Hôm ấy là một ngày mùa xuân tuyệt đẹp, vô cùng thích hợp cho sự thả bộ lang thang của Bridget. Nàng cần tẩy sạch đầu óc mình trước khi phóng viên của tạp chí Sống Đẹp đến đây và làm rối tung cửa hàng của nàng.
Vừa quẹo qua góc đường, nàng đã thấy họ sẵn sàng ở đấy. Có một xe tải ngoại cỡ đậu ở khúc cua, máy còn đang chạy không biết vì lý do gì, và có những người nàng không quen biết đi lui đi tới với những đèn chớp, tấm phản chiếu, và một lô thiết bị lạ mắt khác. Từ ngoài đường, nàng nhìn qua ô cửa kính trước khi vào nhà. Khoảng không gian trống trải đã giăng đầy những đèn chiếu đặt trên giá, và những người phụ tá khi bật khi tắt. Những tấm phản chiếu điều chỉnh được đặt rải rác đó đây. Bà Dutton đang được rọi sáng chói chang giữa tất cả những thứ này.
Bà Dotty Pomfret từ trong bước ra, gật đầu cảnh báo với Bridget. “Bọn xâm lăng đang kéo đến”.
“Trời ơi, thế à”.
“Họ đang xốc xáo mấy món đồ len của tôi. Rối tung hết cả”.
Bridget vỗ nhẹ trên cánh tay bà. “Rồi họ sẽ xếp dọn lại như cũ ấy mà”.
Bà cụ già thở dài lẩm bẩm: “Họ làm tôi phát điên. Họ còn tính kéo đến chụp hình trang trại của tôi ngày mai, như vậy có nghĩa là đàn cừu sẽ phải cuống lên. Mình đâu có thấy trước mấy chuyện này”.
“Nhất định là mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp mà. Bà đừng lo”.
Bà Dotty hừm một tiếng. “Cô ơi, cô chưa bao giờ thử trấn an một đàn cừu đấy. Một khi chúng đã phát hoảng thì rồi chúng cứ hoảng mãi”.
Bridget nhìn qua ô kính. Nàng nhận ra trong đám người này có vài người là những cộng tác viên chuyên viết bài trên tạp chí Sống Đẹp – như chàng thanh niên tóc đuôi ngựa kia đúng là Gil Blanding, giám đốc nghệ thuật. Dáng người cao to, mặc áo thun đen và quần jean, Gil đã chuyển dời các món hàng trên kệ, sửa cho tròn trịa các cuộn chỉ len và tạo nên một sự hỗn độn đầy nghệ thuật đối với mấy xấp vải đã được xếp gấp và phối hợp màu sắc công phu. Anh ta lùi lại để ngắm công trình của mình, nhíu mày rồi cầm một cuộn chỉ lên ngắm nghía thật kỹ.
Bridget chào bà Dotty rồi bước vào trong nhà, vỗ vai Gil.
Mắt anh ta rời cuộn chỉ để nhìn vào nàng. “À, xin chào. Chị là Bridget, phải không. Bà Dutton đã giới thiệu với tôi tất cả những tấm hình trên bảng quảng cáo. Cửa hàng thật dễ thương”. Anh ta kéo ra một đoạn ngăn ngắn trên cuộn chỉ rồi để nó lòng thòng như thế và đặt trở vào trên kệ. “Đấy. Đẹp tuyệt đấy, chị có đồng ý không?”.
“Tất nhiên rồi. Anh nói đẹp là đẹp mà”. Nàng không muốn tranh luận. Trong sự quảng cáo không tốn tiền này, họ có muốn quậy thế nào với mấy các kệ hàng của nàng cũng được cả.
Gil vỗ vỗ hai tay, nói với toán người của mình. “Được rồi, mọi người hãy nhanh nhanh lên. Không thể mất cả ngày được. Người mẫu đâu rồi? Ra đây, ra đây”.
Đi vào trong quầy nơi mà nàng và các nhân viên bán hàng thường ăn trưa, Bridget đảo mắt tìm bà Dutton và đặt cái túi bánh cam hương quế mà nàng đã mua trên đường đến đây xuống. Đám nhân viên và phụ tá chắc sẽ ngấu nghiến mấy cái bánh này, còn người mẫu thì hẳn là không. Thôi được. Có lẽ ai đó đã cung cấp đủ cà rốt và rau cần cho dịp cuối tuần rồi.
Nàng lấy ra nhiều mặt hàng đan tay của các nghệ nhân địa phương để Gil đánh giá, với hi vọng anh ta sẽ chọn một, hai món để đăng hình trong bài viết trên báo của anh – và kìa, anh ta đã chọn. Một người mẫu tóc vàng gầy guộc, chân dài, trong chiếc áo chẽn lạ mắt bằng loại len tốt nhất của bà Dotty từ phòng sau bước ra, đi theo đằng sau là một nghệ nhân hóa trang phẩy phẩy một chiếc chổi lông tơ chấm phấn thoa mặt.
“Mara, chưa xong mà. Đứng yên nào”.
Mara quắc mắt nhìn nhân viên hóa trang bằng cái nhìn bực bội. “Vâng, vâng. Nhưng tôi ngứa quá. Khi nào mới bỏ được chiếc áo này ra?”. Cô ta xắn tay áo lên và làm điệu, một chân gầy guộc chìa ra phía trước, hai tay chống nạnh.
“Tuyệt lắm, Mara”, đạo diễn suýt xoa. “Em đẹp bẩm sinh cơ mà”.
Mara mỉm cười tự mãn. Bridget muốn ném cho cô ta một cái bánh cam.
“Nhưng cô không thể cởi chiếc áo len ra được”, Gil nói. Ông chụp hình không thích màu nhạt”.
Một người đàn ông lớn tuổi với mái tóc muối tiêu, điều chỉnh bối cảnh trên chiếc máy chụp hình kỹ thuật số hiện đại, rồi nhìn lên nhưng không nhằm vào Mara. Thay vào đó, ông ta nhìn vào Bridget và nháy mắt chào nàng. Nàng mỉm cười chào lại, ngạc nhiên vì vẻ thân thiện trên gương mặt ông. Ông ta có vẻ không hoàn toàn giống dân New York như Gil, chiếc sơ mi vải mềm sờn rách và đôi giày cũ của ông cho thấy ông không bận tâm nhiều lắm đến chuyện thời trang.
“Ông gọi tôi là ông chụp hình hả?”, ông ta hỏi Gil với giọng nói khe khẽ, cười cợt.
“Thế ông muốn tôi gọi ông là gì?”, Gil hỏi.
“Gọi là Harry”.
“Xin lỗi, ông Harry”. Gil gật đầu lơ đãng, bước tới đứng sau Mara và bóp chặt cái eo áo chẽn của nàng. “Kim kẹp áo đâu!”, anh ta gọi. Một phụ tá và một nhà tạo mẫu ào tới với một túi phụ tùng, và họ kẹp chiếc áo len dọc theo cột sống người mẫu cho sát với thân hình mảnh mai của cô ta. Gil đi qua đi lại phía trước để ngắm và hài lòng ra mặt. “Thế đấy. Đẹp hơn rồi đấy, phải không Mara?”. Anh ta nắm vai cô người mẫu, đặt nàng đứng trước một tấm gương dài.
Mara bĩu môi. “Vẫn còn ngứa”.
Bridget không bận tâm. Chiếc áo len trông thật đẹp. Những người này không biết là họ đang làm gì, còn Gil là một chàng hề. Đạo diễn vỗ vỗ lên chóp mũi của người mẫu. “Bóng quá, bóng quá”. Rồi anh ta gọi kỹ thuật viên hóa trang “Felicia, làm ơn hoàn chỉnh gương mặt cô ta để bắt đầu nào”.
Felicia chạy vội sang và bôi phấn tới tấp khiến cho cô người mẫu hắt hơi. Bridget đứng kế bên bà Dutton trong lúc đám nhân viên đưa máy móc vào vị trí, sẵn sàng cho đợt chụp ảnh đầu tiên. Một nhân viên đứng nơi cửa để yêu cầu khách hàng lát nữa hãy quay lại, nhưng chẳng có ai ghé vào.
Tin tức về chuyện chụp hình có thể sẽ lan ra khắp phố chỉ trong vài phút nếu như có ai được biết. Công việc này khá lý thú, cho dù cô người mẫu là người phải thấy khó chịu nhất trên đời. Nhưng Mara chờ đợi khá kiên nhẫn trong lúc mái tóc cô được chăm chút kỹ một lần chót. Một thành viên trong đoàn bật chiếc quạt và ngước nó lên để làm mát người mẫu dưới ánh đèn và thổi bay mái tóc cô đôi chút. Mara có vẻ chuyên nghiệp nhưng buồn nản, cô chụp vài tấm ảnh trước các kệ hàng trong khi Harry quì đằng trước mình, chụp hết tấm ảnh này đến tấm ảnh khác.
Gil ra lệnh cho Mara làm theo. Bridget lấy một cái bánh cam vòng trong túi giấy ra và ăn nhồm nhoàm trong lúc đứng xem. Nàng chắc chắn là ánh mắt người mẫu đã sáng lên khi nhìn cảnh ấy.
“Tuyệt”, Gil hài lòng nói. “Chúng ta cần ánh mắt ấy. Tiếp tục đi”.
Bridget thấy mừng là nhiều bộ đồ thêu đan nữa đang được đem ra chụp hình. Nàng nghĩ là rất hay nếu như người thợ làm ra các sản phẩm ấy cũng được giới thiệu trong bài báo. Nàng lấy một mẩu giấy, cây bút chì và viết tên người thợ trong khi các mặt hàng khác nhau được Mara trình diễn, với sự trợ giúp của nhà tạo mẫu.
“Được rồi, chúng ta nghỉ để ăn trưa nhé”, sau cùng Gil nói. Anh ta biến mất phía sau quầy hàng trong khi các nhân viên bận rộn với các thiết bị. Mara cởi đến chiếc áo đan cuối cùng, để lộ ra chiếc áo cánh nhỏ xíu bên trong. Cô ta đưa chiếc áo đan cho nhà tạo mẫu và cào gãi hai cánh tay một cách thỏa thích.
Bridget thấy ái ngại. Mara có lẽ bị dị ứng với len. Và cô ta đã phải nhịn ăn. Lớp vải mỏng của chiếc áo cánh để lộ rõ những chiếc xương sườn.
“Đừng gãi cánh tay”, nhà tạo mốt nói khẽ. “Nếu phải mặc áo không tay thì làm sao?”.
“Chắc không đâu”, Mara đáp. “Đây là đề tài Giáng sinh mà, bà có nhớ không?”.
Đội chiếc nón Santa trên đầu, Gil từ đâu đó bước vào. Món phụ trang này không phù hợp với chỏm tóc đuôi ngựa thời trang của anh ta. “Ha ha ha. Mọi người ơi, thời tiết mùa đông thật tuyệt diệu. Albert ơi, hãy đập mấy cục đường phèn để giả làm tuyết nhé”.
Cậu nhân viên phụ tá, có vẻ là Albert, đi theo Gil ra trước cửa hàng, dốc ngược hai thùng hàng lớn bằng cỡ cái thúng, bên trong đựng những món đồ trang trí Giáng sinh, trong số đó có một cuộn tầm gửi nhân tạo quấn ruy băng. Bridget và bà Dutton nhìn nhau mỉm cười. Nhìn thấy mấy món này vào tháng năm thực buồn cười.
“Treo cái này lên được không ạ?”, cậu ta lễ phép hỏi.
“Được chứ”, Bridget nói. “Tôi sẵn sàng hợp tác mà”.
“Thật đáng mừng cho tôi”. Albert nói rồi đi ra phía sau mang tới một cái thang, đặt đằng trước quầy hàng.
Gil nghiên cứu cách trưng bày trong ô kính, không để ý đến vài người đi đường đang tò mò nhìn anh ta và những thiết bị bên trong gian hàng. Đây là chuyện lớn đối với thành phố bé nhỏ này, Bridget nghĩ và cười thầm. Nàng vẫy tay chào một phụ nữ quen, bà này đưa bàn tay che mắt và bước vào một lát, rồi đi ra.
“Có lẽ bây giờ cô nên khóa cửa lại”, Gil nói. “Ra vào tự do lộn xộn quá. Mình đều không muốn có ai đi lại trong này phải không?”.
“Có lẽ không”. Bridget khóa ô cửa kính lại và treo bảng “Đóng cửa”.
Albert ngước đầu nhìn lên. Thấy mấy thanh gỗ viền quanh ô kính, cậu ta nói “Dễ mà. Tôi sẽ dùng loại đinh nhỏ, sau khi tháo tất cả xuống thì sẽ không để lại dấu vết gì đâu”.
“Cám ơn”, Bridget nói.
Cậu ta leo lên cây thang, một thân hình rắn chắc bên trong một chiếc áo ca rô và một chiếc quần thô, mang theo một hộp đồ nghề gồm đinh và búa. Cậu ta ra hiệu nhờ Bridget đưa cho cậu ta một trong hai thùng đồ trang trí Giáng sinh để đặt nó trên giá treo của cái thang. Cái thùng lớn có đáy hẹp nhưng không để lọt vào giá thang. Tuy nhiên, theo Bridget được biết thì trong đó chẳng có gì nặng cả. Albert nhìn vào trong thùng rồi nhìn xuống sếp của mình.
“Ông muốn hình gì?”.
“Vẻ đẹp đồng quê. Làm cho giống thật”.
Albert lôi ra một vòng hoa man việt quất dài bằng ni lông, bắp rang bằng bột giấy, và những miếng bánh quy gừng bằng các tông.
“Tôi thấy giống thật lắm rồi”, Gil vui vẻ nói. “Hai người cứ làm đi. Tôi tin tưởng các bạn và tôi đói bụng rồi. Bridget ơi, có chỗ nào ở Randolph bán bánh su-si không?”.
“Không”, Bridget cười trả lời. “Nhưng anh có thể dùng hăm-bơ-gơ rất ngon”.
