Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Ngày Mai (Demain)

Chương 21: A girl on the run

Tác giả: Guillaume Musso

Ta chuyển hóa bàn tay mình bằng cách

đặt nó vào một bàn tay khác.

Paul ELUARD

Boston

Tháng Mười hai 2010

9 giờ 43

– Đừng động vào cái máy tính đó!

Khi họ về tới phòng khách sạn, nhân viên tạp vụ đang trao đổi với người quản lý, bà ta vừa báo với quản lý về hệ thống máy tính kỳ lạ của Romuald.

– Thưa bà, tôi thành thực lấy làm tiếc, nhưng những ổ cắm điện của khách sạn không được thiết kế để tải được toàn bộ những thiết bị này, người phụ trách tầng nói với Emma, tay chỉ vào mớ chằng chịt những dây điện và ổ cắm nối dài. Tôi buộc phải yêu cầu quý khách vui lòng…

– Chúng tôi sẽ rút điện toàn bộ đám máy móc này, Emma vừa hứa hẹn vừa đẩy hai người phụ nữ ra khỏi phòng.

Cô đóng cửa lại rồi ấn lên công tắc kích hoạt chế độ “Miễn làm phiền”.

– Được rồi, cậu giải thích tôi xem nào? cô hỏi trong lúc tới chỗ cậu nhóc đang ngồi đằng sau bức tường màn hình của mình. Kate làm cách nào có thể kiếm được chừng ấy tiền?

Romuald kết nối Internet để cho hiển thị hộp thư điện tử của mình lên màn hình lớn.

– Chị còn nhớ trang blog của Kate không: Những gian truân của một phụ nữ Boston?

– Dĩ nhiên là nhớ.

– Đúng theo yêu cầu của chị, tôi đã phân tích kỹ lưỡng trang web đó, nhưng không tìm ra điều gì đủ làm bằng chứng thuyết phục. Tôi gửi hú họa đường link cho Jarod để nhờ cậu ta lưu tâm tới vấn đề này.

– Anh chàng chuyên gia tin học bạn cậu ấy hả?

– Đúng đấy. Tôi đã hứa là chị sẽ trả 1.000 đô nếu cậu ta lần ra điều gì đó…

– Câu hoang phí tiền của người khác thế không biết, cô ranh mãnh đáp. Nhưng cậu làm tốt đấy.

– Thoạt tiên, cậu ta đã quan sát thấy rằng các bức ảnh chụp dường như hơi nặng đối với dạng blog này.

– Và tiếp đó?

– Chuyện đó xui khiến cậu ta chuyển các tệp ảnh vào các phần mềm giải mã khác nhau.

– Để giải mã cái gì chứ? Emma hỏi trong lúc ngồi ghé lên bậu cửa sổ.

Romuald xoay ghế về phía cô.

– Chị đã nghe nói đến kỹ thuật giấu thư chưa?

– Kỹ thuật giấu thư á?

– Kỹ thuật giấu thư. Đó là kỹ thuật cho phép giấu một hình ảnh trong một hình ảnh vô nghĩa khác.

Emma nheo mắt.

– Khoan đã, tôi mang máng hiểu ra rồi đấy… Gần đây người ta có nhắc đến vấn đề này trên các kênh thông tin đúng không?

– Phải, đây là một trong những kỹ thuật được mười gián điệp người Nga đã bị bắt giữ tại Mỹ mùa hè năm ngoái sử dụng. Nhờ có Internet, họ đã gửi những tài liệu tuyệt mật tới Matxcơva bằng cách mã hóa chúng, giấu sau những bức ảnh chụp trong kỳ nghỉ. Người ta cũng nhắc đến kỹ thuật giấu thư sau những vụ khủng bố hôm 11 tháng Chín. FBI luôn bóng gió ám chỉ rằng quân của Bin Laden phối hợp các cuộc tấn công của chúng bằng cách trao đổi những bức ảnh mã hóa trên các diễn đàn thảo luận dưới vẻ bề ngoài vô hại.

– Toàn bộ những thứ này thực sự không nhìn thấy được bằng mắt thường sao?

– Hoàn toàn không thể lần ra.

– Nhưng làm sao có thể thế được? Làm sao người ta có thể chèn một hình ảnh vào bên trong một hình ảnh khác.

– Chuyện này không phức tạp lắm. Có nhiều phần mềm cho phép thao tác. Nhìn chung, kỹ thuật này nằm ở chỗ thay đổi giá trị mỗi pixel của hình ảnh sao cho không thể nhận ra.

Emma vớ lấy chiếc ghế rồi ngồi xuống cạnh cậu nhóc.

– Tôi chẳng hiểu gì cả. Cậu nói rõ hơn chút đi.

– Được rồi, chị có biết một pixel là gì không?

– Những ô vuông be bé tạo nên các hình ảnh chứ gì?

Cậu nhóc gật đầu xác nhận rồi tiếp tục giải thích.

