Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Ngày Mai (Demain)

Chương 13: Cuộc đi xuyên gương

Tác giả: Guillaume Musso

Cuộc sống cần những ảo tưởng, nghĩa là những

cái không thực được xem như những cái thực.

Friedrich NIETZSCHE

Boston, 2010

Bip, bip, bip…

Ngay khi bước vào nhà, Emma đã khởi động một tín hiệu âm thanh nhỏ giống như tiếng bộ định vị sóng âm.

Cô khép cửa lại rồi quay về phía hộp báo động. Không thể nhập lại mã để vô hiệu hóa hệ thống: cô nào có biết mã số đó.

Bip, bip, bip…

Còn bao lâu trước khi âm thanh khe khẽ của máy dò nhường chỗ cho một tín hiệu đáng lo ngại hơn? Cô cố nuốt nước bọt mà không thể. Cổ họng cô khô khốc, trán và mồ hôi. Cô dừng sững lại vài giây, bộ dạng hệt như kẻ tử tù đang chờ đao phủ ra tay. Cuối cùng, những tiếng bip cảnh báo cũng ngừng rồi âm thanh đinh tai của còi báo động vang lên khiến bốn bề tường rung chuyển.

Vloiiiiiing! Vloiiiiiing! Vloiiiiiing!

Cô cũng đã chuẩn bị tinh thần đón chờ những âm thanh ồn ã này nhưng vô ích, tiếng chuông chói lói khiến một luồng lo sợ ồ ạt kéo đến trong huyết quản cô. Cô chớm cảm thấy một cơn hoảng loạn. Cô rùng mình. Máu chảy rần rật nơi thái dương. Đúng lúc đó, điện thoại trong túi cô rung lên. Cô nhấc máy rồi nói thật lớn để át đi tiếng chuông.

– Alô

– Bà Kate Shapiro phải không?

– Tôi đây.

– Công ty giám sát Blue Watcher đây, chúng tôi vừa…

– Chuông báo động của tôi, vâng, tôi xin lỗi. Hẳn là do chồng tôi đổi mã mà không báo cho tôi biết trước. Các anh có thể tắt hệ thống báo động đi được không?

– Chỉ cần tiến hành vài bước xác minh theo thông lệ thôi ạ.

Vloiiiiiing! Vloiiiiiing! Vloiiiiiing!

Dù không thể vô hiệu hóa từ xa hệ thống, Romuald cũng đã xâm nhập được vào máy chủ của công ty giám sát. Cậu nhóc đã khéo léo thay đổi số điện thoại liên lạc trong trường hợp hệ thống báo động khởi động, thay vào số di động của Kate và Matthew bằng duy nhất số của Emma. Cậu nhóc cũng đã chụp lại màn hình hồ sơ tiết lộ những câu trả lời cho ba câu hỏi bí mật cần thiết để xác nhận người liên hệ và tắt còi báo động.

– Bố mẹ bà đã gặp nhau tại thành phố nào? Nhân viên hãng hỏi.

Emma cúi xuống để đọc câu trả lời do Romuald gửi cho, cô đã ghi lại trên cổ tay.

– Tại Saint-Pétersbourg.

– Bộ phim bà yêu thích nhất ngày còn bé?

– Những cuộc phiêu lưu của Bernard và Bianca.

­- Bạn gái thân nhất thời sinh viên của bà tên gì?

– Joyce Wilkinson, cô trả lời không chút ngập ngừng.

Chuông báo động lập tức ngừng réo.

– Cảm ơn bà, bà Shapiro. Sau này, hãy yêu cầu chồng bà báo trước cho bà biết trong trường hợp đổi mã.

Emma gác máy rồi thấm khô những giọt mồ hôi đang rịn ra trên trán. Cô lại gần cửa sổ, đứng nép sau rèm. Quảng trường Louisburg vẫn không có động tĩnh gì, nhưng điều này có khả năng không kéo dài.

