất Kate. Anh nhắm mắt lại rồi dùng hai tay ôm đầu để tập trung suy nghĩ hơn. Emma đã chết, dĩ nhiên, nhưng có lẽ vẫn còn có ai đó cô nàng gắn bó và anh có thể gây sức ép được. Nhưng ai mới được? Ông anh trai Daniel chăng? Lầm to. Theo những gì anh hiểu, rõ ràng ông anh trai và cô em gái không yêu mến nhau cho lắm. Bố mẹ cô nàng? Daniel từng nói với anh rằng mẹ họ đã qua đời còn bố họ đang mắc Alzheimer rất nặng. Bạn bè ư? Rõ ràng là cô không hề có bạn.
Đó là sinh vật duy nhất không bao giờ phản bội tôi…
Câu nói đó văng vẳng như thể Emma đang thì thầm vào tai anh.
Chú chó của cô nàng! Clovis trứ danh!
Nó thì vẫn sống nhăn!
Nhận thức này vực dậy tinh thần anh. Anh vừa tìm ra một cách tối ưu để gây sức ép với Emma!
Anh đứng dậy rồi dùng điều khiển từ xa tắt tivi.
– Đi thay quần áo nhanh nào con yêu, bố con mình đi dạo!
– Nhưng phim của con…
– Để tối nay xem tiếp, con yêu.
– Không đâu, con muốn xem bây giờ cơ!
– Thế nếu bố bảo ta sẽ đi tìm một chú chó nhỏ để nuôi trong dịp lễ này thì sao nhỉ?
Cô nhóc nhảy cẫng lên vui sướng.
– Thật không bố? Mình sẽ nuôi một chú chó thật ạ? Từ lâu nay con đã muốn có một chú chó rồi! Cảm ơn! Cảm ơn bố!
***
– Anh muốn em giúp anh bắt cóc một con chó sao?
– Đúng đấy, April. Hoan nghênh sự giúp đỡ của em trong lần tác chiến khó khăn này, Matthew khẳng định.
– Mà sao anh lại muốn làm chuyện này? Cô gái vừa hỏi vừa đứng dậy rời khỏi bàn làm việc.
– Lúc nào vào trong xe anh sẽ kể em nghe, Matthew cam đoan.
– Bởi vì thêm nữa, chúng ta sẽ dùng xe của em?
– Anh e là khó mà chở một chú chó trên yên sau xe đạp của anh.
Anh đang đứng phía trước cô, bế con gái trên tay, một hộp dụng cụ kim loại đặt dưới chân.
– Anh có biết là vì chuyện này chúng ta có thể đi tù không Matt?
– Chúng ta sẽ đủ khôn lanh để không bị tóm chứ. Chính vì thế nên anh mới cần đến bộ óc sexy của em.
– Nếu anh tin rằng chính với cách khen ngợi như thế mà…
– Giờ thì đi thôi, xin em đấy. Chuyện này hết sức quan trọng đối với anh.
– Chó thì hay cắn lắm đấy, anh biết chưa?
– Con chó này nhỏ xíu thôi.
– Nghĩa là sao?
– Có lẽ em vẫn còn nhớ: chính là con chó của anh trai Emma Lovenstein. Em đã nhìn thấy nó trên bãi cỏ tại khu thanh lý dọn nhà đó.
– Con chó giống Shar-pei! Anh vừa nói là em vẫn còn nhớ kia mà! Đấy đâu phải một chú chó nhỏ hả Matt. Con chó ngao đó nặng ít nhất 40 cân và đó là một khối cuồn cuộn cơ bắp!
Emily buông tay bố rồi chạy vội đến ôm ngang người April.
– Cháu xin cô đấy, April, giúp bố con cháu với! Giúp bố con cháu đi cô! Cháu muốn nuôi một chú chó nhỏ từ lâu ơi là lâu rồi. Nhé cô! Đi mà cô!
Cô chủ gallery nhìn Matthew chằm chằm vẻ trách cứ.
– Anh không có quyền biến con bé thành công cụ để đạt được mục đích! Cô vừa nói vừa với lấy áo khoác.
***
Matthew ngồi vào sau tay lái chiếc Camaro. Chiếc xe rời trung tâm Boston rồi nhằm thẳng hướng Belmont.
– Được rồi, anh giải thích xem nào? April yêu cầu.
Anh chờ khi đến đèn tín hiệu; tới đó, anh mới quay sang Emily rồi chìa cho cô nhóc một cặp tai nghe.
– Con có muốn nghe nhạc không con yêu?
Dĩ nhiên là cô nhóc muốn!
