Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Du Học Trên Đất Mỹ

Chương 3: Phấn Đấu

Tác giả: Vương Quyên

Tháng 1 năm 2009 – tháng 12 năm 2010

Mỗi khi bạn băn khoăn lo lắng vì lạc lối, hãy lặng im cúi đầu làm tốt những việc hiện tại nên làm. Phải tin rằng mỗi một việc lớn nhỏ trong cuộc đời đều mang một ý nghĩa nào đó. Và bạn chỉ có thể nhìn thấy được vẻ đẹp của cả bức tranh sau khi chúng được ghép lại với nhau.

Đêm trước ngày khai giảng chính thức, tôi đột nhiên nhận được một bức thư từ Ủy ban tuyển sinh, họ thông báo trong số những sinh viên khóa mới còn có một sinh viên khác cũng đến từ Trung Quốc, đồng thời cung cấp cho tôi cách thức liên lạc với cô ấy. Thông tin đó hệt như chiếc phao cứu sinh kịp thời cứu sống tôi khi đang cố vùng vẫy giữa vũng lầy cô độc. Hóa ra trong buổi bồi dưỡng sinh viên mới hôm nọ, chúng tôi bị phân vào hai tổ khác nhau nên mới không có cơ hội gặp mặt. Lần đầu tiên gặp mặt Tiểu Nghệ là vào trước buổi học đầu tiên của học kỳ mới, khi đó cô ấy đứng đợi tôi trước phòng học với mái tóc cắt ngắn, làn da trắng trẻo, đôi kính gọng đen, dáng vẻ chỉnh tề, trông vô cùng xinh đẹp. Khi thấy cô ấy, tôi liền vội vàng chạy đến chào hỏi, chúng tôi ôm chầm lấy nhau một cách thân thiết, bởi gặp được đồng hương ở chốn xa lạ này là một điều vô cùng vui mừng.

Sau khi bước vào phòng học, tôi phát hiện chỗ ngồi được bố trí thành hình chữ U, hiển nhiên cách bố trí này có lợi cho việc trao đổi trực tiếp giữa giảng viên và sinh viên. Nhưng đối với một đứa hy vọng càng hạn chế tiếp xúc càng tốt như tôi, điều này đúng là một cực hình. Nhìn lướt qua một vòng, tôi và Tiểu Nghệ bèn chọn hai ghế ngồi đặt ngay góc tường.

Bài học đầu tiên của học kỳ mới, tất nhiên sẽ không thể tránh được phần tự giới thiệu toát mồ hôi hột, tuy rằng đó luôn là điều khiến tôi sợ hãi, nhưng do đã trải qua lần “diễn tập” từ mấy hôm trước, nên tình hình lần này tốt hơn đôi chút. Sau phần tự giới thiệu của hơn hai mươi thành viên trong lớp, giáo viên liền phát đề cương môn học cho chúng tôi, đó là một tập giấy khoảng 15 trang. Tôi bắt đầu cắm cúi đọc trong khi giáo viên giảng giải. Điều khiến tôi kinh ngạc là, tập đề cương đã giới thiệu tường tận mọi nội dung của môn học trong học kỳ này, mỗi tuần sẽ trình bày về nội dung gì, phải đạt được mục tiêu giảng dạy ra sao, sinh viên phải đọc những tài liệu tham khảo nào, lần lượt nộp những bài luận gì, cũng như quy cách của mỗi bài và tiêu chuẩn đánh giá.

Phải thừa nhận một điều, trong tiềm thức của một đứa vốn quen với kiểu học đối phó, và luôn tuân thủ nguyên tắc “điểm số là trên hết” như tôi, phản ứng đầu tiên chính là vội vàng lật đến phần tiêu chuẩn đánh giá, bởi tôi nôn nóng muốn biết làm cách nào mới đạt được điểm cao trong môn học này. Bạn thấy đấy, lúc mới đặt chân đến Mỹ, tôi vẫn chưa thể thay đổi được thói quen coi trọng điểm số. Nhưng ai nghĩ được rằng, trong vòng hai năm tới môi trường giáo dục của Mỹ đã thay đổi hoàn toàn quan niệm giáo dục của tôi.

Sau khi đọc đề cương một cách cẩn thận, tôi phát hiện số điểm tuyệt đối cho môn học này vẫn là 100, chỉ có điều 100 điểm đó được chia bình quân thành các mục chuyên cần, biểu hiện trên lớp, bài tập cá nhân hàng tuần, bài tập nhóm, bài luận giữa kỳ và cuối kỳ. Tức là nếu bình thường không nỗ lực, chỉ ngồi ôm mộng đạt điểm cao vào cuối kỳ là điều không thể. Bạn buộc phải tích cực phát biểu trong mỗi giờ học, đồng thời nỗ lực hoàn thành bài tập mới có thể đạt được thành tích tốt.

Tiếp sau phần giới thiệu về đề cương, giáo viên lập tức bắt đầu buổi dạy. Khi giảng về nội dung chuyên ngành, họ nói tiếng Anh rất nhanh, nội dung lại nhiều, dùng toàn thuật ngữ chuyên ngành như kiểu muốn đánh đòn phủ đầu tôi. Cô ấy nhiệt tình giảng giải, sau đó đưa ra một câu hỏi cực kỳ thâm thúy để mọi người cùng thảo luận. Trong khi tôi còn chưa nuốt trôi bài giảng và hầu như không có thời gian để suy nghĩ câu hỏi, các sinh viên người Mỹ đã bắt đầu thảo luận sôi nổi. Mỗi khi tôi chưa kịp hiểu họ phát biểu cái gì đã thấy rất nhiều người khác gật đầu tiếp tục thảo luận. Nói chung, có thể vì tôi vẫn chưa quen với phong cách giảng dạy của người Mỹ, cảm thấy xa lạ với nội dung chương trình hay tâm trạng lúc đó hơi căng thẳng, nên nửa buổi trôi qua tôi chỉ hiểu được khoảng một phần hai nội dung bài học.

Vì thế tôi quyết định thay đổi chiến lược nghe giảng trong nửa bài còn lại. Mọi người đều nói rằng trí nhớ giỏi không bằng ghi chép tốt, nên tôi đã cố gắng thử chép tối đa mọi thứ nghe thấy, sau đó ôn tập lại vào thời gian rảnh rỗi. Không ngờ sau khi chính thức áp dụng chiến lược này, tôi mới phát hiện kỹ năng nghe nói đọc viết của tôi hoàn toàn không tương thích với nhau. Lúc tôi tập trung lắng nghe thì không thể chuyên tâm ghi chép, mà phải tranh thủ tốc ký, nên tai luôn bỏ sót những thông tin quan trọng khác. Việc phát biểu càng không cần phải bàn, tai tôi thu nhận thông tin từ giáo viên thông qua sự phân tích suy luận của đại não mới hình thành nên quan điểm cá nhân, sau đó nhanh chóng tổng hợp lại thành câu tiếng Anh đơn giản khiến mọi người hiểu được, nhưng khi chuẩn bị lấy dũng khí để phát biểu, buổi thảo luận đã chuyển sang chủ đề khác. Lúc tan học, tôi và Tiểu Nghệ đều nhìn nhau ngơ ngác như từ trên trời rơi xuống, ngoại trừ phần tự giới thiệu ra, chỉ có hai chúng tôi chẳng hé răng nửa lời trong suốt buổi học.

Tôi lê cơ thể mệt mỏi bước ra khỏi phòng, cảm giác toàn thân kiệt sức như vừa trải qua một trận chiến. Tuy buổi học kéo dài chưa đầy hai tiếng, nhưng vì phải gồng sức tập trung lắng nghe nên giờ đây cảm thấy thần kinh căng thẳng cực độ. Nó khiến tôi ý thức được rằng, ngoại trừ vấn đề ngôn ngữ và ý thức ra, trong hai năm tới tôi còn phải đối mặt với một trận chiến khác, mang tên học tập. Tuy vậy, tôi vẫn cứ mơ hồ, lạc lối về tương lai khó khăn mà mình phải đối mặt. Tôi hoàn toàn mất phương hướng.

Tuần đầu tiên của học kỳ mới, tôi bận đến tối tăm mặt mũi. Về p hương diện đời sống, việc mua sắm đồ đạc trong nhà, thu dọn chỗ ở, mua thức ăn, đăng ký di động, mở tài khoản ngân hàng và đủ thứ việc lặt vặt, đã chiếm hết thời gian rảnh rỗi của tôi. Về phương diện học tập, việc phải học bốn môn khác nhau đã tàn phá nghiêm trọng lòng tự tin trong tôi. Tôi cảm thấy cuộc sống của mình hoàn toàn sụp đổ – không thể quay lại như trước đây, cũng chẳng hòa nhập nổi với cuộc sống mới. Tôi lạc hướng, không tìm thấy mục tiêu và tất cả đều tệ hại. Sau khi bàn bạc với Tiểu Nghệ, chúng tôi quyết định tìm đến những sinh viên Trung Quốc khác trong trường để học hỏi kinh nghiệm.

Một lần nữa được gặp lại những khuôn mặt quen thuộc, tôi vui như tìm thấy ánh sáng trong đường hầm vậy. Tôi hỏi những người đi trước về cách thích ứng với môi trường ở đây, họ cười nói rằng: “Năm học chỉ mới bắt đầu, tạm thời chưa phải nộp bài, nên em mới rảnh rỗi mà lo lắng những vấn đề đó. Đợi vài tuần nữa, sau khi bận rộn túi bụi em sẽ chẳng còn tâm trạng mà lo lắng những chuyện vặt vãnh như ‘thích ứng với hoàn cảnh như thế nào’ đâu.” Tôi vội phản bác: “Đây không phải chuyện vặt, nếu không thể thích ứng được thì chẳng thể yên tâm làm bất cứ việc gì.” Họ kiên nhẫn an ủi: “Không cần lo lắng, buồn bực làm gì, đợi sau khi biết thế nào là bận, tự nhiên em sẽ hiểu ra thôi.”

Câu trả lời quá mơ hồ, tôi gần như tuyệt vọng chạy đi hỏi kinh nghiệm của một chị khác, những mong chị ấy có thể truyền lại cho tôi ít “bí quyết” của một người từng trải. Nhưng nào ngờ, chị ấy cũng an ủi: “Ban đầu ai cũng thế cả, dần rồi sẽ quen thôi.” Chị ấy chia sẻ, khi mới đến chị ấy cũng cảm thấy sốc, mệt mỏi và đờ đẫn, nhưng khi mọi thứ sắp kết thúc, mới tự nhiên phát hiện bản thân trưởng thành lên rất nhiều. Lúc sắp quay về, chị còn động viên: “Bất kể xảy ra chuyện gì, cũng phải cố bình tâm lại, hãy sống cho hiện tại.”

Câu nói ấy khiến tôi như thể tìm được kho báu. Chỉ một câu nói giản đơn nhưng lại có sức lan tỏa mạnh mẽ. Bình tâm nghĩ lại, sau khi đặt chân đến Mỹ, dường như tôi chỉ biết than vãn, than vãn môi trường giống hệt nông thôn, than vãn thức ăn tệ đến mức chẳng nuốt nổi, than vãn giáo viên nói quá nhanh nghe không hiểu… ngoại trừ than vãn và tiếp nhận một cách tiêu cực, tôi chưa từng chủ động làm bất kỳ việc gì để thay đổi hiện trạng ấy. Thực ra nếu suy nghĩ theo hướng tích cực, sẽ phát hiện rất nhiều việc tôi có thể làm như: không thích môi trường ở đây – hãy đứng trên góc độ khác để thưởng thức vẻ đẹp của nền văn hóa nơi này; không thích những món ăn Tây lạnh ngắt – thì chủ động nấu ăn theo đúng khẩu vị của bản thân; sợ nghe không hiểu bài – vậy xem trước bài học ở nhà đi… Tôi vốn có thể làm được rất nhiều điều để thay đổi hiện trạng, nhưng tôi lại chẳng làm gì, chỉ biết lãng phí thời gian quý báu để than vãn một cách vô ích.

Vị bác sĩ tâm thần học người Mỹ Kübler Ross cho rằng, khi con người đối mặt với cái chết, anh ta sẽ trải qua năm giai đoạn tâm lý: Phủ định, phẫn nộ, thương lượng, uất ức và chấp nhận. Dường như tôi cũng đang trải qua một quá trình y hệt vậy khi phải thích ứng với cuộc sống du học. Đang lúc phát triển rực rỡ ở Trung Quốc, tôi lại nhổ cả gốc lẫn rễ mang đi trồng tại một mảnh đất xa lạ. Tôi đã phủ định yêu cầu cần thiết để thay đổi, cho rằng mặc kệ người khác nói gì, chỉ cần cứ theo truyền thống mà làm thì mọi thứ sẽ ổn. Tuy nhiên, với môi trường mới, độ ẩm, nhiệt độ và cả không khí xung quanh đều hoàn toàn đổi khác, tôi suy sụp nhận ra rằng tư duy và cách hành động cũ mòn chẳng thể nào giúp tôi thích nghi được với hoàn cảnh nơi đây. Tôi lo lắng, căng thẳng và phẫn nộ. Nhưng tâm trạng buồn bực ấy chẳng giải quyết được gì, đành thương lượng với chính mình, những tưởng chỉ cần cho tôi thêm chút thời gian, tự nhiên mọi thứ sẽ ổn. Nhưng cam chịu tiếp nhận một cách tiêu cực cũng chẳng ăn thua, cho đến khi trò chuyện cùng đàn chị đi trước, tôi mới nhanh chóng nhảy đến giai đoạn chấp nhận.

Kỳ thực, mỗi một người lần đầu đến với môi trường mới đều phải trải qua quá trình biến chuyển và thay đổi như thế. Nếu muốn tiếp tục tồn tại trong môi trường này, tất nhiên phải trải qua sự giày vò đau đớn, tuy nhiên mức độ ở mỗi người sẽ khác nhau. Con người chỉ khi trải qua những nỗi thống khổ đó mới dần trở nên mạnh mẽ.

Còn nhớ lúc mới bắt đầu năm học, hiệu trưởng từng nói một câu gây ấn tượng sâu sắc với tôi: Học viện Công tác xã hội không hy vọng sinh viên của mình học một cách máy móc nhằm đạt được điểm A; ngược lại, chúng tôi hy vọng mỗi sinh viên đều có thể say mê tri thức, trải nghiệm văn hóa, từ đó hưởng thụ niềm vui trong việc học. Câu nói này làm tôi nhớ lại ước nguyện ban đầu khi mới xuất ngoại: Lúc ấy quyết định ra đi vì muốn cảm nhận văn hóa và cuộc sống của đất nước khác, để mở rộng tầm mắt, tăng thêm trải nghiệm, đồng thời đạt được tiến bộ về chuyên môn. Nhưng, từ sau khi đến Mỹ, tôi đã lạc lối, tôi cho rằng chỉ có biểu hiện xuất sắc hơn người mới không phí công đến đây, nên ngay từ đầu tôi đã mù quáng mang bản thân ra so sánh với người khác, sau đó lại muốn đạt điểm số cao trong mọi môn học, dẫn đến áp lực vô cùng nặng nề.

Lời của hiệu trưởng đã đánh thức tôi. Cách thức đào tạo lâu nay khiến tôi cho rằng phải đạt điểm cao mới được xem là “sinh viên giỏi”, dường như việc học chỉ phục vụ cho thi cử, lâu dần khiến tôi quên đi ý nghĩa thật sự của nó. Tôi đột nhiên ý thức được rằng mình phải tìm lại niềm hứng thú học tập của bản thân, học cách hưởng thụ niềm vui trong việc học. Tôi không thể tiếp tục nhốt mình trong phòng, cả ngày đăm chiêu ủ dột tìm cách viết luận văn ra sao để đạt được điểm A. Ngược lại, tôi phải bước ra ngoài, đi tìm hiểu và thưởng thức nền văn hóa và phong tục cuộc sống nơi đây. Suy cho cùng, ngoại trừ kiến thức trong sách vở ra, những việc mà mỗi chúng ta làm, những người mà chúng ta tiếp xúc hay những nơi mà chúng ta từng đặt chân đến, đều là một hình thức học tập. Xã hội – bản thân nó chính là một giảng đường lớn.

Sau khi hiểu thấu mọi việc, tâm trạng tôi có sự chuyển biến rõ rệt. Tuy không thể nói đã thay đổi hoàn toàn, nhưng so với tâm trạng hoảng loạn mù quáng trước đây đã là một bước tiến dài. Trong thời gian sắp tới, mỗi khi cái cảm giác tự ti hay lo lắng đáng ghét đó trỗi dậy, tôi sẽ hít một hơi thật sâu và nhủ lòng rằng: Hãy bình tĩnh, sống trong hiện tại, hưởng thụ quá trình và xem nhẹ kết quả. Dần dà tôi đã hiểu ra một đạo lý: Mỗi khi bạn băn khoăn lo lắng vì lạc lối, hãy lặng im cúi đầu, làm tốt những việc trong hiện tại. Phải tin rằng, mỗi một việc bất kể lớn bé trong cuộc đời đều mang một ý nghĩa nào đó. Và bạn chỉ có thể nhìn thấy được vẻ đẹp của cả bức tranh sau khi chúng được ghép lại với nhau.

Ở trường tôi, chương trình thạc sĩ chuyên ngành Công tác xã hội có thời gian hai năm, áp dụng phương thức đào tạo học phần, có nghĩa trong hai năm nếu hoàn thành xong 16 học phần bạn có thể tốt nghiệp, không cần làm luận văn tốt nghiệp hay bảo vệ luận văn. Ban đầu, tôi đã vô cùng hí hửng vì điều này, nhưng sau khi bước vào giai đoạn giữa học kỳ tôi mới ý thức được, việc phải hoàn thành 16 học phần trong hai năm là một việc cực kỳ gian khó.

Sau khi trao đổi với giáo sư hướng dẫn, tôi nhận ra, nếu muốn tốt nghiệp trong vòng hai năm, mỗi năm phải tôi xử lý hết chương trình của ba học kỳ, tức học kỳ mùa xuân, mùa hè và mùa thu, hơn nữa còn phải bắt đầu thực tập càng sớm càng tốt. Tuy đa phần các môn học của năm thứ nhất đều là môn đại cương, chỉ tới năm thứ hai mới sang các môn chuyên ngành, nhưng giáo sư hướng dẫn vẫn đề nghị tôi cố gắng sớm xác định hướng nghiên cứu để hỗ trợ cho việc chọn môn và thực tập trong tương lai. Mặc dù vậy, tôi vẫn quyết định phải hoàn thành mục tiêu thích ứng với cuộc sống và việc học trong học kỳ đầu tiên, tạm thời gác chuyện xác định hướng nghiên cứu sang một bên. Nhưng ai ngờ về sau chính vì không kịp thời xác định phương hướng nghiên cứu, tôi đã lãng phí cơ hội thực tập nền tảng ban đầu, đây cũng là một bài học đối với tôi.

Tóm lại, sau khi nói chuyện với giáo sư hướng dẫn tôi bèn dốc sức cho việc học của kỳ đầu tiên. Trước khi đến đây, tôi luôn cho rằng việc học của sinh viên Mỹ cực kỳ thoải mái. Trong khá nhiều bộ phim Mỹ, tôi chẳng hề thấy cảnh họ học tập gian khổ, ngược lại, còn thường xuyên bắt gặp những cuộc party đàn đúm điên cuồng. Sau này tôi mới phát hiện ra cuộc sống học tập nơi đây thật sự quá khốc liệt. Khoảng một tháng sau khi bắt đầu lên lớp, tôi hoàn toàn nhận thức được sự sáng suốt trong lời dặn dò của đàn chị: Sau khi mọi người trở nên bận rộn, sẽ chẳng ai còn thời gian để lo lắng những vấn đề đại loại như “phải thích ứng với cuộc sống như thế nào”, bởi vì tôi hầu như dành hết thời gian và sức lực vào việc học tập nặng nề.

Ban đầu, tôi cảm thấy chỉ chọn học bốn môn trong một kỳ sẽ gây lãng phí thời gian, bởi mỗi tuần chỉ có bốn tiết học, nên trong lòng cảm thấy thấp thỏm, không biết phải sử dụng thời gian rảnh rỗi như thế nào. Về sau mới thấy sự lo lắng ấy quá ư thừa thãi, bởi bài vở quá nhiều, bốn môn học là quá đủ để khiến tôi bận túi bụi.

Về cơ bản, mỗi một giáo viên đều cung cấp cho học sinh một danh sách dài dằng dặc các sách cần đọc, tất cả đều là nội dung mà họ sẽ giảng, vì thế việc đầu tiên sinh viên cần phải làm là mua hoặc mượn số sách đó. Mỗi tuần trước khi lên lớp, giáo viên sẽ đưa những phần bài cần đọc trước, chúng thường có nội dung thuộc chương bốn đến chín, hoặc khoảng từ trang mười mấy đến trăm mấy của một cuốn sách nào đó.

Trong học kỳ đầu tiên, vì chưa có kinh nghiệm nên tôi mất rất nhiều thời gian cho việc này. Mới đầu, tôi cho rằng số sách đó chỉ để sinh viên tham khảo, nên nghĩ bụng dù không mua vẫn có thể theo kịp bài giảng, cùng lắm đến lúc ấy mượn cũng không muộn. Nhưng nào ngờ, khi bắt đầu giờ học ai cũng chất sách đầy bàn, chỉ duy nhất bàn tôi không một quyển sách, đến lúc ra thư viện mượn mới tá hỏa, sách đã bị mượn hết sạch. Khi cuối cùng sách cũng về đến tay, rất nhiều lần tôi bỏ qua không đọc hết các chương quy định. Mỗi khi tôi đọc chưa xong hoặc không hiểu mới đau khổ nhận ra mình hoàn toàn không thể tham gia thảo luận trên lớp. Vì thế mới dần hiểu, ở Mỹ, việc hoàn thành phần đọc một cách có chất lượng là yêu cầu cơ bản để học tốt một môn học.

Tôi đã thử áp dụng rất nhiều cách để hoàn thành mọi phần bài đọc nhằm theo kịp tiến độ trên lớp. Đầu tiên, tôi coi phần bài đọc về nhà của mọi môn học đều như nhau, mải miết đọc, không phân biệt quan trọng hay không, nhưng về sau phát hiện ra để đọc và hiểu hết mọi nội dung trong khoảng thời gian có hạn là điều gần như là không thể. Tôi những tưởng chính khó khăn về ngôn ngữ đã ảnh hưởng đến tốc độ và khả năng đọc hiểu của tôi, nhưng sau khi hỏi han bạn bè xung quanh mới biết, đối với người Mỹ, việc hoàn thành toàn bộ bài đọc về nhà theo đúng chuẩn cũng cực khó khăn. Vì thế, tôi bèn thay đổi chiến lược bằng cách không ngừng thử nghiệm để dần hình thành nên thói quen đọc phù hợp cho bản thân.