Cô sẽ nói gì đây nếu như một cảnh sát bấm chuông cửa? Hoặc nếu Matt hay Kate bất thình lình trở về nhà. Cô xua ý nghĩ đó đi rồi quyết định bắt tay vào lục lọi.

Cơn giận của cô đối với Kate tiếp thêm động lực cho cô và ích lợi đầu tiên của nó là giúp cô thoát ra khỏi tình trạng trầm uất, truyền cho cô khao khát muốn tranh đấu vì cô, vì tương lai của cô, vì Matthew…

Emma không rõ mình đang tìm gì. Một bằng chứng xác nhận sự thiếu chung thủy của Kate chăng? Một manh mối có thể vạch ra hướng điều tra về lai lịch của người đàn ông lạ mặt? Dẫu sao thì cô cũng nên vượt qua cái vỏ bọc bên ngoài. Lục lọi trong những góc khuất của ngôi nhà mà không phải ai cũng thấy: các ngăn tủ tường, các tủ đứng, các ngăn kéo, các máy tính, dưới hầm…

Tầng trệt được bố trí như một nhà xưởng cải dụng với một phòng khách rộng rãi và không gian bếp mở. Hệ thống sưởi tỏa ra một hơi nóng dìu dịu. Căn phòng mang lại cảm giác dễ chịu, thân thiện, quen thuộc. Gần trường kỷ là một cây thông Noel giăng đèn nhấp nháy, trên quầy bếp còn vương vụn bánh mì, một hũ mứt quên chưa đậy, một bức tranh của trẻ con đang tô màu dở dang, tờ The New York Times số ra ngày hôm đó đang mở ở mục Văn hóa.

Trên bốn phía tường và trong những khung ảnh đặt trên các tầng giá, có thể thấy nhiều ảnh chụp các thành viên trong gia đình, các bức ảnh đen trắng hẳn là chụp Kate lúc còn nhỏ: một cô bé tóc vàng xinh xắn cùng mẹ bên chiếc dương cầm hoặc tay trong tay đi dạo trên những con phố của một thành phố thuộc Nga – hẳn là Saint-Pétersburg. Rồi những bức ảnh đã phai màu: một cô gái gầy nhom tạo dáng trước Space Needle và sau nữa là một cô sinh viên gần như trắng muốt vận quần jean và đeo ba lô đứng trên bãi cỏ rộng rãi trước gác chuông của đại học Berkeley. Một cú nhảy trong dòng thời gian đã biến cô sinh viên rụt rè ngày nào thành một phụ nữ trẻ tràn đầy tự tin. Đó là Kate của ngày hôm nay, người mà cô đã nhìn thấy, nữ bác sĩ phẫu thuật tự tin vào bản thân mình với ngoại hình ưa nhìn đang tạo dáng cùng chồng và con gái.

Những bức ảnh này gợi lên nhiều câu hỏi, nhưng Emma để sau mới phân tích. Cô rút điện thoại ra, dành ba phút để chụp lại toàn bộ những bức ảnh treo trong phòng. Vào đến bếp, cô cũng chụp lại thời gian biểu hàng tuần của Kate đính trên tấm bảng gỗ bần.

Tạm thời tầng trệt xem ra quá trống trải, cô lên tầng hai.

Tầng này được phân chia thành một phòng ngủ rộng cho bố mẹ với cách bài trí ngăn nắp, kèm theo hai phòng tắm và nối dài bằng một phòng để quần áo, một phòng trẻ và một phòng hầu như để trống có thể dùng như phòng làm việc.