Anh chờ cho con gái đeo tai nghe vào rồi mới kể cho April nghe những dự định của mình. Cô để cho anh kể xong rồi mới tóm tắt lại:
– Vậy là, anh nghĩ việc bắt cóc con chó tội nghiệp này sẽ giúp vợ anh sống lại?
– Đúng thế, một cách gián tiếp, như anh vừa giải thích với em đấy.
– Em không mảy may tin vào toàn bộ câu chuyện máy tính xách tay cho phép liên lạc xuyên thời gian này.
– Vậy em giải thích sao về đoạn băng ghi hình giám sát của Vittorio, bài báo về vụ sòng bạc, các…
– Em không giải thích gì hết, cô ngắt lời anh. Và em rất muốn giúp anh vì anh là bạn em, nhưng em nghĩ không ai từng khiến người chết sống lại được, và sẽ không ai làm nổi chuyện đó. Kate đã qua đời. Anh sẽ không gặp lại chị ấy nữa, Matt ạ, hãy tin rằng em rất lấy làm tiếc về chuyện đó. Chị ấy ra đi đã khiến anh tàn tạ, nhưng đến một thời điểm nào đó, cần phải để cho người chết ra đi. Đừng tự buộc mình vào ý tưởng ngu ngốc này, em xin anh đấy. Anh đang bắt đầu khá hơn. Việc tậu về chiếc laptop đã gây ra một cơn tái phát; nếu anh kiên trì đi theo con đường này thì anh sẽ càng tự khiến mình đau thêm và nhất là anh sẽ khiến con gái anh đau lòng.
Matthew liếc cô bạn bằng ánh mắt hình viên đạn và không thèm nói thêm lời nào với cô cho tới tận Belmont. Giống như hôm qua, anh đậu xe trước ngôi nhà lát gỗ của khu phố dân sinh nhỏ bé. May thay, Emily đã thiu thiu ngủ trên băng ghế sau. Matthew và April ra khỏi xe để quan sát xung quanh. Bây giờ là 4 giờ chiều. Khu phố vắng tanh vắng ngắt. Matthew tiến đến cổng chính và bấm chuông để an tâm rằng bên trong không có ai. Không có tiếng đáp ngoại trừ tràng sủa của chú chó Shar-pei, đúng là giống chó giữ nhà, nó đang lao ra hàng rào để ngăn các vị khách không tiến lại quá gần ngôi nhà.
– Xin chào, Clovis, Matthew lên tiếng.
– Con chó này không chỉ không nhỏ, mà hơn nữa, nó còn đang khua cả khu phố ra. Được thôi, ít ra anh cũng lên kế hoạch rồi chứ?
– Dĩ nhiên, anh đáp rồi rút từ trong túi áo khoác ra một chiếc túi xách bằng nhựa.
– Thứ đó là gì vậy? Nó bốc mùi khó chịu quá, thối inh lên!
– Đây là hai miếng bít tết băm vụn được rã đông trong lò vi sóng, anh đã nặn thành chả viên…
– … trộn với thuốc ngủ, April đoán. Có phần độc đáo đấy.
– Bác sĩ đã kê cho anh thuốc ngủ khi Kate qua đời. Anh vẫn còn vài viên.
– Kế này sẽ không bao giờ thành công được đâu, cô tuyên bố. Thế còn kế hoạch B của anh là gì?
– Dĩ nhiên là kế hoạch này sẽ thành công.
Cô lắc đầu.
– Giả sử con chó không ọe ra mấy viên chả và anh đã định đủ liều thuốc thì cũng phải mất đến ba tiếng sau nó mới ngủ, thêm nữa, nó sắp ngơ ra ấy chứ. Từ giờ đến lúc đó, chủ của nó sẽ quay về hoặc một trong số hàng xóm sẽ gọi cho cảnh sát…
– Đừng bi quan thế. Anh thử đã, Matthew quyết định và quăng hai viên thịt to sang bên kia rào.
Nghi ngại, Clovis hít ngửi hai viên thịt hồi lâu. Vẻ hơi coi thường, nó nuốt chửng nửa viên, nhưng không hề tỏ ra thích thú với vị chả, nó ngay lập tức ngó lơ chỗ chả viên và lại bắt đầu sủa to hơn.
– Em đã nói thế nào ấy nhỉ?
– Ta cứ vào trong xe chờ thêm vài phút xem sao, Matthew đề nghị.