Nói đến thói quen đọc, tôi cần phải cảm ơn kỳ thi từng khiến tôi thù ghét năm xưa – GRE. Còn nhớ lúc ôn tập GRE, đọc hiểu chính là phần làm tôi đau đầu nhất, bởi phần đọc của GRE vốn nổi tiếng là khó hiểu. Để chinh phục được nó, lúc ấy tôi đã nghiền ngẫm rất kỹ cuốn “GRE reading 39+3”. Dù thời gian trôi qua đã lâu, nhiều chi tiết chẳng thể nhớ rõ, nhưng tôi luôn nhớ nằm lòng phương pháp đọc mang lại hiệu quả cao được nhắc đến trong sách: Bắt buộc phải đọc hai đoạn đầu và cuối của bài (tức đoạn mở và kết bài), phải đọc câu mở đầu và câu kết thúc của mỗi đoạn, phải đọc bất kỳ câu nào mang nghĩa chuyển ý, đọc hiểu sơ lược nội dung của bất cứ phần ví dụ (tức luận cứ) nào, những phần còn lại có thể đọc lướt qua khi còn thời gian.

Ban đầu khi mới học theo cách này, đơn thuần chỉ để đối phó với bài thi, tự nhủ chỉ cần qua được kỳ thi khủng khiếp đó mình sẽ chẳng bao giờ va phải những bài đọc khó nhằn như thế nữa. Nào ngờ sau khi đến đây tôi nhận ra mọi bài đọc mà giáo viên yêu cầu, đều khó tương đương với phần đọc của GRE, và cũng cho đến tận hôm nay tôi mới ý thức được tính thực dụng của phương pháp đọc được học thời đó.

Ngoài đống bài khóa không bao giờ đọc hết ra, còn một mớ luận văn khiến người ta sợ mất mật. Ở Mỹ, rất nhiều bài tập của môn chuyên ngành đều dưới hình thức luận văn. Đối với họ, luận văn không phải thứ chỉ gặp vào cuối mỗi kỳ, mà nó giống như cơm rau hàng ngày xuất hiện nhan nhản trong mọi chuyên ngành, mọi cấp bậc. Thông thường với mỗi một môn học, gần như chúng tôi đều phải nộp bài luận sau một hoặc hai tuần. Cứ “ba ngày một bài nhỏ, năm ngày một bài lớn”. Tình hình này còn thê thảm hơn đối với các chuyên ngành khoa học xã hội, thậm chí chúng tôi còn thân mật đổi tên Học viện Công tác xã hội thành “Học viện Luận văn”.

Thường những bài luận nhỏ sẽ do mỗi người tự viết (khoảng năm đến mười trang), nói chung tương đối dễ nuốt, viết nhiều rồi sẽ thành quen. Nhưng gặp phải bài luận lớn (trên mười trang) hoặc bài theo nhóm (tức một tổ cùng nhau viết một bài trên hai mươi trang) sẽ là một trải nghiệm cực kỳ đau đớn, nếu không phải vắt kiệt mọi cảm xúc thì cũng phải vật lộn trong sự hợp tác nhóm.

Ngoại trừ số lượng bài luận nhiều kinh hoàng ra, giáo viên còn rất xem trọng chất lượng từng bài, từ nội dung cho đến hình thức đều yêu cầu cực kỳ nghiêm ngặt. Về mặt nội dung, giáo viên sẽ cung cấp đề cương rõ ràng cho sinh viên khi bố trí viết luận, đồng thời đề ra yêu cầu chi tiết cho mỗi phần của bài luận, có lúc thậm chí còn yêu cầu số lượng sách tham khảo cho mỗi một bài. Chỉ cần nghiêm túc viết theo yêu cầu giáo viên đưa ra, cơ bản đều có thể hoàn thành đạt tiêu chuẩn. Về cách thức, trước đây hồi còn ở trong nước, chỉ khi viết luận văn tốt nghiệp tôi mới phải sử dụng cách thức APA.[4] Nhưng khi làm bài tập ở Mỹ, mỗi một bài đều phải tuân thủ theo mẫu APA, bao gồm những chi tiết nhỏ nhặt như khoảng cách hàng, lề, cỡ chữ, số lượng sách tham khảo, chỉ cần sai sót đôi chút thôi cũng sẽ bị trừ điểm nặng. Cụ thể về cách viết luận văn tiếng Anh, tôi đã chia sẻ rất chi tiết trong cuốn sách Săn học bổng trước đây, nên không bàn đến ở đây nữa.

Hình thức giảng dạy phong phú của giáo viên nơi đây cũng để lại ấn tượng sâu sắc trong tôi. Ngoại trừ theo phương pháp truyền thống “thầy giảng trò nghe” ra, các vị giáo sư còn thường xuyên yêu cầu mọi người thảo luận nhóm: hai, ba hoặc nhiều người gộp thành một nhóm. Vì trong lớp chỉ có tôi và Tiểu Nghệ là người Trung Quốc, nên ban đầu khi mới chia nhóm hai chúng tôi thường dính chặt lấy nhau. Về sau để khích lệ chúng tôi giao lưu nhiều hơn với những bạn học khác, giáo viên cố ý phân hai đứa vào những nhóm khác nhau. Trao đổi thảo luận với các bạn học Mỹ là một việc khiến tôi vô cùng đau đầu, bởi họ nói còn nhanh hơn và tư duy linh hoạt hơn cả giáo viên, mới đầu tôi gần như không thể bắt kịp họ.

Ngoại trừ việc thảo luận nhóm, sinh viên còn hay bị yêu cầu lên thuyết trình trong giờ học, về cơ bản mỗi môn học chỉ cần hoàn thành một bài luận lớn, sinh viên phải trình bày thành quả của bản thân trước lớp bằng hình thức thuyết trình. Mỗi khi chuẩn bị thuyết trình, tôi đều viết nháp trước và học thuộc rất cẩn thận, sau đó lên bục đọc lại như một cái máy. Trong hai học kỳ đầu tiên, tôi đều căng thẳng đến phát run mỗi khi phải thuyết trình. Cho đến khi chứng kiến một sinh viên Mỹ bên cạnh cũng run cầm cập, tôi mới nhận ra người Mỹ cũng rất sợ phải nói trước đám đông, cho dù được dùng tiếng mẹ đẻ. Phát hiện thú vị này giúp tôi không còn căng thẳng như trước nữa. Và sau này, do trải qua nhiều lần luyện tập, tôi dần khắc phục được nỗi sợ hãi đó. Mặc dù lần nào trước khi bước lên bục tôi cũng căng thẳng, nhưng mỗi khi bắt đầu nói tôi đã cảm thấy nhẹ nhàng hơn nhiều. Tôi vẫn nhớ như in một câu thoại trong bộ phim We Bought a Zoo (tạm dịch: Vườn bách thú): Đôi khi bạn càng trốn tránh, trong lòng lại càng lo lắng, nếu có thể mạnh dạn lấy hết dũng khí để bắt đầu trong 20 giây, bạn sẽ phát hiện nó thật sự không khó như bạn nghĩ. Về sau, “định luật 20 giây” đã cứu vớt tôi trong rất nhiều trường hợp.

Ngoài ra, còn các phương thức giảng dạy khác như: phân vai diễn, khảo sát thực tế, tự làm phim… Ban đầu khi còn chưa quen với các phương thức giảng dạy phong phú như thế, mỗi tiết học với tôi đúng là cực hình, tiết này qua tiết khác hệt như một loạt chướng ngại vật nối tiếp nhau buộc tôi phải vượt qua. Và mỗi khi kết thúc, tôi lại cảm thấy kiệt sức như vừa trải qua một trận cuồng phong vậy. Chính vì môn nào cũng khó nhằn, nên hầu hết thời gian ngoài giờ học tôi đều tập trung chuẩn bị bài mới, viết luận và ôn tập bài cũ, rất ít “thời gian rảnh rỗi”.

Vào tháng Ba, thời hạn cuối cho mọi bài luận sắp đến. Hầu như ngày nào tôi cũng tất tả chạy đi chạy lại giữa phòng học, thư viện và ký túc xá, bận bịu với việc đọc sách, tìm tài liệu, viết luận văn, đến mức chẳng nói chuyện với ai. Do lúc ấy vẫn chưa bắt kịp được nhịp độ của việc học tập, nên mỗi ngày tôi đều hành hạ mình đến mức mệt lử, hệt như con quay xoay mãi không ngừng, còn việc thức trắng đêm viết luận là chuyện xảy ra như cơm bữa.

Một hôm khi lên lớp, tôi bỗng chú ý đến một cuốn sổ ghi chép na ná cuốn lịch của cô bạn người Mỹ ngồi phía trước. Trộm nhìn, liền phát hiện bên trong ghi đầy những dòng chữ xanh đỏ rất bắt mắt. Sau khi hỏi ra mới biết, cuốn sổ đó gọi là sổ kế hoạch hàng ngày (planner), hầu như ở Mỹ ai cũng có một cuốn. Cô ấy nói, cuốn sổ không chỉ được dùng để lên kế hoạch cho việc học tập như: thời gian lên lớp, lúc nào viết luận, lúc nào làm đề mục, hạn nộp bài cho từng luận văn… mà còn dùng để lên lịch hàng ngày, ví dụ: thời gian hẹn hò với bạn bè, ngày nào đi mua sắm, ngày sinh nhật của người thân… Mọi thứ đều được cô ấy ghi chép vào sổ bằng nhiều màu mực khác nhau, như thế bất kể trong tuần dù bận rộn đến đâu, cô ấy vẫn dành thời gian để lên kế hoạch rõ ràng cho từng ngày, từng tuần một.

Được giới thiệu, tôi chạy ù đến siêu thị mua ngay một cuốn sổ kế hoạch hàng ngày, trong lòng vui như bắt được vàng. Tôi dùng bút bốn màu đại diện cho bốn môn khác nhau trong học kỳ này, sau đó đánh dấu hạn nộp lên sổ. Ngoài ra, tôi còn ghi chú một cách cẩn thận khoảng thời gian hoàn thành bài luận, cũng như những việc linh tinh cần làm. Cứ thế, phần lớn các ô thời gian của tháng ba, tháng tư và tháng năm nhanh chóng được điền kín. Khi tôi nhìn lại toàn bộ kế hoạch, mọi việc cần làm trong học kỳ đều trở nên rõ ràng dễ hiểu.

Từ sau khi sử dụng cuốn sổ ấy, cuộc đua với thời gian của tôi cũng bắt đầu. Mỗi tối khi lật sổ ra xem những việc ngày hôm sau phải giải quyết, tôi đều biết được những nhiệm vụ nào cần hoàn thành. Vì thế tôi luôn bắt đầu một ngày mới với mục tiêu rất rõ ràng, chẳng còn xuất hiện thứ cảm giác trống rỗng hay dây dưa nữa.

Trong môn khoa học nhận thức hành vi, có một nguyên lý rất kinh điển về mối quan hệ tác động qua lại giữa tư tưởng, tình cảm và hành vi của một cá nhân. Nói một cách đơn giản, khi trong đầu bạn nảy sinh một thứ tư tưởng tích cực, tâm trạng của bạn cũng sẽ trở nên tích cực, từ đó dẫn đến những hành vi tích cực; ngược lại, nếu tư tưởng của bạn tiêu cực, thì tình cảm và hành vi của bạn cũng trở nên tiêu cực. Vậy nên, nếu muốn thay đổi hành vi một cá nhân, nhất định phải thay đổi từ tư tưởng của anh ta.

Đó là khoảng thời gian tôi trải qua quá trình chuyển biến về tư duy. Mới đầu tôi mang thứ tư tưởng tiêu cực, oán thán hoàn cảnh, phủ định hiện thực… chính một loạt tư tưởng tiêu cực đó dẫn đến tâm trạng chán nản cực độ, từ đó tác động đến hành vi. Tôi tách mình ra khỏi thế giới bên ngoài, trốn biệt trong ký túc xá, tránh tiếp xúc với những điều mới mẻ và cũng lười đối diện với việc học. Cuộc sống trở thành một vòng tuần hoàn ác tính. Nhưng sau khi có sự chuyển biến quan niệm, hiểu ra mình phải đối mặt với vấn đề một cách tích cực thì tâm trạng và hành động cũng theo đó lạc quan và tươi sáng hơn. Cộng thêm sự trợ giúp từ cuốn sổ kế hoạch cá nhân, cuộc sống của tôi dần trở nên quy củ, hành vi tích cực sẽ sinh ra hiệu quả tích cực, thứ hiệu quả này càng củng cố tư duy tích cực trước đó. Vì thế, sản sinh ra một vòng tuần hoàn tích cực trong cuộc sống.

Cứ thế, bắt đầu từ tháng ba, tháng tư, tôi cảm nhận được cuộc sống dần đi vào quỹ đạo. Khi trở nên bận rộn, quả thật con người ta không còn thời gian để sợ bóng sợ gió, dường như tôi cũng nhanh chóng quên đi vấn đề “phải thích ứng với hoàn cảnh như thế nào”. Tuy lúc ấy vẫn còn nhiều điều khiến tôi bán tín bán nghi, vẫn cảm thấy bất an khi đến một nơi xa lạ, vẫn thiếu chút tự tin trước những khuôn mặt ngoại quốc tóc vàng mắt xanh, nhưng với tôi mọi khó khăn trước mắt dường như không còn quá hư ảo như trước kia, chúng dần trở nên có thể lượng hóa. Tôi bỗng cảm thấy chỉ cần bản thân nỗ lực hết sức, rồi mọi thứ sớm muộn cũng sẽ được khắc phục.

Khi cảm thấy việc học và cuộc sống dần đi vào quỹ đạo, còn một chuyện vẫn quấn lấy tôi không dứt – đó là nỗi sợ giao tiếp xã hội.

Kỳ thực, tôi vẫn luôn là đứa hướng ngoại, hoạt bát, vui vẻ. Tôi thích cười, thích chuyện trò, bất kể người lạ hay bạn cũ tôi đều có thể trò chuyện nhiệt tình. Bình thường, tôi cũng cực thích giao lưu với thế giới bên ngoài thông qua các diễn đàn xã hội như blog hoặc Weibo, và luôn chia sẻ cảm xúc thật với mọi người. Nhưng khi mới đến Mỹ, một người với tính cách nhiệt tình sôi nổi như tôi lại mắc phải chứng sợ giao tiếp xã hội. Trong hai năm học ở Washington University (WUSL), bất luận trên lớp hay ngoài giờ, tôi đều cố ý ngụy trang thành một đứa trầm mặc ít nói. Nếu gặp sinh viên Trung Quốc tôi mới hiện hình là chính mình, còn trước mặt người nước ngoài tôi sẽ biến thành một con bệnh mắc chứng sợ giao tiếp nặng ngay lập tức.

Từng có thời gian, tôi vô cùng sợ những giây phút giải lao giữa giờ. Mỗi khi thấy bạn bè người Mỹ bắt đầu thao thao bất tuyệt, tôi lại muốn tự đào hố chui xuống. Nếu đụng phải một cậu bạn cũng đang ngồi không tôi càng lo lắng, hệt như ngồi trên đống lửa, nhấp nhổm không yên, sợ cậu ta sẽ chủ động bắt chuyện, bởi tôi thật sự chẳng biết nói gì với họ. Vậy nên, mỗi lúc như thế tôi đều vội cúi gằm mặt xuống giả vờ như đang ghi chép hay tập trung chơi game trên điện thoại, hoặc đi quách ra khỏi phòng học. Tóm lại, chỉ cần không giao lưu ngôn ngữ hoặc tiếp xúc ánh mắt với người khác, tôi mới cảm thấy được an toàn. Đôi khi vì duy trì cảm giác an toàn ấy, trong một thời gian dài tôi chỉ chơi cùng với hội sinh viên Trung Quốc, quên mất mình đang du học ở nước ngoài.

Tôi từng nỗ lực hết sức để tìm cách khắc phục tâm lý đó, ví dụ như ép bản thân tham gia một số hoạt động và hội thảo của học viện, nhưng mỗi khi rơi vào tình huống ấy tôi lại như tên lính vừa lâm trận đã muốn đào ngũ, chỉ làm qua loa cho xong chuyện. Lạ ở chỗ, mỗi lần dùng tiếng Anh nói chuyện với các sinh viên quốc tế khác tôi đều thể hiện rất tốt, nhưng một khi phải quay lại môi trường đa phần toàn người Mỹ, cái cảm giác thôi thúc bất an, thiếu tự tin đáng ghét kia lại ập đến.

Nỗi sợ hãi cực độ đó bám theo tôi suốt hai năm trời, ban đầu tôi không hề biết lý do tại sao. Cho đến khi ở lại Mỹ làm việc, vấn đề này mới được giải quyết triệt để (xem chương 5). Giờ nhớ lại, tôi cảm thấy căn bệnh đó có thể do vấn đề trở ngại ngôn ngữ gây ra, nhưng căn nguyên sâu xa vẫn bởi tâm lý của tôi. Về mặt này, đôi khi tôi giả định người khác không hề quan tâm đến mình, bất luận tôi nói gì họ chắc chắn không muốn tiếp tục bắt chuyện. Tôi cũng hay suy diễn có thể họ không hiểu thứ tiếng Anh tôi đang sử dụng, hoặc có thể vì tôi phạm phải lỗi ngớ ngẩn trong giao tiếp mà họ cười nhạo hoặc xem thường tôi. Tôi tự động khắc sâu ý niệm “tôi là một sinh viên Trung Quốc” vào đầu, đồng thời phóng đại sự khác biệt giữa tôi và người Mỹ. Mỗi khi nghĩ đến sự bất đồng ngôn ngữ và khác biệt văn hóa, tôi liền cảm thấy mình không có bất cứ điểm chung nào với họ, về cơ bản không thể cùng nói chuyện được.

Như mối quan hệ giữa ba yếu tố tư duy, tình cảm và hành vi đã nói ở trên, chính bởi tư duy của tôi đã bó buộc bản thân tôi, vì thế mỗi khi ở cùng người Mỹ, tâm trạng tôi tự động trở nên bất an, cuối cùng dẫn đến hành vi câm lặng. Lúc ấy tôi chẳng thể hiểu nổi nguyên nhân tại sao, chỉ luôn cho rằng do bản thân không đủ giỏi, nên mới tự ti mà chẳng thể tiến bộ trong một thời gian dài. Bây giờ ngẫm lại, không dám mở miệng chủ yếu phụ thuộc vào trạng thái tâm lý mỗi người, chứ chẳng liên quan gì đến trình độ ngôn ngữ cả. Bởi những sinh viên Ấn Độ, Hàn Quốc và Nhật Bản mang khẩu âm nặng hơn, phạm nhiều lỗi khẩu ngữ hơn, nhưng họ vẫn tự tin giao tiếp với người Mỹ mà chẳng hề có bất cứ chướng ngại nào. Tóm lại, chính căn bệnh sợ giao tiếp đã trói buộc bản thân tôi trong một thời gian rất dài.

Tuy nhiên, chứng bệnh cô đơn khi du học còn khủng khiếp hơn cả nỗi sợ trong giao tiếp. Nếu sợ, tôi có thể cố gắng trốn tránh những trường hợp phải giao tiếp, nhưng cảm giác cô đơn luôn bám theo như hình với bóng, chốc chốc lại gặm nhấm thế giới nội tâm lo lắng không yên của tôi. Còn nhớ lúc vừa đến Mỹ, vào một buổi sáng cuối tuần, tôi một mình đi mua thức ăn trong siêu thị, đúng lúc đang tập trung chọn đồ, một ông người Mỹ đột nhiên dùng thứ tiếng Trung lơ lớ nói với tôi: “Chúc mừng năm mới”. Lúc ấy, tôi mới nhớ ra hôm đó là ba mươi tết, việc học tập quá ư bận rộn khiến tôi quên cả ngày tết cổ truyền.

Một mình lặng lẽ quay về nhà, ngồi ngẩn ngơ trên giường. Tôi thầm nghĩ, nếu lúc này ở Trung Quốc, có lẽ tôi đã sớm đi mua đồ sắm tết cùng mẹ, tủ lạnh trong nhà nhất định đầy ắp đủ thứ cao lương mỹ vị. Mọi người chắc đang gói bánh sủi cảo cho bữa ăn tất niên. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ, trời rét căm căm, im ắng như tờ, trên đường chẳng thấy chút màu sắc nào của tết.

Đó là cái tết đầu tiên của tôi ở Mỹ, tôi vụng về làm một nồi mì rau nóng hổi để lấp đầy cái dạ dày trống rỗng, sau đó một mình ngồi trước màn hình máy tính xem phim để xua đi nỗi nhớ quê hương. Nhưng dần dà, bạn sẽ nhận ra nỗi nhớ ấy vô cùng dai dẳng. Tuy cuộc sống hàng ngày bận rộn, đôi lúc cũng muốn ngồi thưởng thức âm nhạc, thức ăn và văn hóa mới lạ, ngắm nhìn những nghệ sĩ đường phố kéo violon cũng mang lại cảm giác thích thú, nhưng giữa những giây phút ấy, trong lòng tôi vẫn bất giác trào dâng nỗi cô đơn, hiu quạnh. Một cảm giác chẳng biết chia sẻ cùng ai: tâm sự với người thân thì sợ mọi người lo lắng, chuyện trò cùng bạn bè trong nước, họ lại chẳng thể cảm thông. Vì thế, nhiều khi chỉ biết thẫn thờ nhớ về quê xa.

Để xóa tan cảm giác cô đơn ấy, tôi cố gắng khiến bản thân trở nên bận rộn. Tôi bắt đầu học cách nấu ăn, món nào cũng tìm cách nấu thử. Trước khi xa nhà, tôi chẳng hề biết nấu nướng gì, nhưng lâu dần, tôi đã có thể chiên bánh, ninh xương, làm bánh kem, hầm canh, tuy hình thức không đẹp, nhưng vẫn cảm thấy cực kỳ thỏa mãn khi được thưởng thức những món mình tự nấu. Ngoài ra, tôi còn bắt đầu dành thời gian để đi thăm thú đó đây, tìm kiếm những cảnh đẹp ở các thành phố lân cận, chụp lại rất nhiều ảnh để chia sẻ cùng gia đình. Tuy nhiên, dù bận rộn đến đâu, cảm giác cô đơn ấy vẫn cứ xâm lấn trái tim tôi. Hoàng hôn buông xuống, ánh đèn đường lấp lánh được thắp lên, con đường trước khu ký túc xá bắt đầu huyên náo, nhưng những lúc nhộn nhịp ấy cũng chính là lúc tôi cảm thấy cô đơn nhất. Sự náo nhiệt bên ngoài như đang muốn nhắc nhở tôi, chúng không thuộc về tôi và tôi cũng không thuộc về chúng.

