GIỜ HỌC TIẾNG ANH TRỞ NÊN THẬT BẤT THƯỜNG khi không còn Damen bên cạnh để nắm tay tôi và thì thầm vào tai tôi. Tôi đã quá quen với sự có mặt của anh, quá thân thuộc với sự có mặt đó đến mức quên bẵng đi cả những trò chọc ghẹo đầy ác ý của Stacia và Honor. Nhưng giờ đây, nhìn bọn họ nhếch mép cười, gửi cho nhau những tin nhắn trong giờ học kiểu như: “A, cho đáng đời cái con lập dị ngu ngốc, chắc bị anh ta bỏ rơi rồi!”, tôi biết mình sẽ phải nhờ lại vào cái áo khoác có mũ trùm đầu, kính mát và chiếc iPod để chở che, làm bạn.
Cuộc sống của tôi… Sao lúc nào nó cũng đầy rẫy những sự trớ trêu? Một cô gái mười sáu tuổi rưỡi, khóc nức nở ở bãi đậu xe, cầu xin người bạn trai bất tử của mình biến đi để mình cảm thấy được bình thường trở lại! Trời ạ, tại sao sự trớ trêu ấy lại rơi vào tôi?
Đòi Damen biến đi để có được trở lại cuộc sống bình thường. Nhưng giờ đây, khi anh đã thực hiện đúng những gì tôi mong muốn, thì sao? Trong cuộc sống mới không-có-Damen của mình, tất cả những suy nghĩ bất chợt của người khác, cũng như những vầng hào quang tỏa ra từ họ vẫn tràn ngập trong tôi, dày vò tôi. Tai tôi lúc nào cũng nghe, mắt tôi lúc nào cũng thấy và tràn đầy nước. Lại còn chứng đau nửa đầu nữa. Nó thường hay bất chợt tìm đến, làm tôi rã rời ê ẩm toàn thân. Tôi choáng váng thường xuyên, buồn nôn thường xuyên. Tôi có gì tốt hơn sau khi Damen đã ra đi đâu?
Tôi không muốn kể cho Miles và Haven nghe về sự tan vỡ của chúng tôi, rằng đã một tuần qua chúng tôi không hề nói chuyện với nhau. Cả hai đứa bạn của tôi đều đã quen với sự vắng mặt thất thường của anh, nên họ không nghi ngờ gì và cũng không bận tâm gì lắm với chuyện đã khá lâu rồi không thấy anh xuất hiện.
Nhưng tôi cũng không thể giữ mãi được điều ấy trong lòng.
Vào một ngày, trong lúc ăn trưa, tôi tằng hắng giọng, liếc nhìn Miles và Haven, rồi ngập ngừng. “Tớ muốn các cậu biết, Damen và tớ đã kết thúc rồi”.
Cả hai há hốc mồm, ngơ ngác định nói gì đó. Song tôi ra dấu ngăn lại, thong thả thêm vào: “Và anh ấy đã đi rồi!”
“Đi?” Cả hai cùng thốt lên. Có vẻ chẳng ai muốn tin.
Mặc dù tôi biết họ quan tâm, mặc dù tôi nợ họ một lời giải thích, nhưng tôi chỉ lắc đầu, mím chặt môi, không nói thêm được lời nào.
Cô Machado là người tinh ý. Vài ngày sau khi Damen đi, cô đến bên tôi lúc tôi đang vẽ, cố không nhìn thẳng vào bức tranh của tôi mà chỉ nói thật khẽ khàng: “Cô biết em và Damen rất thân nhau. Cô biết điều đó khó khăn cho em biết nhường nào… Vì thế, cô nghĩ em nên giữ cái này. Xem nó như là một món quà kỳ diệu!”
Cô đưa cho tôi bức tranh sơn dầu.