– Mỗi pixel được tạo thành từ ba byte: một byte cấu thành màu đỏ, một byte cấu thành màu lục và một byte cấu thành màu lam. Mỗi màu trong ba màu này có sẵn 256 sắc thái. Suy ra chúng ta có tổng cộng 256x256x256, nghĩa là hơn mười sáu triệu màu, chị vẫn theo kịp đấy chứ?

Cô hơi bỡ ngỡ nhưng vẫn cố gắng không để lộ ra. Romuald tiếp tục:

– Một byte được tạo nên từ 8 bit. Vậy mánh là ở chỗ sử dụng một bit trong mỗi byte tạo nên mỗi pixel của hình ảnh. Ở mức độ này, bằng cách thoái biến một bit, ta sẽ làm hình ảnh thay đổi hết sức nhẹ nhàng mà mắt thường không thể nhận biết…

Emma đã hình dung ra.

– Và người ta sử dụng không gian đã thông thoáng để lưu trữ những dữ liệu khác.

Cậu nhóc huýt sáo ngưỡng mộ.

– Không tồi, đối với một người vẫn thường sử dụng cẳng tay làm sổ ghi chép! cậu nhóc vừa nói vừa nở một nụ cười hài lòng khiến gương mặt rạng rỡ.

Cô phát vào vai cậu rồi tiếp:

– Nhưng chuyện này thì quan hệ gì tới Kate?

– Kate sử dụng trang blog của mình như một hộp thư chết[1]. Mọi bức ảnh chị ta đăng trên trang web riêng đều được mã hóa.

[1] Trong ngôn ngữ gián điệp, một hộp thư chết là một địa điểm được sử dụng để bí mật trao đổi những tài liệu mà không buộc phải đến tận nơi gặp mặt. (Chú thích của tác giả)

– Nhưng để che giấu điều gì nhỉ?

– Rồi chị sẽ thấy, đáng kinh ngạc lắm đấy. Romuald cho hiển thị hình ảnh đầu tiên.

– Chị nhìn thấy bức ảnh này chứ? Kate đã đăng lên để minh họa cho bài viết về một tiệm bánh ngọt thuộc khu North End.

Emma vẫn nhớ bức ảnh chụp mặt tiền cửa hàng trưng bày nhiều loại bánh ngọt đủ màu sắc.

Romuald ấn một nút trên bàn phím và một cửa sổ khác xuất hiện trên màn hình máy tính.

– Đây là thứ xuất hiện một khi ta tách ra hình ảnh bị giấu.

Bấy giờ hiện lên màn hình không phải một bức ảnh đúng nghĩa, mà đúng hơn là một dạng bản đồ được thêm những công thức toán và những dòng mã tin học. Emma nhăn mặt.

– Cái gì thế này?

– Theo tôi thì đây là một nguyên mẫu. Sơ đồ của một phát minh trước khi chế tạo, nếu chị muốn hiểu như vậy. Có lẽ là của một bộ cảm biến chuyển động. Nhưng điều thú vị hơn cả là đây.

Cậu nhóc zoom vào bức ảnh và tăng độ tương phản để làm xuất hiện một logo có hình kỳ lân cách điệu.

– Tài liệu này thuộc về Fitch Inc.! Emma thốt lên. Cậu nghi Kate thực hiện nhiệm vụ gián điệp công nghiệp chăng?

Với sự giúp đỡ của Jarod, họ dành phần thời gian còn lại của buổi sáng để giải mã ảnh của trang blog. Những bức ảnh cũ nhất liên quan tới những bản phác thảo của các kỹ sư làm việc cho Fitch Inc. về một bộ cảm biến chuyển động mang tính cách mạng có khả năng tương tác với màn hình máy tính thông qua một cử động đơn giản của những ngón tay.

– Giống như Tom Cruise trong Minority Report, Romuald đùa.

Những tệp khác liên quan đến một phiên bản bêta của một phần mềm có khả năng dịch tức thời tất cả các dạng tài liệu âm thanh. Những thiết bị nhạy cảm nhất được giấu trong những bức ảnh chụp xuất hiện gần đây nhất. Đó đơn giản là những dữ liệu từng phần của hệ thống kiểm soát các máy bay chiến đấu của Mỹ MQ1 Predator và MQ9 Reaper: những vũ khí tinh vi nhất của quân đội Mỹ. Các vũ khí hiện được sử dụng trong những trận đánh tại Afghanistan.

Những bí mật về công nghệ và quân sự.

Emma cảm thấy dạ dày mình quặn thắt.

Rõ ràng Kate đã tận dụng mối quan hệ thân mật của mình với Nick Fitch để đánh cắp từ anh ta những bí mật công nghiệp mà hẳn cô nàng phải bán lại với giá đắt ngang vàng cho một công ty đối thủ hoặc cho một nhà nước mong muốn biết vài bí mật quân sự của Mỹ.

