Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Âm Mưu Ngày Tận Thế

Chương 35

Tác giả: Sidney Sheldon

Ngày thứ mười lăm.

Robert Bellamy ở vào một tình thế tiến thoái lưỡng nan. Có thể có một nhân chứng thứ mười một không nhỉ? Và nếu có thì tại sao lúc trước không hề có ai khác nhắc tới cô ta? Người nhân viên bán vé cho chuyến xe bus đó đã nói với anh rằng chỉ có bẩy hành khách. Robert tin rằng tay chủ gánh tạp kỹ đã nhầm lẫn. Lờ nó đi thật là một việc dễ dàng với giả thiết rằng điều đó không có thật, nhưng quá trình huấn luyện của Robert lại không cho phép làm thế. Anh quả có kỷ luật. Câu chuyện của Bushfekete phải được kiểm tra lại. Bằng cách nào? Robert đã rất băn khoăn về chuyện đó. Hans Beckerman. Người lái chiếc sẽ đó sẽ biết.

– Anh đăng ký điện thoại gọi cho Hãng Sunshine. Trụ sở hãng đóng cửa. Trong danh bạ vùng Kapel không có một Hans Beckerman nào cả. Mình sẽ phải đi Thuỵ Sĩ một lần nữa và giải quyết chuyện nầy, Robert nghĩ. Mình không thể bỏ bất kỳ một dấu vết gì.

Khi Robert đến tới Zurich thì trời đã khuya. Bầu không khí lạnh và trong lành, trăng sáng. Robert thuê một chiếc xe và chạy theo con đường giờ đây đã quen dẫn tới cái làng Kapel nhỏ bé. Anh chạy ngang ngôi nhà thờ và dừng lại trước cửa nhà Hans Beckerman, hiểu rằng mình đang bám vào một sự cầu may. Căn nhà tối om. Robert gõ cửa và chờ. Anh gõ cửa một lần nữa, run lên vì không khí lạnh giá của trời đêm.

Sau cùng thì vợ Beckerman cũng ra mở cửa. Chị ta choàng trên người một cái áo choàng vải thô bạc màu.

– Dạ?

– Chị Beckerman, tôi không biết chị có còn nhớ tôi không? Tôi là người phóng viên đang viết bài về Hans đây. Xin lỗi vì đã làm phiền chị vào lúc khuya khoắt thế nầy, nhưng thật tôi rất cần nói chuyện với chồng chị.

– Chỉ có sự im lặng đáp lời anh.

– Chị Beckerman?

– Hans chết rồi.

– Cái gì hả? – Robert giật mình.

– Chồng tôi chết rồi rồi, tôi xin lỗi. Làm sao?

– Xe của Hans đã đâm xuống một triền núi. – Giọng chị ta thật đau đớn. – Cảnh sát nói đó là vì trong cơ thể anh ấy toàn chất ma tuý.

– Ma tuý à?

Loét dạ dầy. Các bác sĩ thậm chí không thể cho tôi thuốc giảm đau nữa. Tôi phần ứng với tất cả nhưng thứ đó..

– Cảnh sát nói đó là tai nạn à?

– Dạ.

Họ có tiến hành mổ giám định không?

– Có, và họ tìm thấy ma tuý. Chẳng có ý nghĩa gì.

– Anh không còn biết nói thế nào.

– Tôi thật lấy làm buồn, chị Beckerman. Tôi…

Cánh cửa đóng lại, còn Robert một mình giữa trời đêm giá lạnh.

– Một nhân chứng đã chết. Không – hai. Leslie Mothershed đã chết trong một vụ cháy. Robert ngẫm nghĩ hồi lâu. Hai nhân chứng đã chết. Anh như nghe thấy tiếng người huấn luyện viên ở Trang trại: “Còn một điều nữa tôi muốn nói tới hôm nay. Sự trùng hợp. Trong công việc cửa chúng ta, không có cái thứ đó. Nó thường báo hiệu sự nguy hiểm. Nếu anh cứ luôn gặp một người, hoặc phát hiện vẫn chiếc xe ấy khi anh đang hoạt động, hãy che lấy cái mông mình. Có thể anh đang gặp rắc rối đó”

Có thể đang gặp rắc rối. – Robert bị chi phối bởi một loạt những cảm xúc đầy mâu thuẫn. Điều đã xảy ra phải là sự trùng hợp, và tuy vậy… Mình phải kiểm tra về cái người khác bí ẩn đó.

° ° °

Cú điện thoại đầu tiên của anh là gọi tới Fort Smith, Canada. Một giọng phụ nữ đầy vẻ quẫn trí trả lời:

– Dạ?

– Xin cho gặp William Mann.

– Rất tiếc. Chồng tôi, chồng tôi không còn với chúng tôi nữa. – Giọng nói kia nghẹn ngào.

– Tôi không hiểu bà nói gì.

– Ông ấy đã tự sát.

Tự sát? Tay chủ nhà băng sắt đá đó mà tự sát? Chuyện quái quỷ gì đang xảy ra ấy nhỉ? Robert nhăn trán. Điều mà anh hình dung là không thể chấp nhận nổi, tuy nhiên… Anh bắt đầu gọi hết cú điện thoại nầy đến cú điện thoại khác.