Nhớ lại đêm dạ tiệc của Hội du học sinh Trung Quốc ở trường, có ba anh chị khóa trên đã hát bài do họ tự sáng tác mang tên “Chầm chậm thôi”. Ca khúc này vốn nói về việc người con trai muốn tìm bạn gái phải từ từ, nhưng với tôi lúc ấy dường như bài hát đang nhắn nhủ về một thái độ đối với cuộc sống mới: Hãy sống chậm lại. Có lẽ rất nhiều du học sinh đều từng như tôi, sợ hãi giao tiếp và bị nỗi cô đơn trói buộc, và những ai sắp sửa bước lên con đường này rồi cũng sẽ phải trải qua những vấn đề y hệt. Lúc ấy tôi chẳng hề có chút kinh nghiệm, càng không biết phải làm sao, nên mới bị vấn đề đó trói chân lâu như vậy. Nếu có thể đi ngược lại thời gian, tôi rất muốn nói với bản thân mình thuở ấy rằng: Đừng vội vàng, chầm chậm thôi, hãy bình tĩnh để thời gian giải quyết, bởi thời gian là câu trả lời cho mọi điều thắc mắc, cuối cùng tất cả nghi vấn sẽ dần được hóa giải hết thôi.

Học kỳ mùa xuân đầu tiên vừa kết thúc, học kỳ mùa hè đã vội vàng ập đến. Trước đó, giáo sư hướng dẫn yêu cầu tôi nhanh chóng xác định rõ hướng nghiên cứu và sớm bắt đầu tìm chỗ thực tập. Vì thế, ngoại trừ việc lên lớp như thường lệ, tôi đã xác định hai mục tiêu lớn cho học kỳ mùa hè: thi bằng lái xe và tìm chỗ thực tập.

Bằng lái xe là một chứng chỉ quan trọng bậc nhất ở Mỹ. Sau khi có bằng lái bạn không chỉ được phép tự lái xe, mà còn có thể dùng nó thay cho hộ chiếu khi đi máy bay, thuê xe, đăng ký tài khoản ngân hàng hoặc mở thẻ tín dụng. Vì thế, đối với sinh viên quốc tế, việc lấy được bằng lái xe sẽ khiến cuộc sống vô cùng tiện lợi. Kỳ thực, khi mới đến Mỹ, vì tiết kiệm tiền nên tôi vốn không dự định mua xe, lại còn có ý định chỉ dùng xe đạp trong suốt hai năm học. Cho nên khi mới sang, tôi đã mua ngay một chiếc xe đạp, cũng từ đó gây nên rất nhiều chuyện hài hước.

Ở Mỹ, các con đường lớn thường không có làn đường dành riêng cho xe đạp, mà chỉ có hai khoảng không nhỏ bên cạnh đường. Một số bang có thể cho phép xe đạp đi ở làn đường dành cho xe gắn máy, nhưng điều này là phạm pháp tại phần lớn các bang còn lại. Một lần khi đang đạp xe trên đường, tôi cẩn thận đi nép vào khu vực nhỏ hẹp bên cạnh, nhưng rất nhiều lần suýt ngã vì tiếng còi xe hơi. Siêu thị Trung Quốc vốn khá gần chỗ ở, nhưng chuyến đi đó lại mất tới hơn nửa giờ đạp xe. Đến được siêu thị rồi, tôi phát hiện ra trong bãi đỗ xe khổng lồ không có khu vực dành riêng cho xe đạp. Nói một cách chính xác hơn, chẳng có bóng dáng chiếc xe đạp nào ở đó, tất cả đều là xe hơi. Chán nản, tôi đành phải dựng tạm chiếc xe vào lan can ngay cửa ra vào. Sau khi mua xong, tôi kinh hoàng phát hiện chiếc xe đã không cánh mà bay. Hóa ra, do phạm luật nên giám đốc đã cất chiếc xe đạp vào trong nhà kho phía sau siêu thị. Sau khi xin lỗi, tôi nhận lại xe, miễn cưỡng treo hết đồng đồ vừa mua vào hai bên ghi-đông, tất tưởi quay về. Mất gần một giờ, tôi mới về đến ký túc xá. Khi về phòng thì đã sức cùng lực kiệt.

Về sau tôi mới biết, đi xe đạp ở đa số các thành phố của Mỹ là điều rất không thực tế. Đối với họ, xe đạp chỉ như dụng cụ tập thể dục, bình thường lúc nào cũng có thể thấy họ mặc áo quần thể thao, đầu đội mũ bảo hiểm, chân mang miếng bảo vệ đầu gối, đạp xe như bay trên làn đường dành riêng cho tập thể dục. Đại đa số các thành phố ở Mỹ có diện tích rất lớn, nếu không có một chiếc xe hơi bạn chẳng thể đi đâu được, vì thế thi bằng lái xe trở thành việc quan trọng nhất mà tôi phải thực hiện.

Tôi đã thất bại trong lần thi thực hành đầu tiên. Sau khi hỏi nhân viên sát hạch mới biết, vì tôi đã không dừng đủ thời gian ở mọi nơi có ký hiệu dừng xe. “Ký hiệu dừng xe” (Stop Sign) là biển báo giao thông rất độc đáo của các quốc gia phương Tây, chuyên dựng ở những ngã tư nhỏ có lưu lượng giao thông không lớn. Mọi phương tiện giao thông khi gặp biển hiệu này phải giảm ngay tốc độ và dừng lại, sau đó căn cứ theo thứ tự trước sau mới từ từ đi tiếp. Do tôi chưa quen với loại biển báo này, nên lúc thi thực hành chỉ giảm tốc độ, chứ không hoàn toàn dừng hẳn, vì thế mới bị sát hạch viên trừ điểm. Về sau giáo viên dạy tôi đã nhiều lần nhấn mạnh, tương lai dù có lái xe ở đâu, bất kể xung quanh có phương tiện nào, hay sát hạch viên bên cạnh hay không, chỉ cần nhìn thấy biển báo dừng, nhất định phải dừng hẳn xe lại, không được do dự. Sau khi trải qua lần thử thứ hai tôi mới vượt qua vòng thi thực hành, nhận được bằng lái.

Bài học này giúp tôi hiểu được tính nghiêm chỉnh trong việc tuân thủ quy định của người Mỹ, về phương diện này họ không hề có tâm lý “đối phó”, “miễn cưỡng” hoặc “ăn may”. Trên thực tế, họ thể hiện sự nghiêm túc trong việc tuân thủ quy định ở mọi phương diện của cuộc sống. Ví dụ, tại ga tàu điện ngầm hoặc trên xe bus, thường không có người soát vé, nhưng đa phần mọi người đều tuân thủ quy định mua vé. Tại sao vậy? Bởi vì xã hội Mỹ được xây dựng trên nền tảng trung thực, ban chấp pháp giả định mỗi người đều có danh dự của riêng mình, họ tin rằng ai cũng sẽ tự giác mua vé. Nhưng nếu bạn ôm tâm lý “ăn may” trốn vé, một khi bị bắt vì bất ngờ kiểm tra, không những mọi danh dự bạn vất vả tạo dựng đều bị hủy hoại, bạn còn phải nộp phạt và dính líu đến pháp luật. Điều tệ hại hơn cả, nếu trước đây bạn từng bị khởi tố vì trốn mấy đồng tiền vé, rất có thể sẽ tạo nên hiệu ứng cánh bướm cho việc sau này bạn xin mở thẻ tín dụng, vay tiền mua xe hoặc mua nhà. Vì thế, do mức độ chấp pháp nghiêm ngặt của Mỹ, nên đại đa số mọi người đều rất tự giác chấp hành quy định, hơn nữa sự tự do và bình đẳng mà xã hội Mỹ tôn sùng cũng được xây dựng dựa trên sự tôn trọng và tuân thủ pháp luật.

Tuy mức độ chấp pháp của người Mỹ cực nghiêm, nhưng lại rất có tình người trong nhiều trường hợp. Tôi muốn nói đến lần đầu tiên ra tòa khi tôi lái xe phạm luật ở Mỹ. Vào học kỳ mùa hè, sau khi vừa có được bằng lái xe, tôi bèn mua ngay một chiếc xe cũ trên mạng. Tối hôm ấy, tôi với đứa bạn cùng ký túc xá lái xe đi mua sắm, vì chưa thuộc đường nên lái lòng vòng hồi lâu, và muốn về nhà. Đúng lúc xe đang đi trên một con phố lớn, không có chỗ để quay đầu, chúng tôi bèn rẽ trái đi vào một con phố nhỏ hơn. Sau khi rẽ vào mới biết đây là đường một chiều, lúc lái đến cuối phố, do phía trước đang thi công nên đường bị phong tỏa. Lúc ấy trời đã rất tối, tìm xung quanh chẳng thấy được lối ra. Bất lực! Sau khi xác định không còn xe nào khác trong con phố đó, chúng tôi bèn quay đầu, đi ngược chiều ra ngoài.

Nào ngờ tôi vừa ra khỏi con phố liền lập tức bị một chiếc xe cảnh sát đuổi theo cùng tiếng còi hú nhức óc vang lên. Lúc ấy tôi sợ xanh mặt, cảm giác huyết áp như đang xông lên tận đỉnh đầu. Chiếc xe cảnh sát bám sát phía sau, khi thấy hiệu lệnh “dừng xe tấp vào lề” của họ qua kính chiếu hậu, tôi liền ngoan ngoãn tuân theo. Lúc ấy, toàn thân tôi bủn rủn, nhũn như sợi bún, cảnh tượng ấy tưởng rằng chỉ xảy ra trên phim, thế mà đã xảy ra đối với tôi, thật quá khó tin!

Tôi nhìn chằm chằm nhất cử nhất động của viên cảnh sát từ kính xe bên trái. Anh ta chậm rãi xuống xe, nói gì đó vào chiếc bộ đàm, sau đó từng bước tiến về phía chúng tôi. Tim tôi đập ngày càng nhanh cùng với nhịp bước chân của viên cảnh sát. Khi anh ta đứng ngay cạnh cửa xe, tôi căng thẳng đến mức mồ hôi ướt đầy lưng áo, như thể trong cốp xe có giấu một cái xác mới bị giết vậy. Viên cảnh sát đẹp trai “tặng” tôi một tấm vé phạt trị giá 120 đô-la với lý do đi ngược chiều. Mặc dù tôi đã cố giải thích với anh ta về vấn đề con đường đang thi công, nhưng có vẻ anh ta chẳng hứng thú gì. Anh ta cúi xuống, dựa người lên cửa sổ xe nói với tôi: “Thưa cô, nếu cô không hài lòng về cách thi hành của tôi, cô có thể ra tòa để họ phân xử.” Vì tôi biết mình đi ngược đường là có lý do, chứ không phải không hiểu luật hay cố ý, nên tấm vé phạt của viên cảnh sát quả không thuyết phục, vậy nên tôi quyết định ra tòa tranh cãi cùng anh ta.

Từng có một đàn chị nói với tôi, sống ở Mỹ giống như việc mua một tấm vé vào tham quan sở thú vậy, chỉ khi xem hết một lượt mọi con thú trong đó, mới xứng đáng với số tiền bỏ ra. Ban đầu tôi cảm thấy việc ra tòa ở Mỹ là việc làm thật sự điên rồ, nhưng sau khi lắng nghe câu chuyện đầy ẩn ý của chị ấy, tôi quyết định xem đây là một trải nghiệm mới mẻ, cứ coi như việc đi xem rắn độc khiêu vũ cùng cô gái thôi. Vì vậy, tôi lên mạng tìm hiểu rất nhiều kinh nghiệm về quy trình ra tòa ở Mỹ, đồng thời luyện tập nghiêm túc những từ ngữ biện hộ, thậm chí còn vẽ một sơ đồ về tình hình con đường lúc ấy để trình bày khi gặp quan tòa. Tôi tưởng tượng bản thân như một nữ sĩ đang chuẩn bị quyết đấu cho chính nghĩa, tích lũy sức mạnh cho ngày ra chiến trường.

Lần đầu tiên ra tòa, quang cảnh trong tòa án thật sự khiến tôi ngạc nhiên. Tôi cho rằng khung cảnh trong tòa án phải hoành tráng, nghiêm trang như trong phim, nhưng nào ngờ nó chỉ là một căn phòng họp khá nhỏ. Tại một góc phòng chất đầy vé phạt giao thông của rất nhiều người. Một góc khác, vị quan tòa đang ngồi nghiêm trang, bên cạnh có hai thư ký và một viên kiểm soát. Sau khi chờ một hồi lâu, cuối cùng vị quan tòa cũng gọi tên tôi. Tôi bước lên phía trước, vị quan tòa bắt đầu hỏi: “Cô có nhận tội không?” Tôi ngẩn người hồi lâu, sau đó vội vàng lắc đầu không thừa nhận. Đúng lúc tôi sắp sửa tranh luận, quan tòa liền ra dấu tôi có thể đi, vì người không thừa nhận vi phạm, tòa sẽ phải hẹn lần hai, lúc ấy mới cần tự biện hộ.

Vài tuần sau, cuối cùng phiên tòa thứ hai đã đến. Nghe mọi người nói, trong phiên tòa này chỉ cần tay cảnh sát viết vé phạt không xuất hiện, tôi sẽ tự động thắng kiện. Vì thế, tôi vẫn luôn âm thầm cầu nguyện tay cảnh sát sẽ bận hoặc ngủ quên, hay quên mất sự việc đó vào ngày diễn ra phiên tòa. Tóm lại, miễn là anh ta không xuất hiện ở phiên tòa là được. Nào ngờ, ngay hôm xét xử, khi tôi vừa bước vào đã thấy một nhóm cảnh sát đang chờ sẵn ở cửa, họ đều đến để tranh biện cho các loại vé phạt. Sau khi tìm kiếm một hồi, tôi tuyệt vọng trông thấy tay cảnh sát đẹp trai đang đứng ở góc tường, đột nhiên cảm giác thất vọng não nề ập đến.

Cuối cùng cũng đến lượt tôi, tôi đưa cho quan tòa xem sơ đồ hình vẽ, đồng thời giải thích cặn kẽ tình hình đêm hôm ấy. Tôi nói với ông ta, không phải tôi không biết quy định cấm đi đường một chiều, nhưng do đường đang thi công bị phong tỏa nên bất đắc dĩ mới phải làm vậy. Phía cảnh sát biện luận rằng, phía cuối đường một chiều có lối ra, không cần phải quay ngược trở lại. Tôi tiếp tục tranh cãi, do trời tối nên đi lại bất tiện, lúc ấy tôi không hề nhìn thấy lối ra. Chúng tôi đã đấu khẩu rất nhiều chỉ vì chi tiết này. Cuối cùng, trước thái độ kiên quyết của tay cảnh sát, tôi đành phải thành thực nói với quan tòa rằng, tôi là người nước ngoài, nên thực sự không quen thuộc đường xá ở đây, sau đó liên tục nhận lỗi. Lúc ấy, tôi cho rằng mình đã thua, nên thầm nghĩ: “Thôi xong, quan tòa và cảnh sát đều là dân Mỹ, đây lại là địa bàn của họ, đương nhiên họ sẽ xử cho người Mỹ thắng, sao thông cảm cho người nước ngoài như mình được? Thật là tự chuốc họa vào thân…”

Đúng lúc đang cảm thấy lực bất tòng tâm, vị quan tòa nghiêm nghị bỗng nở nụ cười đầy thiện ý, ông ấy nhìn tôi và bảo: “Khách quan mà nói, quả thật cô đã phạm luật, nhưng cô cũng có lý do hợp lý. Đường xá ở đây thật sự hơi rắc rối, phải có biển báo rõ ràng hơn mới được, vì thế phía giao thông cũng phải chịu một phần trách nhiệm. Cho nên, tôi quyết định giảm mức phạt từ 120 đô-la xuống còn 80 đô-la, đồng thời sửa vé phạt từ ‘tội lái xe sai quy định’ thành ‘tội dừng xe sai quy định’. Chúc cô may mắn và bình an!” Tôi vui mừng khôn xiết khi nghe xong phán quyết này.

Ở Mỹ, giấy phạt lái xe sai quy định có nghĩa bạn đã phạm luật giao thông trong quá trình lái xe. Nếu nhận phải giấy phạt này, không những phải nộp phạt, mà còn bị trừ điểm trên bằng lái, ngay cả bảo hiểm xe cũng tăng lên, cái giá phải trả sẽ rất nặng nề. Nhưng hậu quả của giấy phạt dừng xe sai quy định lại nhẹ hơn nhiều, chỉ cần nộp tiền phạt là ổn. Vì thế, sau khi trải qua lần tự biện hộ đó, không những được giảm tiền phạt xuống, mà số điểm trên bằng lái và tiền bảo hiểm vẫn không bị ảnh hưởng, đúng là thắng lợi to lớn!

Sau lần ấy, thái độ chấp pháp nghiêm ngặt và xử án công bằng của người Mỹ khiến tôi thật sự kinh ngạc, phong cách làm việc rất có tình người của họ đã để lại ấn tượng sâu đậm trong tôi. Từ đó, tôi cũng luôn có ý thức lái xe vô cùng cẩn thận, bất luận vào thời điểm nào. Luật thế nào tôi làm thế ấy, không còn dám ôm tâm lý ăn may, giở trò khôn lỏi nữa.

Ngoài bằng lái, mục tiêu khác trong học kỳ mùa hè này chính là tìm chỗ thực tập. Ở trường chúng tôi, chương trình thạc sĩ ngành Công tác xã hội phải bao gồm chín học phần thực tập, tổng cộng 1080 giờ, trong đó còn phân thành thực tập đại cương và thực tập chuyên ngành. Tuy học viện đã cung cấp rất nhiều thông tin chi tiết về các tổ chức đoàn thể tại St. Louis cho sinh viên, nhưng cụ thể phải đến đâu thực tập, xin như thế nào, phân bổ số học phần ra sao, tất cả đều do sinh viên tự quyết định.

Thật ra, rất nhiều chuyên ngành trong các trường đại học ở Mỹ chú trọng đến sự kết hợp giữa tri thức và thực tiễn, không chỉ sinh viên hy vọng thông qua thực tập để củng cố kiến thức đã học, mà giáo viên cũng yêu cầu và động viên sinh viên dùng những thứ học hỏi được từ việc thực tập để thảo luận và viết bài. Rất nhiều công ty Mỹ khi tuyển dụng, đều dành riêng vị trí thực tập phù hợp cho sinh viên các trường đại học, họ chủ động tạo ra nhiều cơ hội tiếp xúc thực tế hơn cho sinh viên. Rất nhiều sinh viên sau khi thực tập đã trở thành nhân viên chính thức sau khi tốt nghiệp, do đã thể hiện xuất sắc trong thời gian thực tập. Vì thế ở Mỹ, thực tập là một việc vô cùng quan trọng và nghiêm túc, nếu nắm bắt tốt cơ hội đó, tỉ lệ tìm được việc làm sau khi tốt nghiệp sẽ tăng lên đáng kể; nếu không biết nắm bắt, sẽ lãng phí một cơ hội tuyệt vời.

Theo lý, tôi phải xác định rõ hướng nghiên cứu chuyên ngành ngay từ học kỳ mùa hè, nếu thế tôi có thể thực hành được những thứ đã học, thông qua hai cơ hội thực tập đại cương và thực tập chuyên ngành. Tuy nhiên, lúc ấy tôi vẫn đang trong trạng thái mù mờ, cộng thêm bệnh lề mề, nên vẫn dây dưa chưa quyết phương hướng nghiên cứu. Cho đến khi rất nhiều bạn học đã xác định xong đơn vị thực tập, tôi mới bắt đầu tá hỏa. Lúc ấy do thời gian đã trễ, học kỳ mùa hè bước vào giai đoạn cuối, học kỳ mùa thu lại sắp bắt đầu, nên tôi gửi bừa vài bộ hồ sơ trong tình trạng không rõ mục tiêu, không hề hay biết mình sắp mất đi một cơ hội tuyệt vời.

Sau một thời gian, cuối cùng tôi cũng có được cơ hội phỏng vấn với một tổ chức phi lợi nhuận có quy mô siêu nhỏ, chuyên cung cấp miễn phí các hoạt động sau giờ học cho học sinh tiểu học. Cụ thể là cung cấp môi trường nghỉ ngơi và học tập cho trẻ em, trong khoảng thời gian từ khi tan học buổi chiều cho đến khi bố mẹ đến đón về. Tôi đã được nhận sau cuộc phỏng vấn đơn giản. Tuy công việc không khiến tôi hứng thú lắm, nhưng do vấn đề thời gian, tôi không còn kịp tìm một chỗ thực tập khác, nên sau khi nhận được công việc duy nhất này, tôi đành phải chấp nhận. Đồng thời tôi còn may mắn tìm được một việc làm thêm ở thư viện Đông Á của trường. Vậy là, sau khi học kỳ mùa thu bắt đầu, cuộc sống của tôi cũng trở nên bận rộn hơn, ngày nào cũng quẩn quanh vòng tuần hoàn lớp học, thư viện, đơn vị thực tập và ký túc xá.

Nói thật, lúc đầu khi làm báo cáo thực tập, tôi cứ viết rồi xóa, sửa đi sửa lại, không biết phải bắt đầu từ đâu. Tôi muốn được hãnh diện chia sẻ cùng mọi người những điều đã học được từ công việc thực tập, muốn kể cho họ tôi đã tiến bộ như thế nào, nhưng thành thật mà nói, bây giờ nghĩ lại, tôi cảm thấy chẳng học được gì từ công việc đó cả. Đương nhiên, do là một tổ chức của Mỹ, quản lý và khách hàng đều là người Mỹ, nên tôi đã có cơ hội trải nghiệm cảm giác được làm việc cùng họ, đồng thời khả năng ngôn ngữ cũng được cải thiện. Nhưng xét trên góc độ chuyên môn, tôi thấy mình chẳng học được gì để ứng dụng cho kiến thức chuyên môn sau này.