Phòng ngủ của hai vợ chồng chất đầy sách, ngay cả trên mặt sàn hai bên giường. Bên trái là những cuốn tiểu luận Triết (Cuộc đời của Thánh Augustin, Những cuốn sách Nietzsche từng đọc…), bên phải là các ấn phẩm khoa học (Các phẫu thuật suy tim, Các bệnh lý tim bẩm sinh, Máu nhân tạo và tế bào gốc…). Không khó để đoán được ai nằm bên nào…

Nhìn chiếc giường của đôi vợ chồng, ngọn lửa ghen tuông hừng hực trong lòng Emma lại được thổi bùng lên. Với vẻ kích động, cô kiểm tra các kệ giá và lục tìm trong các ngăn kéo tủ com mốt. Cô tìm thấy hộ chiếu của hai vợ chồng trong một ngăn kéo. Cô mở cuốn hộ chiếu đầu tiên: Matthew Shapiro, sinh ngày 3 tháng Sáu năm 1968 tại Bangor (Maine), rồi cuốn thứ hai: Ekaterina Lyudmila Svatkovski, sinh ngày 6 tháng Năm năm 1975 tại Saint-Pétersburg (Nga).

Kate là người Nga…

Điều này giải thích cho màu tóc vàng nhạt, đôi mắt sáng màu, vẻ đẹp lạnh lùng và xa cách…

Từ ngoài phố vang lên tiếng động cơ ô tô. Lo sợ hai vợ chồng gia chủ đã quay về, cô liếc qua cửa sổ – báo động giả – rồi lại tiếp tục lục soát.

Cô không mất thời gian trong phòng tắm của Matthew, nhưng lại nấn ná trong phòng tắm của “nữ gia chủ”. Cô mở các cửa tủ, các ngăn kéo và các ô đồ gỗ. Chiếc tủ chính – một giá treo – chất đầy mỹ phẩm: kem bôi, dưỡng thể, đồ trang điểm. Trong cây cột bằng gỗ sơn được dùng làm tủ thuốc, cô tìm ra những tuýp nhựa và liếc qua nhãn thuốc (thuốc aspirin, paracetamol, thuốc chống viêm), những lọ cồn 70o, huyết thanh sinh lý, nước ôxy già. Đằng sau những hộp ego và gạc, cô phát hiện ra một thứ bất ngờ hơn. Những loại thuốc mang những cái tên phức tạp, nhưng quen thuộc, là tên của thuốc chống trầm cảm, thuốc an thần và thuốc ngủ. Emma không tin vào mắt mình: Kate và cô quen chung những “người bạn” có chứa lưu huỳnh. Trong vòng vài giây, cô cảm thấy vững tâm lạ thường.

Khác với vẻ bề ngoài, Kate không phải là người phụ nữ tươi tắn và bình thản như cô vẫn hình dung. Chị ta hẳn là cũng giống như cô: bứt rứt, lo âu, có lẽ dễ bị tổn thương. Chồng chị ta có biết bên trong tủ thuốc có những gì không nhỉ? Có lẽ là không, bằng không nữ bác sĩ ngoại khoa đã không cẩn thận xếp những tuýp thuốc này ra đằng sau như vậy. Vả lại Matthew không có vẻ là loại đàn ông đi lục lọi đồ đạc cá nhân của vợ.

Cô tiếp tục chuyến thám hiểm vào bên trong phòng quần áo.

Giấc mơ của mình đây…

Đó là phòng quần áo hoàn hảo: rộng rãi, sạch sẽ, trang nhã và tiện dụng. Những cánh cửa trượt bằng gỗ sáng màu xen kẽ những tấm kính và mặt gương càng mở rộng thêm không gian.

Không cưỡng được tò mò, cô mở lần lượt từng tủ một, lục lọi, kiểm tra từng ngăn kéo, nhấc từng chồng quần áo lên, xem hàng chục đôi giày và món đồ lót. Một chiếc thang gỗ tối màu và một chiếc ghế có bậc được dựa vào tường cho phép tiếp cận những khoảng không cao hơn. Cô leo lên đó để sàng lọc tiếp phần tủ phía trên. Cô nhanh chóng tìm ra một chiếc áo da được gấp gọn, để trên tầng giá cao nhất. Đó là một chiếc áo vest của dân đi mô tô đã sờn với phần cổ lật lông cừu. Cùng loại với chiếc áo mà “người tình” của Kate đã mặc sáng nay! Emma chú tâm xem xét chiếc áo. Cô sờ nắn lớp lót. Trong một túi áo có nắp, cô tìm thấy một bức ảnh đã ố vàng. Đó là ảnh Kate, ngực trần, hẳn là hình ảnh của Kate chừng mười năm về trước. Tư thế tạo dáng gợi cảm và khiêu khích của cô gái vừa tròn đôi mươi đang nhìn thẳng vào ống kính với một sự tự tin hiếm có. Emma lật bức ảnh lại để tìm kiếm một lời chỉ dẫn nhưng mặt sau không ghi gì hết.