° ° °

– Xin cho gặp giáo sư Schmidt.

– Ồ giáo sư đã chết trong một vụ nổ ở phòng thí nghiệm…

° ° °

– Tôi muốn nói chuyện với Dan Wayne.

– Thật tội nghiệp. Con ngựa đua đã giày chết ông ta cách đây…

° ° °

– Xin cho gặp Laslo Bsshfekete.

– Gánh tạp kỹ đóng cửa rồi. Laslo đã chết…

° ° °

– Xin cho gặp Fritz Mandel.

– Fritz đã bị chết trong một tai nạn quái dị…

Lúc nầy những dấu hiệu báo động đã là rõ ràng.

° ° °

– Olga Romanchanko.

– Cô bé tội nghiệp. Và cô ấy còn trẻ thế mà…

° ° °

– Tôi gọi đến để xem tình hình Cha Patrini.

– Linh hồn tội nghiệp đó đã ra đi trong giấc ngủ.

° ° °

– Tôi cần nói chuyện với Kevin Parker.

– Kevin đã bị giết…

Chết. Tất cả mọi nhân chứng đều đã chết. Chính anh là người đã phát hiện và xác minh về họ. Tại sao anh lại không biết chuyện gì đang xảy ra? Bởi vì bọn khốn kiếp kia chờ anh rời khỏi một nước nào đó rồi mới hành quyết các nạn nhân của chúng. Người duy nhất mà anh báo cáo công việc là tướng Hilliard.

“Chúng ta không được để bất kỳ ai khác dính vào sứ mệnh nầy… Tôi muốn ông hàng ngày báo cáo công việc cho tôi”.

Họ đã dùng anh để tìm ra các nhân chứng. Đằng sau tất cả những chuyện nầy là thế nào? Otto Schmidt đã bị giết chết ở Đức. Hans Beckerman và Fritz Mandel ở Thuỵ Sĩ. Olga Romanchanko ở Nga, Dan Wayne và Kevin Parker ở Mỹ, William Mann ở Canada, Leslie Mothershed ở Anh, Cha Patrini ở Italia và Laslo Bushfekete ở Hungary. Điều đó có nghĩa là các cơ quan an ninh của gần một chục nước đã dính líu vào một vụ bưng bít lớn nhất trong lịch sử. Một ai đó ở cấp rất cao đã quyết định rằng tất cả các nhân chứng vụ đĩa bay kia phải chết. Nhưng ai? Và vì sao?

Đó là một âm mưu cỡ quốc tế và mình đang nằm trong cái âm mưu đó.

Ưu tiên: Chui vào vỏ bọc. Robert thật khó tin nổi là họ định giết luôn cả anh nữa. Anh là một người trong số họ. Nhưng cho đến khi đã nghĩ tới chuyện đó thì không thể mạo hiểm. Việc đầu tiên phải làm là kiếm một tấm hộ chiếu giả. Điều đó có nghĩa là phải tìm đến Ricco ở Rome.

Robert lên chuyến bay xuất cảnh tiếp theo và thấy phải cố gắng để thức. Anh đã không nhận ra mình kiệt sức đến thế nào. Áp lực của suốt mười lăm ngày qua, chưa kể sự chênh lệch thời gian do việc đi lại bằng máy bay, đã làm cho anh kiệt quệ.

Máy bay đáp xuống sân ga Leonardo da Vinci, và khi anh bước vào nhà ga, người đầu tiên anh nhìn thấy là Susan. Anh dừng lại, sững sờ. Cô quay lưng lại phía anh, và trong một khoảnh khắc, anh đã nghĩ là mình nhầm. Và rồi anh nghe thấy cô nói.

– Cảm ơn. Tôi có xe đón rồi.

– Susan… – Robert bước lại bên cô.

Cô quay lại, giật mình.

– Robert. Thật là tình cờ làm sao. Nhưng là một sự kinh ngạc đáng yêu.

– Anh nghĩ em đang ở Gibraltar kia mà?

Cô gượng cười.

– Vâng. Chúng em đang trên đường tới Áo, nhưng Monte có chút việc cần phải làm ở đây trước đã. Tối nay chúng em sẽ lên đường. Anh làm gì ở Rome thế?

– Anh đang lo nốt một chút cỏng việc.

Chạy trốn vì cái mạng sống của anh. Đó là công việc cuối cừng của anh đấy. Anh đã thôi rồi, em yêu ạ. Từ giờ, chúng mình sẽ luôn ở bên nhau, và không gì có thể chia cắt chúng ta nữa. Hãy bỏ Monte và trở về với anh đi! Nhưng anh không thể nói nên lời. Anh đã gây cho cô đủ điều rồi. Cô đang hạnh phúc với cuộc sống mới của cô. Hãy cứ để như thế, Robert nghĩ.

– Trông anh mệt mỏi lắm. – Cô nhìn anh chăm chú.

– Anh vừa phải chạy loăng quăng một chút. – Anh mỉm cười.