Công việc thực tập của tôi rất đơn giản, chẳng qua cái tên nghe mỹ miều mà thôi – quản lý hành vi trên lớp học, trên thực tế, chính là đợi học sinh đến, tôi sẽ phụ trách dẫn chúng vào phòng, phát thức ăn vặt và nước. Sau khi giáo viên bắt đầu giảng bài, tôi phải ngồi cạnh, vẽ tranh cùng chúng, tổ chức trò chơi và giúp chúng trả lời câu hỏi. Nếu có đứa không nghe lời, tôi phải khuyên bảo hoặc răn đe. Khi buổi học kết thúc, tôi đưa bọn trẻ lên xe an toàn. Chương trình này có một bộ giáo trình tự soạn, thứ sáu hàng tuần phải bố trí các hoạt động khác nhau: Có lúc dạy chúng cách kết bạn ra sao, nâng cao sự tự tin như thế nào…; có lúc sẽ dạy nấu các món ăn của nhiều nước khác nhau; lúc khác lại dạy vẽ tranh hoặc tập yoga, hay tổ chức buổi đọc sách. Vì thế, căn cứ trên chương trình đã được thiết kế sẵn ngày hôm đó, vai trò của tôi cũng thay đổi một cách linh hoạt giữa giáo viên, đầu bếp, họa sĩ, hay huấn luyện viên yoga.

Thực ra, công việc thực tập này vốn không tệ, bởi nó được mở ra nhằm phục vụ cho những sinh viên muốn làm chuyên gia tư vấn tâm lý học sinh tiểu học trong tương lai. Tuy nhiên, chính vì cứ trì hoãn việc xác định hướng nghiên cứu, nên tôi chẳng biết phải tận dụng cơ hội này thế nào. Hơn nữa tôi cũng không hiểu rốt cuộc bản thân muốn học được điều gì từ công việc này, cũng như làm sao để kết hợp nó với bài học trên lớp. Lúc ấy, tôi chỉ muốn mau chóng hoàn thành số giờ thực tập, để được tốt nghiệp sớm, nên hoàn toàn không đặt tâm tư tình cảm vào công việc thực tập. Hậu quả của sự mù quáng đó là trong hai học kỳ tiếp theo, sau khi hoàn thành toàn bộ số giờ thực tập đại cương, ngoại trừ học được cách tập yoga, nấu cơm cà ri Ấn Độ, đọc vô số loại sách dành cho thiếu nhi, đồng thời có thể dùng tiếng Anh giao lưu với trẻ em Mỹ một cách lưu loát ra, tôi chẳng có được chút tiến bộ nào về chuyên môn.

Xét trên góc độ này, tôi cảm thấy mình hoàn toàn thất bại trong lần thực tập đầu tiên ở Mỹ. Tôi đã kết thúc năm học thạc sĩ đầu tiên của mình một cách đầy tiếc nuối bằng sự thất bại đó. Nếu có thể bắt đầu lại, tôi nhất định sẽ nghiên cứu cẩn thận mọi hướng nghiên cứu mà tôi được học ngay từ học kỳ đầu tiên, sẽ tham khảo ý kiến từ các giáo sư, giáo viên hướng dẫn, những sinh viên khóa trước nhiều hơn, tìm hiểu cụ thể phải học những gì cho các hướng nghiên cứu khác nhau, tương lai có tiềm năng phát triển nghề nghiệp ra sao, từ đó sớm nỗ lực xác định phương hướng, và lựa chọn nơi thực tập phù hợp. Tuy nhiên, trên đời làm gì có chữ nếu, chính kinh nghiệm thất bại đó mới khiến tôi nhận rõ tầm quan trọng của việc thực tập. Sau này, tôi đã vô cùng nỗ lực lựa chọn địa điểm thực tập chuyên ngành, không dám qua loa nữa.

Năm 2009 dường như là năm dài nhất trong cuộc đời tôi, bởi trong năm này đã xảy ra rất nhiều sự kiện. Đầu năm, tôi đặt chân đến Mỹ như tôi hằng mơ ước, và bắt đầu dùng chính đôi tay mình tạo dựng nên tương lai ở một thế giới hoàn toàn mới. Năm ấy, dấu ấn quan trọng nhất chính là bản thân đã trở nên trưởng thành hơn. Tôi đã học được cách nấu ăn, lái xe, hay làm thế nào để một mình đứng vững trong môi trường xa lạ. Về mặt học tập, tôi biết cách lập kế hoạch một cách hợp lý. Lật giở cuốn sổ kế hoạch hàng ngày dày cộm, được đánh dấu chi chít những việc mà tôi đã hoàn thành trong năm qua, tuy thời gian ấy rất bận rộn và mệt mỏi, nhưng vô tình đã học được rất nhiều điều bổ ích. Dần dà việc đọc sách không còn quá khó khăn như trước, viết luận văn cũng trở nên điêu luyện hơn. Bất luận kiến thức chuyên môn hay năng lực ngôn ngữ, tất thảy đều được âm thầm tích lũy và tiến bộ.

Cũng trong năm này, tầm nhìn của tôi đã trở nên rộng lớn hơn, nên đã ý thức được bản thân trong quá khứ giống ếch ngồi đáy giếng biết bao. Sau khi đến Mỹ, tôi gặp nhiều kiểu người với đủ màu tóc, màu da, hay ngôn ngữ và khẩu âm cũng muôn hình vạn trạng. Mỗi người họ đều đến từ những quốc gia và nền văn hóa khác nhau, nhưng lại vui vẻ, tôn trọng lẫn nhau để cùng chung sống trong một “lò luyện”. Ban đầu, tôi rất khó chấp nhận sự đa dạng văn hóa đó, bởi nó quá khác so với những gì tôi quen thuộc. Về sau tôi mới dần ý thức được, người ta khác mình không có nghĩa họ cổ quái, và càng không có nghĩa họ sai lầm. Mà họ chỉ khác với mình mà thôi. Các nền văn hóa trên thế giới vô cùng đa dạng phong phú, và tất cả đều bình đẳng. Tôi không nên hẹp hòi trong việc nhìn nhận nền văn hóa và người dân nước khác, mà phải dũng cảm chấp nhận, yêu thích những điều mới lạ, đồng thời biết chọn lọc những điểm tinh hoa của họ để học hỏi. Chỉ có vậy tôi mới trở nên khoan dung hơn.

Cũng trong năm ấy, do vừa trải qua một kỳ thực tập thất bại, nên tôi đã nhận thức được tầm quan trọng của việc hoạch định cuộc đời. Nói đơn giản, bất kỳ việc gì cũng đều cần phải có sự chuẩn bị trước, nếu không tất sẽ xôi hỏng bỏng không. Một cuộc đời không được lên kế hoạch giống như một mớ hỗn độn, chỉ khi có kế hoạch ta mới trở nên rõ ràng và sống có phương hướng. Cuộc đời là như thế và việc học cũng vậy. Sau lần thực tập thất bại ấy, tôi đã bắt đầu suy nghĩ một cách nghiêm túc về hướng nghiên cứu tiếp theo. Lâu nay tôi vẫn biết chắc mình hy vọng tương lai được làm việc cùng với các em nhỏ hoặc học sinh, nhưng không xác định rõ sẽ làm việc trong hoàn cảnh như thế nào. Sau khi nghiên cứu, suy nghĩ và phỏng vấn, cuối cùng tôi phát hiện, mình thật sự có hứng thú với tư vấn tâm lý lâm sàng.

Điều may mắn là trong Học viện Công tác xã hội có rất nhiều hướng nghiên cứu cho sinh viên lựa chọn. Nếu không tìm thấy hướng yêu thích, bạn có thể tự thiết lập nên một hướng riêng để thỏa mãn sở thích của bản thân. Chính vì vậy, cuối năm 2009, sau một thời gian dài trao đổi cùng giáo sư hướng dẫn, cuối cùng tôi đã xác định được hướng nghiên cứu kết hợp giữa “nhi đồng, thanh thiếu niên và gia đình” với “Sức khỏe tinh thần[5]”. Nói một cách đơn giản, tôi hy vọng tương lai có thể trở thành một chuyên gia tư vấn tâm lý lâm sàng, phục vụ những trẻ em, thanh thiếu niên và người nhà của họ về vấn đề tinh thần hoặc các căn bệnh tâm lý. Việc xác định được hướng nghiên cứu và con đường nghề nghiệp tương lai, chính là tiến bộ lớn nhất mà tôi đạt được về mặt chuyên môn trong năm 2009.

Ngoài những tiến bộ kể trên, trong năm này, tôi cũng gặp không ít vấn đề nhức đầu khác. Đa phần thời gian trong năm, trái tim trống rỗng của tôi bị thứ cảm giác cô độc xâm chiếm. Còn nhớ trong tác phẩm Tôi đã xuất phát, Lư Khâu Lộ Vi từng viết: “Một người có thể cô độc đối diện với bản thân mà không cảm thấy cô đơn, đó là một cảnh giới.” Chí ít trong năm 2009, tôi vẫn chưa đạt đến cảnh giới ấy. Tôi luôn cảm thấy mỗi khi bản thân hoàn thành một nhiệm vụ, hoặc có sự tiến bộ lớn, đang lúc nâng ly chúc mừng, cái cảm giác cô đơn ấy lại chồm đến như một con quỷ, kiêu ngạo thách thức: “Có gì đáng để chúc mừng chứ? Mày chẳng thuộc về nơi này.” Mỗi lúc như thế, tôi cảm thấy mình như một người đam mê leo núi, khó khăn lắm mới trèo lên tới đỉnh, đang định cất lời ca thì đột nhiên bị người khác giật lấy bình dưỡng khí, trượt chân rơi xuống vực, thảm hại vô cùng.

Nếu bạn muốn tìm thấy câu trả lời “đối mặt với nỗi cô đơn như thế nào”, hay “tìm kiếm cảm giác thân thuộc ra sao” ở nơi đây, rất xin lỗi, có lẽ tôi đã làm bạn thất vọng. Năm 2009, tôi không hề tìm thấy câu trả lời. Thành thực mà nói, sau gần năm năm sống và làm việc ở Mỹ, cuối cùng tôi mới tìm ra đáp án mà bản thân mong muốn.

Cuối năm 2009, tôi về nước một lần. Đây là lần đầu tiên tôi về nước kể từ sau khi đi du học, cảm giác vô cùng xúc động. Bất luận là cái cây bên đường, quán tạp hóa nhỏ trong ngõ, người ngồi đánh bài trước cửa, hay mùi đậu phụ thối[6] vẫn khó ngửi xưa nay, những bức tranh vô cùng quen thuộc ấy lần lượt ập vào mắt, lúc đó bạn mới cảm thấy quê hương chưa từng rời xa ta, nó vẫn luôn ở trong lòng bạn. Sau hai mươi ngày ngắn ngủi, đầy ắp niềm vui bên gia đình, tôi lại phải ngậm ngùi bước lên chuyến bay trở về Mỹ.

Năm 2009 đã kết thúc trong sự chia ly đầy lưu luyến đó.

Lần đi này lại là một năm dài đằng đẵng.

Năm 2010, tôi sẽ trưởng thành và lĩnh hội được những gì…

Trong năm đầu tiên học ở Mỹ, kỹ năng mềm quan trọng nhất tôi đạt được chính là cách lập và thực thi kế hoạch. “Mọi việc chuẩn bị trước tất thành công, nếu không tất thất bại”, câu nói đó quả là chân lý. Chỉ cần vạch ra được kế hoạch hợp lý, đồng thời để khả năng hành động bắt kịp được kế hoạch, như thế bất kỳ mục tiêu hợp lý nào cũng sẽ được thực hiện. Nếu bạn gặp những vấn đề như “vài tháng tới phải thi rồi, tôi nên ôn tập thế nào đây”, “tôi định ra nước ngoài, bây giờ phải chuẩn bị những gì” hay “tôi phải tìm một công việc tốt như thế nào”, xin hãy đọc kỹ phần gợi ý dưới đây.

Các bước lập kế hoạch cụ thể như sau:

1. Xác định rõ mục tiêu.

2. Xác định rõ bạn muốn hoặc có thể tiêu tốn bao nhiêu thời gian để hoàn thành mục tiêu đó.

3. Xác định rõ cần phải thực hiện những việc gì để đạt được mục tiêu (dù mục tiêu nhỏ).

4. Dùng thời gian chia nhỏ số lượng mục tiêu. Xác định rõ thời gian hoàn thành từng mục tiêu nhỏ (tiến hành điều chỉnh thời gian dựa trên độ khó dễ tương ứng của từng mục tiêu đó).

Ví dụ:

1. Mục tiêu: Xin đi du học nước ngoài.

2. Thời hạn: Một năm.

3. Mục tiêu nhỏ: Thi GRE, TOEFL hoặc IELTS, viết bài tự thuật, CV, chuẩn bị bảng điểm, thư giới thiệu…

4. Căn cứ vào độ khó dễ của từng mục tiêu nhỏ, để phân chia thời gian một năm tương ứng. Ví dụ: Một tuần để viết xong CV, một tuần để hoàn thành bảng điểm và thư giới thiệu, hai tháng để viết bài tự thuật, ba tháng để có được TOEFL hoặc IELTS, nửa năm để đạt được chứng chỉ GRE…

Sau khi liệt kê các mục tiêu, bước tiếp theo, ta tiếp tục phân những mục tiêu đó thành những mục tiêu nhỏ hơn – mục tiêu con. Ví dụ:

1. Mục tiêu nhỏ: Thi GRE

2. Kỳ hạn: Nửa năm.

3. Mục tiêu con: Viết luận, ngữ văn và toán.

4. Phân phối thời gian nửa năm cho từng mục tiêu con tùy vào mức độ khó dễ. Ví dụ, nửa tháng để ôn toán, hai tháng để tập viết luận, hai tháng rưỡi để luyện ngữ văn, một tháng dành ra làm đề thi thử (thời gian này chỉ là ví dụ minh họa, hãy điều chỉnh dựa trên tình hình mỗi cá nhân).

Từ đó có thể suy rộng tiếp, mỗi một mục tiêu con có thể được phân thành những mục tiêu siêu nhỏ, mục tiêu siêu nhỏ lại chia thành các mục tiêu siêu siêu nhỏ… Việc hoàn thành mỗi mục tiêu, bất kể nhỏ hay lớn, đều có thể sử dụng phương pháp như trên để tiến hành.

Sau khi liệt kê một loạt các mục tiêu lớn nhỏ như trên, bạn có thể cảm thấy hoa mắt chóng mặt: Trời ạ! Sao nhiều mục tiêu rắc rối thế này, rốt cuộc tôi phải hoàn thành nó sao đây? Đừng hoang mang, một cuộc sống có quy hoạch phải bắt đầu từ việc sử dụng sổ kế hoạch hàng ngày.

Nói đơn giản, đó là cuốn sổ cầm tay giúp mỗi cá nhân bố trí lịch trình, quản lý thời gian. Cuốn sổ này rất đa dạng, có loại thiết kế theo năm, theo quý hoặc theo tháng. Tất nhiên vẻ bề ngoài cũng rất quan trọng, nhưng đối với một cuốn sổ kế hoạch, quan trọng hơn cả vẫn là thiết kế bên trong, chỉ cần đơn giản thực dụng, có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu của người dùng là được.

Lúc mới dùng sổ, tôi chỉ dùng nó để nhắc nhở mình hạn cuối nộp bài luận. Sau đó mới nhận ra, tôi có thể ghi chú mọi hoạt động trong cuộc sống vào cuốn sổ, để vận dụng tối đa tác dụng của nó. Cứ vậy, tôi bắt đầu dùng chiếc bút có nhiều màu sắc khác nhau đại diện cho những việc khác nhau. Ví dụ, tôi dùng bút đỏ để đánh dấu hạn nộp bài luận, bút đen đánh dấu thời gian thực tập và việc làm thêm, màu xanh da trời đánh dấu thời gian địa điểm các buổi thảo luận với giáo viên hay bạn bè, màu xanh lá cây dành cho những việc vặt như rút tiền, mua thức ăn. Sau khi đã dùng quen, màu sắc không còn quan trọng nữa, việc nào làm xong thì gạch bỏ, từ đó sẽ không còn xảy ra tình trạng quên hoặc dây dưa kéo dài.

Nếu không mua được một cuốn sổ kế hoạch ưng ý, bạn có thể tự mình thiết kế trên file Word. Trước khi ra nước ngoài, tôi cũng không biết đến sự tồn tại của cuốn sổ đó, mà thường dùng máy tính để tự thiết kế bảng kế hoạch học tập. Từng bảng khác nhau đại diện cho ngày và số ngày, mỗi ô ghi những việc phải hoàn thành trong ngày. Sau khi điền xong thì in ra mang theo người để kiểm tra tình hình xử lý công việc. Bảng kế hoạch tự thiết kế thường không có hình mẫu cố định, chỉ cần tiện lợi là được.

Hai điều cấm kỵ nhất khi xây dựng kế hoạch: Một, sắp xếp thời gian quá kín; hai, ép bản thân trở thành cái máy.

Thứ nhất, nếu kế hoạch mỗi ngày được bố trí quá bận rộn sẽ gây cảm giác áp lực, lo lắng bất an bởi phải làm quá nhiều việc, đây chính là lúc căn bệnh dây dưa dễ bùng nổ nhất. Hơn nữa, nếu kế hoạch quá nhiều, lỡ may xảy ra chuyện đột xuất thì kế hoạch cả ngày sẽ bị đảo lộn. Vì thế, lúc lên kế hoạch nhất định phải linh hoạt.

Mỗi lần lên kế hoạch, tôi phải bố trí khoảng thời gian trống giữa các nhiệm vụ. Thời gian ấy dùng cho những tình huống đột xuất, và có thể dùng để nghỉ ngơi. Thông thường, tôi sẽ cố gắng bố trí tối thiểu 15 phút trống giữa các nhiệm vụ, để lướt Weibo, nhắm mắt thư giãn, dạo bộ hay đọc sách, nhằm giúp bản thân giảm áp lực.

Ngoài ra, vì một cuộc sống lành mạnh, nên tôi rất ít khi sắp xếp công việc vào thời gian ăn cơm. Mặc dù việc hy sinh thời gian ăn uống ngủ nghỉ sẽ giúp hoàn thành nhiệm vụ sớm hơn, nhưng về lâu dài, cuộc sống với cường độ cao như thế không có lợi cho sức khỏe, hơn nữa chẳng thể duy trì lâu dài liên tục được. Vì vậy, trước khi lập kế hoạch, nhất định phải hiểu rõ khả năng chịu đựng áp lực của bản thân như thế nào. Nếu bạn đã quen với công việc cường độ cao liên tục, có thể bố trí kế hoạch kín hơn một chút, nhưng nếu không quen thì đừng bao giờ thách thức giới hạn cực độ của bản thân, bằng không sẽ dễ dàng khiến bạn sụp đổ.

Thứ hai, khi lên kế hoạch đừng bao giờ biến bản thân trở thành một cỗ máy không tình cảm. Một cuốn sổ kế hoạch hợp lý ngoài việc bố trí công việc rải đầy các ngày, nhất định phải có những mục nhỏ để giải tỏa và khích lệ bản thân. Ví dụ: hẹn ăn khuya cùng bạn bè hoặc đi xem phim, tất cả những phần thưởng cho một ngày làm việc mệt nhọc đó đều phải ghi rõ trong sổ. Con người không phải cái máy, nên tốt nhất đừng ép bản thân xoay vòng liên tục. Cuộc sống phải có lúc căng thẳng, lúc thư giãn mới là cuộc sống tích cực, những người không biết nghỉ ngơi sẽ chẳng thể hiểu phấn đấu như thế nào cho hiệu quả.

Đặc biệt nhấn mạnh, khi lên kế hoạch phải chi tiết hết mức có thể. Chú trọng đến kế hoạch hàng ngày, tốt nhất nên viết một cách thật cụ thể những việc cần làm trong ngày. Kiểu như “Thứ hai luyện kỹ năng đọc”, đó không phải một kế hoạch tốt, mà phải ghi rõ: phải đọc những trang nào của tài liệu nào.

Có người cảm thấy cuộc sống du học là sự hưởng thụ, tại sao phải dùng thứ bảng biểu chi chít chữ ấy để khiến cuộc sống giống như trong doanh trại quân đội? Phải nói rằng, học ở nước ngoài rất gian khổ, nếu không hình thành được năng lực tự quản lý và quy hoạch bản thân thật tốt, e rằng khó lòng khỏe mạnh mà trụ lại được trong môi trường đó vài năm. Hơn nữa, một khi hình thành được hai năng lực ấy, về sau dù không có sổ kế hoạch, trong đầu bạn vẫn tự nhiên hình thành một bản hoạch định cho cuộc sống hàng ngày, thậm chí cả cuộc đời. Phùng Luân[7] từng nói rằng, điều vĩ đại không phải lãnh đạo người khác, mà là tự quản lý chính mình. Một khi có được năng lực tự quản đó, nhất định sẽ giúp bạn hưởng lợi cả đời.

Cho dù kế hoạch được lập ra hoàn hảo đến đâu, nhưng nếu không thực thi, nó chỉ là đống giấy lộn mà thôi.

Rất nhiều người luôn phức tạp hóa việc thực thi kế hoạch, nhưng kỳ thực việc này rất đơn giản. Giả sử bạn ghi trong cuốn sổ kế hoạch “Tám giờ sáng thứ hai, đọc hai bài trong tạp chí The Economist, vậy việc duy nhất bạn phải làm vào tám giờ sáng thứ hai chính là mở cuốn tạp chí The Economist ra, chọn lấy hai bài và bắt đầu đọc, chỉ đơn giản thế thôi.

Bản thân việc thực thi kế hoạch không hề khó khăn, chẳng nhẽ người ta phải trải qua quá trình giày vò trước khi làm việc đó sao. Chỉ cần có thể khắc phục chướng ngại về tâm lý, những việc liên quan đến thực thi sẽ rất dễ giải quyết. Một sự khởi đầu tốt đã được coi thành công một nửa, đa số mọi người đều sợ, hoặc lười bắt đầu vì một nguyên nhân tâm lý nào đó. Vì thế, sợ hãi và lười biếng trở thành kẻ thù cản trở mọi người thực thi kế hoạch.

Điều không may là, sự sợ hãi và lười biếng hầu như là điểm chung, bẩm sinh của toàn nhân loại, dù bạn nỗ lực đến đâu, cũng chẳng thể chữa khỏi căn bệnh đó. Đó là những kẻ cứng đầu, xuất hiện lúc mạnh lúc yếu, lúc ẩn lúc hiện trong cuộc sống của mỗi người – nếu bạn kiên cường đối đầu, chúng có thể lẩn trốn vài ngày, nhưng sẽ tiếp tục quay trở lại và thị uy trước bạn. Mọi người vốn có tâm lý sợ hãi và lười biếng, nhưng tại sao có người thành công, còn những người khác lại thất bại? Tôi cảm thấy cái giỏi của người thành công không nằm ở việc họ chưa từng sợ hãi hoặc lười biếng, mà vì tính kỷ luật và khả năng tiết chế của họ luôn chiến thắng tất cả, năng lượng tích cực đã vượt qua sự tiêu cực.

