Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Đã là lần thứ ba chúng tôi chơi bản nhạc phim Bố già từ sau bữa trưa, và tôi đang lia mắt qua các du khách ở bên kia piazza xem liệu bao nhiêu người đã có mặt từ lần chơi trước. Nói chung thì nếu phải nghe bài tủ nào đó quá một lần khách cũng không thấy vấn đề gì, nhưng anh không thể làm vậy quá thường xuyên vì họ sẽ ngờ anh không có một vốn tiết mục ra hồn. Thường thì vào khoảng này trong năm, lặp lại chương trình cũng không sao. Khi thu chớm đến trong gió cộng thêm cái giá cắt cổ cho mỗi cốc cà phê đủ đảm bảo lượng khách luân chuyển khá đều. Tóm lại, đấy là lý do khiến tôi đang chăm chú từng khuôn mặt trong quảng trường và tôi đã bắt gặp Tibor vì thế.

 

Cậu ta đang giơ tay vẫy và ban đầu tôi nghĩ là vẫy chúng tôi, nhưng rồi nhận ra cậu chỉ tìm cách gọi bồi bàn. Trông cậu già hơn, và đã lên cân, nhưng cũng không khó nhận ra. Tôi thúc một cú nhẹ vào Fabian đang đứng phong cầm ngay bên và hất đầu về phía chàng trai trẻ, dù lúc ấy không thể rời tay khỏi cây saxophone để chỉ tận nơi được. Đấy là lúc tôi nhận ra, sau khi nhìn một vòng ban nhạc, rằng ngoài tôi và Fabian, không còn ai ở lại từ đội hình mùa hè năm chúng tôi gặp Tibor.

 

Đồng ý, ngày đó cách nay đã bảy năm rồi, nhưng đấy vẫn là một cú sốc. Đã quen chơi cùng nhau ngày lại ngày, anh bắt đầu coi ban nhạc cũng như gia đình, những thành viên khác như là anh em. Và nếu đôi khi có người chuyển đi, anh muốn nghĩ rằng họ sẽ luôn giữ liên lạc, sẽ gửi thiếp về từ Venice hay Luân Đôn hay bất kể nơi nào họ đến, có thể cả một tấm ảnh chụp ban đang chơi cùng – như là viết thư về thăm quê. Thế nên giây phút này cứ như một lời nhắc nhở không đúng chỗ, rằng sự vật vần xoay mau chóng thế nào. Rằng bạn chí cốt hôm nay ngày mai thành người xa lạ, rắc rải khắp châu Âu, chơi cùng bản Bố già hay “Autumn Leaves” trong những quảng trường hay quán trà anh sẽ chẳng bao giờ đặt chân đến.

 

Khi chúng tôi chơi xong, Fabian ném cho tôi một cái nhìn thịnh nộ, bực tức vì bị thúc đúng giữa đoạn “đặc biệt” của anh ta – không hẳn là đoạn solo, mà là một trong những phút hiếm hoi khi vĩ cầm và clarinet đã dừng, tôi chỉ thổi vài nốt nhè nhẹ làm nền, một mình anh dẫn dắt giai điệu trên cây phong cầm. Khi tôi tìm cách giải thích, và chỉ Tibor giờ đang ngồi dưới cây dù khuấy cà phê, Fabian có vẻ khó khăn mới nhớ ra cậu ta. Cuối cùng anh ta cũng nói:

 

“À phải, thằng bé chơi cello. Không biết giờ nó còn đi với bà người Mỹ ấy không.”

 

“Tất nhiên là không,” tôi nói. “Anh không nhớ à? Mọi chuyện cuối cùng đã kết thúc vào thời kỳ đó.”

 

Fabian nhún vai, đầu óc đã lại để cả vào tờ bản nhạc, và rồi chúng tôi đã bắt đầu bài tiếp.

 

Tôi thất vọng vì Fabian không tỏ ra nhiệt tình hơn, nhưng có lẽ anh ta chưa bao giờ ở trong số những người đặc biệt quan tâm đến cậu nhạc công trẻ. Fabian, anh ta trước giờ chỉ chơi ở phòng trà quán bar, anh hiểu không. Không phải như Giancarlo, người chơi vĩ cầm trong ban lúc đó, hay Ernesto chơi ghi ta bass. Họ đều đã học qua trường lớp, nên luôn bị cuốn hút về những người như Tibor. Có thể còn có một thoáng tị nạnh trong đó – vì quá trình đào tạo hàng đầu của Tibor, vì tương lai cậu ta vẫn đang rộng mở. Nhưng, nhìn nhận công bằng, tôi nghĩ chỉ là vì họ ưa bao bọc lấy những Tibor của thế giới này, chăm lo cho họ một chút, có thể còn chuẩn bị tinh thần cho họ về những gì sẽ đến, để khi gặp phải buồn phiền thất vọng cũng không đến nỗi quá khó khăn.

 

Mùa hè bảy năm trước trời ấm một cách kỳ lạ, và ngay cả ở thành phố chúng tôi, cũng có những lúc cứ tưởng như mình đã xuống đến biển Adriatic. Chúng tôi chơi ngoài trời suốt hơn bốn tháng – dưới vòm quán cà phê, nhìn ra quảng trường và toàn bộ khu bàn, và tôi phải nói với anh làm việc như thế rất là nóng, kể cả có hai hay ba cây quạt điện ầm ù xung quanh. Nhưng đấy là một mùa khấm khá, khách du lịch đến đông, một lượng lớn từ Đức hay Áo tới, và cả người Ý trốn nóng từ bờ biển lên. Và đấy là mùa hè đầu tiên chúng tôi để ý thấy những người Nga. Ngày nay họ chẳng còn đập vào mắt, du khách Nga cũng chẳng khác gì mọi người. Nhưng thời đó, họ vẫn còn là của hiếm đủ để anh phải ngoái nhìn. Họ ăn bận kỳ cục và đi đứng như trẻ nhỏ mới nhập trường. Lần đầu thấy Tibor, chúng tôi đang nghỉ giữa hai suất diễn, giải lao ở cái bàn to mà quán luôn giữ riêng cho chúng tôi. Cậu ta ngồi gần, chốc chốc lại đứng dậy dịch chỗ bao đàn cello để nắng khỏi chiếu vào.

 

“Nhìn thằng nhóc kìa,” Giancarlo nói. “Một sinh viên trường nhạc người Nga không có đường kiếm sống. Và hắn sẽ làm gì? Quyết định vung tiền nốc cà phê giữa quảng trường trung tâm.”

 

“Hắn là thằng ngốc, hẳn rồi,” Ernesto nói. “Nhưng là một thằng ngốc lãng mạn. Vui lòng mà chết đói, miễn là được ngồi ở quảng trường đây cả chiều.”

 

Cậu ta gầy gò với mái tóc màu hạt dẻ và cặp kính phản thời trang – gọng kính to đùng khiến cậu trông như một con gấu trúc. Ngày nào cậu cũng đến, và tôi không nhớ chính xác chuyện bắt đầu ra sao nhưng đến một lúc chúng tôi đã ngồi trò chuyện với cậu giữa các suất diễn. Và đôi khi nếu cậu đến trong giờ diễn chiều thì khi đã xong chúng tôi gọi cậu lại, có khi đãi cậu rượu vang và crostino.

 

Chúng tôi nhanh chóng được biết Tibor không phải người Nga, mà là Hungary; rằng cậu hẳn là lớn tuổi hơn bề ngoài, vì cậu đã tốt nghiệp Nhạc viện hoàng gia Luân Đôn, rồi lại hai năm ở Viên với Oleg Petrovic. Sau một khởi đầu gian nan dưới tay bậc đại danh cầm, cậu đã học được cách chinh phục những cơn hờn dỗi đã thành giai thoại của ông và rời khỏi Viên tràn đầy tự tin – cùng với một chuỗi lịch diễn ở những nhà hát châu Âu danh giá, dù nhỏ. Nhưng rồi các buổi hòa nhạc dần bị hủy vì thiếu người nghe; cậu buộc phải chơi thứ nhạc mà cậu ghét; chỗ ăn ở đều hoặc là đắt hoặc là không ra gì.

 

Thế nên Festival Văn hóa nghệ thuật được tổ chức đàng hoàng ở thành phố tôi – nguyên nhân đưa cậu đến đây mùa hè này – đem lại cú lên dây cót tinh thần cậu đang cần, và khi một bạn học cũ ở Nhạc viện cho cậu ở không mất tiền suốt mùa hè trong một căn hộ gần kênh, cậu đã nhận lời không lưỡng lự. Cậu rất thích thành phố này, cậu bảo chúng tôi thế, nhưng tiền bạc lúc nào cũng là vấn đề, và dù thi thoảng cũng có nơi mời diễn, lúc này cậu đang phải rất lung về bước đi tiếp theo.

 

Đến một lúc, sau khi lắng nghe những lo âu này thì Giancarlo và Ernesto quyết định chúng tôi phải làm gì đó giúp cậu. Và đấy là lý do Tibor đến gặp ông Kaufmann, người Amsterdam, họ hàng xa của Giancarlo với những quan hệ trong giới khách sạn.