Họ nhìn vào trong mắt nhau, và điều kỳ diệu kia vẫn còn đó. Sự thèm khát cháy bóng, và những kỷ niệm, tiếng cười cùng sự thông cảm.

Susan cầm lấy tay anh trong hai bàn tay cô và dịu dàng nói:

– Robert. Ôi, Robert. Em muốn chúng mình…

– Susan…

Và đúng lúc đó, một người đàn ông vạm vỡ trong bộ đồng phục tài xế bước đến bên Susan.

– Thưa bà Banks, xe đã sẵn sàng.

– Cám ơn. – Cô quay sang Robert. – Em xin lỗi. Em phải đi bây giờ đây. Xin anh tự chăm sóc lấy mình.

– Chắc chắn rồi.

Anh đứng nhìn theo cô. Có bao nhiêu điều anh muốn nói với cô. Cuộc sống đầy những chuyện có tính chất thời điểm. Thật vui lại được thấy Susan, nhưng mà có chuyện gì trong đó khiến anh thấy lo lẳng nhỉ? Tất nhiên rồi. Sự trùng hợp. Lại một sự trùng hợp.

Anh gọi taxi đi về khách sạn Hassler.

– Chúc mừng đã trở lại, ông sĩ quan.

– Cám ơn.

– Tôi sẽ cho một người hầu phòng mang hành lý cho ông.

– Khoan! – Robert nhìn đồng hồ. 10 giờ tối. Anh muốn lên gác và ngủ một giấc, nhưng trước hết anh phải lo chuyện hộ chiếu đã.

– Tôi sẽ không lên trên phòng ngay. – Robert nói. – Tôi muốn ông cho người mang hành lý lên trước đi.

– Tất nhiên, thưa ông sĩ quan.

Khi Robert vừa định quay đi thì cửa thang máy bật mở và một nhóm khách ào ra, cười nói ầm ĩ. Ro ràng là họ đã uống một vài cốc. Một tròng số họ, dáng người mập, mặt đỏ gay, vẫy vẫy Robert.

– Xin chào anh bạn thân… vui vẻ chứ?

– Tuyệt vời, – Robert đáp. – Tuyệt vời đấy.

Robert bước ra, tới bên chiếc taxi đỗ bên ngoài.

Khi anh vừa định chui vào xe thì chợt để ý thấy một chiếc Opel màu xám trông rất bình thường đậu phía bên kia đường. Trông nó hơi bình thường quá mức. Nó đậu giữa những chiếc xe sang trọng, thênh thang.

– Phố Monte Grappa. – Robert nói với người lái xe. Trên đường, Robert nhìn qua tấm kính sau xe. Không có chiếc Opel xám nào cả. Mình đang trở nên hoảng hốt quá, Robert nghĩ. Khi họ tới phố Monte Grappa, Robert ra khỏi xe ở đầu phố. Khi trả tiền người lái xe, anh nhìn qua khoé mắt: chiếc Opel màu xám cách xa chừng nửa đoạn phố, tuy nhiên anh có thể thề rằng nó không hề theo dõi anh. Trả tiền xong, anh rời khỏi chiếc taxi và bắt đầu thong thả bước đi, thỉnh thoảng đừng lại để ngó vào các ô kính cửa hàng cửa hiệu.

Qua sự phản chiếu của một ô kính, anh thấy chiếc Opel đang từ từ đi theo anh. Khi Robert tới góc phố tiếp theo, anh để ý thấy đó là con phố với đường một chiều. Anh rẽ vào đó theo hướng ngược lại với dòng xe cộ đông đúc. Chiếc Opel lưỡng lự ở góc phố và rồi lao vọt đi đến đón Robert ở đầu đằng kia. Robert quay ngược trở lại và đi về phố Monte Grappa. Không còn thấy chiếc Opel kia đâu nữa.

Robert vẫy chiếc taxi khác:

– Tới phố Monticelli.

Toà nhà đó đã cũ kỹ và trông không mấy thiện cảm, một di sản còn lại của những ngày đã qua. Trước đây trong nhiều chuyến công tác, Robert đã đến nơi nầy. Anh bước xuống ba bậc của một tầng hầm và gõ cửa. Một con mắt xuất hiện ở lỗ nhòm trên cánh cửa và một giây sau cánh cửa mở toang ra.

– Roberto. – Một người đàn ông kêu lên. Ông ta choàng tay ôm lấy Robert. – Khoẻ không, anh bạn của tôi?

Đó là một người đàn ông to béo ở độ tuổi 60 với bộ râu lởm chởm trắng xoá, đôi lông mầy rậm, bộ răng vàng khè và cái cằm béo núc. Ông ta đóng cửa và khoá trái lại.

– Tôi khoẻ, Ricco.

Ricco không có họ. “Với một người như tôi, ông ta thường khoác lác, Chỉ cần cái tên cộc lốc đó là đủ. Cũng giống như Garbo vậy”.

– Hôm nay tôi có thể làm gì cho anh vậy, anh bạn?

– Tôi đang có một phi vụ. – Robert nói, – Và tôi đang rất vội. Ông có thể làm cho tôi một hộ chiếu không?