Tôi gật đầu cảm ơn cô, rồi đặt nó xuống dưới chân giá vẽ của mình và tiếp tục vẽ tranh. Tôi chẳng nghi ngờ chút nào về sự kỳ diệu và phi thường của nó. Mọi thứ Damen làm đều kỳ diệu và phi thường cả. Nhưng thật sự, nếu bạn có đủ thời gian dạo chơi trên trái đất này hàng mấy trăm năm, thì có lẽ bạn cũng sẽ đủ thời gian để trở nên tinh thông một số thứ.
“Em không xem nó sao?” Cô ngạc nhiên vì tôi thờ ơ đến thế trước kiệt tác của Damen.
Tôi quay sang cô, cố gượng cười: “Dạ không! Nhưng cảm ơn cô đã đưa nó cho em…”
Khi chuông kết thúc giờ học vang lên, tôi mang bức tranh của Damen ra xe, bỏ nó vào cốp và đóng sầm lại mà vẫn không xem.
Miles hét toáng lên tò mò: “Ơ, cậu có cái gì vậy?”, nhưng tôi chỉ đút chìa khóa vào ổ và thở dài lẩm bẩm: “Chẳng có gì!”
Ừ, có thể là chẳng có gì. Song có một việc tôi không thể nào phủ nhận, đó là cảm giác cô đơn thật sự. Tôi đã không nhận ra cuộc sống của mình gần gũi với Damen và Riley đến mức nào. Tôi dựa vào Damen và đứa em gái của mình, yên tâm trong vòng tay của họ. Sự hiện diện của họ – tôi cứ tưởng chỉ là bình thường – song thực chất đã giúp tôi khỏa lấp đi bao nhiêu là khoảng trống, để giúp chữa lành các vết thương trong cuộc sống của tôi.
Tôi biết Riley đã nói với tôi rằng nó sẽ không đến trong một thời gian. Nhưng ba tuần trôi qua. Điều đó bắt đầu làm tôi hoảng sợ.
Cả Damen nữa… Tôi không tưởng tượng được việc chia tay với người bạn trai bất tử của mình lại đau đớn đến mức này.
Hai người thân yêu của tôi. Hai chỗ dựa của tôi.
oOo
Thứ Bảy, Miles và Haven mời tôi cùng tham gia chuyến đi chơi mùa đông hàng năm, tôi nhận lời ngay. Tôi biết rằng đã đến lúc mình nên ra khỏi nhà, khỏi sự phiền muộn và quay trở về với cuộc sống không có Damen.
Cả Haven lẫn Miles đều rất hào hứng được làm “hướng dẫn viên” cho tôi. Họ dành thời gian giới thiệu cặn kẽ cho tôi nhiều thứ…
“Ở đây không vui bằng lễ hội Sawdust mùa hè”. Miles giải thích sau khi chúng tôi mua vé và đi qua cổng.
“Cậu cứ nói thế… Tớ chắc ở đây được tổ chức tốt hơn!” Haven cười tươi tắn, quả quyết với chúng tôi. “Ở đây có mục thổi thủy tinh, phần tớ thích nhất nữa…”
Tôi đi theo họ. Chính xác là bị cuốn theo. Đầu óc tôi quay cuồng khi phải đối diện với quá nhiều thứ năng lượng khác nhau của đám đông xung quanh. Tất cả màu sắc, hình ảnh, âm thanh xoay tròn xung quanh tôi. Đến lúc này thì tôi lại ước phải chi mình ở nhà, chắc chắn ở đó yên tĩnh và an toàn hơn.
Tôi kéo cái mũ trùm đầu xuống, định gắn tai nghe vào thì Haven quay lại.
“Này, cậu định nghe nhạc ở đây sao?”
Tôi ngập ngừng dừng lại, bỏ tai nghe trở lại vào trong túi. Đành rằng tôi muốn tránh xa sự ảnh hưởng của mọi người xung quanh đang dồn dập vây tỏa mình thông qua thứ năng lực siêu linh, nhưng tôi không muốn bạn tôi nghĩ rằng tôi muốn tránh xa họ.
“Đi nào, để tớ dẫn cậu đến xem người thổi thủy tinh này. Ông ta tuyệt lắm!”
