Nó đang đi dọc theo một con đường núi trong ánh bình minh màu xanh dịu mát. Xa xa bên dưới, phủ trong sương mù, lờ mờ hình ảnh một thị trấn nhỏ.
Người đàn ông nó đang tìm có ở dưới đó không, người đàn ông nó cần ghê gớm đến nỗi nó không thể nghĩ đến chút gì khác, người đàn ông nắm lời giải – lời giải cho vấn đề của nó…
“Ê, tỉnh dậy.”
Harry mở mắt ra. Nó lại đang nằm trên cái giường xếp trong căn phòng sát mái dơ hầy của Ron. Mặt trời vẫn chưa mọc và căn phòng vẫn còn tối nhờ nhờ. Con cú Pigwidgeon còn ngủ, đầu vùi dưới cánh. Cái thẹo trên trán Harry đang nhói đau.
“Bồ mớ trong lúc ngủ.”
“Mình mớ à?”
“Ừ. ‘Gregorovitch’. Bồ cứ nói hoài ‘Gregorovitch’.” Harry không đeo kính, gương mặt Ron hiện ra hơi nhòe.
“Gregorovitch là ai?”
“Làm sao mình biết? Bồ là người nói ra cái tên đó mà.”
Harry chà xát cái thẹo trên trán, suy nghĩ. Nó có một ý nghĩ mơ hồ là nó đã từng nghe cái tên đó trước đây, nhưng nó không thể nghĩ ra là ở đâu.
“Mình nghĩ Voldemort đang tìm kiếm hắn.” “Khốn khổ cho hắn,” Ron sốt sắng nói.
Harry ngồi dậy, vẫn chà xát cái thẹo, giờ nó đã hoàn toàn tỉnh ngủ. Nó cố gắng nhớ chính xác đường nét của ngôi làng nhỏ được ấp ủ trong một thung lũng sâu.
“Mình nghĩ hắn đã ra nước ngoài.”
“Ai, Gregorovitch hả?”
“Voldemort. Mình nghĩ hắn đang ở đâu đó ở nước ngoài, tìm kiếm Gregorovitch. Chỗ đó trông không giống bất cứ nơi nào trên nước Anh.”
“Bồ cho là bồ lại nhìn thấu óc hắn một lần nữa à?” Giọng Ron có vẻ lo lắng.
“Bồ làm ơn đừng nói lại với Hermione,” Harry nói. “Dù nó vẫn mong biết bao mình đừng thấy những thứ đó trong giấc ngủ nữa, nhưng…”
Nó đăm đăm nhìn cái lồng con Pigwidgeon, nghĩ ngợi… “Tại sao cái tên Gregorovitch nghe quen quen?”
“Mình nghĩ,” nó nói chậm rãi, “ắt có dính dáng tới Quidditch. Có mối liên quan, nhưng mình không thể… mình không thể nghĩ ra nó là cái gì.”
“Quidditch hả?” Ron nói. “Hay là bồ đang nghĩ đến Gorgovitch?” “Ai?”
“Dragomir Gorgovitch, truy thủ, được chuyển qua đội Chudley Cannons với một khoản tiền kỷ lục cách đây hai năm. Người nắm kỷ lục về bật bóng Quaffle trong một mùa.”
“Không,” Harry nói. “Mình chắc chắn không nghĩ tới Gorgovitch.”
“Mình cũng cố gắng không nghĩ tới nữa,” Ron nói. “Thôi, đằng nào thì cũng chúc mừng sinh nhật bồ.”
“A! Đúng rồi! Mình quên béng đi! Mình đã tròn mười bảy tuổi!”
Harry chộp cây đũa phép nằm bên cạnh cái giường xếp, chĩa vào cái bàn bừa bộn mà nó đã đặt cặp kiếng của nó lên, và hô: “Lại đây Mắt kiếng!” Mặc dù cặp kiếng chỉ cách nó một bước chân, vẫn có điều gì đó khiến Harry cực kỳ thỏa mãn khi được thấy cặp kiếng bay vèo về phía nó, cho đến khi chúng chọc thẳng vô mắt nó.
“Tuyệt!” Ron cười hô hố.
Khoái vì được gỡ bỏ bùa Dấu Hiện, Harry làm phép thảy đồ đạc của Ron bay khắp phòng, khiến con Pigwidgeon thức giấc và vỗ cánh bồn chồn bay loạn trong lồng. Harry cũng thử cột dây đôi giày bố của nó bằng phép thuật (sinh ra cái nút thắt khiến nó mất một lúc lâu mới cởi ra được bằng tay), và chỉ để vui mà thôi, nó đổi những chiếc áo choàng màu cam trên tấm bích chương đội Chudley Cannons của Ron ra màu xanh lam sáng.
“Nhưng mình sẽ kéo khóa quần của bồ bằng tay thôi,” Ron khuyên Harry rồi khúc khích cười khi thấy Harry phải kiểm tra ngay tức thì. “Quà cho bồ đây. Mở tại đây, cái này không nên để cho má thấy.”
“Một cuốn sách à?” Harry nói khi cầm cái gói hình chữ nhật. “Hơi khác với truyền thống một chút hả?”
“Cuốn này không phải loại sách lèng èng bồ có đâu,” Ron nói. “Vàng ròng đó: Mười Hai Cách Khỏi-Lo-Thất-Bại Để Bỏ Bùa Các Nàng Phù Thủy. Giải thích mọi thứ người ta cần biết về con gái. Giá mà mình có cuốn sách này hồi năm ngoái thì mình đã biết tỏng cách bỏ rơi Lavender và mình sẽ biết cách làm lành với… Ừm, anh Fred và George có cho mình một cuốn, và mình đã học được khá nhiều. Bồ sẽ ngạc nhiên cho mà coi, cũng không phải chỉ toàn xài đũa phép đâu.”
Khi hai đứa vô nhà bếp, tụi nó thấy một đống quà đang nằm chờ trên bàn. Anh Bill và me xừ Delacour đang ăn nốt bữa điểm tâm, trong khi bà Weasley đứng chuyện vãn với họ bên cái chảo.
“Bác Arthur bảo bác chúc mừng sinh nhật thứ mười bảy của con, Harry à,” bà Weasley nói, tươi cười với nó. “Bác trai phải đi làm sớm, nhưng bác ấy sẽ trở về vào bữa ăn tối. Quà của hai bác cho con nằm trên cùng đó.”
Harry ngồi xuống, cầm cái gói vuông vức mà bà Weasley chỉ, và mở ra. Bên trong là một cái đồng hồ rất giống cái mà ông bà Weasley đã tặng cho Ron nhân sinh nhật thứ mười bảy của nó; một cái đồng hồ vàng có những ngôi sao xoay vòng trên mặt thay vì mấy cây kim.
“Theo truyền thống người ta tặng cho pháp sư đến tuổi trưởng thành một cái đồng hồ đeo tay,” đứng bên cạnh cái nồi, bà Weasley nhìn nó áy náy. “Bác e là cái đó không được mới như cái của Ron, nó thực ra là cái đồng hồ của em bác là Fabian, mà cậu này thì không được cẩn thận cho lắm với đồ đạc của mình, nó hơi bị mẻ một chút xíu ở mặt sau, nhưng…”
Những lời nói còn lại của bà bị rớt mất; Harry đã đứng dậy và ôm ghì lấy bà. Nó cố gởi trong cái ôm thân thiết này những điều không nói ra lời và có lẽ bà đã hiểu được, bởi vì bà vụng về vỗ nhè nhẹ lên má nó khi nó buông bà ra, rồi bà vẫy nhẹ cây đũa phép của bà một cách hơi ngẫu hứng, khiến cho nửa tá miếng thịt muối văng ra khỏi chảo rớt xuống sàn.
“Chúc mừng sinh nhật, Harry!” Hermione nói, vội vã đi vào nhà bếp và đặt món quà của cô bé lên chóp đống quà. “Không có gì nhiều, nhưng mình hy vọng bồ sẽ thích. Bồ tặng Harry cái gì?” Cô bé hỏi Ron, anh chàng này làm như không nghe.
“Vậy, mau lên, mở quà của Hermione!” Ron nói.
Hermione mua cho Harry một Cái kính Mách lẻo mới toanh. Những gói quà khác chứa một con dao cạo có phép, quà tặng của anh Bill và chị Fleur (“À phải, cái này sẽ zúp cháu cạo râu êm ái nhứt trừn đừi.” Me xừ Delacour cam đoan với Harry, “nhưng cháu phải nói rõ zới nó cháu muốn gì… nếu không cháu sẽ thấy mình hưi bị ít râu tóc hưn mong muốn…”), sô-cô-la là quà của ông bà Delacour, và một cái hộp bự chảng những món hàng mới nhất của tiệm Phù Thỉ Wỉ Wái do Fred và George tặng.
Harry, Ron và Hermione không nấn ná lâu lắc ở bàn ăn, bởi vì ma đàm Delacour, Fleur và Gabrielle vừa đến khiến cho nhà bếp đông đúc không thoải mái.
“Mình sẽ xếp vô hành lý những thứ này cho bồ,” Hermione vui vẻ nói, lấy những món quà của Harry ra khỏi tay nó khi ba đứa cùng đi lên cầu thang. “Mình gần xong rồi, chỉ còn chờ quần đùi của bồ giặt xong thôi, Ron à…”
Ron lúng búng nói gì đó nhưng bị ngắt ngang vì một cánh cửa ở đầu cầu thang lầu một mở ra.
“Anh Harry, mời anh vô đây một lát.”
Đó là Ginny. Ron khựng lại ngay, nhưng Hermione nắm lấy cùi chỏ nó và lôi lên cầu thang. Harry đi theo Ginny vào phòng, cảm thấy bồn chồn lo lắng.
Trước đây nó chưa từng vô trong phòng Ginny. Phòng nhỏ nhưng sáng sủa. Có một tấm bích chương to đùng của ban nhạc pháp thuật Quái Tỷ Muội treo trên tường, và tấm hình của Gwenog Jones, đội trưởng đội Quidditch toàn-nữ-phù-thủy Holyhead Harpies dán trên tường đối diện. Một bàn viết đặt đối diện khung cửa sổ mở ra vườn cây ăn trái mà có lần nó và Ginny đã chơi Quidditch với Ron và Hermione, mỗi đội hai người, và bây giờ chỗ đó đã mọc lên một cái rạp khổng lồ màu trắng ngà.
Ginny ngước lên nhìn mặt Harry, hít sâu một hơi, rồi nói, “Chúc mừng sinh nhật mười bảy…”
“Ừ… cám ơn.”
Cô bé cứ nhìn nó mãi; nhưng nó thấy nhìn lại cô bé thiệt là khó, giống như nhìn vào một ngọn đèn sáng rực.
“Cảnh đẹp,” nó nói giọng yếu ớt, chỉ ra ngoài cửa sổ.
Cô bé không bận tâm điều đó. Nó không trách được.
“Em không nghĩ ra cái gì để tặng anh,” cô bé nói.
“Em không cần tặng anh cái gì cả.”
Cô bé lơ cả điều này.
“Em không biết cái gì sẽ có ích. Không có gì được quá lớn, bởi vì anh sẽ không thể đem theo bên mình.”
Nó có dịp liếc nhìn Ginny. Cô bé không khóc. Đó là một trong những điểm tuyệt vời của Ginny, cô bé ít khi nào khóc lóc. Đôi khi nó nghĩ ắt là cô bé đã trở nên cứng cỏi nhờ có sáu ông anh.
Cô bé bước tới gần Harry hơn.
“Vì vậy em nghĩ, em muốn anh có cái gì đó để nhớ tới em, biết đâu, nếu anh gặp gỡ một cô tiên khi anh đang rong ruổi làm chuyện gì đó mà anh làm.”
“Nói thật, anh nghĩ thực tế mấy vụ hẹn hò sẽ cực kỳ thưa thớt.”
“Vậy là em vẫn còn hên,” Ginny thì thầm, và rồi cô bé hôn nó như chưa từng hôn nó trước đây; Harry hôn lại, và đó là cơn say sưa vui sướng hơn cả rượu đế lửa; lúc này cô bé là điều duy nhất có thật trên đời, Ginny, và cái cảm giác về cô, với một tay đỡ lưng và một tay luồn vào trong mái tóc dài thơm ngọt ngào của cô bé.
Cánh cửa bật mở ra sau lưng hai đứa khiến tụi nó giật mình buông nhau ra. “Ối,” Ron nói giọng xoi mói. “Xin lỗi”
“Ron!” Hermione ở ngay sau lưng Ron, hơi bị khó thở. Im lặng ngột ngạt, rồi Ginny nói bằng một giọng nhỏ buồn buồn.
“Thôi, dù sao cũng chúc mừng sinh nhật vui vẻ, anh Harry.”
Tai Ron đỏ tía; Hermione tỏ vẻ lo âu. Harry muốn đóng sập cửa vào mặt hai đứa nó, nhưng lại cảm thấy như thể một luồng gió lạnh đã lùa vô phòng khi cánh cửa mở ra, và khoảnh khắc tươi sáng của đời nó đã nổ tan như bong bóng xà phòng. Tất cả lý do để nó chấm dứt bồ bịch với Ginny, để không đèo bòng với cô bé nữa, dường như lẻn theo Ron mà nhảy vô phòng, và tất cả sự lãng quên đầy vui sướng bèn bỏ đi mất.
Nó nhìn theo Ginny, muốn nói đôi điều, mặc dù nó khó mà biết nói điều gì, nhưng cô bé đã quay lưng về phía nó. Nó nghĩ có lẽ cô bé lần này đã không cầm được nước mắt nữa. Nó không thể làm gì để an ủi cô bé trước mắt Ron.
“Lát nữa sẽ gặp lại em,” nó nói, và đi theo hai đứa kia ra khỏi phòng.
Ron dẫm thình thịch xuống cầu thang, đi xuyên qua nhà bếp vẫn còn đông đúc để ra sân, và Harry bước đồng nhịp với nó suốt chặng đường, còn Hermione thì te te đi theo đằng sau có vẻ khiếp đảm.
Khi đến chỗ khuất của bãi cỏ mới cắt, Ron quay lại chặn đầu Harry. “Mày đã bỏ nó. Bây giờ mày giở trò gì nữa, vờn nó chơi hả?” “Mình không vờn,” Harry nói, lúc ấy Hermione vừa theo kịp tụi nó. “Ron…”
Nhưng Ron giơ tay bảo Hermione im lặng.
“Con nhỏ đã đau khổ thực sự khi mày chấm dứt quan hệ…”
“Mình cũng vậy. Bồ biết tại sao mình phải chấm dứt mà, và điều đó chẳng phải do mình muốn.”
