Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Duyên kỳ ngộ

Chương 22

Tác giả: Trang Trang

Thanh Lôi rất không muốn gặp mặt Thanh La, nhưng lại không thể không gặp.

Tại Đông cung, thái tử mỉm cười hỏi: “Tiểu muội này ba năm rồi không gặp, Lôi Nhi không muốn cùng hàn huyên chuyện cũ hay sao? Nàng ta là vương phi tương lai của Bình Nam vương đấy”.

Vương Yến Hồi xen lời: “Không biết ba năm nay tiểu muội Thanh La thay đổi thế nào, tiếng đàn năm xưa, Yến Hồi quả thực khó quên”.

Mắt thái tử thoáng một tia mơ hồ, nhưng lập tức lại trong veo như nước.

Lúc đó một cung nữ đi vào quỳ bẩm: “Tam tiểu thư tướng phủ cầu kiến!”.

“Mau mời vào!”.

A La bước từng bước ngắn, thong thả vào cung, nàng cởi chiếc áo choàng, quỳ phục xuống nền: “Thái tử điện hạ thiên tuế, thỉnh an thái tử phi, thỉnh an lương đệ!”. Chiếc váy màu xanh nhạt xòe như cánh bướm, vóc dáng thanh mảnh như mầm lộc biếc đầu cành lúc xuân về. Hôm nay nàng đã cất công trang điểm, không biết người ở Đông cung nhìn thấy sẽ phản ứng thế nào?

Thái tử cười: “Đều là người nhà, không cần đa lễ, đứng lên đi!”.

A La đứng dậy, khi vừa ngước mắt, sắc thu ba sóng sánh, nụ cười diễm lệ như đóa mai bừng nở trong nắng xuân, khiến ba người trong điện giật mình. Thanh Lôi bất giác nắm chặt nắm tay, trong lòng như có tiếng thầm thì: “Đã sớm biết mà, có một người mẹ như vậy, ả ta lớn lên tất sẽ là giai nhân khuynh thành!”. Ánh mắt như bốc hỏa, liếc nhanh thái tử, chỉ thấy Lưu Giám đứng ngây người. Thanh Lôi ngẩn ngơ, cũng phải thôi, một giai nhân như vậy, đàn ông nào chẳng động lòng?

Vương Yến Hồi là người định thần nhanh nhất, mỉm cười nói: “Không ngờ tiểu muội Thanh La lưu lạc mấy năm trở về lại đẹp đến thế, quả thật khiến chúng ta nhìn không muốn rời, Yến Hồi này tự hổ thẹn không bằng!”.

Thái tử cũng sực tỉnh, cười nói: “Bình Nam vương thật có phúc!”.

A La cất tiếng: “Anh rể trêu đùa A La rồi, ai bảo muội sẽ lấy huynh ấy? Muội không thích kiểu người lỗ mãng như vậy!”.

Nói đoạn, đi đến bên Thanh Lôi,”Hai vị nương nương, một người cao sang quý phái, một người tuyệt sắc vô song, A La đâu sánh được”.

Vương Yến Hồi nói đùa: “Chẳng phải thái tử có chuyện cần đi sao? Không nên quấy rầy chị em thiếp hàn huyên”.

Lưu Giám có vẻ nấn ná không muốn đi, mối hoài nghi trong lòng bao năm cuối cũng đã nghĩ ra lời đáp, nhưng bây giờ chưa phải lúc hỏi chuyện đó. Nụ cười lại hiện trên khuôn mặt tuấn tú của chàng: “Đã đến đây, cứ ở lại Đông cung chơi ít ngày, Lôi Nhi nhớ muội lắm đó”.

Thái tử giữ nàng ở trong cung là có ý gì? Muốn chứng thực khúc “Thu thủy” kia hay là định dùng nàng làm con tin? A La thầm cảnh giác, nét mặt vẫn tươi cười.

Trong đầu Vương Yến Hồi đang suy nghĩ rất lung, cảm thấy Thanh La nói không lấy Bình Nam vương có gì không thật. Nếu không lấy Bình Nam vương, thì người trong lòng nàng ta là ai? Bình Nam vương Lưu Giác người tuấn tú hào hoa, trẻ măng đã được phong vương, uy quyền sáng chói, một trang nam nhi hoàn hảo, là giấc mộng của bao tú nữ danh gia. Sắc đẹp của A La khiến ba người ở đây kinh ngạc như thế, lẽ nào nàng ta muốn địa vị cao hơn? Hay là người trong lòng nàng ta là…

Thanh Lôi nắm tay A La, hỏi Vương Yến Hồi: “Ba chúng ta đến nhà thủy tạ chơi được không?”.

Vương Yến Hồi cười nhạt: “Được, ta đang muốn chuyện phiếm với tiểu muội Thanh La”. Nhìn thấy nhà thủy tạ, A La ngây người ra. Đây quả là cảnh thần tiên. Hơi nóng từ mặt hồ sen bốc nghi ngút mịt mờ như sương khói, giống như người ta đào hầm đốt than dưới đáy hồ. Ai nói tiền bạc quyền thế không tốt? Để làm nên cảnh quan thế này cần bao nhiêu nhân công, bao nhiều tiền của?

Thị tỳ bưng trà và đồ điểm tâm lên, ba người an tọa, nhàn tản thưởng lãm cảnh sắc. A La thầm nghĩ, khung cảnh thần tiên thế này không mảy may gợn lên không khí căng thẳng gươm đao tuốt trần trong ngoài cung đình.

Đột nhiên bên nhà ngoài thủy tạ có tiếng bước chân, A La ngoái đầu, nhìn thấy một khuôn mặt trẻ con ửng hồng, đôi mắt đen láy, cái cằm nhỏ xinh. Nàng quay sang nhìn Thanh Lôi, Thanh Lôi cười dịu dàng: “Tâm Nhi, sao lại chạy đến đây?”.

“Tiểu công chúa? Con của tỷ tỷ sao?”.

“Đúng thế. Thái tử bây giờ mới có mỗi tiểu công chúa này. Chàng nâng niu như ngọc báu đấy”. Vương Yến Hồi cười.

Hai nữ tỳ lo lắng theo sau Tâm Nhi, đi vào nhà thủy tạ, quỳ xuống thỉnh an ba người bọn họ. Vương Yến Hồi lơ đãng nói: “Đứng dậy đi, mùa đông rét thế đừng để tiểu công chúa bị lạnh”, rồi nhìn Tâm Nhi, mặt đã cười rạng rỡ, “Tiểu công chúa của ta, sao hôm nay lại chạy đi tìm mẫu phi?”.

Tâm Nhi hai tuổi, mắt chớp chớp thỏ thẻ đáp: “Nghe nói di nương hôm nay đến, Tâm Nhi muốn gặp di nương”.

Lòng A La êm dịu như hơi ấm bên ngoài nhà thủy tạ. Nàng đi đến ôm Tâm Nhi vào lòng, vuốt ve khuôn mặt nhỏ bé, mỉm cười nói với Thanh Lôi: “Tâm Nhi lớn lên chắc cũng sẽ đẹp như tỷ tỷ!”.

Thanh Lôi dịu dàng sai cung nữ: “Đưa tiểu công chúa về điện, bên ngoài này gió to lắm”. Cung nữ đi đến bế Tâm Nhi, cô bé nhệch môi, nước mắt ứa ra nhưng không dám khóc, đôi mắt đen láy nhìn Vương Yến Hồi, lại nhìn mẹ, miệng thỏ thẻ: “Tâm Nhi đi đây, buổi tối lại đến thỉnh an mẫu phi”.

A La thầm than thở, trẻ con trong cung ngay cả khóc cũng không dám. Ánh mắt chuyển đến Vương Yến Hồi, thấy nàng ta thần sắc nhàn tản như không, lại lướt đến Thanh Lôi. Đáy mắt Thanh Lôi thâm u, thấm buồn. A La vội nói: “Làm mẹ thích thật, nhìn Tâm Nhi kìa, ngoan chưa”.

Vương Yến Hồi cười: “Tiểu muội lấy Bình Nam vương rồi cũng được làm mẹ”.

A La cúi đầu làm bộ xấu hổ: “Đã nói không lấy người đó, nương nương lại còn đùa A La!”.

“Trong lòng muội có người khác sao? Là ai vậy, người đó hơn cả Bình Nam vương ư?”. Vương Yến Hồi lại đùa.

A La e thẹn, cúi đầu, tay mân mê cốc trà, dáng vẻ như thầm công nhận. Lòng Vương Yến Hồi trầm lại, nếu Lý Thanh La không lấy Lưu Giác, với tính khí Lưu Giác y tuyệt đối không bỏ qua. Năm xưa nghe nói Lưu Giác càn quét hơn ba trăm ngọn núi phía nam, nàng đã đoán ngay Lý Thanh La là con đường ngắn nhất chế phục Lưu Giác. Bây giờ An Thanh vương nhàn tản tại gia, con người này dù có mưu cao đến mấy trong tay cũng chỉ có ba trăm binh sĩ Ô y kỵ. Lão vương gia đó tính nóng như lửa, muốn dùng ông ta để ép Lưu Giác, chỉ e ông ta thà chết cũng không chịu, nhưng Lý Thanh La thì khác, nàng ta là gái mơn mởn như hoa. Nói đến chết ai chẳng sợ, nàng ta cũng không ngoại lệ. Nhưng nếu Thanh La không lấy Lưu Giác, giữ nàng ta phỏng có ích gì?

Ánh mắt Vương Yến Hồi dừng trên người Thanh Lôi, thấy Thanh Lôi quay lưng về phía kia, đang nhìn hoa sen trong hồ, bèn cười: “Tiểu muội trong lòng có người khác, lương đệ hẳn đã sớm biết?”.

Thanh Lôi giật mình, quay đầu mỉm cười: “Thanh Lôi cũng rất ngạc nhiên, đang thầm nghĩ, liệu còn có ai có thể khí phách anh hùng hơn Bình Nam vương?”.

A La hơi sốt ruột, giả bộ e thẹn không đáp, trong đầu nhanh chóng phân tích tình hình: An Thanh vương muốn tạo cho Lưu Giác một cái cớ đề quay trở về kinh thành, muốn mình nói dối là thoái hôn, nhưng lại không bàn bạc với mình nên nói người mình thích là ai. Ai thích hợp nhất? Là thái tử, Tử Ly hay là Cố Thiên Tường? Người này phải không kém Lưu Giác mới làm cho thái tử tin. Cố Thiên Tường đứng về phía Tử Ly, nhưng anh ta không có ảnh hưởng gì lớn đối với Tử Ly, cũng không có vai trò gì lắm trong cuộc đấu giữa An Thanh vương và Cố tướng. Rất nhiều người đều biết Lưu Giác và Cố Thiên Tường là bằng hữu thân thiết, dù Lưu Giác trút giận lên đầu Cố gia cũng không ảnh hưởng đến Tử Ly.

Hay là nói thái tử, bản thân chàng ta chẳng có quyền hành, ảnh hưởng gì đối với Vương Yến Hồi và Thanh Lôi, lại còn có thể khiến họ sợ hãi gây mâu thuẫn với Lưu Giác, lúc này Đông cung sẽ hoàn toàn không đối đầu với Lưu Giác. Nếu nói người đó là thái tử, chỉ có một cái hay đó là rất có thể làm thái tử động lòng, khiến Lưu Giác có cớ khởi binh.

Nếu nói người đó là Tử Ly, như vậy Đông cung chỉ cần nhân định Tử Ly có tình ý với nàng là sẽ coi nàng là một quân cờ, nếu có chuyện xảy ra, nàng sẽ trở thành con tin. Cái hay chính là khiến họ cho rằng Lưu Giác vì thế sẽ trở mặt với Tử Ly, không thể cùng lúc ủng hộ hai phía, sẽ chỉ đứng về phía Đông cung.

Rút cục nên nói là ai? A La hơi do dự, thầm mắng An Thanh vương không chịu nói rõ. Nàng đột nhiên tỉnh ngộ, lão vương gia cáo già kia bề ngoài tỏ vẻ bất cần nhưng thực lòng rất yêu Lưu Giác, bây giờ để cho nàng lựa chọn, dù lựa chọn ai, Lưu Giác đều có lý do dấy binh.

Trong lúc A La cúi đầu trăn trở, Vương Yến Hồi và Thanh Lôi cũng đang suy nghĩ, rút cục người đó là ai? Có thể đối địch với Lưu Giác, hơn nữa lại có gan cướp vị hôn thê của chàng ta, khắp vương triều hiện cũng chỉ có mấy người. A La cuối cùng ngẩng đầu, mặt mày tươi tỉnh: “Ôi, A La vô duyên quá. Cũng muộn rồi, tiểu muội xin cáo từ về phủ, lúc khác lại đến thăm hai nương nương”. Chưa nghĩ ra được thì tạm gác lại, chính là kế hoãn binh.

Vương Yến Hồi mỉm cười: “Mấy khi tiểu muội vào cung, thái tử cũng đã có lời, nếu tiểu muội nhất định ra về, điện hạ quay trở lại không thấy người thì làm thế nào? Cứ lưu lại đây vài ngày, tỷ tỷ còn muốn nghe muội chơi đàn”.

“Phải đấy, A La tối nay ở lại chơi. Mấy khi vào cung, ở chơi vài ngày hãy về”.

Thanh Lôi vội nói, rồi gọi cung nữ đến tướng phủ truyền lệnh.

A La đành nhận lời, bụng nghĩ, xem ra nếu mình không nói rõ người đó là ai thì chắc không thể ra khỏi cung.

Bái biệt Vương Yến Hồi, Thanh Lôi dắt tay A La với vẻ rất thân thiết song lại có phần lo lắng đưa nàng về tẩm cung. A La để cho nàng ta dắt đi, bụng cười thầm, cuối cùng có thể trút bỏ cái mặt nạ tỷ muội tình thâm rồi!

Thanh Lôi buông tay A La, lệnh cho cung nữ lui hết. A La nói: “Đuổi hết cung nữ ra ngoài, Thanh Lôi lần này tỷ lại định chơi trò gì?”.

Trên khuôn mặt xinh đẹp lạnh lùng của Thanh Lôi dần dần như thấm nỗi buồn thê lương, nàng từ từ quỳ trước mặt A La. A La ngớ người, nhìn nàng ta rồi vội giơ tay đỡ: “Định nói gì cứ nói, sao phải làm thế. Chuyện lần trước muội đã quên từ lâu rồi”.

“Tỷ cầu xin muội, không phải vì chuyện lần trước”. Hai hàng nước mắt đã ròng ròng trên mặt Thanh Lôi. “Tỷ xin muội nếu có ngày, nếu có ngày tỷ mệnh hệ gì, xin muội thay tỷ chăm sóc Tâm Nhi, được không?”.

A La kinh ngạc thất sắc: “Tỷ nói thế là có ý gì? Tỷ đứng dậy đi”.