Ricco mỉm cười.

– Giáo hoàng có phải tín đồ Thiên Chúa giáo không hả? – Ông ta lạch bạch đi tới cái tủ kê ở góc phòng và mở khoá tủ. – Anh muốn mang quốc tịch nào đây?

Ông ta lôi ra một mớ hộ chiếu với các bìa khác nhau và lựa lựa từng quyển. – Chúng ta có một hộ chiếu Hy Lạp, rồi Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Tư, Anh…

– Mỹ. – Robert nói.

Ricco rút ra một quyển hộ chiếu có bìa màu xanh da trời.

– Đây. Cái tên Arthur Butterfield có hấp dẫn anh không thế?

– Tốt rồi. – Robert đáp.

– Anh đứng dựa vào tường đi, tôi sẽ chụp hình cho anh.

Robert bước đến bên tường. Ricco mở ngăn kéo và lấy ra chiếc máy ảnh Polaroid. Một phút sau, Robert cầm xem tấm ảnh của mình.

– Không thấy tôi cười. – Robert nói.

– Cái gì hả? – Ricco nhìn anh, ngạc nhiên.

– Tôi đã không cười. Chụp cái khác đi.

– Được thôi. Tuỳ ý anh. – Ricco nhún vai.

– Có khá hơn. – Robert mỉm cười khi bức ảnh thứ hai được chụp. Anh nhìn tấm ảnh và nói, rồi thản nhiên nhét tấm ảnh đầu vào túi.

– Bây giờ đến phần kỹ thuật cao, – Ricco tuyên bố rồi bước tới bàn làm việc. Ông ta đặt tấm ảnh vào mặt trong quyển hộ chiếu.

Robert bước tới một cái bàn khác, ngổn ngang những dụng cụ hành nghề của Ricco và tuồn một lưỡi dao cạo cùng một lọ keo dán trong trong túi áo khoác.

Ricco đang xem xét sản phẩm của ông ta.

– Không tồi. – Ông ta nói rồi trao cho Robert quyển hộ chiếu. – Năm nghìn đôla.

– Và hoàn toàn đáng giá. – Robert đáp trong lúc đếm 10 tờ 500 đôla.

– Làm việc với người của các anh thật dễ chịu.

– Anh biết là tôi quý anh.

Robert biết chính xác là ông ta đang nghĩ gì về anh. Ricco là một thợ giày thiện nghệ, làm việc cho gần một chục chính phủ – Và chẳng trung thành với chính phủ nào. Anh đút quyển hộ chiếu vào túi áo.

– Chúc may mắn, ông Butterfield. – Ricco mỉm cười.

– Cám ơn.

Ngay khi cánh cửa khép lại sau lưng Robert, Ricco vớ lấy điện thoại. Thông tin luôn là tiền bạc đối với ai đó.

Bên ngoài, đi được chừng hai chục mét, Robert lấy quyển hộ chiếu mới ra khỏi túi và dúi nó vào trong một thùng rác. Nhiễu. Đó là một kỹ thuật mà khi là một phi công anh đã dùng để tạo những cái đuôi giả cho tên lửa của đối phương. Hãy để cho họ săn lùng Arthur Butterreld.

Chiếc Opel xám dừng cách chừng nửa đoạn phố.

Chờ đợi. Không thể thế được.

Robert tin chắc rằng chiếc xe đó là cái đuôi duy nhất. Anh đã chắc chắn là chiếc Opel đã bị mất dấu, vậy mà nó vẫn tìm ra. Họ phải có một cách nào đó để bám theo từng bước đi của anh. Câu trả lời duy nhất: Họ đã dùng một thứ máy phát nào đó, và anh phải luôn mang nó theo người. Nó được gắn vào quần áo của anh chăng? Không. Họ không có cơ hội nào cả Đại uý Dougherty đã có mặt lúc anh sắp xếp hành lý nhưng anh ta không thể biết Robert sẽ mang theo bộ quần áo nào. Robert thầm kiểm kê lại những gì mà anh mang theo người – tiền mặt, chìa khoá, một cái ví khăn mùi xoa, thẻ tín dụng… Chiếc thẻ tín dụng.

“Tôi không nghĩ là tôi cần đến nó, thưa tướng quân” – “Cầm lấy. Vã hãy luôn giữ nó trong người”.

Đồ chó đẻ gian xảo. Không có gì lạ khi họ tìm được anh dễ dàng như vậy.

Không còn nhìn thấy chiếc Opel xám nữa. Robert lấy tấm thẻ tín dụng ra, xem xét nó. Nó hơi dầy hơn một tấm thẻ tín dụng thông thường. Hơi vặn nó một chút, anh có thể cảm thấy một lớp gì đó bên trong.

Họ sẽ điều khiền từ xa cho tấm thẻ hoạt động. Tốt.

Robert nghĩ. Hãy để cho bọn khốn nạn nầy bận bịu.

Có mấy cái xe vận tải đỗ dọc trên phố đang bốc và dờ hàng. Robert nhìn những biển số xe. Khi tới bên một chiếc xe tải với biển số của Pháp, anh nhìn quanh để chắc chắn là mình không bị quan sát rồi ném tấm thẻ lên trên thùng xe.