“Ừ, nhưng bây giờ mày lại đi ôm ấp hun hít nó và nó sẽ vừa mới nhen nhóm hy vọng trở lại thì…”
“Ginny không phải đồ ngu, Ginny biết chuyện đó không thể xảy ra, Ginny không trông mong gì hai đứa tôi… đi tới hôn nhân, hay…”
Khi nói điều này, trong trí Harry hiện rõ hình ảnh của Ginny trong bộ áo đầm trắng, đang kết hôn với một thằng cha xa lạ cao kều khó ưa và không có mặt mũi gì ráo. Trong một khoảnh khắc tăng đến cao trào, nó dường như nhìn ra: tương lai của Ginny tự do và không vướng víu gì hết, trong khi tương lai của nó… nó không thấy gì khác ngoài Voldemort ở phía trước.
“Nếu mày còn tiếp tục dụ dỗ nó mỗi khi có mày có cơ hội…”
“Điều đó sẽ không bao giờ có nữa,” Harry gay gắt nói. Ngày hôm đó không có mây nhưng nó cảm thấy như mặt trời vừa đi trốn. “Được chưa?”
Ron có vẻ nửa tức tối nửa ngượng ngùng; nó đứng lắc lư một lát, rồi nói, “Vậy được, thôi, vậy là… ừ.”
Suốt ngày hôm đó Ginny không kiếm cách gặp gỡ Harry một mình nữa, cũng không bày tỏ qua ánh mắt hay cử chỉ nào cho thấy hai đứa nó có chung nhau những điều sâu đậm hơn một cuộc chuyện trò lịch sự trong căn phòng cô bé. Cho dù vậy, Harry cũng cảm thấy nhẹ nhõm khi anh Charlie về đến nhà. Nó tìm được chút xao lãng khi nhìn bà Weasley ép anh Charlie ngồi xuống một cái ghế, giơ cây đũa phép của bà lên một cách dọa nạt và tuyên bố rằng anh sẽ phải đi cắt tóc cắt tai lại cho đàng hoàng.
Bởi vì bữa tiệc sinh nhật của Harry có thể sẽ nong cái nhà bếp của Hang Sóc tới mức nứt banh ra ngay cả trước khi anh Charlie, chú Lupin, cô Tonks, và bác Hagrid đến, nên nhiều cái bàn đã được đặt nối tiếp nhau trong vườn. Fred và George phù phép ra một số lồng đèn tím, tất cả đều được trang trí nổi bật con số 17 to tổ tướng, treo lơ lửng trên đầu khách. Nhờ sự chăm sóc của bà Weasley, vết thương của George coi gọn gàng sạch sẽ, nhưng Harry vẫn chưa quen nhìn cái lỗ tôi tối ở một bên đầu của anh ta, cho dù hai anh em sinh đôi đã nói giỡn rất nhiều về cái lỗ đó.
Hermione khiến những dải băng giấy màu tím với vàng kim phun ra từ đầu cây đũa
phép và tự treo chúng lên khắp cây cối lùm bụi một cách tinh xảo.
“Hay,” Ron nói, khi Hermione vung cây đũa phép một cách bay bướm lần chót, biến lá trên cây táo dại thành vàng, “Bồ đúng là có con mắt tinh đời về những việc như vậy.”
“Cám ơn bồ, Ron,” Hermione nói, trông vẻ mặt vừa khoái chí vừa hơi mắc cỡ. Harry quay mặt đi, mỉm cười với chính mình. Nó có một ý nghĩ tức cười là sẽ tìm đọc chương về những lời khen ngợi khi có thì giờ nghiên cứu cuốn Mười Hai Cách Khỏi-Lo-Thất-Bại Để Bỏ Bùa Các Nàng Phù Thủy; nó bắt gặp ánh mắt của Ginny bèn nhe răng cười với cô bé trước khi kịp nhớ ra lời hứa với Ron và vội vã bắt chuyện với me xừ Delacour.
“Tránh ra! Tránh ra!” Bà Weasley ca vang, xuất hiện ở cửa với một thứ có vẻ như một trái banh Snitch bự-bằng-banh-phao-ở-bãi-biển đang bay trước mặt bà. Chỉ vài giây sau Harry nhận ra cái đó là ổ bánh sinh nhật của nó, bà Weasley dùng cây đũa phép giữ cho cái bánh trôi lơ lửng trên không, chứ bà không dám liều lĩnh bưng nó đi trên mặt đất gồ ghề. Khi cái bánh rốt cuộc đáp được xuống mặt bàn, Harry nói:
“Con quá bất ngờ, bác Weasley à.”
“Ôi, có gì đâu, cưng.” Bà khoái chí nói. Phía sau vai bà, Ron ra hiệu với Harry, ngón tay cái giơ lên, mặt nhăn lại, Giỏi lắm.
Khoảng bảy giờ tất cả khách khứa đều đã đến, được Fred và George đón ở cuối con đường nhỏ dẫn vào nhà. Bác Hagrid nhân cơ hội này diện bộ cánh đẹp nhất, và khủng khiếp nhất của bác, là bộ đồ nâu lông lá xù xì. Mặc dù thầy Lupin mỉm cười khi bắt tay Harry, Harry nghĩ thầy có vẻ không vui lắm. Mà vậy thì kỳ cục hết sức; bên cạnh thầy, cô Tonks tỏa ra nét rạng rỡ cực kỳ tươi tắn.
“Chúc mừng sinh nhật, Harry!” Cô nói, ôm nó rất chặt.
“Ê, mười bảy tuổi rồi hén!” Bác Hagrid nói khi nhận ly rượu bự-bằng-cái-xô mà Fred đưa bác. “Sáu năm chẵn kể từ ngày bác cháu mình gặp nhau, Harry, con còn nhớ ngày đó hông?”
“Mang máng,” Harry nói, nhe răng cười với bác. “Có phải bác đã đạp sập cánh cửa trước, gắn cho thằng Dudley một cái đuôi heo, và nói cho con biết con là một phù thủy?”
“Bác quên béng chi tiết rồi,” bác Hagrid cười phát nấc lên. “Hông sao. Ron, Hermione khỏe hả?”
“Tụi con khỏe” Hermione nói. “Bác khỏe không?”
“Ờ, không tệ lắm. Bận hổm rày, có thêm mấy con kỳ lân mới sanh. Khi nào con trở về trường bác sẽ cho con coi…”
Harry tránh cái nhìn chòng chọc của Ron và Hermione khi bác Hagrid lục lọi túi áo
của bác.
“Đây, Harry… không thể nghĩ ra được món gì tặng con, nhưng rồi bác nhớ ra cái này.” Bác rút ra một cái túi bùa nhỏ bằng da lông thú, miệng túi có dây thắt, rõ ràng là để đeo quanh cổ. “Da lừa. Cất bất cứ cái gì trong đó thì không ai ngoại trừ chính chủ nhân có thể lấy ra được. Hiếm lắm à, mấy thứ này.”
“Cám ơn, bác Hagrid!”
“Hổng có chi,” bác Hagrid nói rồi vẫy bàn tay bự-bằng-nắp-cái-thùng-rác. “A kia là Charlie! Lúc nào cũng khoái cậu này… Ê, Charlie!”
Anh Charlie đến gần, lùa bàn tay một cách hơi phiền muộn qua mớ tóc mới bị cắt ngắn một cách tàn nhẫn. Anh hơi lùn hơn Ron, thân hình chắc nịch, một số vết phỏng và thẹo lan lên hai cánh tay nổi vồng cơ bắp.
“Chào bác Hagrid, tình hình ra sao?”
“Tính biên thư lâu lắm rồi. Thằng Norbert sao rồi?”
“Thằng Norbert hả?” Anh Charlie bật cười. “Con rồng Lưng gai Na Uy hả? Bây giờ tụi cháu kêu nó là nàng Norberta.”
“Cái g… Norbert là rồng cái à?”
“Dạ phải.”
“Làm sao anh biết được?” Hermione hỏi.
“Rồng cái hung hăng hơn rất nhiều,” anh Charlie nói. Anh ngoảnh nhìn ra sau lưng rồi hạ thấp giọng. “Ước gì ba mau mau về đây. Má đang phát quạu.”
Cả bọn cùng nhìn về phía bà Weasley. Bà đang nói chuyện với ma đàm Delacour trong khi mắt cứ liếc chừng về phía cổng.
“Tôi nghĩ chúng ta đành bắt đầu mà không có anh Arthur thôi,” bà nói chung chung với mọi người trong vườn sau một hai lúc ngần ngừ. “Anh ấy có lẽ bị kẹt công việc ở… Ối!”
Tất cả mọi người nhìn thấy cùng một lúc: một vệt ánh sáng bay ngang qua khu vườn và đáp xuống giữa bàn, tại đó nó biến thành một con chồn bạc óng ánh, đứng trên hai chân sau và nói bằng giọng của ông Weasley:
“Bộ trưởng Pháp thuật đến cùng với tôi.”
Thần Hộ mệnh của ông Weasley tan biến vào không trung, để lại cho gia đình Delacour nỗi sửng sốt khi họ trố mắt ngó vào chỗ nó vừa biến đi.
“Chúng ta không nên ở đây,” thầy Lupin nói ngay. “Harry… thầy xin lỗi… thầy sẽ giải thích vào dịp khác…”
Thầy nắm cổ tay cô Tonks và kéo cô đi khỏi. Cả hai đến hàng rào, trèo qua, và biến mất. Bà Weasley tỏ ra bối rối.
“Bộ trưởng… nhưng mắc mớ gì? Tôi không hiểu…”
Nhưng chẳng có thời giờ đâu mà bàn thảo vấn đề; một giây sau, ông Weasley từ cõi không hiện ra ngay bên cánh cổng, đi cùng có ông Rufus Scrimgeour, có thể nhận ra được ngay tức thì nhờ bờm tóc hoa râm của ông.
Hai người vừa đến băng ngang qua sân về phía khu vườn và cái bàn được thắp lồng đèn, nơi mọi người ngồi im phăng phắc, chăm chú nhìn họ đi tới gần. Khi ông Scrimgeour bước vào vùng tỏa sáng của lồng đèn, Harry thấy ông có vẻ già hơn lần gặp gỡ trước đây, ông giờ gầy trơ xương, nét mặt khắc khổ.
“Xin lỗi đã đường đột,” ông Scrimgeour nói khi mệt mỏi đứng lại trước cái bàn. “Đặc biệt là, như tôi có thể nhận ra, mình đến một bữa tiệc mà mình không được mời.”
Mắt ông dừng lại một chút ở cái bánh Snitch khổng lồ.
“Chúc vui vẻ khỏe mạnh.”
“Cám ơn ông,” Harry nói.
“Tôi yêu cầu được nói chuyện riêng với cậu,” ông Scrimgeour nói tiếp. “Với cả cậu Ronald Weasley và cô Hermione Granger.”
“Chúng cháu à?” Ron nói, giọng ngạc nhiên. “Sao lại chúng cháu?”
“Tôi sẽ nói cho cậu biết khi chúng ta ở nơi nào đó kín đáo hơn,” ông Scrimgeour nói. “Có nơi nào như vậy không?” Ông hỏi ông Weasley.
“Vâng, dĩ nhiên,” ông Weasley nói, trông ông rất căng thẳng. “Phòng, ơ, phòng khách, dùng phòng khách được không ạ?”
“Cậu có thể dẫn đường,” ông Scrimgeour nói với Ron. “Ông không cần đi cùng chúng tôi, ông Arthur à.”
Harry thấy ông Weasley trao đổi ánh mắt lo âu với bà Weasley khi nó, Ron và Hermione đứng dậy. Tụi nó dẫn đường trở vô nhà trong im lặng, Harry biết hai đứa kia đang suy nghĩ như nó; ông Scrimgeour ắt là, bằng cách nào đó, đã biết ba đứa tụi nó toan tính bỏ học trường Hogwarts.
Ông Scrimgeour không nói gì khi cùng ba đứa nó đi ngang qua nhà bếp bừa bộn để vào phòng khách của Hang Sóc. Mặc dù khu vườn tràn đầy ánh hoàng hôn vàng óng êm dịu, trong phòng đã tối rồi; Harry phẩy cây đũa phép để thắp lên những ngọn đèn dầu khi bước vào phòng và ánh đèn dầu soi sáng căn phòng nhếch nhác nhưng ấm cúng. Ông Scrimgeour tự mình ngồi xuống một cái ghế đã bị lún mà ông Weasley thường ngồi, để cho Ron, Harry và Hermione chen chúc ngồi sát bên nhau trên cái ghế nệm dài. Khi tụi nó đã ngồi đâu vô đó, ông Scrimgeour nói.
“Tôi có vài câu muốn hỏi ba cô cậu, và tôi nghĩ tốt nhất chúng ta nên hỏi riêng từng người. Nếu hai cô cậu – ông chỉ vào Harry và Hermione – có thể đợi ở trên lầu, tôi sẽ bắt đầu với cậu Ronald trước.”
“Chúng cháu không đi đâu cả,” Harry nói, trong khi Hermione gật đầu tán đồng mạnh mẽ. “Ông có thể nói chung với tất cả chúng cháu, hoặc khỏi nói luôn.”
Ông Scrimgeour nhìn Harry lạnh lùng, suy tính. Harry có cảm tưởng ông Bộ trưởng đang tự hỏi liệu có đáng gây chiến sớm như vầy không.
“Vậy thì rất tốt, chung tất cả,” ông nhún vai, nói. Ông tằng hắng, “Tôi đến đây, chắc cô cậu cũng đã biết, là vì di chúc của cụ Albus Dumbledore.”
Harry, Ron và Hermione nhìn nhau.
“Coi bộ ngạc nhiên hả! Vậy là các cô cậu không biết cụ Dumbledore có để lại cho các cô cậu cái gì à?”
“Tất… tất cả… chúng cháu?” Ron hỏi. “Cho cả cháu và Hermione nữa?” “Phải, tất cả…”
Nhưng Harry ngắt lời ông ta.
“Thầy Dumbledore mất đã hơn một tháng nay. Tại sao phải mất thời gian lâu như vậy để trao lại những gì thầy để lại cho chúng cháu?”
“Còn chưa rõ sao?” Hermione nói, trước khi ông Scrimgeour có thể trả lời. “Họ muốn kiểm tra cái gì đó mà thầy để lại cho chúng ta. Các ông không có quyền làm như vậy!” Cô bé nói, giọng hơi run run.
“Tôi có mọi quyền,” ông Scrimgeour nói một cách thô bạo. “Đạo luật về sự Trưng thu Chính đáng cho phép Bộ có quyền tịch thu những nội dung trong một bản di chúc…”
“Luật đó ban ra là để ngăn chặn các pháp sư truyền lại những khí cụ Hắc ám,” Hermione nói, “và Bộ cần có chứng cớ vững chắc rằng tài sản của người quá cố là bất hợp pháp trước khi thu giữ chúng! Bộ ông muốn nói là ông nghĩ thầy Dumbledore tính trao lại cho chúng tôi cái gì đó bị ếm hả?”