Miles không đợi lâu, lật đật kéo tay tôi băng ngang qua chỗ một ông già Noel và vài người thợ bạc trước khi dừng lại bên một nhóm người đang làm những chiếc bình hoa rực rỡ, lộng lẫy đủ màu. Họ chỉ dùng miệng của mình, cùng với một ống thổi kim loại dài, và lửa.
“Tớ phải học làm cái này mới được!” Miles mắt tròn mắt dẹt, cứ vỗ tay liên hồi, ra vẻ cực kỳ ngưỡng mộ.
Tôi đứng cạnh Miles, nhìn những vòng xoáy đầy màu sắc đang được định hình. Sau đó, tôi đi qua gian hàng bên cạnh, nơi trưng bày hàng loạt túi xách tay kiểu dáng khác nhau dành cho phụ nữ.
Tôi nhấc một chiếc túi xách màu nâu ra khỏi kệ và vuốt nhè nhẹ lớp da mềm của nó, nghĩ thầm đây có thể là món quà Giáng Sinh thích hợp tặng cô Sabine, vì đây là thứ cô không bao giờ mua nhưng luôn thầm thích nó.
“Cái này giá bao nhiêu ạ?” Tôi cất tiếng hỏi và lập tức nhăn mặt vì nghe giọng nói của mình vang dội liên tục trong đầu.
“Một trăm năm mươi đô”.
Tôi nhìn người phụ nữ bán hàng trong cái áo màu xanh, quần jeans bạc phếch, dây chuyền bạc có mặt là biểu tượng hòa bình. Tôi biết cô ta sẽ giảm giá, thấp hơn nhiều. Nhưng mắt đang đang nhức và đầu thì bưng bưng. Một cảm giác choáng váng bao phủ cả người. Tôi chẳng có lòng dạ nào mặc cả lúc này nữa. Chỉ muốn về nhà, về nhà thật nhanh thôi.
Tôi để cái túi lại chỗ cũ và quay ra trong khi người bán hàng lập tức gọi với theo.
“Nhưng đối với cháu, cô chỉ lấy một trăm ba mươi”.
Mặc dù tôi biết rõ đấy không phải là giá cuối cùng, vẫn còn có thể trả xuống thấp hơn được nữa, nhưng tôi chỉ lắc đầu đi ra.
Đột nhiên tôi nghe tiếng ai đó khe khẽ thốt lên từ phía sau.
“Cả cháu và cô đều biết giá cuối cùng là chín mươi lăm đô la. Vậy sao cháu lại từ bỏ dễ dàng như thế?”
Tôi quay lại, giật mình trước một người phụ nữ vóc dáng nhỏ bé, xinh xắn, với mái tóc nâu vàng. Xung quanh cô bao phủ vầng hào quang màu tím.
“Cô là Ava…” cô mỉm cười gật đầu, chìa tay ra.
“Cháu biết”.
Tôi phớt lờ bàn tay cô.
“Cháu thế nào?”
Cô tươi tắn hỏi, như chẳng để tâm gì lắm đến cách cư xử lạnh lùng và khiếm nhã của tôi vừa rồi. Điều đó càng làm tôi cảm thấy tệ hơn vì hành động của mình.
Tôi nhún vai, liếc nhìn người thổi thủy tinh, xoay xung quanh cuống cuồng tìm Miles và Haven, trong lòng dậy lên chút cảm giác hoảng sợ khi không thấy họ.
“Hai đứa bạn cháu đang xếp hàng mua thức ăn. Nhưng đừng lo, họ cũng sẽ mua cho cháu luôn”.
“Cháu biết”. Tôi nói với Ava, mặc dù thật ra thì tôi không biết. Đầu tôi đang nhức quá, tôi không đủ sức để đọcđược suy nghĩ của mọi người.
Khi thấy tôi rướn mình định đi sang chỗ khác, bất thần cô Ava chộp lấy cánh tay tôi.
“Ever, cô muốn cháu biết cô vẫn giữ lời hứa của mình. Cô thật sự muốn giúp cháu!”
