“Thật kỳ quái…” Felicity nói vài ngày sau khi tôi kể với chị ấy về cuộc gặp với Magda. Chị ấy đang cho Olivia bú một bên vú trong khi vắt sữa ở vú bên kia. Tôi bỗng nhiên hình dung ra phần ngực chứa sữa với mạng lưới những tia sữa, lỗ và các nang sữa. “Cô ta cắt tung quần áo của em và sau đó vui vẻ gặp em. Sao mà…”
“Đồng bóng?” Tôi nói khi chiếc máy hút sữa điện kêu o o như máy khoan của nha sỹ, cái van silicon nâng lên hạ xuống như một máy đang thở.
“Chị đang định nói là ‘kỳ quặc’. Có lẽ cô ta bị rối loạn cảm xúc lưỡng cực hay gì đó. Khi mắc bệnh đó, tâm trạng của em hay thay đổi đột ngột. Hai bán cầu não không hòa hợp.”
“Cô ta rất quyến rũ,” tôi băn khoăn nói. Chai sữa đã đầy đến hai phần ba. Tôi tự hỏi Fliss có ăn cỏ để có nguồn sữa dồi dào như thế này không. “Nhưng rõ ràng là cô ta hơi bị điên.”
“Magda điên khùng.” Fliss nói. “Nhưng Luke phải nhẹ nhõm lắm khi cô ta chí ít cũng lịch sự với em.”
“Vâng.”
“Thế cô ta có xin lỗi về việc đã làm với quần áo của em không?”
“Không. Ngược lại, cô ta ra vẻ như là đang rộng lượng tha thứ cho em, khoan dung bỏ qua những hành vi kinh khủng của em.”
“Cô ta mới rộng lượng làm sao.”
“Em nghĩ rằng tỏ ra hòa nhã là việc gần nhất với việc nói xin lỗi mà cô ta có thể làm.”
“Nhưng tại sao cô ta lại thay đổi một trăm tám mươi độ như thế?” Chị ấy tắt máy hút, sau đó ra hiệu cho tôi đặt cái nút màu vàng lên chai sữa đầy. Khi tôi cầm nó trong tay, tôi cảm thấy nó hơi ấm.
“Luke nói bởi vì Magda dường như thành thật hối lỗi – cô ta nhận ra mình đã đi quá ranh giới, ngay cả với ranh giới của cô ta. Anh ấy cũng nghĩ rằng chuyện với bạn trai cô ta đang diễn ra tốt đẹp. Họ đã có một thời gian lục đục sau khi cô ta tranh cãi với một trong những khách hàng chủ chốt của anh ta – nhưng bây giờ, rõ ràng họ đã trở lại tình trạng cũ rồi.”
“Anh ta nhìn thấy điều gì ở Magda?” chị ấy hỏi khi đẩy ngực trái vào trong áo lót.
“Cái mà Luke thấy, em đoán thế.”
“Là cái gì?”
Tôi tưởng tượng bàn tay Luke khẽ run lên khi anh ấy vẽ thân hình trần truồng của cô ta lần đầu tiên, “Cô ta rất lộng lẫy.”
“Thật ư?”
“Cô ta… xinh đẹp. Chị không thể không nhìn chằm chằm vào cô ta.”
“Thật đáng cáu,” Fliss nói. Tôi cảm động trước lòng trung thành của chị ấy.
“Một cách hẹp hòi, em ước gì cô ta chỉ hơn mức bình thường một tí, nhưng không may cô ta trông như Catherine Deneuve.”
“Nhưng Luke không hạnh phúc với cô ta mà, Laura?”
“Đúng thế. Hành động của cô ta quá kỳ quái đến mức anh ấy không yêu cô ta được nữa.”
“Và cậu ấy muốn em.”
“Đấy là điều anh ấy nói. Anh ấy nói rằng muốn chúng em ở bên nhau.”
“Tốt. Đó rõ ràng là chương trình của cậu ấy bây giờ. Về con cái thì sao?” Chị ấy hỏi khi đỡ Olivia ngồi lên và vỗ vào lưng cho nó ợ. “Chị cho rằng cậu ấy muốn có thêm con?” Chị ấy lau những giọt sữa bị trớ rơi xuống áo sơ mi của mình bằng một cái khăn nhàu nhĩ.
“Bọn em chưa thảo luận chuyện ấy, nhưng em chắc chắn là anh ấy muốn.”
“Điều đó sẽ thật tuyệt vời,” chị ấy nói khi đặt Olivia trong lòng tôi. Sau đó mở tủ lạnh và đặt chai sữa vào. Tôi có thể thấy đã có rất nhiều chai trong đó, xếp hàng như những chai bowling. “Được mang bầu là một niềm vui lớn lao, Laura ạ.”
“Em biết.” Tôi nói. Chị ấy nhìn tôi. “Ý em là – chị nói với em thường xuyên mà.” Và tôi nghĩ, nhưng em chưa bao giờ kể với chị. Em chưa bao giờ nói với ai khác ngoài Nick là em từng có bầu.
“Nếu em có thể có một đứa sớm thì thật là vui – Và-nó-cũng-thật-tuyệt-vời-đối-với-con-đúng-không-con-gái-yêu-của-mẹ!” Chị ấy nói và vuốt vuốt mũi Olivia bằng ngón tay trỏ. “Một-đứa-em-họ-bé-bỏng-để-chơi-với-con-không-phải-sẽ-là-rất-tuyệt-sao?”
‘Khosaalthagazagoyagoya,’ Olivia trả lời.
“Thật tiếc vì Hope không muốn con cò đến thăm,” Felicity bổ sung.
“Phải, điều đó là một điều đáng buồn,” tôi nói. Tôi không hề kể với chị ấy về những vấn đề của Hope.
“Mike dường như cũng không để ý. Cậu ấy rõ ràng không hề bận tâm.”
“Ừm.”
“Em có biết câu chuyện về con cò xuất phát từ đâu không?” Tôi nghe chị ấy hỏi.
“Không.”
“Nó bắt nguồn từ một huyền thoại Na Uy rằng linh hồn của những đứa trẻ chưa được sinh ra sống ở những vùng nước như là đầm lầy và ao hồ. Vì những con cò được biết đến là hay bay đến những vùng như thế, chúng được cho rằng đã chở linh hồn trẻ con và trao chúng cho bố mẹ. Câu chuyện thật dễ thương, đúng không?” Chị ấy thở dài.
“Vâng, đúng thế.”
Khi Felicity bế Olivia, tôi tự hỏi linh hồn con của tôi đã sống ở đâu – ở một dòng suối, hay gần một dòng sông. Tôi tưởng tượng ra con cò cuộn nó lên, và mang nó đến với tôi trong những sải cánh lớn và chầm chậm. Sau đó đột nhiên quay lại giữa đường bay.
“Chị chưa bao giờ hỏi em điều này, Laura, nhưng Nick muốn có con không?”
Tôi cảm thấy một luồng sóng cay đắng. “Em không… chắc… Nhưng trong bất kỳ trường hợp nào, giờ nghĩ đến chuyện đó thật không có ích gì?”
“Vẫn không có tin tức à?” chị ấy hỏi. Tôi lắc đầu. “Thậm chí với tất cả vụ ầm ĩ báo chí này?”
“Không. Tờ Daily Post đã đề nghị độc giả gọi điện thông báo nếu họ biết anh ấy ở đâu. Tờ Daily News cũng thế, không để bị vượt qua, đã cử hai tay nhà báo điều tra hàng đầu của họ phụ trách vụ này.”