Nỗi phấn khích của cô tăng thêm gấp bội. Giống như trước đó đã làm, cô dùng điện thoại chụp lại bức ảnh trước khi trả về túi áo bu dông rồi cất chiếc áo vào chỗ cũ.

Giờ thì phải đi thôi…

Để khỏi phải hoài nghi tiếc nuối gì thêm, cô dạo một vòng tầng trên cùng. Phần này của ngôi nhà không được sưởi ấm. Nó bao gồm một phòng hẳn là dành cho khách tới thăm, một phòng tắm khác và hai phòng rộng vẫn còn đang được sửa chữa.

Cô lại xuống tầng trệt rồi dạo một vòng cuối cùng. Trên chiếc bàn nhỏ được dát gỗ trang trí có chiếc máy tính của gia đình. Ban nãy cô đã nhận ra nó, nhưng cô nghĩ nó đã được bảo vệ bằng mật khẩu.

Biết đâu được đấy…

Cô di chuột để khởi động máy. Màn hình mở ra trang truy cập của Kate. Không mật khẩu, cũng chẳng được bảo vệ.

Vậy là sẽ chẳng có thông tin gì thú vị, cô nghĩ.

Tuy thế cô vẫn lục lọi khắp các thư mục. Có vẻ như Kate chỉ dùng chiếc máy này vào mục đích công việc. Nó chứa đầy những bài báo, những tệp tin, những đoạn phim liên quan đến phẫu thuật và dị tật tim. Kết quả thu được cũng tương tự khi xem xét lịch sử truy cập của trình duyệt Internet cũng như hòm thư điện tử. Giữa thế giới y khoa ấy chỉ có duy nhất một thứ lạc loài, Những gian truân của một phụ nữ Boston, một blog “thủ công” về các địa chỉ vàng của Boston (các nhà hàng, tiệm cà phê, cửa hàng…) mà dường như nữ bác sĩ ngoại khoa đóng góp ý kiến khá thường xuyên. Emma ghi lại địa chỉ website lên cánh tay rồi thử mở trang truy cập của Matthew. Cả trang này cũng không được bảo vệ gì hơn trang của người vợ. Có vẻ như hai vợ chồng họ luôn tin tưởng nhau, ít ra là về điểm này. Emma lặp lại các bước tìm kiếm và chẳng tìm ra được gì đáng chú ý. Tuy nhiên có hàng trăm bức ảnh, được nhóm lại theo trật tự trong một thư mục. Cô bắt đầu cho trình chiếu chúng, nhưng có quá nhiều nên khó mà xem hết được ngay. Cô lục trong túi áo khoác lấy ra chùm chìa khóa. Móc chìa khóa là một chai nhỏ bằng kim loại mô hình của chai California Pinot Noir. Một món đồ quảng cáo mà cô được tặng khi tham quan vùng trồng nho. Khi trượt phần trên của chai, một ổ usb hiện ra. Emma cắm vào máy tính để copy ảnh vào đó, để sau này có thể tùy ý xem lại. Việc copy còn chưa xong thì cô nghe thấy có tiếng động cơ ô tô. Cô liền rút ổ usb ra ngay rồi lại gần cửa sổ.

Khỉ thật…

Lần này thì đúng là Matthew và Kate đang đỗ xe ngay trước lối vào.

Không kịp quay lại rồi!