– Những lời bình luận để lại trên blog chắc cũng nhằm mục đích đó! Romuald đoán như thể đọc được ý nghĩ của cô. “Chẳng có gì thú vị”, “Thú vị đấy, chúng tôi rất muốn biết thêm”… Điều này định hướng cho nữ bác sĩ ngoại khoa tìm kiếm. Bảo cho chị ta biết thông tin nào hữu ích, thông tin nào không. Xúi chị ta đào bới thêm theo nhiều hướng bằng cách cung cấp những tài liệu khác.

Emma nhìn cậu nhóc bằng ánh mắt lo lắng. Cả hai cảm thấy adrenalin dâng lên theo độ nguy hiểm. Như thể hai người là nhân vật chính trong một bộ phim phiêu lưu mạo hiểm, “cuộc điều tra” của họ mở rộng tới những phạm vi bất ngờ. Những lĩnh vực mà họ hẳn sẽ không bao giờ mạo hiểm dính vào.

Khỉ thật…

Đột nhiên thấy sợ, cô nhắm mắt rồi đan tay thành hình tam giác dưới cằm.

Làm thế nào cô tới được đây nhỉ? Cách đây năm ngày, cô chỉ đơn giản trả lời mail của một thầy giáo dạy Triết mà cô phải lòng. Tất cả những gì cô muốn, đó là tìm ra cho mình một người đàn ông! Và mong muốn đó đã dẫn cô đến chỗ mắc mớ vào một mối nhằng nhịt tàn khốc hoàn toàn vượt quá tầm kiểm soát của cô. Đằng sau vẻ bề ngoài của cuộc sống ngăn nắp đâu ra đấy của Matthew và Kate, cô đã phát hiện ra một hiện thực làm nên từ những dối trá và những bí mật nguy hiểm. Cho tới giờ, cô đã gặp may, nhưng càng điều tra sâu thêm, cô càng đoán biết được mối nguy hiểm đang rình rập.

– Toàn bộ chuyện này không thực sự giúp chúng ta tiến xa hơn, Romuald nhận xét. Kate hẳn phải chấp nhận những rủi ro cực lớn để kiếm được những tài liệu này. Thế mà tất cả những gì chúng ta biết được về Kate cho thấy chị ta không phải một phụ nữ dễ mua chuộc. Tiền không phải là động cơ của chị ta, đó là một phương tiện để kiếm ra thứ gì đó khác.

– Thứ gì đó trị giá nửa triệu đô… Emma thì thào. Cái mà chúng ta phải tìm ra, đó là Kate sẽ làm gì với số tiền này.

Emma vừa nói hết câu thì Romuald vớ lấy cặp kính.

– Tôi nghĩ chúng ta sắp biết ngay thôi, cậu ta kêu lên, tay chỉ vào một trong các màn hình.

Bấy giờ là gần một giờ chiều. Kate đã kết thúc hai cuộc phẫu thuật.

Mắt họ lướt từ màn hình này sang màn hình khác để dõi theo nữ bác sĩ ngoại khoa từ phòng phẫu thuật ra tới hành lang bệnh viện. Họ nhìn nữ bác sĩ dừng bước trước ngăn để đồ cá nhân rồi lấy ra chiếc túi du lịch.

– Để tôi tới đó! Emma kêu lên, mặc áo khoác vào.

– Nhưng…

Cô vớ lấy ba lô, điện thoại rồi lao ra khỏi phòng.

– Chớ rời mắt khỏi chị ta! cô ra lệnh cho Romuald trước khi đóng sập cửa.

***

Nhanh hơn nữa nào!

Emma chạy thật nhanh tới bệnh viện. Ra khỏi khách sạn, cô rẽ phải sang phố Charles, một trong những tuyến đường giao thông huyết mạch của thành phố, ngăn cách Boston Common và Công viên Thành phố, hai khoảng không gian xanh của thành phố. Cái lạnh chụp lấy cô ngay từ những giây đầu tiên. Cô phơi mặt ra trước gió nên thấy rát buốt. Mỗi lần hít thở, hai cánh mũi, khí quản, phế quản của cô lại có cảm giác như vừa hít vào toàn băng giá.

Cô tiếp tục chạy tăng tốc hai trăm mét nữa. Với hy vọng tiết kiệm thời gian, cô rẽ phải rồi tiến thẳng vào công viên để ngược lên phía Đông theo đường chéo. Cô thấy khó chịu. Mọi cơ bắp đau nhức. Phổi cô gào réo đòi thứ ôxy mà cô không thể cung cấp nổi cho nó nữa. Tệ hơn nữa, đế giày của cô còn trơn tuột và chiếc quần jean bó khiến bước chạy vướng víu. Chiếc ba lô cô đang đeo trên lưng lại còn nặng, mỗi cử động của cơ thể lại khiến vỏ laptop đập vào vùng thắt lưng.