“Cô có dự định theo đuổi nghề Luật Pháp thuật không, cô Granger?” Ông Scrimgeour hỏi.
“Không,” Hermione đốp chát lại. “Tôi hy vọng mình sẽ làm điều gì đó tử tế trên đời.”
Ron cười. Đôi mắt của ông Scrimgeour nhấp nháy về phía nó rồi lại quay đi khi Harry nói.
“Vậy tại sao bây giờ ông lại quyết định để chúng cháu được sở hữu những thứ của chúng cháu? Không thể nghĩ ra cớ để giữ chúng lại sao?”
“Không, chẳng qua vì thời hạn ba mươi mốt ngày đã hết,” Hermione nói ngay. “Họ không thể giữ các món đồ lâu hơn thời hạn đó trừ khi họ có thể chứng minh là chúng nguy hiểm. Đúng không?”
“Cậu có thể nói là cậu thân cận với cụ Dumbledore không, Ronald?” Ông Scrimgeour hỏi, phớt lờ Hermione, Ron có vẻ giật mình.
“Cháu hả? Không… thực ra thì không… Lúc nào Harry cũng chính là người…”
Ron nhìn qua Harry và Hermione để thấy Hermione đang nhìn nó cái kiểu đừng-nói-nữa, nhưng điều bất lợi đã được thốt ra; ông Scrimgeour tỏ vẻ như ông vừa nghe đúng chóc điều mà ông mong nghe, và muốn nghe. Ông vồ lấy câu trả lời của Ron như một con chim vồ mồi.
“Nếu cậu không thân cận với cụ Dumbledore lắm, thì cậu nghĩ sao về sự kiện là cụ nhớ đến cậu trong di chúc của cụ? Cụ để lại ít một cách khác thường những ước nguyện cá nhân. Đại bộ phận tài sản của cụ – thư viện cá nhân của cụ, dụng cụ pháp thuật của cụ, và những vật dụng cá nhân khác – đều được để lại cho trường Hogwarts. Cậu nghĩ xem tại sao cậu lại được đặc biệt ưu ái?”
“Cháu không biết…” Ron nói. “Cháu… khi cháu nói chúng cháu không thân cận… ý cháu nói, cháu nghĩ cụ thích cháu…”
“Bồ khiêm tốn đó, Ron à,” Hermione nói. “Cụ Dumbledore rất thích bồ.”
Điều này thì rõ là nói ngoa đến mức quá đáng rồi; theo như Harry biết, Ron và cụ Dumbledore chưa bao giờ tiếp xúc riêng với nhau, và sự tiếp xúc trực tiếp giữa hai người hầu như không đáng kể. Tuy nhiên, ông Scrimgeour dường như không thèm nghe. Ông đút tay vào bên trong áo khoác và rút ra một cái túi có thắt dây lớn hơn cái túi bác Hagrid tặng Harry rất nhiều. Từ trong túi, ông lấy ra một cuộn giấy da, ông mở nó ra và đọc to.
“Di chúc và Nguyện vọng cuối cùng của Albus Percival Wulfric Brian Dumbledore… À, đây… Tôi để lại cho Ronald Bilius Weasley cái Tắt sáng của tôi, hy vọng trò ấy sẽ nhớ đến tôi khi dùng nó.”
Ông Scrimgeour lấy trong túi ra một vật mà Harry đã nhìn thấy trước đây: nó giống như một cái hộp quẹt để đốt thuốc lá bằng bạc, nhưng Harry biết, nó có phép hút hết ánh sáng ở một nơi, rồi phục hồi lại chỉ bằng một cái bật đơn giản. Ông Scrimgeour chồm tới trước và đưa cái Tắt sáng cho Ron; Ron cầm lấy và xoay cái vật đó trong mấy ngón tay, tỏ vẻ sửng sốt.
“Đó là một vật có giá trị,” ông Scrimgeour vừa nói vừa quan sát Ron. “Thậm chí còn độc đáo. Chắc chắn là đồ vật do chính cụ Dumbledore thiết kế. Tại sao cụ để lại cho cậu một món hiếm như vậy?”
Ron lắc đầu, tỏ ra bối rối.
“Cụ Dumbledore ắt hẳn đã dạy hàng ngàn học sinh,” ông Scrimgeour vẫn kiên trì. “Nhưng những người duy nhất mà cụ nhớ đến trong di chúc là ba cô cậu. Tại sao thế? Cậu Weasley, cụ Dumbledore nghĩ cậu có thể dùng cái Tắt sáng này vào việc gì?”
“Tắt ánh sáng, cháu đoán vậy,” Ron lúng búng. “Cháu còn có thể làm gì khác với nó?”
Hiển nhiên ông Scrimgeour không đưa ra được ý kiến gì cả. Sau khi ngó Ron đến lé mắt, ông quay lại bản di chúc của cụ Dumbledore.
“Tôi để lại cho Hermione Jean Granger quyển sách Những Chuyện Kể của Beedle Người Hát Rong bản của tôi, hy vọng trò ấy sẽ thấy sách hay và có ích cho tri thức.”
Ông Scrimgeour lấy từ trong cái túi ra một cuốn sách nhỏ coi có vẻ xưa như cuốn Bí Mật của Nghệ Thuật Hắc Ám đang ở trên lầu. Gáy sách đã hoen ố và long ra vài chỗ. Hermione nhận cuốn sách từ tay ông Scrimgeour không nói một lời. Cô bé giữ cuốn sách trên đùi và đăm đăm nhìn nó. Harry nhận thấy tên sách viết bằng cổ ngữ Runes; nó chưa bao giờ học đọc chữ Runes. Khi nó nhìn cuốn sách, một giọt nước mắt rơi bắn tóe ra trên những ký hiệu chạm nổi.
“Cô Granger, cô nghĩ tại sao cụ Dumbledore để lại quyển sách đó cho cô?”
“Thầy… thầy biết tôi thích sách,” Hermione đáp giọng khàn khàn, chùi nước mắt bằng ống tay áo.
“Nhưng tại sao lại là cuốn sách đặc biệt đó?”
“Cháu không biết. Chắc là thầy nghĩ cháu sẽ thích nó.”
“Cô có từng thảo luận bằng mật mã, hay bất cứ cách truyền thông điệp bí mật nào với cụ Dumbledore hay không?”
“Không, cháu không hề,” Hermione nói, vẫn chùi nước mắt bằng ống tay áo. “Và nếu Bộ đã không tìm ra được bất kỳ mật mã được ẩn giấu nào trong ba mươi mốt ngày, cháu không tin là cháu sẽ tìm được.”
Cô bé nén một tiếng nấc. Tụi nó ngồi sát nhau chật đến nỗi Ron vất vả lắm mới rút được cánh tay của nó ra để quàng quanh vai Hermione. Ông Scrimgeour quay lại bản di chúc.
“Tôi để lại cho Harry James Potter,” ông đọc, và ruột gan Harry quặn thắt với cơn hồi hộp bất ngờ, “trái banh Snitch trò ấy bắt được trong trận đấu Quidditch đầu tiên của trò ấy ở trường Hogwarts, như một nhắc nhở đến những phần thưởng cho sự kiên nhẫn và khéo léo.”
Khi ông Scrimgeour lấy ra trái banh vàng nhỏ xíu cỡ-bằng-hột-óc-chó, hai cánh bạc của nó vỗ vỗ hơi yếu ớt, và Harry không thể không cảm thấy rõ là cụt hứng.
“Tại sao cụ Dumbledore để lại cho cậu trái banh Snitch này?”
“Cháu không biết,” Harry nói. “Cháu đoán vì những lý do mà ông vừa đọc lên… để nhắc nhở cháu điều người ta có thể đạt được bằng sự… kiên nhẫn và gì gì đó.”
“Vậy cậu nghĩ đây chỉ là vật lưu niệm tượng trưng?” “Cháu đoán vậy,” Harry nói “Chứ nó còn có thể là gì nữa?”
“Tôi đang hỏi đấy nhé,” ông Scrimgeour nói, kéo cái ghế của ông đến gần hơn cái ghế nệm dài tụi nó đang ngồi. Hoàng hôn đã thực sự buông xuống ở ngoài kia, cái rạp bên ngoài cửa sổ nhô lên cao bên trên hàng giậu màu trắng ma quái.
“Tôi nhận thấy cái bánh sinh nhật của cậu hình trái banh Snitch,” ông Scrimgeour nói với Harry. “Tại sao thế?”
Hermione bật cười đầy nhạo báng.
“Ôi, nó không thể là một cách ám chỉ đến việc Harry là một tầm thủ cừ khôi, cách đó quá lộ liễu,” cô bé nói. “Ắt hẳn là có một thông điệp bí mật của thầy Dumbledore giấu trong lớp kem bánh!”
“Tôi không nghĩ có gì đó giấu trong kem bánh,” ông Scrimgeour nói. “Nhưng một trái banh Snitch là một nơi rất tốt để giấu một vật thể nhỏ. Tôi chắc các cô cậu biết tại sao chứ?”
Harry nhún vai, tuy nhiên Hermione trả lời. Harry nghĩ cái phản ứng trả lời câu hỏi đúng chóc là một thói quen đã thấm quá sâu đến nỗi cô nàng không thể nén được ham muốn trả lời.
“Bởi vì những trái banh Snitch có trí nhớ về da thịt,” Hermione nói.
“Cái gì?” Cả Harry và Ron cùng nói, lâu nay cả hai vẫn coi kiến thức về Quidditch của Hermione là không đáng kể.
“Đúng,” ông Scrimgeour nói. “Một trái banh Snitch không được chạm vào bằng da trần cho đến khi nó được thả ra, thậm chí người chế tạo ra nó cũng phải mang găng tay. Nó mang một bùa ếm giúp nó phân biệt được người đầu tiên đặt bàn tay lên nó, trong trường hợp có tranh cãi về việc bắt được banh. Trái banh Snitch này,” ông giơ trái banh vàng bé tí lên – “sẽ nhớ sự tiếp xúc với cậu, Potter à. Theo tôi thì cụ Dumbledore, người có tài năng pháp thuật phi thường, bất chấp khuyết điểm khác của cụ, có thể đã phù phép trái banh Snitch này để cho nó chỉ có thể mở ra cho cậu mà thôi.”
Trái tim Harry đập hơi nhanh. Nó chắc chắn ông Scrimgeour nói đúng. Làm sao nó tránh để khỏi chạm vào trái banh Snitch bằng bàn tay trần trước mặt ông Bộ trưởng bây giờ?
“Cậu không nói gì cả,” ông Scrimgeour nói, “có lẽ cậu đã biết trái Snitch này chứa cái gì?”
“Không,” Harry nói, vẫn tự hỏi làm cách nào để nó có vẻ chạm vào trái banh mà thực ra không chạm phải. Giá mà nó biết phép Đọc Tư Tưởng, phải thật sự biết kìa, và có thể đọc ý kiến của Hermione. Nó gần như có thể nghe được bộ óc của cô bé đang rít lên xèo xèo ngay bên cạnh nó.
“Cầm lấy,” ông Scrimgeour khẽ nói.
Harry bắt gặp ánh mắt vàng khè của ông Bộ trưởng và biết là nó không có lựa chọn nào khác hơn là vâng lời. Nó đưa tay ra, và ông Scrimgeour chồm tới trước một lần nữa rồi đặt trái banh Snitch, chậm chạp và thận trọng, vào lòng bàn tay Harry.
Không có gì xảy ra cả. Khi những ngón tay Harry khép lại quanh trái banh Snitch, đôi cánh mệt mỏi của trái banh vỗ vỗ rồi nằm yên. Ông Scrimgeour, Ron, và Hermione vẫn tiếp tục ngấu nghiến nhìn chăm chăm vào trái banh lúc này đã phần nào được bàn tay che kín, như thể họ vẫn còn hy vọng nó có thể biến hình bằng cách nào đó.
“Thiệt là đầy kịch tính,” Harry nói mát mẻ. Cả Ron và Hermione phá ra cười.
“Vậy là hết, hả?” Hermione hỏi, làm ra bộ đứng dậy khỏi cái ghế dài.
“Không hẳn,” ông Scrimgeour nói, bây giờ ông có vẻ nóng nảy. “Cụ Dumbledore còn để lại cho cậu di vật thứ hai, Potter à.”
“Cái gì vậy?” Harry hỏi, nỗi hồi hộp lại bùng lên.
Lần này ông Scrimgeour không thèm mất công đọc di chúc nữa.
“Thanh gươm của Godric Gryffindor,” ông nói. Cả Hermione và Ron ngây người ra. Harry ngó quanh coi có cán gươm cẩn hồng ngọc nào không, nhưng ông Scrimgeour không rút thanh gươm nào ra khỏi cái túi da, đằng nào thì cái túi đó cũng có vẻ quá nhỏ để chứa được thanh gươm.
“Vậy nó đâu?” Harry ngờ vực hỏi.
“Không may,” ông Scrimgeour nói, “thanh gươm đó cụ Dumbledore không được quyền đem cho. Thanh gươm của Godric Gryffindor là một hiện vật lịch sử quan trọng, và do vậy, thuộc về…”
“Nó thuộc về Harry!” Hermione nóng nảy nói. “Thanh gươm chọn bạn ấy, bạn ấy là người đã tìm ra nó, nó đã vọt ra khỏi cái nón phân loại để nhảy vào tay bạn ấy…”
“Theo nguồn tư liệu lịch sử đáng tin cậy thì thanh gươm tự trình diện với bất cứ một học sinh nhà Gryffindor nào xứng đáng,” ông Scrimgeour nói. “Điều đó không khiến nó trở thành tài sản riêng của cậu Potter, bất kể cụ Dumbledore quyết định gì đi nữa,” ông Scrimgeour gãi cái cằm được cạo nham nhở của ông, xoi mói nhìn Harry. “Cậu nghĩ tại sao…?”
“… thầy Dumbledore muốn cháu có thanh gươm đó chứ gì?” Harry nói, cố gắng không nổi nóng. “Có lẽ thầy nghĩ treo nó trên tường của cháu thì ngó nó ngộ ngộ.”
“Đây không phải chuyện đùa, cậu Potter!” Ông Scrimgeour gầm gừ. “Có phải vì cụ Dumbledore tin là chỉ có thanh gươm của Godric Gryffindor mới có thể đánh bại được kẻ thừa kế của Slytherin không? Có phải cụ muốn trao thanh gươm đó cho cậu, Potter, bởi vì cụ tin, như nhiều người tin, rằng cậu là người được tiên tri sẽ là kẻ tiêu diệt Kẻ-chớ-có-gọi-tên-ra không?”