Con đường duy nhất để đối phó với nỗi sợ hãi và lười biếng của tôi chính là, khuếch đại vô hạn cuộc sống tươi đẹp sau khi hoàn thành kế hoạch, đồng thời bôi đen tận cùng kết cục thê thảm khi không hoàn thành nó. Trên thực tế, mỗi khi cắt đứt đường lùi của bản thân, tôi sẽ nhận ra nếu không hoàn thành những việc trước mắt, mình sẽ trở nên cực kỳ bi thảm, hai kẻ thù không đội trời chung này liền tự động biến mất, bởi vì đối với tôi, chẳng điều gì khiến tôi lạnh xương sống hơn cảm giác áy náy và thất bại.

Điều cần chú ý là, con người ta rất dễ ham cái lợi trước mắt khi sống trong áp lực, trông thấy lịch làm việc dày đặc, càng khiến họ làm qua loa đại khái. Rõ ràng cách làm này rất ngu xuẩn. Vì thế, mỗi khi lên kế hoạch cho một nhiệm vụ nào đó, tôi luôn tự vấn bản thân: Liệu mình có hoàn thành nhiệm vụ này một cách thành thực, hoàn chỉnh và có chất lượng hay không? Nếu thấy bản thân không thể trả lời chân thành về vấn đề này, xin bạn hãy thực hiện lại nhiệm vụ đó một lần nữa. Cuộc đời chỉ sống một lần, nếu cứ lừa gạt nhau như thế phỏng có ích gì, bởi không gì lãng phí cuộc sống hơn việc lừa mình dối người.

Ngoài cuộc sống thường nhật ra, đời người cũng cần mục tiêu và hoạch định. Khi có mục tiêu rõ ràng, chúng ta mới không bị mất phương hướng trong biển đời mênh mông. Mặc dù đó là bản hoạch định lớn nhất trong đời mỗi chúng ta, nhưng các bước thực hiện lại y hệt như phần trước. Tôi lấy ví dụ. Mục tiêu: Bạn muốn trở thành người như thế nào, những việc phải hoàn thành và trải qua trong cuộc sống ra sao; Thời gian: một đời; Mục tiêu nhỏ: Liệt kê từng việc bạn định làm. Sau đó chia khoảng thời gian của cả đời cho những việc trên.

Có một thủ thuật nhỏ khi hoạch định cuộc đời, gọi là phương pháp nghịch suy (backward mapping). Viết lên một tờ giấy mục tiêu cao nhất của trong đời, sau đó lần lượt viết xuống phía dưới những mục tiêu nhỏ hơn nhằm hoàn thành được mục tiêu cao nhất.

Lấy mục tiêu nghề nghiệp của tôi làm ví dụ. Mong ước lớn nhất trong đời tôi chính là mở được một phòng tư vấn tâm lý cá nhân. Sử dụng phương pháp nghịch suy sẽ vẽ được sơ đồ thực hiện mục tiêu như sau:

Thông qua sơ đồ trên, tôi có thể thấy rõ, để đạt được mục tiêu cao nhất, mình cần phải nỗ lực thế nào trong từng giai đoạn khác nhau của cuộc đời. Nhiều người luôn hỏi tôi động lực tiến lên phía trước là gì. Sơ đồ đó chính là động lực của tôi. Mỗi giai đoạn trong cuộc đời, tôi đều có thể vẽ một sơ đồ như thế, nhằm dẫn mình hướng về phía trước. Sau năm năm ở Mỹ, tôi đã lấy được giấy phép làm việc trong ngành Công tác xã hội lâm sàng cao cấp (LCSW), chỉ cần tích lũy thêm một ít kinh nghiệm làm việc lâm sàng nữa, tôi tin chắc nội trong vài năm, mình có thể tự mở được một phòng tư vấn tâm lý cá nhân. Đến lúc ấy, biết đâu tôi lại có thể tìm được một mục tiêu nghề nghiệp cao hơn.

Phương pháp nghịch suy này thích hợp cho mọi mục tiêu, chỉ cần tìm ra mục tiêu, đồng thời vững bước trên con đường đã chọn, ai cũng có tiềm lực để thực hiện giấc mơ của bản thân. Mơ ước, chỉ có ý nghĩa khi ta thực hiện nó, nếu không sẽ mãi chỉ là một giấc mộng giữa ban ngày. Đừng bao giờ bỏ qua bất kỳ việc gì trên con đường thành công của bạn, chính bởi những việc nhỏ bé ấy, từng bước tiến lên, bạn mới có thể đi đến đích cuối cùng. Hãy làm tốt những việc bình thường, sống thật ý nghĩa mỗi ngày, đó mới chính là khởi đầu của thành công. Tương lai đều đến từ mỗi một ngày bình thường như hôm nay.

Cuộc sống năm đầu tiên ở Mỹ giúp vốn sống của tôi được tăng lên đáng kể. Ngay khi học kỳ mùa xuân năm thứ hai vừa bắt đầu, tôi liền mua một cuốn sổ kế hoạch mới, và bắt đầu lên kế hoạch cho năm học này. Tôi tải giáo trình đại cương của mọi môn học từ website của trường, đánh dấu thời gian lên lớp, hạn nộp bài luận, thời gian thuyết trình… lên sổ kế hoạch. Ngoài ra, tôi còn nhanh chóng liên hệ, sắp xếp thời gian làm việc với đơn vị thực tập và thư viện, sau đó ghi chú vào sổ thời gian thực tập và công việc ngoài giờ. Nhìn cuốn sổ kế hoạch kín lịch, bỗng cảm thấy bản thân tràn đầy động lực.

Cuối cùng tôi cũng xác định được phương hướng nghiên cứu chuyên ngành vào cuối năm học đầu tiên. Cuộc sống lại có mục tiêu rõ ràng, khiến mọi thứ trở nên tươi sáng hơn. Trước đây do thiếu kế hoạch nên cảm thấy rất vất vả trong thời gian thực tập đại cương, vì thế ngay khi năm học mới bắt đầu, tôi đã tự nhắc nhở bản thân không được đi vào vết xe đổ của năm học trước. May sao, sau khi xác định được hướng nghiên cứu, tôi bắt đầu hiểu lý do mình phải thực tập chuyên ngành, muốn tìm đơn vị thực tập như thế nào, cũng như phải tranh thủ tối đa cơ hội thực tập này ra sao. Lần thực tập này không chỉ cần hoàn thành số lượng giờ thực tập, mà còn phải học được kiến thức cụ thể và những kỹ năng chuyên môn, tất cả đều vô cùng quan trọng đối với công việc sau này. Sau khi suy nghĩ cặn kẽ những vấn đề ấy, tôi bèn bổ sung thêm nhiệm vụ tìm đơn vị thực tập vào trong cuốn sổ đã dày đặc lịch trình.

Về việc lên kế hoạch cho học kỳ mới, ngoại trừ nhiệm vụ học hành và thực tập ra, phương pháp sống khỏe mạnh cũng là một điểm rất quan trọng. Khỏe mạnh ở đây chủ yếu chỉ về vấn đề tinh thần. Trong năm đầu tiên, tôi luôn ở trong trạng thái ức chế, những cảm xúc tiêu cực như bực dọc, sầu muộn, dễ nổi nóng, lầm lì, dây dưa cứ bám chặt lấy tôi. Nhưng tôi cảm thấy chúng không hề đáng sợ, mà điều đáng sợ chính là sự trốn tránh, phủ định và khinh thường nó. Trong cuộc đời, ai cũng đều phải đối mặt với những cảm xúc tiêu cực, hoặc ít hoặc nhiều. Chỉ cần bạn dũng cảm, thành thực đối diện và giải quyết trước khi nó lây lan, thì mọi thứ đều có thể khống chế và xóa bỏ. Nhưng nếu cứ để mặc chúng sinh sôi nảy nở, rất có thể cảm giác tiêu cực ấy sẽ trở thành con quỷ hãm hại cuộc sống của bạn.

Bởi vì sức khỏe tinh thần là hướng chuyên ngành và sở thích cá nhân, nên tôi càng xem trọng vấn đề này. Khi xây dựng kế hoạch cho học kỳ mới, tôi đã chú trọng suy nghĩ cách thức giúp bản thân khắc phục được những cảm xúc tiêu cực đó. Tôi thấy, hồi ấy rất nhiều cảm xúc tiêu cực của tôi đều bắt nguồn từ sự cô đơn và không có cảm giác thân thuộc: Hơn một năm ở Mỹ, ngoại trừ số ít bạn bè Trung Quốc, tôi hầu như không kết giao với người Mỹ trong trường. Ngoài sự tiếp xúc ít ỏi trên lớp ra, chúng tôi chẳng có bất kỳ mối liên hệ nào cả, vì thế về cơ bản tôi không tài nào hòa nhập vào cuộc sống của họ. Khi một phần thuộc tính xã hội của mỗi cá nhân đi tới cực hạn, cảm giác cô đơn sẽ bùng phát. Cho nên, tôi quyết định phải mạnh dạn kết giao thêm nhiều bạn trong học kỳ này, nỗ lực xây dựng mạng lưới bạn bè trong môi trường mới.

Nhưng cần phải nói rằng, để khắc phục cảm giác cô đơn và xây dựng mối quan hệ là việc không hề đơn giản và cần nhiều thời gian. Vấn đề văn hóa và con người mà tôi phải đối mặt lại càng không phải bàn đến. Nếu nó đã chẳng phải việc dễ dàng, vậy đành kiên nhẫn chờ đợi câu trả lời từ thời gian. Có người nói rằng, càng nghiên cứu về đau khổ sẽ càng đau khổ. Tôi thấy cảm xúc tiêu cực cũng hoàn toàn tương tự: Bạn càng nghĩ đến nó thì sẽ càng dễ rơi sâu vào vòng xoáy, không thể tự thoát ra. Vì thế, mỗi khi cảm thấy buồn bực, tôi liền ép bản thân phải tạm thời quên đi, chuyển sự chú ý vào những việc cần làm trong hiện tại. Đôi khi, trạng thái tâm lý tốt thường đến sau khi bạn hành động. Tích lũy nhiều hành động tích cực, đến một ngày nào đó những vấn đề ấy sẽ tự nhiên được giải quyết.

Bây giờ tôi đã hiểu được đạo lý quý giá đó, nhưng tôi của ngày trước luôn nghi ngờ về nó, may sao cuộc sống bận rộn đã không cho phép tôi dừng chân. Thời điểm ấy, tuy vẫn có lúc than vãn vì quá nhiều bài tập, thực tập khó nhằn, cơm tự nấu lại khó ăn kinh khủng, nhưng chính cuộc sống bận rộn như thế lại khiến tôi vui vẻ và phong phú hơn nhiều so với năm đầu tiên. Tôi dần cảm thấy cuộc sống bắt đầu trở nên có ý nghĩa, cho dù đắng cay ngọt bùi, nhưng chí ít mọi điều tôi đang có cũng do một tay tôi tạo nên, vậy mới thấy vô cùng hạnh phúc và hài lòng. Tôi mơ hồ cảm nhận được bản thân đang dần tìm ra trạng thái sống phù hợp, quay trở lại nắm mái chèo điều khiển con thuyền cuộc đời mình.

Nhớ lại bộ dạng thê thảm lúc mới đến Mỹ, tôi thấy ma lực thời gian quá đỗi thần kỳ. Bạn xem, con người cứ dần trở nên mạnh mẽ, trưởng thành một cách âm thầm như thế. Rất nhiều việc khi chưa từng tiếp xúc, bạn sẽ cảm thấy mình thật yếu đuối vì sợ hãi, bắt đầu phóng đại vấn đề và ma quỷ hóa nó bởi sự vô tri, nhưng sau khi dần chạm tới, nghiên cứu và nhận thức được bộ mặt thật sự của nó, bạn mới phát hiện ra, kỳ thực bản thân sự việc không hề khó khăn như bạn nghĩ.

Sau khi xác định hướng nghiên cứu chuyên ngành, việc tìm kiếm đơn vị thực tập trở nên vô cùng rõ ràng – tôi muốn tìm một công việc liên quan tới phương diện sức khỏe tinh thần. Sau khi sàng lọc các đơn vị thực tập, vào học kỳ mùa xuân, tôi đã sớm nộp hồ sơ đến ba tổ chức để xin thực tập cho học kỳ mùa hè. Sau nhiều vòng phỏng vấn, cuối cùng tôi được bệnh viện Barnes đồng ý tiếp nhận.

Được biết đến như một bệnh viện đa khoa lớn, Barnes chính là một trong mười bệnh viện tốt nhất nước Mỹ. Bộ phận nơi tôi thực tập là trung tâm trị liệu bệnh tâm thần, công việc được giao bao gồm: tiến hành đánh giá bệnh nhân của khoa tâm thần, giúp đỡ bác sĩ tiến hành điều trị tâm lý cho người bệnh, đồng thời tự mình dẫn đầu một đoàn trị liệu. Ngày nhận được thông báo chấp thuận, tôi vui mừng điên cuồng, không chỉ vì bệnh viện đó rất tuyệt, mà vì công việc thực tập vô cùng phù hợp với chuyên ngành của tôi, nên tôi vô cùng mong mỏi sẽ thu hoạch được nhiều điều bổ ích từ đó.

Trung tâm trị liệu tâm thần nằm ở tầng 15 của bệnh viện Barnes, toàn bộ trung tâm đều là khu nội trú, được chia thành ba khu vực: Khu bệnh nhân nặng, khu người già và khu phổ thông. Bệnh nhân của khu bệnh nặng đều mắc chứng tâm thần rất nghiêm trọng, có thể làm hại đến tính mạng của chính họ hoặc người khác. Bệnh nhân ở khu người già toàn trên 60 tuổi, trong đó đa phần đều mắc chứng Alzheimer. Tôi thực tập ở khu phổ thông, các bệnh nhân ở đây không nặng lắm, thường sau khi nhập viện, trải qua quá trình điều trị thích hợp, sau một khoảng thời gian ngắn có thể được xuất viện. Vì thế, lượng bệnh nhân ở khu vực này rất lớn.

Ngày đầu tiên thực tập, tôi đến tầng 15 của bệnh viện theo đúng giờ hẹn, sau đó đi dọc theo hành lang tới phòng làm việc của người quản lý. Trên đường đi, tôi chú ý thấy, cứ cách một khoảng nhất định sẽ xuất hiện một chiếc cửa, những tấm kính trên đó đều được gắn lưới thép. Những cánh cửa nặng nề đều đang khóa chặt, chỉ có thẻ nhân viên mới mở ra được. Trên mỗi cánh cửa đều dán thông báo nhắc nhở: “Chú ý! Bệnh nhân ở đây nếu trốn thoát sẽ rất nguy hiểm!” Nhìn thấy biện pháp an ninh cao cấp đó, trống ngực tôi cứ đập liên hồi, chẳng lẽ bệnh viện tâm thần thật sự đáng sợ như trong phim sao? Liệu họ có trốn được không? Nghĩ vậy, đầu óc tôi căng như dây đàn, một cảm giác dè chừng đối với những bệnh nhân sắp tiếp xúc bỗng trỗi dậy trong tôi.

Người quản lý của tôi là một phụ nữ trạc tuổi 60 mang quốc tịch Đức, khi còn trẻ bà đến Mỹ du học, sau khi tốt nghiệp, bà ở lại làm việc tại bệnh viện Barnes trong hơn 30 năm. Khi trông thấy tôi, bà liền nở nụ cười tươi rói. Tôi đang chuẩn bị cất tiếng chào hỏi, bà đã nói: “Chào buổi sáng cô gái bé nhỏ! Cháu đã chuẩn bị sẵn sàng chưa? Hôm nay sẽ là ngày thách thức nhất trong cuộc đời cháu đấy!” Tôi còn chưa kịp nói “chào buổi sáng!”, nghe thấy vậy liền sững sờ, bụng thầm nghĩ: Trời ạ! Không phải thực tập là đi sau lưng sếp để quan sát ư? Chẳng lẽ không phải làm những thứ đại loại như nhật ký thực tập hay giúp đỡ photocopy tài liệu? Sao lại trở thành “thách thức lớn nhất” chứ? Nghĩ đến đây, tim tôi bỗng đập mạnh, không biết hôm nay rốt cuộc sẽ gặp phải thách thức gì.

Chẳng đợi tôi kịp định thần, bà quản lý đã bước đến bên, đặt tay lên vai tôi, nói vẻ thần bí: “Đừng sợ, ta nhất định sẽ huấn luyện cháu thành một nữ chiến binh ưu tú!” Ngay sau đó, bà bật cười sảng khoái, âm thanh vang khắp cả phòng. Đột nhiên, tôi có cảm giác mình đang trèo lên thuyền của những tên “cướp biển”.

Việc đầu tiên là nhớ tên người. Trong trung tâm điều trị bệnh tâm thần, số lượng nhân viên và bệnh nhân gộp lại khoảng gần một trăm. Đi dọc hành lang, bà quản lý không ngừng giới thiệu với tôi, đây là giám đốc phòng bệnh, kia là bác sĩ chủ nhiệm, đây là y tá trưởng, kia là nhân viên quản lý bệnh án… Trong đó có rất nhiều từ chuyên ngành thuộc quá trình điều trị và tên các chức danh, tất cả đều là những từ tôi chưa từng được học trong trường. Đối diện với một lượng thác thông tin xa lạ đang đổ ập xuống ấy, tôi vội xốc lại tinh thần, không dám lơ là, bắt đầu tốc ký.

Việc thứ hai là làm quen và nhanh chóng nắm bắt các thao tác sử dụng hệ thống máy tính cũng như cách nhập tiến độ trị liệu và tài liệu về bệnh nhân lên hệ thống. Đội ơn thời đại khoa học kỹ thuật thế kỷ 21, phàm những việc liên quan đến thao tác trên máy tính đều không làm khó được tôi.

Việc thứ ba cũng là việc khó khăn nhất, ghi chép thành thạo tài liệu và tiến độ điều trị của mỗi bệnh nhân. Bà quản lý nói, khu bệnh phổ thông có tổng cộng mười tám chiếc giường, tức là nếu số giường bệnh đều chật kín, chúng tôi phải cung cấp dịch vụ cùng lúc cho mười tám bệnh nhân. Vì thế việc nắm rõ thông tin của mỗi người vô cùng quan trọng. Tôi hỏi bà, thông tin nhiều vậy thì phải ghi nhớ làm sao? Bà ấy nhìn tôi cười lớn: “Cô bé à, ban đầu cháu có thể dựa vào bệnh án hoặc bảng đánh giá của bệnh nhân, nhưng một khi bận rộn, cháu sẽ chẳng có thời gian để đọc những thứ ấy đâu, vì thế phải dựa vào đây.” Nói đoạn, bà dùng tay chỉ vào đầu tôi.

Tôi vội hỏi tiếp: “Vậy rốt cuộc bắt buộc phải ghi nhớ những thông tin nào của bệnh nhân ạ?” Bà quản lý vừa đọc tài liệu trên tay, vừa nói: “Bất kỳ thông tin gì liên quan đến việc điều trị hoặc có thể giúp đỡ cho quá trình điều trị, chúng ta đều phải nắm rõ như lòng bàn tay. Ví dụ: tên, tuổi, triệu chứng, thời gian nhập viện, thời gian xuất viện, tình trạng hôn nhân và gia đình, tình hình kinh tế, nơi ở của bố mẹ và công việc… Ngoài ra, bệnh nhân đó còn có anh chị em nào không, tình hình của họ hiện tại ra sao; có con cái không, tình hình hiện tại thế nào; những người kể trên hiện đang ở đâu, có mối quan hệ thế nào với bệnh nhân… Hơn nữa, cháu còn phải biết tình hình sử dụng thuốc của họ, có tác dụng phụ hay không, cũng như bác sĩ chính và y tá phụ trách của bệnh nhân đó là ai…”

Nghe một loạt thông tin đó, tôi bỗng cảm thấy đầu óc của mình xoay mòng mòng với vận tốc bình phương n lần, vốn định cầm bút để ghi chép lại, nhưng bà ấy nói với tốc độ quá nhanh khiến tôi chẳng thể theo kịp. Bà động viên tôi không phải sốt sắng ghi chép, mà nên học cách xâu chuỗi những thông tin phức tạp lại với nhau, từ đó quen dần với việc sử dụng bộ não, chứ không phải chiếc bút. Tôi nhìn bà ấy đầy ngưỡng mộ, không hiểu bà đã xoay sở như thế nào để trở thành người phụ nữ mạnh mẽ, tài giỏi như thế. Trông thấy tôi đang lẩm bẩm một mình, bà bỗng nhẹ nhàng động viên: “Đừng cảm thấy chuyện đó quá khó, quen rồi sẽ ổn thôi. Nhưng đừng quên rằng, ta sẽ huấn luyện cháu trở thành một nữ chiến binh đấy nhé! Ngày mai ta sẽ tiến hành đánh giá cho bệnh nhân mới nhập viện, cháu hãy đứng bên cạnh quan sát, ta tin cháu sẽ nhanh chóng tự mình thực hiện được việc này thôi.” Lúc nghe thấy mấy từ “tự mình thực hiện”, đột nhiên đầu óc tôi lại căng như dây đàn.

Ngày làm việc đầu tiên đầy bận rộn, căng thẳng và bổ ích nhanh chóng kết thúc. Sáng sớm ngày thứ hai, bà quản lý bắt đầu tiến hành đánh giá bệnh nhân mới. Bà ấy nói với tôi: “Chúng ta sẽ kết hợp với nhau trong nhiệm vụ của ngày hôm nay, ta phụ trách phỏng vấn, còn cháu phụ trách ghi chép, sau đó nhập những thông tin ghi chép được vào hệ thống đánh giá, được chứ?” Vì là lần đầu, nên nói thật trong lòng tôi rất không tự tin, nhưng chí ít so với việc phỏng vấn, rõ ràng tôi giỏi ghi chép hơn, vì thế đã vui vẻ nhận lời.

