Trở về Boston, tôi thành lập nhóm nghiên cứu để bắt đầu xây dựng danh mục kiểm tra nhằm sử dụng trong phẫu thuật. Chúng tôi cố gắng làm theo những gì học được từ ngành hàng không. Chúng tôi chủ yếu sử dụng loại danh mục kiểm tra THỰC HIỆN-XÁC NHẬN, thay cho loại ĐỌC- THỰC HIỆN, nhằm giúp mọi người linh hoạt hơn trong lúc thực hiện công việc của mình khi buộc họ phải ngưng lại vào những thời điểm then chốt để xác nhận họ không bỏ sót các bước quan trọng. Qua nhiều lần chỉnh sửa như thế, danh mục kiểm tra dần hoàn thiện hơn.
Chúng tôi cũng dùng cách mô phỏng để kiểm tra danh mục. Chúng tôi nhờ một trợ tá nằm trên bàn, đóng vai bệnh nhân đang chờ mổ. Rồi chúng tôi chỉ định những người khác tham gia với những vai trò khác nhau: bác sĩ phẫu thuật, phụ mổ, các y tá (một y tá phụ mổ và một y tá tuần hoàn), và bác sĩ gây mê. Nhưng chúng tôi gặp rắc rối ngay khi mới bắt đầu.
Chẳng hạn, ai sẽ là người ra quyết định tạm dừng mọi việc và bắt đầu tiến hành theo danh mục kiểm tra? Chúng tôi đã nhận ra điều này, nhưng đây không phải là một vấn đề đơn giản. Thông thường chỉ có bác sĩ phẫu thuật mới có đủ quyền hạn để kiểm soát và hướng mọi người vào ca mổ. Do vậy, tôi đề nghị bác sĩ phẫu thuật thực hiện công đoạn này. Nhưng có nhiều ý kiến phản đối. Trong ngành hàng không, có một lý do tại sao “phi công không điều khiển máy bay” là người bắt đầu danh mục kiểm tra. “Phi công đang điều khiển máy bay” có thể bị xao nhãng vì đang thực hiện nhiệm vụ và có khả năng bỏ qua danh mục kiểm tra. Hơn nữa, việc phân chia trách nhiệm gửi đi một thông điệp rằng tất cả mọi người, không chỉ cơ trưởng, đều có trách nhiệm với sự an toàn của chuyến bay và mọi người đều có quyền được biết về tình hình đang diễn ra. Các đồng nghiệp của tôi cho rằng danh mục kiểm tra trong ngành phẫu thuật cũng cần được thực hiện theo cách tương tự, nghĩa là phân chia trách nhiệm và quyền hạn. Cuối cùng, chúng tôi thống nhất rằng y tá tuần hoàn sẽ là người ra lệnh thực hiện danh mục.
Vậy các y tá có bắt buộc phải ghi chú lại những công việc đã thực hiện không? Không, chúng tôi quyết định là họ không phải làm thế. Vì đây không phải là hồ sơ để lưu trữ. Chúng tôi hướng đến mục tiêu tạo ra một cuộc thảo luận nhóm nhằm bảo đảm rằng mọi người đã xem và chốt lại những điều cần thiết để giúp ca mổ diễn ra suôn sẻ.
Từng phần trong danh mục kiểm tra phải được trình bày độc lập. Chúng tôi đo thời gian thực hiện bằng chiếc đồng hồ trên tường. Danh mục kiểm tra được thực hiện tại ba thời điểm – trước lúc gây mê, trước lúc mổ và sau khi rời phòng mổ. Yêu cầu đặt ra là không quá 60 giây cho mỗi lần kiểm tra, và chúng tôi chưa làm được điều đó. Nếu muốn áp dụng trong môi trường có áp lực cao như các phòng mổ, các phần việc trong danh mục kiểm tra cần được thực hiện nhanh hơn. Như vậy, chúng tôi sẽ phải bỏ đi vài mục không quá quan trọng, tức là những lỗi không gây chết người – nếu xảy ra.
Nhưng thật khó khăn để quyết định bỏ đi hay giữ lại một mục nào đó. Luôn có sự xung đột giữa hai phạm trù “ngắn gọn” và “tính hiệu quả”. Nếu lược bỏ quá nhiều, bạn sẽ không có đủ các mục cần kiểm tra. Nhưng nếu đưa vào quá nhiều, danh mục lại trở nên quá dài. Hơn nữa, vấn đề được xem là quan trọng đối với người này có thể không quan trọng đối với người khác. Mùa xuân năm 2007, chúng tôi lại triệu tập nhóm các chuyên gia quốc tế trong tổ chức WHO tại London để thảo luận về vấn đề này. Và mọi người cũng không thể thống nhất được về việc mục nào nên giữ lại, mục nào nên lược bỏ.
Ví dụ, các nghiên cứu ở Mỹ và châu Âu đã phát hiện ra rằng trong những ca phẫu thuật kéo dài, chứng huyết khối tĩnh mạch sâu – là các cục máu tụ trong chân có thể di chuyển lên phổi và để lại những hậu quả chết người – có thể được ngăn chặn bằng cách tiêm một liều nhỏ chất làm loãng máu như heparin, hay mang vớ nén vào chân họ. Nhưng các nhà nghiên cứu ở Trung Quốc và Ấn Độ lại cho là không cần thiết, vì các thống kê của họ chỉ ra rằng tỷ lệ bị máu cục ở nước họ là rất thấp, thấp hơn rất nhiều so với các nước phương Tây và hầu như không ai bị tử vong. Hơn nữa, phương pháp điều trị này – mang vớ nén hay tiêm heparin – là không hề rẻ đối với những nước nghèo và nước có thu nhập trung bình. Thêm một lý do nữa: chỉ cần một sơ suất nhỏ của bác sĩ khi chỉ định chất làm loãng máu có thể gây ra tình trạng quá liều rất nguy hiểm. Vậy là vấn đề này được bỏ ra khỏi danh mục.
Chúng tôi cũng bàn thêm về sự cố hỏa hoạn trong phòng mổ – một tai nạn rất thường xảy ra. Trong phòng phẫu thuật có một số thiết bị mà trong quá trình sử dụng đôi khi phát ra tia lửa điện như thiết bị điện tử có điện áp cao, các dụng cụ đốt… và nguồn oxy nồng độ cao. Mà đôi khi những thứ này lại vô tình được đặt cạnh nhau. Kết quả là hầu hết các cơ sở y tế trên thế giới đều có ít nhất một vụ cháy trong lúc phẫu thuật. Đó là những tai nạn khủng khiếp. Oxy nguyên chất có thể làm cho mọi thứ lập tức bén lửa, từ những tấm phủ vô trùng trên người bệnh nhân đến ống nội khí quản. Tuy nhiên, các vụ cháy trong phòng phẫu thuật hoàn toàn có thể phòng ngừa được nếu các ê kíp đảm bảo không có khí oxy rò rỉ, cũng như hạn chế sử dụng chất khử trùng có chứa cồn. Trong trường hợp xảy ra hỏa hoạn, một bước chuẩn bị trước đơn giản cũng có thể ngăn ngừa rủi ro cho bệnh nhân – cụ thể là xác nhận rằng mọi người đều biết các vị trí van bình cấp khí, chuông báo động và bình cứu hỏa. Những bước này có thể dễ dàng được đưa vào danh mục kiểm tra.