“Giả thiết hay thiệt,” Harry nói. “Có ai đã thử thọc một thanh gươm vào Voldemort chưa? Có lẽ Bộ nên giao một số người công tác đó, thay vì lãng phí thời giờ của họ vào việc tháo rời một cái Tắt sáng, hay bưng bít những vụ vượt ngục Azkaban. Vậy ra đây là chuyện ông làm lâu nay hả, ông Bộ trưởng, đóng cửa ở trong văn phòng, tìm cách mở một trái banh Snitch? Dân chúng đang chết – tôi suýt là một trong số đó – Voldemort truy đuổi tôi qua ba nước, hắn giết thầy Mắt Điên Moody, nhưng chẳng có một tiếng nói nào của Bộ về bất kỳ vụ nào trong những vụ đó, có không? Và ông còn trông mong chúng tôi hợp tác với ông à?”
“Cậu đi quá xa!” Ông Scrimgeour quát, đứng dậy. Harry cũng đứng bật dậy. Ông Scrimgeour đi khập khiễng về phía Harry và chọc mạnh đầu cây đũa phép của ông vào ngực nó. Cú chọc này làm cháy xém một cái lỗ trên chiếc áo thun của Harry giống như một đóm thuốc lá.
“Ối!” Ron nói, đứng bật dậy và giơ cao cây đũa phép của chính nó, nhưng Harry nói:
“Đừng, bồ đâu có muốn tạo cho ông ta cái cớ để bắt tụi mình hả?”
“Đã nhớ ra mi không còn ở trong trường nữa, phải không?” Ông Scrimgeour nói, thở mạnh vào mặt Harry. “Đã nhớ ra ta không phải là cụ Dumbledore, kẻ đã tha thứ cho sự láo xược và ngang bướng của mi hả? Mi có thể cứ mang cái thẹo đó như một vương miện, Potter à, nhưng một thằng nhóc mười bảy tuổi không có nhiệm vụ dạy bảo ta làm công việc của ta! Đã tới lúc mi phải học lấy sự tôn trọng!”
“Đã quá thời ông được tôn trọng,” Harry đáp lại.
Sàn nhà rung chuyển; có tiếng chân chạy rầm rập, rồi cánh cửa vào phòng khách bật mở và ông bà Weasley chạy vào.
“Chúng tôi… chúng tôi nghĩ chúng tôi nghe…” Ông Weasley mở miệng nói, tỏ ra hết sức hốt hoảng trước cái cảnh Harry và ông Bộ trưởng hầu như đâu mũi kênh nhau.
“… tiếng hơi to,” bà Weasley hổn hển nói.
Ông Scrimgeour lùi lại cách Harry hai bước, liếc vào cái lỗ mà ông đã tạo ra trên áo thun của Harry. Ông có vẻ hối tiếc đã mất bình tĩnh.
“Chuyện… không có gì,” ông gầm gừ. “Tôi… tiếc cho thái độ của cậu,” ông nói, nhìn thẳng vào mặt Harry một lần nữa. “Cậu có vẻ cho rằng Bộ không mong muốn cái điều cậu… cái điều cụ Dumbledore… đã mong muốn. Chúng ta nên hợp tác với nhau.” “Tôi không ưa phương pháp của ông, ông Bộ trưởng à,” Harry nói. “Còn nhớ không?”
Lần thứ hai, nó giơ nắm tay phải lên để lộ cho ông Scrimgeour vết thẹo vẫn còn nổi trắng trên mu bàn tay, đọc được là Tôi không được nói dối. Vẻ mặt của ông Scrimgeour rắn đanh lại. Ông quay đi không nói thêm một lời nào nữa và khập khiễng đi ra khỏi phòng. Bà Weasley lật đật đi theo sau ông ta; Harry nghe bà dừng chân ở ngưỡng cửa sau. Chừng một phút sau bà hô lên: “Ổng đi rồi!”
“Ông ta muốn gì?” Ông Weasley hỏi, nhìn khắp Harry, Ron và Hermione trong khi bà Weasley lật đật chạy trở vô với tụi nó.
“Trao cho tụi con những di vật thầy Dumbledore di chúc để lại cho tụi con,” Harry nói, “Họ chỉ vừa mới nhả ra nội dung di chúc của thầy.”
Ở ngoài vườn, bên bàn ăn, ba đồ vật mà ông Scrimgeour vừa đưa tụi nó được chuyền tay từng người. Ai cũng xuýt xoa về cái Tắt sáng và cuốn Những Chuyện Kể của Beedle Người Hát Rong và than vãn cái điều rằng ông Scrimgeour đã từ chối trao lại thanh gươm, nhưng không ai đưa ra được ý kiến nào về việc vì sao cụ Dumbledore để lại cho Harry một trái banh Snitch cũ. Trong khi ông Weasley xem xét cái Tắt sáng đến lần thứ ba hay thứ tư, bà Weasley ngập ngừng nói, “Harry, cưng, mọi người đều đang đói bụng khủng khiếp. Chúng ta không muốn bắt đầu bữa ăn mà không có con… Bây giờ bác dọn đồ ăn ra được chưa con?”
Mọi người đều ăn uống hơi hấp tấp, và sau khi vội vã đồng thanh hô “Chúc sinh nhật vui vẻ!” rồi ngốn gọn miếng bánh, bữa tiệc tan. Bác Hagrid, người được mời dự đám cưới ngày hôm sau, nhưng vì quá ư to xác không thể ngủ trong Hang Sóc vốn đã phình ra hết mức, nên phải ra ngoài tự dựng một cái lều trên cánh đồng hàng xóm.
“Gặp tụi này trên lầu,” Harry thì thầm với Hermione trong khi tụi nó giúp bà Weasley phục hồi nguyên trạng của khu vườn. “Sau khi mọi người đã đi ngủ.”
Trên căn phòng ngủ sát mái, Ron xem xét cái Tắt sáng, và Harry nhét đầy cái túi bùa da lừa của bác Hagrid tặng, không phải vàng, mà là những đồ vật nó quý trọng nhất, có vẻ vô giá trị mặc dù một số thứ trong đó là: tấm Bản đồ Đạo tặc, mảnh gương vỡ có phép của chú Sirius, và cái mặt dây chuyền của R.A.B. Nó thắt sợi dây thật chặt và đeo gọn quanh cổ, rồi ngồi xuống cầm trái banh Snitch cũ ngắm nghía đôi cánh vỗ vỗ yếu ớt. Cuối cùng, Hermione gõ nhẹ lên cửa rồi nhón gót đi vào.
“Lùng bùng lỗ tai,” cô nàng thì thầm, vẫy cây đũa phép về hướng cầu thang. “Tưởng bồ không chấp thuận câu thần chú đó chớ?”
“Thời thế thay đổi,” Hermione nói, “Đâu, bồ cho tụi này coi cái Tắt sáng đi.”
Ron gia ơn ngay tức thì. Giơ cái Tắt sáng lên trước mặt, nó bấm một cái. Ngọn đèn duy nhất tụi nó thắp trong phòng tắt phụt ngay.
“Vấn đề là,” Hermione thì thầm trong bóng tối, “tụi mình có thể làm được việc đó bằng Bột Tối hù Tức thì xứ Pê-ru.”
Một tiếng tách nho nhỏ vang lên, và cái bong bóng ánh sáng từ cây đèn bay ngược lên trần và chiếu sáng cả đám cùng một lúc.
“Dù vậy, nó là hàng độc,” Ron nói, giọng tự vệ một tí. “Và theo lời họ nói thì chính thầy Dumbledore tự phát minh ra!”
“Mình biết, nhưng chắc chắn thầy không ưu ái riêng bồ trong di chúc chỉ để giúp tụi mình tắt đèn!”
“Bồ có nghĩ là thầy biết Bộ sẽ tịch thu di chúc của thầy và kiểm tra mọi thứ thầy để lại cho tụi mình không?” Harry hỏi.
“Chắc chắn,” Hermione nói. “Thầy không thể nói trong chúc thư cho tụi mình biết tại sao thầy để lại cho tụi mình những thứ này, nhưng thế vẫn không giải thích được…”
“… tại sao thầy không cho tụi mình một gợi ý nào hết khi thầy còn sống?” Ron hỏi. “Ừ, đúng chóc,” Hermione nói, lúc này đang lật khắp quyển Những Chuyện Kể của
Beedle Người Hát Rong. “Nếu những thứ này đủ quan trọng để truyền lại ngay trước mũi Bộ, người ta sẽ nghĩ hẳn là thầy đã cho tụi mình biết lý do… trừ khi thầy nghĩ lý do quá rõ ràng.”
“Vậy là thầy nghĩ sai rồi, đúng không?” Ron nói. “Mình luôn nói là thầy hơi bị tâm thần mà. Rất tài giỏi, hay đủ thứ, nhưng khùng. Để lại cho Harry một trái banh Snitch cũ – cái đó có ý nghĩa khỉ khô gì chớ?”
“Mình không biết,” Hermione nói. “Khi lão Scrimgeour bắt bồ cầm nó, Harry à, mình đã chắc là chuyện gì đó sẽ xảy ra!”
“Ừ, thực ra,” Harry nói, mạch máu nó đập nhanh hơn khi giơ trái banh Snitch lên trong những ngón tay. “Mình chưa cố gắng hết sức trước mặt lão Scrimgeour mà.”
“Bồ muốn nói gì?”
“Trái banh Snitch mà mình bắt được trong trận Quidditch đầu tiên của mình?” Harry nói, “Mấy bồ không nhớ hả?”
Hermione có vẻ hết sức khoái chí. Nhưng Ron thì há hốc miệng, chỉ tay như điên hết từ Harry đến trái banh Snitch rồi chỉ ngược lại cho đến khi nó nói lại được.
“Đó là cái bồ suýt nuốt phải!”
“Đúng chóc!” Harry nói, và với trái tim đập gấp gáp, Harry dí miệng vô trái banh. Trái banh không mở ra. Nỗi chán nản và thất vọng cay đắng phình lên trong người
nó. Nó hạ trái cầu vàng xuống, nhưng lúc đó Hermione la lên:
“Chữ viết! Có chữ viết trên đó, mau, coi nè!”
Nó suýt làm rớt trái banh Snitch vì ngạc nhiên và hồi hộp. Hermione hoàn toàn đúng. Được khắc trên bề mặt vàng óng mịn màng, nơi trước đó vài giây chẳng có gì cả, là năm từ được viết bằng nét chữ viết tay gầy nghiêng nghiêng mà Harry nhận ra ngay là chữ của thầy Dumbledore
Ta mở vào lúc kết.
Nó suýt không đọc được khi dòng chữ lại biến mất.
“Ta mở vào lúc kết… Câu này có nghĩa gì?” Hermione và Ron lắc đầu, có vẻ lúng túng.
“Ta mở vào lúc kết… vào lúc kết… ta mở vào lúc kết…”
Nhưng cho dù có lặp lại mấy chữ đó bao nhiêu lần, với nhiều giọng điệu cách thức khác nhau, tụi nó vẫn không thể vắt ra thêm ý nghĩa nào từ năm từ đó.
“Và thanh gươm,” cuối cùng Ron nói, khi tụi nó rốt cuộc đành phải bỏ cuộc đoán mò ý nghĩa trong dòng chữ khắc trên trái banh Snitch.
“Tại sao thầy muốn Harry giữ thanh gươm?”
“Và tại sao thầy không thể mách nước cho mình biết?” Harry lặng lẽ nói. “Mình đã ở đó, nó ở ngay đó trên bức tường của văn phòng thầy trong suốt những buổi nói chuyện hồi năm ngoái! Nếu thầy muốn mình có nó, tại sao thầy không đơn giản cứ trao luôn cho mình lúc đó?”
Nó cảm thấy như thể đang ngồi trong một kỳ thi với một câu hỏi ở ngay trước mắt mà nó lẽ ra đã có thể trả lời, nhưng bộ não của nó chậm chạp và không nhạy bén gì cả. Có điều gì nó đã bỏ sót trong những buổi nói chuyện dài với thầy Dumbledore hồi năm ngoái? Nó có cần biết ý nghĩa của tất cả không? Có khi nào thầy Dumbledore cho rằng nó đã hiểu không?
“Và với cuốn sách này,” Hermione nói, Những Chuyện Kể của Beedle Người Hát Rong… Mình thậm chí còn chưa nghe nói đến bao giờ!”
“Bồ chưa từng nghe nói đến Những Chuyện Kể của Beedle Người Hát Rong hả?” Ron hỏi với vẻ không tin được “Bồ nói đùa phải không?”
“Không,” Hermione nói vẻ ngạc nhiên. “Vậy bồ có biết không?” “Ôi, dĩ nhiên là biết chớ!”
Harry ngước nhìn lên, thú vị. Trước giờ chưa từng xảy ra cái tình huống Ron đã đọc một cuốn sách mà Hermione lại chưa đọc. Tuy nhiên, Ron có vẻ khoái chí trước vẻ ngạc nhiên của hai đứa nó.
“Thôi mà! Tất cả những chuyện trẻ con hồi xưa đều là chuyện Beedle, đúng không?
Nào là Suối nước của thần may mắn công bằng… Gã phù thủy và cái nồi nhảy…
Babbbity Rabbitty và cái chân răng ba hoa của cô bé…
“Nói lại giùm?” Hermione nói vừa cười khúc khích. “Cái cuối cùng là gì?”
“Đừng làm bộ nữa!” Ron nói, nhìn từ Harry đến Hermione không tin nổi. “Mấy bồ ắt phải từng nghe qua chuyện Babbitty Rabbitty…”
“Ron à, bồ quá biết là Harry và mình được lớn lên trong thế giới Muggle mà!” Hermione nói. “Tụi này đâu có nghe được những chuyện như chuyện đó khi còn nhỏ đâu, tụi này nghe những chuyện như Bạch Tuyết và bảy Chú Lùn và Cô bé Lọ Lem…”
“Cái đó là cái gì? Một chứng bệnh hả?” Ron hỏi.
“Vậy ra đây là những câu chuyện trẻ con?” Hermione hỏi, lại nghiêng mình xuống những chữ Runes.
“Ừ,” Ron nói không chắc chắn lắm. “Mình muốn nói, như bồ vừa nghe đó, là tất cả những câu chuyện cổ tích đều xuất xứ từ Beedle. Mình không biết chuyện như thế nào trong bản gốc.”
“Nhưng mình thắc mắc tại sao thầy Dumbledore nghĩ là mình nên đọc những chuyện đó?”
Cái gì đó kêu răng rắc dưới lầu.
“Chắc là anh Charlie thôi, bây giờ má đã ngủ rồi, ảnh lẻn ra ngoài để mọc lại tóc,” Ron nói một cách lo lắng.
“Dù sao thì mình cũng nên đi ngủ,” Hermione thì thầm. “Mai mà ngủ dậy trễ là không xong.”
“Không xong đâu,” Ron đồng ý. “Một cuộc ám sát bộ ba do chính tay má chú rể gây ra có thể khiến đám cưới mất vui một tý. Mình sẽ thu ánh sáng lại.”
Và nó bật cái Tắt sáng một lần nữa khi Hermione rời khỏi căn phòng.