Thanh Lôi vẫn quỳ: “Muội phải nhận lời với tỷ, nếu tỷ có bất trắc, muội nhất định phải chăm sóc Tâm Nhi”.

A La thở dài: “Tâm Nhi ngoan như thế, ai chẳng yêu. Nó mới hai tuổi thôi mà”.

Mặt Thanh Lôi thoáng mừng, từ từ đứng lên, thở phào một hơi, nói khẽ: “Không biết tại sao, tỷ tin là muội sẽ chăm sóc tốt cho Tâm Nhi”.

Thanh Lôi nhìn A La đăm đăm: “Muội đẹp thật. Thật ra thất phu nhân tính tình hiền dịu, đối với tỷ cũng rất tốt, nhưng tỷ và Thanh Phỉ đều không thích muội. Có lẽ từ nhỏ bọn tỷ đã cùng có ý nghĩ, sau này lớn lên muội nhất định sẽ đẹp hơn bọn tỷ, vì vậy luôn khó chịu mỗi khi nhìn thấy muội”.

Thanh Lôi lại cười buồn: “Trước đây tỷ có một gánh nặng trong lòng, bởi vì tỷ yêu điện hạ, sợ chàng vì khúc “Thu thủy” mới thích tỷ, mỗi lần nghĩ đến chuyện đó tỷ vừa hận vừa ghen với muội, trong lòng nơm nớp lo âu. Chỉ một cái liếc mắt của Vương Yến Hồi là tỷ đã run lên, phấp phỏng lo lắng. Trong dạ tiệc hồi đó, thái tử bảo tỷ chơi đàn hầu Tứ điện hạ. Trong lúc bối rối hoảng sợ tỷ đã làm tay mình bị thương, thực ra trong lòng rất hận muội, hận muội đã khiến tỷ phải đến nước này, cho nên mới đem tiền đồ của Thành Tư Duyệt ra để ép Thanh Phỉ, để muội ấy đổ tội cho muội. Làm như vậy thực xuẩn ngốc, nhưng tỷ không hối hận, nếu lặp lại, với tâm trạng tỷ lúc đó tỷ vẫn làm thế. Mặc dù không hại được muội, cũng để Vương Yến Hồi chứng thực mối hoài nghi trong lòng ả. Có điều, không phải tỷ không có được điều tỷ mong muốn. Thanh Lôi không thể đánh đàn, điện hạ sẽ đối xử ra sao? Tỷ luôn muốn biết lòng điện hạ, chính trong buổi tối hôm đó chàng đã rất mực dịu dàng với tỷ, nhưng không dám ở lại cùng tỷ, tỷ càng hiểu, chàng không yêu Vương Yến Hồi, nhưng cần sự giúp đỡ của ả. Lúc đó tỷ chỉ cầu mong muội có thể suôn sẻ lấy Bình Nam vương, có người em rể như vậy, địa vị của tỷ ở Đông cung mới vững bền. Cũng chính bởi vì Bình Nam vương một lòng chân tình với muội, thái tử cũng sẽ chăm sóc tỷ, Vương Yến Hồi cũng đối xử rộng rãi với tỷ”.

A La lại thầm than thở, thương cho Thanh Lôi: “Tỷ cũng có vị trí trong lòng thái tử, đây chỉ là sự lựa chọn bất đắc dĩ của thái tử đối phó với tình thế mà thôi, có thể thông cảm. Nếu thái tử yên vị trên ngôi báu, chàng tất sẽ thương tỷ. Chẳng phải thái tử rất yêu Tâm Nhi sao? Cớ gì không thương mẹ nó?”.

“Nhưng muội lại không muốn lấy Bình Nam vương! Người trong lòng muội là tứ hoàng tử đúng không? Trước khi muội quen Bình Nam vương, muội đã quen Ly Thân vương rồi!”.

Sao nàng ta biết? Lúc đó ngay bản thân nàng cũng không biết Tử Ly là tứ hoàng tử Lưu Phi.Cô thầm nghĩ.

“Muội đừng phủ nhận! Trong dạ yến ở Đông cung ba năm trước, khi tứ hoàng tử lên tiếng định giải vây cho muội, muội mới nhân cơ ứng phó, tỷ liền biết muội quen chàng ta! Sự bi phẫn oai oán trong tiếng đàn của muội không phải trút lên đầu người chị này, mắt muội nhìn về phía tứ hoàng tử, muội giận chàng ta không thể bảo vệ muội!”. Thanh Lôi nói từng câu từng chữ.

Cha mẹ ơi, sao người ở đây lại tinh ma đến thế, ngay một ánh mắt cũng không bỏ qua? Thanh Lôi hạ giọng rất thấp: “Tỷ đoán là tứ hoàng tử, nhưng chưa bao giờ mở miệng nói với ai, kể cả thái tử. Ninh vương không qua khỏi được, chỉ có Ly Thân vương mới có thể tranh giành với thái tử. Tỷ là người của thái tử, đương nhiên sống chết theo chàng, tỷ cũng mong thái tử có thể yên ổn lên ngôi, nhưng nếu thất bại, có muội chăm sóc Tâm Nhi, tỷ cũng yên lòng, ra đi không vương vấn! Muội muốn thoái hôn. Tỷ thấy cha cũng không phản đối lắm, câu cửa miệng của ông ta là bảo toàn quyền thế, ba đứa con nếu trong các phe đối lập, bất luận ai thắng ông cũng là người thắng lớn”.

Thanh Lôi thật đáng thương, nàng có nên nhận lời không? Nếu vậy thực sự nàng đã tự đẩy mình vào chỗ đầu sóng ngọn gió, một khi Tử Ly khởi binh chẳng phải nàng trở thành tế phẩm hàng đầu hay sao? Liệu họ có đem đầu nàng treo ở cổng thành để uy hiếp Tử Ly không? A La lòng đau nhói.

Nghĩ đến Tử Ly, hình ảnh Lưu Giác lại hiện lên, ánh mắt nàng trở nên dịu dàng, khuôn mặt nặng tình của chàng đã in vào lòng nàng không thể xua được. Nàng cười đau khổ, đã hoàn toàn hiểu cục diện trước mắt. Nàng tuyên bố không thích Lưu Giác, muốn thoái hôn, An Thanh vương phủ không thể mất con dâu, Bình Nam vương đương nhiên cũng không thể mất vị hôn thê đã bỏ chàng một lần, lại định bỏ lần nữa? Lưu Giác đương nhiên có cớ trở về kinh thành. Tình hình hiện nay có hai người để nàng lựa chọn nói ra, bất luận nàng nói ai, mũi kiếm đều hướng vào Đông cung.

Nếu nói là thái tử, nàng sẽ phải dùng mỹ nhân kế. Nhưng cho dù mê hoặc được thái tử, bây giờ thái tử cũng sẽ không thể đắc tội An Thanh vương và Lưu Giác đang nắm giữ Nam quân. Cho nên nàng chỉ có một lựa chọn.

Tại sao An Thanh vương lại tỏ ra trở mặt với Tử Ly, nàng hiểu nhưng ông cũng không cần nàng phải hiểu. E rằng cho dù nàng không nghĩ ra trò viết bức thư đùa bỡn Lưu Giác, thì An Thanh vương cũng sẽ viết như thế. Đó là con cáo già! Có lẽ ông đã sớm nghĩ ra ý đó, nhưng không tiện nói mà thôi.

Nghĩ đến đó A La thấy buồn cười, lão cáo già vẫn còn tốt, không ép mình, càng không nói cho mình đáp án này. Chỉ cần An Thanh vương mở miệng, nàng tự khắc sẽ làm theo, Lưu Giác có thể danh chính ngôn thuận liên minh với thái tử, có tay trong hỗ trợ là cách dễ nhất để giúp Tử Ly. Kỳ thực Nam quân và Hữu quân kết hợp đã đủ binh lực, An Thanh vương làm như vậy, chỉ là không muốn dấy binh gây ra nội chiến ở Ninh quốc! A La than thở: “Tỷ thật tinh mắt! Khi còn ở tướng phủ muội đã hòa tấu với Tử Ly ở trong rừng trúc, đã có lời đính ước với chàng. Cho nên ba năm trước, sau khi Bình Nam vương cầu hôn, muội liền bỏ trốn”.

Nàng nói liền một mạch trơn tru, bản thân nghe cũng thấy hết sức bình thường, tự nhiên. A La bất giác nghĩ, thì ra trong thâm tâm mình vốn đã đồng ý giúp Lưu Giác, vì chàng mà mình có thể nói dối trơn tru như thế. Vốn định trở về Phong thành chỉ muốn dựa vào cây đại thụ An Thanh vương để sống yên ổn, đàng hoàng, ai ngờ không tránh khỏi bị cuốn vào dòng xoáy. Chỉ có điều lần này là mình tình nguyện.

A La thận trọng nhìn Thanh Lôi. Lời A La vừa nói, nàng ngầm đính ước với Tử Ly, vốn đã nằm trong dự đoán của Thanh Lôi, nhưng vẫn khiến Thanh Lôi không nén nổi kinh ngạc: “Muội đã ngầm đính ước suốt đời với Ly Thân vương? Hai bên đã có đính ước, tại sao lúc đầu không đến Biên thành?”.

“Tử Ly đâu dám đắc tội với Cố tướng? Bây giờ muội cũng đâu dám đi Biên thành tư tình với huynh ấy, tỷ hồ đồ hay sao?”. A La cười nhạt, “Có điều, tỷ đã ủy thác Tâm Nhi cho muội, có lẽ cũng không nói ra chuyện của muội và Tử Ly cho thái tử và thái tử phi chứ?”.

“Tử Ly? Muội gọi chàng ta thân mật như vậy, e là vương phi của Ly Thân vương cũng chưa dám gọi như thế?”. Thanh Lôi than thở, “Thật không ngờ Ly Thân vương cũng có lòng với muội, thì ra tiếng tiêu trong phủ hồi nào là của Ly Thân vương, tỷ còn tưởng là muội và thất phu nhân hòa tấu, chúng ta đúng là không có mắt. Tỷ sẽ không nói ra, nhưng với đầu óc của Vương Yến Hồi, e là ả đã nghĩ đến chuyện này”.

Có cung nhân đi vào truyền lời, nói thái tử phi mời hai người dùng bữa, A La nghĩ cục diện đã bố trí xong, không còn do mình làm chủ nữa. Hiện nay vẫn chưa có gì nguy hiểm, sau này thế nào cũng khó nói. Điều bây giờ nàng rất muốn biết là Vương Yến Hồi sẽ ứng phó ra sao. Đột nhiên, A La cảm thấy bản thân nàng giống như liều thuốc thử, thông qua thái độ của Vương Yến Hồi để thăm dò ý tứ của Đông cung.

Trong bữa, A La ăn rất tự nhiên, ăn xong uống trà, tươi cười nói: “Chẳng phải nương nương luôn muốn nghe A La chơi đàn sao? Thực ra ba năm nay A La rất ít động đến cây đàn, tiện đây không nên để nương nương thất vọng mới được”.

Đánh bài gì? Mắt khẽ chớp, khúc “Thu thủy” đã lạnh lùng vang lên dưới những ngón tay, không mấy liên quan với lần chơi đàn ở Đào hoa yến, thêm vài phần dào dạt lâm ly, bớt vài phần hào sảng cao ngạo, Vương Yến Hồi vỗ tay khen: “Bao năm rồi, cuối cùng đã được nghe khúc “Thu thủy” lừng danh! Bình Nam vương ắt hẳn xiêu lòng”.

Vẫn đang thăm dò sao? A La lẩm bẩm: “Chàng ta hiểu gì? Đâu có sành âm luật như Tử Ly?”. Lời vừa dứt, nàng vội “ôi” một tiếng, lấy tay bịt miệng, mắt hốt hoảng.

Vương Yến Hồi khẽ cười: “Ly Thân vương ư, tiếng tiêu đích thực là tuyệt tác vô song, đêm đêm vẳng ra từ Ly cung khiến người ta mủi lòng. Thì ra người trong lòng tiểu muội là tứ hoàng đệ!”.

Ba người mải chuyện không chú ý, thái tử đã đứng ngoài cửa từ lúc nào, tâm trạng đang ngơ ngẩn bàng hoàng, oán hờn, đau buồn, thất vọng đan xen. Chàng đứng đó thanh tú trong màn đêm, muốn cười mà không thể.

Thì ra là nàng ta? Hai mắt chàng sâu như đêm tối, ẩn chứa nỗi buồn không gì hóa giải. Năm xưa trong dạ yến thấy Cố Thiên Lâm thanh khiết như hoa lan, cảm thấy đó là một thanh nữ tao nhã, nhưng khi nghe khúc “Thu thủy” chàng lại bị hấp dẫn bởi khí phách hào sảng, tâm hồn lộng gió, chí gửi bốn phương của người chơi đàn, thầm nghĩ chỉ có người con gái hồn nhiên, lòng không toan tính như vậy mới xứng là tri âm của mình. Chàng lặng lẽ bước từng bước nhỏ, lòng xiết bao kinh ngạc, ngay từ thuở ấu thơ chàng đã học cách tự kìm chế, văn võ đều gắng sức chuyên cần, không ai biết sâu trong lòng, thực ra chàng muôn phần ngưỡng mộ không khí đầm ấm gia đình. Hồi đó chàng đã nghĩ, nếu có một người con gái như vậy làm bạn, cuộc sống vương cung của chàng tuy căng thẳng nặng nề với bao trọng trách, bổn phận nhưng cũng sẽ có niềm vui.

Càng tự khắc chế thì lại càng khao khát được tự do cất cánh. Cho nên chàng không do dự chọn ngay Thanh Lôi. Thanh Lôi xinh đẹp, dịu hiền, đối với chàng luôn một khối tình sâu, tuy nhiên, Thanh Lôi lại không chơi khúc “Thu thủy” nữa. Nàng bảo, Thanh Lôi giờ không còn tâm trạng năm xưa, chơi nhiều sẽ nhàm khiến điện hạ thất vọng.

Chàng hiểu, tiếng đàn là thế, đâu phải lúc nào cũng một tâm trạng. Cho dù mẫu hậu một mực muốn chàng lấy Vương Yến Hồi cháu mình, con gái Vương thái úy làm chính phi, chàng cũng chấp nhận. Chàng nghĩ, ngôi báu tất sẽ thuộc về chàng, nếu không nỗ lực bao năm sẽ thành uổng công, hùng tâm tráng chí khó bề thực hiện. Muốn được vương vị chàng phải dựa vào nhà họ Vương. Nhưng đồng thời chàng cũng lấy Thanh Lôi và rất sủng ái nàng.

Nhưng hôm nay chàng mới nhận ra, người con gái say mê thu thủy trường thiên, đắm say bầu trời biển khoáng đạt bao la thì ra là nàng ấy.