– Cho đến khách sạn Hassler. – Anh vẫy một chiếc taxi.

° ° °

Ttrong tiền sảnh, Robert bước tới chỗ người gác cửa.

– Làm ơn xem đêm nay có chuyến bay nào đi Paris không nhé.

– Vâng, ông sĩ quan. Ông có chọn hãng hàng không cụ thể nào không?

– Hãng nào cũng được. Chuyến bay đầu tiên là đủ.

– Tôi rất sung sướng được lo chuyện nầy.

– Cám ơn. – Robert bước đến chỗ tiếp tân. – Xin cho chìa khoá phòng tôi. Phòng 314. Và tôi sẽ trả phòng trong vài phút nữa thôi.

– Dạ, thưa ông Bellamy. – Người nhân viên với tay lên một ô và lấy ra chìa khoá cùng một cái phong bì. – Đây, có một cái thư cho ông.

Robert nghiêm mặt. Chiếc phong bì được dán kín và được ghi rất đơn giản. “Sĩ quan chỉ huy Bellamy”

Anh nắn nhẹ xem có chất dẻo hoặc thứ kim loại gì bên trong hay không, rồi thận trọng mở nó ra. Bên trong là một tấm các quảng cáo về một nhà hàng Italia.

Hoàn toàn bình thường. Tất nhiên, trừ cái tên của anh trên phong bì.

– Anh có nhớ ai đưa cho anh cái nầy không?

– Tôi xin lỗi. – Người nhân viên nói với vẻ ân hận. – Nhưng quả thật là tối nay chúng tôi bận rộn quá…

Điều đó không quan trọng. Người đàn ông kia sẽ chẳng nhớ ra bộ mặt nào cả. Hắn ta đã nhặt tờ quảng cáo ở đâu đó cho nó vào phong bì rồi đứng ngay cạnh quầy và chờ xem chiếc phong bì đó được cho vào cái ô mang số phòng bao nhiêu.

Lúc nầy hắn ta hẳn đang chờ trong trong của Robert.

Đã đến lúc nhìn mặt kẻ thù.

Robert nghe thấy những tiếng nói ồn ào, anh quay lại và thấy đám khách say rượu lúc trước đang đi vào tiên sảnh, vừa cười vừa hát. Rõ ràng là họ đã uống thêm ít nữa. Người đàn ông mập nói:

– Kìa, chào anh bạn. Anh đã lỡ một tiệc vui.

Robert tính toán rất nhanh trong đầu.

– Anh thích hội hè à?

– Hô hô.

– Có một cuộc ra trò đang diễn ra trên lầu. – Robert nói. Rượu mạnh, gái… – bất kỳ thứ gì mà các anh muốn. Cứ việc đi theo tôi, các bạn.

– Đó chính là lối chơi của người Mỹ, anh bạn. – Người đàn ông vỗ vỗ vào lưng Robert. – Nghe thấy chứ, các chàng trai? Anh bạn của chúng ta đây chiêu đãi một cuộc.

Họ chen chúc nhau cùng vào thang máy và đi lên tầng ba.

Người đàn ông say rượu nói:

– Những người Italia nầy rõ ràng là biết phải sống như thế nào. Tôi đoán là họ đã phát minh ra những cuộc hội hè, phải không?

– Tôi sẽ cho các bạn thấy một cuộc vui thật sự. – Robert hứa.

Họ đi theo dọc hành lang tới trước phòng anh.

Robert tra chìa khoá vào ổ và quay lại nói với tất cả bọn họ:

– Các bạn đã sẵn sàng vui một chút chứ?

Những tiếng trả lời “có” đồng thanh cất lên.

Robert quay chìa, đẩy cửa mở và đứng sang một bên. Căn phòng tối om. Anh bật điện lên. Một người lạ mặt cao và gầy đứng giữa phòng với một khẩu Mode có gắn ống giảm thanh rút ra nửa chừng. Người đàn ông đó nhìn đám đông với vẻ mặt thảng thốt và đẩy nhanh khẩu súng vào trong áo khoác.

– Nầy. Rượu đâu hả? – Một trong những người say kia hỏi.

Robert chỉ vào gã lạ mặt.

– Anh ta có đó. Đến mà lấy.

Cả bọn xông về phía gã kia.

– Rượu đâu, anh bạn…

– Gái đâu?…

– Hãy kiếm cuộc liên hoan nầy ở ngoài đường…

Gã kia cố lách tới chỗ Robert nhưng đám đông đã cản hắn lại. Gã bất lực nhìn theo trong khi Robert khoá cửa từ bên ngoài. Anh lao xuống cầu thang hai bậc một.

Dưới nhà, trong tiền sảnh, Robert đang đi ra cửa thì người gác gọi to. “Ồ, ông Bellamy, tôi đã đặt vé cho ông rồi đấy. Ông đi chuyến bay 312 của Hàng không Pháp đi Paris. Chuyên bay khởi hành lúc một giờ sáng.”

– Cám ơn, – Robert đáp vội.

