Cánh cổng bằng sắt đúc đã han gỉ và bị dây leo cũng như các loại cây cỏ khác mọc trùm lên, ngăn không cho người ngoài nhìn qua khoảng hở giữa những thanh sắt uốn lượn. Trải dài hết tầm nhìn là hàng rào sắt ngăn cách con đường đất với khuôn viên nằm sau nó. Những đám mây trĩu nặng, nước mưa đang vần tụ trên bầu trời và nuốt hết ánh sáng hoàng hôn. Chỉ một chút nữa thôi, khung cảnh sẽ tối đen.
Justus nặng nề nuốt khan và trèo từ taxi xuống. Bối rối, cậu dừng lại trước cánh cổng và nhìn qua những khuôn sắt rậm rạp lá xanh.
– Có vẻ hoang vắng quá, phải không? – người lái xe hỏi qua khung cửa sổ đã được quay cho kính hạ xuống. – Trong kia có người ở không?
– Cháu đoán thế.
– Tôi có cần phải đợi cậu ở đây không?
– Không cần đâu, cảm ơn chú, – Justus quả quyết nói, không xoay người lại. Ánh mắt vẫn dán chặt vào cánh cổng. Phía bên kia là một mảnh đất hoàn toàn xa lạ.
Người lái taxi hắng giọng.
– Cháu rất cảm ơn chú.,nhưng cháu tự lo liệu được.
– Có thể thế. Mặc dù vậy tôi rất muốn nhận tiền xe.
Jutus giật nảy người. – Dĩ nhiên. Cháu xin lỗi – Cậu rút vài tờ dollar ra và đưa cho người đàn ông. Người này gật đầu, quay kính lên và quay xe trên con đường hẹp. Thế rồi ông ta đạp chân xuống bàn ga. Justus đứng nhìn theo chiếc taxi cho tới khi ánh đèn hậu đỏ lòe khuất phía sau đỉnh đồi. Cậu chờ cho tiếng rì rầm của máy xe đi xa hẳn. Giờ chỉ còn lại tiến gió đang rung lắc trên vài vòm cây trên đồi, và tiếng biển rì rào đâu đó phía trước mặt. Ngoài ra là im lặng.
Justus ấy hơi thật sâu, nhấc chiếc túi xách nhỏ từ dưới đất lên và bước lại gần cánh cổng bằng sắt đúc. Cậu thử nhấn chuông. Không có. Có thể cửa không đóng chăng? Đúng lúc cậu muốn giơ tay về phía nắm đấm cửa thì khóa cửa bật ra với tiếng rù rì quen thuộc những ổ khóa điện tử.
Justus giật nảy mình. – Cảm ơn, – cậu ngạc nhiên lẩm bẩm rồi ấn tay, cánh cửa vừa kêu ken két, mở ra.
Justus vừa bước qua thì cánh cửa đã sập lại, sát sau lưng cậu. Justus ép mình không xoay về. Rõ ràng là cậu đang bị quan sát, nếu không thì làm sao lại có người kịp thời bấm cửa đúng trong tích tắc thích hợp nhất. Mà Justus thì không muốn tỏ ra sợ hãi lẫn yếu hèn.
Cách đó một trăm mét, trên đỉnh đồi và bên rìa một bờ biển dốc thẳng xuống dưới, là một luỹ thành đang đứng sừng sững. Ít nhất thì anh bạn Peter cũng sẽ gọi tòa nhà này như vậy. U tối và lì lợm như một pháo đài, những bức tường phủ đầy dây trường xuân đang giơ vô vàn những răng cưa nho nhỏ lên trời. Những miệng ống xối đầy đe dọa ngồi lù lù như những tay canh gác bằng đá ở khắp mọi ngóc ngách trên tường. Những bộ mặt cứng đờ trong nụ cười nham nhở ló ra từ những hốc tường và những đỉnh tháp nhỏ. Không một khuôn cửa sổ nào có sáng đèn, nhưng Justus tin chắc rằng ít nhất là đằng sau một trong những mảng kính kia đang có một cặp mắt chăm chú dõi theo từng bước chân của cậu.
Một đường mòn hẹp mảnh uốn lượn qua bãi cỏ mọc hoang, trên đó chỉ có vài thân cây tội nghiệp đang oằn mình trước gió. Ngay đằng sau tòa lâu đài là biển. Chắc chắn nơi này thường có bão.