Nó đang đi dọc theo một con đường núi trong ánh bình minh màu xanh dịu mát. Xa xa bên dưới, phủ trong sương mù, lờ mờ hình ảnh một thị trấn nhỏ.
Người đàn ông nó đang tìm có ở dưới đó không, người đàn ông nó cần ghê gớm đến nỗi nó không thể nghĩ đến chút gì khác, người đàn ông nắm lời giải – lời giải cho vấn đề của nó…
“Ê, tỉnh dậy.”
Harry mở mắt ra. Nó lại đang nằm trên cái giường xếp trong căn phòng sát mái dơ hầy của Ron. Mặt trời vẫn chưa mọc và căn phòng vẫn còn tối nhờ nhờ. Con cú Pigwidgeon còn ngủ, đầu vùi dưới cánh. Cái thẹo trên trán Harry đang nhói đau.
“Bồ mớ trong lúc ngủ.”
“Mình mớ à?”
“Ừ. ‘Gregorovitch’. Bồ cứ nói hoài ‘Gregorovitch’.” Harry không đeo kính, gương mặt Ron hiện ra hơi nhòe.
“Gregorovitch là ai?”
“Làm sao mình biết? Bồ là người nói ra cái tên đó mà.”
Harry chà xát cái thẹo trên trán, suy nghĩ. Nó có một ý nghĩ mơ hồ là nó đã từng nghe cái tên đó trước đây, nhưng nó không thể nghĩ ra là ở đâu.
“Mình nghĩ Voldemort đang tìm kiếm hắn.” “Khốn khổ cho hắn,” Ron sốt sắng nói.
Harry ngồi dậy, vẫn chà xát cái thẹo, giờ nó đã hoàn toàn tỉnh ngủ. Nó cố gắng nhớ chính xác đường nét của ngôi làng nhỏ được ấp ủ trong một thung lũng sâu.
“Mình nghĩ hắn đã ra nước ngoài.”
“Ai, Gregorovitch hả?”
“Voldemort. Mình nghĩ hắn đang ở đâu đó ở nước ngoài, tìm kiếm Gregorovitch. Chỗ đó trông không giống bất cứ nơi nào trên nước Anh.”
“Bồ cho là bồ lại nhìn thấu óc hắn một lần nữa à?” Giọng Ron có vẻ lo lắng.
“Bồ làm ơn đừng nói lại với Hermione,” Harry nói. “Dù nó vẫn mong biết bao mình đừng thấy những thứ đó trong giấc ngủ nữa, nhưng…”
Nó đăm đăm nhìn cái lồng con Pigwidgeon, nghĩ ngợi… “Tại sao cái tên Gregorovitch nghe quen quen?”
“Mình nghĩ,” nó nói chậm rãi, “ắt có dính dáng tới Quidditch. Có mối liên quan, nhưng mình không thể… mình không thể nghĩ ra nó là cái gì.”
“Quidditch hả?” Ron nói. “Hay là bồ đang nghĩ đến Gorgovitch?” “Ai?”
“Dragomir Gorgovitch, truy thủ, được chuyển qua đội Chudley Cannons với một khoản tiền kỷ lục cách đây hai năm. Người nắm kỷ lục về bật bóng Quaffle trong một mùa.”
“Không,” Harry nói. “Mình chắc chắn không nghĩ tới Gorgovitch.”
“Mình cũng cố gắng không nghĩ tới nữa,” Ron nói. “Thôi, đằng nào thì cũng chúc mừng sinh nhật bồ.”
“A! Đúng rồi! Mình quên béng đi! Mình đã tròn mười bảy tuổi!”
Harry chộp cây đũa phép nằm bên cạnh cái giường xếp, chĩa vào cái bàn bừa bộn mà nó đã đặt cặp kiếng của nó lên, và hô: “Lại đây Mắt kiếng!” Mặc dù cặp kiếng chỉ cách nó một bước chân, vẫn có điều gì đó khiến Harry cực kỳ thỏa mãn khi được thấy cặp kiếng bay vèo về phía nó, cho đến khi chúng chọc thẳng vô mắt nó.
“Tuyệt!” Ron cười hô hố.
Khoái vì được gỡ bỏ bùa Dấu Hiện, Harry làm phép thảy đồ đạc của Ron bay khắp phòng, khiến con Pigwidgeon thức giấc và vỗ cánh bồn chồn bay loạn trong lồng. Harry cũng thử cột dây đôi giày bố của nó bằng phép thuật (sinh ra cái nút thắt khiến nó mất một lúc lâu mới cởi ra được bằng tay), và chỉ để vui mà thôi, nó đổi những chiếc áo choàng màu cam trên tấm bích chương đội Chudley Cannons của Ron ra màu xanh lam sáng.
“Nhưng mình sẽ kéo khóa quần của bồ bằng tay thôi,” Ron khuyên Harry rồi khúc khích cười khi thấy Harry phải kiểm tra ngay tức thì. “Quà cho bồ đây. Mở tại đây, cái này không nên để cho má thấy.”
“Một cuốn sách à?” Harry nói khi cầm cái gói hình chữ nhật. “Hơi khác với truyền thống một chút hả?”
“Cuốn này không phải loại sách lèng èng bồ có đâu,” Ron nói. “Vàng ròng đó: Mười Hai Cách Khỏi-Lo-Thất-Bại Để Bỏ Bùa Các Nàng Phù Thủy. Giải thích mọi thứ người ta cần biết về con gái. Giá mà mình có cuốn sách này hồi năm ngoái thì mình đã biết tỏng cách bỏ rơi Lavender và mình sẽ biết cách làm lành với… Ừm, anh Fred và George có cho mình một cuốn, và mình đã học được khá nhiều. Bồ sẽ ngạc nhiên cho mà coi, cũng không phải chỉ toàn xài đũa phép đâu.”
Khi hai đứa vô nhà bếp, tụi nó thấy một đống quà đang nằm chờ trên bàn. Anh Bill và me xừ Delacour đang ăn nốt bữa điểm tâm, trong khi bà Weasley đứng chuyện vãn với họ bên cái chảo.
“Bác Arthur bảo bác chúc mừng sinh nhật thứ mười bảy của con, Harry à,” bà Weasley nói, tươi cười với nó. “Bác trai phải đi làm sớm, nhưng bác ấy sẽ trở về vào bữa ăn tối. Quà của hai bác cho con nằm trên cùng đó.”
Harry ngồi xuống, cầm cái gói vuông vức mà bà Weasley chỉ, và mở ra. Bên trong là một cái đồng hồ rất giống cái mà ông bà Weasley đã tặng cho Ron nhân sinh nhật thứ mười bảy của nó; một cái đồng hồ vàng có những ngôi sao xoay vòng trên mặt thay vì mấy cây kim.
“Theo truyền thống người ta tặng cho pháp sư đến tuổi trưởng thành một cái đồng hồ đeo tay,” đứng bên cạnh cái nồi, bà Weasley nhìn nó áy náy. “Bác e là cái đó không được mới như cái của Ron, nó thực ra là cái đồng hồ của em bác là Fabian, mà cậu này thì không được cẩn thận cho lắm với đồ đạc của mình, nó hơi bị mẻ một chút xíu ở mặt sau, nhưng…”
Những lời nói còn lại của bà bị rớt mất; Harry đã đứng dậy và ôm ghì lấy bà. Nó cố gởi trong cái ôm thân thiết này những điều không nói ra lời và có lẽ bà đã hiểu được, bởi vì bà vụng về vỗ nhè nhẹ lên má nó khi nó buông bà ra, rồi bà vẫy nhẹ cây đũa phép của bà một cách hơi ngẫu hứng, khiến cho nửa tá miếng thịt muối văng ra khỏi chảo rớt xuống sàn.
“Chúc mừng sinh nhật, Harry!” Hermione nói, vội vã đi vào nhà bếp và đặt món quà của cô bé lên chóp đống quà. “Không có gì nhiều, nhưng mình hy vọng bồ sẽ thích. Bồ tặng Harry cái gì?” Cô bé hỏi Ron, anh chàng này làm như không nghe.
“Vậy, mau lên, mở quà của Hermione!” Ron nói.
Hermione mua cho Harry một Cái kính Mách lẻo mới toanh. Những gói quà khác chứa một con dao cạo có phép, quà tặng của anh Bill và chị Fleur (“À phải, cái này sẽ zúp cháu cạo râu êm ái nhứt trừn đừi.” Me xừ Delacour cam đoan với Harry, “nhưng cháu phải nói rõ zới nó cháu muốn gì… nếu không cháu sẽ thấy mình hưi bị ít râu tóc hưn mong muốn…”), sô-cô-la là quà của ông bà Delacour, và một cái hộp bự chảng những món hàng mới nhất của tiệm Phù Thỉ Wỉ Wái do Fred và George tặng.
Harry, Ron và Hermione không nấn ná lâu lắc ở bàn ăn, bởi vì ma đàm Delacour, Fleur và Gabrielle vừa đến khiến cho nhà bếp đông đúc không thoải mái.
“Mình sẽ xếp vô hành lý những thứ này cho bồ,” Hermione vui vẻ nói, lấy những món quà của Harry ra khỏi tay nó khi ba đứa cùng đi lên cầu thang. “Mình gần xong rồi, chỉ còn chờ quần đùi của bồ giặt xong thôi, Ron à…”
Ron lúng búng nói gì đó nhưng bị ngắt ngang vì một cánh cửa ở đầu cầu thang lầu một mở ra.
“Anh Harry, mời anh vô đây một lát.”
Đó là Ginny. Ron khựng lại ngay, nhưng Hermione nắm lấy cùi chỏ nó và lôi lên cầu thang. Harry đi theo Ginny vào phòng, cảm thấy bồn chồn lo lắng.
Trước đây nó chưa từng vô trong phòng Ginny. Phòng nhỏ nhưng sáng sủa. Có một tấm bích chương to đùng của ban nhạc pháp thuật Quái Tỷ Muội treo trên tường, và tấm hình của Gwenog Jones, đội trưởng đội Quidditch toàn-nữ-phù-thủy Holyhead Harpies dán trên tường đối diện. Một bàn viết đặt đối diện khung cửa sổ mở ra vườn cây ăn trái mà có lần nó và Ginny đã chơi Quidditch với Ron và Hermione, mỗi đội hai người, và bây giờ chỗ đó đã mọc lên một cái rạp khổng lồ màu trắng ngà.
Ginny ngước lên nhìn mặt Harry, hít sâu một hơi, rồi nói, “Chúc mừng sinh nhật mười bảy…”
“Ừ… cám ơn.”
Cô bé cứ nhìn nó mãi; nhưng nó thấy nhìn lại cô bé thiệt là khó, giống như nhìn vào một ngọn đèn sáng rực.
“Cảnh đẹp,” nó nói giọng yếu ớt, chỉ ra ngoài cửa sổ.
Cô bé không bận tâm điều đó. Nó không trách được.
“Em không nghĩ ra cái gì để tặng anh,” cô bé nói.
“Em không cần tặng anh cái gì cả.”
Cô bé lơ cả điều này.
“Em không biết cái gì sẽ có ích. Không có gì được quá lớn, bởi vì anh sẽ không thể đem theo bên mình.”
Nó có dịp liếc nhìn Ginny. Cô bé không khóc. Đó là một trong những điểm tuyệt vời của Ginny, cô bé ít khi nào khóc lóc. Đôi khi nó nghĩ ắt là cô bé đã trở nên cứng cỏi nhờ có sáu ông anh.
Cô bé bước tới gần Harry hơn.
“Vì vậy em nghĩ, em muốn anh có cái gì đó để nhớ tới em, biết đâu, nếu anh gặp gỡ một cô tiên khi anh đang rong ruổi làm chuyện gì đó mà anh làm.”
“Nói thật, anh nghĩ thực tế mấy vụ hẹn hò sẽ cực kỳ thưa thớt.”
“Vậy là em vẫn còn hên,” Ginny thì thầm, và rồi cô bé hôn nó như chưa từng hôn nó trước đây; Harry hôn lại, và đó là cơn say sưa vui sướng hơn cả rượu đế lửa; lúc này cô bé là điều duy nhất có thật trên đời, Ginny, và cái cảm giác về cô, với một tay đỡ lưng và một tay luồn vào trong mái tóc dài thơm ngọt ngào của cô bé.
Cánh cửa bật mở ra sau lưng hai đứa khiến tụi nó giật mình buông nhau ra. “Ối,” Ron nói giọng xoi mói. “Xin lỗi”
“Ron!” Hermione ở ngay sau lưng Ron, hơi bị khó thở. Im lặng ngột ngạt, rồi Ginny nói bằng một giọng nhỏ buồn buồn.
“Thôi, dù sao cũng chúc mừng sinh nhật vui vẻ, anh Harry.”
Tai Ron đỏ tía; Hermione tỏ vẻ lo âu. Harry muốn đóng sập cửa vào mặt hai đứa nó, nhưng lại cảm thấy như thể một luồng gió lạnh đã lùa vô phòng khi cánh cửa mở ra, và khoảnh khắc tươi sáng của đời nó đã nổ tan như bong bóng xà phòng. Tất cả lý do để nó chấm dứt bồ bịch với Ginny, để không đèo bòng với cô bé nữa, dường như lẻn theo Ron mà nhảy vô phòng, và tất cả sự lãng quên đầy vui sướng bèn bỏ đi mất.
Nó nhìn theo Ginny, muốn nói đôi điều, mặc dù nó khó mà biết nói điều gì, nhưng cô bé đã quay lưng về phía nó. Nó nghĩ có lẽ cô bé lần này đã không cầm được nước mắt nữa. Nó không thể làm gì để an ủi cô bé trước mắt Ron.
“Lát nữa sẽ gặp lại em,” nó nói, và đi theo hai đứa kia ra khỏi phòng.
Ron dẫm thình thịch xuống cầu thang, đi xuyên qua nhà bếp vẫn còn đông đúc để ra sân, và Harry bước đồng nhịp với nó suốt chặng đường, còn Hermione thì te te đi theo đằng sau có vẻ khiếp đảm.
Khi đến chỗ khuất của bãi cỏ mới cắt, Ron quay lại chặn đầu Harry. “Mày đã bỏ nó. Bây giờ mày giở trò gì nữa, vờn nó chơi hả?” “Mình không vờn,” Harry nói, lúc ấy Hermione vừa theo kịp tụi nó. “Ron…”
Nhưng Ron giơ tay bảo Hermione im lặng.
“Con nhỏ đã đau khổ thực sự khi mày chấm dứt quan hệ…”
“Mình cũng vậy. Bồ biết tại sao mình phải chấm dứt mà, và điều đó chẳng phải do mình muốn.”