Đạo diễn lộ vẻ hơi thất vọng. “Tôi không ăn được thịt bò. Albert, cậu muốn ăn sandwich không?”.
“Lúc này thì tôi không ăn”.
Gil đi ra ngả sau, Mara nhanh chân chạy theo, rồi đến Harry và những người khác. Bà Dutton nhận lời cùng đi với nhà tạo mốt và cô thợ hóa trang và không ngớt ca ngợi món bánh pa-tê táo của tiệm To Go, quán ăn cách đấy ba dãy nhà.
Còn một mình Bridget ở lại với Albert, nàng vui mừng được dịp trang hoàng theo ý thích. Người mẫu và những thứ linh tinh khác không phải là lĩnh vực sở trường của nàng, nhưng nàng có một ý kiến rất dứt khoát về cách nàng muốn gian hàng của mình phải như thế nào, căn cứ vào bài viết sắp đăng trên báo.
Albert đóng nhiều cây đinh, sau đó Bridget đưa cái vòng hoa lên, bây giờ trông nó mới có vẻ như thật khi ở trên cao, thòng xuống theo hình bán nguyệt và lay động nhẹ nhàng trong làn gió hiu hiu do chiếc quạt máy tạo ra.
Thùng đồ đã trống trơn và Albert để cho nàng nhặt lấy những gì nàng thích. Cho lần trang trí sau cùng, Bridget chọn ra một đôi thiên thần bằng trái thông sơn trắng, đặt ở hai bên của một cái giá nhỏ treo mấy chiếc áo len trẻ con sọc trắng đỏ. Rất có không khí Giáng sinh.
“Đẹp đấy”, Albert tán thưởng. “Còn bây giờ đến cây tầm gửi”. Anh ta cúi xuống cái thùng nhưng rồi đứng thẳng người lên thật nhanh, thả rơi trở xuống cuộn dây tầm gửi xám xanh quấn ruy-băng. “Oi chao!”. Anh ta đặt một bàn tay lên lưng xoa xoa. “Tôi phải leo xuống. Đau lưng quá”.
“Để tôi treo cho”, Bridget đề nghị. “Anh phải nghỉ một lát. Nếu không thích sandwich thì anh có thể dùng một tí gì đó, chỉ để ngồi nghỉ thôi. Mà này, quán To Go thường có bán pa-tê táo vào lúc hai giờ đấy”.
Albert leo xuống một cách nặng nhọc. “Tôi có được nửa giờ nghỉ ngơi. Cô có muốn ăn gì không?”.
Chỉ một việc đối diện với cô người mẫu siêu mỏng cũng đủ khiến Bridget hết muốn ăn rồi. Và nàng cùng còn hai cái bánh cam. “Không. Lát nữa sẽ gặp anh”.
Albert trao cái búa cho nàng rồi khập khiễng đi. Nàng nghe tiếng cánh cửa sau đóng lại rồi cọt kẹt mở ra – lẽ thường nàng phải gài chốt cửa – trong lúc nàng kéo lê cái thang đi dưới chùm đèn Victoria, cẩn thận để không làm nghiêng hộp đồ trang trí treo trên giá thang. Hình chạm đầu mái nhà sẽ là một chỗ tốt để treo quả cầu buộc ruy-băng.
Nàng leo lên các bậc thang và quấn sợi dây kẽm nhỏ của quả cầu vào hình chạm, sau đó leo xuống và kéo cái thang qua một bên.
Bridget khoanh tay trước ngực, nghĩ rằng cây tầm gửi vào giữa tháng năm trông vừa ngô nghê vừa huyền kỳ. Giống như vòng hoa man việt quất và bắp rang, cuộn dây này chuyển động nhè nhẹ trong làn gió của cái quạt. Tiếng vù vù yếu ớt của cái quạt vang lên trong căn phòng yên tĩnh nên lúc đầu nàng không nghe được tiếng bước chân. Nhìn lên quả cầu tầm gửi, nàng cho rằng có lẽ Albert đang trở lại để lấy cái ví hoặc gì đó, hoặc một người nào trong đám nhân viên, cho nên nàng gần như giật nẩy người khi nhìn thấy Jonas bước vào phía trước cửa hàng.
“Anh làm gì ở đây thế?”, nàng nhận thấy câu hỏi của mình không thân thiện cho lắm nhưng vì chàng đã khiến cho nàng kinh ngạc.
“Anh nhìn vào trong quầy và thấy em đang làm việc hùng hục”. Chàng mỉm cười. “Cửa đã khóa và anh không muốn gõ cửa. Nhất là khi em đang ở trên cây thang”.
Nàng gật đầu, cảm thấy hơi ngớ ngẩn. “Đúng thế”.
Jonas thọc hai tay vào trong túi quần và nhìn xung quanh. “Đang làm gì vậy?”.
“Cửa hàng của em được giới thiệu trong số Giáng sinh của tạp chí Sống Đẹp. Trang trại của bà Dotty cũng thế. Ngày mai họ sẽ đến chụp hình trang trại của bà ấy”.
“Xem nào. Trông đẹp đấy”.
“Cám ơn anh”.
Nàng không rời mắt khỏi gương mặt chàng vì không muốn nhìn lên cây tầm gửi và hi vọng là chàng không để ý đến nó. Nhất định nàng sẽ không để cho chàng hôn mình dưới nhành cây này. Cho dù có hôn thì cái hôn ấy cũng không ý nghĩa gì. Cuộn cây kia chỉ là cây giả.
Jonas liếc nhìn lên cuộn tầm gửi mà chẳng nói gì, rồi chàng nhìn các phần trang trí khác với ánh mắt thích thú. “Trang hoàng nhà cửa chắc là vui lắm. Thế mọi người đi đâu hết rồi?”.
“Đi ăn trưa. Họ trở lại ngay bây giờ”.
“Ồ”.
Nàng có cảm giác như chàng ta muốn bước tới – phía nàng – nhưng chàng vẫn đứng nguyên ở đấy. Sự đứng gần của chàng khiến cho nàng thấy nghẹt thở và tim đập nhanh hơn. Phải rồi, cửa hàng của nàng đón nhận tất cả mọi người, và không có lý do gì mà chàng không thể, thế nhưng nàng vẫn muốn chàng đừng vào. Cái cảm giác có thể bị chàng nhấc bổng lên khỏi mặt đất khiến cho nàng thấy lúng túng. Bridget ngó quanh tìm một thứ gì có thể làm cho chàng xao lãng và nàng thấy cái túi giấy đựng bánh. Nàng có thể lợi dụng điều này để tạo cho mình một chút an toàn. Mẹ nàng vẫn nói rằng đàn ông chỉ là những sinh vật đơn giản, và thông thường có thể đánh lừa họ bằng thức ăn hay tình dục.
“Em đã ăn chưa?”, chàng hỏi đột ngột.
“Em ăn rồi”. Nàng sẽ không đi ăn với chàng được. Phải có người trông coi cửa hàng.
“Tiếc quá nhỉ. Anh chưa ăn”.
Chàng có thể ăn bất cứ thứ gì còn lại trong cái túi và giảm bớt calori cho nàng. “Có bánh cam vòng đấy”. Nàng chỉ vào cái túi. “Em đem đủ bánh cho mọi người”.
Jonas gật đầu. “Được. Anh sẽ ăn một cái bánh cam. Có cà phê không?”.
“Có đấy”. Sốt sắng muốn làm một điều gì đó – bất cứ điều gì – để giữ hai người khỏi ở trong cảnh lúng túng, Bridget đi đến quầy, bấm nút máy pha cà phê, và nàng quì gối nhìn vào trong cái tủ lạnh nhỏ nơi cất trữ những bữa ăn qua loa để tìm một món đi kèm với ly cà phê sữa mới pha.
Mùi thơm của cà phê đang pha làm tan biến đi cơn mơ mộng lông bông của nàng, và nàng thầm cảm ơn về điều này. Bridget đứng dậy, tay cầm bình cà phê đặt lên trên quầy, bên cạnh hộp đường gói. Nàng lấy ra hai gói nhỏ. “Cà phê sữa. Hai gói đường”.
Chàng gật đầu, một nụ cười hiện ra nơi góc môi. “Đúng là cách pha mà anh thích. Em vẫn còn nhớ”.
Không hiểu sao Bridget nghe thấy câu nói mới rồi khiến nàng lúng túng. “Phải. Nhưng nó chẳng có ý nghĩa gì đâu”.
“Anh có nói nó có ý nghĩa gì đâu. Anh chỉ nói em còn nhớ thôi”.
Không quên giữ ý cho dù Jonas có nói gì đi nữa, nàng lấy một cái ly và đặt trước chàng. “Đừng suy nghĩ gì nhiều, Jonas”.
Nụ cười của chàng ta nở rộng hơn. “Đừng lo”.
Chàng tự rót cho mình một ly và lần đầu tiên, nàng để ý thấy chàng đang mặc gì. Chiếc áo thun có tay màu trắng với một logo trường y bạc màu trên ngực phải. Ồ, bộ ngực. Nàng đã quên mất rằng chàng trông vẫn đẹp như thế nào khi mặc một thứ thông thường như chiếc áo thun. Chàng mặc quần jean bạc màu với những vạt cũ mòn màu trắng làm lộ rõ hệ cơ bắp. Nàng nhìn chàng từ đầu đến chân. Chàng có vẻ sẵn sàng cho mùa hè, và trẻ hơn dáng vẻ thường ngày với mái tóc nâu hơi bù xù.
Thái độ chàng thật ung dung khi lấy một cái ly, tự tay rót cà phê vào, cho thêm một vốc lớn sữa và kem, rồi với lấy hai gói đường trên mép quầy. Chàng xé mấy gói đường trút vào trong ly.
“Anh là bác sĩ. Anh không biết là đường và kem có hại thế nào với anh hay sao?”.
Jonas nhún vai, nhe răng cười. “Hì, anh thích đi ra ngoài khuôn khổ”.
Chàng nhấp ly cà phê, nhìn nàng qua phía trên vành ly cho đến khi nàng mỉm cười trở lại. Gần như bất giác, nàng cảm thấy thư giãn.
“Anh uống thêm chứ?”.
“Có lẽ anh uống thêm”. Nàng đi về phía quầy, chàng bước tránh sang một bên. Bridget vẫn giữ một giọng nói hoạt bát và từng trải trong khi mắt nhìn chăm chăm vào ly cà phê. “Em sẽ phải làm việc suốt cả ngày nay và em muốn mọi việc như ý của mình cho đến khi họ chụp hình xong”.
“Anh hiểu. Có vẻ như họ giành quyền kiểm soát đấy”.
Bridget gật đầu. “Cái tốt là họ đã giới thiệu những mặt hàng mà em muốn. Em còn đang hi vọng đưa tên của những người thợ đan vào trong bài báo. Mỗi một chút đều có lợi. Nền kinh tế của Randolph chưa phát triển lắm”.
“Chưa à? Em có vẻ như đang thành công đấy chứ”.
Bridget cho đường vào ly cà phê của mình và khuấy leng keng với chiếc muỗng. “Như thế là nhờ phần lớn công việc kinh doanh của em trên mạng”.
“Giỏi đấy”.
Nàng cảm thấy một thoáng ý nghĩa tự vệ, dù nàng biết chắc là chàng không có ý làm vẻ kẻ cả. Tất nhiên là nàng đã không học lên tới đại học, thậm chí cũng không mong gì nghĩ tới chuyện ấy với một đứa con phải nuôi -nhưng đây không hề là điều mà nàng muốn nói với chàng.
“Một khi đã mở trang web thì các đơn đặt hàng bắt đầu được gởi đến từ phía những người thêu đan và may mền từ khắp mọi nơi trong nước. Em có đăng quảng cáo nho nhỏ trên các tạp chí may mặc và thủ công, nhưng những lời truyền miệng đã thực sự đem đến cho em những khách hàng mới”.
Jonas gật đầu, đưa một tay chỉ mảng trưng bày những hình quảng cáo chăn mền cách đấy không xa. “Đây là những bộ mền may theo ý của khách hàng, phải không?”.
Có lẽ chàng đã xem các mẫu này trong lúc bước vào gian hàng. Bridget thấy nhẹ nhõm là chàng chỉ nhằm vào những câu hỏi an toàn. “Đúng thế. Các sách quảng cáo có những cuộc thi về sở thích, sự ưa chuộng màu sắc, thú nuôi, những thứ như thế – và sách quảng cáo trên mạng cũng giống vậy. Họ đăng ký, rồi sau đó em gởi e-mail cho từng khách hàng quan tâm một mẫu thu nhỏ của chiếc mền mà họ có thể làm, qua việc áp dụng những sở thích và mẫu thiết kế mà em tạo ra”.
“À, ý kiến thông minh đấy. Khái niệm ấy do em tự nghĩ ra, phải không?”.
“Phải”. Bridget cầm ly cà phê lên và chỉ vào chiếc máy vi tính. “Em sẽ cho anh thấy là em làm như thế nào”. Nàng bước tới ngồi xuống, chờ một phút cho màn hình hiện lên trong khi Jonas nhìn qua vai nàng.
Bridget mở một tập tin và nạp đầy khoảng trống của nó với một bàn tay gõ phím. “Ví dụ như một khách hàng thích làm vườn. Bà ta thích quần áo màu nhạt nhẹ. Và yêu mèo”. Bridget cho chuột di chuyển lui tới giữa chương trình các hình vẽ của mình và bảng yêu cầu mà nàng đang mở, chọn lấy những đóa hoa và con mèo cách điệu trong các màu hồng, lam và vàng.
“Tất cả những gì mình cần làm là ghép chung những yếu tố này lại với nhau, sử dụng những loạt mẫu mà mình tạo ra cho từng thể loại – công việc này mất khoảng năm phút. Sau đó em e-mail vài bản khác nhau cho khách hàng xem. Kiểu thiết kế được làm theo ý từng người, nhưng nó được dựa trên những yếu tố tiêu chuẩn mà mình không phải vẽ lại sau mỗi lần sử dụng”.