 

Tôi nhớ rất rõ chiều hôm ấy. Vẫn còn là đầu mùa hè, và ông Kaufmann, Giancarlo, Ernesto, tất cả đám còn lại, chúng tôi ngồi trong nhà, trong phòng sau của quán, nghe Tibor chơi cello. Cậu thanh niên chắc đã nhận ra cậu ta đang diễn thử cho ông Kaufmann định giá, nên đến lúc này nhớ lại đêm ấy cậu háo hức chơi đến thế nào kể cũng thú vị. Cậu tỏ ra biết ơn chúng tôi rõ rệt, và anh có thể thấy rõ cậu vui lòng khi ông Kaufmann hứa sẽ hết sức giúp đỡ chừng nào quay về Amsterdam. Khi mọi người nói Tibor đã thay đổi theo chiều hướng xấu mùa hè ấy, rằng cậu ta đã thành ra tự cao quá mức cho phép, rằng tất cả là tại bà người Mỹ mà ra, thì, chà, có lẽ cũng có một phần sự thực.

 

 

 

 

 

Tibor đã để ý thấy bà ta khi đang uống cốc cà phê đầu tiên trong ngày. Vào giờ ấy, quảng trường mát dìu dịu rất dễ chịu – gần như cả sáng góc có quán cà phê vẫn nằm trong bóng râm – và đá lát đường còn ướt do vòi phun của công nhân vệ sinh. Vốn đã nhịn bữa sáng, cậu ta nhìn bằng cặp mắt ghen tị trong khi bàn bên bà ta gọi một loại nước quả, tiếp đó – rõ ràng vì nổi hứng, vì lúc đó còn chưa đến mười giờ – thêm một bát trai hấp. Cậu ta mơ hồ cảm thấy bà ta, đến lượt mình, cũng đôi lúc lén nhìn về phía cậu, nhưng lúc đó cậu chưa nghĩ gì nhiều.

 

“Bà ta rất ưa nhìn, đẹp nữa là khác,” sau đó cậu kể cho chúng tôi. “Nhưng các anh thấy, bà ta phải hơn tôi đến mười, mười lăm tuổi. Thế thì làm sao tôi lại nghĩ chuyện gì được?”

 

Cậu đã quên bẵng bà và chuẩn bị quay về phòng để tập luyện vài giờ trước khi người hàng xóm ghé vào ăn trưa và bật radio, thì bỗng nhiên thấy người đàn bà đứng trước mặt mình.

 

Bà ta tươi cười rạng rỡ, dáng vẻ tỏ ra họ đã quen biết từ trước. Thực tế là chỉ vì bản tính nhút nhát mà cậu không lên tiếng chào bà ta. Rồi bà đặt một tay lên vai cậu, cứ như cậu vừa trượt một bài thi nhưng vẫn được tha thứ như thường, và nói:

 

“Mấy hôm trước tôi đã nghe anh độc tấu. Ở San Lorenzo.”

 

“Cám ơn bà,” cậu đáp, dù thấy ngay câu đó nghe ngớ ngẩn thế nào. Rồi vì người đàn bà vẫn tiếp tục tươi cười nhìn cậu, cậu nói tiếp: “À phải, nhà thờ San Lorenzo. Đúng thế. Tôi quả có chơi ở đó.”

 

Người đàn bà cười to, rồi bỗng nhiên kéo ghế ngồi trước mặt cậu. “Anh nói cứ như anh gần đây có lịch diễn dày đặc lắm,” bà ta nói, giọng có ý mỉa mai.

 

“Nếu thật thế thì tôi vừa khiến bà hiểu lầm. Buổi độc tấu bà đến là buổi duy nhất của tôi từ hai tháng nay.”

 

“Nhưng anh mới chỉ vừa bắt đầu,” bà nói. “Anh có được cuộc biểu diễn nào là khá lắm rồi. Và hôm đó cũng có kha khá khán giả đấy chứ.”

 

“Kha khá khán giả? Có đúng hai mươi tư người.”

 

“Đấy là buổi chiều. Biểu diễn ban chiều như thế là tốt rồi.”

 

“Tôi không có tư cách than phiền. Nhưng thế cũng không phải nhiều lắm. Toàn du khách không có việc gì làm.”

 

“Ồi! Anh không nên khinh thường họ thế. Suy cho cùng, ở đó có tôi. Tôi là một trong số du khách ấy.” Rồi trong lúc mặt cậu đỏ lên – vì cậu vốn không có ý xúc phạm – bà ta chạm vào tay cậu và mỉm cười nói: “Anh mới vừa bắt đầu thôi. Đừng lo về số lượng khán giả vội. Đấy không phải lý do anh biểu diễn.”

 

“Thế à? Thế tôi chơi nhạc để làm gì nếu không phải vì khán giả?”

 

“Tôi không muốn nói thế. Điều tôi muốn nói là ở quãng này trong sự nghiệp của anh, khán giả hai mươi người hay hai trăm người không quan trọng. Tôi có nên cho anh biết vì sao không? Vì anh có nó!”

 

“Tôi có nó?”

 

“Anh có nó. Chắc chắn là thế. Anh có… tiềm năng.”

 

Cậu ghìm một tiếng cười khẩy suýt bật ra trên môi. Cậu thấy bực tức với mình nhiều hơn với bà, vì đã nghĩ bà sẽ nói kiểu như “thiên tư” hay ít nhất là “tài năng” và lập tức nhận ra mình đã tự lừa phỉnh mình thế nào mới mong chờ một nhận xét như thế. Nhưng người đàn bà vẫn đang nói tiếp:

 

“Ở quãng này, điều anh cần làm là chờ đợi cái người đặc biệt ấy đến và nghe anh. Và cái người ấy cũng rất có khả năng có mặt ở một căn phòng như thế vào một ngày thứ Ba, trong một đám khán giả chỉ hai chục người…”

 

“Có hai mươi tư người, chưa kể ban tổ chức…”

 

“Hai mươi tư, thế nào cũng được. Điều tôi muốn nói là lúc này số lượng không quan trọng. Lúc này quan trọng là cái người ấy.”

 

“Ý bà là người từ hãng thu âm?”

 

“Hãng thu âm? Ồ không, không. Cái đó tự nó sẽ đến. Không, tôi muốn nói cái người sẽ làm cho anh tỏa sáng. Cái người sẽ nghe thấy anh và nhận ra anh không chỉ là một trong những gã tầm thường được đào tạo bài bản. Rằng cho dù anh vẫn còn trong kén, nhưng chỉ cần một chút giúp đỡ, anh sẽ xòe rộng đôi cánh bướm mà bay.”

 

“Tôi hiểu. Có sự tình cờ nào khiến bà lại là cái người ấy không?”

 

“Ồi, thôi nào! Tôi hiểu anh là một chàng trai trẻ kiêu hãnh. Nhưng tôi cũng không thấy có vẻ có nhiều thầy hướng dẫn cậy cục mà đến với anh. Ít ra thì cũng không phải những người ở cỡ tôi.”

 

Bây giờ cậu mới nghĩ ra mình đang phạm phải một điều đại ngớ ngẩn, và cậu quan sát kỹ khuôn mặt người đàn bà. Giờ bà ta đã gỡ đôi kính râm, và cậu nhìn thấy một khuôn mặt về cơ bản là hiền từ và dịu dàng, nhưng hơi bực dọc và có lẽ sắp chuyển sang giận dữ. Cậu cố gắng nhìn bà, hy vọng sẽ sớm nhận ra, nhưng cuối cùng cũng buộc phải nói:

 

“Tôi xin lỗi vô cùng. Có lẽ bà là một nhạc sĩ danh tiếng?”

 

“Tôi là Eloise McCormack,” bà xưng danh với một nụ cười, và chìa tay ra. Thật không may, cái tên ấy chẳng nói lên gì cả và Tibor thấy mình tiến thoái lưỡng nan. Phản xạ đầu tiên của cậu là giả vờ kinh ngạc, và cậu thậm chí đã nói: “Thật ư. Thật là ngạc nhiên hết sức.” Rồi cậu trấn tĩnh lại, nhận ra nói suông như thế chẳng những thiếu trung thực mà còn rất có khả năng dẫn đến lộ tẩy và hổ thẹn chỉ sau tích tắc. Thế nên cậu ngồi thẳng dậy mà nói:

 

“Miss McCormack, rất hân hạnh được gặp bà. Tôi hiểu là bà sẽ không tin nổi điều này, nhưng tôi xin bà thứ lỗi cho sự non nớt của tôi lẫn việc tôi trưởng thành trong khối Đông Âu cũ, phía sau bức rèm sắt. Có rất nhiều ngôi sao màn bạc và tên tuổi chính trường là tên cửa miệng ở phương Tây song cho đến tận hôm nay tôi vẫn chưa được biết. Vì thế bà phải tha lỗi cho chuyện tôi không biết chính xác bà là ai.”

 

“Chà… thật là thẳng thắn đáng khâm phục.” Mặc dù nói thế, bà tỏ ra bị xúc phạm thấy rõ, và vẻ hào hứng ban đầu có vẻ đã nguội mất. Sau một phút lúng túng, cậu nhắc lại:

 

“Bà là một nhạc sĩ danh tiếng, phải không ạ?”