Nàng ấy đẹp đến độ khiến chàng thất kinh sững sờ, tiếng đàn của nàng khiến tim chàng rung động, bồi hồi. Tuy nhiên, lần nào chàng cũng đều bị lỡ. Hôm nay, nàng ấy không chỉ không muốn lấy Bình Nam vương mà lòng nàng ấy còn hướng về tứ hoàng đệ của chàng.

Chàng từ từ nắm chặt nắm đấm, nỗi hận bùng lên. Chàng là thái tử, đương nhiên sẽ là hoàng đế tương lai, vậy mà cho dù mọi việc triều chính chàng làm tốt đến đâu, tuy được khen ngợi, nhưng ánh mắt phụ hoàng nhìn chàng vẫn không chút ấm áp. Tử Ly chẳng qua là vương tử nhàn nhã, chính sự quan trọng không hề tham gia, chỉ làm những việc lặt vặt, nhưng chỉ cần Tử Ly làm được một chút việc cỏn con, phụ hoàng dù không khen, nhưng ánh mắt chan chứa ân tình. Không phải phụ hoàng không yêu chàng, nhưng tình thương yêu tràn trề trong lòng chưa bao giờ dành cho chàng. Ngay chuyện hôn nhân Tử Ly cũng được ngự ban ái nữ của một trọng thần, danh thế không kém chàng.

Chàng kém Tử Ly ư? Luận ngoại hình đều tuấn tú, lịch lãm, luận tài năng, các đại thần đều nhất loạt hài lòng về chàng; luận tài hoa, cầm kỳ thi họa chàng đều tinh thông. Người con gái đánh đàn trong phòng kia tại sao dùng tiếng đàn lừa chàng, nhưng mắt lại hướng về Tử Ly? Nếu chàng biết người chơi đàn trong Đào hoa yến là nàng ấy, nàng ấy đã sớm là chính phi của chàng!

Chàng vừa từ Ngọc Long cung trở về, Ninh vương bệnh trọng, chàng ngày đêm hầu phục bên long sàng. Tử Ly làm gì? Không nói cũng biết, y đang ra sức thu phục Hữu quân, một khi phụ hoàng băng hà sẽ khởi binh tranh đế vị với chàng. Mối hận lại sôi lên trong lòng chàng. Đợi ta lên ngôi xem Lưu Phi ngươi lấy gì để tranh giành với ta! Nếu ngươi định cướp người của Lưu Giác, trận chiến này ngươi thua là chắc. Thái tử cười sang sảng, cất bước đi vào điện: “Có chuyện gì mà vui thế?”.

Ba người vội đứng dậy hành lễ. Thái tử xua tay: “Người nhà cả, không cần đa lễ!”.

Vương Yến Hồi che miệng cười: “Chuyện này tính sao đây? Tiểu muội của chúng ta không muốn lấy Bình Nam vương, mắt lại hướng về tứ hoàng đệ”.

Thái tử nhướn mày tỏ vẻ ngạc nhiên: “Ô chà, Bình Nam vương có nuốt được mối hận này không?”.

A La cúi đầu, không nói, sắc mặt khổ não.

Thái tử trầm ngâm một hồi: “Dưa chín ép không ngọt, để người anh rể này đứng ra cầm trịch cho muội. Ấy, chuyện này gay go lắm đây”.

Vương Yến Hồi cười: “Khó đến mấy cũng phải tác thành cho tứ hoàng đệ và tiểu muội mới được”.

Thái tử cau mày: “Vừa rồi ta gặp Cố tiểu thư, nghe nói tiểu muội đang làm khách ở đây, liền có lời mời tiểu muội đến Ly Thân vương phủ chơi một chuyến, nàng ấy cũng muốn xem mặt tiểu muội”.

Cố Thiên Lâm? Thái tử vì sao muốn để mình đến phủ Ly Thân vương? Có phải là muốn chứng thực quan hệ giữa mình và Tử Ly? A La cười: “Mấy năm không gặp Thiên Lâm tỷ tỷ, không biết tỷ ấy liệu có vẫn đẹp như xưa”. Đêm, trong điện của thái tử phi, Vương Yến Hồi trầm ngâm tư lự, rất lâu mới lên tiếng: “Nếu Lý tướng đồng ý cho con gái thoái hôn, như vậy sẽ trở mặt với An Thanh vương, ông ta không sợ thật sao? Thiếp vẫn thấy hồ nghi!”.

Thái tử nói: “Vừa rồi ta ghé qua chỗ Thanh Lôi, nàng ấy bảo chuyện này là có thực. Ngày xưa, trước khi vào cung Thanh Lôi thường nghe trong tướng phủ tiếng tiêu sáo hòa tấu, hôm nay mới biết tiếng tiêu là của Tử Ly. Lý Thanh La ba năm trước tháo hôn cũng là giả. Với tính cách Lý tướng ông ta có thể không thoái hôn, nhưng cũng không nóng vội gả con gái, con cáo này muốn đợi xem kết quả, muốn trước sau không có kẽ hở”.

Vương Yến Hồi đột nhiên hỏi: “Hôm nay phụ hoàng thế nào?”.

“Nôn ra máu, nửa hôn mê”.

“Điện hạ, thiếp đã bàn bạc với phụ thân, theo dõi chặt chẽ động tĩnh các nơi. Tứ hoàng đệ tất sắp trở về Phong thành, đại quân Đông lộ và đội quân bảo vệ Phong thành phải luôn chuẩn bị sẵn sàng. Theo thiếp, cũng chỉ nội trong mười ngày tới”.

Thái tử thở dài: “Thế lực tương đương, trận này không dễ đánh”.

Vương Yến Hồi cười nhẹ nhàng: “Chàng đừng quên, An Thanh vương mặc dù mưu cao, nhưng trong tay không có binh lực, khác gì hổ bị bẻ nanh? Chỉ cần chứng thực quan hệ giữa tứ hoàng tử và Lý Thanh La, Bình Nam vương và lão vương gia sao có thể nuốt trôi mối nhục lớn này, đâu còn ủng hộ Tử Ly? Không cần ông ta giúp, chỉ cần ông ta án binh bất động là chúng ta đã thắng. Nếu Bình Nam vương muốn ra tay, cứ để y và tứ hoàng đệ đấu với nhau. Chỉ có điều lòng thiếp vẫn thấy không yên, Lý Thanh La thoái hôn vào lúc này, trước sau vẫn không làm thiếp yên tâm”.

Thái tử tức giận nói: “Bất luận thật giả thế nào, đều phải giữ nàng ta trong cung, với ai cũng tốt”.

“Không, để nàng ta đến phủ Ly Thân vương. Thiếp rất muốn xem Lý Thanh La và Thiên Lâm tỷ tỷ của nàng ta chạm mặt nhau thế nào, cho người theo dõi chặt, cơ hội xuất cung thế này về sau không còn nhiều, chờ xem động tĩnh của nàng ta”. Vương Yến Hồi không biết chắc thái độ của A La. Câu chuyện này xem ra là thật, quan hệ nhân quả, lý giải của nàng nghe cũng thuận tai. Vẻ đẹp khác thường của Lý Thanh La sau ba năm mất tích vốn đã như không thật, nếu có những cái không thật nào khác cũng không có gì là lạ. Ngơ ngẩn suy tính hồi lâu, cuối cùng Vương Yến Hồi ra một quyết định. Ra khỏi cung trở về tướng phủ, A La lần lượt điểm lại từng sự việc vừa diễn ra ở Đông cung. Có lẽ họ bảy phần tin ba phần ngờ. Vậy thì khi nàng đến gặp Cố Thiên Lâm, cũng không thể để Thiên Lâm phát hiện ra điều gì, càng không thể tiếp xúc với An Thanh vương. Tốt nhất sau khi đến Ly Thân vương phủ nàng sẽ trở về nhà và ngoan ngoãn chờ đợi.

Nhưng ngộ nhỡ họ triệu vào cung làm thế nào để từ chối? A La nghĩ, sự hy sinh lần này quá lớn, không cẩn thận mất mạng như chơi. Nàng rất hận, Lưu Giác, nếu thiếp có mệnh hệ gì, chàng cùng lão vương gia cáo già đập đầu vào tường chết cho xong!

Nàng trang điểm qua loa, ra cửa, không cho Lưu Anh đi cùng: “Lưu Anh, chủ ngươi bây giờ đi gặp tình địch, ngươi không cần đi theo, tốt nhất nên giúp ta vẽ sơ đồ trong cung, sau này biết đâu có lúc dùng đến”.

Lưu Anh đã được nghe A La kể chuyện vừa xảy ra trong Đông cung, cúi đầu cười: “Vâng, chúc tiểu thư và Ly Thân vương phi hòa khí, sau này tỷ muội tình thâm!”.

A La trợn mắt: “Ngươi không sợ Bình Nam vương ghen hả?”.

“Chủ của tiểu nhân bây giờ là tiểu thư! Huống hồ tiểu vương gia ức hiếp tiểu nhân suốt hơn hai chục năm, để vương gia ghen một chút cũng tốt cho sức khỏe!”. Lưu Anh cười nói, bụng nghĩ, Lưu Giác sao có thể ghen, tiểu vương gia tuyệt đối không ghen, chỉ có đau, đau lòng! KhônNgười hầu đưa A La vào phủ Ly Thân vương, vừa bước vào chính đường đã ngẩn người. “Đây là bức họa vương gia cất giữ mà ta lén lấy xem”. Cố Thiên Lâm nhìn bức tranh ngơ ngẩn: “Mới thoạt nhìn, ta vô cùng sung sướng, tưởng là chàng nặng tình với ta như vậy. Nhìn lại lần nữa, ta như rơi xuống đáy vực. Tam tiểu thư, người trong bức họa hóa ra là muội”.

Thiên Lâm quay người nhìn A La: “Tiểu a hoàn của tướng phủ trong Đào hoa yến lần đó, cô gái nhỏ thông minh đã nhận ra ta khi ta cũng đóng giả a hoàn thì ra chính là tam tiểu thư tướng phủ”. Một tiếng thở dài rất nhẹ tựa hồ không thể nhận ra, “Ta suy nghĩ mãi, mới biết trong bức họa Bình Nam vương vẽ ta, đôi mắt lóng lánh như thủy tinh chính là đôi mắt của tam tiểu thư tướng phủ”.Không biết sau khi trở về sẽ trút giận lên đầu lão gia như thế nào?

A La nhất thời không biết nói sao. Lưu Giác từng nói chàng vẽ bức họa Cố Thiên Lâm, nhưng lại vô tình vẽ mắt nàng trong đó. Chàng ngày đêm ngắm đôi mắt này ư? Khi nghe chàng kể không nhận ra, bây giờ nhìn nàng mới thấy lòng đau nhói từng cơn, cảm động rưng rưng.

Cố Thiên Lâm đã đi đến trước mặt nàng: “Mắt nàng rất đẹp, thực ra không chỉ đôi mắt, cả con người nàng đều rất đẹp. Hồi xưa mái bờm che lấp nửa mặt, dung mạo thế nào cũng khó nhận ra, nhưng chỉ như vậy đã khiến vương gia say mê điên đảo. Ba năm rồi, muội biết không? Chàng đi Biên thành ba năm, không hề trở về nhìn ta một lần!”. Cố Thiên Lâm cố giữ bình tĩnh, nhưng không sao kìm nổi, giọng vẫn run run.

“Thiên Lâm tỷ tỷ, bức họa này là do Bình Nam vương vẽ, về sau, về sau tỷ với Tử… à với tứ hoàng tử thành thân, Bình Nam vương cảm thấy không tiện lưu giữ trong phủ, mới đưa đến đây, chứ không phải tứ hoàng tử muốn ngắm… đôi mắt kia”. A La nói như một phản xạ, nàng không muốn để Thiên Lâm buồn như thế.

“Phải, vốn là do Bình Nam vương vẽ. Cứ coi Ly Thân vương muốn ngắm nhìn ta, nhưng tại sao khi ta đứng trước mặt chàng, bằng xương bằng thịt, chàng dịu dàng bao nhiêu ta cũng không cảm thấy tấm lòng của chàng?”. Cố Thiên Lâm buồn bã nói.

A La không nói gì. Lúc này hoàn toàn không cần nàng nói gì, quan hệ giữa nàng và Tử Ly đã được chứng thực. Có một số chuyện bây giờ không phải lúc giải thích, có một số điều bây giờ cũng không tiện nói cho nàng ấy nghe. Mục đích của nàng đã đạt được, nán lại thêm nữa Cố Thiên Lâm nhìn thấy nàng sẽ càng khó chịu, “Thiên Lâm tỷ tỷ, con người tứ hoàng tử rất tốt, tỷ phải tin chàng, chàng sẽ đối xử tốt với tỷ. Muội đi đây”.

Cố Thiên Lâm cười nhạt: “Chàng sắp trở về, nếu muội muốn, ta cũng không phản đối muội vào phủ”.

A La trầm ngâm hồi lâu, cười nói: “Muội rất thích tỷ, Thiên Lâm tỷ tỷ. Cũng rất thích đại ca!”. Nàng không dám ngồi lâu, sợ nán thêm có khi không nén nổi lại nói ra những điều không nên nói. Lúc ra về nàng nghĩ, cả hai đều sắp trở về rồi sao? Vậy thì Phong thành mỗi ngày càng thêm náo nhiệt rồi.

“Ngày mai tiểu nữ vào cung thăm Thanh Lôi, vương gia có muốn dặn dò tiểu nữ điều gì chăng?”.

“Chẳng phải đã nói sẽ viết thư cho tiểu tử nói là con đích thân đến phủ từ hôn rồi thôi, trò phải diễn đủ, tiểu tử đó mới không nghi ngờ!”. An Thanh vương mặt tươi như hoa.

A La nghĩ, trong đầu “bung” một tiếng, tuyên bố như vậy mình sẽ sống ra sao? Không những Lý tướng sẽ đến tận Đường viên hỏi tội, thái tử, thái tử phi và Thanh Lôi cũng sẽ điên tiết, cái mạng nhỏ nhoi của mình liệu có giữ được không? Cây đại thụ An Thanh vương này chưa dựa được mấy ngày, ông đã đẩy mình vào vòng xoáy hay sao?

An Thanh vương vẫn cười nhìn nàng. A La lẩm bẩm: “Cha tiểu nữ sẽ đánh chết tiểu nữ mất! Không đùa nữa!”.

An Thanh vương cười khà khà: “Tiểu nha đầu sợ rồi hả?”.

“Đương nhiên, cái mạng nhỏ của A La phải thận trọng”.

Đúng, đẩy A La vào vòng xoáy như vậy là hơi tàn nhẫn, An Thanh vương cũng thấy không nỡ, buột miệng nói: “Thoái hôn đâu có dễ thế? Nhưng con cũng không thích nó, tiểu tử nhà ta đâu có xứng với con!”.