Phản xạ bản năng đầu tiên của tôi là đẩy cô ra xa, xa nhất có thể. Nhưng lúc cô đặt tay lên tay tôi, ngay lập tức, giây phút ấy đầu tôi hết bưng bưng, tai tôi hết ù ù vì tiếng động, và mắt tôi thì không còn cảm giác đau rát nữa.
Một tíc tắc bình yên.
Song, khi nhớ đến chuyện cô thật sự là ai – là người phụ nữ kinh khủng, người đã lấy đi mất đứa em gái của mình – tôi nhíu mày, giật tay mình ra, nhìn trừng trừng cô.
“Cô đã lấy mất Riley, vậy cô còn muốn làm gì nữa?”
Tôi nuốt nước bọt một cách khó khăn và cố không khóc.
Ava nhìn tôi với vẻ quan tâm. Cả một vầng hào quang xung quanh tím biếc.
“Riley không phải là người mà ai khác có thể lấy đi. Con bé lúc nào cũng bên cháu, mặc dù cháu không thật sự thấy nó”. Cô nói và lại cầm tay tôi.
Có một điều gì đó thật mâu thuẫn trong tôi. Song, sự bướng bỉnh bao giờ cũng lớn hơn. Tôi từ chối lắng nghe. Từ chối để cô chạm vào tôi lần nữa.
“Đừng can thiệp vào cuộc đời của cháu!” Tôi bước đi chỗ khác. “Hãy để cháu yên. Riley và cháu đã rất yên ổn, hạnh phúc bên nhau cho đến khi cô xuất hiện!”
Nhưng Ava không đi. Cô chẳng đi đâu cả. Cô đứng ngay đó, nhìn tôi chằm chằm tỏ vẻ rất giận nhưng vẫn mềm mỏng và quan tâm.
“Cô biết chuyện nhức đầu của cháu”. Cô thì thầm với giọng dịu dàng. “Cháu không cần phải sống như thế, Ever. Thật đấy, cô có thể giúp!”
Ừ, quả thật là tôi rất cần sự bình yên lúc này – một sự bình yên thoát hẳn ra được những công kích dữ dội của tiếng ồn và sự đau đớn. Nhưng tôi không muốn phải nhờ đến cô ta. Tất cả những gì tôi làm là quay gót và bước nhanh đi, hy vọng sẽ không bao giờ gặp cô lần nữa.
oOo
“Ai thế?”, Haven hỏi khi tôi hổn hển chạy đến, ngồi bên cạnh.
“Đâu có ai!” Tôi nói thật khẽ khàng nhưng vẫn phải co rúm người lại vì âm hưởng của câu nói cứ vang vọng từng hồi trong tai.
“Trông giống như cái cô đã xem bói cho mọi người ở buổi tiệc bên nhà cậu”.
Tôi cầm lấy cái đĩa Miles đưa cho mình.
“Bọn tớ không biết cậu thích gì nên lấy mỗi thứ một chút”, Miles liếng thoắng một tràng dài, “Cậu có mua được túi xách không?”
Tôi lắc đầu.
“Không, đắt quá!” Tôi lẩm bẩm, lòng dậy lên cảm giác tiếc rẻ. Suốt lúc ăn, tôi cứ phải lấy tay che miệng khi nhai, vì tiếng động trong khi nhai cứ vang lên dữ dội khiến mắt tôi cay xè, đầy nước.
“Cậu có mua bình hoa không?”
Tôi hỏi cho có chuyện, chứ biết là Miles không mua – không phải vì tôi có năng lực siêu linh, mà đơn giản bởi vì tôi không thấy có cái túi nào bên cạnh.
“Không, tớ chỉ thích xem họ thổi thôi!”
“Ê, các cậu… Cái điện thoại của tớ đâu?”
Cô thò tay vào cái túi xách khổng lồ của mình, lục tung nó lên, trong khi tiếng điện thoại thì vẫn không ngừng reng.