 

Bà ta gật đầu, ánh mắt đánh sang bên kia quảng trường.

 

“Lần nữa tôi xin thứ lỗi,” cậu nói. “Quả thật là vinh hạnh được một người như bà đến nghe buổi diễn của tôi. Và xin phép hỏi bà chơi nhạc cụ gì?”

 

“Cũng như anh,” bà nói nhanh. “Cello. Vì thế tối mới vào. Kể cả là một buổi diễn xoàng như của anh, tôi cũng không đừng được. Tôi không thể bỏ qua. Tôi có cảm giác về sứ mệnh, tôi nghĩ thế.”

 

“Sứ mệnh?”

 

“Tôi không biết có thể gọi bằng từ gì khác. Tôi muốn mọi người chơi cello đều chơi tốt. Đều chơi tuyệt đẹp. Nhưng quá nhiều khi, họ chơi một cách lầm lạc.”

 

“Xin phép, nhưng có phải chỉ là nhạc công cello chúng ta mắc tội trình diễn lầm lạc? Hay bà nói đến tất cả các nhạc công?”

 

“Có thể với cả các nhạc công khác nữa. Nhưng tôi chơi cello, nên tôi lắng nghe những người chơi cello khác, và khi nghe thấy một người chơi hỏng… Anh biết không, mấy hôm trước, tôi thấy vài nhạc công trẻ chơi trong sảnh Bảo tàng thành phố và mọi người cứ thế đi qua, nhưng tôi không thể không đứng lại nghe. Và anh biết không, tôi cố gắng hết sức mới ngăn được mình đến chỗ họ nói cho họ biết.”

 

“Họ chơi lỗi à?”

 

“Không hẳn là lỗi. Nhưng… chà, chỉ là nó không có đó. Nó không hề có ở đó. Nhưng anh thấy đấy, tôi yêu cầu quá nhiều. Tôi biết không nên đòi hỏi tất cả mọi người phải lên được mức tôi đặt ra cho mình. Họ chỉ là sinh viên trường nhạc thôi, tôi nghĩ thế.”

 

Bà ngả người vào ghế lần đầu tiên và nhìn ra mấy đứa trẻ, ở đài nước giữa quảng trường, đang té nước nhau ầm ĩ. Cuối cùng, Tibor nói:

 

“Hôm thứ Ba trước bà cũng cảm thấy nỗi sốt ruột ấy, có lẽ thế. Nỗi sốt ruột muốn đến chỗ tôi và đưa ra lời khuyên.”

 

Bà mỉm cười, nhưng một giây sau đã chuyển sang vẻ mặt cực kỳ nghiêm túc. “Có thể,” bà nói. “Quả là thế. Bởi khi nghe anh chơi, tôi có thể nghe được chính mình ngày xưa. Anh đừng để bụng, điều tôi sắp nói thô lỗ lắm. Nhưng thực tình là, anh không hẳn đang đi đúng đường lúc này. Và khi tôi nghe anh, tôi rất muốn giúp anh tìm đến nó. Càng sớm càng tốt.”

 

“Tôi phải nói trước là, tôi đã theo học Oleg Petrovic.” Tibor nói thẳng và chờ phản ứng của bà. Hết sức ngạc nhiên, cậu thấy bà cố nén nụ cười.

 

“Petrovic, phải,” bà nói. “Petrovic, vào thời của ông, là một nhạc sĩ đáng kính. Và tôi biết với các học trò ông ấy hẳn vẫn còn là một nhân vật đáng kể. Nhưng với rất nhiều người trong chúng ta hiện nay, những ý tưởng, những phương pháp của ông…” Bà lắc đầu và xòe đôi tay. Rồi trong khi Tibor vẫn chằm chằm nhìn bà, nghẹn lời vì tức giận, bà lần nữa lại đặt tay lên cánh tay cậu. “Tôi nói nhiều quá rồi. Tôi không có quyền làm thế. Tôi sẽ để cho anh yên.”

 

Bà đứng lên và cử chỉ này làm cơn giận của cậu lắng xuống; Tibor tính tình rộng lượng và bản tính cậu không thể tức tối được lâu. Thêm nữa, điều bà vừa nói về người thầy cũ đã làm bật lên một nốt không vui từ sâu trong lòng cậu – những ý nghĩ cậu không hẳn dám tự nói với mình. Thế nên khi cậu nhìn lên bà, nét mặt cậu trên hết chỉ cho thấy nỗi bối rối.

 

“Xem này,” bà nói, “lúc này anh chắc hẳn là quá bực tức với tôi nên không thể nghĩ về chuyện đó. Nhưng tôi muốn giúp anh. Nếu anh quyết định muốn nói chuyện tiếp, tôi đang ở ngay đằng kia. Ở Excelsior.”

 

Khách sạn này, khách sạn lộng lẫy nhất toàn thành phố, nằm ở đầu kia quảng trường từ quán cà phê, và bà đang chỉ nó cho Tibor, rồi mỉm cười, và quay người bỏ đi về đó. Cậu vẫn đang nhìn theo thì bất ngờ bà quay lại khi đến gần đài nước, khiến bầy chim câu giật mình, đưa tay vẫy cậu, rồi đi tiếp.

 

 

 

 

 

Suốt hai ngày sau cậu thấy mình nghĩ đi nghĩ lại về cuộc gặp này. Cậu nhớ lại nụ cười khinh khỉnh trên môi bà khi cậu rất đỗi tự hào xướng tên Petrovic và lại thấy cơn giận trào lên. Nhưng sau khi ngẫm nghĩ, cậu hiểu không hẳn mình tức giận cho người thầy cũ. Đúng hơn là cậu đã quen với ý nghĩa cái tên Petrovic sẽ luôn luôn gây hiệu ứng, rằng có thể nhờ nó mà lôi kéo sự chú ý và kính nể: nói cách khác, cậu đã nhiễm thói quen dựa vào nó như một thứ chứng chỉ mà cậu có thể cầm phẩy vào mặt cả thế giới. Cậu hoang mang là bởi cái khả năng tờ chứng chỉ này không hề có cái quyền lực như cậu nghĩ.

 

Cậu cũng nhớ cả lời mời của bà lúc chia tay, và trong những giờ ngồi trên quảng trường, cậu thấy mình liên tục đưa mắt nhìn về đầu bên kia, về cánh cổng lộng lẫy của khách sạn Excelsior, nơi một hàng tắc xi và limousine nối nhau không ngớt trước người gác cửa.

 

Cuối cùng, tới ngày thứ ba sau cuộc nói chuyện với Eloise McCormack, cậu băng qua quảng trường, vào sảnh lát hoa cương và nhờ lễ tân gọi lên phòng bà. Người lễ tân nói vào điện thoại, hỏi tên cậu, rồi sau vài câu trao đổi, đưa cậu ống nghe.

 

“Tôi xin lỗi,” cậu nghe giọng bà nói. “Hôm trước tôi quên hỏi tên anh nên một lúc mới đoán ra anh là ai. Nhưng tất nhiên tôi không quên anh đâu. Thực tế là tôi đã nghĩ về anh nhiều lắm. Có rất nhiều điều tôi muốn bàn kỹ với anh. Nhưng anh biết đấy, chúng ta phải làm cho đàng hoàng. Anh có mang đàn theo không? Không, tất nhiên là không. Có lẽ một tiếng nữa anh quay lại nhé, đúng một tiếng, mang cả đàn theo. Tôi sẽ chờ anh ở đây.”

 

Khi cậu trở lại Excelsior với cây đàn, người lễ tân lập tức chỉ thang máy cho cậu và nói Miss McCormack đang chờ.

 

Ý nghĩ sẽ vào phòng bà, dù đang giữa buổi chiều, khiến cậu thấy mình như đang xâm phạm chỗ riêng tư, và cậu nhẹ người khi thấy đấy là một phòng suite lớn, buồng ngủ đóng cửa khuất tầm mắt. Cửa sổ cao kiểu Pháp có cửa chớp dài, lúc này đang mở, nên hai rèm đăng ten bay phất phơ trong gió, và cậu thấy nếu bước qua đó ra ban công, cậu sẽ nhìn thẳng xuống quảng trường. Căn phòng thì, với những bức tường đá thô và sàn gỗ màu tối, có cái vẻ gần như tu viện, chỉ phần nào dịu lại nhờ hoa, gối ngồi và đồ gỗ kiểu cổ. Bà thì ngược lại, đang mặc áo phông, quần nỉ và đi giày thể thao, như vừa chạy bộ về. Bà chào cậu không kiểu cách – không mời trà cũng như cà phê – và nói ngay:

 

“Chơi cho tôi nghe. Hãy chơi bài gì anh đã chơi hôm độc diễn ấy.”