Địa điểm phỏng vấn của trung tâm trị liệu là một căn phòng độc lập khá nhỏ. Sau khi bước vào, bệnh nhân ngồi đối diện không có bất kỳ sự giao lưu qua ánh mắt nào với chúng tôi. Cơ thể vô cùng mỏng manh, uể oải của cô ấy ngồi dựa vào lưng ghế, mái tóc dài màu nâu nhạt che đi khuôn mặt tiều tụy. Theo tài liệu, cô gái mắc chứng rối loạn lưỡng cực, hơn nữa có tiền sử dụng ma túy trong thời gian dài. Tôi có thể thấy rõ những vết thâm tím do kim tiêm để lại trên đôi tay gầy gò của cô ta. Đây là lần đầu tiên tôi tiếp xúc với một con nghiện mắc chứng bệnh tâm thần ở cự ly gần như thế. Nói thật, lúc ấy tôi vô cùng sợ hãi, tôi sợ cô ấy đột nhiên lên cơn nghiện, hoặc do quá kích động mà lao tới tấn công tôi. Vì vậy, mấy phút đầu tiên, tôi chỉ biết cúi gằm đầu nhìn cuốn sổ ghi chép, mà không dám ngẩng lên nhìn thẳng vào bệnh nhân.

Sau khi tự giới thiệu ngắn gọn, bà quản lý đi thẳng vào chủ đề và bắt đầu đánh giá. Trong vài lượt vấn đáp đầu tiên, bà nói khá từ tốn, câu trả lời của bệnh nhân cũng rất đơn giản, nên về cơ bản tôi có thể ghi chép lại mọi thông tin. Nhưng về sau, khi hỏi đến thông tin liên quan đến gia đình, tâm trạng của bệnh nhân dần trở nên kích động. Cô ấy nói ngày một nhanh, lượng thông tin lớn dần, tôi hoàn toàn không thể theo kịp tư duy của cô ta. Khi bệnh nhân nhắc đến quá trình sử dụng ma túy, càng xuất hiện nhiều từ vựng tôi không hiểu nổi. Tên của mấy loại ma túy, phương thức và công cụ hút toàn bằng tiếng lóng, với đủ kiểu tên thuốc cai nghiện… tất cả đều vượt ra khỏi vốn tiếng Anh hạn hẹp của tôi. Tôi bỗng trở nên hoảng loạn.

Một mặt tôi dựa vào trực giác để chọn ra những từ khóa trong mớ lộn xộn đó, mặt khác vội vàng tốc ký vào sổ. Lúc ấy, các phương thức ghi chép đều được sử dụng: ghi từ đơn, ghi tiếng Trung, vẽ ký hiệu, chú âm, hay thậm chí còn vẽ lược đồ gia phả… tóm lại chỉ nhằm mục đích mang lại hiệu quả cao. Tôi nắm chặt bút ghi như bay trên giấy, chẳng mấy chốc đã viết kín cả trang giấy lớn. Khi phỏng vấn, bà quản lý liên tục liếc nhìn tôi. Qua ánh mắt đầy ngạc nhiên của bà ấy, tôi như thể nghe thấy bà đang thầm kêu gào: “Trời ạ, rốt cuộc cô bé này có biết mình đang làm gì không? Sao lại ghi chép nhiều thế chứ?” Nhưng tôi không lo được nhiều đến vậy, đây là lần đầu ghi chép lại đánh giá, nên tôi không muốn bỏ sót bất kỳ thông tin quan trọng nào.

Sau khi kết thúc phần đánh giá, tôi liền phóng như bay về phòng làm việc, nhanh chóng nhập nội dung phỏng vấn vào hệ thống đánh giá, chỉ sợ đống thông tin chất đầy trong não biến mất. Bà quản lý thấy bộ dạng sốt sắng đó của tôi, liền dặn tới dặn lui rằng: “Ngôn từ phải cô đọng súc tích, đúng trọng tâm, đừng bê nguyên xi đống chữ chi chít trên sổ của cháu vào đấy nhé.” Nhìn cuốn sổ đặt trước mặt, tôi chỉnh lý lại một lượt mạch suy nghĩ, tìm điểm then chốt, loại bỏ phần thứ yếu, sau đó tập trung tinh thần nhập thông tin vào hệ thống.

Khi tôi mang tâm trạng thấp thỏm, đem nộp bản báo cáo đánh giá vừa mới in chưa ráo mực cho quản lý, bà đã không ngớt lời khen ngợi chất lượng và hiệu suất làm việc của tôi. Tuy bề ngoài tôi cố ra vẻ bình thản, nhưng trong lòng vui như mở hội. Bỗng nhớ lại thời đại học, lúc ấy để ôn tập cho kỳ thi cấp 8 tiếng Anh chuyên ngành, tôi từng mất rất nhiều công sức để chinh phục cửa ải “nghe viết”. Hồi đó tôi đã phải luyện tập kỹ năng nghe, ghi đúng trọng tâm và dùng tiếng Anh để quy nạp tổng kết. Không ngờ, chính năng lực được hình thành nhờ ôn luyện cho một kỳ thi khi xưa, nay lại phát huy tác dụng trong công việc. Cảm khái vô cùng. Tôi bỗng cảm thấy, những công sức đã bỏ ra trước đây đều rất đáng giá, dù cho ngày trước chẳng thấy chút hiệu quả nào, sau này sớm muộn rồi cũng nhận ra, bởi không có việc gì là vô ích cả.

Bệnh nhân đầu tiên tôi tự phỏng vấn là bà T. Bởi vì lần đầu nên tôi cảm thấy không tự tin về cách thức và nội dung đặt câu hỏi. Ban đầu, bà T thể hiện thái độ bực bội không yên, đồng thời cho rằng những câu hỏi tôi đưa ra quá nhàm chán. Tôi xin lỗi bà ta và kiên nhẫn giải thích một hồi, sau cùng mới nhận được sự hợp tác từ bà ấy. Mặc dù vậy, nhưng do thiếu kinh nghiệm, nên cả quá trình phỏng vấn tôi đều bị bà T dắt mũi, tôi không tài nào giữ được thế chủ động. Không những thế, sau khi nhập thông tin lên hệ thống đánh giá, tôi mới phát hiện bản thân đã bỏ sót rất nhiều câu hỏi then chốt, lại đành phải đến phòng bệnh quấy rầy bà ấy một lần nữa. Lúc ấy tôi cảm thấy ngại ngùng không thể tả.

Sau khi đánh giá được khoảng bảy tám bệnh nhân, tôi mới dần tìm ra cách thức đặt câu hỏi chính xác, biết hàn huyên tâm sự để phá tan khoảng cách trong lần đầu tìm hiểu, sau đó dần nắm được phương thức thay đổi chủ đề. Điều khiến tôi hưng phấn nhất chính là có thể vận dụng mọi kỹ xảo được học ở trường vào thực tế. Ví dụ, hôm ấy vừa học được đủ các cách đặt câu hỏi mở trên lớp, ngay hôm sau vào bệnh viện thực tập, tôi có thể lập tức áp dụng mớ lý thuyết ấy. Nếu gặp khó khăn nào trong thực tiễn, tôi có thể đưa ra vấn đề để thảo luận cùng giáo viên và bạn bè khi lên lớp. Cảm giác đó quả thật rất tuyệt vời! Sau khi kết hợp được lý thuyết và thực hành, lần đầu tiên trong đời tôi cảm nhận được niềm vui trong học tập và tiến bộ của bản thân. Tôi thật sự vui vẻ khi có được công việc thực tập này.

Trong thời gian thực tập, ngoại trừ tiến hành đánh giá và viết báo cáo về bệnh nhân ra, tôi còn phụ trách trị liệu tập thể và cá nhân. “Trị liệu” ở đây ý chỉ tư vấn tâm lý. “Trị liệu tập thể”, chính là tiến hành điều trị tâm lý cho một nhóm người. Nhưng do thời gian nằm viện của bệnh nhân khu phổ thông tương đối ngắn, rất nhiều người hôm nay vừa vào hôm sau đã xuất viện, nên việc tư vấn tâm lý ngắn hạn không thể giúp gì nhiều cho họ. Bởi vậy việc trị liệu tập thể ở khu phổ thông chỉ tồn tại dưới hình thức giảng bài theo chủ đề, ví như “làm sao để khắc phục cảm giác lo lắng”, “khắc phục tư duy tiêu cực như thế nào” hay “duy trì mối quan hệ xã hội lành mạnh ra sao”…

Thực lòng, tôi không phải đứa giỏi nói chuyện trước đám đông, càng không cần bàn đến việc đứng trước một nhóm bệnh nhân mắc chứng tâm thần, hơn nữa còn phải dùng tiếng Anh và nói về những chủ đề mà bản thân không giỏi! Đối với tôi, đây thực sự là nhiệm vụ mang tính thách thức nhất từ trước đến nay. Để chuẩn bị cho bài giảng trị liệu đầu tiên, tôi không biết mình đã bỏ ra biết bao công sức. Tôi viết từng câu một trong nội dung bài giảng ra tiếng Anh, sau đó biên thành Powerpoint, rồi luyện tập nhiều lần trước gương cho đến khi thuộc lòng như cháo chảy.

Ngày đầu tiên tiến hành trị liệu tập thể, tôi sợ hãi bước lên bục giảng, tim đập thình thịch khi nhìn thấy mười mấy đôi mắt ở phía dưới. Sau khi hít thở sâu, tôi liền bước lên và giảng một lèo bài giảng đã học thuộc từ trước. Vốn cảm thấy mình thể hiện khá ổn, nhưng không ngờ tình hình phía dưới lại hoàn toàn hỗn độn: người kề tai nói chuyện, người ngủ gật, kẻ ra về sớm… Bạn có thể cảm nhận được rõ ràng: Không ai quan tâm đến những điều bạn đang nói. Điều này khiến tôi vô cùng thất vọng, nên nhanh chóng làm cho xong việc, rồi vội vàng đánh bài chuồn.

Sau khi tìm kiếm sự giúp đỡ từ bà quản lý, tôi mới phát hiện ra vấn đề. Tuy họ gọi quá trình điều trị tập thể là “giảng bài”, nhưng kỳ thực nó không giống như việc lên lớp. Mối quan hệ giữa chúng tôi và bệnh nhân cũng không phải mối quan hệ thầy trò, mà là giữa chuyên gia tư vấn tâm lý với khách hàng. Vì thế, phương thức truyền đạt thông tin theo kiểu nước đổ đầu vịt rất dễ khiến người ta cảm thấy nhàm chán. Việc tôi nên làm là vừa truyền đạt kiến thức, vừa tiến hành trao đổi, khích lệ họ chủ động suy nghĩ và phản hồi, như thế mới mang lại sự giúp đỡ mang tính thực tế cho họ.

Sau đó tôi và bà quản lý đã trao đổi sâu về chủ đề này, cũng chính nhờ lần trao đổi ấy mà tôi mới hiểu một cách sâu sắc vị trí, vai trò của chuyên gia tư vấn tâm lý trong mối quan hệ điều trị với bệnh nhân. Trước đây, tôi luôn nói mình muốn trở thành một chuyên gia tư vấn tâm lý, muốn được giúp đỡ người khác, nhưng thật ra lúc ấy tôi vẫn chỉ hiểu rất mơ hồ về vai trò của chuyên gia tư vấn tâm lý. Thông qua việc tiếp xúc trực tiếp với người bệnh, đồng thời được giao lưu với các chuyên gia tư vấn tâm lý có kinh nghiệm, tôi mới hiểu sâu hơn về phương diện này.

Từ đó về sau, tôi đã thay đổi triệt để phương thức “giảng bài” của mình để mang tới hiệu quả cao hơn cho công tác trị liệu tập thể. Tôi sắp xếp lại vị trí chỗ ngồi trong phòng thành hình tròn, đồng thời thiết kế bài giảng trở nên sinh động hơn. Bài mang lại ấn tượng sâu sắc nhất có liên quan đến chủ đề nghiện hút. Mở đầu tôi giải thích sơ lược về khái niệm, bản chất và triệu chứng của “nghiện”, sau đó khích lệ mọi người chia sẻ câu chuyện của họ. Các bệnh nhân không chỉ hào hứng chia sẻ quá trình đi vào con đường nghiện hút, mà còn cả quá trình trị liệu, cũng như nỗi dằn vặt đau khổ khi cai nghiện, tái nghiện, rồi lại cai nghiện nhiều lần của họ. Tôi tổng kết câu chuyện của từng người vào thời điểm thích hợp, sau đó khéo léo dẫn dắt họ vào chủ đề thảo luận tiếp theo. Mọi người có được sự đồng cảm và ủng hộ lẫn nhau từ những lời tâm sự thẳng thắn đó, rất nhiều người còn khóc vì quá xúc động. Sau khi buổi trị liệu kết thúc, trên mặt ai cũng đều ánh lên một nụ cười thoải mái và mãn nguyện. Lúc ấy, tôi cảm thấy sung sướng muốn phát điên.

Kỳ thực, trước đây khi chưa từng tiếp xúc với các bệnh nhân mắc chứng tâm thần, do một vài ấn tượng quá sâu sắc, nên tôi luôn cảm thấy lo lắng khi đứng trước họ. Nhưng sau khi làm việc cùng họ một thời gian, những ấn tượng ban đầu trong tôi đã hoàn toàn thay đổi. Mặc dù khi bị cơn bệnh giày vò, họ có thể khóc lóc đau đớn, trở nên cuồng loạn, hay nổi giận đùng đùng, có khi lại im lìm chẳng nói, nhưng thật ra, họ chẳng khác gì chúng ta, họ cũng khát vọng một cuộc sống yên bình, khỏe mạnh và hạnh phúc. Sau lần thực tập đó, tôi cảm thấy áy náy vì đã từng mang cái nhìn phiến diện, thái độ hẹp hòi để đối xử với họ, đồng thời cũng hy vọng tương lai sẽ càng có nhiều người có thể đối xử với họ một cách khách quan, tôn trọng và bình đẳng hơn.

Trong mười tháng thực tập ở bệnh viện Barnes, tổng cộng tôi đã làm việc tròn 600 giờ, điều trị cho hơn 200 bệnh nhân, với đủ các chứng bệnh như trầm cảm mức độ nặng, chứng hoang tưởng, chứng rối loạn lưỡng cực hay chứng tâm thần phân liệt… Nhớ lại ngày đầu tiên bước vào trung tâm trị liệu tâm thần, tay ôm đống tư liệu về bệnh nhân, đối mặt với hệ thống máy tính phức tạp rối rắm, tôi cảm giác đó như là những tháng ngày khó khăn nhất trong cuộc đời. Vậy mà chớp mắt đã đến lúc phải chia xa, giờ mới thấy quãng thời gian vừa qua thật quá ngắn ngủi và quý giá.

Nói không quá rằng chính khoảng thời gian thực tập đó đã thay đổi tôi một cách toàn diện. Nó không chỉ khiến tôi kiên định hơn về hướng chuyên ngành đã chọn, mà còn giúp tôi chắc chắn hơn về sở thích cá nhân. Tuy áp lực công việc rất lớn, bởi đây chẳng phải việc dễ dàng gì, nhưng mỗi khi những nỗ lực của tôi giúp bệnh nhân có sự chuyển biến tốt, cảm giác mãn nguyện thật không thể nào diễn tả thành lời. Đồng thời, công việc thực tập cũng khiến tôi nhận thức rõ ràng hơn về sở trường sở đoản của bản thân trên phương diện chuyên môn, hiểu được mình cần phải bổ sung thêm những kiến thức và kỹ năng nào.

Lúc chuẩn bị rời đi, tôi hỏi bà quản lý một vấn đề mà mình băn khoăn bấy lâu nay: “Làm việc trong môi trường này lâu như thế, chẳng nhẽ bà không cảm thấy mệt mỏi và chán nản sao?” Câu trả lời của bà đã để lại ấn tượng sâu đậm trong tôi. Bà nói: “Tôi vô cùng yêu thích công việc này, năm xưa khi lựa chọn nó, tôi đã biết cả cuộc đời này sẽ dốc sức vì nó. Thông qua sự giúp đỡ của tôi mà từng bệnh nhân sẽ được chữa khỏi, đó chính là niềm vui mà tôi theo đuổi. Tôi bảo vệ và quan tâm đến họ bằng cả tấm lòng, họ cũng đối xử lại với tôi như thế. Đây là một công việc vô cùng tuyệt vời, làm sao mệt mỏi được chứ? Cô bé à, cháu hãy nhớ rằng, bất luận tương lai cháu làm công việc gì, nhất định phải lựa chọn theo tình yêu và sở thích thật sự. Chỉ cần đã quyết lựa chọn, người ta sẽ nhiệt tình thực hiện và luôn khiến ngọn lửa hy vọng cháy mãi! Đó mới chính là phong cách cần có của một ‘nữ chiến binh’!”

“Nhiệt tình và luôn hy vọng”…

Những câu chữ đầy sức nặng thốt ra từ miệng một người phụ nữ 60 tuổi bỗng khiến tôi cảm thấy tâm hồn bà ấy thật tươi trẻ và đầy sức sống! Tuy đã bước vào tuổi 60, nhưng bà vẫn tràn đầy nhiệt huyết với công việc. Tôi chợt cảm thấy xấu hổ vì sự do dự và sợ hãi của mình. Đúng thế, cuộc sống vốn ngắn ngủi, vậy tại sao không vui vẻ lên chứ? Hãy làm một chiến binh dũng cảm, chọn lựa công việc mà mình thực sự yêu thích, sau đó bắt đầu chiến đấu. Chỉ cần mãi giữ được một trái tim tươi trẻ đầy nhiệt huyết để sống và làm việc, cuộc đời còn gì có thể làm khó ta chứ?

Sau khi hoàn thành 600 giờ thực tập, thời gian gần hai năm làm nghiên cứu sinh của tôi ở WUSL cũng dần bước vào giai đoạn cuối. Tuy mỗi ngày tôi vẫn tất bật giữa vòng quay trường học, thư viện và ký túc xá, cuốn sổ kế hoạch trên tay vẫn chi chít những việc cần làm, nhưng cảm xúc trong tôi đã hoàn toàn đổi khác. So với sự bỡ ngỡ, sợ hãi và thất vọng khi mới đặt chân đến Mỹ, giờ đây tôi đã tự tin, thản nhiên và nhẹ nhõm hơn rất nhiều. Bây giờ nghĩ lại, trạng thái tâm lý tích cực ấy một phần bắt nguồn từ việc đã dần quen với môi trường, con người và cuộc sống xung quanh, phần khác đến từ sự thành thạo về ngôn ngữ và thông hiểu nền văn hóa mới.

Nói đến sự tiến bộ về mặt ngôn ngữ, tôi nghĩ phải cần vài chương mới chia sẻ hết những cảm nhận của mình. Tôi cho rằng, trình độ ngôn ngữ thể hiện trong môi trường toàn tiếng Anh, chịu ảnh hưởng lớn nhất từ hai nhân tố: khả năng ngôn ngữ và tâm trạng của bản thân.

Xét về năng lực tiếng Anh, năm năm trước tôi vẫn trong trạng thái “câm lặng”: cuộc đối thoại nghe lúc hiểu lúc không, xét về kỹ năng nói, trong đa số tình huống chẳng mở nổi miệng, kỹ năng đọc và viết còn có thể gắng gượng. Nguyên nhân chủ yếu vì trong nước chủ yếu luyện tập đọc và viết, còn kỹ năng nghe, nói luyện ít nhất. Năng lực ngôn ngữ giống như việc chơi nhạc cụ vậy, càng ít luyện tập càng kém, con đường duy nhất để nâng cao tay nghề chỉ có cách luyện đi luyện lại nhiều lần. Trong năm đầu tiên ở Mỹ, đa phần thời gian của tôi đều dành cho việc đọc và viết luận, nên kỹ năng đọc và viết tiến bộ nhanh nhất. Chính vì thường xuyên nghe thầy giáo giảng bài nên tốc độ tiến bộ của kỹ năng nghe xếp thứ hai. Còn tình trạng nói vẫn rất thê thảm, do nguyên nhân về tâm lý, số lần tôi dám chủ động dùng tiếng Anh để giao tiếp với mọi người ít đến mức đáng thương.

Kỹ năng nói của tôi tiến bộ thần tốc bắt đầu từ sau kỳ thực tập chuyên ngành vào năm thứ hai. Do đi thực tập nên tôi bị lộ nguyên hình trong môi trường công việc bản ngữ. Mười tháng ấy, ngoài việc học ở trường ra, hầu như ngày nào tôi cũng phải dùng tiếng Anh để giao tiếp với bệnh nhân và đồng nghiệp ở bệnh viện. Kết quả là những ngôn từ và cách diễn đạt trước đây tôi không biết, nay nghe mọi người xung quanh sử dụng nhiều, thành ra mình cũng dần khắc ghi trong tiềm thức. Ngày trước luôn phạm phải những lỗi khẩu ngữ ngớ ngẩn, gây ra biết bao chuyện nực cười, sau khi được chỉnh sửa vài lần, tôi cũng tự nhiên chú ý hơn. Lâu dần, không những số lượng từ dùng thường ngày tăng lên đáng kể, mà thuật ngữ chuyên môn trong công việc cũng ngày càng nắm vững. Tích lũy dần dần, kỹ năng nói của tôi có được sự tiến bộ rõ rệt. Mặc dù đôi khi vẫn xuất hiện những tình huống bị ngắc ngứ không biết phải biểu đạt như thế nào, nhưng việc trao đổi bằng tiếng Anh đã vô cùng lưu loát. So với một năm trước, có thể nói trình độ tiếng Anh của tôi đã có sự nhảy vọt.

Điều khiến tôi vui mừng hơn cả chính là cùng với sự tiến bộ thần kỳ về kỹ năng tiếng Anh, dường như tôi cũng dần khắc phục được chướng ngại tâm lý khi nói chuyện với người Mỹ. Buộc phải nói rằng, sự tiến bộ và trưởng thành về tâm lý này hoàn toàn là một quá trình vô thức xảy ra trong thời gian tôi thực tập. Bởi tôi chỉ một lòng muốn “nhanh chóng hoàn thành buổi phỏng vấn” hay “giảng giải trong buổi trị liệu tập thể sao cho thật tốt”… chứ không hề có khái niệm “Ồ, anh ta là người Mỹ, ta phải làm sao đây”. Lâu dần, từ chỗ “tôi là người Trung Quốc, họ là người Mỹ”, đã chuyển thành “tôi là thực tập sinh, họ là bệnh nhân hoặc đồng nghiệp của tôi”. Sau thời gian dài tiếp xúc với họ, ranh giới ngăn cách được dựng nên bởi chủng tộc và quốc tịch trong tôi cũng dần trở nên mơ hồ.