Chỉ còn duy nhất một giải pháp: trốn.

Cô leo cầu thang lên tới các phòng ngủ trên gác đúng lúc cửa ra vào bật mở.

Từ trên đó, cô nghe thấy rõ ràng giọng của Matthew và Kate. Cô hoảng sợ trốn vào phòng ngủ của hai vợ chồng họ. Cô nâng cửa sổ sập lên, cố gắng tạo ra càng ít tiếng động càng tốt. Khi liếc nhìn căn phòng lần cuối, cô nhận thấy từ xa, trong phòng để quần áo có thứ gì đó mà lần đầu tiên bước vào cô không để ý, nhưng giờ nó lại khiến cô kinh ngạc. Tại sao lại có một chiếc thang gỗ dựa vào tường nhỉ? Chiếc ghế có bậc mà cô đã sử dụng thừa đủ để vươn tới tầng giá cao nhất rồi mà. Cô ngưng lại rồi rón rén quay vào phòng để quần áo.

Và tại sao chiếc thang này lại làm bằng gỗ tối màu trong khi tất cả những đồ đạc trên tầng này đều làm bằng gỗ sáng màu?

Emma ngước mắt nhìn lên trần rồi bất chấp giọng nói của hai vợ chồng gia chủ đang vang lên dưới phòng khách, cô mở chiếc thang ra rồi trèo lên những thanh đầu tiên.

Chiếc thang này không dựng ở đó để leo lên tủ quần áo, mà để leo lên… trần nhà.

Lên đến những bậc trên cùng rồi, Emma nâng mảng thạch cao làm trần nhà lên. Khi thò tay vào bên trong, cô nhận thấy thứ gì đó. Một sợi dây, dây đeo của một chiếc túi thì đúng hơn. Cô kéo dây và một chiếc túi vải to đùng rơi xuống. Cô đã tóm kịp nhờ một phản xạ tuyệt vọng.

Đó là một chiếc túi du lịch bằng vải trắng ni lông màu đỏ in logo màu trắng hình “dấu phẩy” của một nhãn hiệu thể thao nổi tiếng. Chiếc túi nặng trịch, bên trong được nhồi căng. Vừa giữ thăng bằng trên chiếc thang, cô vừa mở túi ra thật nhanh, nhìn vào bên trong, và suýt thì buông rơi nó vì quá đỗi kinh ngạc.

Tim cô đập dồn dập hơn. Cô nghe thấy tiếng bước chân đang đi lên cầu thang.

Cô để lại chiếc túi vào chỗ cũ, đậy lại trần giả, xuống thang rồi nhanh chóng băng qua phòng. Cửa sổ phòng ngủ vẫn để mở. Cô trèo qua bậu, rảo bước xuống cầu thang thoát hiểm bằng gang rồi bỏ chạy thật nhanh.

***

Boston, 2011

9 giờ 45

Bàn phím máy tính ngập trong sô cô la nóng.

– Bố ơi, con xin lỗi, con xin lỗi! Tha lỗi cho con nhé! Emily năn nỉ khi nhận ra tầm vóc thảm họa.

Matthew đứng bật dậy khỏi chiếc ghế quầy bar, rút điện máy tính rồi dốc ngược máy lên để thứ chất lỏng dính nhớt kia chảy đi.

– Con không cố tình đâu ạ! Cô nhóc vừa xin lỗi vừa trốn trong vòng tay April.

– Dĩ nhiên rồi, cháu yêu, cô gái cố gắng dỗ dành con bé.

Matthew lặng lẽ dùng một mảnh khăn lau thấm khô máy tính.

Biết làm sao đây?

Tim anh vẫn đang đập dồn. Anh cần phải hành động. Thật nhanh.

April lấy từ trong túi xách của mình ra nhiều bông tẩy trang rồi đưa cho Matthew để lau thật khô bàn phím.

– Anh nghĩ các mạch dính nước rồi à?

– Anh e là thế.