“Vậy rất có thể họ sẽ tìm thấy cậu ta.”
“Em không nghĩ họ tìm được – anh ấy là người vô hình rồi.”
“Thế em sẽ làm gì nếu họ tìm được?”
Tôi nhìn chị ấy. “Chúa ơi… em không biết. Đấy là một câu hỏi đáng sợ.”
“Ừ, em có thể phải trả lời nó – nếu họ thực sự tìm ra cậu ta.”
“Họ sẽ không,” tôi nhắc lại, “vì họ sẽ không giữ kín nguồn tin trong hơn vài ngày, vì thế nếu họ định làm, nó sẽ phải sớm thôi. Nhân tiện, Hugh có kể với chị là anh ấy gặp em ở phòng triển lãm của Luke mấy tối trước không?”
“Có. Anh ấy đến đấy với Chantal.”
“Em nghĩ cô ta có vẻ… ngượng ngập, Fliss ạ. Cô ta đỏ mặt e thẹn khi nhìn thấy em.”
“Chị biết em chưa bao giờ thích cô ấy lắm, Laura. Nhưng em không nên luôn nghĩ đến điều tệ nhất về cô ấy.”
“Và chị cũng không nên luôn nghĩ đến điều tốt nhất. Em khẳng định với chị, Fliss, cô ta trông… gian xảo lắm. Cô ta đang theo đuổi anh ấy.”
“Nghe chị này, chị hiểu Chantal – và không sao đâu. Lý do họ ở bên nhau là vì họ vừa có một cuộc họp khác về ‘phát minh’ bí mật của Hugh – và bây giờ anh ấy đã nói với chị là cái gì?”
“Thật sao?”
“Ừ. Đơn đăng ký bản quyền đã được nộp, vì thế họ có thể nói về nó.”
“Vậy nó là cái gì?”
“À… đồ cho trẻ con. Em biết chị luôn phàn nàn rằng chị chưa bao giờ có một cái khăn muslin trong tay khi cần như thế nào phải không?”
Tôi nhìn vào chiếc áo phông-lấm-tấm-sữa của chị ấy. “Vâng.”
“Và làm thế nào chị có được, khi thứ chết tiệt ấy cứ luôn trượt mất đâu đó?”
“Vâng.”
“Vì thế điều này mang đến ý tưởng cho Hugh. Anh ấy phát minh ra một cái yếm dãi – nhưng nó không phải là một miếng vải rời, như khăn muslin, mà nó được gắn liền. Nó bao gồm một mảnh vải flannel viền chất dẻo PVC – nó trải ra từ trước ra sau ở đây, vì thế em hoàn toàn được bảo vệ – nhưng nó được thu gọn lại vì thế nó đi vòng qua đây và sau đó xuống… đây…” Chị ấy giơ tay đến vai trái mình một cách khó khăn. “Thực ra, mô tả trên người em sẽ dễ hơn.” Fliss nghiêng về phía trước, chạm vào vai trái của tôi, sau đó lướt ngón tay xuống dưới, chạm vào ngực tôi. “Nó thu nhỏ lại ở dưới cánh tay, ở đây… nơi nó được buộc lại, hoặc cố định với một cái khóa, và có một cái móc hay cái gì đó ở đây…” chị ấy chạm vào cổ tôi – “nhờ thế nó có được gắn vào cổ áo một cách chắc chắn.”
“Chị vừa chạm vào ngực em,” tôi nói.
“Xin lỗi.”
“Không – đó không phải là một lời phàn nàn. Em vừa nhận ra điều này.”
“Gì thế?”
“Ồ, em nghĩ đó có lẽ là nguyên nhân em nghĩ rằng Hugh đang vuốt ve Chantal.” Tôi ném trí nhớ trở lại tối hôm đó ở quán Julie. “Rõ ràng anh ấy và Chantal đang thảo luận về cái yếm dãi…”
“Đúng thế mà – như chị nói, đó là lý do họ ở đấy. Chantal làm tất cả những công việc liên quan đến bản quyền, bao gồm cả một bản mô tả kỹ thuật rất chi tiết, vì thế cô ấy phải biết chính xác nó hoạt động như thế nào, và sử dụng như thế nào.”
“Và Hugh đơn giản là đang giải thích với cô ta?”
“Phải.”
“À.” Tôi nhận ra rằng tôi có lẽ đã hoàn toàn không công bằng khi tôi chạy lại cảnh đó trong đầu một lần nữa. Và lần nữa. Tôi đã không công bằng. Tôi cảm thấy day dứt có lỗi. “Thế đấy là việc anh ấy đang làm.” Đó là một lời giải thích trong sáng hoàn hảo! “Nhưng em vẫn nghĩ họ có vẻ vui vẻ một cách đáng ngờ.”
“Họ vui vẻ,” Fliss nói. “Nhưng chỉ vì họ nghĩ cái yếm có khả năng thực thi. Chị cứ nói mãi với Hugh là hãy phát minh cái gì đó bọn chị thực sự cần, và chị nghĩ cái yếm này có thể là thế. Với cái yếm này, sẽ không cần phải truy lùng những cái khăn muslin thêm nữa, hay dùng tay lau cho con bé khi bị trớ. Những cái yếm có thể bán thành gói năm chiếc một. Và em chỉ cần đeo một cái vào buổi sáng, sau đó thay khi cần thiết và đặt cái đã dùng vào chậu. Chị nghĩ đó là một ý tưởng hay.”
“Vâng – Hugh già giỏi giang.”
“Ừ – anh ấy thậm chí có thể kiếm thêm ít tiền. Anh ấy và Chantal đang rất phấn khích về nó – cô ấy đầu tư thêm tiền để triển khai nó một cách đúng đắn – mặc dù có thể mất khá lâu mới có hiệu quả, và bọn chị đã tiêu đến những đồng cuối cùng. Nhưng, thật may mắn,” chị ấy tiếp tục, “Olivia có được hợp đồng quảng cáo của Coochisoft, con-gái-thông-minh-của-mẹ-nhỉ? nên có thể giúp bọn chị duy trì trong khoảng một tháng nữa – và sau đó con bé có hai buổi diễn trên truyền hình vào cuối tuần này. Chị đang từ chối một trong hai cái, vậy là tổng cộng có thể kiếm được ít nhất ba nghìn từ doanh thu bản quyền phát sóng…”
Sau đó Fliss kể với tôi về tất cả những buổi biểu diễn chị ấy đang đưa Olivia đi, và những người mẹ chị ấy gặp, về thái độ cạnh tranh một cách đáng tởm của họ như thế nào… vân vân và vân vân. Rồi chị ấy bắt đầu kể lể về việc Olivia đã phát triển quá ngưỡng của những đĩa nhạc Einstein dành cho trẻ em và đã dần tiến đến Fimbles[1], và ‘rõ ràng’ là theo được những câu truyện đó, mặc dù nó để dành cho trẻ em từ hai đến bốn tuổi, vì thế tôi thật nhẹ nhõm khi di động của tôi kêu. Đó là Darren Sillitoe, gọi điện cho tôi lần nữa để xem tôi đã quyết định về cuộc phỏng vấn hay chưa.