“Ôi trời ơi, Haven… Cậu làm ơn đổi tiếng chuông điện thoại đi. Mỗi lần có ai gọi đến cho cậu là tớ giật bắn hết cả người!” Miles nhún vai, bỏ cái vỏ bánh thịt chiên mà chỉ ăn phần nhân bên trong.
Tôi nhấp một ngụm nước ngọt, nhìn Haven. Chẳng cần đến năng lực siêu linh, chỉ cần thấy sự phấn chấn trên gương mặt cô bạn khi nghe điện thoại là tôi có thể đoán ra ai gọi.
Quả vậy.
Haven quay sang chỗ khác, bịt ngón tay vào một bên tai, vui vẻ hét toáng.
“Ôi trời ơi! Tớ nghĩ cậu biến mất luôn rồi chứ. Tớ đang đi chơi với Miles. Ừ, Ever cũng có ở đây. Họ đang ở ngay đây nè! Ừ, được chứ…”
Cô ta đưa tay bịt phần micro của chiếc điện thoại và quay về phía chúng tôi, mắt sáng lên: “ina gửi lời chào nè!” Sau đó phấn khích ra dấu để chúng tôi chào lại. Nhưng cả Miles lẫn tôi đều ngồi im lặng. Haven trợn mắt, đứng dậy, đi ra xa nơi chúng tôi ngồi và ríu rít nói: “Ừ, họ cũng gửi lời chào cậu đấy, ina!”
Miles lắc đầu nhìn tôi. “Tớ đâu có chào. Cậu có chào không?”
Tôi nhún vai, trộn đậu vào phần cơm của mình.
“Sao tớ thấy… phiền phức quá!” Miles lẩm bẩn nhát gừng, nhìn theo bóng đứa bạn mình đi ra xa.
Mặc dù lờ mờ hiểu được ý Miles, nhưng tôi không cảm nhận được rõ ràng Miles định nói đến chuyện gì. Quá đông người. Vì vậy, quầng năng lượng ở đây cứ sôi sùng sục và xoay tròn như nồi súp khổng lồ. Quá nhiều làn sóng khác nhau khiến tôi không thể phán đoán hay đọc được một cách rõ ràng.
“Ý cậu là gì?”, tôi hỏi.
“Tớ nói vậy mà cậu không hiểu sao?”
Tôi nhún vai, đầu nhức bưng bưng, không thể thấy nổi dù chỉ là một suy nghĩ của Miles.
“Có cái gì đó thật là kỳ lạ về mối quan hệ giữa ina và Haven. Tớ cảm thấy cứ sao sao đó. Kinh khủng thật!”
“Sao cậu lại cho là kinh khủng?” Tôi nhìn Miles, thật sự chờ đợi một câu trả lời.
“Tớ không biết diễn tả làm sao. Nhưng tin tớ đi, có vẻ như cái cô ina đó muốn biến Haven thành người của mình!”
Tôi nhướng mày.
“Biết nói sao nhỉ? Một môn đệ, một người tôn sùng, một bản sao… Đại loại thế!”, cậu ta nhún vai.
“Ừ, kinh khủng thật…!”, tôi tiếp lời.
Miles hớp một ngụm nước, liếc nhìn bóng Haven đứng phía xa xa.
“Cậu xem cái cách Haven bắt chước cô ta đi. Ăn mặc giống cô ta, kính sát tròng, màu tóc, trang điểm, quần áo, và cả hành động nữa…”
“Chỉ vậy thôi hay còn gì khác nữa?”
Tôi tự hỏi không biết Miles có biết chuyện gì đó cụ thể hay có cảm giác nào đó về sự bất hạnh hay cái chết không.
“Cậu cần hơn nữa à?”, cậu ta trợn mắt nhìn.
Tôi để cái bánh xuống đĩa vì không còn cảm thấy đói.
Miles ngẫm nghĩ một chút, nhìn xung quanh, trước khi hạ giọng thấp đến mức gần như là thì thào.