So với những nguyên nhân nghiêm trọng gây chết người trong phẫu thuật như nhiễm trùng, chảy máu hay gây mê không an toàn, thì khả năng xảy ra cháy nổ là vô cùng hiếm. Ở Mỹ, trong số mười triệu ca mổ mỗi năm, chỉ có khoảng một trăm ca xảy ra hỏa hoạn trong phòng mổ và rất ít trường hợp gây ra tử vong; trong khi có tới 300.000 ca mổ để lại hậu quả nhiễm trùng tại vị trí mổ và hơn 8.000 ca tử vong do nhiễm trùng sau mổ. Vậy thì rõ ràng là chúng ta cần tập trung phòng ngừa nhiễm trùng. Vì thế, những mục kiểm tra nhằm ngăn ngừa các vụ cháy, vốn làm cho danh mục dài thêm ra, sẽ bị loại khỏi danh mục.
Không có cơ sở khoa học hay một tiêu chuẩn nhất định nào để bạn quyết định giữ lại hay bỏ đi một mục nào đó. Trường hợp mổ sai người bệnh hay sai vị trí là rất hiếm, nhưng các bước kiểm tra để ngăn chặn những sai sót này lại tương đối nhanh. Ngoài ra, những sai sót dạng này luôn nhận được nhiều sự chú ý. Vì thế, chúng tôi quyết định giữ chúng lại.
Ngược lại, các bước kiểm tra nhằm ngăn chặn tình trạng thiếu trao đổi thông tin đã được thừa nhận rộng rãi là có thể giúp hạn chế một số thất bại. Nhưng cách của chúng tôi – yêu cầu mọi người trang trọng tự giới thiệu về mình và thảo luận ngắn những vấn đề quan trọng của một ca mổ – lại chưa chứng minh được hiệu quả. Tuy nhiên, tăng khả năng làm việc theo nhóm là cơ sở để tạo ra sự khác biệt, do vậy chúng tôi sẵn sàng đưa những mục này vào thử nghiệm.
Sau cuộc họp ở London, chúng tôi làm một chương kiểm tra với quy mô nhỏ – mỗi trường hợp chỉ thực hiện một lần. Nhóm bác sĩ ở London thử nghiệm bản danh mục phác thảo rồi đưa ra đề nghị của mình, sau đó đến nhóm bác sĩ ở Hong Kong. Cứ sau mỗi đợt thử nghiệm, danh mục kiểm tra lại được chỉnh sửa và trở nên tốt hơn. Dường như chúng tôi đã làm được điều mà chúng tôi mong muốn. Một danh mục kiểm tra đã sẵn sàng để lưu hành.
Danh mục kiểm tra do WHO chính thức đưa ra gồm chín mục nhằm giúp hạn chế rủi ro trong phẫu thuật. Có bảy mục cần kiểm tra trước lúc gây mê. Các thành viên trong ê kíp phải đảm bảo rằng đích thân bệnh nhân (hay người được bệnh nhân ủy quyền) xác nhận nhân thân và cho phép thực hiện ca mổ. Họ đảm bảo vị trí mổ đã được đánh dấu và rằng oxy huyết kế, thiết bị kiểm soát lượng oxy trong máu, đã gắn vào người bệnh nhân và đang ở trong tình trạng hoạt động tốt. Ê kíp cần kiểm tra những vấn đề về dị ứng thuốc của bệnh nhân, xem lại những rủi ro liên quan đến đường hô hấp vốn là vấn đề nguy hiểm nhất khi gây mê toàn thân. Xác định những thiết bị và sự trợ giúp cần thiết trong quá trình mổ và đảm bảo là tất cả đều đã sẵn sàng. Cuối cùng, ê kíp xác nhận đường ống truyền vào tĩnh mạch, máu và dịch truyền đã có sẵn, phòng trường hợp bệnh nhân có nguy cơ mất hơn 0,5 lít máu.
Sau khi gây mê, ê kíp mổ cần kiểm tra thêm bảy mục nữa trước khi mổ. Họ phải đảm bảo đã được giới thiệu tên và vai trò của các cộng sự. Họ xác nhận đúng bệnh nhân cần mổ và ghi nhớ quy trình mổ (gồm cả việc sẽ mổ bên phải hay bên trái của bệnh nhân), xác nhận cần tiêm kháng sinh đúng giờ hay không cần tiêm. Những tấm phim chụp X-quang cần cho ca mổ đã được treo lên. Và để đảm bảo mọi người phối hợp tốt với nhau, mọi người sẽ thảo luận những chi tiết quan trọng của ca mổ: bác sĩ phẫu thuật xem xét ca mổ sẽ kéo dài bao lâu, lượng máu cần được chuẩn bị và bất cứ điều gì mọi người nên chú ý; bác sĩ gây mê xem lại kế hoạch gây mê; các y tá kiểm tra những thiết bị cần thiết cho ca mổ đã được chuẩn bị và vô trùng chưa; cũng như những vấn đề hệ trọng khác liên quan đến bệnh nhân.
Kết thúc ca mổ, ê kíp cần thực hiện năm mục kiểm tra cuối cùng trước khi đẩy bệnh nhân ra khỏi phòng. Y tá tuần hoàn đọc to tên hồ sơ lưu của ca mổ, dán nhãn các mẫu mô trong trường hợp cần gửi đến bộ phận nghiên cứu bệnh học, kiểm đếm các loại kim, gạc và những dụng cụ phẫu thuật khác. Xác định có thiết bị nào hư hỏng, cần được khắc phục để sử dụng cho ca mổ tiếp theo không. Để đảm bảo thông tin sau ca mổ đầy đủ và rõ ràng, mọi người trong ê kíp cũng cần nói lên những lưu ý về bệnh nhân và đưa ra kế hoạch cho quá trình chăm sóc hậu phẫu.
Tất nhiên, có nhiều ca phẫu thuật đòi hỏi thực hiện ít nhất 19 bước. Nhưng cũng như các nhà thầu xây dựng, danh mục của chúng tôi đã cố gắng bao trùm các bước từ đơn giản đến phức tạp. Danh mục bao gồm một số bước thật chi tiết để đảm bảo ê kíp không bỏ sót (kháng sinh, dị ứng, sai bệnh nhân) và một vài mục trao đổi thông tin để mọi người cùng làm việc theo nhóm, đồng thời nhận biết những rủi ro có thể xảy ra. Đó là ý tưởng của chúng tôi. Nhưng liệu chúng có làm giảm các mối nguy hiểm cho bệnh nhân trong quá trình phẫu thuật hay không?