Nhanh hơn nữa nào!

Ra tới phố Joy, cô mất vài giây mới xác định được vị trí. Cô muốn sải bước chạy nhanh hơn nữa, nhưng cô đã kiệt sức. Đầu óc cô quay mòng mòng, khí lạnh châm chích mắt cô và lồng ngực cô như có lửa đốt. Cô lảo đảo vấp phải mép vỉa hè.

Chớ có dừng lại! Không phải bây giờ…

Sắp kiệt sức, bất chấp cơn đau nhói đang lan tỏa trong lồng ngực, cô vẫn tiếp tục chạy được. Cô biết nếu dừng ở đây, cô sẽ không kịp tìm ra Kate.

Ba trăm mét còn lại ngăn cách cô với lối vào bệnh viện chính là những mét khó khăn nhất. Khi tới phố Cambridge, cô rút điện thoại ra. Cô buồn nôn. Một cơn váng vất khiến mắt cô mờ đi.

– Cô ta đâu rồi, Romuald? cô áp điện thoại di động vào tai rồi hét lên.

Cô bật ho. Cô những muốn nằm dài ra trên vỉa hè.

– Tôi mất dấu chị ta rồi! Cậu nhóc nói như xin lỗi. Kate đã rời khỏi bệnh viện. Chị ta không còn trong phạm vi quan sát của camera nữa!

– Khỉ thật! Cô ta rời bệnh viện bằng lối nào?

– Phố Blossom, đoạn Holiday Inn, vừa mới cách đây hai phút thôi.

Emma đảo mắt nhìn quanh. Cô nhìn thấy đoạn đầu phố, thậm chí chưa đầy trăm mét. Kate đang ở rất gần. Cô cảm thấy thế.

– Cô ta ăn mặc thế nào?

– Chị ta vẫn mặc áo blouse, cầm theo áo khoác dài.

Thở không ra hơi, hai tay chống lên đầu gối, Emma đang cố gắng thở đều, trong khi những cuộn hơi nước thoát ra từ miệng cô.

Một chiếc áo blouse, một chiếc áo khoác dài màu xám nâu nhạt…

Cô cố gắng định vị những trang phục đó trong đám người đi bộ đang chen chúc trên vỉa hè, nhưng vào tầm giờ này, các bác sĩ, y tá và hộ lý đang lũ lượt đi ăn trưa trong các nhà hàng và các tiệm ăn nhanh khu vực xung quanh bệnh viện.

Áo blouse trắng, pyjama xanh nhạt, đồng phục hồng…

Cô lau những giọt mồ hôi đang tụ lại ở mắt. Bỗng nhiên, trong một thoáng chớp mắt, cô nhìn thấy một chấm đỏ đằng trước mình chừng năm chục mét, trong đám đông ồn ào đang đổ dồn về phía Whole Foods Market.

Chiếc túi du lịch…

Nỗi phấn khích gần như ngay lập tức xóa tan cơn mệt và Emma huy động chút sức lực cuối cùng để bước tới đại siêu thị.

– Giữ lên lạc nhé, đầu đất! Tôi tìm ra Kate rồi!

***

Emma bước vào siêu thị rồi sải bước tiến về phía nữ bác sĩ ngoại khoa. Kate đang đứng một mình và vẫn đeo chiếc túi du lịch trên vai. Vẫn để ý giữ Kate trong tầm quan sát, Emma lẫn vào đám đông. Cung ứng vô số các sản phẩm bio, Whole Foods nhắm đến phân khúc khách hàng nói đúng ra là khá giả và có ý thức bảo vệ môi trường. Chỉ còn vài tiếng nữa là đến đêm Thánh, những ca khúc Giáng sinh được phát đi phát lại và siêu thị đông nghịt người. Ở lối vào, một khu vực rộng rãi được bố trí như quán cà phê để khách có thể thưởng thức đồ uống hoặc ăn trưa ngay tại chỗ bằng cách tự phục vụ trong các quầy buffet hoặc các quầy bán đồ ăn nóng, sushi và bánh vòng.

Chỉ còn cách nữ bác sĩ vài mét, Emma theo sát Kate từng bước. Cô đứng vào hàng người xếp trước quầy xa lát, cầm một đĩa nhựa, tự lấy hỗn hợp rau quả sống và hạt mầm, chọn một chai trà nấm thủy sâm rồi thanh toán tiền tại một trong các quầy thu ngân chuyên dụng.

Cô tiếp tục theo chân Kate đến căn phòng dài của tiệm ăn nhanh nơi các khách hàng có thể vừa thưởng thức bữa trưa vừa quan sát đường phố náo nhiệt qua ô kính rộng.

Căn phòng đông nghịt người. Người ta chen lấn xô đẩy để tìm được một chỗ ngồi tại những chiếc bàn dài kê thêm ghế gỗ.