Anh đi ra ngoài và vào các quảng trường nhỏ phía trước những bậc thềm Tây Ban Nha. Một chiếc taxi đang để một người khách xuống. Robert chui vào ngay.

– Phố Monte Grappa.

Giờ đây, anh đã có câu trả lời của mình. Họ định giết anh. Họ sẽ không thấy việc đó dễ dàng. Lúc nầy anh đã là kẻ bị săn đuổi thay vì anh là người đi săn, nhưng anh có một lợi thế lớn. Họ đã huấn luyện anh kỹ lưỡng. Anh biết tất cả những thủ thuật của họ, những điểm mạnh và những điểm yếu, và anh sẽ dùng kiến thức đó để chặn họ lại. Đầu tiên anh phải tìm cách không để chúng bám đuôi. Những kẻ săn lùng anh chắc phải được nghe một câu chuyện gì đó. Họ sẽ được bảo là anh bị truy nã về tội buôn ma tuý, hoặc giết người, hoặc là hoạt động gián điệp. Họ sẽ được cảnh cáo trước: Hắn ta rất nguy hiểm. Đừng để lỡ cơ hội. Hảy bắn hạ ngay.

– Nhà ga Rome. – Robert nói với người lái taxi.

Họ đang săn lùng anh, nhưng họ sẽ chưa đủ thời gian để phân phát ảnh của anh. Cho đến lúc nầy, anh không bị nhận diện.

Chiếc taxi dừng lại trước toà nhà số 36 phố Giovanni Giolitti và người lái xe nói:

– Thưa ông, nhà ga đây rồi.

– Chúng ta hãy đợi một phút. – Robert ngồi lại trong xe, quan sát mặt tiền của nhà ga. Dường như chỉ có những hoạt động bình thường. Mọi thứ đều có vẻ bình thường. Taxi và những chiếc xe hòm kính đang đến và đi, đưa và đón khách. Những người khuân vác đang bốc và xếp hành lý. Một cảnh sát đang bận rộn ra lệnh cho những chiếc xe rời khỏi khu vực cấm đỗ. Nhưng có gì đó đã làm cho Robert lo ngại. Anh chợt nhận thấy điểm không bình thường của toàn bộ bức tranh. Ba chiếc xe lớn không biển số đỗ ngay đối diện với nhà ga, trong khu vực cấm đỗ và không có ai trong xe. Viên cảnh sát phớt lờ chúng.

– Tôi thay đổi ý định rồi. – Robert nói với người lái taxi – Tới số 110/A phố Veneto.

Đó là nơi khó có ai đến tìm kiếm anh.

Đại sứ quán Mỹ và toà lãnh sự Mỹ được bố trí trong một toà nhà màu hồng trên phố Veneto, với một hàng rào sắt đen ngòm trước mặt. Vào giờ nầy thì toà đại sứ đã đóng cửa, nhưng bộ phận hộ chiếu của nó thì làm việc suốt hai mươi tư giờ để giải quyết những trường hợp khẩn cấp. Trong lối vào ở tầng một, một người lĩnh thuỷ quân lục chiến ngồi sau bàn.

Người lính nhin lên khi Robert tiến đến gần.

– Thưa ông, tôi có thể giúp ông?

– Vâng. – Robert nói – Tôi muốn hỏi về việc xin hộ chiếu mới. Tôi bị mất hộ chiếu.

– Ông là công dân Mỹ?

– Phải.

Họ sẽ lo chuyện của ông ở trong đó. Phòng cuối cùng. – Người lính chỉ một văn phòng phía xa.

– Cám ơn.

Có dăm bảy người ở trong cái phòng đó xin hộ chiếu, báo mất hộ chiếu, và xin thị thực, xin gia hạn…

– Tôi có cần xin thị thực đến Anbani không? Tôi có bà con ở đó…

– Tôi muốn cái hộ chiếu nầy được gia hạn tối nay.

– Tôi phải đi một chuyến bay…

– Tôi không hiểu thế nào nữa. Hẳn là tôi đã mất nó ở Milan…

– Họ đã lấy cái hộ chiếu ngay trong ví của tôi…

Robert đứng nghe. Trộm cắp hộ chiếu là cái trò phổ biến ở Italia. Phải có ai đó trong số nầy sắp được nhận hộ chiếu mới. Đứng đầu hàng là một người đàn ông đứng tuổi, quần áo lịch thiệp đang được trao một quyển hộ chiếu.

– Của ông đây, thưa ông Cowan. Tôi lấy làm tiếc là ông đã gặp chuyện rủi ro như thế. Tôi e là ở Rome có nhiều kẻ cắp lắm đấy.

– Tôi sẽ phải cẩn thận để chúng không thể lấy được quyển nầy. – Cowan nói.

– Ông nên như thế, thưa ông.

Robert để ý nhìn Cowan cho quyển hộ chiếu vào trong túi áo khoác và quay người định bước đi. Robert bước đến trước mặt ông ta. Khi một phụ nữ lấn tới, Robert chúi vào người Cowan như thể anh bị đẩy và làm ông ta suýt ngã.

– Tôi thật xin lỗi. – Robert nói. Anh cúi xuống chỉnh lại xống áo cho ông ta.