Để tìm câu trả lời, chúng tôi quyết định nghiên cứu ảnh hưởng của danh mục kiểm tra ở tám bệnh viện trên thế giới – một quy mô phù hợp với khoản tài trợ khiêm tốn của WHO, nhưng cũng đủ rộng lớn để có thể đưa ra những kết quả xác thực. Hàng tá bệnh viện gửi thư đến đề nghị được tham gia chương trình. Vậy là chúng tôi đề ra một vài tiêu chí tuyển chọn. Lãnh đạo bệnh viện tham gia phải biết tiếng Anh, bởi chúng tôi có thể dịch danh mục kiểm tra, nhưng không thể trao đổi thông tin hàng ngày với lãnh đạo của tám bệnh viện bằng những ngôn ngữ khác nhau. Bên cạnh đó, bệnh viện tham gia phải tọa lạc tại một địa điểm an toàn để chúng tôi có thể lui tới thường xuyên. Chẳng hạn, chúng tôi nhận được một lá thư đầy tâm huyết từ trưởng khoa phẫu thuật của một bệnh viện ở Iraq. Nếu để họ tham gia thì hẳn sẽ rất thú vị. Nhưng thực hiện một cuộc thăm dò nghiên cứu ở vùng chiến sự thì có vẻ không phù hợp lắm.
Tôi cũng muốn các bệnh viện tham gia phải thật đa dạng – cả những nước giàu, nghèo và trung bình. Ý kiến này gây ra sự ngạc nhiên ngay tại trụ sở của WHO. Các quan chức ở đây giải thích rằng ưu tiên hàng đầu của WHO là tập trung giúp đỡ những nước nghèo, do đó việc chi một khoản đáng kể nhằm thu thập số liệu ở những nước giàu sẽ khiến nguồn tài trợ cho những nơi khác bị hụt đi. Nhưng tôi cho rằng sai sót trong phẫu thuật có thể xảy ra ở bất cứ đâu. Và danh mục kiểm tra có thể giúp cải thiện tình hình ở bất cứ đâu. Một khi danh mục kiểm tra thể hiện được tác dụng tích cực ở những nước có thu nhập cao, thì thành công đó có thể trở thành động lực để các cơ sở y tế nghèo hơn áp dụng. Thế nên, chúng tôi nhất trí để các bệnh viện ở những nước giàu tham gia, nếu họ đồng ý tự thu xếp chi phí phục vụ việc nghiên cứu.
Một yêu cầu nữa là những bệnh viện tham gia phải để các quan sát viên kiểm tra tỷ lệ thực tế của biến chứng, tử vong và sai sót trong hệ thống chăm sóc phẫu thuật trước và sau khi áp dụng danh mục kiểm tra. Đây không phải là vấn đề nhỏ. Hầu hết các bệnh viện, cả ở những nơi có thu nhập cao nhất, đều không nắm được những con số này. Mà việc quan sát chắc chắn sẽ gây khó khăn cho họ. Cuối cùng, chúng tôi cũng đã có tám bệnh viện trên khắp thế giới sẵn sàng chờ thực hiện danh mục kiểm tra thử nghiệm.
Có bốn bệnh viện thuộc những nước có thu nhập cao và nằm trong số những bệnh viện hàng đầu trên thế giới: Trung tâm Y tế Đại học Washington ở Seattle (Mỹ), Bệnh viện Đa khoa Toronto (Canada), Bệnh viện Thánh Mary (Anh) và Bệnh viện Thành phố Aukland (New Zealand). Bốn bệnh viện ở những nước có thu nhập thấp và trung bình là: Bệnh viện Đa khoa Philippines ở Manila, lớn gấp đôi những bệnh viện ở các nước giàu mà chúng tôi vừa kể; Bệnh viện Hoàng tử Hamza ở Amman (Jordan) – một cơ sở y tế mới được nhà nước xây dựng nhằm giúp đỡ những người tị nạn tràn ngập ở vùng Jordan; Bệnh viện Thánh Stephen ở New Delhi (Ấn Độ) – một bệnh viện từ thiện ở thành phố; và Bệnh viện Thánh Francis ở Ifakara (Tanzania) – bệnh viện duy nhất ở cả vùng nông thôn rộng lớn có dân số trên một triệu người.
Có nhiều điểm khác biệt giữa hai nhóm bệnh viện mà chúng tôi dự định triển khai danh mục kiểm tra. Ngân sách dùng cho mục đích chăm sóc y tế hàng năm ở những nước có thu nhập cao lên đến hàng ngàn đô-la mỗi người, trong khi ở Ấn Độ, Philippines và Đông Phi, khoản tiền này không vượt quá hai chữ số. Cụ thể là ngân sách của Trung tâm Y tế Đại học Washington tới hơn một tỷ đô-la mỗi năm – nhiều hơn gấp đôi tổng chi y tế của cả nước Tanzania. Vì thế, việc phẫu thuật ở tám bệnh viện trên sẽ rất khác nhau. Một bên là những bệnh viện với các trang thiết bị hiện đại cho phép ê kíp mổ thực hiện mọi thứ, từ cắt tuyến tiền liệt bằng robot đến cấy ghép gan, cùng rất nhiều thủ thuật tiên tiến, ít nguy hiểm và không gây đau, giúp bệnh nhân có thể về nhà ngay trong ngày, như chữa chứng sa ruột, sinh thiết vú và đặt ống thông tai để dẫn lưu chất nhầy do nhiễm trùng tai mạn tính ở trẻ em. Một bên là những bệnh viện phải làm việc trong tình trạng thiếu nhân sự và nguồn lực để ưu tiên cho các ca mổ khẩn cấp, chẳng hạn như những ca mổ đẻ trong trường hợp người mẹ chết trong lúc sinh, hay các ca bị chấn thương nghiêm trọng. Ngay cả khi các bệnh viện thực hiện những ca mổ giống nhau như cắt ruột thừa, mổ vú, đặt thanh nẹp vào xương đùi bị gãy… thì hoàn cảnh phẫu thuật cũng hoàn toàn khác nhau, đến nỗi quy trình mổ chỉ còn giống nhau cái tên. Ở những bệnh viện có điều kiện kém hơn, trang thiết bị cũng nghèo nàn hơn và các ê kíp cũng ít được đào tạo bài bản hơn. Đã vậy, bệnh nhân lại thường nhập viện trong tình trạng xấu: ruột thừa đã thoát vị, khối ung thư vú đã to gấp đôi, chỗ xương đùi gãy đã bắt đầu nhiễm trùng…
Dù sao chúng tôi cũng tiến hành nghiên cứu với tám cơ sở y tế được chọn. Suy cho cùng, mục tiêu của chúng tôi lần này không phải là để so sánh các bệnh viện với nhau, mà là xác định xem danh mục kiểm tra có thể thật sự giúp cải thiện việc chăm sóc sức khỏe không. Chúng tôi thuê các cộng tác viên người địa phương và huấn luyện họ cách thu thập thông tin từ các bệnh viện về tỷ lệ tử vong và biến chứng hậu phẫu. Chúng tôi thận trọng phân loại những trường hợp được thống kê. Các biến chứng phải thật sự nghiêm trọng như viêm phổi, đau tim, chảy máu… cần phải quay lại phòng mổ, hay mất hơn bốn đơn vị máu, vết thương bị nhiễm trùng, hoặc đại loại như vậy. Và biến chứng phải thật sự xảy ra tại bệnh viện đó.