“Khỏe quá nhỉ. Và cũng rất thông minh. Nhưng em làm sao nếu có yêu cầu của một người thích mô tô, quần bò sờn rách, và chó bull?”.
Bridget cười lớn. “Em vẫn có thể giải quyết những đơn đặt hàng đặc biệt. Phải mất nhiều thời gian hơn một chút để có được những hình ảnh ấy, nên em tính tiền cao hơn. Chỉ có vậy thôi”.
Nàng mở một tập tin trong máy vi tính và một tập hợp các hình nghệ thuật hiện ra, từ những người cá hình xăm cho đến những hình chạm kỷ hà. Jonas tỏ vẻ thích thú thật sự và Bridget cũng say sưa với đề tài của mình. “Những mẫu này khó lắm. Phần nhiều người ta chỉ thích những thứ dễ làm như hoa cúc và ngôi sao. Nếu họ thích một phiên bản thu nhỏ và đặt làm một bộ, thì em vẽ đồ hình nhiều nhóm cho kiểu dáng họ chọn, thêm các chú giải, in tất cả ra và gởi đi. Họ thêu các hình ấy trên vải của họ, như thế có nghĩa là không cần nói đến vật liệu”.
“Đây là một kiểu kinh doanh của thiên niên kỷ mới”.
“Vâng”.
Jonas cười. “Em thật là kỳ tài. Anh phải phục đấy”.
Bridget hơi đỏ mặt. “Mỗi tháng em đều có thêm nhiều đơn đặt hàng. Như vậy có nghĩa là em có thể sống theo giờ giấc riêng của mình và ở lại Randolph này với bé Molly…”.
Nàng ngừng nói, cảm thấy cái nhìn tư lự của chàng đối với mình.
“Đúng đấy”.
“Sống ở đây thì không có nhiều công việc lớn”, nàng nói rõ. Jonas hẳn đã biết như thế, dù chàng đã sống khá lâu tại New York. “Không thể làm cho cửa hàng phát triển như thế này nếu chỉ bán hàng cho người địa phương. Còn về du khách… họ đến theo mùa. Khái niệm “tự thiết kế cho bộ mền của mình” thật sự thịnh hành trên mạng, và em cũng giới thiệu các mẫu thêu tay của em trên trang web nữa. Thế đấy, không có ai giàu nhưng mọi người đều sống được”.
“Ồ, thôi đi!”. Bridget cười với chàng, đồng thời tắt máy vi tính. Ở trong cửa hàng này, nàng cảm thấy yên tâm nhiều hơn là ở nhà. Và nói chuyện về công việc làm ăn có nghĩa là câu chuyện sẽ không bao giờ trở nên quá riêng tư. Nàng vui mừng nghe tiếng cửa sau đánh sầm nhiều lần cho biết là đám người đi ăn đã trở về và đang bắt đầu tràn vào trong quán.
Mara nhàn nhã đi sau cùng, cô ta nhìn Jonas một cách chăm chú, còn chàng thì chẳng mấy để ý đến cô. Cùng lúc ấy, Bridget cảm thấy bực bội. Gil vừa ăn xong một tô cơm không, mua từ một quán ăn Trung Hoa. Anh ta vẫy vẫy cái muỗng về phía Bridget vì miệng ngậm đầy không gọi chào được, trong lúc kiểm tra lại những sự trang trí được thực hiện khi anh ta vắng mặt, và gật đầu tán thành.
“Cô bận rộn quá nhỉ”, anh ta nói sau khi nuốt xong miếng cuối cùng và vứt tô, muỗng vào trong giỏ rác. “Đẹp đấy. Mara, cô đi mặc chiếc áo nịt len nổi hạt xinh xinh ấy vào. Chúng ta bắt tay vào nhanh đi thôi”.
“Chiếc áo nịt len nào cũng có hạt hết”, cô ta vừa cằn nhằn vừa ngúng nguẩy đi qua bên cạnh Jonas. “Tôi chán cái kiểu nổi hạt ấy quá”.
Bridget cau mày. Không biết là vì câu nói của Mara hay là vì cách cô ta muốn được Jonas để ý, nàng không thể nói.
“Suỵt, nào”. Gil nói với vẻ sốt ruột. Anh ta chăm chú nhìn Jonas. “Hừm. Chúng tôi có thể mời anh chụp hình không? Đây là bạn của Bridget, phải không?”.
Bị bối rối, Bridget phải mất vài giây mới trả lời được. “Anh ấy là láng giềng mới của tôi đấy”, cuối cùng nàng nói.
“Tôi là Jonas Concannon”, Jonas nói. “Còn anh là…?”.
Gil chìa bàn tay. “Gil Blanding, giám đốc nghệ thuật của tờ Sống Đẹp. Trước đây anh từng làm người mẫu chưa?”.
Đến lượt Jonas tỏ ra lúng túng. “Ồ, chưa”.
Gil chẳng hề tỏ chút quan tâm để xem Jonas hiện đang làm gì. Anh ta lấy một chiếc áo chui bằng len có sọc cỡ đàn ông trên kệ và áp vào người Jonas. “Chà, trông đẹp đấy. Gồ ghề nhưng trí thức. Harry, đến đây. Mặc chiếc áo này vào nhé, Jonas?”.
Mỉm cười với Bridget, Jonas tròng chiếc áo chui vào, và lùa bàn tay qua mái tóc rối để sửa cho ngay sau đó.
“Này, Harry, mình có thể cho anh ta đứng với Mara trong một màn hôn nhau…”
Phần còn lại trong ý tưởng lớn của Gil đã không được bàn trước với Bridget. Nàng rất nhiệt tình, thực sự nhiệt tình, nhưng không thể làm nhiều quá được. Mara đã từ hậu trường bước ra, chiếc áo chui có hạt đã thực sự làm cho cô ta có vẻ tròn trịa hơn. Nhưng dường như cũng hợp với kiểu cách của cô, vì Mara đang còn phụng phịu.
Vẻ mặt cô ta sáng hẳn lên khi nhìn thấy Jonas đang đứng đó với chiếc áo thun có sọc nổi, đóng vai người mẫu nam rất xứng.
Gil đưa một bàn tay cho Mara để kéo cô ta lại gần hơn – và cho cô đứng kế bên Jonas. “Anh thấy thế nào, Harry?”.
Harry có vẻ như chỉ nhìn đời qua cái kính nhòm. Ông ta nhìn vào trong đó một phút rồi trả lời. “Tôi thấy được đấy, Gil. Anh chàng này thậm chí chẳng cần hóa trang nữa. Bộ vó ngon lắm”.
Jonas hướng mặt về phía camera với một cái cười nở rộng khiến Bridget những muốn tống khứ chàng ta đi.
“Trắng tuyệt”. Gil lẩm bẩm. “Mara, nép người vào Jonas đi”.
Cô người mẫu phụng phịu vui mừng tuân lệnh. Bridget chỉ có thể hào hứng khi tự nhắc nhở mình rằng sự quảng cáo sẽ rất thành công và đem lại thêm nhiều thu nhập cho những người đan len của nàng.
Mara ép phía cồm cộm của chiếc áo mình vào bộ ngực gồ ghề của Jonas, và Harry lia lịa chụp hình họ.
“Chà, hai người này có vẻ hợp nhau đấy”, Bridget nghe ông ta nói nhỏ một mình.
Dù vậy, khi nhìn về Jonas, Bridget thấy chàng ta đang nhìn mình, chứ không phải nhìn cô người mẫu tóc vàng quấn quít bên cạnh. Mara có thể chỉ là một đối tượng vô tri vô giác mà thôi.
“Nào, diễn đi!”, Gil nói lớn. “Lùi lại hai bước để cho hai người đứng ngay dưới nhành tầm gửi. Mara, tôi muốn cô luồn mấy ngón tay vào trong tóc Jonas và đặt một cái hôn thật nồng nàn lên má anh ta. Nhưng đừng có chạm vào và làm hỏng mất son môi của cô. Chúng ta bị muộn rồi đấy”.
Bridget thầm cám ơn. Mara cau mặt. Với sự mãn nguyện trong lòng, Bridget để ý thấy Jonas có vẻ khó chịu khi cặp môi mềm mại, nhầy nhụa và đầy son của Mara áp sát vào mặt chàng.
Harry nhìn vào trong ống kính lắc đầu. “Chậc. Không có hồn. Jonas cố gắng đừng có cái vẻ như đang chịu trận, được không?”.
Jonas đứng thẳng người hơn, và vẻ mặt Mara có phần chanh chua.
Harry lại lắc đầu. “Mara, cô có thể làm khá hơn thế”.
“Em mỏi môi rồi”, cô ta rền rĩ, không còn bận tậm đến việc làm ngây ngất Jonas nữa.
Đúng như Bridget đã nghĩ. Nụ hôn dưới một nhành cây tầm gửi giả không thể nào giống như thật được. Nhưng nó có thể trông có vẻ thật khi bài báo được đăng lên. Khoanh tay trước ngực, nàng nhìn Gil đang hò hét bên lề, còn nhà tạo mốt thì thực hiện những chỉnh sửa cuối cùng cho hợp với chiếc áo thun của Mara. Rồi màn kịch khó chịu lại bắt đầu.
Sau cùng, Harry nói rằng ông đã có được một vài tấm hình không tệ lắm, và Jonas bước ra khỏi vòng ôm của Mara với vẻ nhẹ nhõm.
“Không thích thú lắm như mình tưởng”, chàng nhếch môi nói nhỏ với Bridget.
Đáng cho anh đấy, nàng muốn nói thế.
“Tôi cởi ra được chưa?”, anh hỏi Gil.
“Được chứ”, đạo diễn nói một cách dễ dãi. “Nhưng đừng đi đâu xa. Chúng tôi có thể cần đến anh ở phần hậu cảnh”.
Jonas trông có vẻ hơi thất vọng.
Những người giúp việc bắt đầu chất đông những món quà Giáng sinh bọc trong giấy màu sặc sỡ dưới sự chỉ huy của Gil. Bridget hiểu rằng Mara có nhiệm vụ giả vờ mở một hay hai gói quà, hoặc ít ra là kéo một sợi dây buộc trông như sắp mở, bởi vì bên trong các hộp này chẳng có gì cả.
Gil bỗng vỗ trán. “Ồ không được. Chúng ta quên mất cây Giáng sinh rồi!”.
Các phụ tá nhìn nhau. Bridget không nghĩ là có một ai trong họ biết sẽ làm gì.
“Chúng ta cần có một cây thông cân đối cao khoảng hai mét… Tôi nghĩ là tôi đã thấy một cây nơi bãi cỏ của làng”. Giọng Gil sôi nổi, ánh mắt anh ta long lanh. “Chẳng ai biết đâu nếu như chúng ta…”.
Bridget bước tới ngăn lại. “Cây thông ấy là của thành phố. Đoàn Nữ Hướng đạo sinh đã trồng cây ấy. Hơn nữa, chúng ta không thể hễ thích cây nào thì chặt cây ấy được”.
Viên đạo diễn đưa mắt khinh thị nhìn nàng. “Cô có giải pháp nào hay hơn không?”.
“Có”, Bridget nói nhanh. “Chúng ta sẽ làm cây thông của riêng mình. Tôi có thể lấy giấy xanh cắt hình một cây thông – tôi có một tấm giấy xanh lớn đấy – rồi gắn một ngôi sao màu vàng trên chóp. Trông giống như của trẻ con vậy. Táo bạo nhưng đáng yêu”.
Gil đắn đo một lát rồi cuối cùng, ông ta nói “Tôi thấy hay đấy”.
Bridget ít nhiều mong đợi anh ta sẽ búng ngón tay và hô “Làm đi!” với nàng. Nhưng anh ta không làm thế.
“Để tôi đi lấy giấy”. Nàng bước vào nơi làm việc của mình để lấy kéo và tìm thấy tấm giấy lớn mà nàng vẫn để dành lại không biết cho mục đích gì, sau đó trải nó ra trên bàn làm việc của mình và ướm thử các góc cạnh bằng những viên đá mềm mà Molly đã nhặt ngoài suối mùa hè vừa rồi… Bridget nhanh chóng phác họa xong hình thù một cây Giáng sinh đơn giản, rồi cắt, cố không suy nghĩ về những gì mình đang làm. Thực ra, nàng muốn cho nó giống với tác phẩm của một đứa trẻ.
Sáng tạo là cứ để cho sự việc diễn ra, nàng nghĩ. Nhát kéo cũng nhanh như nét vẽ của nàng, cho đến khi một mảng được cắt ra uốn cong lên và cản trở đường cắt của nàng. Bàn tay to lớn, khỏe mạnh của Jonas đè phẳng chỗ cong xuống và chàng ta để nguyên bàn tay ở đấy, tựa nhẹ trên tờ giấy. Bridget liếc mắt lên, nhìn thẳng vào đôi mắt chàng.
Đây chính là sự nồng ấm… đã làm xiêu đổ lòng nàng. Chỉ với một cái nhìn, chàng đã có thể đưa nàng trở về một thời khi mà nàng còn rất ngây thơ – một thời mà nàng chỉ muốn nằm trong vòng tay của chàng mãi mãi. Thật vô lí là sự nhớ về chuyện ấy đã không gây một tổn thương nào. Nỗi ghen tương của Bridget với Mara, sự khó chịu của nàng đối với công việc làm người mẫu và với sự xâm nhập khó chịu của tốp phóng viên vào trong cửa hàng của nàng, tất cả đều đã biến mất vào thời khắc này.
“Chờ tí đã”, Gil vừa nói vừa đi tới nơi chiếc bàn làm việc và phá vỡ khoảnh khắc ngây ngất. “Đây có thể là một bức ảnh đẹp. Mara và Jonas thực ra không có sự thân mật, nhưng đôi này thì có đấy. Harry, anh có thấy điều tôi nói không?”.
Viên thợ chụp hình bước tới và lấy Jonas cùng Bridget vào trong khung hình rồi quan sát thật kỹ. “Phải, tôi thấy rồi”.