“Bí mật nhé. Cái hình xăm trên tay Haven đó, còn tệ hơn nữa. Không biết nó là cái quái quỷ gì thế? Đó có phải là thời trang mới nhất của ma cà rồng không? Tớ cứ thấy ớn lạnh mỗi khi nhìn vào nó. Tớ nghi đó là nghi lễ của nhóm người bí mật nào đó. Thật gớm ghiếc. Chẳng có chút bình thường nào như Haven nghĩ. Rất có thể nó là nguyên nhân làm cho Haven bệnh mấy ngày liền!”
Tôi mím chặt môi, nhìn Miles chằm chằm, không biết phải phản ứng ra sao, chia sẻ ra sao. Tôi tự hỏi sao mình lại quyết định giữ bí mật chuyện của Damen. Nhưng sau một hồi lâu lưỡng lự, cắn chặt môi, tôi hiểu rằng tối thiểu bí mật này phải được khóa lại, giữ kín trong hầm mộ thêm ngày hôm nay nữa.
“Tóm lại là không lành mạnh chút nào”. Miles lẩm bẩm.
“Cái gì không lành mạnh?”
Haven hỏi, thả người ngồi phịch xuống cạnh tôi và bỏ điện thoại trở lại vào trong túi xách. “Chẳng có gì. Bọn tớ nhắc đến chuyện không chịu rửa tay sau khi đi nhà vệ sinh của Ever”, Miles nháy mắt nhìn tôi, giọng đầy ẩn ý.
Haven lúc lắc đầu.
“Tưởng tớ tin mấy chuyện đó sao?”
“Thật mà. Ever không chịu rửa xà phòng, và tớ đang cố cảnh báo với cậu ấy về những mối nguy hiểm mà cậu ấu có thể gặp phải. Cả chúng ta nữa!”
Tôi trợn mắt, mặt đỏ bừng vì sự thật không phải vậy.
Nhưng Haven thờ ơ thò tay vào trong túi xách, lục lọi giữa các thỏi son môi, những vật dụng cá nhân linh tinh, rồi cuối cùng lôi ra một chiếc lọ nhỏ bằng bạc, mở nắp và rót thứ chất lỏng không màu trong đó vào thức uống của chúng tôi.
“Ồ, tớ đoán các cậu đang bàn về tớ. Nhưng các cậu biết cái gì? Tớ đang rất hạnh phúc. Tớ chẳng quan tâm!”
Haven phá lên cười.
Tôi chụp tay bạn mình, không để cô đổ chất lỏng trong lọ vào ly tôi.
Kể từ cái đêm tôi quá chén với bạn bè trong trường cũ đến mức nôn thốc nôn tháo, tôi đã thề sẽ không chạm tới giọt rượu mạnh nào nữa cả. Nhưng vừa chạm đến tay cô ta, người tôi đã trào lên một nỗi sợ hãi. Tôi thấy tờ lịch lóe sáng trước mặt tôi với một vòng tròn đỏ quanh ngày 21 tháng 12.
“Trời, cậu làm ơn thư giãn đi. Đừng có bà cụ non nữa. Hãy sống một chút, được không? Các cậu không hỏi tớ tại sao tớ hạnh phúc sao?”
“Không, bởi vì tớ biết thế nào cậu cũng sẽ nói thôi!” Miles bực bội dẹp cái đĩa sang một bên.
“Cậu nói đúng, Miles, cậu nói chính xác. Nhưng nếu được hỏi thì lúc nào cũng thấy thích hơn. Để tớ nói cho các cậu biết. Đó là ina. Cô ta vẫn còn ở New York, vui vẻ shopping. Cô ta cũng mua một đống đồ cho tớ, liệu các cậu có thể tin được không”.
Haven nhìn chúng tôi, mắt mở to, nhưng khi thấy chúng tôi không có phản ứng, cô bạn tiếp tục. “Dù sao thì cô ta cũng đã gửi lời chào trong khi các cậu không thèm chàolại. Đừng có nghĩ là cô ta không biết điều đó!”