Ý ông thế nào? A La không hiểu. Nếu nàng nói không thích Lưu Giác… Nàng cười, nhìn An Thanh vương: “Vương gia đúng là cáo già! Ngay con trai mình mà cũng đưa vào toan tính!”.

“Như con nói, ta đương nhiên là cáo già. Nhưng vị hôn thê của tiểu tử kia không thích nó, lại gây chuyện muốn thoái hôn, nó không sốt ruột sao được! Nếu nó sốt ruột, ha ha, người làm cha này, đương nhiên cũng đành bất lực!”. An Thanh vương cười tỏ vẻ vô can.

A La kéo áo ông làm nũng: “Nếu cha tiểu nữ mắng tiểu nữ, chưa biết chừng tiểu nữ sợ quá bỏ trốn khỏi tướng phủ, lần này không biết đi đâu, lão vương gia nên chuẩn bị một sơn trang biệt uyển để cho tiểu nữ nương náu! Còn nữa, nếu Đông cung trở mặt với tiểu nữ, tiểu nữ tủi thân muốn ra phố mua sắm cho hả giận, không có bạc không xong!”.

Nói mãi nói mãi hai người cười khe khẽ.

Lúc sắp rời phủ, An Thanh vương cho A La ba cây pháo hoa: “Nếu tâm trạng không vui, thì đốt pháo hoa mà chơi, đẹp lắm”.

A La mỉm cười giơ tay đón nhận, ánh mắt lay động lóng lánh: “Một mình đốt pháo hoa thì buồn lắm, tiểu nữ thích chen trong đám đông xem pháo hoa, như thế mới vui”.

Phong thành sắp tới chắc không bình yên, bản thân mình chắc cũng không tránh khỏi bị cuốn vào dòng xoáy, đã vậy phải khuấy cho đục ngầu mới không uổng sống một đời ở đây. Lưu Giác, hai cha con chàng là những con cáo thật sự, còn ta, nàng nghĩ, ta sẽ nhân cơ hội này chơi thỏa thích một trận. Có hai con cáo một già một trẻ bảo vệ tốt bao nhiêu. Sau khi A La đi khỏi, An Thanh vương trở về thư phòng, đi đi lại lại suy nghĩ, thái y mật báo, Ninh vương đã hoàn toàn tê liệt, có thể ra đi bất cứ lúc nào, ông nhẩm tính thời gian, lệnh cho thái y bất luận thế nào cũng cố duy trì mạng sống cho Ninh vương thêm nửa tháng nữa.

Ngay từ ba năm trước, khi Ninh vương triệu ông trở về Phong thành, ngài đã khẩn thiết nói với ông: “Vương đệ, Ninh quốc sóng yên biển lặng cả trăm năm nay, ta bản tính yếu mềm, lại bình yên ngự trị trên ngai. Nhưng họ Vương lòng lang dạ sói, thế lực ngoại thích đã len vào triều đình. Đệ ở xa mãi tận Biên thành, những năm qua Ninh quốc không xảy ra chuyện gì lớn, nhưng triều chính đa phần đều làm theo ý họ Vương, ta cũng đành mắt nhắm mắt mở cho qua. Thái tử vốn cũng rất tốt, nhưng nó rất thân với họ Vương, để nó kế vị e là thế lực vương tộc họ Lưu chúng ta ngày càng suy yếu. Nếu lúc thái tử chọn thái tử phi, hoàng hậu không một mực tiến cử con gái Vương thái úy thì ta cũng thôi, bây giờ nếu thái tử kế vị, lưỡng cung hoàng hậu đều do con gái họ Vương nắm giữ, ta thực lòng không yên. Ta cũng đã nghĩ đến chuyện phế thái tử, hiềm nỗi một là Lưu Giám cũng là con trai ta, nó không mắc sai sót lớn, không có cớ gì để phế truất; hai là, họ Vương nhất định không phục. Họ Vương nắm đại quyền thống lĩnh cánh quân phía đông, nếu dấy binh, Ninh quốc đại loạn, e là cơ nghiệp mấy trăm năm của tổ tiên hủy bại trong tay ta!”.

An Thanh vương chứng kiến thái tử Lưu Giám và Ly Thân vương Lưu Phi từ nhỏ lớn lên. Hai vị hoàng tử đều là những người xuất sắc trong các vị hoàng tử, đều có khả năng kế vị. An Thanh vương hiểu, sau khi Trần hoàng hậu qua đời, Ninh vương rất lo lắng cho tứ hoàng tử, nhưng do thế lực họ ngoại rất lớn, đành lập Lưu Giám làm thái tử. Để bảo tồn thực lực của hoàng tộc, bản thân An Thanh vương đã nắm quyền cai quản Hữu quân đồn trú tận Biên thành xa xôi, coi như phân chia một phần binh lực, nhưng đại đa số quân quyền vẫn nằm trong tay Vương thái úy. Nếu thái tử kế vị, binh quyền, hoàng quyền họ Vương đều có, vận mệnh sau này của hoàng tộc họ Lưu rất khó lường.

An Thanh vương thận trọng lên tiếng: “Ý của vương huynh là…”.

Ninh vương trịnh trọng lấy ra di chiếu, trao vào tay ông, lạy ông một lạy: “Để bảo vệ gia tộc họ Lưu, ta đã làm khó vương đệ rồi”.

Khuôn mặt dày dạn gió sương của An Thanh vương trở nên cực kỳ trang nghiêm, ông quỳ xuống thề: “Quyết không phụ sự ủy thác của vương huynh!”. Khi đứng dậy, một khí phách oai nghiêm dũng mãnh lạ thường toát lên từ con người ông.

Ninh vương khẽ than: “Nếu ngày xưa đệ dịu tính một chút, ngôi báu này do đệ làm chủ, Ninh quốc đâu có nhiều rắc rối như thế!”.

An Thanh vương lắc đầu: “Câu này của vương huynh rất sai, đệ tính khí bạo liệt, không làm được đế vương, chính vương huynh nhẫn nhịn ôn hòa, đại độ khoan dung mới giữ Ninh quốc mấy chục năm phồn thịnh an khang. Phụ hoàng ngày xưa có con mắt tinh đời, đã sớm nhìn ra điểm yếu của đệ, đệ có thể nắm binh quyền trụ cột quốc gia, nhưng làm đế vương lại không xứng, cho nên phụ hoàng mới ban Xích long lệnh cho đệ”.

Khuôn mặt gầy yếu của Ninh vương tỏ ra xúc động: “Huynh đệ chúng ta một lòng giữ vững cơ nghiệp của họ Lưu, không làm hổ danh tổ tiên! Nhưng e là ta không đợi được đến ngày đó, đành trao đống đổ nát này cho vương đệ. Chỉ mong Tử Ly sớm trưởng thành, không phụ kỳ vọng của ta, nghiền ngẫm mưu tính mấy năm này, chắc cũng đã có thể lẳng lặng quăng mồi thanh trừng ngoại thích, tránh cho triều đình khỏi nạn binh đao”. Sau khi trở về Phong thành, An Thanh vương mới giật mình phát hiện cho dù trong tay ông nắm Xích long lệnh, có thể tiếp quản Phong thành lúc có nguy biến, nhưng thế lực họ Vương âm thầm xây dựng mấy chục năm, muốn suôn sẻ khống chế cục diện cũng không dễ. Dù Hữu quân hay Nam quân đều cách Phong thành quá xa, đáng ngại nhất là khi mọi mưu kế còn chưa hoàn tất, Ninh vương đã băng hà. Thái tử danh chính ngôn thuận kế vị, nếu không có sơ suất lớn, bản di chiếu của Ninh vương cũng khó thuyết phục được quần thần. Không có cớ động binh, tứ hoàng tử động binh là phạm tội mưu phản. Lúc đó triều đình sẽ chia thành hai phái, Ninh quốc đứng trước nguy cơ chia rẽ ly tán. Nếu Trần quốc dám dấy binh xâm lược tất sẽ liên minh với Hạ quốc, hơn nữa dã tâm của Khởi quốc đã rõ ràng. Khi Ninh vương lâm trọng bệnh, Trần quốc đang nôn nóng động binh, nếu lúc này hai vị hoàng tử tranh giành đế vị, sẽ là cơ hội hiếm có để mấy nước kia ra tay.

Ba năm nắm binh quyền vừa rồi, Tử Ly tất đã có chuẩn bị chu toàn, đã đến lúc cần trở về. Hiện giờ họ Vương đã có đề phòng, trong đại bản doanh ở ngoại ô phía đông cách Phong thành gần nhất, hai mươi vạn quân đã ém sẵn, mắt hau háu hướng về Phong thành, ông đã lệnh cho Lưu Giác không được khinh suất trở về Phong thành, chính là không cho họ Vương kia có cớ ngăn cản, để Lưu Giác hoàn toàn nắm chắc Nam quân trong tay. Còn bây giờ, từ Lâm Nam trở về, đi suốt ngày đêm cũng phải mất mười ngày, muộn hơn làm lỡ kế hoạch đã định thì quả thực có thể phải động binh đao.

An Thanh vương nhìn bức thư hồi âm viết theo ý A La, chợt nảy ra một ý, sửa lại: “Tam tiểu thư tướng phủ rất không hài lòng về con, làm loạn đòi thoái hôn, An Thanh vương phủ không biết giấu mặt vào đâu. Thái tử được tin lại muốn nạp nàng ta làm thứ phi, con không định để cha đi cướp vợ cho con chứ?”.

Ông lại viết cho Tử Ly: “Nội trong vòng mười lăm ngày lập tức trở về Phong thành”. Gắn si niêm phong xong, An Thanh vương cho gọi một tử sĩ Ô y kỵ đến truyền lệnh: “Xích Phong nghe đây, ngươi lập tức dẫn thêm ba người bí mật ra khỏi thành, nhất định phải trao tận tay Ly Thân vương. Nếu gặp cản trở, lập tức hủy thư. Dẫu chỉ còn một người cũng phải đích thân nói với Ly Thân vương, bản vương ra lệnh trong vòng mười lăm ngày phải gặp được thân vương!”.

Xích Phong quỳ sụp xuống, trả lời dõng dạc: “Vương gia yên tâm!”.

Xích Phong đi khỏi, An Thanh vương gọi: “Ám Dạ”.

Một bóng đen bay vào thư phòng: “Xin vương gia sai bảo!”.

“Ngươi có thân thủ tốt nhất trong Ô y kỵ, đây là ấn tín của bản vương, ngươi cầm thứ này đến gặp Ly Thân vương, nói là bản vương ra lệnh trong vòng mười lăm ngày dẫn quân trở về Phong thành. Còn lý do cứ nói là về phục tang phụ vương”.

Ám Dạ hơi ngạc nhiên: “Vương gia không tin Xích Phong?”.

“Không phải không tin, việc trọng đại, không thể sơ suất. Cho dù Xích Phong xảy ra chuyện, cũng phải đảm bảo Ly Thân vương được báo tin”. An Thanh vương hạ giọng.

Ám Dạ không hỏi nữa, nhận ấn tín, lẳng lặng lui ra.

Khi Lưu Giác đi Lâm Nam mang theo tử sĩ của Huyền tổ và Minh tổ của Ô y kỵ, trong phủ hiện chỉ còn lại ba kỵ đội. An Thanh vương nhìn bức thư viết cho Lưu Giác, gọi một binh sĩ Cáp tổ: “Nội trong vòng ba ngày đưa thư này đến tay thiếu chủ”.

Mọi việc xong xuôi, An Thanh vương có phần ngơ ngẩn, Phong thành mùa đông này cuối cùng đã nổi gió. Lại nghĩ đến Thanh La, nha đầu thông tuệ này ngay từ đầu đã hiểu ý của ông. Nhưng theo ông, Lý Thanh La mặc dù thích tiểu tử Lưu Giác, nhưng nàng gây sóng lớn như vậy cũng không hoàn toàn vì Lưu Giác. Ông đột nhiên cảm thấy thương cho con trai, nhưng rồi dường như hiểu ra, lại đắc ý: Cha si tình, con đương nhiên cũng thế.

Trở về tướng phủ, Lý tướng gọi A La vào thư phòng: “Đi gặp An Thanh vương thế nào?”.

A La rất bình tĩnh trả lời: “Lão vương gia rất tốt với con, Bình Nam vương đúng là chỗ dựa tốt”.

Nhìn vẻ mặt tươi cười của Lý tướng, A La chuyển hướng câu chuyện: “Có điều Ly Thân vương cũng không tồi!”.

Lý tướng kinh ngạc, con bé này có quan hệ với Ly Thân vương từ bao giờ? Tư tưởng sớm nắng chiều mưa như thế nếu An Thanh vương biết, lão già đó dễ chừng dám đánh ông trước mặt quần thần lắm.

“Đừng quên, con đã định hôn với Bình Nam vương, đã ra khỏi khuê phòng, bị lỡ mất ba năm! Ngày mai ta sẽ đến bàn với An Thanh vương chọn ngày thành hôn!”.

A La cười: “Cha à, cha hồ đồ hay sao? Ninh vương đang bệnh nặng, sao cha dám gả con vào lúc này?”.

Đúng, vương thượng bệnh nặng, bây giờ mà gả con gái là không thỏa đáng. Lý tướng nghiến răng lẩm bẩm, đứa con gái này bỏ đi ba năm, khi trở về đã đã không còn nhút nhát như trước, lời lẽ xem chừng có ý từ hôn, nếu không sớm gả đi, đêm dài lắm mộng. Đầu ông lóe lên bao toan tính.

Nhìn ánh mắt liếc đảo bất định của Lý tướng, A La bồi thêm một câu: “Ly Thân vương nắm trọng binh trong tay, ngộ nhỡ…”.

Lý tướng kinh ngạc, phải rồi, Ly Thân vương là cá trong ao, hai con hổ đấu nhau, bản thân mình quả thực đã đem châu báu đặt cả vào thái tử, nhưng nếu ngộ nhỡ? Đằng nào ba đứa con gái hy sinh đứa nào cũng không quan trọng, quan trọng là mình phải kín kẽ, không được phép sơ sẩy! Bình Nam vương cũng tốt, nhưng nếu Ly Thân vương chiến thắng thái tử, kế vị ngôi báu, gả A La cho y, mình chẳng phải càng hời hay sao? Nhưng nếu hủy hôn, mình biết ăn nói thế nào với lão già An Thanh vương? Lý tướng lại đau đầu.

“Cha khỏi cần phiền não, bây giờ con chưa đồng ý lấy ai là được chứ gì? Để mọi chuyện rõ ràng rồi tính cũng chưa muộn!”.

Mặt Lý tướng tươi tắn lại ngay lập tức, nghĩ đến Bình Nam vương đang ở Lâm Nam chưa về, Ly Thân vương cũng ở tận Biên thành, lúc này chưa cần lo vội. Ông thầm khen A La mưu kế: “Ý hay lắm, thật không hổ là con gái ngoan của ta! Ngày mai vào cung thăm tỷ tỷ, con nhớ trang điểm thật đẹp đấy!”.