Trong số gần 4.000 bệnh nhân là người lớn được phẫu thuật mà chúng tôi thống kê được có hơn 400 trường hợp bị biến chứng hậu phẫu nghiêm trọng, làm 56 người chết. Khoảng một nửa trường hợp biến chứng là do nhiễm trùng, một phần tư khác là do sai sót kỹ thuật phải đưa bệnh nhân trở lại phòng mổ để cầm máu hay khắc phục sự cố. Nhìn chung, tỷ lệ biến chứng nằm trong khoảng từ từ 6% đến 21%. Đáng chú ý là phòng mổ tại các bệnh viện mà chúng tôi thực hiện nghiên cứu có xu hướng thực hiện các thủ tục phức tạp hơn. Những ca mổ dễ có tỷ lệ thương tật ít hơn. Tuy nhiên, các số liệu đã xác nhận lại điều chúng tôi vẫn nghĩ trước đó: dù thực hiện ở đâu thì phẫu thuật cũng nguy hiểm và đầy rủi ro.
Nhưng chúng tôi cũng nhìn thấy cơ hội cải thiện tình hình ở khắp mọi nơi. Chẳng hạn, không một bệnh viện nào có cách tiếp cận thường xuyên để đảm bảo các ê kíp đã biết và đã chuẩn bị cho các ca mổ mà bệnh nhân có nguy cơ mất máu cao, hoặc có cuộc thảo luận giữa các thành viên về những lưu ý liên quan đến bệnh nhân. Chúng tôi theo dõi việc tuân thủ sáu bước an toàn: tiêm kháng sinh đúng lúc, sử dụng oxy huyết kế, hoàn thành việc đánh giá rủi ro về việc đặt ống nội khí quản, xác nhận bằng lời rằng đã tiếp nhận đúng bệnh nhân và đúng ca mổ, gắn các đường ống truyền vào tĩnh mạch cho bệnh nhân mất máu nghiêm trọng, và sau đó là kiểm đếm đầy đủ các miếng gạc vào cuối ca mổ. Đây là những bước cơ bản trong phẫu thuật, giống như việc phi công cần mở khóa điều khiển bánh lái độ cao trước khi máy bay cất cánh vậy. Tuy nhiên, ở nơi nào chúng tôi cũng thấy có sai sót. Trường hợp khả quan nhất là bỏ sót ít nhất một trong các bước tối thiểu này. Tỷ lệ bỏ sót là 6%, nghĩa là cứ 16 ca mổ thì có một lần ê kíp mổ bỏ sót một bước. Tính bình quân, cả ở những nước giàu và nghèo, các bệnh viện đã bỏ sót một bước trong hai phần ba tổng số ca mổ. Việc phẫu thuật ở mỗi nơi mỗi khác, nhưng lại giống nhau ở chỗ người ta đều mắc phải những lỗi cơ bản.
Đầu mùa Xuân năm 2008, các bệnh viện bắt đầu áp dụng danh mục kiểm tra trong phẫu thuật dài hai phút gồm 19 bước của chúng tôi. Chúng tôi biết rằng còn phải làm rất nhiều để tạo nên sự thay đổi, chứ không chỉ đơn giản là đưa một tập giấy vào phòng mổ. Lãnh đạo các bệnh viện cam kết sẽ giới thiệu chương trình này một cách hệ thống, cụ thể là họ không chỉ trình bày với các bác sĩ phẫu thuật, mà cả các bác sĩ gây mê, y tá và tất cả các thành viên trong ê kíp. Chúng tôi cung cấp cho họ số liệu mà chúng tôi thu thập được về những biến chứng trong phẫu thuật ở chính bệnh viện của họ với mục đích giúp đội ngũ nhân viên thấy họ đang cố gắng cải thiện vấn đề gì. Chúng tôi đưa cho họ một số tài liệu trên chương trình PowerPoint, vài đoạn phim trên YouTube, một đoạn phim minh họa “Cách sử dụng danh mục kiểm tra phẫu thuật an toàn” và một chương trình khá thú vị khác có tựa đề “Làm thế nào để không sử dụng danh mục kiểm tra phẫu thuật an toàn” để mọi người thấy việc xử lý các tình huống là rất dễ dàng.
Bước đầu, chúng tôi yêu cầu lãnh đạo các bệnh viện chỉ áp dụng danh mục kiểm tra ở một phòng mổ, lý tưởng nhất là trong những ca mà trưởng khoa phẫu thuật đích thân thực hiện cùng với các bác sĩ gây mê và y tá nhiều kinh nghiệm. Chắc chắn sẽ có nhiều sai sót cần khắc phục. Mỗi bệnh viện sẽ phải điều chỉnh lại trình tự và cách diễn đạt sao cho phù hợp với thực tế và ngôn từ của họ. Một vài bệnh viện sử dụng nguyên mẫu bản dịch. Một số khác yêu cầu bổ sung vài mục nữa. Ở một số bệnh viện, danh mục kiểm tra buộc họ phải thay đổi vài điều, ví dụ cần trữ nhiều thuốc kháng sinh hơn trong phòng mổ. Chúng tôi cần những nhóm đầu tiên áp dụng danh mục kiểm tra phải có thâm niên và sự kiên nhẫn là để tạo ra những thay đổi cần thiết và không gạt bỏ toàn bộ công trình.
Việc sử dụng danh mục kiểm tra cũng đòi hỏi sự thay đổi lớn về văn hóa cũng như sự dịch chuyển trong quyền hạn, trách nhiệm và mong muốn cải thiện chăm sóc y tế. Và các bệnh viện cần nhận thức được điều đó. Chúng tôi tin rằng đội ngũ nhân viên tại bệnh viện chắc chắn sẽ áp dụng danh mục kiểm tra nếu họ thấy lãnh đạo của mình ngay từ đầu đã tán thành việc đó.