Haven lầm bầm, cau mày với chúng tôi. “Nhưng… Cô ta sắp trở lại, và cô ta mời tớ đến một buổi tiệc thật hoành tráng. Tớ sốt ruột chết đi được ấy!”
“Khi nào?”, tôi cố không tỏ vẻ kinh sợ. Tự hỏi đó có phải là ngày 21 tháng 12 không.
Nhưng Haven chỉ cười và lắc đầu. “Xin lỗi, tớ không thể nói. Tớ đã hứa không nói!”
“Tại sao?”, cả tôi và Miles đều bật lên.
“Bởi vì buổi tiệc rất đặc biệt, chỉ dành cho khách mời, họ không muốn những kẻ phá hoại đến đó!”
“Cậu nghĩ bọn tớ là kẻ phá hoại à?”
Haven nhún vai, hớp một ngụm nước.
“Không thể vậy được!” Miles lắc đầu. “Chúng ta là những người bạn tốt nhất của nhau, vì thế theo luật lệ, cậu phải nói cho bọn tớ nghe!”
“Không phải chuyện này…”, Haven quả quyết lắc đầu, “Tớ đã thề giữ bí mật rồi. Chỉ biết rằng tớ rất phấn khích, chỉ muốn nổ tung!”
Tôi nhìn Haven, muốn tìm hiểu xem có chuyện gì, nhưng đầu tôi đau quá và mắt tôi thật sự đang chảy nước. Quầng hào quang quanh người Haven vì thế nhập nhoàng hòa vào với một người khác. Tôi không thể đọc gì.
Tôi rụt rè đưa một ngụm rượu mà Haven vừa rót cho mình lên môi, nhấp thử. Chất lỏng nóng bỏng trôi xuống cổ họng, lan theo dòng máu trong cơ thể tôi, khiến tôi lắc lư đầu.
“Cậu vẫn còn bệnh à?”
Haven nhìn tôi một cách lo lắng. “Cậu nên thư giãn đi. Có lẽ cậu chưa hoàn toàn qua khỏi!” “Qua khỏi cái gì?’, tôi liếc nhìn xung quanh và hớp thêm một ngụm, lại thêm một ngụm nữa.
Các giác quan của tôi mờ theo từng ngụm rượu.
“Cảm sốt chứ còn gì! Nhớ cái hôm cậu rất yếu ở trong trường không? Tớ đã nói cậu buồn nôn hoa mắt chỉ mới là bắt đầu thôi… Nhưng hứa với tớ là sẽ kể cho tớ nghe nếu cậu nằm mơ khi bị cảm sốt nhé, bởi vì giấc mơ đó thật tuyệt!”
“Mơ gì?”
“Tớ chưa nói với cậu sao?”
“Chưa nói chi tiết”.
Tôi hớp thêm một ngụm, chú ý xem cái đầu mình cảm giác ra sao.
Hơi chóng mặt. Tất cả hình ảnh, suy nghĩ, màu sắc và âm thanh bất ngờ chìm xuống và phai đi.
“Những con người hoang dã. Đừng giận nhé! Tớ thấy cả Damen trong số đó, mặc dù không có chuyện gì xảy ra đâu. Không phải giấc mơ kiểu trai gái đâu. Hình như anh ta cứu tớ, hình như anh ta chiến đấu với bọn quỷ dữ để cứu sống tớ. Thật kỳ lạ!”
Cô ta cười lớn. “À, mà nói chuyện ina gặp Damen ở New York đi…”
Tôi nhìn Haven, cả người bắt đầu ớn lạnh, mặc dù đã nốc cả đống rượu.
Nhưng khi tôi uống thêm một ngụm nữa, sự ớn lạnh liền tan biến.
Ừ, thế thì uống thêm một ngụm nữa.
Thêm một ngụm nữa.
Sau đó, tôi liếc nhìn Haven, bình tĩnh: “Tại sao cậu kể cho tớ nghe điều đó?”
Haven chỉ nhún vai.
“Vì ina muốn cậu biết!”