Cần phải nhấn mạnh lại, sự chuyển biến về tâm lý đó diễn ra một cách hoàn toàn vô thức. Bạn chẳng thể cảm nhận được quá trình đó, chỉ khi nhớ lại tất cả, bạn mới kinh ngạc nhận ra những sự việc từng gây khó khăn cho bạn nay đã không còn nữa. Sau sự chuyển biến tâm lý ấy, tôi mới ý thức được, tuy trạng thái “câm lặng” của tôi có mối quan hệ nhất định với trình độ tiếng Anh, nhưng ở mức độ cao hơn, còn có thể do chướng ngại tâm lý gây nên, khiến tôi không thể phát huy được năng lực vốn có, điều này giống như việc một thí sinh nắm rất chắc kiến thức, nhưng do tâm lý quá căng thẳng nên không thể làm bài tốt trong kỳ thi.

Rất nhiều người cảm thấy bản thân họ không dám nói tiếng Anh là vì trình độ kém cỏi. Họ cho rằng chỉ bằng cách luyện nói trước mới có thể thay đổi được tâm lý tự ti. Nhưng tôi lại thấy nên đảo nghịch mối quan hệ đó với nhau: Chỉ khi khắc phục được tâm lý tiêu cực sợ sai, bạn mới dám mở miệng, sau đó luyện tập nhiều lần, trình độ khẩu ngữ mới có thể trở nên tốt hơn. Đây cũng chính là lý luận cốt lõi của tâm lý học hành vi đã nhắc đến ở phần trước (Mối quan hệ giữa tư duy, cảm xúc, hành vi): Chỉ khi có được trạng thái tâm lý tích cực, bạn mới không cảm thấy tự ti, sợ hãi, lo lắng và căng thẳng trong mỗi lần dùng tiếng Anh để giao tiếp; mỗi khi bình tĩnh, thoải mái và tự tin bạn mới thể hiện được trình độ vốn có của mình, hơn nữa cũng không vì những thất bại tạm thời mà nhụt chí hoặc từ bỏ hoàn toàn.

Vậy khi đối mặt với người Mỹ mà tiếng Anh là tiếng mẹ đẻ của họ, trong khi trình độ tiếng Anh của bản thân lại có hạn, rốt cuộc phải làm thế nào để giữ được tâm lý tự tin, lạc quan, bình tĩnh và tích cực? Xét từ góc độ tâm lý học, có hai phương pháp để thay đổi trạng thái tâm lý tiêu cực của con người: Một là, trực tiếp thay đổi sự việc dẫn đến trạng thái tâm lý tiêu cực đó (phương pháp 1); hai là, thông qua tư duy để chuyển biến trạng thái tâm lý tiêu cực thành tích cực (phương pháp 2).

Ở phương pháp đầu tiên, có rất nhiều sự việc có khả năng gây ra tâm trạng tự ti và lo lắng cho một người khi họ nói tiếng Anh, có thể vốn dĩ năng lực tiếng Anh của người đó không tốt, hoặc anh ta từng bị mọi người châm chọc khi nói tiếng Anh. Vậy, nếu muốn thay đổi sự việc mang tính chất khởi phát đó, ta phải bỏ công luyện tập nâng cao trình độ (nội dung cụ thể đã được đề cập trong cuốn Săn học bổng), nhằm xoa dịu vết thương do ám ảnh cũ tạo nên. Tuy nhiên, một hiện tượng thú vị là những người khác nhau sẽ có những biểu hiện khác nhau khi cùng ở trong một môi trường toàn tiếng Anh. Ví dụ, sinh viên A có trình độ tiếng Anh khá ổn, nhưng do tâm lý lo lắng nên chẳng dám hé răng nửa lời; sinh viên B có năng lực tiếng Anh kém hơn, nhưng lại có thể nhanh chóng hòa đồng với bạn bè người Mỹ. Nguyên nhân vì sao?

Suy cho cùng, tất cả vẫn do trạng thái tâm lý. Cũng có nghĩa, nếu muốn thay đổi từ gốc rễ tình trạng không dám mở miệng nói tiếng Anh, trước tiên phải bắt đầu từ phương pháp 2, tức phải học cách chuyển biến từ trạng thái tâm lý tiêu cực sang tích cực. Trước khi học cách chuyển biến này, bạn phải tự hiểu rõ tại sao bản thân lại có cảm giác lo lắng, không dám nói.

Đối với một đứa vừa mới đến Mỹ như tôi hồi ấy, chủ yếu gồm những nguyên nhân sau: Một, tôi thật sự không biết phải nói gì, luôn có cảm giác ngượng ngùng khi nói chuyện, lắp ba lắp bắp, lệch pha với người đối thoại; Hai, tôi lo sợ những điều mình nói ra bị sai hoặc phát âm không đúng, khiến họ không hiểu. Nhưng gốc rễ vấn đề của hai nguyên nhân trên chính là sự tự ti – không đủ tự tin với những gì mình nói, cảm thấy người đối thoại không hứng thú; không tự tin với trình độ tiếng Anh của bản thân, sợ phạm lỗi sai. Lâu dần cảm giác lo lắng càng tăng lên, càng không dám mở miệng, càng ngại giao tiếp, chính vì không luyện tập khiến khẩu ngữ kém dần, từ đó đánh mất đi nhiều cơ hội giao tiếp xã hội. Không có quan hệ xã hội sẽ không thể hòa nhập cùng mọi người, từ đó trở nên âm thầm lặng lẽ, cũng vì vậy mà nhiều người mắc phải hội chứng trầm cảm.

Nếu đã biết do bản thân không đủ tự tin nên không dám nói, thì chúng ta phải bắt đầu thay đổi tư duy từ chính chỗ ấy. Đầu tiên, việc mỗi một người dám rời bỏ quê hương để một mình đến đất nước xa lạ, đều đáng được tôn trọng, càng không cần nói đến việc bạn bị ép phải sử dụng ngôn ngữ thứ hai. Như đã nói ở phần trước, dù những đột phá của bạn ở mức độ nào trong môi trường mới, đó đều là những sự tiến bộ chưa từng có trong cuộc đời bạn, bạn hoàn toàn có lý do để hãnh diện và khâm phục chính mình.

Tiếp theo, tiếng Anh không phải là tiếng mẹ đẻ, và đa phần chúng ta không sử dụng nó như một ngành nghề, vì thế, không thể cưỡng ép bản thân luyện tiếng Anh lưu loát như tiếng mẹ đẻ, hoặc trôi chảy như người bản địa được. Nếu tiếng Anh đã là ngôn ngữ thứ hai, vậy việc phạm lỗi, phát âm sai, phản ứng chậm… đều là chuyện bình thường. Những người nước ngoài khi mới đến Trung Quốc chẳng phải cũng đều bắt đầu với thứ tiếng Trung ngọng nghịu và khó hiểu sao? Nhưng chúng ta không hề cười nhạo, hay từ chối giao lưu khi họ phát âm không chuẩn hoặc mắc lỗi sai về ngữ pháp, ngược lại chúng ta vô cùng khâm phục tinh thần dũng cảm học hỏi của họ. Chúng ta đối xử với họ như thế, thì họ cũng sẽ đối xử với chúng ta y hệt, vậy nên về cơ bản, bạn không cần phải mất tự tin vì những vấn đề trên. Ngay cả với những người ngoại quốc mà tiếng Anh không phải tiếng mẹ đẻ, họ cũng gặp những vấn đề trong giao tiếp, chẳng qua mức độ khác nhau, hình thức nội dung cũng khác nhau mà thôi.

Trên thực tế, cho dù chúng ta phát âm sai, người Mỹ vẫn có thể nghe hiểu. Thời gian tôi du học, trong lớp có một bạn học người Hàn Quốc, khẩu âm nặng đến mức không thể tưởng tượng nổi, mỗi khi cậu ấy phát biểu, tôi cũng phải toát cả mồ hôi. Dù vậy, cậu ấy vẫn rất tự tin khi nói chuyện. Mỗi khi tôi cảm thấy ức chế vì không hiểu cậu ấy nói gì, thì phát hiện các bạn học người Mỹ đã gật đầu đồng ý với quan điểm mà cậu ấy đang trình bày. Ngoài ra, miễn bàn đến vấn đề các sinh viên quốc tế dễ phạm lỗi sai về khẩu ngữ, ngay cả sinh viên Mỹ nói tiếng Anh cũng rất hay sai. Như mọi người đều biết, ở Mỹ, khẩu âm của người Mỹ gốc Phi rất nặng, nhiều từ lóng và khó hiểu nhất. Mỗi khi nói chuyện với họ, tôi thường xuyên nghe thấy nhiều câu không mạch lạc, còn ngữ pháp sai bét, đại loại như “He be stupid” hoặc “Is you coming again tomorrow”. Nhưng điều đó chẳng hề ảnh hưởng đến cuộc trò chuyện giữa mọi người với nhau.

Đưa ra những ví dụ trên nhằm làm sáng tỏ một điều, so với việc phát âm chuẩn và những mẫu câu mắc sai sót vụn vặt, thì khả năng nói lưu loát, giàu logic quan trọng hơn nhiều. Những vấn đề về phát âm hay sai sót ngữ pháp đều có thể khắc phục được, chỉ cần chúng ta luyện tập thường xuyên. Vì thế, bạn đừng tốn nhiều thời gian để lo lắng về việc mình phát âm có chuẩn không, hay diễn đạt có giống người bản địa không. Bởi dù bạn phát âm chuẩn đến đâu, cách nói giống người bản địa đến đâu, cũng chẳng thể hơn người Mỹ thuần chủng, ngược lại, tư tưởng mà bạn muốn biểu đạt mới là điều quan trọng nhất. Nếu đầu bạn rỗng tuếch thì dù phát âm có chuẩn đến đâu cũng chẳng có nghĩa lý gì.

Kỳ thực, nếu người Trung Quốc muốn luyện tiếng Anh trở nên lưu loát như người bản địa không phải là điều không thể, chẳng qua đối với phần đông, đó chỉ là sự cao thấp về tỷ lệ mà thôi. Ngoại trừ những người có nghề nghiệp liên quan đến tiếng Anh ra, đa số đều học tiếng Anh với mục đích giao tiếp. Trong cuộc sống thường ngày, chỉ cần bạn diễn đạt rõ ràng ý mình muốn nói, bất kể bạn dùng từ ngữ sơ cấp đơn giản dễ hiểu, hay là một đống từ vựng cao cấp trong GRE cũng đều không có sự khác biệt quá lớn (ngược lại vế sau còn khiến người nghe cảm thấy kỳ cục). Vì thế, dùng tiếng Anh trong giao tiếp thông thường, điều quan trọng nhất chính là học được cách diễn đạt ý mình sao cho rõ ràng, chính xác nhất, không cần phải mất tự tin vì vốn từ vựng ít ỏi, hay câu cú quá đơn giản, theo thời gian những thứ đó sẽ tự nhiên được giải quyết. Thực tế, sau khi ở Mỹ một thời gian, tôi phát hiện ra, đa phần từ vựng và tổ hợp từ mà người Mỹ dùng hàng ngày đều rất đơn giản, nhưng cách dùng lại khá linh hoạt. Vì thế, cần nắm thật vững vốn từ hiện có còn hơn lãng phí thời gian tìm hiểu mày mò những từ mới khác.

Một khi đã hiểu thì mọi lo lắng về phương diện kỹ thuật là hoàn toàn thừa thãi, vậy phải giải quyết phương diện nội dung trong khẩu ngữ thế nào? Xử lý vấn đề im bặt khi đối diện với người nước ngoài ra sao? Việc này gây rắc rối cho tôi trong thời gian khá dài. Xuất hiện một hiện tượng rất thú vị, nếu phải đối diện với một người xa lạ đến từ Trung Quốc, ngay lập tức tôi có thể trò chuyện vui vẻ cùng họ, tất tần tật mọi chuyện từ thiên văn địa lý cho đến cuộc sống giới showbiz mà không hề cảm thấy ngại ngùng. Nhưng, tại sao khi người lạ trước mắt biến thành dân Mỹ, mặt tôi liền nhanh chóng biến sắc, đầu óc trở nên trống rỗng?

Điều này suy cho cùng vẫn thuộc về vấn đề tâm lý. Thông thường khi bạn gặp một người nước ngoài, lập tức não bộ sẽ chia tách bản thân và đối phương ra làm hai phần riêng biệt. Trong tiềm thức, bạn nhanh chóng cảm nhận được sự khác biệt về mặt bản chất giữa hai người qua một loạt các thông tin như quốc tịch, chủng tộc, tướng mạo, văn hóa, gia đình… Từ đó bạn sẽ ý thức bản thân và đối phương không hề có bất cứ điểm chung nào, nên lập tức cảm thấy ngại ngùng và lo lắng. Nhưng hãy thử nghĩ xem, nếu hai bên không có điểm chung, hơn nữa còn chẳng hứng thú gì với nhau, như vậy cuộc trò chuyện khó có thể tiếp tục được. Tuy nhiên, nhiều khi thông tin mà tiềm thức của não bộ cung cấp chưa hẳn đã chính xác. Suy nghĩ lý trí một chút, trước khi là người Mỹ, họ phải là con người cái đã. Nếu cùng là con người, vậy nhất định phải có đặc điểm chung. Ví dụ, khi bạn cảm thấy khó chịu vì không có gì để nói, đối phương cũng sẽ như thế. Khi một người nước ngoài có trình độ tiếng Trung làng nhàng và không đủ tự tin về khả năng ngôn ngữ của bản thân, nếu bạn khích lệ anh ta một cách đầy thiện ý, chắc chắn họ cũng sẽ cổ vũ bạn nếu bạn rơi vào hoàn cảnh như vậy.

Khi biết bản thân và đối phương kỳ thực có rất nhiều điểm tương đồng, tôi đã tìm ra một phương pháp rất hay để giải quyết tình huống ngại ngùng ấy. Mỗi khi gặp một người Mỹ bất kỳ, tôi sẽ tưởng tượng anh ta là người Trung Quốc. Tôi nói với người Trung Quốc điều gì thì nói với anh ta hệt như thế. Đôi khi, thậm chí tôi còn nói thẳng với đối phương rằng: Anh biết không, thật ra lúc này tôi đang rất căng thẳng, chẳng biết phải nói gì, bởi vì tôi đến từ Trung Quốc, tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai, tôi chẳng có chút tự tin nào với nó. Mỗi lần tôi thẳng thắn bày tỏ thái độ như thế, đối phương cũng luôn đáp lại một cách rất thoải mái, rộng lượng, với những người vốn giỏi khen người khác như người Mỹ, điều này lại càng đúng. Sau đó tôi bèn thổ lộ một cách chân thành với họ về những điểm mình không thích ứng được khi sống ở Mỹ, và câu chuyện cứ thế tiếp tục, chúng tôi nói về sự khác biệt văn hóa, giáo dục hay cuộc sống. Tóm lại, đừng vì đối phương là người nước ngoài mà cảm thấy đôi bên như đến từ hai hành tinh khác nhau. Điểm chung giữa chúng ta luôn nhiều hơn điểm khác biệt, huống hồ phần đông người nước ngoài đều cảm thấy người châu Á rất thú vị.

Nếu bạn cảm thấy không tự tin với cuộc nói chuyện tự do như thế này, bạn có thể chuẩn bị trước một vài chủ đề. Tổ chức đào tạo kỹ năng thuyết trình nổi tiếng thế giới Toastmasters từng đưa ra một ý tưởng tuyệt vời: Họ kiến nghị mỗi một người hãy tích lũy cho mình từ hai đến ba mươi chủ đề nói chuyện thú vị, để hóa giải những khó khăn khi giao tiếp với người lạ. Bạn xem, khi người nước ngoài gặp người không quen biết, họ cũng chẳng biết nói gì trong lần đầu tiên, huống hồ là chúng ta. Từ đó có thể thấy, sự khó xử giữa những người xa lạ cũng là hiện tượng quá đỗi bình thường.

Tóm lại, khi trò chuyện bạn hãy tập quên đi “họ là người trong nước, mình là người nước ngoài”, hãy đối mặt với người lạ bằng tâm thế “tôi là người bình thường, anh cũng là người bình thường, chúng ta chỉ đến từ hai nơi khác nhau mà thôi.” Chỉ cần đối xử với đối phương bằng thái độ bình đẳng, thẳng thắn, cùng với tấm lòng nhiệt tình, chân thành và hiếu kỳ khi tiếp xúc văn hóa nước ngoài, đồng thời vẫn tự tin về văn hóa nước mình, như thế cả đôi bên sẽ có rất nhiều chuyện để nói.

Có thể bạn thấy tôi nói ra điều này rất dễ dàng, nhưng một vài năm trước khi mới đến Mỹ, tôi luôn vấp phải hàng loạt vấn đề như trên. Năm năm sau đó, tôi mới dần lĩnh hội được những đạo lý ấy. Nói thật, việc thích ứng ngôn ngữ và dung hòa văn hóa không phải chuyện dễ dàng gì, bạn buộc phải thể hiện mình trong môi trường văn hóa khác biệt một thời gian dài, mới có thể dần khắc phục được cảm giác khó chịu đó. Đừng bao giờ cho rằng ở nước ngoài lâu, năng lực ngôn ngữ sẽ tự nhiên tiến bộ. Nếu bạn hành động giống tôi trong năm đầu tiên ở Mỹ, suốt ngày chỉ quanh quẩn chơi với đồng hương, thì năng lực ngôn ngữ không những chẳng tiến bộ mà ngược lại, lâu dần còn bị tụt hậu nữa.

Hiện tại, tôi hầu như có thể dùng tiếng Anh giao tiếp lưu loát với các đồng nghiệp, khách hàng và bạn bè. Nhưng nói một cách khách quan, tôi biết dù sống ở Mỹ bao nhiêu năm đi nữa, dù có luyện tập khắc khổ đến thế nào thì trình độ tiếng Anh của tôi cũng chẳng thể như người Mỹ bản địa. Ví như một bài thơ tiếng Anh dù hay đến đâu, cũng chẳng thể sánh được với những câu thơ của Phương Văn Sơn[8] từng khiến tôi sởn gai ốc. Đó chính là sự khác biệt về vấn đề nhạy cảm ngôn ngữ và văn hóa, những thứ không thể bù đắp bởi ta không sinh ra lớn lên trên mảnh đất này. Tuy nhiên, sự khác biệt đó không thể ngăn tôi giao tiếp với mọi người. Điều này chứng tỏ: Đối với những người không dùng tiếng Anh như một ngành nghề, nó chỉ là một công cụ giao tiếp, chỉ vậy mà thôi.

Cuối năm 2010, cuối cùng tôi cũng hoàn thành tất cả số học phần và tốt nghiệp một cách thuận lợi. Khi cầm tấm bằng tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Công tác xã hội trên tay, lòng tôi chợt dâng lên một cảm xúc vui buồn lẫn lộn. Ban đầu tôi cảm thấy vui đến điên cuồng vì mục tiêu cực nhọc phấn đấu bao lâu nay cuối cùng cũng hoàn thành, nhưng tâm trạng ấy chẳng kéo dài được mấy ngày, rất nhanh sau đó, nó bị thay thế bởi cảm giác trống trải không thể diễn tả thành lời. Sau buổi lễ tốt nghiệp nho nhỏ được tổ chức trong học viện, tôi sẽ chẳng còn lý do gì để thường xuyên đến trường nữa. Cuộc sống bận rộn trước kia bỗng nhiên ngưng bặt, cơ thể hệt như sợi dây chun kéo căng bị buông lỏng, chẳng còn chút sức lực nào.

Cũng như mọi sinh viên tốt nghiệp khác, tôi đang đứng giữa ngã ba của cuộc đời, cảm giác mù mờ, bất lực tràn ngập trong đầu. Do lĩnh vực Công tác xã hội ở Mỹ phát triển tương đối hoàn thiện, nên lúc ấy tôi quyết định, sau khi tốt nghiệp sẽ ở lại đây làm việc một thời gian, tích lũy ít kinh nghiệm xong rồi tính tiếp. Tuy nhiên chính vì phải tìm việc ở Mỹ, nên tôi mới cảm thấy bồn chồn bất an. Tôi chỉ biết mình muốn làm chuyên gia tư vấn tâm lý, nhưng chẳng biết một sinh viên quốc tế như tôi liệu có thể tìm được một công việc lý tưởng ở đất nước này hay không.

Tôi từng cho rằng, nếu suôn sẻ lấy được bằng, vấn đề tìm một công việc sau khi tốt nghiệp không phải là quá khó. Nhưng sau hai năm học chuyên ngành, tôi cảm giác như ngoài tấm bằng ra, những kiến thức thực tế tôi tích lũy được còn quá ư hạn chế. Mặc dù được học rất nhiều môn, viết vô số bài luận, nhưng ngoại trừ việc học được nhiều điều trong thời gian thực tập, dường như tôi vẫn chưa nắm vững kiến thức trên lớp. Mỗi khi nghĩ đến điều này, tôi lại cảm thấy vô cùng hoang mang. Có một dạo, thậm chí tôi không dám chắc việc bỏ tiền ra nước ngoài học có phải một quyết định sáng suốt hay không. Ban đầu tôi không hề biết cảm giác ấy đến từ đâu, cho đến sau khi tốt nghiệp, ngồi tổng kết lại hai năm du học, tôi mới phát hiện ra, kỳ thực đó đều là do mô hình giáo dục khác biệt giữa hai nước Mỹ – Trung tạo nên.

Từ nhỏ tôi quen với kiểu giáo dục “nhồi vịt”, quen bị người khác “dạy”, quen được giáo viên trực tiếp đưa ra “đáp án chính xác”, nên tôi máy móc cho rằng, mục đích của việc học chính là ghi nhớ mọi kiến thức, sau đó mang ra đối phó các kỳ thi. Mỗi khi đạt được điểm cao, tôi đều tự tin cho rằng mình nắm rất chắc mọi kiến thức đã học, nhưng sau này nghĩ lại, thậm chí còn chẳng nhớ ngày xưa đã học những gì. Trong quá trình đó, tôi ít khi chủ động suy nghĩ tích cực về những kiến thức đã học, lâu dần đánh mất đi năng lực chủ động và tư duy tích cực. Ở trong nước, giáo viên đóng vai trò như một người dạy học theo đúng nghĩa truyền thống, nghĩa là nhất quán tuân theo mô hình “giáo viên dạy, học trò nghe”.

Mô hình giáo dục của Mỹ cởi mở hơn nhiều. Trong đa phần các tình huống, giáo viên không hề đưa cho học sinh “đáp án chính xác”. Ngược lại, họ sẽ yêu cầu bạn đọc rất nhiều sách có liên quan, rồi tự tiến hành nghiên cứu cá nhân hoặc theo nhóm, từ đó giúp bạn hình thành nên quan điểm riêng cho mình. Trên lớp, vai trò của giáo viên giống người “giải đáp thắc mắc” hoặc “gợi mở” hơn. Giáo viên sẽ dành một khoảng thời gian nhất định để gợi mở và hướng dẫn cho học sinh bằng chính kinh nghiệm cá nhân, sau đó khích lệ mọi người chia sẻ quan điểm trong những buổi thảo luận. Rất nhiều nội dung được thảo luận trên lớp đều là chủ đề mở, không nhất thiết chỉ có duy nhất một câu trả lời chính xác, bản chất của việc thảo luận là khích lệ người học suy nghĩ và giải quyết vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau.