Họ yên lặng chờ thêm bốn mươi lăm phút dài dằng dặc nữa mà không có kết quả gì. Tay gác cổng trung thành và hắc ám trước cổng Địa ngục dường như xem thường họ. Bóng tối dần buông. Họ bắt đầu gà gật thì tiếng chuông điện thoại của April vang lên đầy huyền ảo khiến họ giật bắn. Cô chủ gallery ấn phím từ chối cuộc gọi nhưng Emily đã giật mình thức giấc.
– Mình đến chưa bố? Mình đang ở nhà của chú chó nhỏ ạ? Con bé vừa dụi mắt vừa hỏi.
– Phải đấy, con yêu, nhưng… bố không chắc nó có đồng ý đi cùng chúng ta không.
– Bố đã hứa với con… con bé bắt đầu rơm rớm nước mắt.
Matthew thở dài, day day hai bên thái dương.
– Anh nghiên cứu kế hoạch này kỹ lưỡng quá nhỉ, April nói với anh giọng đầy trách móc. Nó sẽ dạy cho anh biết…
Cô bỗng ngưng giữa chừng trước khi reo lên:
– Này Matt, con chó đâu rồi ấy nhỉ?
Anh liếc qua kính xe. Họ chỉ lơ là có một phút mà Clovis đã kịp biến mất.
– Anh không rõ, nhưng để anh đi ra đó xem sao.
Anh ra khỏi xe rồi mở cốp để lấy hộp dụng cụ đã mang theo. Anh vớ lấy một cái kìm to có thể cắt được lưới sắt.
– Anh vẫn để cốp mở nhé, anh cảnh báo. Em cứ khởi động xe nếu thấy cần.
Anh tiến lại gần cánh cổng được tiếp nối bởi một hàng rào gỗ và một hàng rào dây thép. Anh dùng kìm cắt từng sợi dây thép trên tấm lưới mắt cáo rồi liều lĩnh tiến bước trên bãi cỏ.
– Clovis?
Anh thận trọng tiến tới bậc thềm.
– Clovis? Cún ngoan…
Chẳng có ai hết.
Anh đi một vòng quanh nhà và phát hiện ra con chó đang nằm bất động gần một chuồng chó to bằng gỗ sơn.
Khỉ thật, hy vọng nó không chết…
Anh quỳ xuống để nhấc con chó lên.
Chó chết tiệt, nó nặng phải đến ba tấn chứ không ít!
Sau vài bước, anh cảm thấy con chó giống Shar-pei bắt đầu cựa quậy yếu ớt. April nói đúng: chỗ thuốc ngủ khiến con chó ngủ lịm. Nhưng dù vẫn sùi bọt mép, may thay nó không còn hơi sức cắn nữa.
Matthew bắt đầu chạy về phía lối ra. Với “hàng hóa” trên vai, anh lách qua lỗ hổng trên hàng rào. Không quá gượng nhẹ, anh đặt con chó nằm vào trong cốp xe rồi quay lại ngồi cạnh April.
– Em lái đi, ta chuồn thôi! Anh hét lên với cô gái chung nhà.
– Hoan hô bố! Hoan hô! Emily vỗ tay trong khi chiếc Camaro khởi động với tiếng lốp nghiến ken két.
***
21 giờ
Trên đường về, họ ghé vào một cửa hàng thú nuôi để mua một sợi dây dắt, thức ăn cho chó, một bát đựng đồ ăn. Khi đã về đến nhà và con chó tỉnh lại, Matthew chờ đợi điều tồi tệ nhất: những tiếng tru, những tràng sủa hung hăng, thậm chí là một cuộc tấn công. Nhưng trái lại, Clovis đã mở một mắt, thốt ra vài tiếng grừ grừ, lăn một vòng trên sàn nhà rồi uể oải tới nằm trên trường kỷ như thể bấy lâu nay nó vẫn sống trong ngôi nhà này vậy. Sau khi đã hoàn hồn, nó đi vòng quanh phòng khách. Mắt nó tinh anh, các phản xạ sắc bén. Cả gia đình đã dành cả buổi tối để chơi cùng nó và vuốt ve nó. Emily sướng mê tơi và Matthew phải đấu tranh mới đưa được con bé vào giường đi ngủ. Để con bé bằng lòng lên phòng, Matthew đã phải hứa cả chục lần rằng ngày hôm sau Clovis sẽ vẫn ở nguyên đó.
Khi chỉ còn lại một mình trong phòng khách, anh ngồi vào trước màn hình laptop rồi chuyển sang bước thứ hai của kế hoạch.
– Lại đây, Clovis, lại đây nào, chó cưng! Anh dụ nó bằng một bát thức ăn cho chó.
Con vật leo lên ghế tựa nơi Matthew đã chất thêm vào mấy chiếc gối dựa để nó đủ cao.