– Chưa chắc đâu, cô xoa dịu. Hồi năm ngoái, em để rơi điện thoại di động đang bật vào toa lét. Em vội sấy khô rồi tháo thẻ sim ra, em đã bật lại được máy và đến giờ nó vẫn hoạt động bình thường!

Matthew suy nghĩ. Anh có cố tháo máy ra cũng vô ích. Anh không thạo món tin học. Anh định thử bật lại máy rồi đổi ý.

Làm thế sẽ gây chập cháy các vi mạch ngay lập tức…

– Anh sẽ mang nó qua chỗ thợ sửa, anh nhìn đồng hồ đeo tay rồi quyết định. Em trông Emily thêm một tiếng nữa nhé?

Anh gọi một chiếc taxi, tắm qua dưới vòi hoa sen, mặc quần jean, áo pull, áo măng tô dày rồi bước ra ngoài phố với chiếc laptop đựng trong bao da.

Ghé vào một Apple Store ở thời điểm hai ngày trước Giáng sinh là một việc làm thiếu suy xét. Dù sao thì chiếc MacBook cũng không còn bảo hành nữa. Anh bảo tài xế lái đến chỗ một cửa hàng nhỏ trong con phố phía sau quảng trường Harvard. Một cửa hàng mà vài sinh viên của anh thường lui tới.

Tiệm vừa mở cửa và rõ ràng Matt là khách hàng đầu tiên. Ngồi sau quầy là một cựu thành viên trào lưu hippie đậm người đang ăn nốt bữa sáng.

Tuổi đã quá sáu mươi, ông ta chưng ra bộ tóc dày muối tiêu và mặc chiếc áo gi lê da phanh ngực, bên trong mặc áo phông in hình cờ Cuba. Bụng ông ta phệ, tràn ra ngoài cạp quần jean mài đeo chiếc thắt lưng bự chảng.

– Tôi có thể giúp gì được cho sếp nào? Ông ta vừa hỏi vừa chùi vụn đường của chiếc bánh rán dính trên chòm râu rậm.

Matthew lấy chiếc máy tính ra khỏi bao, đặt nó lên quầy rồi kể lại chuyện rủi ro.

– Nghĩ thế nào mà lại để một thứ đồ uống nóng gần máy tính cơ chứ! Ông chủ tiệm kêu lên.

– Là con gái tôi. Con bé mới bốn tuổi rưỡi và…

Ông già không để anh nói hết câu đã cất giọng trịnh trọng.

– Tôi nghĩ sô cô la nóng là chất tệ nhất để đổ lên các thiết bị tin học.

Matthew thở dài. Anh không đến đây để nghe người ta lên mặt dạy đời.

– Được rồi, ông có thể giúp được không?

– Phải xem đã. Nếu bo mạch chủ chưa hỏng, thì theo tôi vẫn phải thay ít nhất là vỏ bàn phím. Nhưng cứ nhìn cái giá cậu sẽ phải trả, tôi thắc mắc liệu có nên làm vậy không. Máy tính của cậu cũng không phải loại đời mới.

Đôi mắt ông ta khuất phân nửa đằng sau cặp kính nhỏ hình tròn gọng kim loại.

– Nó có giá trị tình cảm rất lớn. Ông có thể mở nó ra được không?

– Tôi sắp làm vậy đây. Tôi chuẩn bị cho cậu một bảng giá vào tuần tới nhé?

– Tuần tới ư? Không thể nào! Tôi cần chiếc máy tính ngay hôm nay.

– Ra thế, vậy thì khó đấy sếp.

– Bao nhiêu?

– …?

– Bao nhiêu để ông bắt tay vào sửa ngay lập tức?

– Cậu nghĩ tiền có thể mua được tất cả hay sao, sếp? Cậu nghĩ tiền trong túi mang lại cho cậu mọi thứ quyền năng hả?

– Thôi ngay cái kiểu tự coi mình là Che Guevara đi và đừng gọi tôi là sếp nữa.