Thanh Lôi rất không muốn gặp mặt Thanh La, nhưng lại không thể không gặp.

Tại Đông cung, thái tử mỉm cười hỏi: “Tiểu muội này ba năm rồi không gặp, Lôi Nhi không muốn cùng hàn huyên chuyện cũ hay sao? Nàng ta là vương phi tương lai của Bình Nam vương đấy”.

Vương Yến Hồi xen lời: “Không biết ba năm nay tiểu muội Thanh La thay đổi thế nào, tiếng đàn năm xưa, Yến Hồi quả thực khó quên”.

Mắt thái tử thoáng một tia mơ hồ, nhưng lập tức lại trong veo như nước.

Lúc đó một cung nữ đi vào quỳ bẩm: “Tam tiểu thư tướng phủ cầu kiến!”.

“Mau mời vào!”.

A La bước từng bước ngắn, thong thả vào cung, nàng cởi chiếc áo choàng, quỳ phục xuống nền: “Thái tử điện hạ thiên tuế, thỉnh an thái tử phi, thỉnh an lương đệ!”. Chiếc váy màu xanh nhạt xòe như cánh bướm, vóc dáng thanh mảnh như mầm lộc biếc đầu cành lúc xuân về. Hôm nay nàng đã cất công trang điểm, không biết người ở Đông cung nhìn thấy sẽ phản ứng thế nào?

Thái tử cười: “Đều là người nhà, không cần đa lễ, đứng lên đi!”.

A La đứng dậy, khi vừa ngước mắt, sắc thu ba sóng sánh, nụ cười diễm lệ như đóa mai bừng nở trong nắng xuân, khiến ba người trong điện giật mình. Thanh Lôi bất giác nắm chặt nắm tay, trong lòng như có tiếng thầm thì: “Đã sớm biết mà, có một người mẹ như vậy, ả ta lớn lên tất sẽ là giai nhân khuynh thành!”. Ánh mắt như bốc hỏa, liếc nhanh thái tử, chỉ thấy Lưu Giám đứng ngây người. Thanh Lôi ngẩn ngơ, cũng phải thôi, một giai nhân như vậy, đàn ông nào chẳng động lòng?

Vương Yến Hồi là người định thần nhanh nhất, mỉm cười nói: “Không ngờ tiểu muội Thanh La lưu lạc mấy năm trở về lại đẹp đến thế, quả thật khiến chúng ta nhìn không muốn rời, Yến Hồi này tự hổ thẹn không bằng!”.

Thái tử cũng sực tỉnh, cười nói: “Bình Nam vương thật có phúc!”.

A La cất tiếng: “Anh rể trêu đùa A La rồi, ai bảo muội sẽ lấy huynh ấy? Muội không thích kiểu người lỗ mãng như vậy!”.

Nói đoạn, đi đến bên Thanh Lôi,”Hai vị nương nương, một người cao sang quý phái, một người tuyệt sắc vô song, A La đâu sánh được”.

Vương Yến Hồi nói đùa: “Chẳng phải thái tử có chuyện cần đi sao? Không nên quấy rầy chị em thiếp hàn huyên”.

Lưu Giám có vẻ nấn ná không muốn đi, mối hoài nghi trong lòng bao năm cuối cũng đã nghĩ ra lời đáp, nhưng bây giờ chưa phải lúc hỏi chuyện đó. Nụ cười lại hiện trên khuôn mặt tuấn tú của chàng: “Đã đến đây, cứ ở lại Đông cung chơi ít ngày, Lôi Nhi nhớ muội lắm đó”.

Thái tử giữ nàng ở trong cung là có ý gì? Muốn chứng thực khúc “Thu thủy” kia hay là định dùng nàng làm con tin? A La thầm cảnh giác, nét mặt vẫn tươi cười.

Trong đầu Vương Yến Hồi đang suy nghĩ rất lung, cảm thấy Thanh La nói không lấy Bình Nam vương có gì không thật. Nếu không lấy Bình Nam vương, thì người trong lòng nàng ta là ai? Bình Nam vương Lưu Giác người tuấn tú hào hoa, trẻ măng đã được phong vương, uy quyền sáng chói, một trang nam nhi hoàn hảo, là giấc mộng của bao tú nữ danh gia. Sắc đẹp của A La khiến ba người ở đây kinh ngạc như thế, lẽ nào nàng ta muốn địa vị cao hơn? Hay là người trong lòng nàng ta là…

Thanh Lôi nắm tay A La, hỏi Vương Yến Hồi: “Ba chúng ta đến nhà thủy tạ chơi được không?”.

Vương Yến Hồi cười nhạt: “Được, ta đang muốn chuyện phiếm với tiểu muội Thanh La”. Nhìn thấy nhà thủy tạ, A La ngây người ra. Đây quả là cảnh thần tiên. Hơi nóng từ mặt hồ sen bốc nghi ngút mịt mờ như sương khói, giống như người ta đào hầm đốt than dưới đáy hồ. Ai nói tiền bạc quyền thế không tốt? Để làm nên cảnh quan thế này cần bao nhiêu nhân công, bao nhiều tiền của?

Thị tỳ bưng trà và đồ điểm tâm lên, ba người an tọa, nhàn tản thưởng lãm cảnh sắc. A La thầm nghĩ, khung cảnh thần tiên thế này không mảy may gợn lên không khí căng thẳng gươm đao tuốt trần trong ngoài cung đình.

Đột nhiên bên nhà ngoài thủy tạ có tiếng bước chân, A La ngoái đầu, nhìn thấy một khuôn mặt trẻ con ửng hồng, đôi mắt đen láy, cái cằm nhỏ xinh. Nàng quay sang nhìn Thanh Lôi, Thanh Lôi cười dịu dàng: “Tâm Nhi, sao lại chạy đến đây?”.

“Tiểu công chúa? Con của tỷ tỷ sao?”.

“Đúng thế. Thái tử bây giờ mới có mỗi tiểu công chúa này. Chàng nâng niu như ngọc báu đấy”. Vương Yến Hồi cười.

Hai nữ tỳ lo lắng theo sau Tâm Nhi, đi vào nhà thủy tạ, quỳ xuống thỉnh an ba người bọn họ. Vương Yến Hồi lơ đãng nói: “Đứng dậy đi, mùa đông rét thế đừng để tiểu công chúa bị lạnh”, rồi nhìn Tâm Nhi, mặt đã cười rạng rỡ, “Tiểu công chúa của ta, sao hôm nay lại chạy đi tìm mẫu phi?”.

Tâm Nhi hai tuổi, mắt chớp chớp thỏ thẻ đáp: “Nghe nói di nương hôm nay đến, Tâm Nhi muốn gặp di nương”.

Lòng A La êm dịu như hơi ấm bên ngoài nhà thủy tạ. Nàng đi đến ôm Tâm Nhi vào lòng, vuốt ve khuôn mặt nhỏ bé, mỉm cười nói với Thanh Lôi: “Tâm Nhi lớn lên chắc cũng sẽ đẹp như tỷ tỷ!”.

Thanh Lôi dịu dàng sai cung nữ: “Đưa tiểu công chúa về điện, bên ngoài này gió to lắm”. Cung nữ đi đến bế Tâm Nhi, cô bé nhệch môi, nước mắt ứa ra nhưng không dám khóc, đôi mắt đen láy nhìn Vương Yến Hồi, lại nhìn mẹ, miệng thỏ thẻ: “Tâm Nhi đi đây, buổi tối lại đến thỉnh an mẫu phi”.

A La thầm than thở, trẻ con trong cung ngay cả khóc cũng không dám. Ánh mắt chuyển đến Vương Yến Hồi, thấy nàng ta thần sắc nhàn tản như không, lại lướt đến Thanh Lôi. Đáy mắt Thanh Lôi thâm u, thấm buồn. A La vội nói: “Làm mẹ thích thật, nhìn Tâm Nhi kìa, ngoan chưa”.

Vương Yến Hồi cười: “Tiểu muội lấy Bình Nam vương rồi cũng được làm mẹ”.

A La cúi đầu làm bộ xấu hổ: “Đã nói không lấy người đó, nương nương lại còn đùa A La!”.

“Trong lòng muội có người khác sao? Là ai vậy, người đó hơn cả Bình Nam vương ư?”. Vương Yến Hồi lại đùa.

A La e thẹn, cúi đầu, tay mân mê cốc trà, dáng vẻ như thầm công nhận. Lòng Vương Yến Hồi trầm lại, nếu Lý Thanh La không lấy Lưu Giác, với tính khí Lưu Giác y tuyệt đối không bỏ qua. Năm xưa nghe nói Lưu Giác càn quét hơn ba trăm ngọn núi phía nam, nàng đã đoán ngay Lý Thanh La là con đường ngắn nhất chế phục Lưu Giác. Bây giờ An Thanh vương nhàn tản tại gia, con người này dù có mưu cao đến mấy trong tay cũng chỉ có ba trăm binh sĩ Ô y kỵ. Lão vương gia đó tính nóng như lửa, muốn dùng ông ta để ép Lưu Giác, chỉ e ông ta thà chết cũng không chịu, nhưng Lý Thanh La thì khác, nàng ta là gái mơn mởn như hoa. Nói đến chết ai chẳng sợ, nàng ta cũng không ngoại lệ. Nhưng nếu Thanh La không lấy Lưu Giác, giữ nàng ta phỏng có ích gì?

Ánh mắt Vương Yến Hồi dừng trên người Thanh Lôi, thấy Thanh Lôi quay lưng về phía kia, đang nhìn hoa sen trong hồ, bèn cười: “Tiểu muội trong lòng có người khác, lương đệ hẳn đã sớm biết?”.

Thanh Lôi giật mình, quay đầu mỉm cười: “Thanh Lôi cũng rất ngạc nhiên, đang thầm nghĩ, liệu còn có ai có thể khí phách anh hùng hơn Bình Nam vương?”.

A La hơi sốt ruột, giả bộ e thẹn không đáp, trong đầu nhanh chóng phân tích tình hình: An Thanh vương muốn tạo cho Lưu Giác một cái cớ đề quay trở về kinh thành, muốn mình nói dối là thoái hôn, nhưng lại không bàn bạc với mình nên nói người mình thích là ai. Ai thích hợp nhất? Là thái tử, Tử Ly hay là Cố Thiên Tường? Người này phải không kém Lưu Giác mới làm cho thái tử tin. Cố Thiên Tường đứng về phía Tử Ly, nhưng anh ta không có ảnh hưởng gì lớn đối với Tử Ly, cũng không có vai trò gì lắm trong cuộc đấu giữa An Thanh vương và Cố tướng. Rất nhiều người đều biết Lưu Giác và Cố Thiên Tường là bằng hữu thân thiết, dù Lưu Giác trút giận lên đầu Cố gia cũng không ảnh hưởng đến Tử Ly.

Hay là nói thái tử, bản thân chàng ta chẳng có quyền hành, ảnh hưởng gì đối với Vương Yến Hồi và Thanh Lôi, lại còn có thể khiến họ sợ hãi gây mâu thuẫn với Lưu Giác, lúc này Đông cung sẽ hoàn toàn không đối đầu với Lưu Giác. Nếu nói người đó là thái tử, chỉ có một cái hay đó là rất có thể làm thái tử động lòng, khiến Lưu Giác có cớ khởi binh.

Nếu nói người đó là Tử Ly, như vậy Đông cung chỉ cần nhân định Tử Ly có tình ý với nàng là sẽ coi nàng là một quân cờ, nếu có chuyện xảy ra, nàng sẽ trở thành con tin. Cái hay chính là khiến họ cho rằng Lưu Giác vì thế sẽ trở mặt với Tử Ly, không thể cùng lúc ủng hộ hai phía, sẽ chỉ đứng về phía Đông cung.

Rút cục nên nói là ai? A La hơi do dự, thầm mắng An Thanh vương không chịu nói rõ. Nàng đột nhiên tỉnh ngộ, lão vương gia cáo già kia bề ngoài tỏ vẻ bất cần nhưng thực lòng rất yêu Lưu Giác, bây giờ để cho nàng lựa chọn, dù lựa chọn ai, Lưu Giác đều có lý do dấy binh.

Trong lúc A La cúi đầu trăn trở, Vương Yến Hồi và Thanh Lôi cũng đang suy nghĩ, rút cục người đó là ai? Có thể đối địch với Lưu Giác, hơn nữa lại có gan cướp vị hôn thê của chàng ta, khắp vương triều hiện cũng chỉ có mấy người. A La cuối cùng ngẩng đầu, mặt mày tươi tỉnh: “Ôi, A La vô duyên quá. Cũng muộn rồi, tiểu muội xin cáo từ về phủ, lúc khác lại đến thăm hai nương nương”. Chưa nghĩ ra được thì tạm gác lại, chính là kế hoãn binh.

Vương Yến Hồi mỉm cười: “Mấy khi tiểu muội vào cung, thái tử cũng đã có lời, nếu tiểu muội nhất định ra về, điện hạ quay trở lại không thấy người thì làm thế nào? Cứ lưu lại đây vài ngày, tỷ tỷ còn muốn nghe muội chơi đàn”.

“Phải đấy, A La tối nay ở lại chơi. Mấy khi vào cung, ở chơi vài ngày hãy về”.

Thanh Lôi vội nói, rồi gọi cung nữ đến tướng phủ truyền lệnh.

A La đành nhận lời, bụng nghĩ, xem ra nếu mình không nói rõ người đó là ai thì chắc không thể ra khỏi cung.

Bái biệt Vương Yến Hồi, Thanh Lôi dắt tay A La với vẻ rất thân thiết song lại có phần lo lắng đưa nàng về tẩm cung. A La để cho nàng ta dắt đi, bụng cười thầm, cuối cùng có thể trút bỏ cái mặt nạ tỷ muội tình thâm rồi!

Thanh Lôi buông tay A La, lệnh cho cung nữ lui hết. A La nói: “Đuổi hết cung nữ ra ngoài, Thanh Lôi lần này tỷ lại định chơi trò gì?”.

Trên khuôn mặt xinh đẹp lạnh lùng của Thanh Lôi dần dần như thấm nỗi buồn thê lương, nàng từ từ quỳ trước mặt A La. A La ngớ người, nhìn nàng ta rồi vội giơ tay đỡ: “Định nói gì cứ nói, sao phải làm thế. Chuyện lần trước muội đã quên từ lâu rồi”.

“Tỷ cầu xin muội, không phải vì chuyện lần trước”. Hai hàng nước mắt đã ròng ròng trên mặt Thanh Lôi. “Tỷ xin muội nếu có ngày, nếu có ngày tỷ mệnh hệ gì, xin muội thay tỷ chăm sóc Tâm Nhi, được không?”.

A La kinh ngạc thất sắc: “Tỷ nói thế là có ý gì? Tỷ đứng dậy đi”.