[1] Một chương trình TV ở Anh được dàn dựng cho trẻ em chưa đi nhà trẻ
“Tôi có thể hiểu tại sao cô ngần ngại,” anh ta nói. “Nhưng tôi chỉ muốn cô biết rằng biên tập của tôi đã quyết định rằng nếu cô đồng ý, không những chúng tôi sẽ quyên góp cho Đường Dây Quốc Gia Trợ Giúp Người Mất Tích, mà chúng tôi còn chọn nó thành tổ chức từ thiện của chúng tôi trong dịp Kêu gọi Mùa Giáng sinh năm nay.”
“Thật à?”
“Chúng tôi có đến hơn hai triệu độc giả, nên có thể quyên góp được rất nhiều tiền – ít nhất là hai trăm nghìn. Có thể là hơn.”
Tôi nghĩ đến tổ chức đó đã hỗ trợ mình như thế nào khi tôi chìm sâu trong tuyệt vọng. Tôi nghĩ đến người quản lý trường hợp của tôi, Trish, người đã gọi cho tôi ba lần một ngày trong suốt bốn tháng khủng hoảng đầu tiên khi tôi thậm chí còn không biết Nick còn sống hay không.
“Hãy nghĩ xem hai trăm nghìn bảng có thể làm gì,” tôi nghe Darren nói. Giọng anh ta trầm và mềm mại. Gần như là dịu dàng.
“Ồ…” Tôi sẽ ích kỷ nếu không làm việc này, thêm nữa là, vâng, tôi muốn trấn chỉnh những tin đồn. Tôi muốn sửa lại tất cả những thứ rác rưởi và những lời dối trá đó. “Vậy được rồi,” tôi nói. “Tôi sẽđồng ý. Nhưng với điều kiện anh khẳng định bằng văn bản rằng tôi sẽ có bản nháp để duyệt trước.”
“Được, tất nhiên tôi sẽ làm điều đó,” anh nói.
Sáng hôm sau tôi đến văn phòng Tom để nói với anh ấy về cuộc phỏng vấn với Semaphore. Anh ấy đang đọc báo, và hút thuốc.
“Tom?” Anh ấy nhìn lên. “Chúa tôi!” Tôi thốt lên. “Chuyện gì xảy ra với anh thế?” Anh ấy trông như vừa trượt vào một hòn đá lớn. Toàn bộ hốc mắt phải của anh ấy đỏ thẫm, với những quầng vàng. Qua mi mắt sưng vù, chỉ có thể nhìn thấy tròng mắt xanh nhạt của anh ấy.
“Ồ.” Anh rón rén gõ nhẹ vào thái dương. “Tối qua anh có vinh hạnh chính thức gặp chồng cũ của Gina.” Anh dụi tắt điều thuốc lá. “Anh ta là một gã quyến rũ.”
“Em hiểu rồi. Chuyện gì xảy ra?”
“Hắn ta xuất hiện lúc nửa đêm, say xỉn như một con khỉ. Hắn đang cố gắng kiểm tra anh có ở đấy không. Gina đã không móc dây xích và hắn lao vào được, vì thế anh lịch sự đề nghị hắn ra về. Hắn ta không thích điều đó.”
“Có xảy ra một trận đánh nhau không?”
Tom lắc đầu. “Chỉ là hắn quăng mình vào anh, thụi vào mắt anh, sau đó bỏ đi và làu bàu rằng lần sau còn thấy anh ở đây, hắn sẽ giết anh.”
“Anh có gọi cảnh sát không?”
“Không. Vì nếu phải ra tòa, hắn ta sẽ có tiền án, điều đó khó có thể giúp Gina – hay Sam, cậu bé tội nghiệp. Nhưng hắn ta tốt hơn là không nên thử lần nữa. Mặc dù thế, điều này thật đáng xấu hổ, vì anh sẽ đến Cannes tuần tới và anh không muốn mọi người nghĩ rằng anh đã va chạm. Anh sẽ phải đeo kính râm.”
“À, họ đeo kính râm cả mà, vì thế em không lo lắng – dù sao đến lúc đó vết bầm sẽ khá hơn.”
“Còn người cũ của em thế nào?” anh hỏi. “Ý anh là, vợ cũ của Luke.” Tôi kể với anh về bộ kimono. Bên mắt còn lành của anh trợn lên vì kinh hoàng, sau đó anh lắc đầu. “Vậy cô ta là một Chị em gái nhà Kéo rồi.”
Tôi uể oải mỉm cười. “Chuyện này thật tồi tệ. Nhưng hai ngày trước chúng em ngồi xuống uống trà và kế hoạch hiện tại là tất cả chúng em sẽ trở thành bạn thân nhất và sống hạnh phúc mãi mãi về sau.”
“Thật á?”
“Có lẽ,” tôi cười lớn. “Em không biết. Luke muốn thế.”
“Đó là một mục tiêu thực sự đáng kính trọng.”
“Nhưng em không chắc là nó có thể đạt được. Vấn đề là Luke có những người bạn đã khai hóa chuyện đó một cách liều lĩnh – bữa trưa Chủ nhật cùng nhau, mừng Giáng sinh chung, những việc kiểu đó – nói cách khác, một kịch bản trong mơ – và anh ấy muốn bọn em cũng giống như thế. Anh ấy có một ý nghĩ hoang đường về một gia đình hòa hợp hoàn hảo. Nhưng em ngờ rằng ý tưởng hòa hợp em vào gia đình mình của Magda sẽ bao gồm một lưỡi dao lớn. Nhân tiện, em muốn anh biết rằng em đã nhận lời ra mặt trên báo. Em vừa đồng ý phỏng vấn với tờ Sunday Semaphore vì em không thể chịu đựng được những chuyện tào lao của những tờ báo nhỏ lâu hơn nữa.”
“Đúng đấy, anh nghĩ đó là một bước hay. Miễn là tay nhà báo đó đàng hoàng.”
“Anh ta có vẻ biết thông cảm. Tên anh ta là Darren Sillitoe.”
Tom lắc đầu. “Chưa hề nghe về anh ta.”
“Em cũng thế – nhưng bọn em đã trao đổi khá dễ chịu qua điện thoại.”
“Nói Channel 4 kiểm tra anh ta trước đi.”
“Có lẽ em sẽ làm, nhưng em cảm thấy chuyện này tốt cả vì em đã có được sự đồng ý duyệt bản nháp. Anh ta đã nói rõ như thế trong email.”
“Vậy không có gì tiêu cực được đâu – em nên tiến đến đi.”
Cuộc phỏng vấn ấn định là chiều thứ Năm tuần sau. Tôi nghĩ Darren muốn gặp tôi ở một câu lạc bộ hoặc khách sạn, nhưng anh ta nói rằng tôi sẽ có được nhiều sự thông cảm hơn nếu được phỏng vấn tại nhà thay vì nơi nào đó hoành tráng. Tôi cũng cảm động bởi sự quan tâm của anh ta rằng tôi nên tỏ ra khỏe khoắn. Nhân viên Báo chí của Channel 4 đã hỏi tôi có muốn cô ấy có mặt hay không, nhưng tôi thấy tự xử lý được.
Tay thợ ảnh đến đầu tiên và nhanh chóng lắp hai cuộn phim.
“Anh có muốn tôi cười không?” Tôi hỏi anh ta khi anh ta chĩa ống kính vào tôi.
“Không nhất thiết – anh nhà báo nói họ đang tìm kiếm ‘vẻ trang trọng.” Được rồi, nghiêm chỉnh một cách dễ chịu…”
Bốn giờ ba mươi, chuông cửa lại reo lên, và đó là Darren. Giọng anh ta qua điện thoại nghe như tầm 40 tuổi, nhưng nhìn chỉ khoảng hai mươi lăm. Anh ta cao, đeo kính và hơi gầy – vẻ ngoài thanh niên của anh ta trở thành đối nghịch hoàn toàn với giọng nói lịch lãm, tự tin của anh ta.