– Không sao. – Cowan nói.

Robert quay đi và bước vào nhà vệ sinh nam giới ở cuối hành lang, tấm hộ chiếu của ông kia đã ở trong túi anh. Anh nhìn quanh để có thể tin chắc rằng chỉ có một mình, rồi bước vào một trong các buồng vệ sinh. Anh lấy ra lưỡi dao cạo và lọ keo dán mà đánh cắp của Ricco. Rất cẩn thận, anh rạch miếng vỏ nhựa và lấy tấm ảnh của Cowan ra. Sau đó, anh cho tấm ảnh của anh mà Ricco đã chụp vào. Anh dủng keo dán mép tấm bìa lại như cũ và kiểm tra lại. Hoàn hảo. Giờ đây, anh đã là Henry Cowan. Năm phút sau, anh đã ở trên phố Veneto, chui vào một chiếc taxi.

– Ra sân bay.

Lúc 12 giờ 30, Robert tới sân bay Leonardo da Vinci.

Anh đứng bên ngoài, kiểm tra xem có gì bất thường không. Bề ngoài, mọi thứ đều tỏ ra bình thường. Không có xe cảnh sát, không có những người đàn ông đáng ngờ. Robert đi vào nhà ga và dừng lại ngay bên trong cửa. Có nhiều quầy vé của nhiều hãng hàng không nằm rải rác trong khu ga. Không có ai lảng vảng hay ẩn sau những chiếc cột. Anh đứng nguyên tại chỗ, cảnh giác. Anh không thể giải thích được, thậm chí là cho chính mình, nhưng dù sao chăng nữa thì mọi việc có vẻ quá bình thường.

Ngang phía bên kia phòng là quầy vé của Hàng không Pháp. “Ông đi chuyến bay 312 của Hàng không Pháp. Chuyến bay khởi hành lúc một giờ sáng”.

Robert tiến đến chỗ một phụ nữ mặc đồng phục đang ngồi sau quầy vé của Hàng không ltalia.

– Xin chào.

– Xin chào. Tôi có thể giúp ông không, thưa ông?

Có Robert nói:

– Xin cô cho gọi ông sĩ quan Robert Bellamy tới chỗ buồng điện thoại miễn phí được không?

– Tất nhiên. – Cô ta đáp, rồi nhấc chiếc micrô lên.

Cách đó vài mét, một phụ nữ béo tuổi trung niên đang kiểm tra lại mấy cái vali, cãi cọ gay gắt với nhân viên hàng không về tiền quá cước.

– Ở Mỹ, họ không bao giờ bắt trả tiền quá cước cả.

– Tôi xin lỗi, thưa bà. Nhưng nếu bà muốn mang theo tất cả những túi nầy thì bà phải trả thêm cho số quá trọng lượng.

Robert đến gần hơn. Anh nghe thấy giọng cô nhân viên trên loa phóng thanh.

“Mời sĩ quan Robert Bellamy tới buồng điện thoại miễn phí màu trắng. Sĩ quan Bellamy, xin mời tới buồng điện thoại miễn phí màu trắng”.

Lời thông báo đó vang vang trong khắp nhà ga sân bay.

Một người đàn ông với một cái túi khoác đang đi ngang chỗ Robert.

– Xin lỗi. – Robert nói.

– Có gì vậy? Người đàn ông quay sang.

– Tôi nghe vợ tôi đang nhắn tìm tôi, nhưng, – anh chỉ đám túi của người đàn bà, – tôi không thể bỏ hành lý ở đây được. Anh rút ra một tờ 10 đôla và đưa nó cho người kia – Nhờ ông làm ơn tới cái buồng điện thoại màu trắng kia và nói với cô ấy là một tiếng nữa tôi sẽ đón cô ấy tại khách sạn, được chứ. Tôi thật sự biết ơn ông.

Người đàn ông kia nhìn tờ bạc 10 đôla trong tay.

– Được thôi.

Robert nhìn anh ta đi vào buồng điện thoại và nhấc máy lên. Anh ta áp ống nghe vào tai và nói:

– Hêlô?… Hêlô?…

Một giây sau, bốn người đàn ông to lớn mặc đồ đen không biết từ đâu xuất hiện và ập tới, áp chặt người đàn ông không may kia vào tường.

– Nầy. Cái gì thế?

– Hãy yên lặng nào. – Một người đàn ông trong số kia nói.

– Các ông đang làm cái trò gì thế hả? Bỏ tay khỏi người tôi ngay.

– Đừng làm rộn lên, ông sĩ quan. Không ích gì…

– Sĩ quan? Các ông đã nhầm người rồi. Tên tôi là Melvyn Davis. Tôi ở Omaha.

– Thôi đừng giở trò.

– Đợi một phút. Tôi đã bị lừa rồi. – Người đàn ông mà các ông tìm ở kia kla. – Anh ta chỉ tay về chỗ Robert đứng lúc trước.

Không có ai ở đó cả.