Justus đi về phía tòa nhà. Yếu tố thống trị toàn bộ mặt tiền của tòa nhà này là một khuôn cửa lớn với hai cánh cửa khổng lồ làm bằng gỗ đen- So sánh với toàn bộ tòa lâu đài, cánh cổng lớn đến nực cười. Một chiếc xe chở hàng to như quái vật sẽ dễ dàng chui qua, thậm chí cả hai chiếc đi song song cũng lọt. Vòng cửa cuốn cao tới mức nó gần như chạm vào phía dưới những mép răng cưa gờ tường. Qua đó, mặt tiền ngôi nhà hầu như chỉ bao gồm hai cánh cửa khổng lồ, làm bằng gỗ bọc đai sắt. Phía trên đó là một hình người kỳ quặc làm bằng đá, nó đang dang hai cánh tay ra như muốn niềm nở đón tiếp mỗi vị khách tới – hay là tóm bắt người ta làm tù nhân. Gương mặt của bức tượng bị méo mó bởi cái miệng cười ngoác rộng đến quái dị. Hai con mắt mở lớn, nhưng chúng lại ngó qua bờ vai của bức tượng ra phía sau, như thể nhân vật kỳ quặc kia vừa phát hiện thấy điều gì đó thú vị trên nóc nhà hoặc có thể nhìn xuyên qua mái nhà vào trong. Bức tượng quả thật gây một ấn tượng ma quái.
Cuối cùng, tòa nhà chỉ còn cách có mười mét và Justus phải ngửa đầu ra sau gáy để nhìn qua những gờ tường hình răng cưa và hai cánh tay dang rộng của cái miệng ống xối, nhìn lên với bầu trời tối thẫm. Khi quan sát các cửa sổ, cậu thấy tất cả đều được kéo kín rèm. Không một tấm rèm nào chuyển động. Can đảm, cậu bước những bước cuối cùng về phía cánh cửa khổng lồ. Và lúc này cậu mới phát hiện thấy một khuôn cửa nhỏ, rất khó nhận ra, được khoét vào cánh cửa bên phải. Chắc nó mới thật là chỗ đi ra đi vào thường dùng.
Cho tới nay, Justus đã can đảm gạt sang bên tất cả những suy nghĩ u ám. Nhưng khi đã đến gần đích, cậu lại thấy sợ. Quyết định đến đây không hẳn là một sáng kiến tốt. Có lẽ cậu cần phải ở lại Rocky Beach hay ít ra cũng mời Bob và Peter cùng đi. Nhưng giờ cậu không còn sự lựa chọn nào khác. Người ta đã biết là cậu tới đây. Và đột ngột hốt hoảng bỏ trốn – đó là hành động phản lại lòng tự trọng của mỗi thám tử, là khả năng hoàn toàn không được phép xét tới.
Không có nút chuông. Justus giơ tay lên, định gõ cửa, nhưng chính trong tích tắc đó, cánh cửa mở ra, tuyệt đối không gây một tiếng động. Đằng sau đó là tối đen. Tim Justus đập đến phát đau. Trong một thoáng trông như thể cánh cửa vừa tự nó mở ra, nhưng rồi có người bước ra từ bóng tối. Một người đàn ông trong một bộ comple màu đen. Ông ta thấp nhưng vạm vỡ, tóc đã thưa. Ông ta trân trân nhìn Justus trong vẻ vô cảm, rồi khoát tay làm một cử chỉ mời mọc. Đúng lúc Justus vừa định cất tiếng thì người đàn ông đã lại lùi vào bóng tối. Chần chừ, Justus bước qua cửa.
Sảnh phía ngoài nhỏ hơn là Justus mường tượng. Cậu nhìn chẳng mấy rõ trong ánh sáng lờ mờ. Người đàn ông vừa mở cửa kia giờ đang đứng bên cạnh cậu và đóng cánh cửa nặng nề lại. Đột ngột, trong phòng còn tối hơn nữa. Thứ ánh sáng duy nhất mà họ có bây giờ là ánh sáng hắt từ ngoài vào qua những khuôn cửa sổ nhỏ, nhỏ gần như lỗ châu mai, được đục vào hai khoảng tường đứng bên trái, bên phải cửa vào và ở đâu đó thật cao trên đầu họ. Justus nhìn lên và ngạc nhiên hít một hơi dài. Phòng không rộng, nhưng những bức tường của nó đâm thẳng lên cao, khiến người đứng dưới hầu như không nhận ra trần phòng trong ánh tối lờ mờ. Những phần tường trên tất cả các cánh cửa và cửa sổ đều lồi ra thành những hình dạng kỳ quặc: những chiếc mặt quỷ, những con ma có cánh, những mặt người cười nhạo một cách khùng điên, tay cầm những ngọn đuốc hoặc những cây kiếm bằng đá. Thế nhưng ngoại trừ những thực thể đó ra, tất cả các bức tường, đúng hơn là toàn bộ căn sảnh, hoàn toàn trống trơn. Không có duy nhất một tấm tranh nào được treo, không có đèn, không có gì cả. Cũng không có đồ gỗ, chỉ có một tấm thảm dày và nặng màu đỏ phủ nền và phủ cả khoảng cầu thang nối với nó. Căn sảnh nhỏ gây ấn tượng như thể nó là hậu trường cho một bộ phim hiệp sĩ, hiện vẫn còn thiếu đạo cụ.