Thanh Lôi vẫn quỳ: “Muội phải nhận lời với tỷ, nếu tỷ có bất trắc, muội nhất định phải chăm sóc Tâm Nhi”.

A La thở dài: “Tâm Nhi ngoan như thế, ai chẳng yêu. Nó mới hai tuổi thôi mà”.

Mặt Thanh Lôi thoáng mừng, từ từ đứng lên, thở phào một hơi, nói khẽ: “Không biết tại sao, tỷ tin là muội sẽ chăm sóc tốt cho Tâm Nhi”.

Thanh Lôi nhìn A La đăm đăm: “Muội đẹp thật. Thật ra thất phu nhân tính tình hiền dịu, đối với tỷ cũng rất tốt, nhưng tỷ và Thanh Phỉ đều không thích muội. Có lẽ từ nhỏ bọn tỷ đã cùng có ý nghĩ, sau này lớn lên muội nhất định sẽ đẹp hơn bọn tỷ, vì vậy luôn khó chịu mỗi khi nhìn thấy muội”.

Thanh Lôi lại cười buồn: “Trước đây tỷ có một gánh nặng trong lòng, bởi vì tỷ yêu điện hạ, sợ chàng vì khúc “Thu thủy” mới thích tỷ, mỗi lần nghĩ đến chuyện đó tỷ vừa hận vừa ghen với muội, trong lòng nơm nớp lo âu. Chỉ một cái liếc mắt của Vương Yến Hồi là tỷ đã run lên, phấp phỏng lo lắng. Trong dạ tiệc hồi đó, thái tử bảo tỷ chơi đàn hầu Tứ điện hạ. Trong lúc bối rối hoảng sợ tỷ đã làm tay mình bị thương, thực ra trong lòng rất hận muội, hận muội đã khiến tỷ phải đến nước này, cho nên mới đem tiền đồ của Thành Tư Duyệt ra để ép Thanh Phỉ, để muội ấy đổ tội cho muội. Làm như vậy thực xuẩn ngốc, nhưng tỷ không hối hận, nếu lặp lại, với tâm trạng tỷ lúc đó tỷ vẫn làm thế. Mặc dù không hại được muội, cũng để Vương Yến Hồi chứng thực mối hoài nghi trong lòng ả. Có điều, không phải tỷ không có được điều tỷ mong muốn. Thanh Lôi không thể đánh đàn, điện hạ sẽ đối xử ra sao? Tỷ luôn muốn biết lòng điện hạ, chính trong buổi tối hôm đó chàng đã rất mực dịu dàng với tỷ, nhưng không dám ở lại cùng tỷ, tỷ càng hiểu, chàng không yêu Vương Yến Hồi, nhưng cần sự giúp đỡ của ả. Lúc đó tỷ chỉ cầu mong muội có thể suôn sẻ lấy Bình Nam vương, có người em rể như vậy, địa vị của tỷ ở Đông cung mới vững bền. Cũng chính bởi vì Bình Nam vương một lòng chân tình với muội, thái tử cũng sẽ chăm sóc tỷ, Vương Yến Hồi cũng đối xử rộng rãi với tỷ”.

A La lại thầm than thở, thương cho Thanh Lôi: “Tỷ cũng có vị trí trong lòng thái tử, đây chỉ là sự lựa chọn bất đắc dĩ của thái tử đối phó với tình thế mà thôi, có thể thông cảm. Nếu thái tử yên vị trên ngôi báu, chàng tất sẽ thương tỷ. Chẳng phải thái tử rất yêu Tâm Nhi sao? Cớ gì không thương mẹ nó?”.

“Nhưng muội lại không muốn lấy Bình Nam vương! Người trong lòng muội là tứ hoàng tử đúng không? Trước khi muội quen Bình Nam vương, muội đã quen Ly Thân vương rồi!”.

Sao nàng ta biết? Lúc đó ngay bản thân nàng cũng không biết Tử Ly là tứ hoàng tử Lưu Phi.Cô thầm nghĩ.

“Muội đừng phủ nhận! Trong dạ yến ở Đông cung ba năm trước, khi tứ hoàng tử lên tiếng định giải vây cho muội, muội mới nhân cơ ứng phó, tỷ liền biết muội quen chàng ta! Sự bi phẫn oai oán trong tiếng đàn của muội không phải trút lên đầu người chị này, mắt muội nhìn về phía tứ hoàng tử, muội giận chàng ta không thể bảo vệ muội!”. Thanh Lôi nói từng câu từng chữ.

Cha mẹ ơi, sao người ở đây lại tinh ma đến thế, ngay một ánh mắt cũng không bỏ qua? Thanh Lôi hạ giọng rất thấp: “Tỷ đoán là tứ hoàng tử, nhưng chưa bao giờ mở miệng nói với ai, kể cả thái tử. Ninh vương không qua khỏi được, chỉ có Ly Thân vương mới có thể tranh giành với thái tử. Tỷ là người của thái tử, đương nhiên sống chết theo chàng, tỷ cũng mong thái tử có thể yên ổn lên ngôi, nhưng nếu thất bại, có muội chăm sóc Tâm Nhi, tỷ cũng yên lòng, ra đi không vương vấn! Muội muốn thoái hôn. Tỷ thấy cha cũng không phản đối lắm, câu cửa miệng của ông ta là bảo toàn quyền thế, ba đứa con nếu trong các phe đối lập, bất luận ai thắng ông cũng là người thắng lớn”.

Thanh Lôi thật đáng thương, nàng có nên nhận lời không? Nếu vậy thực sự nàng đã tự đẩy mình vào chỗ đầu sóng ngọn gió, một khi Tử Ly khởi binh chẳng phải nàng trở thành tế phẩm hàng đầu hay sao? Liệu họ có đem đầu nàng treo ở cổng thành để uy hiếp Tử Ly không? A La lòng đau nhói.

Nghĩ đến Tử Ly, hình ảnh Lưu Giác lại hiện lên, ánh mắt nàng trở nên dịu dàng, khuôn mặt nặng tình của chàng đã in vào lòng nàng không thể xua được. Nàng cười đau khổ, đã hoàn toàn hiểu cục diện trước mắt. Nàng tuyên bố không thích Lưu Giác, muốn thoái hôn, An Thanh vương phủ không thể mất con dâu, Bình Nam vương đương nhiên cũng không thể mất vị hôn thê đã bỏ chàng một lần, lại định bỏ lần nữa? Lưu Giác đương nhiên có cớ trở về kinh thành. Tình hình hiện nay có hai người để nàng lựa chọn nói ra, bất luận nàng nói ai, mũi kiếm đều hướng vào Đông cung.

Nếu nói là thái tử, nàng sẽ phải dùng mỹ nhân kế. Nhưng cho dù mê hoặc được thái tử, bây giờ thái tử cũng sẽ không thể đắc tội An Thanh vương và Lưu Giác đang nắm giữ Nam quân. Cho nên nàng chỉ có một lựa chọn.

Tại sao An Thanh vương lại tỏ ra trở mặt với Tử Ly, nàng hiểu nhưng ông cũng không cần nàng phải hiểu. E rằng cho dù nàng không nghĩ ra trò viết bức thư đùa bỡn Lưu Giác, thì An Thanh vương cũng sẽ viết như thế. Đó là con cáo già! Có lẽ ông đã sớm nghĩ ra ý đó, nhưng không tiện nói mà thôi.

Nghĩ đến đó A La thấy buồn cười, lão cáo già vẫn còn tốt, không ép mình, càng không nói cho mình đáp án này. Chỉ cần An Thanh vương mở miệng, nàng tự khắc sẽ làm theo, Lưu Giác có thể danh chính ngôn thuận liên minh với thái tử, có tay trong hỗ trợ là cách dễ nhất để giúp Tử Ly. Kỳ thực Nam quân và Hữu quân kết hợp đã đủ binh lực, An Thanh vương làm như vậy, chỉ là không muốn dấy binh gây ra nội chiến ở Ninh quốc! A La than thở: “Tỷ thật tinh mắt! Khi còn ở tướng phủ muội đã hòa tấu với Tử Ly ở trong rừng trúc, đã có lời đính ước với chàng. Cho nên ba năm trước, sau khi Bình Nam vương cầu hôn, muội liền bỏ trốn”.

Nàng nói liền một mạch trơn tru, bản thân nghe cũng thấy hết sức bình thường, tự nhiên. A La bất giác nghĩ, thì ra trong thâm tâm mình vốn đã đồng ý giúp Lưu Giác, vì chàng mà mình có thể nói dối trơn tru như thế. Vốn định trở về Phong thành chỉ muốn dựa vào cây đại thụ An Thanh vương để sống yên ổn, đàng hoàng, ai ngờ không tránh khỏi bị cuốn vào dòng xoáy. Chỉ có điều lần này là mình tình nguyện.

A La thận trọng nhìn Thanh Lôi. Lời A La vừa nói, nàng ngầm đính ước với Tử Ly, vốn đã nằm trong dự đoán của Thanh Lôi, nhưng vẫn khiến Thanh Lôi không nén nổi kinh ngạc: “Muội đã ngầm đính ước suốt đời với Ly Thân vương? Hai bên đã có đính ước, tại sao lúc đầu không đến Biên thành?”.

“Tử Ly đâu dám đắc tội với Cố tướng? Bây giờ muội cũng đâu dám đi Biên thành tư tình với huynh ấy, tỷ hồ đồ hay sao?”. A La cười nhạt, “Có điều, tỷ đã ủy thác Tâm Nhi cho muội, có lẽ cũng không nói ra chuyện của muội và Tử Ly cho thái tử và thái tử phi chứ?”.

“Tử Ly? Muội gọi chàng ta thân mật như vậy, e là vương phi của Ly Thân vương cũng chưa dám gọi như thế?”. Thanh Lôi than thở, “Thật không ngờ Ly Thân vương cũng có lòng với muội, thì ra tiếng tiêu trong phủ hồi nào là của Ly Thân vương, tỷ còn tưởng là muội và thất phu nhân hòa tấu, chúng ta đúng là không có mắt. Tỷ sẽ không nói ra, nhưng với đầu óc của Vương Yến Hồi, e là ả đã nghĩ đến chuyện này”.

Có cung nhân đi vào truyền lời, nói thái tử phi mời hai người dùng bữa, A La nghĩ cục diện đã bố trí xong, không còn do mình làm chủ nữa. Hiện nay vẫn chưa có gì nguy hiểm, sau này thế nào cũng khó nói. Điều bây giờ nàng rất muốn biết là Vương Yến Hồi sẽ ứng phó ra sao. Đột nhiên, A La cảm thấy bản thân nàng giống như liều thuốc thử, thông qua thái độ của Vương Yến Hồi để thăm dò ý tứ của Đông cung.

Trong bữa, A La ăn rất tự nhiên, ăn xong uống trà, tươi cười nói: “Chẳng phải nương nương luôn muốn nghe A La chơi đàn sao? Thực ra ba năm nay A La rất ít động đến cây đàn, tiện đây không nên để nương nương thất vọng mới được”.

Đánh bài gì? Mắt khẽ chớp, khúc “Thu thủy” đã lạnh lùng vang lên dưới những ngón tay, không mấy liên quan với lần chơi đàn ở Đào hoa yến, thêm vài phần dào dạt lâm ly, bớt vài phần hào sảng cao ngạo, Vương Yến Hồi vỗ tay khen: “Bao năm rồi, cuối cùng đã được nghe khúc “Thu thủy” lừng danh! Bình Nam vương ắt hẳn xiêu lòng”.

Vẫn đang thăm dò sao? A La lẩm bẩm: “Chàng ta hiểu gì? Đâu có sành âm luật như Tử Ly?”. Lời vừa dứt, nàng vội “ôi” một tiếng, lấy tay bịt miệng, mắt hốt hoảng.

Vương Yến Hồi khẽ cười: “Ly Thân vương ư, tiếng tiêu đích thực là tuyệt tác vô song, đêm đêm vẳng ra từ Ly cung khiến người ta mủi lòng. Thì ra người trong lòng tiểu muội là tứ hoàng đệ!”.

Ba người mải chuyện không chú ý, thái tử đã đứng ngoài cửa từ lúc nào, tâm trạng đang ngơ ngẩn bàng hoàng, oán hờn, đau buồn, thất vọng đan xen. Chàng đứng đó thanh tú trong màn đêm, muốn cười mà không thể.

Thì ra là nàng ta? Hai mắt chàng sâu như đêm tối, ẩn chứa nỗi buồn không gì hóa giải. Năm xưa trong dạ yến thấy Cố Thiên Lâm thanh khiết như hoa lan, cảm thấy đó là một thanh nữ tao nhã, nhưng khi nghe khúc “Thu thủy” chàng lại bị hấp dẫn bởi khí phách hào sảng, tâm hồn lộng gió, chí gửi bốn phương của người chơi đàn, thầm nghĩ chỉ có người con gái hồn nhiên, lòng không toan tính như vậy mới xứng là tri âm của mình. Chàng lặng lẽ bước từng bước nhỏ, lòng xiết bao kinh ngạc, ngay từ thuở ấu thơ chàng đã học cách tự kìm chế, văn võ đều gắng sức chuyên cần, không ai biết sâu trong lòng, thực ra chàng muôn phần ngưỡng mộ không khí đầm ấm gia đình. Hồi đó chàng đã nghĩ, nếu có một người con gái như vậy làm bạn, cuộc sống vương cung của chàng tuy căng thẳng nặng nề với bao trọng trách, bổn phận nhưng cũng sẽ có niềm vui.

Càng tự khắc chế thì lại càng khao khát được tự do cất cánh. Cho nên chàng không do dự chọn ngay Thanh Lôi. Thanh Lôi xinh đẹp, dịu hiền, đối với chàng luôn một khối tình sâu, tuy nhiên, Thanh Lôi lại không chơi khúc “Thu thủy” nữa. Nàng bảo, Thanh Lôi giờ không còn tâm trạng năm xưa, chơi nhiều sẽ nhàm khiến điện hạ thất vọng.

Chàng hiểu, tiếng đàn là thế, đâu phải lúc nào cũng một tâm trạng. Cho dù mẫu hậu một mực muốn chàng lấy Vương Yến Hồi cháu mình, con gái Vương thái úy làm chính phi, chàng cũng chấp nhận. Chàng nghĩ, ngôi báu tất sẽ thuộc về chàng, nếu không nỗ lực bao năm sẽ thành uổng công, hùng tâm tráng chí khó bề thực hiện. Muốn được vương vị chàng phải dựa vào nhà họ Vương. Nhưng đồng thời chàng cũng lấy Thanh Lôi và rất sủng ái nàng.

Nhưng hôm nay chàng mới nhận ra, người con gái say mê thu thủy trường thiên, đắm say bầu trời biển khoáng đạt bao la thì ra là nàng ấy.