Bầu không khí như trong một căng tin cao cấp. Mọi người đứng lên và tự mình đi hâm nóng đồ ăn trong dãy lò vi sóng sẵn dùng với vẻ thích thú hơi quá đà. Tuy thế, ở đây thời gian thật quý báu. Người ta ăn nhanh: một bữa ăn nhẹ cho qua bữa trong tiếng ồn ào vui tai trước khi quay trở lại làm việc trong bệnh viện hoặc trong các căn phòng thuộc khu West End. Một nơi lý tưởng để không bị ai nhận ra.

Nhìn Kate luồn lách giữa các bàn, Emma hiểu ra rằng cô ta có một cuộc hẹn. Kate ngồi xuống đầu bàn, trên chiếc ghế mà một người đàn ông đã giữ trước bằng cách để áo khoác lên. Emma tìm cách lại gần, nhưng chỗ duy nhất còn trống cách đó chừng sáu mét. Hai chiếc bàn dài ngăn cách, và tiếng ồn xung quanh biến hy vọng nghe được cuộc trò chuyện giữa họ thành vô vọng.

Đen thế không biết!

Cô ngồi xuống rồi nheo mắt để nhìn cho kỹ nhân vật mới xuất hiện. Một người đàn ông chừng năm mươi tuổi, tóc muối tiêu cắt ngắn, mặc một bộ com lê sẫm màu kẻ sọc ôm sát. Ánh mắt của ông ta, màu lơ xám, lạnh lẽo, trong suốt, sánh đôi hoàn hảo với khuôn mặt cứng đờ như thể tạc trong đá.

– Cậu có nghe thấy tôi nói không đầu đất?

Emma thông báo vắn tắt tình hình cho Romuald.

– Mẹ kiếp! Cô ta sắp đưa cái túi cho lão đấy! Nhất định tôi phải nghe được họ nói gì với nhau!

– Chị chỉ việc lại gần thôi, Romuald đáp từ đầu dây bên kia.

Cô nổi cáu.

– Đầu óc cậu tối tăm thế nhỉ! Tôi đã giải thích với cậu là tôi KHÔNG THỂ rồi mà! Vả lại Kate đã gặp tôi hôm Chủ nhật và sáng hôm qua. Cô ta sẽ nhận ra tôi mất.

– OK, chị đừng có cáu chứ… cậu nhóc phật ý.

– Romuald, đây không phải lúc chơi trò thiếu niên hờn dỗi đâu nhé, cậu phải giúp tôi! Tới đây thì họ đã nói được cả đống chuyện rồi. Nếu cậu có ý tưởng gì thì đây chính là lúc đấy!

Cậu nhóc im lặng ba giây rồi kêu lên:

– Điện thoại của chị! Để nó xuống sàn rồi đá nó về phía họ. Tôi sẽ ghi âm lại.

Cô lắc đầu.

– Cậu đúng là đầu óc không bình thường! cô rít lên qua kẽ răng. Sao mà làm thế được hả?

Cô lo lắng gặm móng tay. Nhưng trong lúc tuyệt vọng cô vẫn làm theo lời khuyên của cậu nhóc tín đồ tin học. Cô để điện thoại xuống sàn gỗ màu vàng, vờ như đang buộc lại dây giày, rồi dùng chân đá điện thoại như chơi đánh đáo.

Chiếc điện thoại trượt trên những tấm ván tráng thủy tinh, băng qua dưới các băng ghế và các cẳng chân buông thõng, rồi dừng lại dưới chiếc bàn rộng nơi Kate đang ăn trưa cùng người đàn ông lạ mặt.

Cờ bạc đãi tay mới…

Căng thẳng và co rúm trên ghế, Emma uống hai ngụm đã hết chai trà lên men, thầm cầu nguyện để không ai nhận ra chiếc điện thoại. Lời cầu nguyện của cô nhanh chóng chấm dứt, bởi chưa đầy ba phút sau, Kate và người đàn ông lạ mặt đã đứng dậy cùng một lượt.

Đến lượt cô cũng đứng dậy, kín đáo lấy lại điện thoại trước ánh mắt sững sờ của những người khác vẫn đang ngồi bàn đó, rồi bám theo họ.

***

Emma nhanh chóng rời khỏi siêu thị.

– Cậu hiểu được điều họ nói với nhau chứ Romuald?

– Không, không thực hiểu lắm, cậu nhóc nói như xin lỗi. Lời họ trò chuyện bị tiếng ồn của đám đông át mất. Tôi phải lọc tiếng bản thu đã.

– Vậy cậu mau tiến hành đi nhé! cô vừa ra lệnh vừa ngang nhiên dập máy.

Trong khi nữ bác sĩ ngoại khoa quay về bệnh viện, người đàn ông lạ mặt đi theo hướng ngược lại. Emma muốn theo chân người đàn ông đã cầm chiếc túi đỏ chứa 500.000 đô.