“Tôi đang suy nghĩ… một đôi bạn trẻ, mùa Giáng sinh đầu tiên, cùng vui vẻ… Còn anh thấy gì?”.
“Cũng giống như vậy”, Harry nói. “Ai đó hãy cho cô ta mặc một chiếc áo nịt len đi. Chúng ta phải làm cho xong hôm nay để ngày mai còn qua bên trang trại Pomfret”.
Gil búng ngón tay cho nhà tạo mốt, người này chọn một chiếc áo len nhẹ phù hợp với đôi mắt của Bridget.
Nàng đưa hai tay lên để xỏ chiếc áo vào, vừa kịp bắt gặp cái nhìn tán thưởng của Jonas trên bầu ngực mình. Nhà tạo mốt chọn một chiếc áo chẽn đan móc màu kem cho Jonas.
Chưa đầy hai phút, Bridget đã được đánh phấn hồng, tô bóng đôi môi, bôi đen mi mắt và xốc nhẹ mái tóc.
“Nhìn cô kìa”, Gil nói. “Một cô gái Mỹ chính hiệu. Với vài đốm tàn nhang nhỏ xíu xinh xinh”.
Bridget mong là lời khen này làm cho Mara phát điên lên. Tất nhiên, nàng không có được cặp xương gò má đầy quyến rũ như của Mara, nhưng nàng có hai nốt tàn nhang tuyệt đẹp mà thậm chí chính nàng cũng không biết mình có nữa.
Gil làm như đang cầm chiếc kéo trong tay. “Cắt đi. Cắt đi. Cả hai làm trở lại những gì mình vừa làm. Harry có thể tới sát bên các bạn, không sao đâu”.
Đỏ mặt thực sự sau lớp hóa trang của mình, Bridget trở lại việc cắt hình cái cây bằng giấy. Máy ảnh của Harry nhảy nhè nhẹ và liên tiếp nhiều lần. Thỉnh thoảng ông ta yêu cầu một hoặc hai người trong họ ngước cằm lên, hoặc nhìn vào người kia, hoặc làm bất cứ điều gì ông thấy làm cho kiểu chụp đẹp hơn. Jonas chẳng nói một lời nào. Chàng có vẻ bối rối như bị bắt gặp trong khi đang làm một điều gì sai trái.
“Bây giờ đến ngôi sao”, Gil thúc giục. Một nhân viên nhấc cái cây lên khỏi chiếc bàn và gắn nó lên tường bằng băng keo. “Hai người có thể thay nhau gắn ngôi sao lên trên cây. Chúng tôi sẽ xem kiểu nào đẹp”.
Bridget cắt hình một ngôi sao trên tấm giấy màu vàng rồi đưa cho Jonas. “Anh trước đi”, nàng nói khẽ.
Jonas nắm tay nàng bước tới cái cây, không cần phải với nhiều để đưa ngôi sao lên trên chóp đỉnh.
“Được đấy”, Gil nói. “Mỉm cười với cô nàng đi”.
Jonas đã mỉm cười trước rồi. Bridget mỉm cười đáp lại, vừa lúc ấy thì tiếng nói của Mara đã phá vỡ giây phút thân mật của họ.
“Ồ, tệ quá”, cô người mẫu nói giọng châm chọc. “Cô ta trông chẳng lộng lẫy gì cả”.
Harry từ nơi ống kính nhìn lên. “Mara, chúng tôi không cần những lời bình phẩm của cô đâu”.
Dù rằng viên thợ chụp hình chỉ muốn được yên, nhưng Bridget cũng thấy biết ơn ông ta. Nhà tạo mốt khéo léo làm xao lãng cô người mẫu bằng cách vẫy vẫy một chiếc áo trên móc. Mara bị lừa, vội vã đi về khu trang phục.
“Các bạn là đôi bạn trẻ đang yêu”. Gil rủ rỉ. “Đây là mùa Giáng sinh đầu tiên của các bạn. Là lá la la”.
Jonas mỉm cười với nàng một cách nồng nàn hơn, như thể chàng ta quên mất mình đang cầm một ngôi sao bằng giấy. Kiểu ảnh tuy rằng giả tạo, nhưng có sự xúc động thật sự trong đôi mắt chàng. Bridget biết rằng chàng đang nhớ lại dịp lễ Giáng sinh đầu tiên của hai người – nàng biết chắc như thế. Gil không phải là không tinh ý, nhưng vị đạo diễn này không thể nào biết được ngày vui ấy của họ ngày xưa như thế nào.
Jonas đã tặng nàng một cái trâm cài kiểu cổ mà chàng đã danh dụm tiền để mua và một thứ còn ý nghĩa nhiều hơn thế nữa: nụ hôn đầu tiên của nàng, ước gì ký ức ấy cứ mãi mãi nhạt phai… Mặc dù đang có nhiều người xung quanh Bridget cũng cảm thấy dòng lệ dâng trào trên đôi mắt mình và thầm cám ơn là mình đã không khóc òa lên.
“Đẹp đấy. Đôi mắt cô thực sự long lanh đó, Bridget”, Harry nói.
Jonas để rơi ngôi sao xuống và đưa một bàn tay vuốt má Bridget. Nàng sắp khóc lên. Nàng quay nhìn đi nơi khác. Chàng cũng vậy khi ngôi sao tụt xuống nhưng chàng đã kịp chụp lấy trước khi nó rơi.
Đôi mắt chàng ánh lên long lanh và chàng vội che giấu tình cảm của mình bằng cách ngân nga vài nốt nhạc. “Nhặt ánh sao rơi… bài hát cũ ấy là gì nhỉ?”.
“Anh nên dành bài hát ấy cho một ngày mưa”, nàng nói khe khẽ.
“Vâng, anh biết”, chàng thì thầm đáp lại.
Gil lại lớn tiếng ra lệnh. Các nhân viên xúm lại xung quanh. “Được rồi, bây giờ đến lượt cô Bridget cầm cái ngôi sao đặt vào chỗ ấy”, Gil nói. “Tôi thấy thích ý tưởng này. Harry, anh có thích không?”.
Người thợ chụp hình chỉ càu nhàu đáp lại.
“Jonas…”. Gil nhìn vào chàng trông đợi, và chàng trao cái ngôi sao cho Bridget.
Nàng làm điệu bộ theo sự chỉ dẫn của đạo diễn. Đứng thế này. Thế kia. Nhìn vào Jonas. Nhìn vào cái cây. Bridget chưa bao giờ hình dung được là một mảnh giấy có thể nặng như thế nào khi mình phải áp nó vào tường suốt gần một tiếng đồng hồ. Cánh tay nàng nhức buốt nhưng những gì họ làm đang tạo cho nàng một cái cớ để được ở gần bên chàng.
Nàng nghe nắm cửa khua lách cách và nhớ ra là mình đã khóa cửa.
“Mẹ… ơi, mẹ!”.
Molly đang ở bên kia cánh cửa kính.
“Tôi để cái này xuống được không?”, Bridget hỏi.
Gil nhìn quanh. “Con của cô đấy à?”.
“Phải, nó là Molly”.
“Harry, anh đã xong cảnh này chưa?”.
“Xong rồi. Bridget, Jonas nghỉ đi”. Harry mang máy ảnh đến cho Gil xem qua các hình trong bộ nhớ khi Bridget đi ra cửa. Molly áp mũi mình vào trong tấm kính tạo một bộ mặt khôi hài và xòe rộng hai bàn tay ra. Bridget phải bật cười.
Nàng cho Molly vào nhà và vẫy tay chào mẹ mình, bà đang ngồi trên xe nơi khúc quẹo để đi thăm một bà bạn dưới phố. Bridget không biết là Jonsas sẽ xuất hiện hay không, nhưng nàng mừng là mình không phải giải thích điều đó với mẹ.
Molly đeo một túi quần áo trên cánh tay, kéo lê trên sàn nhà và nói. “Con đem chiếc áo dài nhung và một vài thứ khác tới”.
Bridget cầm cái túi lên. “Khá đấy. Để mẹ đưa cho nhà tạo mốt xem thế nào nhé”.
“Vâng”. Molly nhìn kỹ trên mặt mẹ nó. “Trông mẹ đẹp quá. Ai trang điểm cho mẹ thế?”.
“Một bà tử tế tên là Felicia. Con có muốn gặp bà ấy không?”.
“Muốn chứ! Con trang điểm có được không?”.
“Một chút thôi”, Bridget nói.
“Con muốn cho thật đẹp cơ”, Molly mơ mộng.
Bridget mỉm cười và cùng với con mình đi ra phía sau cửa hàng. “Mẹ không biết chắc là thế nào, nhưng có thể là bà Felicia sẽ biết”.
Molly nhìn thấy Jonas và nhướng mày lên nhìn mẹ như sắp hỏi vài câu châm chọc.
“Không được làm thế bây giờ”, nàng nói dịu dàng nhưng cương quyết. “Chỉ chào thôi”.
Jonas cười tươi khi thấy hai mẹ con nàng nắm tay nhau đi về phía chàng. “Chào cháu, Molly”.
Molly hích mũi lên với vẻ cao ngạo ngây ngô. “Xin chào”. Nó đi ngang qua trước Jonas và chẳng nghĩ đến gì khác ngoài việc làm cho ra vẻ duyên dáng.
Bridget nháy mắt với Jonas. Với thái độ của Molly, nàng chỉ có thể làm như thế thôi. Đứa con gái nhỏ nào mà chẳng muốn trở thành ngôi sao trong khi chụp hình cho tạp chí và làm cho mình thật xinh đẹp?
Khoảng một giờ sau, Molly đã thấy quen với tất cả những chuyện ở đây. Nó chụp hình trong một chiếc áo dài len bóng với phần trên bằng nhung và không một chút phàn nàn về sợi ruy băng buộc chặt trên mái tóc mình. Nhưng Molly phản đối việc xới tung mái tóc của nó lên, khiến Bridget phải nhắc cho nó nhớ rằng việc này chẳng khác gì so với việc sửa soạn cho Satin, con ngựa của nó, khi đi trình diễn.
Bà Dutton tình nguyện cho mượn một đứa cháu trai năm tuổi, mặc bộ đồ nhung để chụp hình với Molly dưới nhành cây tầm gửi. Dù môi của Molly chẳng chạm đến má của nó nhưng thằng bé này, một diễn viên tồi, vẫn nhắm mắt lại và nhăn mặt một cách cau có.
Rồi thì đến lượt Bridget và Jonas. Nhân viên hóa trang tô lại son môi cho Bridget trong khi Molly đứng nhìn, bà ta tạo nên một màu sáng bóng trên đôi môi hé mở của nàng.
Molly không phải là người duy nhất ngắm nhìn. Bridget biết rằng Jonas đang ở cạnh đó, chàng đang nói chuyện với Harry nhưng đôi mắt luôn nhìn nàng. Nàng có thể cảm nhận điều đó.
“Đứng yên đã nào”, bà Felicia nói. “Ồ, hộp phấn hồng của tôi đâu rồi…”. Bà lục tìm trong túi của mình nhưng vẫn không thấy, và bỗng nhìn vào Bridget. “À, mà xem nào. Cô chẳng cần đâu. Cặp má cô đã hồng lắm rồi. Quả thực là thế”. Bà dùng một tay để quạt cho mình. “Mấy cái đèn này nóng quá, mình đi lại đây, Molly. Hãy lấy một chai nước mát và lên toa xe ngồi. Trong toa có điều hòa không khí đấy”.
Không phải ánh đèn đã khiến Bridget nóng bức và làm cho đôi má nàng đỏ hồng mà chính là Jonas. Harry đã bảo chàng đứng dưới nhành cây tầm gửi đọc sách, và…. chờ đợi nàng. Trong chiếc áo thun màu kem và chiếc quần jean sờn cũ, chàng trông hết sức nam tính và hấp dẫn hơn bất cứ người đàn ông nào khác. Chàng đã gây ấn tượng mạnh cho nàng. Bridget mừng thầm là con gái mình đã ra ngoài một lát cùng với bà Felicia. Nếu Harry bảo nàng hãy hôn Jonas, nàng không biết là mình sẽ làm gì.
“Diễn đi chứ!”, Gil nói lớn.
“Làm… gì?”, Bridget lắp bắp. “Anh nói làm gì ạ?”.
“Hôn người đàn ông ấy. Làm sao cô có thể cưỡng lại cho nổi?”.
Nàng đã không cưỡng lại nổi. Nàng thậm chí cũng không nghĩ ra một lý do gì để từ chối. Thế nên nàng bước tới và hôn chàng thật cẩn thận, cố ý giữ gìn lớp son môi của mình.
Nín thở, phần nào ngỡ ngàng, Jonas đưa hai tay ôm lấy eo nàng và cũng hôn lại thật say đắm.
Harry liên tục bấm máy và lẩm bẩm khen: “Tốt lắm. Đẹp rồi. Thêm một lần nữa. Được. Quay qua bên trái một chút, Jonas. Tuyệt rồi. Phải như thế chứ”. Anh ta ngưng bấm máy.
Bridget có cảm giác người thợ chụp ảnh đang nhìn trong ống kính, nhưng nàng không nhìn anh ta… Đôi mắt nàng nhắm nghiền. Jonas đang hôn nàng thực sự.
“Kìa, hai người”, Harry chọc ghẹo. “Đã ngưng rồi mà”.
***
Hai ngày sau…
Theo Jonas thấy thì ngôi nhà cũ kỹ của ông Hanson không có hư hại gì nhiều, ngoại trừ cái cổng vòm bị nghiêng. Jonas lùi lại ngắm nhìn, hai tay chống vào bên hông quần jean, và liệt kê trong trí những thứ linh tinh cần điều chỉnh. Phải cho chống đỡ mái cổng bằng hai con đội gia dụng, tháo bỏ những cây chông hư mục, thay nền nhà, thay ván sàn, và những rào chắn… thêm một cái đu hai người.