“Anh đã làm nhà báo bao lâu rồi?” Tôi hỏi khi pha cà phê mời anh ta.
“Khoảng một năm rưỡi.”
“Anh dùng sữa không?”
“Kem, nếu cô có. Và tôi không nghĩ rằng cô có bánh quy đâu nhỉ?”
“Chắc chắn rồi.”
“Tôi đã bỏ bữa trưa.”
“Anh ăn sandwich không? Tôi có thể làm cho anh một cái.” Anh ta lắc đầu, vì thế tôi lấy thêm một ít sô cô la vào một cái đĩa. “Thế anh làm gì trước đây?” Tôi hỏi khi đặt tất cả vào một cái khay.
“Tôi làm việc trong thành phố. Sau đó tôi làm trong lĩnh vực đầu tư vốn. Nhưng tôi nghĩ rằng nghề báo thú vị hơn.”
“Có đúng vậy không?”
“Nói chung thì đúng thế.”
Tôi hỏi anh ta đã phỏng vấn những ai. Anh ta nói rằng đang làm những trang mục vặt vãnh cho những trang thể thao và đây sẽ là bài viết đầu tiên trên trang chính. Đó là vì sao tên anh ta không gợi ra điều gì – cộng thêm việc tôi hiếm khi đọc tờ Semaphore.
Khi chúng tôi ngồi xuống phòng khách, anh ta nói muốn có vài mẩu chuyện ngắn không ghi âm với với tôi trước, và sẽ chỉ bật máy ghi âm khi chúng tôi đều đã sẵn sàng bắt đầu. Anh ta bày tỏ sự ngạc nhiên rằng tôi lại sống trong một con phố nhỏ bình thường như thế này, xét đến thành công vang dội của chương trình. Tôi giải thích rằng tôi không thể chuyển đi được.
“Cô có muốn nâng cấp lên từ Ladbroke Grove không?”
“Tôi không biết ‘nâng cấp’ là như thế nào, nhưng tôi sẽ không ngần ngại rời khỏi đây. Không phải vì tôi không thích khu này – đây là một khu vực đặc biệt nhộn nhịp và đa dạng – mà là vì bây giờ nó gây ra cho tôi những cảm xúc tồi tệ vì những lý do đã rõ ràng.” Anh ta gật đầu thông cảm. “Hơn nữa những hàng xóm của tôi khiến tôi phát điên lên.”
“Tại sao thế?”
“Bởi vì những tin đồn – đây là một con phố nhỏ theo kiểu rèm cửa được buộc lại. Họ là người tử tế, nhưng tôi thích sống ở đâu đó mà tôi có thể ít được biết đến hơn một chút.”
“Không có nhiều dấu hiệu của chồng cô ở nơi này?” anh ta nói trong khi liếc một vòng.
“Tôi đã cất tất cả đồ đạc của anh ấy đi. Tôi không thể chịu được việc nhìn thấy nó thêm nữa.”
“Cô muốn xóa bỏ hết những ký ức?”
“Không – nhưng bây giờ là lúc tiếp tục cuộc sống, và những nhắc nhở hữu hình rằng anh ấy đã sống ở đây kìm hãm cảm xúc của tôi.”
“Tôi hiểu. Vậy làm như thế này chắc phải giống như một sự khuây khỏa.”
“Phải. Thực ra đó là sự giải phóng mặc dù nó khiến tôi cảm thấy hơi nhẫn tâm; nhưng tôi cần cố gắng và giải thoát mình khỏi quá khứ.”
Darren nhanh chóng lướt qua danh sách những câu hỏi với tôi, và đề nghị tôi cho anh ta biết sơ lược về những gì tôi sẽ nói. Đầu tiên, anh ta muốn biết chương trình đã hình thành như thế nào, và về những yếu tố giúp chương trình thành công. Sau đó anh ta muốn biết tôi nghĩ gì về những người dẫn chương trình truyền hình khác – ví dụ, Anne Robinson. Tôi nói rằng tôi sẽ không trả lời câu hỏi đó vì tôi không thực sự là một người hâm mộ và không muốn nói điều gì tiêu cực.
“Tôi đồng ý,” anh ta nói. “The Weakest Link quá nhàm chán, đúng không?”
“Ồ… chỉ là những câu hỏi khá là tầm thường. Nhưng nó vẫn rất nổi tiếng, vì thế rõ ràng cô ấy đã làm được điều gì đó.”
“Vậy cô nghĩ gì về Jemery Paxman?”
“À, anh ta có thể tỏ ra hống hách và nóng vội, nhưng cùng một lúc anh ta lại có tính hài hước mà tôi thấy rất hấp dẫn, và tất nhiên anh ta cực kỳ thông minh, vì thế… không, tôi không ngại nói về anh ta.”
“Người tôi không thể chịu đựng,” đột nhiên anh ta bày tỏ, “là Robert Robinson trong Brain of Britain. Anh ta rất kinh khủng, cô có đồng ý thế không?”
“Ừm… tôi phải nói, tôi khá là đồng tình.”
“Vẻ kinh ngạc trần trụi của anh ta khi một người chơi nữ có câu trả lời đúng.”
“Tôi biết,” tôi cười khúc khích.
“Ồ làm tốt lắm, Bà Smith! Đó là câu trả lời đúng! Thật không thể tin được!”
Tôi đảo mắt đồng ý. “Thành thật là tôi không thể nghe chương trình đó, nếu không tôi phải quăng đài qua cửa sổ mất.”
Chúng tôi nói chuyện phiếm theo kiểu nhẹ nhàng như thế này thêm một lúc cho đến khi Darren hỏi tôi đã sẵn sàng bắt đầu chưa. Tôi gật đầu. Anh ta ấn nút đỏ trên máy ghi âm nhỏ xíu và đẩy nó về phía tôi.
“Được rồi,” anh ta nói. “Vậy chúng ta bắt đầu. Bắt đầu từ mười…”
Tôi chưa bao giờ được phỏng vấn trước đây, nhưng nhân viên báo chí của Channel 4 đã khuyên tôi nên trả lời ngắn. ‘Khi cô cảm thấy cô đã nói điều muốn nói, thì sau đó ‘khóa lưỡi lại’, cô ấy nói. ‘Đừng cố gắng và trở nên ‘có ích’ bằng cách lấp vào những khoảng im lặng – những khoảng trống có thể là những cái bẫy.’ Đó là một lời khuyên hợp lý, nhưng cùng lúc tôi lại nhận ra rằng Darren cần một phiên bản sống động và hay để có một bài báo thú vị. Tôi quyết định duy trì một sự cân bằng giữa thái độ cởi mở thân thiện và sự thận trọng bản năng.
Anh ta hỏi tôi về Cambridge, và giai đoạn khởi nghiệp của tôi ở BBC, và về cuộc gặp gỡ với Tom ở đó, trước khi tôi đến làm việc cho anh; sau đó chúng tôi nói về chương trình, và làm thế nào mà tôi trở thành người dẫn. Tôi nhẹ nhõm khi anh ta không hỏi tôi về chủ nhân của những chương trình đố vui trên truyền hình khác. Chúng tôi nói về Luke và tôi có thể chấn chỉnh những tin đồn về hoàn cảnh riêng của anh ấy và về thời điểm diễn ra mối quan hệ của chúng tôi. Sau đó anh ta nhắc đến Nick. Tôi kể về công việc của Nick ở SudanEase, và về cuộc hôn nhân của tôi. Anh ta hỏi tôi tại sao nhìn thấy quá ít đồ đạc của anh ấy.