“Ừ, nhưng bây giờ mày lại đi ôm ấp hun hít nó và nó sẽ vừa mới nhen nhóm hy vọng trở lại thì…”
“Ginny không phải đồ ngu, Ginny biết chuyện đó không thể xảy ra, Ginny không trông mong gì hai đứa tôi… đi tới hôn nhân, hay…”
Khi nói điều này, trong trí Harry hiện rõ hình ảnh của Ginny trong bộ áo đầm trắng, đang kết hôn với một thằng cha xa lạ cao kều khó ưa và không có mặt mũi gì ráo. Trong một khoảnh khắc tăng đến cao trào, nó dường như nhìn ra: tương lai của Ginny tự do và không vướng víu gì hết, trong khi tương lai của nó… nó không thấy gì khác ngoài Voldemort ở phía trước.
“Nếu mày còn tiếp tục dụ dỗ nó mỗi khi có mày có cơ hội…”
“Điều đó sẽ không bao giờ có nữa,” Harry gay gắt nói. Ngày hôm đó không có mây nhưng nó cảm thấy như mặt trời vừa đi trốn. “Được chưa?”
Ron có vẻ nửa tức tối nửa ngượng ngùng; nó đứng lắc lư một lát, rồi nói, “Vậy được, thôi, vậy là… ừ.”
Suốt ngày hôm đó Ginny không kiếm cách gặp gỡ Harry một mình nữa, cũng không bày tỏ qua ánh mắt hay cử chỉ nào cho thấy hai đứa nó có chung nhau những điều sâu đậm hơn một cuộc chuyện trò lịch sự trong căn phòng cô bé. Cho dù vậy, Harry cũng cảm thấy nhẹ nhõm khi anh Charlie về đến nhà. Nó tìm được chút xao lãng khi nhìn bà Weasley ép anh Charlie ngồi xuống một cái ghế, giơ cây đũa phép của bà lên một cách dọa nạt và tuyên bố rằng anh sẽ phải đi cắt tóc cắt tai lại cho đàng hoàng.
Bởi vì bữa tiệc sinh nhật của Harry có thể sẽ nong cái nhà bếp của Hang Sóc tới mức nứt banh ra ngay cả trước khi anh Charlie, chú Lupin, cô Tonks, và bác Hagrid đến, nên nhiều cái bàn đã được đặt nối tiếp nhau trong vườn. Fred và George phù phép ra một số lồng đèn tím, tất cả đều được trang trí nổi bật con số 17 to tổ tướng, treo lơ lửng trên đầu khách. Nhờ sự chăm sóc của bà Weasley, vết thương của George coi gọn gàng sạch sẽ, nhưng Harry vẫn chưa quen nhìn cái lỗ tôi tối ở một bên đầu của anh ta, cho dù hai anh em sinh đôi đã nói giỡn rất nhiều về cái lỗ đó.
Hermione khiến những dải băng giấy màu tím với vàng kim phun ra từ đầu cây đũa
phép và tự treo chúng lên khắp cây cối lùm bụi một cách tinh xảo.
“Hay,” Ron nói, khi Hermione vung cây đũa phép một cách bay bướm lần chót, biến lá trên cây táo dại thành vàng, “Bồ đúng là có con mắt tinh đời về những việc như vậy.”
“Cám ơn bồ, Ron,” Hermione nói, trông vẻ mặt vừa khoái chí vừa hơi mắc cỡ. Harry quay mặt đi, mỉm cười với chính mình. Nó có một ý nghĩ tức cười là sẽ tìm đọc chương về những lời khen ngợi khi có thì giờ nghiên cứu cuốn Mười Hai Cách Khỏi-Lo-Thất-Bại Để Bỏ Bùa Các Nàng Phù Thủy; nó bắt gặp ánh mắt của Ginny bèn nhe răng cười với cô bé trước khi kịp nhớ ra lời hứa với Ron và vội vã bắt chuyện với me xừ Delacour.
“Tránh ra! Tránh ra!” Bà Weasley ca vang, xuất hiện ở cửa với một thứ có vẻ như một trái banh Snitch bự-bằng-banh-phao-ở-bãi-biển đang bay trước mặt bà. Chỉ vài giây sau Harry nhận ra cái đó là ổ bánh sinh nhật của nó, bà Weasley dùng cây đũa phép giữ cho cái bánh trôi lơ lửng trên không, chứ bà không dám liều lĩnh bưng nó đi trên mặt đất gồ ghề. Khi cái bánh rốt cuộc đáp được xuống mặt bàn, Harry nói:
“Con quá bất ngờ, bác Weasley à.”
“Ôi, có gì đâu, cưng.” Bà khoái chí nói. Phía sau vai bà, Ron ra hiệu với Harry, ngón tay cái giơ lên, mặt nhăn lại, Giỏi lắm.
Khoảng bảy giờ tất cả khách khứa đều đã đến, được Fred và George đón ở cuối con đường nhỏ dẫn vào nhà. Bác Hagrid nhân cơ hội này diện bộ cánh đẹp nhất, và khủng khiếp nhất của bác, là bộ đồ nâu lông lá xù xì. Mặc dù thầy Lupin mỉm cười khi bắt tay Harry, Harry nghĩ thầy có vẻ không vui lắm. Mà vậy thì kỳ cục hết sức; bên cạnh thầy, cô Tonks tỏa ra nét rạng rỡ cực kỳ tươi tắn.
“Chúc mừng sinh nhật, Harry!” Cô nói, ôm nó rất chặt.
“Ê, mười bảy tuổi rồi hén!” Bác Hagrid nói khi nhận ly rượu bự-bằng-cái-xô mà Fred đưa bác. “Sáu năm chẵn kể từ ngày bác cháu mình gặp nhau, Harry, con còn nhớ ngày đó hông?”
“Mang máng,” Harry nói, nhe răng cười với bác. “Có phải bác đã đạp sập cánh cửa trước, gắn cho thằng Dudley một cái đuôi heo, và nói cho con biết con là một phù thủy?”
“Bác quên béng chi tiết rồi,” bác Hagrid cười phát nấc lên. “Hông sao. Ron, Hermione khỏe hả?”
“Tụi con khỏe” Hermione nói. “Bác khỏe không?”
“Ờ, không tệ lắm. Bận hổm rày, có thêm mấy con kỳ lân mới sanh. Khi nào con trở về trường bác sẽ cho con coi…”
Harry tránh cái nhìn chòng chọc của Ron và Hermione khi bác Hagrid lục lọi túi áo
của bác.
“Đây, Harry… không thể nghĩ ra được món gì tặng con, nhưng rồi bác nhớ ra cái này.” Bác rút ra một cái túi bùa nhỏ bằng da lông thú, miệng túi có dây thắt, rõ ràng là để đeo quanh cổ. “Da lừa. Cất bất cứ cái gì trong đó thì không ai ngoại trừ chính chủ nhân có thể lấy ra được. Hiếm lắm à, mấy thứ này.”
“Cám ơn, bác Hagrid!”
“Hổng có chi,” bác Hagrid nói rồi vẫy bàn tay bự-bằng-nắp-cái-thùng-rác. “A kia là Charlie! Lúc nào cũng khoái cậu này… Ê, Charlie!”
Anh Charlie đến gần, lùa bàn tay một cách hơi phiền muộn qua mớ tóc mới bị cắt ngắn một cách tàn nhẫn. Anh hơi lùn hơn Ron, thân hình chắc nịch, một số vết phỏng và thẹo lan lên hai cánh tay nổi vồng cơ bắp.
“Chào bác Hagrid, tình hình ra sao?”
“Tính biên thư lâu lắm rồi. Thằng Norbert sao rồi?”
“Thằng Norbert hả?” Anh Charlie bật cười. “Con rồng Lưng gai Na Uy hả? Bây giờ tụi cháu kêu nó là nàng Norberta.”
“Cái g… Norbert là rồng cái à?”
“Dạ phải.”
“Làm sao anh biết được?” Hermione hỏi.
“Rồng cái hung hăng hơn rất nhiều,” anh Charlie nói. Anh ngoảnh nhìn ra sau lưng rồi hạ thấp giọng. “Ước gì ba mau mau về đây. Má đang phát quạu.”
Cả bọn cùng nhìn về phía bà Weasley. Bà đang nói chuyện với ma đàm Delacour trong khi mắt cứ liếc chừng về phía cổng.
“Tôi nghĩ chúng ta đành bắt đầu mà không có anh Arthur thôi,” bà nói chung chung với mọi người trong vườn sau một hai lúc ngần ngừ. “Anh ấy có lẽ bị kẹt công việc ở… Ối!”
Tất cả mọi người nhìn thấy cùng một lúc: một vệt ánh sáng bay ngang qua khu vườn và đáp xuống giữa bàn, tại đó nó biến thành một con chồn bạc óng ánh, đứng trên hai chân sau và nói bằng giọng của ông Weasley:
“Bộ trưởng Pháp thuật đến cùng với tôi.”
Thần Hộ mệnh của ông Weasley tan biến vào không trung, để lại cho gia đình Delacour nỗi sửng sốt khi họ trố mắt ngó vào chỗ nó vừa biến đi.
“Chúng ta không nên ở đây,” thầy Lupin nói ngay. “Harry… thầy xin lỗi… thầy sẽ giải thích vào dịp khác…”
Thầy nắm cổ tay cô Tonks và kéo cô đi khỏi. Cả hai đến hàng rào, trèo qua, và biến mất. Bà Weasley tỏ ra bối rối.
“Bộ trưởng… nhưng mắc mớ gì? Tôi không hiểu…”
Nhưng chẳng có thời giờ đâu mà bàn thảo vấn đề; một giây sau, ông Weasley từ cõi không hiện ra ngay bên cánh cổng, đi cùng có ông Rufus Scrimgeour, có thể nhận ra được ngay tức thì nhờ bờm tóc hoa râm của ông.
Hai người vừa đến băng ngang qua sân về phía khu vườn và cái bàn được thắp lồng đèn, nơi mọi người ngồi im phăng phắc, chăm chú nhìn họ đi tới gần. Khi ông Scrimgeour bước vào vùng tỏa sáng của lồng đèn, Harry thấy ông có vẻ già hơn lần gặp gỡ trước đây, ông giờ gầy trơ xương, nét mặt khắc khổ.
“Xin lỗi đã đường đột,” ông Scrimgeour nói khi mệt mỏi đứng lại trước cái bàn. “Đặc biệt là, như tôi có thể nhận ra, mình đến một bữa tiệc mà mình không được mời.”
Mắt ông dừng lại một chút ở cái bánh Snitch khổng lồ.
“Chúc vui vẻ khỏe mạnh.”
“Cám ơn ông,” Harry nói.
“Tôi yêu cầu được nói chuyện riêng với cậu,” ông Scrimgeour nói tiếp. “Với cả cậu Ronald Weasley và cô Hermione Granger.”
“Chúng cháu à?” Ron nói, giọng ngạc nhiên. “Sao lại chúng cháu?”
“Tôi sẽ nói cho cậu biết khi chúng ta ở nơi nào đó kín đáo hơn,” ông Scrimgeour nói. “Có nơi nào như vậy không?” Ông hỏi ông Weasley.
“Vâng, dĩ nhiên,” ông Weasley nói, trông ông rất căng thẳng. “Phòng, ơ, phòng khách, dùng phòng khách được không ạ?”
“Cậu có thể dẫn đường,” ông Scrimgeour nói với Ron. “Ông không cần đi cùng chúng tôi, ông Arthur à.”
Harry thấy ông Weasley trao đổi ánh mắt lo âu với bà Weasley khi nó, Ron và Hermione đứng dậy. Tụi nó dẫn đường trở vô nhà trong im lặng, Harry biết hai đứa kia đang suy nghĩ như nó; ông Scrimgeour ắt là, bằng cách nào đó, đã biết ba đứa tụi nó toan tính bỏ học trường Hogwarts.
Ông Scrimgeour không nói gì khi cùng ba đứa nó đi ngang qua nhà bếp bừa bộn để vào phòng khách của Hang Sóc. Mặc dù khu vườn tràn đầy ánh hoàng hôn vàng óng êm dịu, trong phòng đã tối rồi; Harry phẩy cây đũa phép để thắp lên những ngọn đèn dầu khi bước vào phòng và ánh đèn dầu soi sáng căn phòng nhếch nhác nhưng ấm cúng. Ông Scrimgeour tự mình ngồi xuống một cái ghế đã bị lún mà ông Weasley thường ngồi, để cho Ron, Harry và Hermione chen chúc ngồi sát bên nhau trên cái ghế nệm dài. Khi tụi nó đã ngồi đâu vô đó, ông Scrimgeour nói.
“Tôi có vài câu muốn hỏi ba cô cậu, và tôi nghĩ tốt nhất chúng ta nên hỏi riêng từng người. Nếu hai cô cậu – ông chỉ vào Harry và Hermione – có thể đợi ở trên lầu, tôi sẽ bắt đầu với cậu Ronald trước.”
“Chúng cháu không đi đâu cả,” Harry nói, trong khi Hermione gật đầu tán đồng mạnh mẽ. “Ông có thể nói chung với tất cả chúng cháu, hoặc khỏi nói luôn.”
Ông Scrimgeour nhìn Harry lạnh lùng, suy tính. Harry có cảm tưởng ông Bộ trưởng đang tự hỏi liệu có đáng gây chiến sớm như vầy không.
“Vậy thì rất tốt, chung tất cả,” ông nhún vai, nói. Ông tằng hắng, “Tôi đến đây, chắc cô cậu cũng đã biết, là vì di chúc của cụ Albus Dumbledore.”
Harry, Ron và Hermione nhìn nhau.
“Coi bộ ngạc nhiên hả! Vậy là các cô cậu không biết cụ Dumbledore có để lại cho các cô cậu cái gì à?”
“Tất… tất cả… chúng cháu?” Ron hỏi. “Cho cả cháu và Hermione nữa?” “Phải, tất cả…”
Nhưng Harry ngắt lời ông ta.
“Thầy Dumbledore mất đã hơn một tháng nay. Tại sao phải mất thời gian lâu như vậy để trao lại những gì thầy để lại cho chúng cháu?”
“Còn chưa rõ sao?” Hermione nói, trước khi ông Scrimgeour có thể trả lời. “Họ muốn kiểm tra cái gì đó mà thầy để lại cho chúng ta. Các ông không có quyền làm như vậy!” Cô bé nói, giọng hơi run run.
“Tôi có mọi quyền,” ông Scrimgeour nói một cách thô bạo. “Đạo luật về sự Trưng thu Chính đáng cho phép Bộ có quyền tịch thu những nội dung trong một bản di chúc…”
“Luật đó ban ra là để ngăn chặn các pháp sư truyền lại những khí cụ Hắc ám,” Hermione nói, “và Bộ cần có chứng cớ vững chắc rằng tài sản của người quá cố là bất hợp pháp trước khi thu giữ chúng! Bộ ông muốn nói là ông nghĩ thầy Dumbledore tính trao lại cho chúng tôi cái gì đó bị ếm hả?”