 

Bà đã đưa tay chỉ một chiếc ghế tựa đánh bóng cẩn thận đặt giữa phòng, nên cậu ngồi xuống đó và bỏ đàn ra khỏi bao. Với vẻ đủ khiến người ta lúng túng, bà tự mình ngồi xuống cạnh một khung cửa sổ để cậu gần như chỉ thấy khuôn mặt trông nghiêng, và bà cứ thế nhìn vào khoảng không trước mặt suốt trong lúc cậu lên dây đàn. Bà không đổi tư thế khi cậu bắt đầu chơi, và khi cậu kết thúc bài thứ nhất, bà không nói một tiếng. Thế nên cậu chuyển nhanh sang bài tiếp, rồi bài nữa. Đã nửa giờ trôi qua, rồi một giờ. Và có gì đó từ căn phòng tối mờ và thứ âm hưởng nhà tu của nó, từ ánh sáng chiều tán xạ qua đôi rèm phất phơ, từ tiếng xôn xao làm nền vẳng lên từ dưới quảng trường, và trên hết, từ sự có mặt của bà, đánh thức trong cậu những nốt nhạc từ những tầng sâu mới, những sắc thái mới. Khi gần hết một giờ, cậu tin chắc mình đã vượt lên trên mong đợi của bà, nhưng khi cậu kết thúc bài cuối, và cả hai đã ngồi lặng yên vài phút, cuối cùng bà cũng quay lại phía cậu trên ghế mà bảo:

 

“Được rồi, tôi đã hiểu đích xác anh đang ở đâu. Sẽ không dễ đâu, nhưng anh sẽ làm được. Chắc chắn là anh sẽ làm được. Hãy bắt đầu với bản của Britten. Chơi lại đi, chương đầu thôi, rồi chúng ta nói chuyện. Chúng ta có thể cùng làm việc với nhau, từng chút một.”

 

Khi nghe đến đây, cậu chỉ muốn dọn đàn bỏ đi tức khắc. Nhưng rồi một động cơ khác – có thể chỉ là tò mò, có thể một điều khác sâu kín hơn – đã thắng nỗi kiêu hãnh và bắt cậu chơi lại phần bà yêu cầu. Khi bà dừng cậu lại sau vài nhịp và bắt đầu nói, cậu lại thấy sốt ruột muốn bỏ về. Cậu quyết định, chỉ do lịch sự, sẽ chịu đựng bài giảng không mời này thêm năm phút nữa là nhiều nhất. Nhưng rồi cậu thấy mình ở lại thêm một chút, rồi thêm nhiều. Cậu chơi thêm nữa, bà lại nói tiếp. Lời lẽ của bà lúc đầu luôn khiến cậu thấy là tự phụ và quá trừu tượng, nhưng khi thử nhập hồn vía của nó vào cách chơi, cậu kinh ngạc trước hiệu quả đạt được. Cậu chưa kịp để ý thì một giờ nữa đã trôi qua.

 

“Tôi chợt nhìn ra một thứ,” cậu giải thích cho chúng tôi. “Một ngôi vườn tôi còn chưa bước vào. Tôi thấy nó, ở đằng xa kia. Có nhiều thứ cản đường. Nhưng lần đầu tiên, tôi thấy nó. Một ngôi vườn tôi chưa từng biết trước kia.”

 

Mặt trời đã gần lặn khi cậu rời khách sạn, vượt qua quảng trường tới khu bàn của quán, và tự thưởng cho mình một miếng bánh quả hạnh có kem, với nỗi phấn khích khó mà kìm nổi.

 

 

 

 

 

Trong suốt vài ngày tiếp, cậu trở lại khách sạn của bà mỗi chiều và khi trở về, nếu không phải trong cảm giác được khai sáng như lần đầu tiên, thì cũng tràn đầy sinh khí và hy vọng mới mẻ. Những nhận xét của bà càng lúc càng thẳng thắn, và, với một người ngoài cuộc, nếu có ai chứng kiến, có lẽ còn mang vẻ kiêu căng, nhưng Tibor lúc này không còn nhìn nhận sự can thiệp của bà theo cách đó được nữa. Bây giờ cái cậu sợ là thời gian ở thành phố của bà rồi sẽ hết, và ý nghĩ này bắt đầu ám ảnh cậu, khiến cậu không ngủ được, và phủ bóng lên bước chân cậu đi vào quảng trường sau mỗi buổi tập đầy phấn chấn. Nhưng mỗi lần cậu lưỡng lự nêu câu hỏi đó, bà luôn trả lời mập mờ và chẳng hề khiến cậu yên tâm. “Ồi, đến khi nào lạnh quá tôi không chịu được nữa,” có lần bà nói. Hoặc lần khác: “Tôi nghĩ tôi sẽ ở lại chừng nào tôi còn chưa chán.”

 

“Nhưng bà ấy thì thế nào?” chúng tôi cứ hỏi đi hỏi lại. “Khi chơi cello ấy. Bà ấy chơi thế nào?”

 

Lần đầu chúng tôi nêu câu này, Tibor không trả lời vào đề, chỉ nói đại loại như: “Bà ấy đã bảo tôi bà ấy là một bậc thầy, từ hôm đầu tiên,” rồi nói sang chuyện khác. Nhưng đến lúc nhận ra chúng tôi không chịu buông tha, cậu thở dài và giải thích cho chúng tôi.

 

Thực tế là, ngay từ buổi đầu đó, Tibor đã tò mò muốn nghe bà chơi, nhưng quá nhát không dám hỏi. Cậu đã cảm thấy chỉ một chút nghi ngờ rất nhẹ khi nhìn quanh phòng, không thấy bóng dáng cây đàn của bà đâu. Suy cho cùng bà không đem đàn theo khi đi nghỉ thì cũng tự nhiên thôi. Và lại nữa, vẫn còn khả năng có một cây đàn – có thể đàn thuê – trong buồng ngủ sau cửa đóng kín.

 

Nhưng càng nhiều lần trở lại căn phòng suite trong những buổi sau, nỗi nghi ngờ của cậu càng tăng. Cậu đã cố hết sức dẹp nó khỏi trí mình, bởi đến lúc này, cậu không còn thắc mắc dè dặt gì về những buổi gặp nữa. Nội việc bà lắng nghe đã đủ gợi lên những tầng lớp mới trong trí tưởng tượng của cậu, và những giờ ngoài các buổi tập, cậu thấy mình đang dạo một bài mới trong trí, đoán trước nhận xét của bà, cách bà lắc đầu, nhíu mày, gật đầu khuyến khích, và trên hết, những phút bà đắm mình vào một đoạn cậu chơi, mắt nhắm lại và đôi tay, gần như trái ý bà, bắt đầu đưa theo những động tác của cậu. Dù thế, nỗi nghi ngờ không chịu đi, và rồi một hôm cậu vào phòng mà cửa buồng ngủ vẫn còn mở hé. Cậu nhìn thấy lại tường đá nữa, và một thứ trông như giường bốn cọc màn kiểu Trung cổ, nhưng không hề có mặt cây đàn. Có bậc thầy nào, dù đang kỳ nghỉ, lại đi lâu đến thế mà không chạm vào đàn? Nhưng cả câu hỏi này nữa, cậu cũng dẹp khỏi tâm trí.

 

 

 

 

 

Mùa hè cứ thế trôi, họ bắt đầu kéo dài cuộc trò chuyện bằng cách cùng ghé vào quán sau buổi tập, và bà sẽ mua cho cậu cà phê, bánh ngọt, có lúc cả xăng uých. Lúc này họ nói chuyện không còn chỉ về âm nhạc – dù đề tài nào có vẻ cũng quay về đó. Ví dụ, có lần bà hỏi cậu về cô bé người Đức cậu đã thân hồi ở Viên.

 

“Nhưng bà phải hiểu, cô ấy chưa bao giờ là bạn gái tôi,” cậu bảo bà. “Chúng tôi không phải thế.”

 

“Ý anh là hai người không gần gũi về thân thể? Điều đó không chứng tỏ anh không yêu cô ấy.”

 

“Không, Miss Eloise, cái đó không đúng. Tôi rất thích cô ấy, hẳn rồi. Nhưng chúng tôi không phải người yêu.”

 

“Nhưng khi anh chơi bản Rachmaninov ngày hôm qua, anh đang nhớ lại một cảm xúc. Đấy là tình yêu, tình yêu đôi lứa.”

 

“Không phải, thật ngớ ngẩn. Cô ấy là bạn tốt, nhưng chúng tôi không phải người yêu.”

 

“Nhưng anh chơi đoạn ấy cứ như là ký ức về tình yêu. Anh còn trẻ vậy, mà anh đã biết thế nào là bỏ rơi, là phụ bạc. Đấy là vì sao anh chơi chương ba đó như thế. Phần lớn nhạc công cello khác, họ chơi về niềm vui. Nhưng với anh, đấy không phải niềm vui, đấy là ký ức về một thời có niềm vui đã qua mãi mãi.”

 

Họ nói chuyện theo kiểu ấy, và thường cậu chỉ chực đặt câu hỏi ngược lại cho bà. Nhưng cũng như chưa bao giờ dám hỏi Petrovic một câu về đời tư suốt trong thời kỳ học với ông, lúc này cậu thấy mình không thể hỏi một câu gì hẳn hoi về bà. Thay vào đó, cậu nghiền ngẫm những chi tiết nhỏ bà để lộ – rằng bà sống ở Portland bang Oregon, rằng bà đã chuyển đến đó từ Boston ba năm trước, rằng bà ghét Paris “vì ở đó chỉ toàn những liên tưởng đáng buồn” – nhưng chùn lại không dám hỏi sâu hơn.