Nhóm nghiên cứu bắt đầu lên đường đến các bệnh viện được chọn để triển khai danh mục kiểm tra. Tôi chưa bao giờ chứng kiến người ta tiến hành phẫu thuật theo nhiều kiểu khác nhau như vậy. Mọi chuyện vượt xa những gì tôi có thể hình dung và các vấn đề gặp phải cũng đa dạng hơn nhiều.
Ở Tanzania, bệnh viện trong chương trình của chúng tôi nằm cách thủ đô Dar es Salaam khoảng 300 km. Con đường đến đó đầy bụi, đôi chỗ thu hẹp lại chỉ còn một làn xe. Tình trạng ngập lụt vào mùa mưa đã cắt đứt nguồn cung cấp nhu yếu phẩm, làm thuốc men và khí tê cho bệnh viện lúc có lúc không. Tình trạng này cứ lặp lại mỗi vài tuần. Hàng ngàn bệnh nhân cần mổ, nhưng bệnh viện chỉ có năm bác sĩ phẫu thuật và bốn nhân viên gây mê, mà chẳng nhân viên gây mê nào có bằng y khoa. Nguồn máu chủ yếu được cung cấp từ người nhà bệnh nhân, và khi không đủ thì các nhân viên trong bệnh viện sẽ cho máu. Người ta phải để dành thuốc gây mê và thường kê thuốc gây tê cột sống – là loại thuốc gây tê được tiêm thẳng vào tủy sống. Các bác sĩ ở đây còn có cách tiến hành phẫu thuật dưới xương sống mà tôi chưa biết đến bao giờ. Họ tiết kiệm và khử trùng các găng tay phẫu thuật, rồi dùng đi dùng lại cho đến khi trên đó xuất hiện mấy vết rách. Thậm chí, họ còn tự làm gạc phẫu thuật. Cứ mỗi buổi chiều vào giờ uống trà, y tá và nhân viên gây mê lại quây quần quanh chiếc bàn gỗ cũ kỹ để cắt những cuộn vải cotton màu trắng rồi xếp theo cỡ của miếng gạc để dùng cho các ca mổ ngày hôm sau.
Tình trạng của bệnh viện ở Delhi không đến mức quá tệ như ở Tanzania hay như những vùng nông thôn Ấn Độ mà tôi từng đến. Ở đó có nhiều nguồn tiếp tế hơn. Đội ngũ nhân viên cũng được đào tạo tốt hơn. Nhưng số lượng bệnh nhân cần chăm sóc trong thành phố 13 triệu dân này thì không thể tưởng tượng nổi. Bảy bác sĩ gây mê phải đảm đương 20.000 ca mổ mỗi năm. Với số lượng ca phẫu thuật như thế, bệnh viện ở New Zealand phải cần đến 92 bác sĩ gây mê. Tuy nhiên, đối diện với tình trạng khó khăn như thiếu trang thiết bị, thiếu điện, danh sách bệnh nhân chờ mổ dài dằng dặc, những ngày làm việc kéo dài 14 tiếng… tôi lại hiếm khi nghe thấy lời phàn nàn và thái độ không hài lòng từ các nhân viên phẫu thuật ở Delhi, ít hơn hẳn so với nhiều bệnh viện ở Mỹ mà tôi đến.
Không chỉ có sự khác nhau giữa các bệnh viện ở nước giàu và nghèo, mà trong cùng một điều kiện kinh tế-xã hội, mỗi bệnh viện cũng có những điểm riêng biệt. Bệnh viện Thánh Mary ở London, một trong những nơi chúng tôi thử nghiệm danh mục kiểm tra, là một khu gồm nhiều căn nhà ở Paddington, được xây bằng gạch đỏ và đá trắng từ hơn một thế kỷ trước. Chính tại đây vào năm 1928, Alexander Fleming đã phát hiện ra penicillin. Mới đây, dưới sự điều hành của chủ tịch ban phẫu thuật, Ngài Darzi of Denham, bệnh viện đã trở thành nơi tiên phong trong việc phát triển phẫu thuật nội soi và phẫu thuật mô phỏng. Đây là một trong những cơ sở y tế hiện đại với đầy đủ trang thiết bị tiên tiến và là nơi giới thượng lưu đến khám. Hoàng tử William và Harry đã được sinh ra tại đây. Đứa con trai bị tàn tật của thủ lĩnh Đảng bảo thủ, David Cameron, cũng được chăm sóc ở đây. Nhưng nơi này trông chẳng có vẻ gì là sang trọng – vẫn là một bệnh viện công theo hệ thống Dịch vụ Y tế Quốc gia, phục vụ bất kỳ người dân Anh nào, không tính phí và không hề phân biệt đối xử.
Quan sát 16 phòng mổ ở đây, tôi nhận thấy chúng khá giống những nơi tôi từng làm việc ở Boston – hiện đại và đầy đủ thiết bị công nghệ cao. Nhưng quy trình phẫu thuật thì hơi khác. Chẳng hạn, thay vì được gây mê bên trong phòng mổ, các bệnh nhân lại được gây mê ở bên ngoài rồi sau đó mới được đẩy vào trong. Như vậy có nghĩa là phần đầu tiên của danh mục kiểm tra sẽ phải thay đổi. Các bác sĩ gây mê và y tá tuần hoàn không mang khẩu trang – điều này đối với tôi chẳng khác nào phạm phải trọng tội. Tuy nhiên, tôi phải thú nhận là đến lúc này, người ta vẫn chưa chứng minh được sự cần thiết phải mang khẩu trang đối với các nhân viên không làm việc gần vết mổ của bệnh nhân. Bên cạnh đó, hầu hết thuật ngữ mà ê kíp mổ sử dụng nghe rất xa lạ. Tôi thường không hiểu họ nói gì, cho dù tất cả chúng tôi đều dùng tiếng Anh.
Ở Jordan, môi trường làm việc lại có những điểm đặc biệt riêng. Các phòng mổ ở Amman trông khá sơ sài – đây là đất nước đang phát triển, các thiết bị thì khá cũ – nhưng họ lại có hầu hết những thứ quen thuộc cho một bác sĩ phẫu thuật và mức độ chăm sóc y tế dường như rất tốt. Một trong các bác sĩ phẫu thuật mà tôi gặp là Iraqi. Anh được đào tạo ở Baghdad và hành nghề ở đó cho đến khi Mỹ tấn công Iraq vào năm 2003. Tình hình chiến sự căng thẳng đã buộc anh phải chạy trốn cùng gia đình, bỏ lại nhà cửa, tài sản và công việc. Trước đây, Baghdad là nơi cung cấp một số dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt nhất khu vực Trung Đông. Nhưng những luật lệ hà khắc của Saddam Hussein đã bóp chết nền y tế Iraq. Anh nói Jordan bây giờ lại là nơi có dịch vụ y tế tốt nhất và anh cảm thấy may mắn khi được làm việc ở đó. Tôi được biết mỗi năm có hơn 200.000 bệnh nhân nước ngoài đến Jordan để khám chữa bệnh, đem lại thu nhập một tỷ đô-la cho nước này.