“Tôi quyết định cất chúng đi,” tôi giải thích lại. “Tôi đã đợi ba năm và cảm thấy cuối cùng đã đến lúc phải tiếp bước. Tôi muốn bắt đầu sống lần nữa.”
“Ai có thể đổ lỗi cho cô cơ chứ?” anh ta nói. “Ba năm là khoảng thời gian dài. Nhưng cô có thể kể với tôi về ngày Nick biến mất được không? Làm thế nào mà tất cả những chuyện này lộ ra?”
Khi Darren ngồi đó, gật đầu đầy vẻ cảm thông, tôi thuật lại chi tiết chuyện xảy ra, quay lại những tháng tôi tìm kiếm Nick, đến hai cuộc điện thoại im lặng mà tôi tin là sự liên lạc cuối cùng với anh ấy. Một hoặc hai lần, tôi phải dừng và trấn tĩnh lại, nhưng tôi tự hào vì tôi đã không bị suy sụp. Tôi không muốn bị mô tả như một nạn nhân.
“Chuyện khó khăn nhất với cô là gì, Laura? Ngoại trừ sự vắng mặt hiện nay của Nick?”
“Những mong đợi sai lầm vào thời điểm ban đầu – và giai đoạn sau đó cũng rất khó khăn. Ví dụ, khi tôi nhận ra rằng Nick biến mất đã được một nghìn ngày – điều đó rất đau đớn; khi đến ngày sinh nhật anh ấy, hoặc của tôi, hoặc những ngày kỷ niệm của chúng tôi. Lễ kỷ niệm mười năm ngày cưới của chúng tôi đang sắp đến vào đầu tháng Năm vì thế tôi phải chuẩn bị tinh thần cho mình. Giáng sinh cũng luôn khó khăn, tất nhiên, vì chuyện đó xảy ra vào Năm Mới.”
“Khi cô nghe từ Đường Dây Quốc Gia Trợ Giúp Người Mất Tích rằng Nick vẫn khỏe mạnh, nhưng anh ấy không muốn liên lạc với cô, cô cảm thấy như thế nào?”
“Ồ… tan nát, tất nhiên. Và đau đớn khủng khiếp.”
“Và ngạc nhiên?”
Tôi nhìn anh ta chằm chằm. “Vâng, tất nhiên. Tất nhiên tôi ngạc nhiên. Rất ngạc nhiên.”
Sau đó Darren hỏi tôi về những chuyện tào lao trên các tờ báo nhỏ, và tôi nói với anh ta việc phải nghe quá nhiều lời dối trá về mình khó khăn như thế nào.
“Những lời dối trá – và bóng gió,” anh ta nói thêm. “Bóng gió rằng cô… tôi không biết… ở khía cạnh nào đó, chịu trách nhiệm cho sự mất tích của chồng mình.”
Tôi không trả lời trong một giây. “Đúng thế.”
“Rằng có lẽ bằng cách nào đó cô đã gây ra chuyện đó.”
“Phải. Đã có vài lời ngụ ý tinh vi theo chiều hướng đó.”
“Nhưng cô có thể đã làm gì?”
“Tôi không biết… tôi cho rằng họ nghĩ rằng tôi có thể…” tôi nhìn ra ngoài cửa sổ. “Đã đối xử tồi tệ với anh ấy… hoặc rằng tôi đã làm anh ấy tổn thương… hoặc tôi đã xô đẩy anh ấy đi… Đó là những gì họ đã ám chỉ.”
“Có chút sự thật nào trong đó không?” Tôi cảm thấy mặt tôi nóng lên. “Tôi xin lỗi phải hỏi cô,” anh ta nhanh chóng nói thêm. “Nhưng tôi chỉ hỏi để cô có thể phủ nhận nó.” Tôi nhìn anh ta.
“Dù sao không hề có tí sự thật nào trong chuyện đó,” tôi nói. “Không hề thật.”
“Cô không hề cảm thấy tội lỗi sao?” anh ta bình thản thêm vào.
“À… tôi có cảm thấy có lỗi – nhưng chỉ là vì bất cứ ai trong hoàn cảnh trớ trêu này đều thế. Điều này là tự nhiên, vì bạn đời của bạn biến mất và bạn không biết ở đâu.”
“Hay tại sao?”
Một khoảng dừng. “Hay tại sao. Vì anh cảm thấy…” tôi thở dài, “rằng anh… có lẽ đã làm họ thất vọng chuyện gì đấy. Vì thế, phải, tất nhiên có cảm giác… có lỗi.”
“Cho dù đó không phải là lỗi của cô?”
Tôi cảm thấy xấu hổ và hối tiếc tràn ngập ngực tôi. “Vâng.”
“Vì thế cô ngồi đó băn khoăn đó có phải là điều gì cô nói, hoặc làm – hoặc không làm được?”
Tôi nhúc nhích trên ghế và thở dài. “Phải. Anh dò đi dò lại những cuộc nói chuyện – rất ám ảnh.”
“Nếu nó là lỗi của cô vậy…”
Mắt tôi lạc đến tấm ván ốp tường. “Nó không phải lỗi của tôi.”
“Nhưng nếu phải, thì cô sẽ cảm thấy như thế nào?”
“Tôi cảm thấy như thế nào?” Tôi nhìn anh ta. “Ồ ai đó sẽ cảm thấy thế nào? Tất nhiên là… kinh khủng. Hoàn toàn suy sụp. Nhưng như tôi nói, đó không phải lỗi của tôi.” Tôi khóa lưỡi lại.
“Cũng hài hước, đúng không,” Darren tiếp tục sau một phút, “cô là người dẫn một chương trình đố vui; và ở đây cô lại có một câu hỏi to đùng không trả lời được trong chính cuộc đời mình.”
“Sự châm biếm đó không bỏ qua tôi,” tôi nói.
“Sự cuồng nhiệt của phương tiện truyền thông có làm cô sửng sốt không?”
“Hoàn toàn. Tôi biết sẽ có vài sự quan tâm đến tôi khi những tờ báo bắt được câu chuyện, nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ rằng sẽ nhiều đến thế.”
“Cô có thể hiểu được sự hiếu kỳ của mọi người về cô không?”
“Tôi cho rằng tôi có thể hiểu. Nếu đó không phải chuyện thực tế xảy ra với tôi, tôi đoán tôi cũng tò mò. Ví dụ như, nếu tôi đọc được rằng, chồng của Carol Vorderman đã mất tích ba năm, mỗi lần tôi thấy cô ấy trên TV hoặc đọc một bài báo về cô ấy, tôi có thể tự hỏi hiện giờ anh ta ở đâu, anh ta sống như thế nào, cô ấy đã làm gì để cố gắng tìm anh ta, và cô ta có gặp lại anh ta lần nào nữa không.”
“Và tại sao anh ta ra đi?” Anh ta nhìn tôi. “Cô có băn khoăn điều đó không?”
“Ồ… tôi không biết…”
“Chắc chắn cô sẽ thắc mắc rằng nguyên nhân gì đã khiến anh ta làm việc đó? Câu chuyện là gì?”
“Có lẽ, mặc dù…”
“Cô thắc mắc rằng chuyện gì có thể đã diễn ra giữa họ?”