 

Bây giờ bà đã bật cười dễ hơn nhiều so với những ngày đầu họ làm bạn với nhau, và bắt đầu có thói quen, khi hai người bước ra khỏi khách sạn mà băng qua quảng trường, đưa tay khoác lấy tay cậu. Đấy là lúc chúng tôi lần đầu phát hiện thấy cặp đôi lạ lùng này, cậu thì trông trẻ hơn nhiều tuổi thực, bà trông có lúc như bà mẹ, lúc khác “như một cô đào lẳng lơ”, như Ernesto diễn tả. Trong những ngày trước khi bắt đầu nói chuyện với Tibor, chúng tôi mất khá nhiều thời gian tán gẫu về họ, như người trong một ban nhạc thường làm. Khi họ đi qua tay trong tay, chúng tôi sẽ nhìn nhau mà bảo: “Bồ nghĩ thế nào? Họ đã có chuyện ấy rồi, hử?” Nhưng sau khi nhấm nháp cái phỏng đoán này, chúng tôi sẽ nhún vai thừa nhận rằng không có lý: đơn giản là họ không có phong thái của tình nhân. Và đến khi chúng tôi quen Tibor, và cậu kể với chúng tôi về những buổi chiều trong phòng suite của bà, không người nào còn nghĩ đến chuyện chọc ghẹo cậu hay đưa ra những ám chỉ nhảm nhí nữa.

 

Rồi một buổi chiều khi họ đang ngồi trên quảng trường với cà phê bánh ngọt, bà bắt đầu nói về một người muốn lấy bà. Tên ông ta là Peter Henderson, ông ta là chủ một doanh nghiệp phát đạt ở Oregon bán đồ nghề chơi gôn. Ông ta thông minh, tốt bụng, được mọi người quen biết nể trọng. Ông ta hơn Eloise sáu tuổi, nhưng như thế chưa phải là già. Có hai đứa con nhỏ với người vợ trước, nhưng mọi thứ đã được thu xếp êm thấm.

 

“Thế nên giờ anh hiểu tôi đang làm gì ở đây,” bà nói với tiếng cười căng thẳng cậu chưa từng nghe trước đó. “Tôi đang trốn. Peter không biết tôi ở đâu. Tôi nghĩ là tôi khá ác. Thứ Ba vừa rồi tôi gọi cho ông ấy, bảo mình đang ở Ý, nhưng không nói là thành phố nào. Ông ấy giận điên lên và tôi nghĩ ông ấy hoàn toàn có quyền đó.”

 

“Nghĩa là,” Tibor nói. “Bà đang dành cả mùa hè suy tính tương lai.”

 

“Không hẳn. Tôi chỉ đang trốn.”

 

“Bà không yêu cái ông Peter này?”

 

Bà nhún vai. “Anh ấy là người tốt. Và tôi cũng không có nhiều đề nghị trước mắt.”

 

“Ông Peter này. Ông ấy có yêu âm nhạc không?”

 

“Ồi… Nơi tôi sống bây giờ, anh ấy chắc chắn được tính là có. Nói cho cùng thì, anh ấy cũng đi nghe hòa nhạc. Và sau đó, ở nhà hàng, anh ấy nói những điều tốt đẹp về chương trình chúng tôi vừa nghe. Thế nên tôi nghĩ có thể nói là anh ấy yêu âm nhạc.”

 

“Nhưng ông ấy… có hiểu được bà không?”

 

“Anh ấy biết không phải lúc nào cũng dễ dàng khi sống với một nghệ sĩ bậc thầy.” Bà thở dài một tiếng. “Đấy là vấn đề của cả đời tôi. Với anh cũng sẽ không dễ dàng. Nhưng anh và tôi, chúng ta không hẳn có lựa chọn. Chúng ta có con đường riêng phải đi.”

 

Bà không nhắc đến Peter lần nào nữa, nhưng bây giờ, sau cuộc đối đáp đó, một khía cạnh mới đã mở ra trong quan hệ giữa họ. Những khi bà im lặng nghĩ ngợi sau khi cậu chơi, hoặc những khi, dù đang cùng ngồi trong quảng trường, bà trở nên xa vắng, nhìn ra đằng sau những cây dù gần đó, cậu không thấy có gì khó xử, và hoàn toàn không thấy bị bỏ rơi mà hiểu rằng bà thấy sự có mặt của cậu bên bà là đáng quý.

 

 

 

 

 

Một buổi chiều, sau khi cậu vừa chơi xong một bài, bà bảo cậu chơi lại một đoạn ngắn – chỉ tám nhịp – ở gần đoạn cuối. Cậu làm theo và thấy vạch nhăn vẫn còn trên trán bà.

 

“Nghe không giống như chúng ta,” bà nói và lắc đầu. Cũng như mọi lần, chỉ thấy dáng ngồi nhìn nghiêng của bà trước cửa sổ lớn. “Phần còn lại anh chơi rất tốt. Tất cả phần còn lại, đấy đúng là chúng ta. Nhưng cái đoạn này…” Bà khẽ nhún vai.

 

Cậu chơi lại theo một cách khác, dù không hẳn hiểu mình cần cái gì, và không ngạc nhiên khi thấy bà lại lắc đầu.

 

“Tôi xin lỗi,” cậu nói. “Bà có thể thể hiện ý mình rõ hơn. Tôi không hiểu cái ‘không phải chúng ta’ này.”

 

“Ý anh là muốn tôi tự chơi đoạn đó? Anh muốn nói thế phải không?”

 

Bà nói bình tĩnh, nhưng khi bà quay lại nhìn cậu lúc này, cậu ý thức được sự căng thẳng đang hiện hình giữa họ. Bà đang nhìn cậu chăm chăm, gần như thách thức, chờ câu trả lời.

 

Cuối cùng cậu nói: “Không, tôi sẽ thử lại.”

 

“Nhưng anh đang nghĩ tại sao tôi không tự đi mà chơi lấy, phải không? Mượn đàn của anh và trình bày xem ý tôi là gì.”

 

“Không…” Cậu lắc đầu với vẻ cố làm ra thản nhiên. “Không. Tôi nghĩ là tốt, phương pháp chúng ta vẫn làm rất tốt. Bà gợi ý bằng lời, rồi tôi chơi. Như thế sẽ không phải là tôi chỉ bắt chước rồi bắt chước. Lời của bà mở những cửa sổ trước mắt tôi. Nếu bà tự chơi, sẽ không có cửa sổ nào mở. Tôi sẽ chỉ bắt chước.”

 

Bà ngẫm nghĩ một lúc, rồi nói: “Chắc là anh đúng. Được rồi, tôi sẽ thử thể hiện ý mình rõ hơn.”

 

Và một vài phút tiếp đó bà nói – về sự khác nhau giữa vĩ thanh và phần nối. Rồi khi cậu chơi lại mấy nhịp đó lần nữa, bà mỉm cười và gật đầu tán thành.

 

Nhưng từ sau cuộc đối đáp nhỏ ấy, có một bóng đen đã phủ xuống các buổi chiều. Có lẽ nó đã ở đó từ đầu, nhưng giờ đã ra khỏi vỏ và lửng lơ giữa họ. Một lần khác, khi đang ngồi trên quảng trường, cậu vừa kể cho bà nghe chuyện làm sao người chủ trước của cây đàn đã túm được nó từ hồi còn Liên bang Xô viết bằng cách đổi vài chiếc quần bò Mỹ. Khi cậu kể xong, bà nhìn sang cậu với nụ cười nửa miệng lạ lùng và nói:

 

“Đấy là một cây đàn tốt. Tiếng của nó rất hay. Nhưng vì tôi chưa từng chạm vào nó, tôi không hẳn phán xét về nó được.”

 

Cậu biết bà lại đang tiến đến địa hạt nguy hiểm kia, cho nên, nhanh chóng đánh mắt đi chỗ khác, cậu nói:

 

“Với một người ở tầm vóc bà, nó không phải là một nhạc cụ tương xứng. Ngay cả với tôi hiện giờ, nó cũng không hẳn còn tương xứng.”

 

Cậu thấy mình không còn có thể trò chuyện thoải mái được nữa vì sợ bà lại sẽ phục kích và lái câu chuyện trở lại địa hạt này. Ngay cả trong những cuộc trao đổi vui vẻ nhất, một phần trong đầu cậu vẫn phải liên tục đề phòng, sẵn sàng cản lại nếu bà lại vừa tìm ra một hướng tấn công mới. Kể cả thế, cậu cũng không thể đánh lạc hướng bà luôn luôn được, và cậu quyết định giả vờ không nghe thấy khi bà nói những câu như: “Ồi, sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu tôi chỉ việc chơi cho anh nghe!”