Tuy nhiên, điều tôi không thể lý giải được là làm thế nào mọi người trong ê kíp mổ có thể vượt qua sự phân biệt giới tính nghiêm ngặt ở đây. Nhớ lại lúc mới đến đây, khi ngồi bên ngoài nhà hàng quan sát người qua lại, tôi đã nhận thấy đàn ông và phụ nữ gần như luôn tách rời nhau. Hầu hết phụ nữ trùm khăn che kín đầu. Tôi bắt đầu làm quen với một trong những bác sĩ phẫu thuật – một thanh niên trẻ gần 30 tuổi, là người hướng dẫn cho tôi trong dịp ghé thăm bệnh viện. Thậm chí, chúng tôi còn ra ngoài xem phim cùng nhau. Khi biết anh có bạn gái là sinh viên đã tốt nghiệp (họ quen nhau đã được hai năm), tôi liền hỏi anh là sau bao lâu kể từ lúc quen nhau, anh được nhìn thấy mái tóc của cô ấy.
– Chưa lần nào cả. – Anh chàng trả lời.
– Thôi nào. Chưa lần nào thật sao?
– Chưa bao giờ.
Anh ta chỉ thấy được vài sợi và biết là tóc cô gái có màu nâu sẫm. Ngay cả trong mối quan hệ hẹn hò thời hiện đại có phần Tây hóa, với những cặp đôi có trình độ học vấn cao, thì tập tục này vẫn phải được tuân thủ nghiêm ngặt.
Ở các phòng mổ, tất cả các bác sĩ phẫu thuật đều là nam, trong khi hầu hết y tá là nữ. Tỷ lệ nam nữ trong nhóm bác sĩ gây mê thì cân bằng. Phụ nữ vẫn luôn trùm khăn kín đầu và hầu hết họ tránh nhìn đàn ông. Trong bối cảnh như vậy, tôi tự hỏi liệu kiểu làm việc theo nhóm như trong danh mục kiểm tra yêu cầu có khả thi không. Tuy nhiên, tôi từng bước nhận ra rằng không phải tất cả đều như vậy. Các nhân viên đã không ngần ngại bỏ qua các nghi thức khi cần thiết. Tôi đã quan sát một ca phẫu thuật túi mật. Bác sĩ mổ vô ý làm bẩn găng tay lúc điều chỉnh chiếc đèn mổ. Ông không để ý, nhưng cô y tá thì có.
Cô liền nói với ông bằng tiếng Ả-rập:
– Bác sĩ cần phải đổi đôi găng tay. Có người dịch cho tôi nghe.
– Tốt mà. – Bác sĩ trả lời.
– Không đâu, đừng vậy chứ. – Y tá đáp rồi buộc bác sĩ dùng đôi găng tay mới.
Chứng kiến tất cả những điều khác biệt giữa tám bệnh viện trên, tôi cảm thấy bất ngờ với cách mà người ta có thể cảm thấy thoải mái khi đang ở trong phòng mổ. Mỗi khi có một ca mổ, bạn sẽ có một bệnh nhân nằm trên bàn với niềm hy vọng cùng nỗi sợ hãi, tính mạng anh ta đang ở trong tay bạn và anh ta tin tưởng rằng bạn sẽ thao tác chính xác. Ngoài ra, bạn cũng có các đồng sự đủ khả năng đang cố gắng phối hợp cùng nhau để thực hiện niềm tin đó.
Đôi khi, việc giới thiệu danh mục kiểm tra cũng gặp vài trục trặc, như về vấn đề liên quan đến nhân sự chẳng hạn. Ở Manila, bốn ca mổ thì có một y tá, vì các bệnh viện Mỹ và Canada đã giành mất những y tá phòng mổ giỏi nhất. Các sinh viên y khoa mới đến lại quá rụt rè để ra hiệu bắt đầu thực hiện danh mục. Vì thế, các nhân viên gây mê bị thuyết phục phụ trách nhiệm vụ này. Ở Anh, các nhân viên y tế lại gặp khó khăn trong việc tìm ra những thay đổi cần thiết cho phù hợp với tình hình thực tế của họ.
Lại còn vấn đề liên quan đến mức độ tiếp thu. Cho dù danh mục kiểm tra đơn giản đến mức nào, nhưng nếu bạn đã quen thực hiện công việc theo cách của mình, bạn sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi phải làm theo một cách khác. Thỉnh thoảng, các ê kíp vẫn quên thực hiện một phần trong danh mục, đặc biệt là phần kết thúc, trước khi đưa bệnh nhân ra khỏi phòng mổ. Có khi họ thấy quá khó để tuân thủ danh mục bởi vì quá phức tạp do sự hạn chế trong khả năng giao tiếp giữa các thành viên. Nhiều người không quen lên tiếng về một vấn đề nào đó, chẳng hạn y tá phải nhắc nhở trong trường hợp chưa tiêm kháng sinh cho bệnh nhân và yêu cầu mọi người thực hiện thao tác đó trước khi bắt đầu ca mổ. Trong phòng mổ, mỗi người có một phong cách riêng, nhất là các bác sĩ phẫu thuật. Người thì im lặng, người thì ủ rũ, người lại thích trò chuyện. Rất ít người biết cách hòa nhập ngay vào ê kíp để có thể nắm bắt một cách có hệ thống kế hoạch mổ và những vấn đề có thể xảy ra.
Có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh việc giới thiệu tên và chức vụ lúc bắt đầu thực hiện ca phẫu thuật. Từ Delhi đến Seattle, các y tá đều tỏ ra thoải mái khi thực hiện bước này, trong khi các bác sĩ phẫu thuật thỉnh thoảng vẫn cảm thấy khó chịu. Tuy nhiên, hầu hết mọi người đều làm theo.
Chỉ là hầu hết, chứ không phải tất cả. Ở nhiều nơi, chúng tôi bị tống ra khỏi phòng mổ. Họ nói với chúng tôi là: “Cái danh mục kiểm tra này chỉ làm mất thời gian”. Ở một vài bệnh viện, các lãnh đạo tuyên bố sẽ phạt nặng những ai không làm theo danh mục kiểm tra. Nhưng chúng tôi không khuyến khích cách làm đó. Khi bị ép buộc, người ta có thể phản ứng mạnh và tỏ thái độ khó chịu khi tham gia. Chúng tôi đề nghị ban lãnh đạo các bệnh viện giới thiệu danh mục kiểm tra một cách đơn giản như thể đó là công cụ để giúp mọi người cải thiện kết quả làm việc. Suy cho cùng vẫn có khả năng những người chê bai nó đã đúng – danh mục kiểm tra chỉ thể hiện thiện chí, chứ không hề tạo nên một điều tích cực cụ thể nào cả.