Chủ tiệm nghĩ một lúc rồi cuối cùng đề xuất:

– Nếu cậu sẵn sàng trả năm tờ Benjamin[1], chúng ta có thể tiếp tục bàn bạc. Nói cho cùng, đó là vấn đề của cậu…

[1] Tờ tiền mệnh giá 100 đô. (Chú thích của tác giả)

– Được lắm. Tôi sẽ đưa ông số tiền đó, nhưng hãy bắt tay vào việc thôi. Ngay bây giờ.

Ông già dùng tua nơ vít tháo khung nhôm ra rồi bắt đầu lau chùi các vi mạch bằng dung dịch cồn hữu cơ, cẩn thận loại bỏ toàn bộ dấu vết của món sô cô la sữa, chú ý không làm đứt những mối nối điện tử.

– Bằng mọi giá cần phải tránh, khi bật lại được máy, hơi nóng không biến đường trong sô cô la thành caramel, ông ta lẩm bẩm giải thích qua bộ râu.

Khi công việc này kết thúc, ông ta cắm một chiếc đèn sưởi cũ có trang bị bộ phản chiếu bằng đồng.

– Để hong khô các linh kiện thì chẳng có gì tốt hơn thứ này.

– Cần phải chờ trong bao lâu? Matthew nôn nóng hỏi.

– Kiên nhẫn là đức tính quan trọng đấy sếp. Đi kiếm món tiền kia cho tôi, bốn mươi lăm phút nữa hẵng quay lại. Có vẻ như ổ cứng vẫn không hề hấn gì. Chỉ cần chi thêm 200 đô, tôi có thể copy ra để ít nhất anh cũng lưu lại được các dữ liệu trong máy.

Người đàn ông này đang trục lợi một cách đáng hổ thẹn, nhưng Matthew thậm chí không tìm cách mặc cả, tự an ủi rằng sinh mạng vợ anh từ nay trở đi sẽ phụ thuộc vào những thao tác của lão đần thiếu chu đáo này.

– OK, hẹn lát nữa gặp lại.

Anh bước ra phố, dừng lại ở cây rút tiền gặp đầu tiên để rút 700 đô và tiến vài bước tới một trong vô số những quán cà phê thuộc quảng trường Harvard. Anh ủ rũ ngồi phịch xuống một cái ghế.

Giờ anh sắp phải trải qua chuyện gì? Ngay cả khi chiếc laptop khởi động lại được thì cũng không gì đảm bảo với Matthew rằng anh có thể tiếp tục liên lạc với Emma. Cuộc hội thoại xuyên thời gian của họ chỉ neo bám vào một sợi dây duy nhất, mong manh, phi lý, gần như ảo diệu… nhưng nó có thể tiêu tan trong món sô cô la nóng! Anh nhớ lại bức mail gần nhất của Emma. Những câu cuối cùng đã ghi khắc trong ký ức anh:

Tôi đã lưỡng lự rất nhiều trước khi gửi cho anh đoạn phim ngắn được đính kèm theo thư này. Tôi hy vọng nó không quá động chạm đến anh. Xin hãy tha thứ cho tôi vì đã xen vào cuộc sống riêng của anh, nhưng anh có biết người đàn ông ngồi cùng vợ mình là ai không?

Giọng điệu đó khiến anh phát bực. Ý của cô ta là sao? Là Kate lừa dối anh hay sao? Là đoạn phim đính kèm sẽ hủy hoại thanh danh cô ấy? Không, không thể có chuyện đó được. Anh chưa bao giờ nghi ngờ tình yêu vợ dành cho mình và chưa từng có điều gì khiến lòng tin ấy rạn nứt, kể cả trước hay sau khi Kate qua đời.

Matthew uống một ngụm cà phê rồi thử lý giải đối án kia.