Cô đã quan sát, ông ta và Kate, trong suốt cuộc trò chuyện, và chắc chắn rằng không có gì đổi chác trong đó: người đàn ông cầm tiền mà không đưa lại cho Kate thứ gì.

Người đàn ông này là ai? Ông ta hứa hẹn gì với Kate để đổi lấy số tiền kia?

Người đàn ông đi dọc phố Cambridge hết vài trăm mét. Emma không rời ông ta lấy nửa bước nhưng vẫn giữ khoảng cách hợp lý. Đám đông dày đặc. Boston rung lên theo nhịp chuông Giáng sinh. Đại lộ lớn được trang trí hàng trăm lồng đèn. Không thân cây nào, không cột đèn đường nào là không giăng tràng hoa, không một mặt tiền nhà nào không giăng vòng cây nhựa ruồi hay một búi tầm gửi. Tay xách nách mang, nhiều người bộ hành mang vẻ mặt hân hoan và để mặc niềm phấn khích mùa lễ hội xâm chiếm. Ngay đến làn gió lạnh băng cũng tham gia vào không khí hội hè tươi vui này theo lối riêng, bằng cách cuốn theo mùi thông, mùi quế và hạt dẻ nướng.

Khi tới trạm Bowdoin, Emma cứ ngỡ người đàn ông sẽ đi tàu điện ngầm, nhưng tới đó rồi, ông ta lại băng qua phố và leo lên chiếc xe buýt số 18. Emma cũng kịp lên xe vào phút cuối, sử dụng LinkPass, thẻ giao thông mà hôm qua cô đã mua trên đường về khách sạn sau cuộc gặp với Joyce Wilkinson.

Trong lúc chiếc xe buýt khởi hành, cô tìm được một chỗ tách biệt, cách người đàn ông cô đang theo dõi ba ghế về phía sau. Ông ta ngồi im suốt quãng đường, chăm chú quan sát qua cửa kính xe khung cảnh đô thị đang lướt qua trước mắt.

Chiếc xe lượn một vòng cung lớn để ra phố Park. Nó đi dọc theo Boston Common và mạn Bắc Công viên Thành phố, rồi chạy về phía Tây trên đại lộ Commonwealth. Xe vừa chạy được hơn một cây số trên đại lộ rộng lớn hai bên trồng dẻ và du thì người đàn ông đứng dậy, tiến về phía cửa sau.

Tại điểm dừng trên phố Gloucester, Emma nhìn thấy ông ta xuống xe rồi tranh thủ chuyển động của đám đông để tới lượt mình cũng xuống xe mà không bị phát hiện. Cô theo ông ta bén gót, đi bộ chừng trăm mét về phía Nam để tới phố Boylston.

Phố Back Bay nơi có những khách sạn sang trọng…

Người đàn ông bước vào đại sảnh của St. Francis, khách sạn có mặt tiền ốp kính và gạch kết hợp vẻ sang trọng thời thượng với nét duyên dáng của phong cách Victoria đặc trưng cho các công trình kiến trúc của Boston. Nhất là nhà hàng của khách sạn, hồi năm ngoái đã được Michelin tặng cho ngôi sao thứ ba. Cô theo chân người đàn ông lạ mặt tới dãy thang máy rồi bước vào buồng thang máy cùng với ông ta đúng vào phút cuối. Cô để ông ta quẹt thẻ riêng – để mở khóa an toàn của buồng thang máy ốp kính – rồi ấn nút tầng bốn.

– Cùng tầng với tôi, cô phân trần.

Ông ta nhìn cô không đáp, nhưng săm soi cô từ đầu tới chân.

Lần này thì mình toi thật rồi…

Buồng thang máy ốp kính mở ra một hành lang lót thảm dạ. Người đàn ông thậm chí còn không nhường lối cho cô theo phép lịch sự. Ông ta không ngần ngừ rẽ ngay sang phải. Emma bước vài bước theo hướng ngược lại rồi ngoảnh lại chừng nửa giây trước khi cánh cửa phòng đóng lại. Cô lấy số phòng rồi gọi thang máy xuống tầng tiền sảnh.

Đúng lúc cánh cửa thang máy khép lại, cô bỗng nảy ra một mẹo để khám phá danh tính của “người đàn ông bí hiểm.”

***

Nhà hàng của khách sạn St. Francis là một hộp đựng nữ trang thực sự, đồ đạc bày biện theo phong cách hoàn toàn hiện đại. Tất cả những chi tiết trang trí đều thuộc tông kem và ánh bạc, từ những tấm bình phong bằng xa tanh, tới bốn góc phòng, tới những mép diềm bằng kim loại buông xuống từ các thanh treo rèm. Ngay cả bộ đèn chùm khổng lồ, trang hoàng bằng pha lê đẽo gọt, cũng phát ra những ánh phản chiếu màu ngà.