“Cô có dự định theo đuổi nghề Luật Pháp thuật không, cô Granger?” Ông Scrimgeour hỏi.
“Không,” Hermione đốp chát lại. “Tôi hy vọng mình sẽ làm điều gì đó tử tế trên đời.”
Ron cười. Đôi mắt của ông Scrimgeour nhấp nháy về phía nó rồi lại quay đi khi Harry nói.
“Vậy tại sao bây giờ ông lại quyết định để chúng cháu được sở hữu những thứ của chúng cháu? Không thể nghĩ ra cớ để giữ chúng lại sao?”
“Không, chẳng qua vì thời hạn ba mươi mốt ngày đã hết,” Hermione nói ngay. “Họ không thể giữ các món đồ lâu hơn thời hạn đó trừ khi họ có thể chứng minh là chúng nguy hiểm. Đúng không?”
“Cậu có thể nói là cậu thân cận với cụ Dumbledore không, Ronald?” Ông Scrimgeour hỏi, phớt lờ Hermione, Ron có vẻ giật mình.
“Cháu hả? Không… thực ra thì không… Lúc nào Harry cũng chính là người…”
Ron nhìn qua Harry và Hermione để thấy Hermione đang nhìn nó cái kiểu đừng-nói-nữa, nhưng điều bất lợi đã được thốt ra; ông Scrimgeour tỏ vẻ như ông vừa nghe đúng chóc điều mà ông mong nghe, và muốn nghe. Ông vồ lấy câu trả lời của Ron như một con chim vồ mồi.
“Nếu cậu không thân cận với cụ Dumbledore lắm, thì cậu nghĩ sao về sự kiện là cụ nhớ đến cậu trong di chúc của cụ? Cụ để lại ít một cách khác thường những ước nguyện cá nhân. Đại bộ phận tài sản của cụ – thư viện cá nhân của cụ, dụng cụ pháp thuật của cụ, và những vật dụng cá nhân khác – đều được để lại cho trường Hogwarts. Cậu nghĩ xem tại sao cậu lại được đặc biệt ưu ái?”
“Cháu không biết…” Ron nói. “Cháu… khi cháu nói chúng cháu không thân cận… ý cháu nói, cháu nghĩ cụ thích cháu…”
“Bồ khiêm tốn đó, Ron à,” Hermione nói. “Cụ Dumbledore rất thích bồ.”
Điều này thì rõ là nói ngoa đến mức quá đáng rồi; theo như Harry biết, Ron và cụ Dumbledore chưa bao giờ tiếp xúc riêng với nhau, và sự tiếp xúc trực tiếp giữa hai người hầu như không đáng kể. Tuy nhiên, ông Scrimgeour dường như không thèm nghe. Ông đút tay vào bên trong áo khoác và rút ra một cái túi có thắt dây lớn hơn cái túi bác Hagrid tặng Harry rất nhiều. Từ trong túi, ông lấy ra một cuộn giấy da, ông mở nó ra và đọc to.
“Di chúc và Nguyện vọng cuối cùng của Albus Percival Wulfric Brian Dumbledore… À, đây… Tôi để lại cho Ronald Bilius Weasley cái Tắt sáng của tôi, hy vọng trò ấy sẽ nhớ đến tôi khi dùng nó.”
Ông Scrimgeour lấy trong túi ra một vật mà Harry đã nhìn thấy trước đây: nó giống như một cái hộp quẹt để đốt thuốc lá bằng bạc, nhưng Harry biết, nó có phép hút hết ánh sáng ở một nơi, rồi phục hồi lại chỉ bằng một cái bật đơn giản. Ông Scrimgeour chồm tới trước và đưa cái Tắt sáng cho Ron; Ron cầm lấy và xoay cái vật đó trong mấy ngón tay, tỏ vẻ sửng sốt.
“Đó là một vật có giá trị,” ông Scrimgeour vừa nói vừa quan sát Ron. “Thậm chí còn độc đáo. Chắc chắn là đồ vật do chính cụ Dumbledore thiết kế. Tại sao cụ để lại cho cậu một món hiếm như vậy?”
Ron lắc đầu, tỏ ra bối rối.
“Cụ Dumbledore ắt hẳn đã dạy hàng ngàn học sinh,” ông Scrimgeour vẫn kiên trì. “Nhưng những người duy nhất mà cụ nhớ đến trong di chúc là ba cô cậu. Tại sao thế? Cậu Weasley, cụ Dumbledore nghĩ cậu có thể dùng cái Tắt sáng này vào việc gì?”
“Tắt ánh sáng, cháu đoán vậy,” Ron lúng búng. “Cháu còn có thể làm gì khác với nó?”
Hiển nhiên ông Scrimgeour không đưa ra được ý kiến gì cả. Sau khi ngó Ron đến lé mắt, ông quay lại bản di chúc của cụ Dumbledore.
“Tôi để lại cho Hermione Jean Granger quyển sách Những Chuyện Kể của Beedle Người Hát Rong bản của tôi, hy vọng trò ấy sẽ thấy sách hay và có ích cho tri thức.”
Ông Scrimgeour lấy từ trong cái túi ra một cuốn sách nhỏ coi có vẻ xưa như cuốn Bí Mật của Nghệ Thuật Hắc Ám đang ở trên lầu. Gáy sách đã hoen ố và long ra vài chỗ. Hermione nhận cuốn sách từ tay ông Scrimgeour không nói một lời. Cô bé giữ cuốn sách trên đùi và đăm đăm nhìn nó. Harry nhận thấy tên sách viết bằng cổ ngữ Runes; nó chưa bao giờ học đọc chữ Runes. Khi nó nhìn cuốn sách, một giọt nước mắt rơi bắn tóe ra trên những ký hiệu chạm nổi.
“Cô Granger, cô nghĩ tại sao cụ Dumbledore để lại quyển sách đó cho cô?”
“Thầy… thầy biết tôi thích sách,” Hermione đáp giọng khàn khàn, chùi nước mắt bằng ống tay áo.
“Nhưng tại sao lại là cuốn sách đặc biệt đó?”
“Cháu không biết. Chắc là thầy nghĩ cháu sẽ thích nó.”
“Cô có từng thảo luận bằng mật mã, hay bất cứ cách truyền thông điệp bí mật nào với cụ Dumbledore hay không?”
“Không, cháu không hề,” Hermione nói, vẫn chùi nước mắt bằng ống tay áo. “Và nếu Bộ đã không tìm ra được bất kỳ mật mã được ẩn giấu nào trong ba mươi mốt ngày, cháu không tin là cháu sẽ tìm được.”
Cô bé nén một tiếng nấc. Tụi nó ngồi sát nhau chật đến nỗi Ron vất vả lắm mới rút được cánh tay của nó ra để quàng quanh vai Hermione. Ông Scrimgeour quay lại bản di chúc.
“Tôi để lại cho Harry James Potter,” ông đọc, và ruột gan Harry quặn thắt với cơn hồi hộp bất ngờ, “trái banh Snitch trò ấy bắt được trong trận đấu Quidditch đầu tiên của trò ấy ở trường Hogwarts, như một nhắc nhở đến những phần thưởng cho sự kiên nhẫn và khéo léo.”
Khi ông Scrimgeour lấy ra trái banh vàng nhỏ xíu cỡ-bằng-hột-óc-chó, hai cánh bạc của nó vỗ vỗ hơi yếu ớt, và Harry không thể không cảm thấy rõ là cụt hứng.
“Tại sao cụ Dumbledore để lại cho cậu trái banh Snitch này?”
“Cháu không biết,” Harry nói. “Cháu đoán vì những lý do mà ông vừa đọc lên… để nhắc nhở cháu điều người ta có thể đạt được bằng sự… kiên nhẫn và gì gì đó.”
“Vậy cậu nghĩ đây chỉ là vật lưu niệm tượng trưng?” “Cháu đoán vậy,” Harry nói “Chứ nó còn có thể là gì nữa?”
“Tôi đang hỏi đấy nhé,” ông Scrimgeour nói, kéo cái ghế của ông đến gần hơn cái ghế nệm dài tụi nó đang ngồi. Hoàng hôn đã thực sự buông xuống ở ngoài kia, cái rạp bên ngoài cửa sổ nhô lên cao bên trên hàng giậu màu trắng ma quái.
“Tôi nhận thấy cái bánh sinh nhật của cậu hình trái banh Snitch,” ông Scrimgeour nói với Harry. “Tại sao thế?”
Hermione bật cười đầy nhạo báng.
“Ôi, nó không thể là một cách ám chỉ đến việc Harry là một tầm thủ cừ khôi, cách đó quá lộ liễu,” cô bé nói. “Ắt hẳn là có một thông điệp bí mật của thầy Dumbledore giấu trong lớp kem bánh!”
“Tôi không nghĩ có gì đó giấu trong kem bánh,” ông Scrimgeour nói. “Nhưng một trái banh Snitch là một nơi rất tốt để giấu một vật thể nhỏ. Tôi chắc các cô cậu biết tại sao chứ?”
Harry nhún vai, tuy nhiên Hermione trả lời. Harry nghĩ cái phản ứng trả lời câu hỏi đúng chóc là một thói quen đã thấm quá sâu đến nỗi cô nàng không thể nén được ham muốn trả lời.
“Bởi vì những trái banh Snitch có trí nhớ về da thịt,” Hermione nói.
“Cái gì?” Cả Harry và Ron cùng nói, lâu nay cả hai vẫn coi kiến thức về Quidditch của Hermione là không đáng kể.
“Đúng,” ông Scrimgeour nói. “Một trái banh Snitch không được chạm vào bằng da trần cho đến khi nó được thả ra, thậm chí người chế tạo ra nó cũng phải mang găng tay. Nó mang một bùa ếm giúp nó phân biệt được người đầu tiên đặt bàn tay lên nó, trong trường hợp có tranh cãi về việc bắt được banh. Trái banh Snitch này,” ông giơ trái banh vàng bé tí lên – “sẽ nhớ sự tiếp xúc với cậu, Potter à. Theo tôi thì cụ Dumbledore, người có tài năng pháp thuật phi thường, bất chấp khuyết điểm khác của cụ, có thể đã phù phép trái banh Snitch này để cho nó chỉ có thể mở ra cho cậu mà thôi.”
Trái tim Harry đập hơi nhanh. Nó chắc chắn ông Scrimgeour nói đúng. Làm sao nó tránh để khỏi chạm vào trái banh Snitch bằng bàn tay trần trước mặt ông Bộ trưởng bây giờ?
“Cậu không nói gì cả,” ông Scrimgeour nói, “có lẽ cậu đã biết trái Snitch này chứa cái gì?”
“Không,” Harry nói, vẫn tự hỏi làm cách nào để nó có vẻ chạm vào trái banh mà thực ra không chạm phải. Giá mà nó biết phép Đọc Tư Tưởng, phải thật sự biết kìa, và có thể đọc ý kiến của Hermione. Nó gần như có thể nghe được bộ óc của cô bé đang rít lên xèo xèo ngay bên cạnh nó.
“Cầm lấy,” ông Scrimgeour khẽ nói.
Harry bắt gặp ánh mắt vàng khè của ông Bộ trưởng và biết là nó không có lựa chọn nào khác hơn là vâng lời. Nó đưa tay ra, và ông Scrimgeour chồm tới trước một lần nữa rồi đặt trái banh Snitch, chậm chạp và thận trọng, vào lòng bàn tay Harry.
Không có gì xảy ra cả. Khi những ngón tay Harry khép lại quanh trái banh Snitch, đôi cánh mệt mỏi của trái banh vỗ vỗ rồi nằm yên. Ông Scrimgeour, Ron, và Hermione vẫn tiếp tục ngấu nghiến nhìn chăm chăm vào trái banh lúc này đã phần nào được bàn tay che kín, như thể họ vẫn còn hy vọng nó có thể biến hình bằng cách nào đó.
“Thiệt là đầy kịch tính,” Harry nói mát mẻ. Cả Ron và Hermione phá ra cười.
“Vậy là hết, hả?” Hermione hỏi, làm ra bộ đứng dậy khỏi cái ghế dài.
“Không hẳn,” ông Scrimgeour nói, bây giờ ông có vẻ nóng nảy. “Cụ Dumbledore còn để lại cho cậu di vật thứ hai, Potter à.”
“Cái gì vậy?” Harry hỏi, nỗi hồi hộp lại bùng lên.
Lần này ông Scrimgeour không thèm mất công đọc di chúc nữa.
“Thanh gươm của Godric Gryffindor,” ông nói. Cả Hermione và Ron ngây người ra. Harry ngó quanh coi có cán gươm cẩn hồng ngọc nào không, nhưng ông Scrimgeour không rút thanh gươm nào ra khỏi cái túi da, đằng nào thì cái túi đó cũng có vẻ quá nhỏ để chứa được thanh gươm.
“Vậy nó đâu?” Harry ngờ vực hỏi.
“Không may,” ông Scrimgeour nói, “thanh gươm đó cụ Dumbledore không được quyền đem cho. Thanh gươm của Godric Gryffindor là một hiện vật lịch sử quan trọng, và do vậy, thuộc về…”
“Nó thuộc về Harry!” Hermione nóng nảy nói. “Thanh gươm chọn bạn ấy, bạn ấy là người đã tìm ra nó, nó đã vọt ra khỏi cái nón phân loại để nhảy vào tay bạn ấy…”
“Theo nguồn tư liệu lịch sử đáng tin cậy thì thanh gươm tự trình diện với bất cứ một học sinh nhà Gryffindor nào xứng đáng,” ông Scrimgeour nói. “Điều đó không khiến nó trở thành tài sản riêng của cậu Potter, bất kể cụ Dumbledore quyết định gì đi nữa,” ông Scrimgeour gãi cái cằm được cạo nham nhở của ông, xoi mói nhìn Harry. “Cậu nghĩ tại sao…?”
“… thầy Dumbledore muốn cháu có thanh gươm đó chứ gì?” Harry nói, cố gắng không nổi nóng. “Có lẽ thầy nghĩ treo nó trên tường của cháu thì ngó nó ngộ ngộ.”
“Đây không phải chuyện đùa, cậu Potter!” Ông Scrimgeour gầm gừ. “Có phải vì cụ Dumbledore tin là chỉ có thanh gươm của Godric Gryffindor mới có thể đánh bại được kẻ thừa kế của Slytherin không? Có phải cụ muốn trao thanh gươm đó cho cậu, Potter, bởi vì cụ tin, như nhiều người tin, rằng cậu là người được tiên tri sẽ là kẻ tiêu diệt Kẻ-chớ-có-gọi-tên-ra không?”