Nàng ấy đẹp đến độ khiến chàng thất kinh sững sờ, tiếng đàn của nàng khiến tim chàng rung động, bồi hồi. Tuy nhiên, lần nào chàng cũng đều bị lỡ. Hôm nay, nàng ấy không chỉ không muốn lấy Bình Nam vương mà lòng nàng ấy còn hướng về tứ hoàng đệ của chàng.

Chàng từ từ nắm chặt nắm đấm, nỗi hận bùng lên. Chàng là thái tử, đương nhiên sẽ là hoàng đế tương lai, vậy mà cho dù mọi việc triều chính chàng làm tốt đến đâu, tuy được khen ngợi, nhưng ánh mắt phụ hoàng nhìn chàng vẫn không chút ấm áp. Tử Ly chẳng qua là vương tử nhàn nhã, chính sự quan trọng không hề tham gia, chỉ làm những việc lặt vặt, nhưng chỉ cần Tử Ly làm được một chút việc cỏn con, phụ hoàng dù không khen, nhưng ánh mắt chan chứa ân tình. Không phải phụ hoàng không yêu chàng, nhưng tình thương yêu tràn trề trong lòng chưa bao giờ dành cho chàng. Ngay chuyện hôn nhân Tử Ly cũng được ngự ban ái nữ của một trọng thần, danh thế không kém chàng.

Chàng kém Tử Ly ư? Luận ngoại hình đều tuấn tú, lịch lãm, luận tài năng, các đại thần đều nhất loạt hài lòng về chàng; luận tài hoa, cầm kỳ thi họa chàng đều tinh thông. Người con gái đánh đàn trong phòng kia tại sao dùng tiếng đàn lừa chàng, nhưng mắt lại hướng về Tử Ly? Nếu chàng biết người chơi đàn trong Đào hoa yến là nàng ấy, nàng ấy đã sớm là chính phi của chàng!

Chàng vừa từ Ngọc Long cung trở về, Ninh vương bệnh trọng, chàng ngày đêm hầu phục bên long sàng. Tử Ly làm gì? Không nói cũng biết, y đang ra sức thu phục Hữu quân, một khi phụ hoàng băng hà sẽ khởi binh tranh đế vị với chàng. Mối hận lại sôi lên trong lòng chàng. Đợi ta lên ngôi xem Lưu Phi ngươi lấy gì để tranh giành với ta! Nếu ngươi định cướp người của Lưu Giác, trận chiến này ngươi thua là chắc. Thái tử cười sang sảng, cất bước đi vào điện: “Có chuyện gì mà vui thế?”.

Ba người vội đứng dậy hành lễ. Thái tử xua tay: “Người nhà cả, không cần đa lễ!”.

Vương Yến Hồi che miệng cười: “Chuyện này tính sao đây? Tiểu muội của chúng ta không muốn lấy Bình Nam vương, mắt lại hướng về tứ hoàng đệ”.

Thái tử nhướn mày tỏ vẻ ngạc nhiên: “Ô chà, Bình Nam vương có nuốt được mối hận này không?”.

A La cúi đầu, không nói, sắc mặt khổ não.

Thái tử trầm ngâm một hồi: “Dưa chín ép không ngọt, để người anh rể này đứng ra cầm trịch cho muội. Ấy, chuyện này gay go lắm đây”.

Vương Yến Hồi cười: “Khó đến mấy cũng phải tác thành cho tứ hoàng đệ và tiểu muội mới được”.

Thái tử cau mày: “Vừa rồi ta gặp Cố tiểu thư, nghe nói tiểu muội đang làm khách ở đây, liền có lời mời tiểu muội đến Ly Thân vương phủ chơi một chuyến, nàng ấy cũng muốn xem mặt tiểu muội”.

Cố Thiên Lâm? Thái tử vì sao muốn để mình đến phủ Ly Thân vương? Có phải là muốn chứng thực quan hệ giữa mình và Tử Ly? A La cười: “Mấy năm không gặp Thiên Lâm tỷ tỷ, không biết tỷ ấy liệu có vẫn đẹp như xưa”. Đêm, trong điện của thái tử phi, Vương Yến Hồi trầm ngâm tư lự, rất lâu mới lên tiếng: “Nếu Lý tướng đồng ý cho con gái thoái hôn, như vậy sẽ trở mặt với An Thanh vương, ông ta không sợ thật sao? Thiếp vẫn thấy hồ nghi!”.

Thái tử nói: “Vừa rồi ta ghé qua chỗ Thanh Lôi, nàng ấy bảo chuyện này là có thực. Ngày xưa, trước khi vào cung Thanh Lôi thường nghe trong tướng phủ tiếng tiêu sáo hòa tấu, hôm nay mới biết tiếng tiêu là của Tử Ly. Lý Thanh La ba năm trước tháo hôn cũng là giả. Với tính cách Lý tướng ông ta có thể không thoái hôn, nhưng cũng không nóng vội gả con gái, con cáo này muốn đợi xem kết quả, muốn trước sau không có kẽ hở”.

Vương Yến Hồi đột nhiên hỏi: “Hôm nay phụ hoàng thế nào?”.

“Nôn ra máu, nửa hôn mê”.

“Điện hạ, thiếp đã bàn bạc với phụ thân, theo dõi chặt chẽ động tĩnh các nơi. Tứ hoàng đệ tất sắp trở về Phong thành, đại quân Đông lộ và đội quân bảo vệ Phong thành phải luôn chuẩn bị sẵn sàng. Theo thiếp, cũng chỉ nội trong mười ngày tới”.

Thái tử thở dài: “Thế lực tương đương, trận này không dễ đánh”.

Vương Yến Hồi cười nhẹ nhàng: “Chàng đừng quên, An Thanh vương mặc dù mưu cao, nhưng trong tay không có binh lực, khác gì hổ bị bẻ nanh? Chỉ cần chứng thực quan hệ giữa tứ hoàng tử và Lý Thanh La, Bình Nam vương và lão vương gia sao có thể nuốt trôi mối nhục lớn này, đâu còn ủng hộ Tử Ly? Không cần ông ta giúp, chỉ cần ông ta án binh bất động là chúng ta đã thắng. Nếu Bình Nam vương muốn ra tay, cứ để y và tứ hoàng đệ đấu với nhau. Chỉ có điều lòng thiếp vẫn thấy không yên, Lý Thanh La thoái hôn vào lúc này, trước sau vẫn không làm thiếp yên tâm”.

Thái tử tức giận nói: “Bất luận thật giả thế nào, đều phải giữ nàng ta trong cung, với ai cũng tốt”.

“Không, để nàng ta đến phủ Ly Thân vương. Thiếp rất muốn xem Lý Thanh La và Thiên Lâm tỷ tỷ của nàng ta chạm mặt nhau thế nào, cho người theo dõi chặt, cơ hội xuất cung thế này về sau không còn nhiều, chờ xem động tĩnh của nàng ta”. Vương Yến Hồi không biết chắc thái độ của A La. Câu chuyện này xem ra là thật, quan hệ nhân quả, lý giải của nàng nghe cũng thuận tai. Vẻ đẹp khác thường của Lý Thanh La sau ba năm mất tích vốn đã như không thật, nếu có những cái không thật nào khác cũng không có gì là lạ. Ngơ ngẩn suy tính hồi lâu, cuối cùng Vương Yến Hồi ra một quyết định. Ra khỏi cung trở về tướng phủ, A La lần lượt điểm lại từng sự việc vừa diễn ra ở Đông cung. Có lẽ họ bảy phần tin ba phần ngờ. Vậy thì khi nàng đến gặp Cố Thiên Lâm, cũng không thể để Thiên Lâm phát hiện ra điều gì, càng không thể tiếp xúc với An Thanh vương. Tốt nhất sau khi đến Ly Thân vương phủ nàng sẽ trở về nhà và ngoan ngoãn chờ đợi.

Nhưng ngộ nhỡ họ triệu vào cung làm thế nào để từ chối? A La nghĩ, sự hy sinh lần này quá lớn, không cẩn thận mất mạng như chơi. Nàng rất hận, Lưu Giác, nếu thiếp có mệnh hệ gì, chàng cùng lão vương gia cáo già đập đầu vào tường chết cho xong!

Nàng trang điểm qua loa, ra cửa, không cho Lưu Anh đi cùng: “Lưu Anh, chủ ngươi bây giờ đi gặp tình địch, ngươi không cần đi theo, tốt nhất nên giúp ta vẽ sơ đồ trong cung, sau này biết đâu có lúc dùng đến”.

Lưu Anh đã được nghe A La kể chuyện vừa xảy ra trong Đông cung, cúi đầu cười: “Vâng, chúc tiểu thư và Ly Thân vương phi hòa khí, sau này tỷ muội tình thâm!”.

A La trợn mắt: “Ngươi không sợ Bình Nam vương ghen hả?”.

“Chủ của tiểu nhân bây giờ là tiểu thư! Huống hồ tiểu vương gia ức hiếp tiểu nhân suốt hơn hai chục năm, để vương gia ghen một chút cũng tốt cho sức khỏe!”. Lưu Anh cười nói, bụng nghĩ, Lưu Giác sao có thể ghen, tiểu vương gia tuyệt đối không ghen, chỉ có đau, đau lòng! KhônNgười hầu đưa A La vào phủ Ly Thân vương, vừa bước vào chính đường đã ngẩn người. “Đây là bức họa vương gia cất giữ mà ta lén lấy xem”. Cố Thiên Lâm nhìn bức tranh ngơ ngẩn: “Mới thoạt nhìn, ta vô cùng sung sướng, tưởng là chàng nặng tình với ta như vậy. Nhìn lại lần nữa, ta như rơi xuống đáy vực. Tam tiểu thư, người trong bức họa hóa ra là muội”.

Thiên Lâm quay người nhìn A La: “Tiểu a hoàn của tướng phủ trong Đào hoa yến lần đó, cô gái nhỏ thông minh đã nhận ra ta khi ta cũng đóng giả a hoàn thì ra chính là tam tiểu thư tướng phủ”. Một tiếng thở dài rất nhẹ tựa hồ không thể nhận ra, “Ta suy nghĩ mãi, mới biết trong bức họa Bình Nam vương vẽ ta, đôi mắt lóng lánh như thủy tinh chính là đôi mắt của tam tiểu thư tướng phủ”.Không biết sau khi trở về sẽ trút giận lên đầu lão gia như thế nào?

A La nhất thời không biết nói sao. Lưu Giác từng nói chàng vẽ bức họa Cố Thiên Lâm, nhưng lại vô tình vẽ mắt nàng trong đó. Chàng ngày đêm ngắm đôi mắt này ư? Khi nghe chàng kể không nhận ra, bây giờ nhìn nàng mới thấy lòng đau nhói từng cơn, cảm động rưng rưng.

Cố Thiên Lâm đã đi đến trước mặt nàng: “Mắt nàng rất đẹp, thực ra không chỉ đôi mắt, cả con người nàng đều rất đẹp. Hồi xưa mái bờm che lấp nửa mặt, dung mạo thế nào cũng khó nhận ra, nhưng chỉ như vậy đã khiến vương gia say mê điên đảo. Ba năm rồi, muội biết không? Chàng đi Biên thành ba năm, không hề trở về nhìn ta một lần!”. Cố Thiên Lâm cố giữ bình tĩnh, nhưng không sao kìm nổi, giọng vẫn run run.

“Thiên Lâm tỷ tỷ, bức họa này là do Bình Nam vương vẽ, về sau, về sau tỷ với Tử… à với tứ hoàng tử thành thân, Bình Nam vương cảm thấy không tiện lưu giữ trong phủ, mới đưa đến đây, chứ không phải tứ hoàng tử muốn ngắm… đôi mắt kia”. A La nói như một phản xạ, nàng không muốn để Thiên Lâm buồn như thế.

“Phải, vốn là do Bình Nam vương vẽ. Cứ coi Ly Thân vương muốn ngắm nhìn ta, nhưng tại sao khi ta đứng trước mặt chàng, bằng xương bằng thịt, chàng dịu dàng bao nhiêu ta cũng không cảm thấy tấm lòng của chàng?”. Cố Thiên Lâm buồn bã nói.

A La không nói gì. Lúc này hoàn toàn không cần nàng nói gì, quan hệ giữa nàng và Tử Ly đã được chứng thực. Có một số chuyện bây giờ không phải lúc giải thích, có một số điều bây giờ cũng không tiện nói cho nàng ấy nghe. Mục đích của nàng đã đạt được, nán lại thêm nữa Cố Thiên Lâm nhìn thấy nàng sẽ càng khó chịu, “Thiên Lâm tỷ tỷ, con người tứ hoàng tử rất tốt, tỷ phải tin chàng, chàng sẽ đối xử tốt với tỷ. Muội đi đây”.

Cố Thiên Lâm cười nhạt: “Chàng sắp trở về, nếu muội muốn, ta cũng không phản đối muội vào phủ”.

A La trầm ngâm hồi lâu, cười nói: “Muội rất thích tỷ, Thiên Lâm tỷ tỷ. Cũng rất thích đại ca!”. Nàng không dám ngồi lâu, sợ nán thêm có khi không nén nổi lại nói ra những điều không nên nói. Lúc ra về nàng nghĩ, cả hai đều sắp trở về rồi sao? Vậy thì Phong thành mỗi ngày càng thêm náo nhiệt rồi.

“Ngày mai tiểu nữ vào cung thăm Thanh Lôi, vương gia có muốn dặn dò tiểu nữ điều gì chăng?”.

“Chẳng phải đã nói sẽ viết thư cho tiểu tử nói là con đích thân đến phủ từ hôn rồi thôi, trò phải diễn đủ, tiểu tử đó mới không nghi ngờ!”. An Thanh vương mặt tươi như hoa.

A La nghĩ, trong đầu “bung” một tiếng, tuyên bố như vậy mình sẽ sống ra sao? Không những Lý tướng sẽ đến tận Đường viên hỏi tội, thái tử, thái tử phi và Thanh Lôi cũng sẽ điên tiết, cái mạng nhỏ nhoi của mình liệu có giữ được không? Cây đại thụ An Thanh vương này chưa dựa được mấy ngày, ông đã đẩy mình vào vòng xoáy hay sao?

An Thanh vương vẫn cười nhìn nàng. A La lẩm bẩm: “Cha tiểu nữ sẽ đánh chết tiểu nữ mất! Không đùa nữa!”.

An Thanh vương cười khà khà: “Tiểu nha đầu sợ rồi hả?”.

“Đương nhiên, cái mạng nhỏ của A La phải thận trọng”.

Đúng, đẩy A La vào vòng xoáy như vậy là hơi tàn nhẫn, An Thanh vương cũng thấy không nỡ, buột miệng nói: “Thoái hôn đâu có dễ thế? Nhưng con cũng không thích nó, tiểu tử nhà ta đâu có xứng với con!”.

Ý ông thế nào? A La không hiểu. Nếu nàng nói không thích Lưu Giác… Nàng cười, nhìn An Thanh vương: “Vương gia đúng là cáo già! Ngay con trai mình mà cũng đưa vào toan tính!”.