– Chào mừng quý khách, quý khách đã đặt bàn chưa? Quản lý nhà hàng hỏi Emma.

– Tôi không tới dùng bữa. Tôi có một thông báo khẩn muốn gửi tới người quản lý rượu chỗ các vị, Mickaël Bouchard.

– Chị vui lòng đợi.

Emma chờ chưa đầy một phút đã thấy anh chàng quản lý rượu trẻ tuổi tới gặp mình.

– Lovenstein ư? Chị làm gì ở đây vậy? anh chàng đồng nghiệp người Québec hỏi cô.

Họ không phải bạn bè thân thiết nhưng thường xuyên gặp nhau tại các hội thảo chuyên đề, các buổi nếm rượu và các cuộc thi.

– Chào Mickaël. Tôi cần nhờ anh giúp một việc.

– Tôi đang trong ca làm việc. Chị biết thế nghĩa là sao rồi đấy. Chúng ta uống một ly sau nhé? anh chàng đề xuất.

Cô lại gần anh ta rồi năn nỉ:

– Xin lỗi vì đã thúc bách anh, nhưng chuyện này thực sự khẩn cấp.

– OK, vậy chị nói nhanh đi.

– Anh có thể hỏi danh tính khách ở phòng 321 không?

– Chị đùa chăng? Chị đang làm gì với vấn đề bảo mật khách hàng của chúng tôi vậy? Đối với khách hàng ở Thống Soái chị cũng làm như vậy sao?

– Anh làm ơn đi, Mickaël, chuyện này hết sức quan trọng. Hãy gọi cho lễ tân hoặc gác cổng.

– Nhưng làm vậy tôi mất việc như chơi đấy!

– Đừng nói quá lên thế chứ, tôi chỉ nhờ anh cho biết tên của vị khách đó thôi!

– Và đổi lại tôi được gì trong chuyện này nào?

– Tôi không biết. Anh muốn gì? Một màn kèn trống ngay sau đó, đằng kia, sau cửa bếp nhé?

Cô cố tình cao giọng và một vài thực khách trong nhà hàng ngoái lại.

Anh chàng người Canada tái nhợt, anh ta kéo Emma ra đại sảnh.

– Chị phiền phức quá đấy, Lovenstein! Chị đúng là bệnh hoạn!

– Ra quầy lễ tân và tìm cho tôi tên vị khách thuê phòng 321. Làm ơn đi mà!

Anh ta làm theo vẻ cáu kỉnh. Cuộc trò chuyện diễn ra ngắn ngủi. Chưa đầy hai phút sau, anh chàng đã trở lại chỗ Emma rồi thốt lên:

– Vị khách đó đăng ký dưới tên Oleg Tarassov. Chị vừa lòng chưa?

Cô rút ra từ trong túi hông ba lô ra một chiếc bút.

– Cảm ơn đã hợp tác, bạn đồng nghiệp thân mến, cô nói rồi ghi lại cái tên lên cẳng tay.

– Chị biến đi, Lovenstein. Mickaël vặc lại rồi quay bước.

***

Mắt Romuald sáng trưng trước các màn hình. Cậu nhóc vừa mã hóa đoạn ghi âm trên máy tính và chuẩn bị lọc sạch nó bằng cách loại bỏ tạp âm.

Cậu nhóc khởi động một phần mềm thích hợp, chương trình mở ra một cửa sổ sao chép một cấu hình bàn dựng. Cậu lắng nghe bản ghi âm để tách một đoạn khi âm thanh nền phát liên tục và dai dẳng. Cậu dùng đoạn mẫu ấy để lập tham số “biên dạng” của âm thanh bằng cách xác định chính xác tần số và âm lượng. Sau đó, cậu lựa chọn toàn bộ để tiến hành lọc âm thanh.

Cậu nhóc nghe lại đoạn đầu của file âm thanh, nhưng chưa hài lòng với kết quả.

Trong các loạt phim truyền hình thì dễ hơn rồi…

Không nản chí, cậu hí hoáy với các tần số giọng trong khoảng mười lăm phút nữa, chơi đùa với biên độ âm thanh để cho ra một kết quả vừa ý hơn.

Rồi cậu nghe lại bản thu một lần nữa.

Và những gì nghe thấy khiến cậu lạnh sống lưng…

***

Emma ngồi ở quầy bar khách sạn St. Francis trên một băng ghế gần lối vào để có thể quan sát đại sảnh phòng khi Tarassov quyết định ra ngoài. Cô gọi một ly caipiroska, rồi lấy máy tính ra, kết nối với wifi của khách sạn.

Tâm trí cô hết sức tỉnh táo. Hiện tại, cô đang hoàn toàn đắm chìm vào cuộc điều tra. Cô chưa bao giờ cảm thấy như thế này. Lượng adrenalin và cơn phấn khích gạt đi mọi phòng tuyến, khiến cô táo bạo hơn bao giờ hết.