“Xem này, chuyện này rõ ràng rất phức tạp. Người biến mất có tất cả các kiểu lý do để làm như thế. Phải vậy không?”
“Nhưng họ chắc phải đang khổ sở và bấn loạn. Nick có khổ sở và bấn loạn không?”
“Tôi… tôi không biết. Tôi đoán là… có… có lẽ thế…”
“Nếu không anh ấy sẽ không làm việc đã làm?”
“Tôi cho là không.”
“Và vì sao cô nghĩ rằng anh ấy khổ sở và bấn loạn?”
Tôi nhìn chằm chằm vào Darren. “Tôi không… biết. Bố anh ấy chết không lâu trước đó. Tôi nghĩ đó là một phần nguyên nhân.”
“Nhưng có chuyện gì khác xảy ra không?” Khóa môi lại.
“Không. Không có gì. Không hề có chuyện gì. Có lẽ bây giờ anh có thể hỏi tôi câu hỏi khác.” Có một thoáng im lặng, sau đó Darren hỏi tôi vài câu hỏi khác về chương trình, vì thế tôi nói với anh ta về seri thứ hai của chương trình bắt đầu trong tháng Chín, và về những chương trình chúng tôi đang phát triển, nhờ vào sự thành công của Whadda Ya Know?!!
“Thế là công ty đang hoạt động rất trơn chu?”
“Vâng. Công thức của chương trình đã được bán cho tám nước – bao gồm cả Mỹ – có nghĩa là chúng tôi có thể mở rộng. Chúng tôi đang thuê nhân viên mới, chúng tôi đã trang hoàng lại tòa nhà. Trident đang hoạt động rất tốt.” Tôi cảm thấy một luồng tự hào trào dâng.
Darren với về phía trước và tắt máy ghi âm.
“Ồ, tôi nghĩ thế là được, Laura. Cám ơn rất nhiều. Tôi chắc chắn là bây giờ tôi đã có đủ thông tin và tôi không muốn làm phiền cô nữa.”
“Được rồi. Anh sẽ đưa cho xem tôi bản thảo chứ?”
“Có chứ. Tôi sẽ fax cho cô hoặc đọc nó qua điện thoại.”
“Anh nghĩ khi nào thì xong?”
Anh ta đang lục lọi trong chiếc cặp tài liệu. “Phải mất vài tuần vì chúng tôi quyết định in nó trong số Chủ nhật Mùng 1 tháng Năm vì ngày đó trùng với ngày mở đầu của Tháng Người Mất tích Quốc gia.”
“Ồ, đó là một ý tưởng tuyệt vời,” tôi nói. “Nó sẽ giúp ích nhiều cho việc gây quỹ. Tôi sẽ thông báo cho tổ chức này biết anh sẽ làm gì.”
Tôi đưa anh ta ra ngoài, đúng lúc tôi đưa tay đến cái chốt cửa, cánh cửa chính mở ra từ phía bên kia, và đó là Cynthia, với hai túi đồ mua sắm.
“Chào Laura,” bà ấy mệt mỏi nói. Trong ánh nắng yếu ớt bà ấy có vẻ kiệt sức và mong manh đến bất ngờ. Sau đó, khi bà ấy nhận thấy Darren, tôi thấy mặt bà ấy đỏ bừng.
“Cynthia, đây là Darren Sillitoe.” Bà ấy rùng mình. Sau đó trao cho anh ta một nụ cười khẽ căng thẳng, với vẻ thù hằn không thể nhầm lẫn. Tôi nhìn thấy một thoáng ngạc nhiên lướt trên mặt anh ta.
“Anh biết bà ấy à?” Tôi thì thầm khi bà ấy đi lên cầu thang.
“Không. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy bà ta.” Thật đáng hiếu kỳ. Mặt khác bà ấy có thể tỏ ra rất kỳ lạ.
“Được rồi, cám ơn vì đã đến, Darren. Tôi hy vọng bài viết này sẽ không quá khó để hoàn thành.”
“Tôi không nghĩ thế.”
Khi anh ta đi xuống cầu thang, tôi nghe thấy Cynthia mở cửa lần nữa.
“Gã đi chưa?” Tôi nghe bà ấy rít lên trong một tiếng thì thầm kịch tính.
“Rồi.” Tôi quay lại. “Sao thế? Có vấn đề gì sao?”
“Tôi sẽ nói với cô vấn đề là gì,” bà ấy nói khi đi xuống cầu thang. “Vấn đề là – gã đó là một kẻ kinh tởm.”
“Tôi xin lỗi?”
“Gã trai trẻ đó là một kẻ kinh tởm,” bà ấy kịch liệt nhắc lại.
“Cynthia, thế là hơi thô lỗ. Tôi thấy anh ta có vẻ ổn cả.”
“Ôi không. Không có kẻ kinh tởm nào ổn cả.” Rõ ràng bà ấy đang ám chỉ cánh nhà báo. Những con thú đen tối của bà ấy. Nhưng… làm thế nào bà ấy biết anh ta là một nhà báo khi tôi chưa hề nói ra? Có lẽ điều này liên quan gì đấy đến việc tâm linh rồi đây.
“Bọn chúng đều là những kẻ gian xảo đáng sợ,” bà ấy nói tiếp. “Darren Sillitoe đúng là thế!”
“Ồ – đó là tên anh ta, Cynth.”
“Không phải. Hắn ta đang nói dối. Tên thật của gã là Darren Kinh tởm.” Tôi nhìn bà ấy với vẻ hoàn toàn không hiểu. Kinh tởm. F, a, r, q, u, h, a, r[2],” bà ấy đánh vần đầy vẻ khinh miệt.
“Ồ.”
[2] Nguyên văn từ Kinh tởm trong tiếng Anh là Fucker. Từ này đồng âm với họ thật của Darren là Farquhar, nên Cynthia dùng thay thế nhau.
“Và thật quá tiếc khi cô không bảo hắn biến đi khi cô có cơ hội. Thế anh ta vừa phỏng vấn cô à?”
“Vâng.”
“Ôi trời ơi.” Bà ấy lắc đầu. “Ôi trời ơi.”
“ ‘Ôi trời ơi.’ nghĩa là sao? Anh ta dường như hoàn toàn ổn – thậm chí còn tử tế.”
“Anh ta trông thế,” bà ấy nói. Nhưng không phải thế, anh ta là…”
“Cynthia,” tôi nói với nỗi sợ hãi tăng lên trong ngực tôi. “Bà làm ơn nói cho tôi bà đang nói về cái gì. Bà đang làm tôi lo lắng.”
“Được rồi. Tôi sẽ kể. Đi với tôi.”
Tôi đi theo bà ấy lên cầu thang đến căn hộ của bà ấy. Đây là lần đầu tiên bà ấy mời tôi vào. Đồ nội thật và cách trang trí có thẩm mỹ nhưng rõ ràng là, giống như Cynthia, chúng đã trải qua thời huy hoàng. Những chiếc sofa bọc vải thêu kim tuyến Trung Quốc đã sờn nhiều, cũng như màu sắc của vải lụa trên chiếc đèn cây. Đệm ghế sofa đã có những miếng vá, và những sợi chỉ trên tấm thảm Ba Tư đã bị tung ra. Trên chiếc tủ búp phê bằng gỗ dái ngựa là khoảng tám khung ảnh mạ bạc, tất cả đều chứa ảnh đen trắng của Cynthia thời trẻ. Khi bà ấy đi pha trà, tôi liếc nhìn chúng. Bây giờ bà ấy cũng rất đẹp, nhưng bà ấy đã là một sắc đẹp thực sự. Một Claudia Cardinale của nước Anh.