Dù bị một số người phản đối, chúng tôi vẫn nỗ lực vận động thử nghiệm danh mục phẫu thuật an toàn trong vòng một tháng ở mỗi bệnh viện mà chúng tôi chọn. Chúng tôi tiếp tục theo dõi số liệu và chờ kết quả cuối cùng.
Tôi cảm thấy lo cho dự án này. Chúng tôi lên kế hoạch kiểm tra kết quả chỉ sau một thời gian ngắn, khoảng ba tháng sau khi giới thiệu danh mục kiểm tra. Như vậy, nếu có bất kỳ tiến triển nào thì chắc chắn đó là nhờ vào danh mục kiểm tra, chứ không phải nhờ vào sự phát triển của y học. Nhưng tôi băn khoăn liệu thời gian ngắn như thế có làm được gì không. Các nhóm thử nghiệm rõ ràng vẫn chưa hiểu rõ cách thực hiện. Có lẽ thời hạn chúng tôi đưa ra là chưa đủ để mọi người có thể nghiên cứu, học hỏi. Tôi còn lo là có quá ít sự giúp đỡ đối với các cơ sở thực hiện danh mục. Chúng tôi đã không cung cấp cho họ trang thiết bị y tế hay nhân sự mới. Các cơ sở vẫn thiếu thốn như trước. Và chúng tôi phải tự hỏi nếu những yếu tố trên không được cải thiện thì liệu kết quả có được nâng lên chút nào không? Tất cả những gì chúng tôi làm là chỉ đưa cho họ một danh sách dài gồm 19 mục và hướng dẫn cách sử dụng. Chúng tôi đã cố gắng hết sức để làm cho nó thật ngắn gọn và đơn giản, nhưng có lẽ nó quá ngắn và quá đơn giản nên không thể hiện đủ mọi chi tiết. Đáng lẽ chúng tôi không nên nghe theo lời khuyên của các cố vấn trong ngành hàng không. Đáng lẽ…
Tuy nhiên, chúng tôi bắt đầu nhận được tin tốt lành từ dự án. Ở London, trong một ca thay đầu gối do một bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình phụ trách (đây chính là một trong những người chỉ trích dự án của chúng tôi nặng nề nhất), danh mục kiểm tra đã giúp ê kíp nhận ra ngay trước khi bắt đầu mổ – thời điểm hết sức quan trọng – rằng bộ phận đầu gối giả mà họ có không đúng kích cỡ với bệnh nhân, và rằng lúc này bệnh viện không có đúng cỡ mà bệnh nhân cần. Vị bác sĩ ấy đã trở thành người đề xuất áp dụng danh mục kiểm tra ngay lập tức.
Ở Ấn Độ, chúng tôi được biết danh mục kiểm tra đã giúp ê kíp phẫu thuật nhận ra một lỗi cơ bản trong quy trình của họ. Theo thủ tục thường lệ, bệnh nhân được truyền kháng sinh trong phòng chờ phẫu thuật trước khi được đẩy vào phòng mổ. Nhưng nhờ có danh mục kiểm tra, các bác sĩ lâm sàng nhận ra rằng việc thường xuyên chậm trễ trong khâu chuẩn bị phòng mổ khiến cho kháng sinh bị yếu đi trước khi bệnh nhân được mổ. Vì thế, nhân viên bệnh viện đã thay đổi quy trình làm việc của họ và thực hiện theo danh mục kiểm tra, tức là đưa bệnh nhân vào phòng mổ rồi mới tiêm kháng sinh.
Ở Seattle, một người bạn là bác sĩ phẫu thuật làm việc tại Trung tâm Y tế của Đại học Washington nói với tôi là việc đưa danh mục kiểm tra vào quy trình làm việc hàng ngày ở phòng mổ của cô khá dễ dàng.
– Nhưng danh mục đó có giúp mọi người phát hiện ra lỗi không? – Tôi hỏi cô.
– Khỏi phải nói. – Cô trả lời.
Danh mục kiểm tra đã giúp phát hiện ra các lỗi về tiêm kháng sinh, về thiết bị và về một số vấn đề khác mà trước đây thường bị bỏ sót. Nhưng hơn thế nữa, cô bạn tôi nghĩ rằng việc thảo luận đã giúp các nhân viên phản ứng tốt hơn trong trường hợp phát sinh rắc rối, như bệnh nhân bị chảy máu hay trục trặc kỹ thuật trong ca phẫu thuật.
– Chúng tôi phối hợp tốt hơn, như một nhóm thực sự vậy. – Bạn tôi kết luận.
Những câu chuyện này đã cho tôi thêm hy vọng.
Tôi nhận được kết quả vào tháng 10 năm 2008. Tôi có hai thành viên tham gia nhóm nghiên cứu cùng là bác sĩ phẫu thuật tổng quát – Alex Haynes đã dành hơn một năm không tham gia tập huấn phẫu thuật để thực hiện cuộc nghiên cứu tại tám địa điểm tiên phong và thu thập, biên tập số liệu; còn Tom Weiser đã dành hai năm để quản lý phát triển chương trình danh mục kiểm tra của WHO và phụ trách phần tái kiểm tra các con số thu thập được. William Berry, một bác sĩ phẫu thuật tim đã nghỉ hưu, chịu trách nhiệm kiểm tra lần cuối tất cả những số liệu do hai cộng sự của tôi tổng hợp. Một buổi chiều, cả ba người cùng đến gặp tôi.
– Anh phải xem cái này. – Alex nói rồi đặt một xấp giấy in các số liệu thống kê trước mặt tôi.
Chúng tôi cùng xem các bảng biểu. Kết quả cho thấy sau khi áp dụng danh mục kiểm tra, tỷ lệ biến chứng nguy hiểm mà các bệnh nhân phẫu thuật gặp phải ở tám bệnh viện đã giảm 36%. Tỷ lệ tử vong giảm 47%.
Kết quả này bỏ xa những gì trước đó chúng tôi dám mơ. Tỷ lệ nhiễm trùng giảm gần một nửa. Số bệnh nhân phải trở lại phòng mổ sau ca phẫu thuật vì mất máu hay vì những trục trặc kỹ thuật khác cũng giảm một phần tư. Nếu dựa theo các số liệu khảo sát trước đây thì trung bình với gần 4.000 bệnh nhân sẽ có 435 trường hợp có nguy cơ bị nhiễm trùng nặng. Nhưng giờ chỉ có 277 người. Việc sử dụng danh mục kiểm tra đã cứu hơn 150 bệnh nhân khỏi nguy hiểm, và 27 người trong số đó thoát khỏi lưỡi hái tử thần.