Cô gõ “oleg tarassov” vào công cụ tìm kiếm. Có rất nhiều kết quả: profile Facebook, LinkedIn, VK[1]… Cô nhấp chuột vào “Google image” và vô cùng ngạc nhiên khi gần như tức khắc nhìn thấy một trong những bức ảnh của Oleg Tarassov mà cô tìm kiếm. Trên ảnh, ông ta trẻ hơn chừng chục tuổi, nhưng vẫn là gương mặt không biểu lộ chút cảm xúc ấy, như thể được đúc khuôn thạch cao. Hình ảnh dẫn tới trang web được coi là kinh thánh điện ảnh trực tuyến: trang web Internet Movie Database. Căn cứ theo thông tin từ IMDb, Oleg Tarassov là một “diễn viên đóng thế” và “điều phối viên đóng thế” trong nhiều phim hành động những năm 1990. Phần lớn không phải là kiệt tác điện ảnh, còn xa mới được như vậy: các phim truyền hình, các sản phẩm hạng B, những bộ phim kinh dị không được đầu tư ngay từ thời đó đã phải ra trực tiếp dưới dạng VHS hoặc DVD. Ông ta hầu như lúc nào cũng làm việc cùng anh trai mình, Vassili, và chuyên môn của hai anh em họ dường như là diễn viên đóng thế các pha nguy hiểm với mô tô. Sự nghiệp “nghệ thuật” của họ đã kết thúc chừng chục năm trước, nhưng chỉ bằng vài cú nhấp chuột, Emma đã lần ra dấu vết của họ tại Los Angeles nơi có vẻ như họ tái xuất trong lĩnh vực an ninh cá nhân. Theo website của hãng, giờ hai anh em nhà Tarassov làm việc trong lĩnh vực giám sát và bảo vệ các yếu nhân.

[1] VKontakte, mạng xã hội phổ biến nhất tại Nga. (Chú thích của tác giả)

Cô đang chuẩn bị rút điện thoại ra để báo cho Romuald thì cậu nhóc tín đồ tin học đã gọi trước. Thậm chí cô không chờ hết hồi chuông đầu tiên đã bắt máy.

– Cậu đã tìm được gì chưa hả đầu đất?

– Rồi, cậu nhóc trả lời bằng giọng không chút âm sắc.

– Cậu vừa nhìn thấy ma hay sao thế?

– Tôi đã lọc đoạn băng ghi âm, cậu ta mở lời.

– Tốt rồi, thì sao?

– Tôi để chị tự nghe nhé. Đáng… sợ lắm.

Emma nhướng mày. Cô áp điện thoại vào tai phải, bịt tai trái lại để không nghe sót điều gì trong cuộc hội thoại.

Kate: Tiền để trong túi đó. Tôi đã làm đúng như cam kết: một khoản thanh toán 500.000 đô nữa. Năm trăm thếp đặc mệnh giá 100 đô.

Oleg: Vậy phần còn lại thì sao?

Kate: Ông sẽ nhận được một khi tôi biết chắc công việc đã được thực hiện chính xác theo chỉ dẫn của tôi.

Oleg: Vậy thì tối nay?

Kate: Đúng, nhưng ông nhất định phải chờ cuộc gọi của tôi rồi mới được tiến hành. Và không được trước 21 giờ. Nếu tôi không liên lạc thì ông cũng thôi đấy nhé, ông hiểu chứ?

Oleg: Còn địa điểm?

Kate: Tôi đã làm một bản lưu ý gửi ông trên usb này. Nơi đó gọi là “sườn treo”. Đó là một đoạn đường bê tông dốc và hẹp, một chiều, đằng sau ga Jackson Square tại Jamaica Plain. Nó giúp tránh đoạn nút thắt cổ chai và đèn giao thông, nhưng mọi người không muốn đi lối đó vì sợ những kẻ sống ngoài lề xã hội, đám nghiện hút và thành phố cũng đã có lệnh cấm.

Oleg: Cô chắc chắn là sẽ không có ai chứ?

Kate: Ta không bao giờ chắn chắc được điều gì, nhưng trời lạnh thế này, cả lũ bán lẻ ma túy và nghiện hút cũng sẽ chết gí ở nhà chúng thôi. Tôi không phải nhắc lại với ông phương thức tiến hành chứ?

Oleg: Không, tôi hiểu mà.

Kate: Ông ghi lại địa chỉ chưa?

Oleg: Rồi, tôi ghi rồi.

Kate: Như chúng ta đã thống nhất: nếu ông không thực hiện chính xác quy trình, thỏa thuận giữa chúng ta coi như vô hiệu lực.

Oleg: Tôi đã bảo là tôi nắm được rồi mà. Một câu hỏi sau cùng: người tôi phải thủ tiêu là ai vậy?

Kate: Là người đàn ông trên bức ảnh này. Anh ta tên là Matthew Shapiro. Chồng tôi.

Bình luận