“Darren Sillitoe, ồ lạ nhỉ,” bà ấy lẩm bẩm khi bê khay trà ra. “Tên thật của hắn là Darren Farquhar. Sillitoe là tên thời con gái của mẹ gã.”
Tôi cảm thấy bụng tôi lộn nhào. “Làm sao bà biết những chuyện này?”
“Vì…” tay bà ấy run lên khi nhắc cái ấm bạc, “Tôi biết cha hắn. Chúng tôi đã có một… mối thâm giao.” Đột nhiên Hans xuất hiện và bắt đầu lượn ra lượn vào quanh chân Cynthia.
“Ai là cha anh ta?”
“Ngài John Farquhar.”
“Ông là… là một nhân vật quan trọng của tờ Sunday Semaphore, phải không?”
“Phải,” bà ấy gay gắt nói khi Hans cuộn mình trong lòng bà ấy. “Ông ấy là chủ biên.”
“Nhưng vậy thì tại sao Darren không nhận ra bà nếu bà biết rõ về bố anh ta như thế?”
“Vì tôi và Darren chưa bao giờ gặp mặt. Nhưng tôi đã xem rất nhiều ảnh của hắn ta. Quan hệ giữa tôi và bố anh ta là… không chính thức. Tôi là…”
Ồ. “Bạn…?” Tôi gợi ý.
“Nhân tình. Tôi không uốn cong từ ngữ đâu. Tôi là nhân tình của ông ấy, Laura ạ – trong hai mươi lăm năm.”
“Lâu như thế,” tôi thốt ra.
“Tôi không biết điều đấy sao?” Bà ấy chán nản nói. Bà ấy đưa cho tôi một tách trà sứ in hoa sặc sỡ. “Nhưng tôi không thể phàn nàn về nhiều mặt. Tôi có một căn hộ xinh xắn ở Hans Place. Tôi có một khoản trợ cấp hàng tháng hào phóng, và một tài khoản ở Harrods. Tôi thường xuyên đi đến Marrakech và St Bart. Tôi ngồi trong ngăn riêng của Nhà Hát Opera. Tôi ăn tối ở Ritz; tôi mặc quần áo…” Vậy là điều đó giải thích cho những quần áo sang trọng. “Tất nhiên tôi khao khát trở thành vợ John,” bà ấy tiếp tục. “Nhưng tôi nói với mình rằng tôi là vợ thực sự của ông ấy. Một nửa linh hồn của ông ấy.” Giọng bà ấy nghẹn ngào. “Ông ấy nói như thế. Ông ấy nói không thể làm gì mà không có tôi.” Bà ấy vuốt ve con mèo để cố lấy lại bình tĩnh.
“Bà gặp ông ấy như thế nào?”
“Ở buổi ra mắt long trọng đầu tiên của bộ phim Chàng điệp viên yêu tôi vào năm 77. Tôi ba mươi sáu tuổi và John lớn hơn tôi mười tuổi, một người đàn ông đẹp trai, quyền lực. Ông ấy đã làm nghề nhà báo trong hai mươi năm, nhưng nhờ vào trí thông minh khéo kéo nên đã đặt được chân vào ban điều hành của các công ty truyền thông, bao gồm cả công ty đã tài trợ cho bộ phim. Tôi yêu ông ấy điên cuồng mặc dù – và tôi cũng không tự hào về điều này – biết rằng ông ấy đã kết hôn. Nhưng ông ấy nói cuộc hôn nhân đấy không có tình yêu và vợ ông ấy hoàn toàn bỏ mặc ông ấy vì những đứa con của họ. Darren, đứa nhỏ nhất, mới chỉ là một đứa trẻ. Tôi cho rằng chuyện đó không tán dương John nhiều, đúng không?” bà ta nói thêm với một tiếng thở dài cay đắng.
Tôi nghĩ về Tom. “Tôi không nghĩ thế.”
“Thời gian trôi đi, và John vẫn ở lại với vợ mình. Bất cứ khi nào tôi trở nên buồn bã về chuyện đó thì ông ấy khẳng định rằng đó là vì bà ta ốm yếu, và một vụ ly dị sẽ giết chết bà ta. Thỉnh thoảng ông ấy nói đang đợi những đứa con lớn hơn. Đó là một câu chuyện cũ rích, rất cũ.” Bà ấy tìm khăn tay trong cổ tay áo của chiếc áo lụa.
“Tôi hiểu. Thế ông ấy không bao giờ bỏ bà ta à?”
Cynthia quay đi khi bà ấy vật lộn với những cảm xúc của mình.
“Ồ không,” bà ấy chua chát nói. “Ông ấy bỏ bà ta. Điều đó mới thật kinh khủng. Cuối cùng ông ấy cũng bỏ bà ta.” Miệng bà ấy lại run lên. “Nhưng không phải vì tôi.”
“Ôi… tôi xin lỗi.” Hans đang rên lên rừ rừ, không mấy để ý đến sự đau khổ của Cynthia. Quá nhiều cho một sự liên hệ khác loài.
Cynthia lau mắt, sau đó hít một hơi thở dài.
“Khoảng hơn một năm trước, John nói với tôi rằng ông ấy sẽ rời bỏ Mary. Tôi quá hạnh phúc khi nghĩ rằng những năm sống trong bóng tối sắp kết thúc. Ông ấy đến căn hộ và tôi nấu bữa tối cho ông ấy, ông ấy nói với tôi rằng bà ta đã đồng ý ly dị và rằng căn hộ ở Hans Place sẽ phải bị bán đi. Vì thế tôi hỏi ông ấy chúng tôi sẽ sống ở đâu. Nhưng ông ấy không trả lời.” Bà ấy mân mê sợi dây chuyền pha lê. “Sau đó ông ấy giải thích rằng Mary sẽ lấy ngôi nhà ở Mayfair, và ông ấy sẽ chuyển đến Hampstead. Vậy nên tôi nói Hampstead sẽ rất tuyệt vời – tôi không ngại sống ở đâu, miễn là chúng tôi ở cùng nhau. Thế là ông ấy dội quả bom của mình. Ông ấy nói xin lỗi, nhưng ông ấy đã yêu một người khác – một người đàn bà tôi chưa từng nghe đến.”
“Cô ta là ai?”
“Tay nhà báo người Mỹ nào đó tên là Deborad, ít hơn ông ấy ba mươi tuổi, một người có khuôn mặt cứng rắn, đôi chân như tăm, bàn chân to và…” bà ấy đưa bàn tay trái lên bộ ngực nở nang của mình – “không có ngực.”
Bây giờ tôi mang máng nhớ ra đã nhìn thấy Ngài John Farquhar trên một trong những chuyên mục lá cải với một phụ nữ tóc đen, gày gò, mặt tròn và sáng.
“Tôi đã nhìn thấy ảnh của cô ta,” bà ấy tiếp tục trong nước mắt. “Thậm chí cô ta còn không đẹp. Không giống như tôi…” Tôi liếc nhìn ảnh của bà ấy lần nữa.
“Bà xinh đẹp, Cynthia. Bà vẫn đẹp. Tuổi tác không hề khiến bà tàn tạ,” Tôi an ủi nói thêm.