– Nhìn vào màn hình nào! Mày sẽ được trông thấy một người mà lâu lắm rồi mày không gặp! Nhớ cười tươi vào nhé.
Anh khởi động ứng dụng chat webcam của laptop. Vì phần mềm yêu cầu, anh nhập mật khẩu của mình vào. Được webcam ghi hình, hình ảnh của anh và của chú chó xuất hiện trên màn hình. Để bắt đầu cuộc gọi video, anh mở mail của Emma ra, nhấp chuột và đợi vài giây.
Một hồi chuông.
Hai hồi chuông.
Ba hồi chuông…
***
2010
Emma khó nhọc thức dậy từ giấc ngủ do tác dụng của thuốc gây nên.
Cô liếc nhìn điện thoại di động, nhưng thứ đang đổ chuông không phải là điện thoại. Chính là chiếc laptop ban nãy cô vẫn chưa tắt.
Cô nhìn đồng hồ, nhấc chăn ra rồi tiến vài bước thấp thỏm để ra bàn viết.
Trên màn hình, biểu tượng nhỏ xíu “Face Time” đang nhấp nháy báo hiệu một cuộc gọi đến từ Matthew Shapiro. Cô chưa bao giờ sử dụng ứng dụng này, nhưng vẫn nhấp chuột để nhận cuộc gọi.
Hình ảnh chú chó của cô hiện ra trong lúc cô không hề trông đợi điều này! Đó là Clovis, với cái mõm phính phính, khuôn mặt như trâu nước, đôi mắt nhỏ xíu sâu hoắm và thân hình vạm vỡ đầy nếp nhăn khiến nó trông hệt như một tấm vải nhung lông.
– Clovis!
Nhưng chú chó của cô đang làm gì ở thời điểm năm 2011 trong nhà Matthew Shapiro thế kia?
Đột nhiên, khung hình dịch chuyển sang trái tới mặt và thân trên của Matthew.
– Chào Emma. Cô khỏe chứ? Cô bình tĩnh lại chưa?
– Lạy Chúa, anh đang chơi trò gì thế?
– Như cô vừa nhìn thấy đó, tôi đã làm quen với con cún của cô. Cô từng nói thế nào nhỉ? À phải rồi: “sinh vật duy nhất trên thế gian này không bao giờ phản bội tôi.” Cô gắn bó với nó lắm mà, không phải vậy sao?
– Đồ…
– Thôi nào, đừng sa đà và chuyện rủa xả nữa. Tôi rất gắn bó với vợ, và tôi nghĩ cô chưa đánh giá được đúng mức quyết tâm tìm lại vợ của tôi đâu.
Matthew với tay để tóm lấy thứ gì đó trên bàn làm việc. Một cái giá cắm dao, anh rút ra một con dao dài chừng ba chục phân rồi giơ nó ra trước webcam.
– Đây là một con dao thái thịt, Emma ạ. Cô đã nhìn thấy lưỡi dao rồi đấy: cứng và sắc. Một con dao đẹp, chất lượng tiêu chuẩn Đức… Tôi cũng có một dụng cụ khác nữa: người ta gọi thứ này là dao phay Trung Quốc. Lý tưởng để chuẩn bị món sườn.
– Nếu anh đụng đến dù chỉ một sợi lông của con chó, tôi sẽ…
– Cô sẽ làm gì hả Emma?
Cô lặng đi không nói nên lời. Matthew bèn tấn công:
– Cô thấy rồi đó, tôi hết sức bực mình, Emma: tôi vốn rất yêu động vật. Đúng là Clovis của cô trông rất dễ thương, con gái tôi cũng rất yêu quý nó, nhưng nếu cô không hứa với tôi là sẽ làm mọi điều cần thiết để ngăn cản vụ tai nạn xảy ra cho Kate, tôi sẽ không lưỡng lự một giây nào đâu. Tôi sẽ mổ bụng con chó của cô. Tôi sẽ mổ bụng moi gan ruột của nó ra. Và tôi sẽ làm chuyện đó trước màn hình này để cô không bỏ lỡ giây phút nào của cảnh tượng ấy. Sẽ dài lắm đấy. Dài và đau đớn. Tôi sẽ chẳng vui vẻ gì khi làm chuyện đó đâu, Emma, nhưng nếu cô không cho tôi lựa chọn…
– Khốn nạn!
– Cứ nghĩ đi, nhưng nghĩ nhanh đấy nhé, Emma…
Cô sắp hét lên giận dữ thì Matthew gác máy và hình ảnh biến mất.
Ngày thứ năm