Cái hôn cháy bỏng của chàng với Bridget là điều mà chàng muốn lặp lại, nhưng không phải là khi có đứa con gái nhỏ nên cạnh, hay một anh thợ chụp hình và một đám đông xung quanh. Bà cụ Harrison sẽ giận điên lên nếu Gil Blanding quyết định sử dụng mấy tấm ảnh sau cùng mà Harry vừa chụp để minh họa cho bài báo sắp đăng. Nhưng Jonas không chắc là thế. Sống Đẹp vốn là một tạp chí gia đình.
Bridget đã tỏ ra ngúng nguẩy lúc đầu, nhưng điều đó có thể hiểu được. Chàng đã đến nhà nàng khi không được mời và bước vào trong cửa hàng lúc nàng không mong đợi. Nhưng một khi đã được hâm nóng thì nàng đáp ứng, cả xác lẫn hồn, một cách khiến chàng nghĩ là nàng thích chàng.
Chàng không biết lúc nào sẽ lại có được cái may mắn ấy lần nữa, nhưng chàng có thể chờ đợi. Và cũng cần nói là có một giới hạn cho những việc chàng có thể làm, với Molly bên cạnh. Ít ra cũng nên cám ơn bà Margaret Harrison. Bà chăm nom cho đứa cháu ngoại của bà, như vậy có nghĩa là Bridget sẽ thảnh thơi hơn vô số phụ nữ một mình nuôi con.
Mặc dù luôn bận rộn, thiếu ngủ và mệt đừ, nhưng chàng vẫn nhiều lần đi chơi với một vài bác sĩ nữ nội trú. Nhưng không thường xuyên, và quan hệ của họ chỉ là thể xác, chứ không phải tình cảm. Chẳng một ai bận tâm đến một kiểu quan hệ thực sự và làm hao tốn thời giờ. Trường y, cuộc sống nội trú, và sự huấn luyện lâm sàng đã không chừa chỗ cho một sinh hoạt xã hội.
Nhưng chàng không ngớt suy nghĩ về Bridget. Từ lâu rồi, nàng đã chiếm lấy trái tim chàng – và điều đó đã không hề thay đổi. Chàng biết rõ điều đó giây phút chàng nhìn thấy nàng trong gian hàng dưới phố. Họ cần ở bên nhau. Việc mua một ngôi nhà ở ngay bên nhà nàng là một sự bày tỏ mà nàng không thể không biết hoặc là gạt bỏ. Nó nói lên rằng chàng đã trở lại và chàng sẽ không rời xa nàng nữa.
Kiên tâm và trì chí thì sẽ thắng được nàng, dù có thế nào đi nữa.
Khi đi dạo trong phần còn lại của trang trại để đánh giá tình trạng các gian nhà phụ, chàng đâm ra tự hỏi không biết mình đã nghĩ như thế nào. Một số cấu trúc cũ kỹ thì được lắp ghép cẩu thả với nhau, còn một số thì được xây dựng bền chắc bởi các tay thợ cả. Nhưng chẳng có cái gì có thể chống chịu lâu dài nổi với sự khắc nghiệt của những mùa đông ở Vermont.
Kho thóc cần lợp lại mái – nhìn lên phía trên chàng thấy nhiều lỗ trống. Những con cú nhất định là đã làm tổ ở đây, cho phép chúng bay ra bay vào săn mồi trong các vùng xung quanh. Những tiếng chim cú kêu thất thanh đã khiến cho chàng thức giấc đêm qua.
Chàng nôn nóng thỏa thuận việc giải quyết mà không chú tâm nhiều đến sự giải thích những gì cần phải chữa ngay và những gì có thể chờ đợi của viên giám sát xây dựng, một ông già chu đáo với một giọng mũi New England khó nghe.
Jonas ước tính sơ bộ chi phí sửa chữa rồi sau đó tự bực bội với mình là trước đó đã không hề suy nghĩ về chuyện này. Thà đốt hết đi rồi cho làm lại có lẽ còn đỡ tốn hơn, nhưng chàng sẽ không bao giờ làm thế. Trang trại này đã hiện diện ở đây rất lâu, và chàng muốn chắc chắn là nó sẽ còn tồn tại nhiều trăm năm nữa. Chàng đi theo một con đường bọc quanh một vùng cây cối um tùm. Anh chàng máy kéo có nhiệm vụ dọn dẹp khu hoang dã này đã không làm tới. Bà vợ của ông Hanson mới mất vài năm trước đây sau khi hai người con trai của ông chuyển tới California, nên ông không duy trì nổi trang trại rộng lớn này. Jonas đã mua lại nó – nhà, kho, đồng ruộng và các nhà phụ – với một giá cả phải chăng.
Như vậy cũng tốt. Chàng không cần phải ghi thêm một khoản thế chấp khổng lồ nào vào trong danh sách các món tiền nợ của trường y mà chàng đang thanh toán. Và chàng dự định mở một phòng mạch ở vùng phụ cận Randolph – điều đó không phải là tốn ít tiền. Làm một bác sĩ gia đình, nhất là ở vùng nông thôn, chàng sẽ chẳng bao giờ giàu được, nhưng Jonas không bận tâm lắm về chuyện này. Chàng có nhiều người khách mà chàng đã chữa trị ở bệnh viện New York, và chàng thấy thích cái ý tưởng hành nghề ở một khu vực đang bị thiếu thốn về các dịch vụ y tế. Trên khắp nước Mỹ, có nhiều bác sĩ cao tuổi ở những thành phố nhỏ đang về hưu khiến cho cộng đồng phải gặp khó khăn trong việc tìm người thay thế. Chàng nghĩ là mình đang có một cơ hội tốt như bất cứ ai khác để sinh sống.
Nhưng… hãy giải quyết tuần tự, bắt đầu bằng cái mái nhà trên đầu chàng đây. Khi đã làm xong những sửa chữa cần thiết thì ngôi nhà cổ này sẽ trở nên hoàn hảo để xây dựng một gia đình. Với người phụ nữ duy nhất mà chàng thương yêu.
Một lần nữa Jonas nhìn cái cổng trước xập xệ và thở dài. Trước khi dắt ai kia qua ngưỡng cửa nhà mình, chàng phải thay thế cái cổng này đã.
***
Cả buổi chiều hôm ấy chàng cứ loay hoay ở ngoài vườn nhà mình, xem xét cái kho và một đống củi đã bị vơi đi một cách thảm hại. Số củi này được dùng để chất lên cái giá cất củi phía trên cổng vòm mà lâu nay chẳng được nạp vào. May thay, một người nào đó đã đổ một đống củi vào trong nhà kho để chờ cho khô ráo qua mùa đông – có lẽ là anh chàng làm vườn. Củi này đã sẵn sàng để chẻ ra, vì chúng đã được cưa thành những đoạn dài sáu tấc.
Jonas nghĩ là mình có thể bắt đầu với những cây củi này. Chàng có thể vận động, nhưng đã không chẻ củi từ lâu. Chàng bước vào trong kho, tìm một cái rìu, và thấy nhiều cái treo trên cây đà thấp. Các lưỡi kim loại cùn ánh lên trong bóng tối, chàng dùng một ngón tay để thử trên mép rìu.
Ồ. Bén lắm. Rõ ràng là ông lão Hanson đã chăm chuốt kỹ bộ dụng cụ của mình, cho dù ông chỉ sử dụng rất ít. Chàng nhặt ngẫu nhiên một chiếc rìu, dựng nó bên ngoài, rồi trở vào kho khuân ra thật nhiều củi.
Chàng đặt thanh củi đứng trên một đầu, nhấc cái rìu và vung lên, chẻ phăng thanh củi thành hai mảnh bằng một nhát rìu ngọt ngào với một tiếng chát sắc gọn và vui tai. Hà, chàng nở rộng nụ cười với chính mình.
Được chẻ làm đôi, rồi làm tư, những cây gỗ bốc mùi thơm thanh khiết và nhẹ nhàng như bầu không khí của Vermont. Chàng chất những cây củi chẻ thành một đống sơ sài để rồi xếp lại sau đó, chàng hân hoan với việc lao động chân tay, và mình chàng nhễ nhại mồ hôi.
Jonas dừng tay để kéo áo ra khỏi chiếc quần jean và cởi nút áo ra. Tệ quá, chàng chẳng có một chiếc khăn tay nào nhưng chàng có thể cởi chiếc áo ra để lau mặt. Chàng sẽ thấy ấm người lên nếu tiếp tục làm việc.
Chàng cởi áo, lau mồ hôi trên mặt, rồi treo trên một cành cây gần đấy. Sau đó chàng quay trở lại với công việc một cách đầy hăng say. Chàng không hề nghĩ là có người nào đó đang đứng nhìn mình.
***
Bridget đặt chiếc ống nhòm xuống, nàng cảm thấy vô cùng tội lỗi. Nàng ở cách xa Jonas hàng trăm thước, nhưng dù là thế – nàng biết rằng chàng không nghĩ là nàng đang có ở đấy.
Lúc đầu nàng đã không biết đến âm thanh ấy, tưởng rằng đó là một người làm vườn mà chủ đất thuê để trông chừng nơi này, đang cần cù làm việc. Nhưng âm thanh chẻ củi đều đặn thu hút sự chú ý của nàng và làm át tiếng chim hót. Nhìn chung quanh và hướng ống nhòm vào hướng tiếng động, nàng nhìn thấy Jonas… và không thể nhìn đi nơi khác được nữa. Một cái cây đổ đã tạo ra một đường nhìn trống trải tới trang trại của chàng và nơi chàng đang chẻ củi.
Với bộ ngực trần, chàng ta trông thật đẹp trai với vô số những cơ bắp rắn rỏi và gân guốc. Hai cánh tay chàng căng đầy do sự vung múa chiếc rìu, và tất cả những gì mà nàng có thể nghĩ tới là tuyệt vời làm sao khi được ôm vào trong hai cánh tay ấy và được chàng hôn. Nàng đã cảm nhận được sức mạnh nơi cái thân hình có trang phục của chàng, thậm chí nàng đã đánh bạo vuốt ve thân hình ấy đôi ba lần, nhưng được nhìn thấy chàng như thế này mới thật là choáng ngợp.
Jonas buông chiếc rìu xuống và bước tới cành cây nơi chàng treo chiếc áo, sau đó lấy chiếc áo lau mặt mình. Chàng lấy hai bàn tay ép mái tóc ướt mồ hôi về phía sau, làm hiện rõ khuôn hình của gương mặt gồ ghề, và chàng chống hai bàn tay lên hông đứng thở.
Bridget run lên nhưng không phải vì lạnh. Thật ra, nhìn thấy chàng như thế này đây cũng đủ khiến nàng run rẩy.
Chàng bước trở lại nơi gốc cây, cầm cái rìu lên và tiếp tục làm việc. Chát. Thịch. Chát. Thịch. Chàng chất mớ củi chẻ thành một đống càng lúc càng cao bên cạnh gốc cây. Mỗi lần chàng vung chiếc rìu lên qua khỏi đầu và các cơ bắp của chàng siết chặt lại cho một nhát chẻ trước khi hai tay giáng xuống, tim nàng như bị hẫng đi một nhịp.
Không phải là nàng chưa từng nhìn thấy một người đàn ông chẻ củi nhưng Jonas quả thật là gợi cảm trong khi làm công việc này. Nàng có thể nhìn thấy là chàng đang mệt – cái bụng thẳng cứng, hằn lên những thớ thịt, sự lõm vào và nẩy ra ngang chỗ thắt lưng của chiếc quần jean khi chàng thở mạnh hơn. Bầu không khí mát lạnh mùa xuân làm se chặt thêm bộ ngực đàn ông phẳng lì của chàng – và cuối cùng, dường như cái lạnh đã thắng.
Jonas lựa lấy một thanh củi cuối cùng – thanh to nhất – và chẻ nó với một nhát mạnh khiến cho hai mảnh văng trên đất. Chàng ngồi xuống trên gốc cây, thở một hơi dài mà nàng tưởng như có thể nghe được, rồi đứng lên và đi lấy chiếc áo của mình.
Bridget nhìn chàng cài nút áo, cảm thấy một sự trìu mến ở ngay nơi mình qua cái động tác giản đơn ấy. Nàng dễ dàng hình dung ra chàng cũng đang cài nút giống y như thế… sau một buổi chiều ân ái cùng nhau. Ôi chao, nàng rất khao khát điều này. Nàng bỏ rơi cái ống nhòm xuống nhưng sợi dây đeo vẫn còn vướng lại. Cái giật đột ngột ở đằng sau gáy kéo nàng trở về với thực tại.
Nàng không đưa ống nhòm lên mắt nữa và cảm thấy bối rối vì sự trơ trẽn của mình. Đúng là không có ai nhìn thấy nàng, nhưng nếu như họ thấy… Bridget quay lại, đi về nhà theo một con đường tắt khiến nàng phải băng ngang lùm bụi. Mấy phút sau, nàng đã ra tới con đường lớn và cách xa trang trại Hanson một quãng an toàn.
***
Bridget đi vào trong phòng thêu may nơi nàng và Molly thường xáo tung mọi thứ thành một đống hỗn độn tùy thích. Bridget điểm qua các mẫu mền mà Molly đã làm, được gắn bằng đinh rệp lên một tấm bảng bấc. Một mẫu còn dở dang, hình con ếch, trông rất đẹp, chỉ trừ các chân quá dài, thòng ra khỏi cạnh dưới của bề mặt mười hai inch vuông. Bridget gập đầu gối một cái chân ếch khẳng khiu màu xanh lá cây, rồi ghim nó thành hình một cái chân co, xong nàng cũng làm như thế với cái chân kia. Thế đấy. Giờ đây con ếch đã trở nên vừa vặn.