Bên ngoài nhà ga, một chiếc xe bus của sân bay đang sắp sửa khởi hành. Robert lên xe, đứng lẫn vào những hành khác khác. Anh tìm chỗ ngồi ở cuối xe, tập trung nghĩ tới bước đi tiếp theo.

– Anh nóng lòng muốn được nói chuyện với Đô đốc Whittaker để thử tìm câu trả lời về những gì đang diễn ra, đề biết ai là kẻ phải chịu trách nhiệm trong việc giết hại những người vô tội chỉ vì họ đã chứng kiến cái mà họ đáng ra không được nhìn. Đó là tướng Hilliard chăng? Dustin Thorton? Hay bố vợ Thornton, Willard Stone, cái con người đầy bí ân. Có thể lão ta, bằng cách nào đó, có dính dáng vào vụ nầy chăng? Hay đó là Edward Sanderson, giám đốc NSA? Họ có thể cùng phối hợp với nhau không? Nó có lên cao tới cấp Tổng thống không? Robert cần những câu trả lời.

Chiếc xe bus chạy một tiếng mới tới Rome. Khi xe dừng trước khách sạn Eden, Robert xuống xe.

Mình phải rời khỏi nước nầy, Robert nghĩ. Chỉ có một người duy nhất ở Rome là anh còn có thể tin cậy.

Đại tá Francesco Cesar, thủ trưởng SIFAR, cơ quan an ninh Italia. Ông ta sẽ giúp Robert thoát khỏi đây.

° ° °

Đại tá Cesar làm việc khuya. Những bức điện tới tấp đi và đến giữa các cơ quan an ninh các nước, và tất cả đều liên quan tới sĩ quan Robert Bellamy.

Đại tá Cesar đã từng làm việc với Robert trước đây và ông ta rất quý anh. Cesar thở dài khi ông ta xem xét bức điện mới nhất để trước mặt. Thủ tiêu. Và trong khi ông ta đang đọc điện thì thư ký của ông ta bước vào:

– Sĩ quan Bellamy đang chờ ngài trên đường dây số một.

Đại tá Cesar trợn mắt nhìn cô thư ký:

– Bellamy? Chính anh ta à? Thôi được.

Ông ta đợi cô thư ký ra khỏi phòng, và chộp lấy điện thoại.

– Robert?

– Chào Francesco. Chuyện quái quỷ gì đang xảy ra thế?

– Anh trả lời tôi thì có, anh bạn. Tôi đã và đang nhận đủ loại thông báo về anh. Anh đã làm gì vậy?

– Đó là một câu chuyện dài. – Robert nói – Và tôi không có thởi gian. Ông đã nghe những gì thế?

– Rằng anh đã tách riêng. Rằng anh đã bị tuyển loại và đang hót như một con hoàng yến vậy.

– Cái gì hả?

– Tôi nghe nói anh đã có một hợp đồng với người Trung Quốc và…

– Lạy Chúa. Thật là lố bịch.

– Thế hả? Tại sao?

– Bởi vì một giờ trước đây họ còn đang khát khao có thêm thông tin mà.

– Hãy vì Chúa, Robert. Không phải chuyện đùa đâu.

– Hãy nói đi, Francesco. Tôi vừa mới đẩy mười người vô tội tới chỗ chết. Người ta dự kiến tôi là người thứ mười một đấy.

– Anh đang ở đâu?

– Tôi ở Rome. Có vẻ như tôi không thể nào rời khỏi cái thành phố khốn kiếp nầy của ông.

– Thế đấy. – Có một sự im lặng nặng nề. – Tôi có thể làm gì để giúp anh?

– Đưa tôi tới một ngôi nhà an toàn, nơi chúng ta có thể nói chuyện, và tôi có thể tính xem sẽ đi khỏi đây bằng cách nào. Ông lo được chuyện đó không?

– Được nhưng anh phải cẩn thận. Rất cẩn thận. Tôi sẽ đích thân đón anh.

– Cám ơn Francesco. Tôi thật sự biết ơn. – Robert thở phào nhẹ nhõm.

– Như người Mỹ các anh nói, anh nợ tôi một. Anh đang ở đâu?

– Quán Lido ở Trastevere.

– Cứ đợi ở đó. Đúng một tiếng nữa tôi sẽ đến.

– Cám ơn ông bạn của tôi. – Robert cúp máy. Nó sẽ là một tiếng dài chờ đợi.

Ba mươi phút sau, hai chiếc xe không biển số dừng lại cách tiệm Lido chừng chục mét. Trong mỗi chiếc xe có bốn người đàn ông và tất cả đều mang súng tiểu liên.

Đại tá Cesar ra khỏi chiếc xe đi đầu.

– Hãy làm cho nhanh. Đừng để ai khác bị thương.

– Cứ bắn hạ ngay.

Một nửa bọn họ lặng lẽ đi vòng ra phía sau ngôi nhà.

Từ trên tầng thượng của một toà nhà phía bên kia đường, Robert Bellamy đứng quan sát Cesar và đám lính của ông ta lăm lăm súng trong tay ập vào trong quán. Được, thằng khốn kiếp. Robert giận dữ nghĩ, chúng ta sẽ chơi theo lối của mầy.

Bình luận
× sticky