 

 

 

 

 

Đến gần cuối tháng Chín – giờ đã thấy giá lạnh trong hơi gió – Giancarlo nhận được điện thoại của ông Kaufmann từ Amsterdam; có một chỗ khuyết cần người chơi cello trong một nhóm nhạc thính phòng nhỏ ở một khách sạn năm sao giữa trung tâm thành phố. Nhóm nhạc chơi trên ban công nhìn xuống phòng ăn một tuần bốn tối, và các nhạc công cũng có những “công việc nhẹ nhàng ngoài âm nhạc” khác trong khách sạn. Chỗ ăn chỗ ở đều có đủ. Ông Kaufmann đã nhớ ngay đến Tibor và chỗ làm này đang để ngỏ chờ cậu. Chúng tôi đem tin cho Tibor tức khắc – trong quán ngay buổi chiều ông Kaufmann gọi đến – và tôi nghĩ tất cả đều bất ngờ vì phản ứng lạnh nhạt của Tibor. Đấy hẳn nhiên là ngược lại hoàn toàn với thái độ của cậu hồi đầu mùa hè, khi chúng tôi sắp đặt buổi “diễn thử” trước ông Kaufmann. Giancarlo là người đặc biệt giận dữ.

 

“Thế thì cậu cần suy nghĩ cẩn thận đến thế là vì sao?” anh ta nạt cậu thanh niên. “Cậu còn muốn cái gì? Carnegie Hall hả?”

 

“Không phải là tôi không biết ơn. Nhưng dù sao tôi cũng cần nghĩ kỹ đã. Chơi cho người ta vừa nghe vừa nói chuyện vừa ăn. Rồi lại những công việc khách sạn nữa. Có thật như thế thích hợp với một người như tôi không?”

 

Giancarlo vốn là một người nóng tính, nên lúc này chúng tôi phải giữ không cho anh túm cổ áo Tibor và hét vào mặt cậu. Một số còn cảm thấy cần thiết phải đứng về phía cậu bé, nói rằng suy cho cùng đấy là cuộc đời cậu, cậu không việc gì phải bắt buộc nhận một công việc cậu không thích. Tình hình dần dần dịu lại, và Tibor đến lúc đó lại thừa nhận rằng công việc này cũng có những điểm lợi nếu coi là biện pháp trước mắt. Và thành phố chúng tôi, theo cậu ta nhận xét có phần vô tâm, rồi sẽ thành tù túng khi mùa du lịch đã qua. Amsterdam ít ra cũng là một trung tâm văn hóa.

 

“Tôi sẽ suy nghĩ việc này cẩn thận,” cuối cùng cậu nói. “Có lẽ anh có thể giúp tôi nhắn với ông Kaufmann là tôi sẽ báo lại quyết định trong vòng ba ngày.”

 

Giancarlo không thể nói là hài lòng vì thế – dù gì thì anh cũng đã trông đợi lòng biết ơn dạt dào – nhưng vẫn đi gọi lại cho ông Kaufmann. Trong cả cuộc tranh luận tối hôm đó, Eloise McCormack không được nhắc đến lấy một lần, nhưng chúng tôi đều rõ ảnh hưởng của bà là nguyên do mọi lý lẽ của Tibor.

 

“Con mụ đó đã biến thằng bé thành một đứa ngạo mạn,” Ernesto nói sau khi Tibor đi. “Cứ để nó mang thái độ ấy đến Amsterdam. Rồi nó sẽ được giũa cho nhẵn.”

 

 

 

 

 

Tibor chưa bao giờ nói với Eloise về lần diễn thử cho ông Kaufmann. Cậu đã định tâm kể hàng bao nhiêu lần, nhưng lần nào cũng rụt lại, và tình bạn của họ càng sâu đậm thì việc cậu từng đồng ý làm thế càng giống một sự bội ước. Thế nên tất nhiên Tibor không hề có ý định hỏi ý Eloise về diễn biến mới nhất này, hoặc kể cả để hở cho bà biết. Nhưng cậu chưa bao giờ giỏi giấu giếm, cho nên quyết định giữ bí mật với bà lại thành ra có những kết quả không ngờ.

 

 Chiều hôm đó ấm một cách bất thường. Cậu đã đến khách sạn bà ở như lệ thường, và bắt đầu chơi vài bản mới mà cậu đang chuẩn bị. Nhưng chỉ vừa sau ba phút, bà đã bảo cậu dừng và nói:

 

“Có chuyện gì đó không ổn. Tôi đã nghi từ lúc anh mới vào. Tôi đã hiểu anh rõ lắm rồi, Tibor, tôi đoán được, gần như từ lúc nghe anh gõ cửa. Bây giờ khi anh chơi thì tôi biết chắc. Không ích gì đâu, anh không thể giấu tôi đâu.”

 

Cậu đã cảm thấy rầu lòng, liền cụp mắt xuống, đã định thổ lộ can tràng mọi việc, thì bà giơ tay lên và bảo:

 

“Đây là một chuyện chúng ta không thể cứ chạy trốn mãi. Anh cứ luôn tìm cách lẩn tránh, nhưng không được gì đâu. Tôi muốn nói về chuyện đó. Cả tuần vừa qua này, tôi đã muốn nói về chuyện đó.”

 

“Thật ư?” Cậu nhìn bà kinh ngạc.

 

“Phải,” bà nói, và xoay ghế để quay mặt về phía cậu lần đầu tiên. “Tôi chưa bao giờ có ý định lừa anh, Tibor. Mấy tuần vừa qua, đối với tôi thật không dễ dàng, và anh lại là một người bạn thân thiết. Tôi sẽ phật lòng vô cùng nếu anh nghĩ tôi có bao giờ định giở mánh khóe nào với anh. Không, làm ơn, đừng tìm cách ngăn tôi lại lần này. Tôi muốn nói điều này. Nếu anh đưa tôi cây đàn ngay bây giờ và bảo tôi chơi, tôi sẽ phải nói không, tôi không thể chơi được. Không phải vì cây đàn không đủ tốt, không phải như thế. Nhưng nếu bây giờ mà anh nghĩ tôi nói dối, nghĩ tôi giả vờ đóng một vai không phải của tôi, thì tôi muốn nói anh đã nhầm. Hãy nhìn những thứ chúng ta đã cùng đạt được. Chẳng lẽ đấy không phải bằng chứng rằng tôi không nói dối? Phải, tôi đã bảo anh tôi là một bậc thầy. Chà, hãy để tôi giải thích ý tôi là thế nào. Ý tôi là tôi được ban cho một tài năng, cũng như anh. Anh và tôi, chúng ta có một thứ mà hầu hết các nhạc công cello khác không bao giờ có được, dù họ có tập luyện cực khổ thế nào. Tôi đã nhận ra được ở anh, từ phút đầu tiên nghe anh chơi trong cái nhà thờ ấy. Và cách nào đó, anh chắc cũng đã nhận ra ở tôi. Vì thế anh mới quyết định đến khách sạn này hôm ấy.

 

“Người như chúng ta không có nhiều, Tibor ạ, và chúng ta nhận ra được nhau. Chuyện tôi vẫn chưa học cách chơi cello chẳng thay đổi gì cả. Anh phải hiểu, tôi là một bậc thầy. Nhưng tôi là một người vẫn chưa lột xác. Cả anh nữa, anh vẫn chưa lột xác hoàn toàn, và đấy là điều tôi đã làm mấy tuần vừa rồi. Tôi đã cố giúp anh trút bỏ những lớp vỏ đó. Nhưng tôi chưa bao giờ định lừa dối anh. Chín mươi chín phần trăm người chơi cello không có gì bên trong những lớp vỏ, không có gì cần thoát ra. Thế nên những người như chúng ta, ta phải giúp đỡ nhau. Khi chúng ta nhìn thấy nhau trong quảng trường đông đúc, dù ở đâu, chúng ta phải đến với nhau, bởi những người như chúng ta quá ít.”

 

Cậu nhận thấy mắt bà có những giọt lệ, nhưng giọng bà vẫn vững vàng. Đến đây bà lặng yên và lại quay mặt đi.

 

“Thế nên bà tin mình là một nghệ sĩ cello đặc biệt,” sau một chốc cậu nói. “Một bậc thầy. Đám còn lại chúng tôi, Miss Eloise ạ, chúng tôi phải gom góp can đảm và tìm cách lột xác, như cách bà nói, lúc nào cũng nơm nớp không biết sẽ tìm thấy gì bên trong. Nhưng còn bà, bà không thèm quan tâm đến việc lột xác này. Bà không làm gì cả. Nhưng bà vẫn tin chắc bà là một bậc thầy…”

 

“Xin anh đừng bực tức. Tôi biết nghe có vẻ điên khùng. Nhưng chuyện là thế, đấy là sự thực. Mẹ tôi, bà nhận ra tài năng của tôi từ sớm, từ khi tôi còn nhỏ. Ít nhất tôi biết ơn bà vì thế. Nhưng những giáo viên bà tìm về cho tôi, khi tôi lên bốn, khi tôi lên bảy, khi tôi mười một, họ chẳng ra gì. Mẹ không biết thế, nhưng tôi biết. Từ khi còn rất nhỏ, tôi đã có bản năng này. Tôi biết mình phải bảo vệ tài năng của mình khỏi những người, dù thiện ý đến đâu, có thể hoàn toàn tiêu diệt nó. Thế nên tôi tránh họ. Anh cũng phải làm thế, Tibor. Tài năng của anh là điều quý giá.”