“Tôi từng đóng vai Cleopatra,” bà ấy nói với vẻ nuối tiếc. “Tôi quá trẻ. Nhưng Chúa tôi, tôi có thể đóng vai đó bây giờ. Nhưng… John chấm dứt mối quan hệ của chúng tôi.” Nước mắt bà ấy lại tuôn ra. “Ông ấy nói với tôi rằng tôi có ba tháng để tìm nơi nào đó sống trước khi hợp đồng cho thuê Hans Place hết hạn.”
“Ông ấy có giúp bà về mặt tiền nong không?”
“Ông ấy nói không thể vì vụ ly dị sẽ hủy hoại ông ấy. Tất nhiên đó là một lời nói dối. Và tôi đã ở với ông ấy quá lâu – hai mươi lăm năm. Tôi đã từ bỏ sự nghiệp vì ông ấy quá ghen tuông khi thấy tôi với người đàn ông khác.” Vậy đó là lý do tại sao bà ấy không muốn nói đến những vai diễn trong phim gần đây. Vì không có vai nào. “Tôi cũng đã từ bỏ…” mắt bà ấy lại đầy lên… “một cuộc sống gia đình đáng trọng; cơ hội có những đứa con.”
“Bà có muốn có con không?”
“Có. Rất nhiều. Những kể cả thời nay những bà mẹ không kết hôn vẫn chịu nhiều cái nhìn nhăn nhó, cùng với việc tôi muốn duy trì cuộc sống tôi có. Vì thế chuyện này là lỗi của riêng tôi.” Bà ấy nhún vai. “Tôi biết thế. Vì đã cho phép mình bị… giam cầm, và vì đã tin rằng sau cùng tôi sẽ được đền đáp vì lòng dâng hiến kiên nhẫn của mình. Thay vào đó tôi bị quăng ra ngoài như một con chó già.”
“Thật khủng khiếp cho bà.”
“Đúng thế – trong mọi khía cạnh. Nó vẫn thế. Tôi không có lương hưu, ngu ngốc nghĩ rằng tôi sẽ sống với John cho đến hết đời. Chúng tôi sống với nhau quá lâu đến mức tôi không thể hình dung rằng cuộc sống đó sẽ kết thúc. Vậy là tôi, ở tuổi sáu mươi ba, đối mặt với viễn cảnh không còn có John, và không thể tự nuôi sống mình – trong khi ông ấy bắt đầu một cuộc đời hoàn toàn mới với một người đàn bà trẻ hơn. Không phải tôi tin rằng nó sẽ tồn tại mãi,” bà ấy cay đắng thêm vào.
“Nhưng ông ta không hề giúp bà sao? Ít nhất là cố gắng xoa dịu cú sốc?”
“Ông ấy đưa cho tôi một tờ séc hai mươi lăm nghìn bảng. Tôi muốn xé nó ra – nó là sự sỉ nhục – nhưng tôi biết tôi cần nó. Ông ấy cũng nói tôi có thể giữ lại đồ đạc trong căn hộ. Đồ đạc vẫn còn tốt mặc dù đã dùng nhiều năm; như cô có thể thấy. Nhưng tôi cũng có khá nhiều đồ trang sức ông ấy tặng tôi trong những năm đó, vì thế tôi bán chúng, và bắt đầu đặt cọc cho nơi này. Nhưng tôi vẫn phải trả tiền trả góp, đó là nguyên nhân tôi trở thành một bà đồng. Tôi nhận ra đây là cách duy nhất tôi có thể kiếm được chút tiền.”
Vậy đó là ‘bước ngoặt quan trọng’ trong cuộc đời mà bà ấy đã nhắc đến khi chúng tôi gặp lần đầu.
“Có bao giờ bà nghĩ đến chuyện kiện tụng? Để cố gắng lấy tiền của ông ta, hay vài… tôi không biết… thỏa thuận?”
“Ồ không.” Bà ấy có vẻ thất kinh. “Làm thế thì thật không có phẩm giá. Quá… vụ lợi. Tôi kiên quyết không làm thế, cho dù khó khăn như thế nào, ít nhất tôi giữ được lòng tự trọng. Nhưng việc này đã rất, rất khó, Laura ạ, phải chịu đựng sự mất mát mối quan hệ đó và sự ‘an toàn’ như tôi đã ngu ngốc cho là thế.”
“Nhưng, nhìn vào mặt tích cực, bà phải vui vì bà đã gặp tai nạn ở vách đá ngày đó?” Có một sự im lặng. “Nếu không bà có lẽ không trở thành một bà đồng.”
“Đó không phải là một tai nạn,” bà ấy lặng lẽ nói. “Cú ngã từ độ cao gần mười mét, tôi hy vọng rằng mình sẽ chết. Nhưng sau đó, khi tôi tỉnh lại, và thấy mình thật sự sắp chết, tôi nhận ra mình muốnsống như thế nào. Và không một người đàn ông nào xứng đáng để tôi đánh mất cuộc đời mình.”
“Không, tất nhiên là không.”
“Rằng mọi ngày chúng ta sống trên thế giới này là quý giá – cho dù khó khăn đến đâu. Rằng cuộc sống là tất cả những gì chúng ta có. Nó không phải là thứ gì đấy có thể bị vứt đi trong một giây phút tuyệt vọng, hay yếu đuối, hay sợ hãi tương lai.”
“Đúng thế.”
“Nhưng từ đó tôi đã phải đấu tranh để điều chỉnh cho phù hợp với cuộc sống hoàn toàn khác biệt với cuộc sống tôi đã quen thuộc, trong khi hắn ta… hắn…” Đôi mắt bà ấy mờ đi lần nữa. “Sự bất công của nó…” Bàn tay bà ấy ôm lấy mặt. Bây giờ tôi đã hiểu sự ghê tởm của bà ấy đối với những tay nhà báo ‘xuyên tạc, lừa đảo, và đạo đức suy đồi’. “Nhưng Darren này,” bà ấy tiếp tục khi lau mắt. “là người khó chịu nhất.”
Tôi cảm thấy bụng mình quặn lại. “Anh ta có vẻ được mà.”
“Không hề. Gã không làm gì theo cách đáng trọng. Gã đi học ở Eton dựa vào mối quan hệ của gia đình, sau đó dắt dây kéo đến Oxford. Nhưng gã bị đuổi vì thi trượt môn luật trong năm thứ nhất. Gã muốn đổi sang chuyên ngành lịch sử nghệ thật nhưng trường đại học từ chối bởi vì đơn giản là họ không thích hắn ta. Vì thế gã chuyển sang nghề ngân hàng và thất bại ở đó; tiếp đó gã cố gắng trong lĩnh vực đầu tư vốn và thất bại thảm hại. Tôi nhớ cha gã đã tuyệt vọng như thế nào. Sau đó, mười tám tháng sau, không lâu trước khi John bỏ tôi, Darren quyết định trở thành một nhà báo. Nhưng bố gã đã buộc gã phải bắt đầu từ điểm thấp nhất, đầu tiên là kinh doanh trang quảng cáo, sau đó là biên tập viên phụ cho mục thể thao, vì thế hắn đang nôn nóng tạo tên tuổi cho mình. Gã sẽ không tử tế trong cuộc phỏng vấn với cô đâu, Laura. Hãy để tôi cảnh báo cô. Hắn ta sẽ không tử tế vì hắn ta hoàn toàn và thực sự là… hoàn toàn và thực sự…”
“Một kẻ kinh tởm?” Tôi kinh hoàng nói.
“Đúng thế.”