Có lẽ đời sống tình dục của họ hơi nhàm chán hơn so với buổi đầu của mối quan hệ. Cô đã từng hừng hực, rồi Emily ra đời quá sớm. Nhưng mọi chuyện lại tiếp diễn kia mà. Có thể không mãnh liệt bằng lúc đầu, nhưng đó không phải là số phận chung của phần lớn các cặp vợ chồng hay sao?

Anh tiếp tục khiến bản thân mình đau. Thế nếu Kate có tình nhân thì sao? Anh lắc đầu. Giá thử có muốn cặp kè thì cô cũng chẳng lấy đây ra thời gian! Kate làm việc cả ngày lẫn đêm, lúc nào cũng thấy cô làm việc. Thời gian biểu khủng khiếp tại bệnh viện mà cô còn kéo dài thêm bằng việc đọc tài liệu và viết những bài báo cũng như sách chuyên ngành. Chút ít thời gian rảnh rỗi thì cô đã dành cả cho anh và Emily.

Anh gãi cằm vẻ suy tư. Sau khi vợ mất, anh đã bỏ hết quần áo của vợ. Một chiếc xe tải của đội Cứu tế đã mang tất cả đồ đạc cá nhân của cô đi mà anh không hề phân loại để khỏi phải chuốc thêm nỗi đau. Vì không thể tránh khỏi, anh đã sắp xếp lại giấy tờ của Kate sau khi cô qua đời. Về mặt tài chính, hai vợ chồng họ có một tài khoản chung và anh không nhận thấy bất kỳ khoản chi tiêu nào bất thường. Cũng không có gì đáng nghi trong các tài liệu lưu ở máy tính của cô. Điều duy nhất khiến anh sửng sốt là chỗ thuốc chống trầm cảm tìm thấy trong phòng tắm của cô. Tại sao Kate chưa từng nói chuyện đó với anh? Anh vẫn đổ lỗi chuyện đó cho lịch làm việc quá tải. Lẽ ra anh nên tìm hiểu thêm…

***

– Cậu có tiền chưa sếp?

Matthew chìa bảy tờ mệnh giá 100 đô cho lão già hippie, lão nhét ngay vào túi quần jean.

– Suôn sẻ chứ? Anh hỏi, chỉ vào những linh kiện đang tiếp tục khô đi dưới bộ phản chiếu của đèn sưởi.

– Ừ, có thể lắp lại toàn bộ rồi, vừa nói ông ta vừa tiến hành lắp máy.

Công việc kéo dài thêm hơn mười lăm phút nữa, sau đó chủ tiệm cất giọng trịnh trọng:

– Giờ là thời điểm cầu Trời khấn Phật cho mọi chuyện ngon nghẻ đây, sếp.

Ông ta nhấn nút khởi động và phép màu đã xảy ra. Chiếc laptop khởi động, kêu ro ro rồi mời nhập mật khẩu.

Tạ ơn Chúa!

Bàn phím cảm ứng chạy mượt mà. Matthew nhẹ nhõm gõ mật khẩu được hệ thống xác nhận.

– Cậu là số đỏ lắm đấy nhé! Lão già hippie thốt lên.

Matthew lờ nhận xét ấy đi. Anh mở một tệp tài liệu, rồi một ứng dụng. Anh chuẩn bị kết nối với Internet thì màn hình bỗng đơ ra rồi đen kịt.

Chẳng còn gì nữa.

Anh cố thử bật lại.

Vô ích.

– Cháy máy rồi, chủ tiệm khẳng định. Mọi chuyện suôn sẻ đến khó tin.

– Nhưng hẳn phải có cách gì đó chứ. Thay linh kiện chẳng hạn…

– Chuyện đó không liên quan gì đến tôi nhé sếp. Máy tính của cậu ngỏm củ tỏi rồi. Đời là thế mà.

Ông ta đưa cho anh một ổ cứng ngoài.

– Tôi đã copy từ máy tính của cậu tất cả những gì có thể lấy lại được đây. Đó mới là điều cốt lõi phải không?

Không.

Đó không phải điều cốt lõi…

Bình luận
× sticky