 

“Xin lỗi bà,” Tibor ngắt lời, lần này nhẹ nhàng hơn. “Bà nói bà đã chơi cello hồi còn nhỏ. Nhưng bây giờ…”

 

“Tôi đã không chạm vào đàn từ hồi mười một tuổi. Từ cái ngày tôi nói với mẹ mình không thể tiếp tục học ông Roth. Và mẹ tôi hiểu. Bà đồng ý là tốt hơn nên không làm gì cả và ngồi đợi. Điều cốt yếu là không được làm hỏng tài năng của tôi. Thời của tôi vẫn có thể sẽ đến. Được rồi, có những lúc tôi nghĩ mình đã để quá muộn. Tôi đã bốn mươi mốt tuổi rồi. Nhưng ít nhất tôi vẫn chưa làm hỏng những gì mình có từ lúc sinh ra. Tôi đã gặp rất nhiều giáo viên qua năm tháng, những người nói họ sẽ giúp tôi, nhưng tôi nhìn thấu họ. Đôi lúc khó mà nói được, Tibor ạ, ngay cả với chúng ta. Những thầy giáo ấy, họ quá… chuyên nghiệp, họ nói quá hay, anh nghe họ và ban đầu anh bị lừa phỉnh. Anh nghĩ, phải, cuối cùng cũng có người có thể giúp mình, có người thuộc về chúng ta. Rồi anh nhận ra họ chẳng phải là người ấy. Và đấy là lúc anh phải cứng cỏi mà tách mình ra. Nhớ lấy, Tibor, tốt nhất luôn là đợi. Đôi lúc tôi cũng cảm thấy khó chịu, rằng tôi vẫn còn bọc kín tài năng của mình. Nhưng tôi chưa làm hỏng nó, và đấy là điều quan trọng.”

 

Cuối cùng cậu cũng chơi cho bà nghe vài bản cậu đã chuẩn bị, nhưng họ không thể khôi phục tâm trạng thường ngày và kết thúc buổi tập sớm. Xuống đến quảng trường, họ uống cà phê, nói chuyện ít, đến lúc cậu cho bà biết kế hoạch rời thành phố một vài ngày. Cậu vẫn luôn mong muốn khám phá vùng quê quanh đây, cậu nói, thế nên cậu đã lên một kỳ nghỉ ngắn ngày cho mình.

 

“Kỳ nghỉ sẽ có lợi cho anh,” bà nói nhỏ. “Nhưng đừng đi lâu quá. Chúng ta vẫn còn nhiều việc phải làm.”

 

Cậu trấn an bà rằng cậu sẽ về sau một tuần là nhiều nhất. Dù thế, trong dáng vẻ bà vẫn còn gì đó không vui khi họ chia tay.

 

Cậu không hoàn toàn thành thực về chuyến đi: cậu chưa lên kế hoạch gì cả. Nhưng sau khi chào Eloise chiều hôm đó, cậu về nhà và gọi vài cú điện, cuối cùng cũng đặt được một giường ở một nhà nghỉ thanh niên trong vùng núi gần biên giới vùng Umbria. Cậu đến gặp chúng tôi trong quán tối hôm ấy, và ngoài việc nói với chúng tôi về chuyến đi – chúng tôi đưa ra đủ lời khuyên mâu thuẫn về việc xem gì ở đâu – cậu còn gần như bẽn lẽn nhờ Giancarlo nhắn với ông Kaufmann cậu đồng ý nhận làm.

 

“Tôi còn làm thế nào được?” cậu bảo chúng tôi. “Đến khi quay lại, tôi sẽ chẳng còn một xu.”

 

 

 

 

 

Tibor đã có một kỳ nghỉ khá thoải mái trong vùng quê của chúng tôi. Cậu không kể nhiều về nó, ngoài chuyện làm quen với vài người Đức, và đã vung tay quá trán trong các trattoria[1] bên đồi. Cậu trở lại sau một tuần, nhìn phấn chấn lên rõ rệt, nhưng cũng lo lắng hỏi cho chắc rằng Eloise McCormack không đi đâu khỏi thành phố trong thời kỳ cậu vắng mặt.

 

[1] Quán ăn bình dân (tiếng Ý).

 

Mật độ du khách đã vãn dần lúc ấy, và bồi bàn các quán đã bắt đầu mang đèn sưởi ra đặt giữa các bàn ngoài sân. Buổi chiều hôm cậu về, vào giờ thường lệ, Tibor mang cây đàn quay lại Excelsior, và hài lòng thấy không chỉ là Eloise đang chờ, mà rõ ràng là bà nhớ cậu. Bà chào đón cậu nồng nhiệt, và cũng như người khác, trong cơn lốc tình cảm, có lẽ sẽ trút lên cậu hàng đống thức ăn hay đồ uống, bà ấn cậu vào cái ghế mọi khi và sốt ruột mở bao đàn, miệng nói: “Chơi cho tôi nghe! Nào! Chơi đi!”

 

Họ đã trải qua một buổi chiều tuyệt vời. Trước đó cậu đã lo lắng không biết mọi thứ sẽ thế nào, sau lời “thú nhận” của bà và sau cách họ chia tay, nhưng sự căng thẳng hình như đã biến mất sạch sẽ, và không khí giữa hai người hòa thuận hơn lúc nào hết. Ngay cả khi, sau khi chơi xong một bản, bà nhắm mắt và bắt đầu một bài phê bình dài, nghiêm khắc về cách cậu chơi, cậu cũng không cảm thấy ghét bỏ gì, chỉ thấy cồn cào muốn hiểu lời bà càng kỹ càng tốt. Ngày hôm đó và hôm sau nữa, vẫn là như vậy: thoải mái, đôi lúc còn đùa cợt, và cậu biết chắc mình chưa bao giờ được chơi hay hơn thế trong đời. Họ không hề nhắc đến cuộc đối thoại trước khi cậu đi, bà cũng không hỏi về kỳ nghỉ ở vùng quê. Họ chỉ nói chuyện âm nhạc.

 

Rồi ngày thứ tư sau khi cậu trở về, một chuỗi những không may lặt vặt – tính cả một cái két bồn cầu rỉ nước trong phòng – khiến cậu không thể đến Excelsior vào giờ mọi khi. Đến lúc cậu đi qua quán, ánh ngày đã nhạt, bồi bàn đã thắp nến trong những bát thủy tinh nhỏ, và chúng tôi đã chơi được vài bài trong suất tối. Cậu giơ tay vẫy chúng tôi, rồi đi tiếp qua quảng trường đến khách sạn, trông như cà nhắc vì tha theo cây đàn.

 

Cậu để ý thấy người lễ tân hơi do dự trước khi gọi lên phòng bà. Rồi khi mở cửa, bà chào cậu thân thiết nhưng có vẻ hơi khác mọi khi, và trước khi cậu kịp lên tiếng thì bà đã nhanh chóng nói:

 

“Tibor, tôi thật mừng là anh tới. Tôi vừa kể với Peter mọi chuyện về anh. Đúng thế, Peter cuối cùng cũng đã tìm thấy tôi!” Rồi bà gọi với vào phòng: “Peter, anh ấy đây rồi! Tibor đây rồi. Và với cả cây đàn nữa!”

 

Khi Tibor bước vào phòng, một người to con, cứng tuổi, chậm chạp trong chiếc sơ mi cổ bẻ nhạt màu đứng lên với một nụ cười. Ông ta bắt tay Tibor rất chặt và nói: “Ôi, tôi đã nghe bao nhiêu điều về anh. Eloise tin chắc anh sẽ thành một ngôi sao sáng.”

 

“Peter kiên trì lắm,” bà thì đang nói. “Tôi biết cuối cùng anh ấy sẽ tìm thấy tôi.”

 

“Không ai trốn được tôi,” Peter nói. Rồi ông đã kéo ghế cho Tibor, rót cho cậu một cốc sâm banh từ xô đá đặt trên tủ ly. “Nào, Tibor, hãy cùng chúng tôi uống mừng cuộc hội ngộ này.”

 

Tibor nhấp sâm banh, để ý thấy Peter đã tình cờ kéo cho cậu chiếc “ghế chơi đàn” mọi khi. Eloise đã mất tích đâu đó, và trong một lúc Tibor và Peter nói chuyện, cốc trong tay. Peter có vẻ hiền hậu và hỏi rất nhiều chuyện. Tibor đã sống thế nào hồi trẻ ở một nơi như Hungary? Có sốc nhiều không khi lần đầu đến phương Tây?

 

“Tôi ước gì mình biết chơi nhạc,” Peter nói. “Anh thật may mắn. Tôi rất muốn học. Nhưng có lẽ hơi muộn rồi, tôi nghĩ thế.”

 

“Ôi, ông chẳng bao giờ nói được là quá muộn,” Tibor nói.

 

“Anh nói phải. Đừng bao giờ nói quá muộn. Quá muộn luôn chỉ là cách bào chữa. Không, sự thực là, tôi là một người bận rộn, và tôi tự nhủ mình bận rộn đến nỗi không học được tiếng Pháp, không chơi được nhạc, không đọc được Chiến tranh và hòa bình. Mọi thứ tôi vẫn muốn làm từ trước đến nay. Eloise từng chơi nhạc hồi còn bé. Tôi nghĩ cô ấy đã kể với anh.”