Trong các trường đại học của Mỹ, giáo trình chuẩn quốc gia xuất hiện vô cùng ít, đa phần tài liệu của sinh viên đều do các chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực đó viết. Giáo viên sẽ khuyến khích sinh viên chọn đọc bất kỳ tài liệu nào mà họ thích thú, chỉ cần cảm thấy tài liệu đó giúp ích cho việc học. Sau khi đọc rất nhiều sách, bạn sẽ phát hiện quan điểm của những tác giả khác nhau về một chuyên ngành nào đó có thể tương tự hoặc trái ngược nhau, mục đích của việc giáo viên khuyến khích sinh viên đọc nhiều loại tài liệu cũng nhằm hy vọng bồi dưỡng tư duy mang tính rộng mở của sinh viên. Ngoài ra, đề thi ở một số môn chuyên ngành cũng thuộc dạng mở, sinh viên có thể mang theo từ điển, sách vở và cả máy tính vào phòng thi, nhưng bạn sẽ nhận ra mình chẳng thể tìm thấy đáp án hoàn chỉnh của bất kỳ câu hỏi nào trong sách. Những thứ bạn mang theo chỉ có tác dụng tham khảo, rất nhiều câu hỏi cần phải động não mới trả lời được.

Lúc mới đến Mỹ, tôi không thể thích ứng nổi với kiểu giáo dục này. Tôi luôn cảm thấy đầy hoài nghi mỗi khi đọc xong một quyển sách, sau khi lên lớp nỗi nghi ngờ càng lớn hơn, dù thảo luận vấn đề rất nhiều lần, nhưng vẫn chẳng rút ra được “đáp án chính xác” cuối cùng. Nhưng trọng điểm của việc học tập và giáo dục không chỉ nằm ở một câu trả lời đơn giản, mà phụ thuộc vào quá trình đọc sách, tư duy, phát hiện và giải quyết vấn đề, cũng như năng lực được trui rèn thông qua quá trình ấy. Trong quá trình này, quan điểm hoặc đáp án của bạn có thể không giống với người khác, nhưng đó là những ý kiến độc nhất chỉ của riêng bạn.

Trong mô hình giáo dục mang tính mở như thế, người học có thể học được bao nhiêu số lượng kiến thức, hoàn toàn do sự năng động chủ quan của mỗi cá nhân quyết định nên. Nói thực, đối với sinh viên Trung Quốc, việc đạt được điểm cao khi học ở Mỹ không phải quá khó. Tuy nhiên, hầu như giáo viên nào cũng nói với bạn, so với việc đạt điểm cao, quan trọng hơn cả vẫn là phải có được khả năng tư duy, biết nghi ngờ, học một biết mười qua quá trình học tập. Những ông chủ trong tương lai của bạn không hề quan tâm đến việc bạn được B+ hay A-, cái họ xem trọng chính là năng lực chuyên môn thật sự của bạn.

Tôi thấy thật sự may mắn, tuy không tìm được “câu trả lời chính xác” ở trên lớp, nhưng khi vùi mình trong biển bài luận ngoài giờ học, thật ngạc nhiên là tôi đã thu hoạch được rất nhiều điều. Như mọi người đều biết, ở Mỹ tuyệt đối nghiêm cấm việc sao chép dưới mọi hình thức, một khi bị phát hiện hậu quả sẽ vô cùng nghiêm trọng. Vì thế, trong hai năm ở đây, mọi bài luận của tôi đều do chính tôi tư duy, nghiên cứu, viết ra và sửa chữa. Tuy đã nhiều năm trôi qua, nhưng đến nay tôi vẫn nhớ như in quá trình viết các bài luận đó, rất nhiều điều mà hồi ấy tôi chưa bao giờ nghĩ đến lại có ích cho công việc sau này. Những thứ từng khiến tôi khổ sở, chán ghét lại trở thành món quà khiến tôi cảm kích nhất. Không chỉ các bài luận, ngay cả những kiến thức từng học trên lớp cũng vậy. Dù cho lúc mới tốt nghiệp, trong tôi chỉ là một sự trống rỗng, cảm giác như trong tay mình chẳng có gì, nhưng sau khi bắt đầu vào công việc, không ngờ những vấn đề mà chúng tôi từng thảo luận trên lớp lại xuất hiện ngay trong thực tiễn. Lúc ấy, tôi từng đi tìm lại đống tài liệu lưu giữ từ hồi còn đi học và đọc thật tỉ mỉ, chúng luôn mang lại rất nhiều cảm hứng giúp tôi giải quyết những khó khăn trong công việc.

Bây giờ ngẫm lại, hồi ấy chỉ vì cảm thấy quá lạ lẫm với phong cách giáo dục kiểu Mỹ, cộng thêm việc không thích ứng nổi với môi trường và ngôn ngữ nơi đây đã khiến tôi ít khi chủ động trong quá trình học tập. Nói thật là trong một thời gian dài, dường như tôi chỉ biết đuổi theo hạn nộp bài. Nếu không có mấy cái hạn ấy, có lẽ tôi chẳng bao giờ đi đọc những cuốn sách khô khan khó hiểu kia. Ở Mỹ, nếu chỉ tiếp thu một cách bị động, bạn chỉ học được rất ít thứ thực tiễn, đây cũng chính là nguyên nhân vì sao tôi cảm thấy trống rỗng sau khi tốt nghiệp.

Nếu cho tôi thêm một cơ hội, tôi nhất định sẽ chuẩn bị tâm lý sẵn sàng cho phong cách giáo dục kiểu Mỹ, để giúp bản thân nhanh chóng thay đổi thói quen học tập và mô thức tư duy khi xưa. Do quen với phương thức nghe giảng tiêu cực nên lúc đầu không tài nào theo kịp tiến độ bài giảng của Mỹ, vì thế tôi sẽ chăm chỉ đọc trước những phần mà giáo viên yêu cầu, đồng thời chuẩn bị thật tốt bài mới trước khi lên lớp. Trên giảng đường, tôi cũng không nên sợ hãi các buổi thảo luận như buổi đầu đi học, sớm điều chỉnh trạng thái cảm xúc, thoát khỏi những bó buộc về ngôn ngữ, chủ động tham gia các hoạt động tương tác trao đổi. Ngoài ra, tôi nên tiếp thu đề nghị của giáo sư hướng dẫn trong năm nhất, sớm xác định hướng nghiên cứu, cố gắng tận dụng mọi cơ hội từ mỗi kỳ thực tập.

Tóm lại, về phương diện giáo dục, quả thật tôi đã đi biết bao đường vòng, hy vọng các bạn sẽ đi du học trong tương lai có thể rút ra được kinh nghiệm từ tôi. Thực lòng tôi muốn nói, nếu bạn sắp ra nước ngoài học tập, nhất định phải điều chỉnh sự kỳ vọng của bản thân vào nền giáo dục phương Tây sao cho hợp lý. Phương thức giáo dục của họ chủ yếu nhằm bồi dưỡng nên khả năng tư duy độc lập và giải quyết vấn đề. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cũng chỉ gieo hạt giống vào tâm khảm mỗi sinh viên. Hạt giống đó có thể bén rễ nảy mầm hay không đều tùy thuộc vào nỗ lực của mỗi người. Sau này khi bạn tốt nghiệp, có thể bạn cũng sẽ như tôi, cảm thấy mơ hồ, trống rỗng khi cầm tấm bằng trên tay nhưng mọng bạn nhất định phải kiên trì. Nếu bạn đi từng bước vững chãi trên con đường đã qua, rất có thể bạn đã có được một kỹ năng mềm vô hình. Dù đi đến đâu bạn vẫn phải tin rằng, thứ kỹ năng mềm đó sớm muộn cũng sẽ mang lại lợi ích cho bạn. Trong cuộc đời này không có sự nỗ lực nào là vô ích.

Đương nhiên, phải sau vài năm làm việc tôi mới thốt ra được triết lý ấy. Tôi khi xưa còn băn khoăn đứng giữa ngã ba đường sau khi tốt nghiệp, chỉ bởi chặng đường trước mắt mờ mịt không lối đi. Điều duy nhất mà tôi xác định được chỉ là, tôi phải ở lại xứ này, tôi phải kiếm một công việc liên quan đến tư vấn tâm lý. Nhưng bước tiếp theo phải đi như thế nào, tôi vẫn hoàn toàn mù tịt, không chút niềm tin, giống như mọi nỗ lực từ trước đến nay đều quay về số không tròn trĩnh.

Hiện tại ngày càng nhiều người thích thú với chuyên ngành Công tác xã hội, số người ra nước ngoài học chuyên ngành này cũng tăng vọt theo phương thẳng đứng, nhưng họ vẫn còn rất nhiều nghi vấn và hiểu lầm về chúng, vì thế tôi muốn chia sẻ với mọi người nhiều hơn về nội dung của phương diện này.

Trước khi bước vào chủ đề, tôi muốn làm rõ hai điểm:

1. Ở Mỹ, lĩnh vực Công tác xã hội có lịch sử rất lâu đời, phân chia vô cùng cụ thể và tỉ mỉ. Đa phần các trường đại học ở Mỹ đều có chuyên ngành này, nhưng cách phân chia ở mỗi trường lại khác nhau. Phân ngành tôi chia sẻ dưới đây được căn cứ vào việc phân chia chuyên ngành Công tác xã hội tại trường Washington University ở St. Louis. Nếu mọi người muốn tìm hiểu việc thiết kế chuyên ngành Công tác xã hội ở các trường đại học khác trên đất Mỹ, hãy truy cập vào trang web chính thức của trường để biết thêm chi tiết.

2. Tôi học đại học chuyên ngành tiếng Anh ở trong nước, và mới chỉ theo học chuyên ngành Công tác xã hội trong hai năm làm nghiên cứu sinh, vì thế kiến thức về chuyên ngành này vẫn còn nhiều hạn chế. Những quan điểm và cách nhìn nhận dưới đây đều dựa trên những trải nghiệm cá nhân trong quá trình xin du học, làm việc và quan hệ với bạn bè đồng nghiệp, không phải ai cũng phù hợp, nên hy vọng mọi người có thể tiếp thu có chọn lọc những nội dung này.

Đầu tiên tôi muốn làm sáng tỏ một hiểu lầm, rất nhiều người cho rằng “Công tác xã hội” và “Xã hội học” thuộc cùng một môn khoa học, nhưng kỳ thực chúng chỉ là hai lĩnh vực có liên quan đến nhau. Tại một số trường đại học trong nước, Công tác xã hội được xếp vào chuyên ngành con của Xã hội học, nhưng đa phần các trường ở Mỹ, ngành Công tác xã hội là một ngành độc lập như y học, pháp luật hay thương mại. Mà đã là một ngành độc lập, đương nhiên nó phải có hệ thống học thuật phức tạp. Vậy rốt cuộc ngành Công tác xã hội và Xã hội học có gì khác biệt? Nói ngắn gọn, xã hội học tập trung nghiên cứu lý luận, còn Công tác xã hội nghiên cứu về thực tiễn. Lấy một ví dụ đơn giản, nếu chủ đề nghiên cứu của xã hội học là “Tại sao trong xã hội lại xuất hiện hiện tượng nghèo đói?”, thì chủ đề của Công tác xã hội chính là “Chúng ta phải giúp con người xóa bỏ đói nghèo bằng cách nào?”

Vậy cụ thể người làm Công tác xã hội ở Mỹ phải làm những công việc gì? Từng có một bài viết giới thiệu về vấn đề này đã nói, mỗi một người Mỹ từ lúc sinh ra cho đến khi mất đi, chí ít cũng có liên hệ với một ngành nghề Công tác xã hội, có thể thấy sự bao trùm của ngành này trong cuộc sống nơi đây. Ở Mỹ, hình bóng ngành Công tác xã hội có thể xuất hiện ở bệnh viện, các cơ quan chính phủ, trường học, tổ chức phi lợi nhuận, văn phòng tư vấn tâm lý, trung tâm bổ trợ xã hội, cô nhi viện, tổ chức từ thiện hay các công ty tư nhân. Tóm lại, dựa vào chuyên ngành của mỗi một người hoạt động Công tác xã hội, họ có thể làm việc với đủ thứ ngành nghề khác nhau.

Tại Học viện Công tác xã hội thuộc WUSL, hướng chuyên ngành hoàn chỉnh được phân chia theo hai kiểu dọc và ngang: Theo hướng ngang, ngành được phân chia dựa vào các lĩnh vực phục vụ và nhóm người phục vụ, hướng dọc được phân chia dựa vào loại hình công việc.

Đi theo hướng này, các chuyên ngành nhỏ hơn có thể được phân chia thành sáu loại lớn.

1. Nhi đồng, thanh thiếu niên và gia đình

Hướng chuyên nghiên cứu hành vi và tâm lý của nhi đồng, thanh thiếu niên, mối quan hệ giữa chúng và người thân, cũng như các vấn đề tồn tại trong gia đình… Tốt nghiệp theo hướng này có thể làm việc trong nhiều lĩnh vực như trường học, cô nhi viện, tòa án thanh thiếu niên, bệnh viện nhi, hay các tổ chức phi lợi nhuận phục vụ nhi đồng và thanh thiếu niên.

2. Sức khỏe tinh thần

Hướng này chuyên nghiên cứu sức khỏe tinh thần của con người, một phần nội dung của nó giống hoặc trùng với tâm lý học. Sau khi tốt nghiệp, đa phần họ đều làm việc về phương diện tư vấn tâm lý. Có một điểm cần phải nói rõ, những người làm công tác tư vấn tâm lý ở Mỹ có thể thuộc nhiều trình độ khác nhau, ví dụ tiến sĩ hoặc thạc sĩ Tâm lý học, thạc sĩ Công tác xã hội hoặc thạc sĩ Tư vấn tâm lý. Vậy nên khi tiến hành tư vấn, họ sẽ vận dụng nền tảng lý luận, kỹ thuật tư vấn và trọng điểm vấn đề khác nhau, nhưng khách hàng của họ đều tương tự nhau, đều là những người mắc chứng tâm thần hoặc có chướng ngại tâm lý, từng chịu tổn thương về tình cảm hoặc đối diện với các vấn đề trong hôn nhân gia đình.

3. Sức khỏe

Hướng này chuyên nghiên cứu về lĩnh vực sức khỏe con người, sau khi tốt nghiệp có thể làm việc trong bệnh viện, viện điều dưỡng, phòng khám, trung tâm sức khỏe…

4. Lão khoa

Do xã hội Mỹ ngày càng lão hóa, nên nhu cầu tương ứng về dịch vụ cũng tăng lên, vì thế mấy năm trở lại đây lão khoa rất được quan tâm. Hướng này tập trung nghiên cứu tâm lý, hành vi, sức khỏe của người già, cũng như phương pháp giải quyết các vấn đề trong cuộc sống, tình cảm, gia đình… mà họ hay gặp phải vào những năm cuối đời. Sau khi tốt nghiệp, người học có thể làm việc ở bệnh viện, viện dưỡng lão hay phòng khám tư…

5. Phát triển kinh tế xã hội

Đây là hướng tương đối vĩ mô, chủ yếu nghiên cứu các vấn đề mà những nhóm người dễ bị tổn thương hay gặp phải, liên quan đến kinh tế và xã hội, như việc làm, cơm ăn áo mặc, sức khỏe, phúc lợi…

6. Cá nhân hóa hướng chuyên ngành

Ngoại trừ năm hướng kể trên, sinh viên của WUSL còn có thể tự xây dựng phương hướng nghiên cứu mình yêu thích dựa trên sở thích của mỗi cá nhân, tức bạn có thể lựa chọn hai hướng nghiên cứu bất kỳ để cùng học, chỉ cần bản kế hoạch được học viện phê chuẩn là được. Do tôi vô cùng hứng thú với các vấn đề về sức khỏe tinh thần của thanh thiếu niên, nên ban đầu tôi đã lựa chọn kết hợp hai hướng (1) và (2).

Bên trên đã nói về các hướng chuyên ngành theo kiểu dọc, sau đây tôi xin bàn đến phân ngành theo kiểu ngang. Dựa trên loại hình công việc, ngành Công tác xã hội có thể chia thành ba hướng sau:

1. Lâm sàng

Nói một cách đơn giản, công tác lâm sàng có liên quan đến việc trao đổi trực tiếp, mặt đối mặt với một hoặc nhiều người, chủ yếu cung cấp các dịch vụ đánh giá, chẩn đoán hay trị liệu.

2. Quản lý

Phương hướng nghiên cứu này giúp sinh viên học tập cách thức hoàn thiện và quản lý một chương trình, tổ chức hoặc cơ cấu tốt hơn.

3. Nghiên cứu khoa học

Chủ yếu nghiên cứu các hạng mục, lý luận hoặc chính sách về lĩnh vực Công tác xã hội, thử nghiệm thông qua việc thay đổi hoặc tối ưu hóa những hạng mục, lý luận và chính sách để tạo nên ảnh hưởng tích cực đối với một nhóm người, khu vực, tổ chức nào đó hoặc toàn bộ xã hội.

Tổng hợp những trình bày ở trên, căn cứ vào việc phân chia chuyên ngành của Học viện Công tác xã hội thuộc trường WUSL, ta có bảng phương hướng chuyên ngành của lĩnh vực Công tác xã hội như sau:

Cũng giống như những ngành khác, tài liệu xin theo học ngành Công tác xã hội ở các trường đại học Mỹ cần phải có bằng TOEFL, GRE (tùy trường), bài tự luận, bảng điểm, thư giới thiệu, CV và mẫu bài viết (tùy trường)… Bài viết thường yêu cầu bạn phải trình bày về cách nghĩ của mình đối với một vấn đề xã hội nào đó khiến bạn hứng thú, cũng như cách giải quyết mà bạn cho là hợp lý. Tôi đã chia sẻ trải nghiệm của bản thân khi xin theo học thạc sĩ chuyên ngành Công tác xã hội tại trường WUSL ở cuốn sách trước, nên không tiếp tục bàn đến ở đây nữa.

Đa số các trường đại học Mỹ, học thạc sĩ ngành Công tác xã hội cũng giống như mọi ngành, đều mất thời gian hai năm. Nhưng số lượng học phần theo quy định của ngành này lại vượt xa những ngành khác, trong đó còn bao gồm cả kỳ thực tập bắt buộc. Vì thế cường độ bài khóa và áp lực học tập cũng nặng nề hơn hẳn, từ đó ta có thể hiểu nỗi vất vả khi theo học ngành này.

Ở Mỹ, tùy theo chuyên ngành, thành phố, quy mô cơ cấu, vị trí công việc cụ thể và các nhân tố hình thái kinh tế xã hội, mà mức lương của những người tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Công tác xã hội (MSW) có sự khác biệt rất lớn. Theo mức bình quân trên toàn quốc, lương khởi điểm của MSW khoảng từ 26.000 đến 40.000 đô-la/năm (lương trước thuế). Sau khi hoàn thành đủ 3.000 giờ làm việc trong hai năm, nếu có thể lấy được giấy chứng nhận tư cách hành nghề cao cấp của bang (chỉ áp dụng cho công tác lâm sàng), mức lương có thể đạt đến mức 38.000 đến 58.000 đô-la/năm. So với những chuyên ngành khác, có thể con số này chỉ bằng mức khởi điểm của một người mới tốt nghiệp, thậm chí còn ít hơn ba lần so với người tốt nghiệp các ngành kỹ thuật. Đương nhiên, nếu lựa chọn ở lại giảng dạy tại trường đại học, hoặc đảm nhận vị trí quản lý cấp cao trong các công ty, hoặc mở phòng tư vấn tâm lý cá nhân, mức lương có thể rất khả quan, tuy vậy luôn cần nhiều thời gian tích lũy hơn những ngành khác. Thế nên, ngành Công tác xã hội quả thực chẳng có “tiền” đồ gì.

Xét về mặt đầu tư tiền của, công sức, sức khỏe, thời gian cũng như số tiền thu được cuối cùng, ngành Công tác xã hội không thể bằng những ngành khác, vậy tại sao vẫn có nhiều người xả thân theo học đến vậy? Nguyên nhân chính bởi ngành Công tác xã hội là lĩnh vực nhận được sự báo đáp về mặt tinh thần phong phú nhất. Nghiên cứu cho thấy, chỉ số hạnh phúc của những người tốt nghiệp ngành Công tác xã hội luôn đứng trong top 10 của bảng xếp hạng hàng năm. Thu hoạch lớn nhất khi làm việc nhiều năm trong ngành này chính là, tuy bỏ ra rất nhiều công sức, nhưng cảm giác thành công vô cùng mãnh liệt. Những đóng góp âm thầm, có thể thay đổi cả cuộc sống của một người xa lạ. Sự báo đáp về mặt tinh thần ấy, tiền bạc không thể so sánh được.

Tôi vẫn còn nhớ câu chuyện giáo viên từng kể, có hai người cùng đi tản bộ trên bờ biển, trên bãi cát dài có rất nhiều con sao biển mắc cạn không thể quay về với biển cả. Một người tiến lên phía trước, lượm lấy một con ném trả về phía biển. Người kia nói với anh ta, cậu đừng ngốc nghếch nữa, nhiều sao biển như thế cậu có cứu được hết không? Người kia trả lời, tuy tôi không thể cứu hết chúng, nhưng chỉ cần cứu được một con, chí ít tôi vẫn có thể thay đổi vận mệnh của con sao biển ấy. Ngành Công tác xã hội cũng vậy. Tuy họ không có tầm ảnh hưởng rộng lớn như tổng thống quốc gia, cũng chẳng thay đổi nổi vận mệnh của nhân loại như các nhà khoa học, nhưng họ có thể âm thầm ảnh hưởng thậm chí thay đổi cuộc sống một cá nhân nào đó.

Tóm lại, nếu bạn dự định theo học ngành này, xin hãy chắc chắn bản thân lựa chọn nó vì tình yêu đích thực, nếu không e rằng bạn sẽ chẳng thể kiên trì bởi công việc này quá ư vất vả. Nếu bạn chọn lựa nó vì tình yêu, vậy hãy tin rằng, dù khó khăn đến đâu cũng rất đáng. Cuộc đời ngắn ngủi lắm, tại sao không làm công việc mình yêu thích? Tại đây, tôi xin nghiêng mình cung kính trước những nhân viên Công tác xã hội.

Bình luận