– Ấn tượng đấy, – Justus thì thào. Thế rồi cậu nhớ ra rằng cậu vẫn chưa nói duy nhất một lời nào với người đàn ông kia. Justus ngượng ngùng hắng giọng. – Xin lỗi, tên tôi là Justus Jonas. Có phải ông…
Người đối diện xoay đi và bước về phía cầu thang Ngỡ ngàng, Justus nhấp nháy mắt nhìn theo. Gã này hoàn toàn coi cậu như không khí! Cần phải làm gì đây? Cứ đứng im ở đây và chờ một chuyện thần kỳ chăng?
– Này! – Justus bực bội kêu lên.
Đột ngột, người đàn ông xoay lại. Lần đầu tiên trên nét mặt ông ta hiện lên cảm xúc: một cơn thịnh nộ. Ông giơ ngón tay trỏ lên môi và ra hiệu cho Justus đi theo.
Mặc dù không thích thú chuyện này chút nào, nhưng Justus vẫn đi xuyên qua căn sảnh ngoài. Tấm thảm dày nuốt chửng mọi tiếng bước chân. Họ đi dọc theo một đoạn cầu thang dài và hẹp, dải cầu thang dẫn vào một khoảng hành lang cũng được trải thảm màu đỏ và lạnh lùng trống rỗng như căn sành phía trước. Nguồn sáng duy nhất ở đây là một quầng đèn sáng tiêu điều tỏa ra từ một bóng đèn tròn trần trụi, lủng lẳng từ trần. Họ rẽ vào một lối đi, dẫn tới nhiều cánh cửa đóng kín. Cánh cửa cuối đang mở. Họ bước thẳng về phía đó.Justus thấy trong người bất an. Cậu chỉ thích nhất là được xoay ngược lại và rời khỏi ngôi nhà này. Nhưng cậu vẫn cứ bước tiếp, bước tới cánh cửa đang mở kia, nơi người đàn ông để cho Justus đi ngang qua mặt mình – và bước sang bên.
Cậu cần phải bước vào trong phòng. Rõ ràng cho tới nay cậu chưa gặp chủ nhân của ngôi nhà, mà mới chỉ tiếp xúc với một gia nhân. Chần chừ, Justus bước vào trong.
Căn phòng này dù sao cũng có cửa sổ, nhưng chỉ có rất ít ánh sáng xuyên được qua lần rèm dày nặng. Có một chiếc bàn viết và một nhóm ghế trong góc phòng. Trên chiếc bàn kê sát tường có để một bể kính lớn. Justus không nhận được ra thêm chi tiết nào. Cậu bước thẳng về phía bể kính. Đó là một bể cá cạn. Từ nền cát phủ kín nền bể mọc thẳng lên một cành cây khô khốc, sần sùi. Trong góc bể có để một cái bát đựng nước. Bên cạnh đó là một con rắn màu nâu xám, nằm cuộn tròn, im lìm như đã hóa đá. Con rắn nhìn trân trân về phía trước. Nếu nó không thỉnh thoảng thè cái lưỡi chẻ đôi ra ngoài, Justus không thể đoán liệu nó còn sống hay là không. Bên cạnh bể cá có để một hộp carton nhỏ, từ hộp đang vang ra tiếng chít chít nhè nhẹ.
Đột ngột, Justus nghe thấy một tiếng động khác, tiếng sột soạt của quần áo, ngay sát sau lưng cậu. Justus xoay về, nheo mắt. Có ai đó đang ngồi trong một chiếc ghế bành bọc da dày và đen. Justus chỉ nhận ra lờ mờ hình dáng một người đàn ông. Chắc ông ta đã ngồi đây suốt thời gian qua và quan sát cậu. Người lạ nhìn cậu chằm chằm.
Justus thấy cổ họng mình như thắt lại. Quyết định đến đây quả thật không phải một sáng kiến tốt. Hoàn toàn không. Thế nhưng trước khi cậu kịp nói một điều gì hay có thể xoay bước bỏ đi thì người đàn ông trong chiếc ghế bành kia đã cất lên cái giọng đơn đớt, khẽ khàng như nói thầm:
– Chào mừng cậu đã tới đây, Justus Jonas!