Có thể bạn cho rằng tôi sẽ nhảy cẫng lên vì vui sướng, rằng tôi sẽ chạy suốt dọc hành lang mà hét lên: “Thành công rồi! Chúng tôi làm được rồi!”. Nhưng không. Tôi lại càng lo lắng nhiều hơn. Tôi lục lọi đống hồ sơ xem có sự nhầm lẫn nào không, có trục trặc hay bất cứ điều gì có thể ngụy tạo các con số này không.
Biết đâu kết quả này không phải là nhờ vào danh mục kiểm tra. Có thể chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên nên trong thời gian thử nghiệm gặp ít các ca cấp cứu và những ca mổ cũng đơn giản, và đó là lý do tại sao kết quả trông có vẻ khả quan hơn. Alex kiểm tra, đối chiếu các con số một lần nữa. Không, không phải thế. Thực tế là trong đợt áp dụng thử nghiệm danh mục kiểm tra, các ê kíp đã thực hiện nhiều ca cấp cứu hơn so với trước, còn số ca mổ khác – sản, lồng ngực, xương khớp, khoang bụng – vẫn không thay đổi.
Biết đâu đây chỉ là hiệu ứng Hawthorne, nghĩa là tác dụng phụ khi người ta bị giám sát trong một đợt nghiên cứu, chứ không phải nhờ sức mạnh của danh mục kiểm tra. Trong khoảng 20% các ca mổ, người thực hiện nghiên cứu đã trực tiếp có mặt ngay tại phòng mổ để thu thập thông tin. Có thể sự có mặt của họ đã giúp cải thiện tình hình chăm sóc sức khỏe. Tuy vậy, nhóm nghiên cứu lại chỉ ra rằng các quan sát viên đã có mặt trong phòng mổ từ lúc bắt đầu dự án, nhưng kết quả lại không hề tốt hơn cho đến khi danh mục kiểm tra được áp dụng. Hơn nữa, chúng tôi đã rà soát lại xem ca mổ nào có sự tham gia của giám sát viên, còn ca nào không. Alex kiểm tra dữ liệu lần nữa. Kết quả vẫn vậy, nghĩa là sự cải thiện ấn tượng như nhau đối với những ca mổ có người giám sát lẫn không có người giám sát.
Biết đâu danh mục kiểm tra thực sự giúp tạo ra sự khác biệt, nhưng chỉ ở những nơi có điều kiện kém? Không, giả định này cũng không đúng. Tỷ lệ biến chứng hậu phẫu ở bốn bệnh viện tại những nước có thu nhập cao đúng là có thấp hơn, nhưng việc giới thiệu danh mục kiểm tra cũng giúp giảm một phần ba tỷ lệ biến chứng nghiêm trọng cho các bệnh nhân điều trị ở bốn bệnh viện này – một con số rất đáng kể.
Nhóm nghiên cứu cùng tôi xem lại kết quả ở từng bệnh viện một. Ở nơi nào, các kết quả cũng thể hiện rằng việc giới thiệu danh mục kiểm tra đã dẫn tới sự sụt giảm đáng kể các ca biến chứng. Trong số tám bệnh viện thì có bảy bệnh viện giảm tỷ lệ này tới hai con số.
Đây là sự thật.
Tháng 1 năm 2009, tạp chí New England Journal of Medicine công bố nghiên cứu của chúng tôi, tuy trước đó thông tin đã rò rỉ khi chúng tôi gửi kết quả đến các bệnh viện tham gia. Các bệnh viện ở bang Washington biết được kết quả của Seattle và
cũng thử áp dụng danh mục kiểm tra. Họ nhanh chóng liên kết với các công ty bảo hiểm, hãng Boeing và chính phủ nhằm giới thiệu danh mục kiểm tra một cách có hệ thống trên toàn bang, đồng thời theo dõi dữ liệu thu thập được. Ở Anh, khi Lord Darzi, Bộ trưởng Bộ y tế, và Ngài Liam Donaldson, một quan chức cao cấp được chỉ định làm việc cho WHO, biết được kết quả nghiên cứu trên, họ liền phát động chiến dịch áp dụng danh mục kiểm tra trên toàn quốc.
Còn phản ứng của các bác sĩ phẫu thuật thì rất đa dạng. Kể cả khi danh mục kiểm tra không làm họ mất quá nhiều thời gian (ở vài nơi, các nhóm thực hiện báo lại là danh mục đã giúp họ tiết kiệm thời gian), một số vẫn phản đối vì cho rằng bản nghiên cứu đã không chứng minh một cách rõ ràng là danh mục kiểm tra tạo nên những kết quả đáng chú ý như vậy.
Mà đúng thế thật. Ở tám bệnh viện trên, chúng tôi thấy có sự cải thiện trong việc tiêm kháng sinh nhằm giảm nhiễm trùng, sử dụng oxy huyết kế trong các ca mổ, hay đảm bảo các ê kíp mổ nhận đúng bệnh nhân và thực hiện đúng quy trình trước khi bắt đầu. Nhưng tất cả những điều đó lại không thể giải thích tại sao các biến chứng không liên quan khác, như chảy máu chẳng hạn, lại giảm. Chúng tôi đoán là nhờ có sự trao đổi giữa các thành viên trong ê kíp mổ. Qua những cuộc phỏng vấn ngẫu nhiên các thành viên trong ê kíp bước ra từ phòng mổ có sử dụng danh mục kiểm tra, các bản khảo sát cho thấy mức độ giao tiếp trong phòng mổ đã tăng đáng kể. Ngoài ra, có một sự tương quan đáng chú ý giữa mức độ các thành viên kết hợp với nhau và kết quả của ca mổ – khi mọi người phối hợp với nhau tốt hơn, tỷ lệ biến chứng giảm xuống.
Sau ba tháng, hơn 250 thành viên bao gồm bác sĩ phẫu thuật, bác sĩ gây mê, y tá và những người khác đã điền vào bản khảo sát về việc sử dụng danh mục kiểm tra. Ban đầu, hầu hết đều tỏ ra nghi ngờ. Nhưng đến giai đoạn cuối, khoảng 80% cho biết họ cảm thấy việc sử dụng danh mục là khá dễ dàng, không mất nhiều thời gian và độ an toàn chăm sóc phẫu thuật tăng. Thực tế đã có 78% nhân viên y tế tuân theo danh mục nhằm ngăn ngừa lỗi xảy ra trong phòng mổ.
Vẫn còn một số người tỏ thái độ nghi ngờ – có 20% cảm thấy sử dụng danh mục kiểm tra không dễ chút nào, mất quá nhiều thời gian và không giúp cải thiện vấn đề an toàn trong chăm sóc phẫu thuât.
Sau đó, chúng tôi hỏi họ thêm một câu nữa: “Nếu chính bạn có một ca mổ, bạn có muốn ê kíp mổ sử dụng danh mục kiểm tra không?”.
93% số người trả lời là có.