Nàng thở dài, không biết phải làm gì tiếp theo về chuyện của Molly. Hoặc chuyện của chính nàng. Mùa xuân ngắn ngủi và tươi đẹp sắp đi qua – bây giờ đã gần hết tháng năm. sắp đến mùa hè rồi, mùa mang tới những đoàn du khách đông đúc. Cửa hàng chắc chắn là sẽ có nhiều thu nhập, nhưng nàng chẳng ngại việc để bà Dutton trông coi cửa hàng trong lúc nàng đi đâu một chuyến, cùng với Molly hoặc không có Molly.
Không – nàng không thể rời bỏ nơi này để đi đâu được. Nàng đã tình nguyện làm người hỗ trợ cho trường của Molly, và nhà bếp đang cần sơn lại, đây cũng là thời điểm để củng cố sổ sách tài chính của nàng và bắt đầu đóng tiền năm học cho Molly – và, và… nhiều thứ nữa, Bridget tự nhủ. Nàng sẽ chẳng bao giờ hết bận rộn với những cái và này. Tình cảm xao động của mình khiến cho Bridget nghĩ rằng Jonas có ảnh hưởng nhiều với sự bối rối của nàng. Kìa, nàng tự bảo mình. Ngươi thật sự không muốn phải hối tiếc một điều gì khi chàng đâm chán và quay trở về Manhattan đó nhé.
Có thể là chàng đã không nghĩ kỹ khi mua ngôi nhà này – chàng không thể một sớm một chiều trở thành người dân Vermont được. Chàng đã quên rằng mùa đông ở đây dài như thế nào hay sao? Một người đua xe xuôi dốc hoặc là trượt tuyết băng đồng thì có thể thấy thích: những sườn dốc và đường trượt chỉ cách Randolph chưa tới một giờ chạy xe, và nàng còn nhớ là Jonas rất thích trượt tuyết. Nhưng chàng phải tập sống mà không có những trò vui giải trí ban đêm vui vẻ như ở Manhattan. Nàng cảm thấy mình sẽ không buồn tiếc gì nhiều đối với việc chàng quyết định quay về thành phố khi chàng đâm chán – nàng sẽ không buồn và sẽ không bao giờ buồn.
Hừm. Chàng có vẻ đang chuẩn bị kỹ – chàng đã chẻ củi một cách hăng say. Chỉ có một người đàn ông của Rừng Xanh thực sự mới ra tay chẻ một đông củi to như thế cả sáu tháng trước khi bắt đầu mùa đông. Dù sao, chàng đã không rời xa quá nhiều nguồn cội của mình. Hoặc là rời xa Bridget. Suy nghĩ lang bang, Bridget tự cảnh báo mình. Dù là với tất cả những kỹ năng thợ rừng, Jonas nhất định không tỏ ra thích hợp để sống ở đây, nhất là khi mùa đông đến.
***
Jonas chất xong đống củi mình vừa chẻ rồi ngồi trên gốc cây, áo khoác trên vai. Công việc khá nặng nhọc, nhưng chàng thấy vui. Tuy nhiên chàng không quen làm công việc này, và chàng biết rằng tốt nhất là nên uống vài viên ibuprofen để cho bắp thịt của mình không bị đau nhức vào ngày mai nhưng chàng chẳng có thuốc men gì cả. Xét trên khối lượng công việc thật lớn ở đây, có lẽ chàng phải mua cả một lọ – à, chàng phải lập một tủ thuốc sơ cứu với đủ thứ thuốc cần dùng. Chàng không muốn cứ mỗi khi cần một miếng băng hay thuốc kháng sinh là phải chạy qua nhà Bridget, dù rằng, cũng như hầu hết các bà mẹ khác, nhất định là nàng có đầy đủ kinh nghiệm với những ca cấp cứu hay bệnh vặt để đáng được cấp một chứng chỉ điều dưỡng.
Bác sĩ, hãy tự chữa bệnh cho mình đi, chàng nghĩ. Jonas nở nụ cười, đứng dậy, phủi các dăm gỗ bám trên quần, rồi đi vào nhà. Chàng xỏ tay áo và cài nút lại rồi băng qua cửa sau để tìm chùm chìa khóa xe.
Chàng quyết định đi xuống phố bằng con đường phía sau, con đường mà chàng chưa từng đi vì mới được làm gần đây. Chủ đất cũ cho chàng biết là con đường này kết nối với một số nông trại trong vùng, cho nên đi ngắm cảnh rất đẹp. Nhưng chàng chẳng muốn vào một nhà ai.
Thật quá sai lầm. Mười lăm phút sau, Jonas phải ngồi sau tay lái mà nhìn một biển cừu ở xung quanh mình. Đàn cừu đi tới một chỗ quẹo, phân tán thành nhiều luồng xung quanh chiếc xe của chàng, rồi chúng dừng lại giữa đường. Chúng chẳng tỏ vẻ muốn di chuyển, ngoại trừ một con thật sự lấm láp ở bên cạnh chiếc xe, nó cứ chà cọ mớ lông đầy bụi và dính bết vào bề mặt tráng men láng bóng của thanh chắn chiếc xe, và nhìn Jonas bằng một cái nhìn vui vẻ nhưng hết sức ngô nghê.
Chàng đã tính bóp còi nhưng thấy tốt hơn là không nên. Một đàn cừu hoảng loạn còn tệ hại hơn một đàn cừu bất động rất nhiều. Có lẽ chúng đang chờ đợi một mệnh lệnh. Phải nói thế nào để làm cho một đàn cừu di chuyển?
Jonas lớn lên ở một nơi cách Randolph hai thành phố chứ không phải trong một nông trại, dù chàng đã biết cưỡi ngựa, tuy nhiên, chàng chẳng biết một tí gì về cừu cả. Suy nghĩ một chút, và chàng thấy tình cảnh bế tắc của mình cũng vui vui. Hừm. Nên hò như với đàn bò, hay nên suỵt như với đàn chó?
Chàng chồm người ra ngoài cửa xe, la lớn: “Hò! Suỵt!”.
Con cừu lấm láp đang cọ mình vào thanh chắn mà chẳng chút nhúc nhích. Tuy nhiên, Jonas đã thu hút sự chú ý của một vài con khác, những con này kêu be be, hấp háy mắt nhìn chàng, rồi ép mình vào nhiều hơn nữa, khiến chàng không mở được cánh cửa xe.
Chàng bị kẹt lại đây. Jonas với lấy chiếc điện thoại di động. Chàng cũng có thể giải trí bằng cách chụp một tấm ảnh các con cừu này rồi gởi đến cho ông bạn Del Anzalone của mình, một bác sĩ nội trú mới trong bệnh viện. Điều mà Del, một con người Brooklyn thuần túy, biết nhiều nhất về loài cừu là một miếng thịt cừu vừa chín lòng đào.
“Đứng yên!”. Jonas bảo con cừu gần mình nhất. Chàng mở máy điện thoại và bấm chụp hình đúng lúc con vật đang đi tới. Tấm hình bị mờ. Chàng xóa đi và chụp tấm khác. “Tuyệt rồi. Cám ơn, cô Cừu”. Jonas bấm số của Del và thêm vào một câu: “Lạc giữa đàn cừu ở Vermont”. Chàng gởi đi và chờ trả lời, mấy ngón tay chàng gõ gõ trên tay lái trong khi đàn cừu đi vòng quanh.
Chẳng có tin tức gì. Có lẽ Del đang bận – bệnh viện luôn luôn bận rộn.
Jonas thở dài lẩm bẩm. Ai trông coi ở đây? Đàn cừu này ắt phải có chủ. Một đàn cừu mênh mông thế này không thể lang thang mà không người cai quản, cho dù là ở xứ Vermont.
Như để trả lời cho câu hỏi thầm của chàng, một nhân vật kỳ dị nhưng không xa lạ xuất hiện nơi khúc quanh, tay cầm một cây gậy móc bắt cừu. Một bà già ăn mặc sặc sỡ với những bím tóc dài đã bạc – một con người mà chàng nhớ ra nhưng không biết đã gặp ở đâu – à, phải rồi. Bà Dotty Pomfred, người cung cấp len cho cửa hàng của Bridget.
“Ơ này!”, Jonas chồm người ra ngoài vẫy chào.
“À, ra là cậu!”. Bà Dotty lên tiếng một cách hững hờ. Chàng hơi bực mình nhận thấy bà ta không vội đi về phía mình. Chàng nghe tiếng bà ta huýt gọi, rồi chàng trố mắt nhìn thấy một chú chó vá đen trắng nhảy lên… và thong dong bước đi trên lưng mấy con cừu.
Theo các mệnh lệnh huýt sáo của bà, con chó đuổi đàn cừu ra khỏi chiếc xe của Jonas rồi đi theo một gò đất nhỏ để ra đồng cỏ, tại đây mấy con cừu dồn cục lại, sợ hãi nhìn con chó. Một con cất tiếng be be rầu rĩ, con chó trừng mắt nhìn nó cho đến khi nó nín thinh. Mãn nguyện với công việc của mình, con chó ngồi xuống và giữ nguyên đàn cừu tại chỗ chỉ bằng uy lực của bản thân nó.
Jonas bước ra khỏi xe, cười lớn. “Tôi chưa hề thấy một chuyện như thế này. Bà mua con chó này ở đâu vậy?”.
“Nó được sinh ra trong trại của tôi. Nhưng mẹ nó có gốc New Zealand. Tên nó là Kiwi”.
Bà nhìn Jonas một cái có vẻ như muốn hỏi “còn cậu thì sao?”
Chàng bước tới, bắt tay bà và nói, “Tôi là Jonas Concannon. Rất vui mừng được gặp bà. Thực ra, chúng ta đã gặp nhau trước đây rồi, nhưng chỉ chốc lát thôi”.
Bà ta nhướng mày giễu cợt “Có à?”.
“Tại cửa hàng của Bridget O’Shea. Hồi tháng ba”.
“Cậu làm nghề… thêu đan à?”.
“Ồ, không. Tôi chỉ tình cờ dừng lại ở đấy. Bridget và tôi – phải, chúng tôi đã quen nhau một dạo trước đây”.
“Tôi hiểu rồi”. Bà ta chăm chăm nhìn Jonas, bàn tay vân vê một lọn tóc đuôi sam dài của mình. “À, bây giờ tôi nhớ ra cậu rồi. Tôi là Dotty Pomfret. Trang trại của tôi ở ngã này”. Bà ta chỉ tay, không phải hướng chàng đang đi.
“Bà cần mua gì dưới phố không? Tôi đang đi xuống dưới đó”.
“Cậu thật tử tế”. Bà tươi cười nhìn chàng. “Cậu có cây bút không? Để tôi ghi ra. Quả thực, tôi có mấy thứ cần mua. Cậu có thể bảo tính tiền theo tên tôi. Được chứ? Chiếc xe cũ của tôi không chạy được, tôi sẽ biết ơn rất nhiều nếu cậu…”.
“Không có gì đâu”, Jonas vội nói. Chàng ta có cảm giác bà Dotty Pomfret có thể bảo chàng làm bất cứ điều gì và chàng sẽ vâng lời, giống như đàn cừu nghe theo con chó vậy.
Chàng tìm thấy một cây bút và một mẩu giấy trong ngăn đựng găng tay, và ghi nhanh những gì bà nói, chàng vui mừng thấy là phần lớn những thứ này có thể mua ở tiệm thuốc tây.
“Cô em của tôi và tôi ít khi đi xuống dưới phố”, bà Dotty nói, “cho nên cậu thật tử tế. Cậu cần gì thì cứ nói. Tôi sẽ đan cho cậu một chiếc áo len”.
Bà ta nhìn chàng từ đầu đến chân một cách khiến chàng khó chịu, nhưng chàng không nghĩ là bà đang làm phiền mình. Hơn nữa, chàng đang được cân đo không theo kiểu vật chất.
“Về nhà thì tôi gầy móc ngay, và đến mùa thu là xong đấy”.
Lần đầu tiên, Jonas để ý nhìn những thứ bà đang mặc trên người: một chiếc áo len lụng thụng, xấu xí dài xuống đến đầu gối, đan bằng một thứ len kỳ dị, lốm đốm những màu sắc loạn xạ. Trong không giống một chiếc áo, mà là một công trình nghệ thuật.
“Bà không cần phải làm thế”, chàng vội nói. “Tôi vui mừng được giúp mà”.
Tối hôm ấy, bà Dotty và Elizabeth kiểm lại các túi hàng mà Jonas mua dưới phố về và lấy từng thứ một từ trong túi ra.
“Cậu ta mua đủ cả các thứ ghi trên giấy”, bà Dotty vui mừng nói. “Tốt lắm”.
Ngồi dưới đất giữa hai bà già, con chó ve vẫy chiếc đuôi.
“Tao không nói mày đâu”, bà Dotty bảo. Con Kiwi thất vọng nhìn bà. “Con ngốc. Dù sao mày cũng là con chó ngoan”.
“Cậu thanh niên này tử tế thật nhỉ”, bà Elizabeth đáp lại. “Chị bảo anh ta đẹp trai hả. Bà có nghĩ là anh ta thật xứng với Bridget không?”.
“Dường như họ đã quen nhau trước rồi ấy”.
Bà Elizabeth nhướng mày. “Thế ư?”.
“Này, này”, bà Dotty nói tiu nghỉu. “Không đợi mình đóng vai Thần Ái Tình đâu”.
“Vui nhỉ”.
“Tai họa đấy. Người ta cần phải nghĩ về mọi việc cho đúng, nếu không, họ cũng chỉ là những con cừu thôi”.
Bà Elizabeth cười lặng lẽ. “Em nghĩ chị nói đúng đấy”.
“Dù sao, tôi cũng chẳng được biết nhiều về cậu ta. Cậu ta là người Vermont nhưng đã không lớn lên ở Randolph”.
Bà Elizabeth gật đầu. “Bridget là một đứa con gái tử tế, tôi nghe nói thế, nhưng mẹ của nó thì không ai chịu nổi. Bà Margaret Harrison tự cao tự đại lắm. Bà ta làm ra cái vẻ… trên trời”.
“Đúng, tôi thấy rằng bà ta cao ngạo, mà hầu hết mọi người đều thấy thế”.