“Giả thiết hay thiệt,” Harry nói. “Có ai đã thử thọc một thanh gươm vào Voldemort chưa? Có lẽ Bộ nên giao một số người công tác đó, thay vì lãng phí thời giờ của họ vào việc tháo rời một cái Tắt sáng, hay bưng bít những vụ vượt ngục Azkaban. Vậy ra đây là chuyện ông làm lâu nay hả, ông Bộ trưởng, đóng cửa ở trong văn phòng, tìm cách mở một trái banh Snitch? Dân chúng đang chết – tôi suýt là một trong số đó – Voldemort truy đuổi tôi qua ba nước, hắn giết thầy Mắt Điên Moody, nhưng chẳng có một tiếng nói nào của Bộ về bất kỳ vụ nào trong những vụ đó, có không? Và ông còn trông mong chúng tôi hợp tác với ông à?”
“Cậu đi quá xa!” Ông Scrimgeour quát, đứng dậy. Harry cũng đứng bật dậy. Ông Scrimgeour đi khập khiễng về phía Harry và chọc mạnh đầu cây đũa phép của ông vào ngực nó. Cú chọc này làm cháy xém một cái lỗ trên chiếc áo thun của Harry giống như một đóm thuốc lá.
“Ối!” Ron nói, đứng bật dậy và giơ cao cây đũa phép của chính nó, nhưng Harry nói:
“Đừng, bồ đâu có muốn tạo cho ông ta cái cớ để bắt tụi mình hả?”
“Đã nhớ ra mi không còn ở trong trường nữa, phải không?” Ông Scrimgeour nói, thở mạnh vào mặt Harry. “Đã nhớ ra ta không phải là cụ Dumbledore, kẻ đã tha thứ cho sự láo xược và ngang bướng của mi hả? Mi có thể cứ mang cái thẹo đó như một vương miện, Potter à, nhưng một thằng nhóc mười bảy tuổi không có nhiệm vụ dạy bảo ta làm công việc của ta! Đã tới lúc mi phải học lấy sự tôn trọng!”
“Đã quá thời ông được tôn trọng,” Harry đáp lại.
Sàn nhà rung chuyển; có tiếng chân chạy rầm rập, rồi cánh cửa vào phòng khách bật mở và ông bà Weasley chạy vào.
“Chúng tôi… chúng tôi nghĩ chúng tôi nghe…” Ông Weasley mở miệng nói, tỏ ra hết sức hốt hoảng trước cái cảnh Harry và ông Bộ trưởng hầu như đâu mũi kênh nhau.
“… tiếng hơi to,” bà Weasley hổn hển nói.
Ông Scrimgeour lùi lại cách Harry hai bước, liếc vào cái lỗ mà ông đã tạo ra trên áo thun của Harry. Ông có vẻ hối tiếc đã mất bình tĩnh.
“Chuyện… không có gì,” ông gầm gừ. “Tôi… tiếc cho thái độ của cậu,” ông nói, nhìn thẳng vào mặt Harry một lần nữa. “Cậu có vẻ cho rằng Bộ không mong muốn cái điều cậu… cái điều cụ Dumbledore… đã mong muốn. Chúng ta nên hợp tác với nhau.” “Tôi không ưa phương pháp của ông, ông Bộ trưởng à,” Harry nói. “Còn nhớ không?”
Lần thứ hai, nó giơ nắm tay phải lên để lộ cho ông Scrimgeour vết thẹo vẫn còn nổi trắng trên mu bàn tay, đọc được là Tôi không được nói dối. Vẻ mặt của ông Scrimgeour rắn đanh lại. Ông quay đi không nói thêm một lời nào nữa và khập khiễng đi ra khỏi phòng. Bà Weasley lật đật đi theo sau ông ta; Harry nghe bà dừng chân ở ngưỡng cửa sau. Chừng một phút sau bà hô lên: “Ổng đi rồi!”
“Ông ta muốn gì?” Ông Weasley hỏi, nhìn khắp Harry, Ron và Hermione trong khi bà Weasley lật đật chạy trở vô với tụi nó.
“Trao cho tụi con những di vật thầy Dumbledore di chúc để lại cho tụi con,” Harry nói, “Họ chỉ vừa mới nhả ra nội dung di chúc của thầy.”
Ở ngoài vườn, bên bàn ăn, ba đồ vật mà ông Scrimgeour vừa đưa tụi nó được chuyền tay từng người. Ai cũng xuýt xoa về cái Tắt sáng và cuốn Những Chuyện Kể của Beedle Người Hát Rong và than vãn cái điều rằng ông Scrimgeour đã từ chối trao lại thanh gươm, nhưng không ai đưa ra được ý kiến nào về việc vì sao cụ Dumbledore để lại cho Harry một trái banh Snitch cũ. Trong khi ông Weasley xem xét cái Tắt sáng đến lần thứ ba hay thứ tư, bà Weasley ngập ngừng nói, “Harry, cưng, mọi người đều đang đói bụng khủng khiếp. Chúng ta không muốn bắt đầu bữa ăn mà không có con… Bây giờ bác dọn đồ ăn ra được chưa con?”
Mọi người đều ăn uống hơi hấp tấp, và sau khi vội vã đồng thanh hô “Chúc sinh nhật vui vẻ!” rồi ngốn gọn miếng bánh, bữa tiệc tan. Bác Hagrid, người được mời dự đám cưới ngày hôm sau, nhưng vì quá ư to xác không thể ngủ trong Hang Sóc vốn đã phình ra hết mức, nên phải ra ngoài tự dựng một cái lều trên cánh đồng hàng xóm.
“Gặp tụi này trên lầu,” Harry thì thầm với Hermione trong khi tụi nó giúp bà Weasley phục hồi nguyên trạng của khu vườn. “Sau khi mọi người đã đi ngủ.”
Trên căn phòng ngủ sát mái, Ron xem xét cái Tắt sáng, và Harry nhét đầy cái túi bùa da lừa của bác Hagrid tặng, không phải vàng, mà là những đồ vật nó quý trọng nhất, có vẻ vô giá trị mặc dù một số thứ trong đó là: tấm Bản đồ Đạo tặc, mảnh gương vỡ có phép của chú Sirius, và cái mặt dây chuyền của R.A.B. Nó thắt sợi dây thật chặt và đeo gọn quanh cổ, rồi ngồi xuống cầm trái banh Snitch cũ ngắm nghía đôi cánh vỗ vỗ yếu ớt. Cuối cùng, Hermione gõ nhẹ lên cửa rồi nhón gót đi vào.
“Lùng bùng lỗ tai,” cô nàng thì thầm, vẫy cây đũa phép về hướng cầu thang. “Tưởng bồ không chấp thuận câu thần chú đó chớ?”
“Thời thế thay đổi,” Hermione nói, “Đâu, bồ cho tụi này coi cái Tắt sáng đi.”
Ron gia ơn ngay tức thì. Giơ cái Tắt sáng lên trước mặt, nó bấm một cái. Ngọn đèn duy nhất tụi nó thắp trong phòng tắt phụt ngay.
“Vấn đề là,” Hermione thì thầm trong bóng tối, “tụi mình có thể làm được việc đó bằng Bột Tối hù Tức thì xứ Pê-ru.”
Một tiếng tách nho nhỏ vang lên, và cái bong bóng ánh sáng từ cây đèn bay ngược lên trần và chiếu sáng cả đám cùng một lúc.
“Dù vậy, nó là hàng độc,” Ron nói, giọng tự vệ một tí. “Và theo lời họ nói thì chính thầy Dumbledore tự phát minh ra!”
“Mình biết, nhưng chắc chắn thầy không ưu ái riêng bồ trong di chúc chỉ để giúp tụi mình tắt đèn!”
“Bồ có nghĩ là thầy biết Bộ sẽ tịch thu di chúc của thầy và kiểm tra mọi thứ thầy để lại cho tụi mình không?” Harry hỏi.
“Chắc chắn,” Hermione nói. “Thầy không thể nói trong chúc thư cho tụi mình biết tại sao thầy để lại cho tụi mình những thứ này, nhưng thế vẫn không giải thích được…”
“… tại sao thầy không cho tụi mình một gợi ý nào hết khi thầy còn sống?” Ron hỏi. “Ừ, đúng chóc,” Hermione nói, lúc này đang lật khắp quyển Những Chuyện Kể của
Beedle Người Hát Rong. “Nếu những thứ này đủ quan trọng để truyền lại ngay trước mũi Bộ, người ta sẽ nghĩ hẳn là thầy đã cho tụi mình biết lý do… trừ khi thầy nghĩ lý do quá rõ ràng.”
“Vậy là thầy nghĩ sai rồi, đúng không?” Ron nói. “Mình luôn nói là thầy hơi bị tâm thần mà. Rất tài giỏi, hay đủ thứ, nhưng khùng. Để lại cho Harry một trái banh Snitch cũ – cái đó có ý nghĩa khỉ khô gì chớ?”
“Mình không biết,” Hermione nói. “Khi lão Scrimgeour bắt bồ cầm nó, Harry à, mình đã chắc là chuyện gì đó sẽ xảy ra!”
“Ừ, thực ra,” Harry nói, mạch máu nó đập nhanh hơn khi giơ trái banh Snitch lên trong những ngón tay. “Mình chưa cố gắng hết sức trước mặt lão Scrimgeour mà.”
“Bồ muốn nói gì?”
“Trái banh Snitch mà mình bắt được trong trận Quidditch đầu tiên của mình?” Harry nói, “Mấy bồ không nhớ hả?”
Hermione có vẻ hết sức khoái chí. Nhưng Ron thì há hốc miệng, chỉ tay như điên hết từ Harry đến trái banh Snitch rồi chỉ ngược lại cho đến khi nó nói lại được.
“Đó là cái bồ suýt nuốt phải!”
“Đúng chóc!” Harry nói, và với trái tim đập gấp gáp, Harry dí miệng vô trái banh. Trái banh không mở ra. Nỗi chán nản và thất vọng cay đắng phình lên trong người
nó. Nó hạ trái cầu vàng xuống, nhưng lúc đó Hermione la lên:
“Chữ viết! Có chữ viết trên đó, mau, coi nè!”
Nó suýt làm rớt trái banh Snitch vì ngạc nhiên và hồi hộp. Hermione hoàn toàn đúng. Được khắc trên bề mặt vàng óng mịn màng, nơi trước đó vài giây chẳng có gì cả, là năm từ được viết bằng nét chữ viết tay gầy nghiêng nghiêng mà Harry nhận ra ngay là chữ của thầy Dumbledore
Ta mở vào lúc kết.
Nó suýt không đọc được khi dòng chữ lại biến mất.
“Ta mở vào lúc kết… Câu này có nghĩa gì?” Hermione và Ron lắc đầu, có vẻ lúng túng.
“Ta mở vào lúc kết… vào lúc kết… ta mở vào lúc kết…”
Nhưng cho dù có lặp lại mấy chữ đó bao nhiêu lần, với nhiều giọng điệu cách thức khác nhau, tụi nó vẫn không thể vắt ra thêm ý nghĩa nào từ năm từ đó.
“Và thanh gươm,” cuối cùng Ron nói, khi tụi nó rốt cuộc đành phải bỏ cuộc đoán mò ý nghĩa trong dòng chữ khắc trên trái banh Snitch.
“Tại sao thầy muốn Harry giữ thanh gươm?”
“Và tại sao thầy không thể mách nước cho mình biết?” Harry lặng lẽ nói. “Mình đã ở đó, nó ở ngay đó trên bức tường của văn phòng thầy trong suốt những buổi nói chuyện hồi năm ngoái! Nếu thầy muốn mình có nó, tại sao thầy không đơn giản cứ trao luôn cho mình lúc đó?”
Nó cảm thấy như thể đang ngồi trong một kỳ thi với một câu hỏi ở ngay trước mắt mà nó lẽ ra đã có thể trả lời, nhưng bộ não của nó chậm chạp và không nhạy bén gì cả. Có điều gì nó đã bỏ sót trong những buổi nói chuyện dài với thầy Dumbledore hồi năm ngoái? Nó có cần biết ý nghĩa của tất cả không? Có khi nào thầy Dumbledore cho rằng nó đã hiểu không?
“Và với cuốn sách này,” Hermione nói, Những Chuyện Kể của Beedle Người Hát Rong… Mình thậm chí còn chưa nghe nói đến bao giờ!”
“Bồ chưa từng nghe nói đến Những Chuyện Kể của Beedle Người Hát Rong hả?” Ron hỏi với vẻ không tin được “Bồ nói đùa phải không?”
“Không,” Hermione nói vẻ ngạc nhiên. “Vậy bồ có biết không?” “Ôi, dĩ nhiên là biết chớ!”
Harry ngước nhìn lên, thú vị. Trước giờ chưa từng xảy ra cái tình huống Ron đã đọc một cuốn sách mà Hermione lại chưa đọc. Tuy nhiên, Ron có vẻ khoái chí trước vẻ ngạc nhiên của hai đứa nó.
“Thôi mà! Tất cả những chuyện trẻ con hồi xưa đều là chuyện Beedle, đúng không?
Nào là Suối nước của thần may mắn công bằng… Gã phù thủy và cái nồi nhảy…
Babbbity Rabbitty và cái chân răng ba hoa của cô bé…
“Nói lại giùm?” Hermione nói vừa cười khúc khích. “Cái cuối cùng là gì?”
“Đừng làm bộ nữa!” Ron nói, nhìn từ Harry đến Hermione không tin nổi. “Mấy bồ ắt phải từng nghe qua chuyện Babbitty Rabbitty…”
“Ron à, bồ quá biết là Harry và mình được lớn lên trong thế giới Muggle mà!” Hermione nói. “Tụi này đâu có nghe được những chuyện như chuyện đó khi còn nhỏ đâu, tụi này nghe những chuyện như Bạch Tuyết và bảy Chú Lùn và Cô bé Lọ Lem…”
“Cái đó là cái gì? Một chứng bệnh hả?” Ron hỏi.
“Vậy ra đây là những câu chuyện trẻ con?” Hermione hỏi, lại nghiêng mình xuống những chữ Runes.
“Ừ,” Ron nói không chắc chắn lắm. “Mình muốn nói, như bồ vừa nghe đó, là tất cả những câu chuyện cổ tích đều xuất xứ từ Beedle. Mình không biết chuyện như thế nào trong bản gốc.”
“Nhưng mình thắc mắc tại sao thầy Dumbledore nghĩ là mình nên đọc những chuyện đó?”
Cái gì đó kêu răng rắc dưới lầu.
“Chắc là anh Charlie thôi, bây giờ má đã ngủ rồi, ảnh lẻn ra ngoài để mọc lại tóc,” Ron nói một cách lo lắng.
“Dù sao thì mình cũng nên đi ngủ,” Hermione thì thầm. “Mai mà ngủ dậy trễ là không xong.”
“Không xong đâu,” Ron đồng ý. “Một cuộc ám sát bộ ba do chính tay má chú rể gây ra có thể khiến đám cưới mất vui một tý. Mình sẽ thu ánh sáng lại.”
Và nó bật cái Tắt sáng một lần nữa khi Hermione rời khỏi căn phòng.