“Như con nói, ta đương nhiên là cáo già. Nhưng vị hôn thê của tiểu tử kia không thích nó, lại gây chuyện muốn thoái hôn, nó không sốt ruột sao được! Nếu nó sốt ruột, ha ha, người làm cha này, đương nhiên cũng đành bất lực!”. An Thanh vương cười tỏ vẻ vô can.

A La kéo áo ông làm nũng: “Nếu cha tiểu nữ mắng tiểu nữ, chưa biết chừng tiểu nữ sợ quá bỏ trốn khỏi tướng phủ, lần này không biết đi đâu, lão vương gia nên chuẩn bị một sơn trang biệt uyển để cho tiểu nữ nương náu! Còn nữa, nếu Đông cung trở mặt với tiểu nữ, tiểu nữ tủi thân muốn ra phố mua sắm cho hả giận, không có bạc không xong!”.

Nói mãi nói mãi hai người cười khe khẽ.

Lúc sắp rời phủ, An Thanh vương cho A La ba cây pháo hoa: “Nếu tâm trạng không vui, thì đốt pháo hoa mà chơi, đẹp lắm”.

A La mỉm cười giơ tay đón nhận, ánh mắt lay động lóng lánh: “Một mình đốt pháo hoa thì buồn lắm, tiểu nữ thích chen trong đám đông xem pháo hoa, như thế mới vui”.

Phong thành sắp tới chắc không bình yên, bản thân mình chắc cũng không tránh khỏi bị cuốn vào dòng xoáy, đã vậy phải khuấy cho đục ngầu mới không uổng sống một đời ở đây. Lưu Giác, hai cha con chàng là những con cáo thật sự, còn ta, nàng nghĩ, ta sẽ nhân cơ hội này chơi thỏa thích một trận. Có hai con cáo một già một trẻ bảo vệ tốt bao nhiêu. Sau khi A La đi khỏi, An Thanh vương trở về thư phòng, đi đi lại lại suy nghĩ, thái y mật báo, Ninh vương đã hoàn toàn tê liệt, có thể ra đi bất cứ lúc nào, ông nhẩm tính thời gian, lệnh cho thái y bất luận thế nào cũng cố duy trì mạng sống cho Ninh vương thêm nửa tháng nữa.

Ngay từ ba năm trước, khi Ninh vương triệu ông trở về Phong thành, ngài đã khẩn thiết nói với ông: “Vương đệ, Ninh quốc sóng yên biển lặng cả trăm năm nay, ta bản tính yếu mềm, lại bình yên ngự trị trên ngai. Nhưng họ Vương lòng lang dạ sói, thế lực ngoại thích đã len vào triều đình. Đệ ở xa mãi tận Biên thành, những năm qua Ninh quốc không xảy ra chuyện gì lớn, nhưng triều chính đa phần đều làm theo ý họ Vương, ta cũng đành mắt nhắm mắt mở cho qua. Thái tử vốn cũng rất tốt, nhưng nó rất thân với họ Vương, để nó kế vị e là thế lực vương tộc họ Lưu chúng ta ngày càng suy yếu. Nếu lúc thái tử chọn thái tử phi, hoàng hậu không một mực tiến cử con gái Vương thái úy thì ta cũng thôi, bây giờ nếu thái tử kế vị, lưỡng cung hoàng hậu đều do con gái họ Vương nắm giữ, ta thực lòng không yên. Ta cũng đã nghĩ đến chuyện phế thái tử, hiềm nỗi một là Lưu Giám cũng là con trai ta, nó không mắc sai sót lớn, không có cớ gì để phế truất; hai là, họ Vương nhất định không phục. Họ Vương nắm đại quyền thống lĩnh cánh quân phía đông, nếu dấy binh, Ninh quốc đại loạn, e là cơ nghiệp mấy trăm năm của tổ tiên hủy bại trong tay ta!”.

An Thanh vương chứng kiến thái tử Lưu Giám và Ly Thân vương Lưu Phi từ nhỏ lớn lên. Hai vị hoàng tử đều là những người xuất sắc trong các vị hoàng tử, đều có khả năng kế vị. An Thanh vương hiểu, sau khi Trần hoàng hậu qua đời, Ninh vương rất lo lắng cho tứ hoàng tử, nhưng do thế lực họ ngoại rất lớn, đành lập Lưu Giám làm thái tử. Để bảo tồn thực lực của hoàng tộc, bản thân An Thanh vương đã nắm quyền cai quản Hữu quân đồn trú tận Biên thành xa xôi, coi như phân chia một phần binh lực, nhưng đại đa số quân quyền vẫn nằm trong tay Vương thái úy. Nếu thái tử kế vị, binh quyền, hoàng quyền họ Vương đều có, vận mệnh sau này của hoàng tộc họ Lưu rất khó lường.

An Thanh vương thận trọng lên tiếng: “Ý của vương huynh là…”.

Ninh vương trịnh trọng lấy ra di chiếu, trao vào tay ông, lạy ông một lạy: “Để bảo vệ gia tộc họ Lưu, ta đã làm khó vương đệ rồi”.

Khuôn mặt dày dạn gió sương của An Thanh vương trở nên cực kỳ trang nghiêm, ông quỳ xuống thề: “Quyết không phụ sự ủy thác của vương huynh!”. Khi đứng dậy, một khí phách oai nghiêm dũng mãnh lạ thường toát lên từ con người ông.

Ninh vương khẽ than: “Nếu ngày xưa đệ dịu tính một chút, ngôi báu này do đệ làm chủ, Ninh quốc đâu có nhiều rắc rối như thế!”.

An Thanh vương lắc đầu: “Câu này của vương huynh rất sai, đệ tính khí bạo liệt, không làm được đế vương, chính vương huynh nhẫn nhịn ôn hòa, đại độ khoan dung mới giữ Ninh quốc mấy chục năm phồn thịnh an khang. Phụ hoàng ngày xưa có con mắt tinh đời, đã sớm nhìn ra điểm yếu của đệ, đệ có thể nắm binh quyền trụ cột quốc gia, nhưng làm đế vương lại không xứng, cho nên phụ hoàng mới ban Xích long lệnh cho đệ”.

Khuôn mặt gầy yếu của Ninh vương tỏ ra xúc động: “Huynh đệ chúng ta một lòng giữ vững cơ nghiệp của họ Lưu, không làm hổ danh tổ tiên! Nhưng e là ta không đợi được đến ngày đó, đành trao đống đổ nát này cho vương đệ. Chỉ mong Tử Ly sớm trưởng thành, không phụ kỳ vọng của ta, nghiền ngẫm mưu tính mấy năm này, chắc cũng đã có thể lẳng lặng quăng mồi thanh trừng ngoại thích, tránh cho triều đình khỏi nạn binh đao”. Sau khi trở về Phong thành, An Thanh vương mới giật mình phát hiện cho dù trong tay ông nắm Xích long lệnh, có thể tiếp quản Phong thành lúc có nguy biến, nhưng thế lực họ Vương âm thầm xây dựng mấy chục năm, muốn suôn sẻ khống chế cục diện cũng không dễ. Dù Hữu quân hay Nam quân đều cách Phong thành quá xa, đáng ngại nhất là khi mọi mưu kế còn chưa hoàn tất, Ninh vương đã băng hà. Thái tử danh chính ngôn thuận kế vị, nếu không có sơ suất lớn, bản di chiếu của Ninh vương cũng khó thuyết phục được quần thần. Không có cớ động binh, tứ hoàng tử động binh là phạm tội mưu phản. Lúc đó triều đình sẽ chia thành hai phái, Ninh quốc đứng trước nguy cơ chia rẽ ly tán. Nếu Trần quốc dám dấy binh xâm lược tất sẽ liên minh với Hạ quốc, hơn nữa dã tâm của Khởi quốc đã rõ ràng. Khi Ninh vương lâm trọng bệnh, Trần quốc đang nôn nóng động binh, nếu lúc này hai vị hoàng tử tranh giành đế vị, sẽ là cơ hội hiếm có để mấy nước kia ra tay.

Ba năm nắm binh quyền vừa rồi, Tử Ly tất đã có chuẩn bị chu toàn, đã đến lúc cần trở về. Hiện giờ họ Vương đã có đề phòng, trong đại bản doanh ở ngoại ô phía đông cách Phong thành gần nhất, hai mươi vạn quân đã ém sẵn, mắt hau háu hướng về Phong thành, ông đã lệnh cho Lưu Giác không được khinh suất trở về Phong thành, chính là không cho họ Vương kia có cớ ngăn cản, để Lưu Giác hoàn toàn nắm chắc Nam quân trong tay. Còn bây giờ, từ Lâm Nam trở về, đi suốt ngày đêm cũng phải mất mười ngày, muộn hơn làm lỡ kế hoạch đã định thì quả thực có thể phải động binh đao.

An Thanh vương nhìn bức thư hồi âm viết theo ý A La, chợt nảy ra một ý, sửa lại: “Tam tiểu thư tướng phủ rất không hài lòng về con, làm loạn đòi thoái hôn, An Thanh vương phủ không biết giấu mặt vào đâu. Thái tử được tin lại muốn nạp nàng ta làm thứ phi, con không định để cha đi cướp vợ cho con chứ?”.

Ông lại viết cho Tử Ly: “Nội trong vòng mười lăm ngày lập tức trở về Phong thành”. Gắn si niêm phong xong, An Thanh vương cho gọi một tử sĩ Ô y kỵ đến truyền lệnh: “Xích Phong nghe đây, ngươi lập tức dẫn thêm ba người bí mật ra khỏi thành, nhất định phải trao tận tay Ly Thân vương. Nếu gặp cản trở, lập tức hủy thư. Dẫu chỉ còn một người cũng phải đích thân nói với Ly Thân vương, bản vương ra lệnh trong vòng mười lăm ngày phải gặp được thân vương!”.

Xích Phong quỳ sụp xuống, trả lời dõng dạc: “Vương gia yên tâm!”.

Xích Phong đi khỏi, An Thanh vương gọi: “Ám Dạ”.

Một bóng đen bay vào thư phòng: “Xin vương gia sai bảo!”.

“Ngươi có thân thủ tốt nhất trong Ô y kỵ, đây là ấn tín của bản vương, ngươi cầm thứ này đến gặp Ly Thân vương, nói là bản vương ra lệnh trong vòng mười lăm ngày dẫn quân trở về Phong thành. Còn lý do cứ nói là về phục tang phụ vương”.

Ám Dạ hơi ngạc nhiên: “Vương gia không tin Xích Phong?”.

“Không phải không tin, việc trọng đại, không thể sơ suất. Cho dù Xích Phong xảy ra chuyện, cũng phải đảm bảo Ly Thân vương được báo tin”. An Thanh vương hạ giọng.

Ám Dạ không hỏi nữa, nhận ấn tín, lẳng lặng lui ra.

Khi Lưu Giác đi Lâm Nam mang theo tử sĩ của Huyền tổ và Minh tổ của Ô y kỵ, trong phủ hiện chỉ còn lại ba kỵ đội. An Thanh vương nhìn bức thư viết cho Lưu Giác, gọi một binh sĩ Cáp tổ: “Nội trong vòng ba ngày đưa thư này đến tay thiếu chủ”.

Mọi việc xong xuôi, An Thanh vương có phần ngơ ngẩn, Phong thành mùa đông này cuối cùng đã nổi gió. Lại nghĩ đến Thanh La, nha đầu thông tuệ này ngay từ đầu đã hiểu ý của ông. Nhưng theo ông, Lý Thanh La mặc dù thích tiểu tử Lưu Giác, nhưng nàng gây sóng lớn như vậy cũng không hoàn toàn vì Lưu Giác. Ông đột nhiên cảm thấy thương cho con trai, nhưng rồi dường như hiểu ra, lại đắc ý: Cha si tình, con đương nhiên cũng thế.

Trở về tướng phủ, Lý tướng gọi A La vào thư phòng: “Đi gặp An Thanh vương thế nào?”.

A La rất bình tĩnh trả lời: “Lão vương gia rất tốt với con, Bình Nam vương đúng là chỗ dựa tốt”.

Nhìn vẻ mặt tươi cười của Lý tướng, A La chuyển hướng câu chuyện: “Có điều Ly Thân vương cũng không tồi!”.

Lý tướng kinh ngạc, con bé này có quan hệ với Ly Thân vương từ bao giờ? Tư tưởng sớm nắng chiều mưa như thế nếu An Thanh vương biết, lão già đó dễ chừng dám đánh ông trước mặt quần thần lắm.

“Đừng quên, con đã định hôn với Bình Nam vương, đã ra khỏi khuê phòng, bị lỡ mất ba năm! Ngày mai ta sẽ đến bàn với An Thanh vương chọn ngày thành hôn!”.

A La cười: “Cha à, cha hồ đồ hay sao? Ninh vương đang bệnh nặng, sao cha dám gả con vào lúc này?”.

Đúng, vương thượng bệnh nặng, bây giờ mà gả con gái là không thỏa đáng. Lý tướng nghiến răng lẩm bẩm, đứa con gái này bỏ đi ba năm, khi trở về đã đã không còn nhút nhát như trước, lời lẽ xem chừng có ý từ hôn, nếu không sớm gả đi, đêm dài lắm mộng. Đầu ông lóe lên bao toan tính.

Nhìn ánh mắt liếc đảo bất định của Lý tướng, A La bồi thêm một câu: “Ly Thân vương nắm trọng binh trong tay, ngộ nhỡ…”.

Lý tướng kinh ngạc, phải rồi, Ly Thân vương là cá trong ao, hai con hổ đấu nhau, bản thân mình quả thực đã đem châu báu đặt cả vào thái tử, nhưng nếu ngộ nhỡ? Đằng nào ba đứa con gái hy sinh đứa nào cũng không quan trọng, quan trọng là mình phải kín kẽ, không được phép sơ sẩy! Bình Nam vương cũng tốt, nhưng nếu Ly Thân vương chiến thắng thái tử, kế vị ngôi báu, gả A La cho y, mình chẳng phải càng hời hay sao? Nhưng nếu hủy hôn, mình biết ăn nói thế nào với lão già An Thanh vương? Lý tướng lại đau đầu.

“Cha khỏi cần phiền não, bây giờ con chưa đồng ý lấy ai là được chứ gì? Để mọi chuyện rõ ràng rồi tính cũng chưa muộn!”.

Mặt Lý tướng tươi tắn lại ngay lập tức, nghĩ đến Bình Nam vương đang ở Lâm Nam chưa về, Ly Thân vương cũng ở tận Biên thành, lúc này chưa cần lo vội. Ông thầm khen A La mưu kế: “Ý hay lắm, thật không hổ là con gái ngoan của ta! Ngày mai vào cung thăm tỷ tỷ, con nhớ trang điểm thật đẹp đấy!”.

Bình luận