Bà Elizabeth thở dài. “Tôi không nghĩ là bà ta nói tốt gì cho chúng ta đâu”.
“Cũng hay. Mình sẽ không phải nghe chuyện ngồi lê đê mách. Chị pha trà nhé?”.
“Mình có trà à?”.
Bà Dotty đứng dậy rời chiếc bàn phủ vải ô vuông và nhìn vào trong hộp đựng trà. “Còn lại vài túi trà hoa cúc đây”.
Bà Elizabeth thở dài. “Được. Cho vào ly của em một tí uýt-ki nhé”.
Bà Dotty nhìn em mình ngạc nhiên. “Sao vậy?”.
“Để khử mùi trà”. Bà Elizabeth cười lớn. “Em không thích trà thảo mộc”.
Mấy ngày sau…
Bên ngoài, Bridget ngồi nghỉ trên các bậc cấp cái cổng ảm đạm của ngôi nhà, sững sờ một lát vì sự sinh động của màu xanh bao trùm lên trên thung lũng và các ngọn đồi chập chùng. Màu xanh lục của mặt đất tương phản rực rỡ với màu xanh lam của bầu trời; không khí trong trẻo một cách kỳ lạ và phảng phất hương vị mùa hè.
Nàng đưa tầm mắt chiêm ngưỡng cảnh trí xanh tươi quanh mình. Cảnh quan tạo sự tươi trẻ này khiến cho nàng thấy nhẹ hẳn đôi chân. Nàng quan sát cha mình đang làm việc với chiếc máy kéo bên cạnh nhà kho. Nàng mỉm cười thấy ông trong bộ quần áo lao động vải thô, bàn tay đầy dầu mỡ và một chiếc mũ rơm trên đầu.
Về bản chất, ông vẫn là một nông dân, mặc dù tất cả những tiền bạc mà ông kiếm được qua việc bán đất cho các kẻ xứ khác đến đây xẻ những con đường lớn để giữ gìn lại những vùng cảnh quan nguyên sơ của họ. Là con người bình dị, khoan hòa, ông Bill Harrison là sự trái ngược hoàn toàn với bà vợ ông, và là sợi neo vững chắc kiềm giữ cho bà Margaret Harrison không trở thành huênh hoang với cái ý thức tự hào quá đáng về tầm quan trọng của mình.
“Này, Bố!”, Bridget vẫy tay chào ông.
Ông nhìn ra, thoáng ngạc nhiên, rồi chùi hai bàn tay trong chiếc mù xoa trắng muốt. Bridget có thể nghe tiếng mẹ mình gọi lớn khi bà nhìn thấy cảnh này. “À, chào hoàng hậu!”, ông cười và nhìn về phía ngôi nhà màu trắng. “Tôi đến đây mà!”. Ông nói lớn, rồi ông quay về phía Bridget. “Molly vừa mới đến tìm con đấy”.
“Nó có nói là nó cần gì không, hở bố?”. Nàng cau mày.
“Không, bố… À, nó kia rồi”. Mắt ông đảo quanh tìm kiếm và nhìn thấy đứa cháu ngoại mình ở bên kia đường. “Nó vừa đến chỗ chòi gỗ”.
Bridget nhìn thấy Molly trên lưng con ngựa hồng gần đúng vào lúc Molly cũng nhìn thấy nàng và vẫy chào. “Để con đến xem nó muốn gì nào. Chào bố nhé”.
Molly đón nàng ở nơi thùng thư bên đường. “Con chẳng biết mẹ ở đâu cả”.
“Mẹ gặp ông ngoại nên mới đến đây”. Bridget thường thấy vui là bố mẹ mình sống rất gần mình. Đúng là mẹ của nàng đôi lúc xử sự kỳ quặc, nhưng Bridget thấy tốt hơn là nên làm ngơ trước kiểu hành xử mà bà ta không thể thay đổi. Ngoài ra, ai ai cũng cảm thấy thế về mẹ của mình cả. “Ông ngoại nói là con đang tìm mẹ”.
“Phải, con muốn mẹ cưỡi ngựa đi chơi với con”. Nó vừa nói vừa chồm người tới trước. “Đi, mẹ. Để con khỏi có cái cảm giác cưỡi ngựa một mình”.
“Con ơi, mẹ cũng muốn lắm chứ, nhưng mẹ còn phải làm vô số công việc ở nhà”, nàng nói với một chút tiếc rẻ trong nụ cười của mình.
“Đã lâu lắm mẹ không cưỡi ngựa đi chơi với con mà”, Molly năn nỉ. Bridget biết là nó nói đúng. Nàng không còn đi với nó nữa từ khi nàng được biết là Jonas đã mua trang trại kế bên. “Mẹ đi với con, rồi khi mình trở về con sẽ làm phụ việc nhà với mẹ… Con hứa mà”.
“Để xem…”. Bridget ngập ngừng, và Molly biết là mình đã thắng.
“Mẹ vào thay đôi giày ống đi, còn con sẽ đi thắng con Flash”. Không đợi Bridget đồng ý, nó đã gò cương con ngựa hồng nhỏ lại để đi tới chỗ con ngựa lớn đằng sau cái chòi gỗ.
Bridget liếc nhìn bầu trời không mây cùng với màu xanh mời mọc của những ngọn đồi, và nhún vai. Thời tiết quá đẹp như thế này mà chẳng lẽ lại cứ ở nhà làm công việc nhà.
Nàng chỉ mất vài phút để cởi đôi săng-đan và mang đôi giày ống, rồi buộc hai tay áo của chiếc áo len quấn trên cổ để phòng trời lạnh. Con ngựa tía thường ngày khó bắt đã được buộc sẵn vào nơi hàng rào, yên cương đầy đủ, đang phe phẩy chiếc đuôi vàng hoe xua đuổi lũ ruồi. Molly khúc khích cười khi thấy cái vẻ ngạc nhiên trên gương mặt của Bridget.
“Con đã buộc nó sẵn để phòng khi mẹ quyết định đi”, Molly tinh quái giải thích.
“Nhưng đừng có quên là con đã hứa giúp mẹ làm việc nhà đấy nhé”. Bridget cười, tháo sợi dây cương buộc nơi cọc rồi nhảy lên yên. “Con dẫn đường đi. Flash và mẹ sẽ theo sau”.
“Đi theo con đầu đàn nhé”, Molly ngoái cổ qua vai nói lớn rồi điều khiển con ngựa hồng đi ngang qua cổng.
Họ chạy qua một đồng cỏ xanh rải rác những chòm hoa dại, rồi lội qua một con suối nhỏ để vào trong rừng cây thích. Một tán lá dày đan kết trên đầu khi Molly bắt đầu vòng quanh các thân cây lớn, tránh né những cành cây đang đe dọa quất vào những người không cảnh giác.
Đến khi cây đã thưa dần thì một vách đá sừng sững hiện ra trên đường đi của họ. Bridget cho con ngựa tía đi chậm, nhưng Molly không ghìm ngựa mình lại mà cho con ngựa hồng băng qua phần vách thấp. Con Morgan uyển chuyển phóng qua phía trên chướng ngại một cách dễ dàng, còn thừa cả mấy tấc. Bridget cảm thấy nghèn nghẹn tự hào trước tài cưỡi ngựa thành thạo của con gái. Nàng cũng thúc con ngựa của mình vượt qua tường đá một cách gọn gàng.
Molly đang ghìm cương ở phía bên kia chờ đợi, con ngựa hồng nhỏ phì hơi và khịt mũi, nó vẫn còn khỏe khoắn để đi thêm nhiều dặm nữa, nhưng ngoan ngoãn đứng chờ mệnh lệnh. Bridget thấy vẻ phấn chấn trên gương mặt con mình, và nàng đoán sắc mặt nàng cũng vậy.
Molly toét miệng cười. “Mẹ đi chơi có thấy vui không?”.
“Con đang nghĩ gì vậy?”, Bridget cười, gò cương con ngựa tía lại bên cạnh con gái mình. “Con đã cưỡi con Satin bao lâu rồi?”.
“Ông ngoại và con đã tập cho nó từ đầu mùa xuân. Nhưng con muốn làm cho mẹ ngạc nhiên”, Molly tươi cười.
“Con làm mẹ ngạc nhiên thật đấy!”.
“Ông ngoại nói rằng nó là một con ngựa nhảy giỏi, nhưng mà rồi con Satin có thể làm bất cứ việc gì”. Molly vuốt vuốt trên cổ con ngựa.
“Gần như bất cứ việc gì chứ”, Bridget chữa lại.
“Vâng, gần như thế”, Molly nhượng bộ, nhíu mũi bày tỏ thái độ. “Con có thể trình diễn nó vào mùa hè tới. Tất nhiên, chúng ta cần có một xe moóc chở ngựa”.
“Chuyện nhỏ mà, không tốn kém gì đâu”, Bridget trêu chọc.
“Mình có đủ tiền không?”. Molly đột nhiên trở nên nghiêm túc.
“Ồ, chúng ta có đủ khả năng mua một cặp bánh và một cái thùng. Để rồi xem”.
“Nói thật đi, mẹ. Ông ngoại bảo rằng…”.
“Vậy thì con hãy nói chuyện ấy với ông ngoại”. Bridget thở dài. Nàng muốn tự mình xoay xở mà không cần phải mượn tiền của cha mẹ.
“Con đã bàn về việc trình diễn con Satin”, Molly nói. “Ông ngoại nói rằng ông có thể tìm một xe moóc cũ rồi chúng ta sửa lại”.
“Ý con nói là ông ngoại sẽ sửa lại, phải không?”, Bridget thúc con ngựa tía đi bước một, nàng thử ước tính một chiếc xe tải cũ để chở ngựa giá bao nhiêu và nàng sẽ phải đánh liều tiêu hết bao nhiêu số tiền tiết kiệm của mình.
“Chúng ta phải mua chiếc xe ấy trong mùa hè này để đến mùa hè năm sau là tất cả đã sẵn sàng”, Molly ngập ngừng đề nghị.
“Trước hết là phải biết tốn hết bao nhiêu đã. Mẹ thực sự không biết đấy”.
“Con có nên nhờ ông ngoại tìm một chiếc trên danh mục Craigs hoặc trên các báo quảng cáo hay không?”. Molly nhìn mẹ mình với nhiều hi vọng.
“Mẹ sẽ nói với ông về chuyện này”, Bridget hứa.
“Khi nào mẹ?”.
“Tối nay mình sẽ tới dùng bữa với ông bà. Như vậy có kịp không?”. Đôi mắt màu hạt dẻ giễu cợt của nàng long lanh khi nhìn thấy niềm vui hiện rõ trên đôi mắt tròn xoe mở rộng của Molly.
“Dạ”, Molly đáp khẽ.
Trong lúc họ phóng ngựa qua một chòm cây nhỏ, ánh sáng mặt trời tuôn dài theo các cành lá để in dấu trên mặt đất. Những chiếc lá mùa thu năm trước tạo nên một tiếng sột soạt vui tai bên dưới vó ngựa. Trên cao, một con chim giẻ cùi cất tiếng khàn khàn, nó chuyền từ cành này sang cành khác để đuổi theo họ.
“Quả thực là ông ấy chẳng để chậm mất một giây”, Molly lầm bầm.
“Gì thế?”, Bridget ngơ ngác nhìn con gái mình.
“Đặt những báo hiệu mới để thông tri tài sản của ông ấy”. Molly khoác tay chỉ một tấm bảng mới màu trắng đóng đinh vào một thân cây gần hàng rào. CẤM SĂN BẮN VÀ XÂM NHẬP.
Bridget tái mặt vì nhận ra rằng họ đang cưỡi ngựa đi vào vùng đất của Jonas. Trong quá khứ, những đường ranh giới chẳng bao giờ được tôn trọng. Từ khi còn là một cô gái nhỏ, nàng vẫn đi trên con đường này. Cái khác lần này là họ đã nhảy qua hòn đá chắn chứ không đi qua cổng.
Ông Hanson cũng đã cắm bảng CẤM XÂM NHẬP như vậy, nhưng ông đã để cho các tấm bảng này mục nát qua thời gian đến mức lớp sơn đã bong rã và ông cũng chẳng bao giờ có ý định hăm dọa hàng xóm của mình. Bridget không biết là Jonas có làm như thế không, nhưng tình hình nay đã khác đi rồi.
“Ô này, ông ta ở đằng kia!”. Molly suỵt nhỏ reo lên. “Đi thôi, mẹ. Mình đi kẻo bị ông ta đuổi kịp đấy”.
Bridget vừa kịp nhìn lên ngọn đồi bên phải của họ và nhận ra Jonas đang ngồi trên một con ngựa cao lớn màu hồng. Có lẽ anh ta mới mua nó, giống như mua cái nhà kia vậy, nàng nghĩ. Hồi ở New York City anh ta chưa từng có ngựa. Molly bỗng thúc chân vào con ngựa mình. Nó phóng tới phía trước.
“Molly!”. Bridget cố gọi nó lại, đồng thời cố giữ con ngựa của mình cho đừng phóng theo.
Lúc này nàng đang muốn tránh gặp Jonas còn hơn cả con gái nàng muốn tránh, nhưng bỏ chạy như thế thật là ngu ngốc, ngu ngốc và trẻ con nữa. Nhưng Molly đã đi mất. Mặc dù biết tài cưỡi ngựa của con gái, Bridget vẫn không thể để cho nó bươn bả phóng ngựa một mình qua vùng đất chập chùng này như thế.
Khi thấy sự kìm giữ bị buông lỏng ra, con ngựa tía của nàng chỉ thoáng một cái đã đuổi theo con ngựa kia. Tiếng vó thình thịch vang lên trên nền đất cỏ làm át đi mọi âm thanh khác.
Không còn thời gian để nhìn lại sau xem Jonas có đi theo họ hay không. Với cái tốc độ này, Bridget phải tập trung chú ý vào những gì ở đằng trước mình. Nàng biết chắc là Jonas đã nhìn thấy nàng, và có thể đoán ra sự thích thú của chàng khi nhìn thấy họ bỏ chạy.