 

“Có, bà có kể. Tôi biết là bà ấy có rất nhiều tài năng.”

 

“Ôi, chắc chắn là thế. Ai quen cô ấy cũng sẽ thấy là thế. Cô ấy có tâm hồn nhạy cảm. Cô ấy mới là người cần những giờ học ấy. Tôi, thì chỉ là đức ông Chuối Mắn.” Ông giơ hai bàn tay lên và cười. “Tôi rất muốn chơi dương cầm, nhưng anh còn làm gì được với bàn tay thế này? Rất thích hợp với công việc đào đất, và dòng họ tôi đã làm thế từ nhiều thế hệ. Nhưng còn cô ấy,” ông giơ cốc về phía cửa, “cô ấy thì có tâm hồn nhạy cảm.”

 

Cuối cùng, Eloise cũng hiện ra từ buồng ngủ trong váy dạ tiệc và rất nhiều trang sức.

 

“Peter, đừng làm Tibor phát chán,” bà nói. “Anh ấy không thích đánh gôn đâu.”

 

Peter giơ hai tay ra nhìn Tibor cầu khẩn. “Nói tôi nghe, Tibor. Tôi đã nói với anh một chữ nào về đánh gôn chưa?”

 

Tibor nói cậu cần đi thôi, nói cậu thấy mình đang làm vướng hai người sắp đi dùng bữa tối. Câu này vấp phải sự phản đối từ cả hai người, và Peter nói:

 

“Anh nhìn tôi xem. Trông tôi có giống mặc để ăn tối hay không?”

 

Và dù Tibor nghĩ ông mặc cực kỳ đàng hoàng, cậu cũng cười lên một tiếng cho lịch sự. Rồi Peter nói:

 

“Anh không thể đi mà chưa chơi gì cả. Tôi đã nghe kể bao nhiêu về tiếng đàn của anh.”

 

Bối rối, Tibor thực tế đã bắt đầu kéo khóa bao đàn, nhưng Eloise đã nghiêm khắc lên tiếng với một thái độ mới trong giọng nói:

 

“Tibor có lý. Đã muộn rồi. Nhà hàng trong thành phố này, họ không giữ bàn nếu không đến đúng giờ đâu. Peter, anh thay đồ đi. Có lẽ cạo râu nữa? Em sẽ tiễn Tibor đi. Em cần nói chuyện riêng với anh ấy.”

 

Trong thang máy, họ cười với nhau thân mật, nhưng không nói gì. Khi ra đến ngoài, họ thấy piazza đã thắp sáng cho buổi tối. Trẻ con quanh đây, đã quay lại sau kỳ nghỉ, đang đá bóng hoặc chạy đuổi nhau vòng quanh đài phun. Dân chúng đã đổ hết xuống quảng trường trong giờ đi dạo hoàng hôn, và tôi nghĩ tiếng nhạc từ quán tôi chắc đã vượt không gian đến tận chỗ họ đang đứng.

 

“Chà, thế đấy,” cuối cùng bà nói. “Anh ấy đã tìm thấy tôi, nên tôi nghĩ anh ấy xứng đáng với tôi.”

 

“Ông ấy là một người cực kỳ dễ mến,” Tibor nói. “Bà định quay lại Mỹ luôn à?”

 

“Vài ngày tới. Tôi nghĩ tôi sẽ quay lại.”

 

“Bà định kết hôn?”

 

“Tôi nghĩ thế.” Trong một lúc, bà nhìn cậu chăm chú, rồi quay đi. “Tôi nghĩ thế,” bà nhắc lại.

 

“Tôi chúc bà hạnh phúc. Ông ấy là một người tốt bụng. Cũng là người yêu âm nhạc. Đấy là điều quan trọng với bà.”

 

“Phải. Đấy là điều quan trọng.”

 

“Khi bà đang chuẩn bị vừa lúc nãy. Chúng tôi không nói chuyện chơi gôn, mà chuyện học nhạc.”

 

“Ồ thật à? Anh nói là cho anh ấy hay tôi?”

 

“Cả hai. Tuy thế, tôi không nghĩ sẽ có nhiều giáo viên ở Portland, Oregon có thể dạy được bà.”

 

Bà cười lên. “Tôi đã nói, rất khó cho những người như chúng ta.”

 

“Phải, tôi hiểu điều đó. Sau mấy tuần vừa rồi, tôi càng hiểu điều đó hơn bao giờ hết.” Rồi cậu thêm: “Miss Eloise, có điều này tôi cần nói trước khi chúng ta chia tay. Tôi sắp đi Amsterdam, ở đó tôi có việc làm trong một khách sạn lớn.”

 

“Anh sẽ trực khách sạn à?”

 

“Không. Tôi sẽ chơi trong ban nhạc thính phòng nhỏ trong phòng ăn tối khách sạn. Chúng tôi sẽ chơi cho khách nghe trong khi họ ăn.”

 

Cậu đang quan sát bà thật kỹ và thấy có gì đó lóe lên trong hai mắt bà, rồi lại tắt đi. Bà đặt tay lên cánh tay cậu và mỉm cười.

 

“Được rồi, thế thì chúc anh may mắn.” Rồi bà thêm. “Khách nghỉ ở đó. Họ sắp được hưởng vận may rồi.”

 

“Tôi hy vọng thế.”

 

Thêm một lúc nữa, họ vẫn đứng đấy cùng nhau, ngay sát chân luồng sáng từ mặt tiền khách sạn đổ xuống, cây cello to đùng giữa họ.

 

“Và cũng hy vọng,” cậu thêm, “bà sẽ thật hạnh phúc với ông Peter.”

 

“Tôi cũng hy vọng thế,” bà nói và lại cười. Rồi bà hôn lên má cậu và ôm nhanh cậu một cái. “Anh bảo trọng nhé,” bà nói.

 

Tibor cám ơn bà, rồi chưa kịp để ý thì cậu đã nhìn bà bước trở lại Excelsior.

 

 

 

 

 

Tibor rời thành phố chúng tôi sau đó chẳng bao lâu. Lần cuối cùng chúng tôi chạm cốc với cậu ta, cậu rõ ràng là hết sức biết ơn Giancarlo và Ernesto đã giúp tìm việc, cũng như chúng tôi đã làm bạn với cậu, nhưng tôi không thể không có cảm giác cậu có hơi ngạo với chúng tôi. Có vài người trong chúng tôi nghĩ thế, không chỉ riêng tôi, dù Giancarlo, theo bản tính anh, lúc này lại bênh Tibor, nói thằng bé chẳng qua đang phấn khích và căng thẳng về bước tiếp theo trong đời.

 

“Phấn khích à? Làm sao nó phấn khích được?” Ernesto nói. “Nó đã qua cả mùa hè nghe nói mình là một thiên tài. Làm ở khách sạn, đấy là một bước lùi. Ngồi đây nói chuyện với chúng ta, đấy cũng là một bước lùi. Nó là một thằng bé tốt lúc đầu hè. Nhưng sau những gì con mụ ấy gây ra cho nó, tôi rất mừng là chúng ta tống tiễn được nó đi.”

 

Như tôi đã nói, mọi chuyện này xảy ra đã bảy năm rồi. Giancarlo, Ernesto, tất cả ban từ hồi ấy trừ tôi và Fabian, họ đều đã tiến lên. Cho đến lúc bắt gặp cậu ta trên quảng trường mấy hôm trước, tôi đã không nghĩ đến đại danh cầm Hungary trẻ tuổi từ rất lâu rồi. Cậu ta không khó nhận ra lắm. Cậu ta đã lên cân, tất nhiên, và trông cổ đã mập hơn. Và cái lối cậu ta làm hiệu bằng ngón tay, gọi bồi bàn, có cái gì đó – cũng có thể tôi tưởng tượng – cái gì đó như sốt ruột, như khinh suất lại kèm theo thái độ có vẻ chua chát. Nhưng có thể nói thế là bất công. Suy cho cùng, tôi chỉ thoáng nhìn thấy cậu. Dù có thế, tôi cũng cảm giác cậu đã đánh mất nỗi háo hức muốn chứng tỏ mình hồi trẻ, và bộ dạng dè dặt cậu từng có hồi ấy. Nhưng chẳng có gì trên đời chỉ có mặt xấu, chắc anh sẽ nói vậy.

 

Tôi đã muốn tới đó nói chuyện với cậu, nhưng tới khi suất diễn hết thì cậu đã đi rồi. Biết đâu đấy, có thể cậu chỉ ở đây một buổi chiều. Cậu đang mặc vét – không thực sự sang trọng, chỉ là một bộ vét thường – nên có thể cậu đã tìm được việc làm bàn giấy ở đâu đó. Có thể cậu có công tác gì gần đây và qua thành phố chúng tôi chỉ để hồi nhớ chuyện cũ, ai biết được? Nếu cậu trở lại quảng trường, và nếu lúc ấy tôi không chơi nhạc, tôi sẽ tới trò chuyện với cậu ta.

Bình luận
× sticky