Chạy được khoảng một trăm thước, họ thấy một hàng rào bằng gỗ trắng, nứt nẻ và thâm sì, chắn ngang lối ra đường lớn. Khi tiến tới gần hàng rào, Bridget rẽ ngựa về phía cái cổng chỉ cách đó chừng vài mét, và cho ngựa đi chậm lại. Nhưng Molly không đổi hướng đi của nó, mà chỉ thúc ngựa phóng qua.
“Đừng!”. Bridget gọi to. “Molly, đừng!”.
Đã quá muộn rồi. Con ngựa và người cưỡi đã sải dài qua cái hàng rào. Họ đáp xuống gọn gàng trên bờ bên kia, với một cái mương lớn nằm ngay trước mặt. Bridget nghe tiếng một chiếc xe tải chạy đến và nàng thét lên hốt hoảng.
Nàng không nghĩ là Molly nghe được tiếng nàng. Dù sao thì cũng không ích lợi gì vì đà phóng của con ngựa sẽ mang họ ra tới đường cái, con Morgan đang dồn hết sức để nhảy qua cái mương.
Con ngựa vừa đáp xuống bờ lề rải sỏi thì đúng vào lúc chiếc xe tải leo lên đỉnh gò đất nhỏ. Bridget nhìn thấy Molly rối rít giật giật dây cương để dừng con ngựa lại, còn người lái xe thì quẹo qua con mương bên kia để không đụng họ.
Con Morgan cố quay gấp lại nên trượt chân trên nền sỏi và ngã xuống. Bridget nghe con gái mình kêu lên một tiếng kinh hãi khi nó bị văng ra khỏi yên và tiếng một người nào đó luôn miệng gọi tên Molly, mà không biết là tiếng gọi ấy từ cổ họng mình thốt ra.
Vì nóng lòng muốn đến với con gái mình, Bridget liều lĩnh cho con ngựa tía nhảy qua cánh cổng hàng rào tại nơi có một ống cống ngầm lớn phủ bằng đất nện gác ngang qua lòng mương trông. Khi nàng đến nơi thì Molly đang nằm bất động trên bờ mương, nó gần như đã rơi khỏi yên trước khi con ngựa dừng lại.
Chiếc xe tải nhỏ cũ kỹ dừng lại cách một quãng đường nhiều mét. Người tài xế, già nua và ốm yếu, hổn hển leo lên bờ dốc nhỏ, vẻ sợ sệt hiện rõ trên gương mặt ông ta bên dưới màu da rám nắng.
“Con bé không biết từ đâu phóng ra, tôi không dừng lại kịp. Tôi rất tiếc… rất tiếc”, ông ta nói với giọng yếu ớt trong khi Bridget quì xuống bên cạnh con mình. “Nó bị thương có nặng lắm không?”.
“Tôi không biết nữa”, giọng nàng run lên vì lo lắng. Nàng sờ vào đứa con gái đang nằm bất tỉnh. “Molly?”.
“Đừng xê dịch nó!”. Một giọng nói quen thuộc vang lên, và hai cánh tay mạnh mẽ đẩy Bridget ra.
Bridget đã quá bấn loạn trước gương mặt trắng bệch và đôi mắt nhắm nghiền của Molly đến nỗi không còn phản đối được khi Jonas giành quyền chủ động. Bị choáng váng, nàng đã không chất vấn về quyền hạn của chàng trong việc này. Nàng nắm chặt hai bàn tay lại âm thầm cầu khấn cho Molly đừng bị thương nghiêm trọng.
“Tôi có giúp gì được không?”. Người tái xế già cúi xuống bên trên họ, lo lắng theo dõi Jonas thăm khám kỹ càng cho Molly mà không nhấc cao hay xoay trở con bé. Cung cách trầm tĩnh và chuyên nghiệp của chàng khiến cho Bridget yên tâm, dù đang lo sợ. Nếu như chàng không có mặt ở đây… nàng không muốn nghĩ về điều đó.
“Gọi xe cứu thương”. Jonas rút chiếc điện thoại ra khỏi túi áo và đưa cho Bridget mà mắt chẳng nhìn vào nàng hay người tài xế xe hàng. Chàng ta hoàn toàn tập trung vào Molly, hai con mắt nó vẫn còn nhắm nghiền.
“Ít nhất nó cũng đã bị một chấn động mạnh… và còn có thể bị tổn thương ở cổ hoặc xương sườn, về nội tạng, tôi không thể biết là có chuyện gì không. Nó phải được nằm cố định trên một cái cáng và chúng ta phải đưa nó đến một bệnh viện tốt có các bác sĩ chuyên gia về chấn thương”.
Hoảng loạn, Bridget cố nghĩ ra cái tên của một bệnh viện lớn gần nhất và liên lạc được với tổng đài cấp cứu 911, nơi đây xác định rõ vị trí của họ và cho biết một chiếc xe cứu thương đã lên đường.
Mi mắt Molly chớp chớp mở ra và nhìn vào Bridget, rồi nhìn Jonas. “Chuyện gì vậy?”, nó lẩm bẩm. “Satin đâu rồi? Nó có sao không?”. Nó rướn người để ngồi dậy, rồi lại nằm trở xuống, thở gấp. “Nó có bị gãy chân không? Con không ngờ là con đã… Mẹ ơi, đừng khóc”.
“Lạy Chúa… nó đã tỉnh rồi… và còn nói chuyện được. Tốt quá, phải không?”. Bridget vừa nắm bàn tay con mình vừa nói với sự xúc động cực điểm. “Nằm yên đi, con yêu. Jonas, anh thấy thế nào?”.
Jonas nắm lấy cổ tay bé nhỏ của Molly và nghe mạch, xong chàng vuốt nhẹ bàn tay kia trên thắt lưng của nó. “Nó vẫn cần đến bệnh viện. Không ai đoán trước được các tổn thương ở đầu, và như anh đã nói, có thể có những chuyện khác nữa. Nhưng nó không có vẻ đau đớn. Anh nghĩ là nó không bị gãy xương sườn đâu”. Chàng nhìn vào trong đôi mắt Molly. “Molly, con nhắm mắt lại. Bây giờ mở ra đi”.
Con bé vâng theo những mệnh lệnh bình thản này mà không chút kỳ kèo.
“Đồng tử phản ứng bình thường. Tốt”.
Tất nhiên chàng biết phải làm những gì – chàng là bác sĩ mà – nhưng Bridget thấy ngổn ngang những tình cảm mâu thuẫn. Biết ơn. Lo sợ. Trên hết là tình yêu đối với con gái mình. Bạn sẽ không bao giờ biết được là một đứa con nít có thể yếu ớt – hay gan dạ – như thế nào nếu bạn chưa từng bị đau. Bridget suy nghĩ một cách buồn thảm.
“Tôi mong có thể giúp được điều gì”, người tài xế già lại lẩm bẩm.
Rời mắt khỏi Molly trong giây lát, Jonas nhanh chóng đánh giá người tài xế xe hàng, nhận thấy sự căng thẳng của ông. Vành môi rắn rỏi mím lại thật nhanh, chàng nở một nụ cười thông cảm.
“Có ai đến đón ông được không?”, Jonas hỏi. “Ông không nên lái xe”.
“Tôi có đứa cháu gái”.
“Ông nói số điện thoại cho Bridget, cô ấy sẽ gọi hộ ông”. Chàng lại nhìn xuống Molly, nó nở một nụ cười yếu ớt với chàng.
Đứa con gái của nàng có xem chàng như một ân nhân hay không? Tràn ngập trong sự xúc động gần như quá mạnh mẽ không thể điều khiển, Bridget cảm thấy lóe lên một nỗi ghen tức và oán hận, và nàng tự bảo mình là phải tự chủ. Jonas không phải là đang đóng vai người hùng – chàng đang làm điều phải làm, điều tốt nhất cho Molly. Nàng gọi điện thoại theo sự hướng dẫn của người tài xế già, và ra sức trấn an đứa cháu gái của ông.
Đang run run vì phải cố gắng làm ra vẻ bình tĩnh, Bridget bỗng ngạc nhiên khi thấy Jonas bắt đầu ra lệnh. “Em hãy bắt mấy con ngựa, đưa chúng đi xa khỏi đường cái. Nhốt chúng trở vào chuồng đi”.
“Để Molly ở đây à?”.
“Chúng ta không nên gây thêm một tai nạn nào nữa”, chàng nói lạnh lùng rồi chuyển sự chú ý sang Molly và kết thúc cuộc tranh cãi.
Mặc dù nhận thấy sự sáng suốt và hợp lí trong mệnh lệnh của chàng, nhưng giọng nói của Jonas khiến cho Bridget hơi bực bội. Nàng muốn không nghe lời ngay cả khi nàng lảo đảo đứng lên để tuân thủ, hai đầu gối run run và trong lòng thì ấm ức, khó chịu.
Con ngựa hồng cao lớn mà Jonas cưỡi đến đang đứng sau họ, nó được buộc tạm dưới đất. Bridget nắm dây cương dắt nó qua bên kia đường, nơi con ngựa tía của nàng đang gặm cỏ trên bờ mương. Lần duy nhất này, con ngựa bất kham để cho Bridget đi thẳng tới chỗ nó mà không phản ứng, có vẻ như nó biết rằng đây không phải là lúc để chơi trò đuổi bắt. Con ngựa hồng của Molly đứng bên hàng rào bằng gỗ với một đầu gối bị trầy và chảy máu.
Trong khi dắt ba con ngựa đi, Bridget quay nhìn về phía Molly. Nàng dừng lại một chút khi thấy Jonas đang nắm bàn tay con gái mình. Molly đang bình thản nói chuyện với chàng như chẳng có gì đặc biệt. Bridget biết là Jonas đang vờ trò chuyện để theo dõi tình trạng con gái, nhưng nàng không rũ bỏ được sự oán hận tự nhiên khi nhìn thấy mối quan hệ có phần thân thiết giữa chàng với Molly. Trông như thể là chàng ta đang tiếm đoạt vai trò làm mẹ và che chở của nàng – ý tưởng này khiến cho Bridget càng thêm choáng váng, như là nàng chứ không phải Molly, đã bị va đập vào đầu.
Nàng nghe tiếng còi hụ của chiếc xe cứu thương càng lúc càng lớn dần, và cuối cùng chấm dứt khi chiếc xe qua khỏi ngọn đồi và dừng lại nơi Jonas chỉ.
Trong khi nàng bất lực và lo sợ đứng nhìn thì Jonas và đoàn cấp cứu đưa Molly lên chiếc cáng và đo các dấu hiệu sống dưới sự giám sát chặt chẽ của Jonas.
Chỉ nhìn cảnh thân hình bé bỏng của đứa con mình bị ràng cột, với một cái vòng to cẩn thận đặt quanh cổ, cũng đủ khiến cho Bridget đầm đìa nước mắt. Nhưng nàng không khóc. Nàng ký tên vào các mẫu đơn trên cái bìa kẹp do một nhân viên kỹ thuật đưa cho mà không mấy chú tâm. Nàng cố ép mình phải vững vàng vì Molly, trong khi chỉ chực nôn thốc – hoặc gào lên.
“Bà là mẹ của bé?”, một nhân viên cấp cứu hỏi. “Bà có đi tới bệnh viện không?”. Hai người khác đang thận trọng khiêng cái cáng đưa vào trong xe, trò chuyện với Molly và nó trả lời với họ. Bối rối, Bridget nhìn Jonas.
“Họ gọi em đấy”, chàng chỉ nói có thế.
Nàng thở một hơi dài và đi đến một quyết định. Cũng như chàng, Bridget muốn làm điều gì tốt nhất cho con gái. Nếu để chàng đi với nó thì con bé sẽ có ngay bên mình một bác sĩ và một nhóm người cấp cứu. Giá như có gì bất ổn xảy ra – hẳn là chẳng có gì đâu – họ sẽ chăm sóc cho đứa con nàng theo kiểu nàng không làm được. Và mấy con ngựa thì không thể để cho chúng tự kiếm đường về nhà.
“Tôi sẽ đến đó ngay. Còn bây giờ thì Jonas đi với nó”.
“Mẹ ơi, săn sóc cho con Satin nhé”, nàng nghe Molly nói.
“Được rồi, cưng. Mẹ sẽ đến với con ngay”.
Jonas gật đầu và leo lên phía sau xe cứu thương, ngồi bên cạnh Molly trên chiếc ghế xếp mà một nhân viên cấp cứu kéo ra cho chàng. Người tài xế đóng cánh cửa lại và chiếc xe rời đi, vài giây trước khi người cháu gái ông lão đến nơi đón ông về nhà.
Để khỏi mất nhiều thời gian, Bridget gởi cả ba con ngựa vào nhà của Jonas và cưỡi con ngựa của mình đi. Nàng để lại mấy chữ cho bố mẹ nàng khi ấy đã đi đâu rồi – bố nàng thì không có điện thoại di động, còn mẹ nàng thì chẳng nhớ để sạc pin cho máy của bà. Khi đến bệnh viện, nếu có cơ hội nàng sẽ cố gắng điện thoại cho họ.
Bridget chạy tới chiếc xe của mình và chưa được một giờ sau, nàng đã lái xe tới bệnh viện. Nàng chẳng nhớ gì nhiều về quãng đường đã đi qua, ngoài việc cầu nguyện để xin chuộc lấy tất cả những tội lỗi trong quá khứ, trong hiện tại và trong tương lai, miễn sao cho Molly được bình yên.
Các y tá gọi một điều dưỡng dẫn Bridget đi qua một mê cung những căn phòng để đến được phòng của con gái nàng. Molly đang ngồi trò chuyện trên một giường bệnh viện có thanh chắn cao.
Jonas đang ở bên nó. Một lần nữa, Bridget cảm thấy dâng lên một sự pha trộn khó chịu giữa lòng biết ơn và nỗi oán hận.
“Chào cả hai”, nàng bình thản nói.