Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm. Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản

Mật Mã Phù Thủy

Chương 37

Tác giả: Deborah Harkness

Trông cha tôi hết sức điềm tĩnh khi đối mặt với một ma cà rồng có vũ trang và đứa con gái đã trưởng thành của ông. Chỉ duy có một thoáng run rẩy trong giọng nói và bàn tay siết lại các khớp trắng bệch đặt trên quầy sách là tố cáo những cảm xúc thật sự của ông.

“Tiến sĩ Proctor, con đoán vậy.” Matthew bước ra xa và thu lại vũ khí của mình.

Cha tôi vuốt thẳng lại chiếc áo khoác nâu chắc bền của mình. Nó không ổn chút nào. Ai đó – có lẽ là mẹ tôi – đã cố gắng sửa một chiếc áo khoác Nehru thành thứ tương tự như một chiếc áo thầy tu của mục sư, còn chiếc quần ống chẽn thì quá dài, giống thứ Ben Franklin sẽ mặc hơn là đồ Walter Raleigh mặc. Nhưng giọng nói thân quen của ông, mà tôi đã không được nghe suốt hai mươi sáu năm, thì vẫn y như thế.

“Con đã lớn lên chỉ trong vòng có ba ngày qua thôi,” ông run run nói.

“Trông cha vẫn y như trong trí nhớ của con,” tôi lặng người nói, vẫn còn sững sờ vì ông đang đứng ngay trước mặt mình. Lo ngại hai phù thủy và một wearh có thể là quá gây chú ý khi đang ở giữa đám đông trong sân nhà thờ Thánh Paul, và vì không biết phải làm gì trong một tình huống như tiểu thuyết thế này, nên tôi lại rơi trở về thói quen xã giao thông thường. “Cha có muốn về nhà chúng con để uống một ly không?” Tôi đề nghị vụng về.

“Chắc rồi, con yêu, điều đó thật tuyệt,” ông nói kèm theo một cái gật đầu ngập ngừng. Hai cha con tôi không thể ngừng nhìn ngắm lẫn nhau – ngay cả trên đường về nhà hay khi chúng tôi đã về tới Hươu Đực và Vương Miện an toàn, thật kỳ diệu là nơi này trống trải không thấy bóng dáng ai. Đến đây thì ông ôm lấy tôi một cách ấm áp.

“thật sự là con rồi, con nói nghe thật giống mẹ con quá,” ông nói, giữ tôi ở khoảng cách một cánh tay và ngắm nhìn thật kỹ các đường nét khuôn mặt tôi. “Trông con cũng giống bà ấy nữa.”

“Mọi người nói con có đôi mắt của cha,” tôi nói và cũng ngắm nhìn ông kỹ càng. Khi bạn bảy tuổi, bạn sẽ không để ý những thứ như thế, bạn chỉ nghĩ đến việc tìm kiếm những đặc điểm ấy sau này, khi đã quá muộn thôi.

“Đúng vậy nhỉ.” Stephen cười vang.

“Diana cũng có đôi tai của bố nữa và mùi hương của hai người cũng có điểm tương tự. Vì lẽ đó mà con nhận ra bố ở nhà thờ Thánh Paul.” Matthew đưa tay vuốt mái tóc đã cắt ngắn của anh vẻ hồi hộp, rồi đưa tay ra về phía cha tôi. “Con là Matthew.”

Cha tôi nhìn bàn tay chìa ra. “không có họ à? anh là kiểu nhân vật nổi danh như Halston hay Cher chắc?” Tôi đột nhiên tưởng tượng ra một hình ảnh sinh động về những gì tôi đã bỏ lỡ vì không có cha ở bên cạnh, trong những năm tháng tuổi thiếu niên, bỏ lỡ những trò thật lố bịch của ông khi ông gặp các chàng trai tôi hẹn hò. Hai mắt tôi rưng rưng.

“Matthew có rất nhiều họ. Chuyện là… hơi phức tạp,” tôi nói, cố kìm lại những giọt nước mắt. Trông cha tôi hốt hoảng trước dòng cảm xúc dâng trào đột ngột như thế.

“hiện giờ đang là Matthew Roydon ạ,” Matthew nói, kéo sự chú ý của cha tôi. anh và cha tôi bắt tay nhau.

“Vậy cậu chính là chàng ma cà rồng đó,” cha tôi nói. “Rebecca lo lắng đến phát ốm về các vấn đề thực tế trong mối quan hệ của cậu với con gái tôi, mà thậm chí, Diana còn chưa biết đi xe đạp nữa chứ.”

“Ôi, cha.” Tôi đã đỏ bừng mặt mũi khi thốt lời này ra khỏi miệng, nghe như thể tôi mới mười hai tuổi vậy. Matthew tủm tỉm cười trong khi đi tới chiếc bàn.

“Sao cha không ngồi xuống và dùng một chút rượu vang nhỉ?” Matthew đưa cốc rượu cho ông rồi kéo một chiếc ghế ra cho tôi. “Chắc Diana đang choáng váng.”

“Cậu nói đúng, tôi thích thứ này.” Cha tôi ngồi xuống, nhấp một ngụm rượu và gật đầu tán thưởng trước khi lấy lại dáng vẻ nghiêm nghị. “Vậy,” ông mạnh mẽ nói, “chúng ta đã nói xin chào, con mời ta về nhà của con, và giờ ta đã uống rượu rồi – những nghi thức chào đón thiết yếu của phương Tây. Giờ thì chúng ta đi thẳng vào vấn đề nhé, con đang làm gì ở đây vậy Diana?”

“Con ư? Cha đang làm gì ở đây thì có? Và mẹ con đâu rồi?” Tôi đẩy ly rượu Matthew rót cho tôi đi.

“Mẹ con đang ở nhà chăm sóc con.” Cha tôi lắc đầu kinh ngạc. “Cha không thể tin được, trông con chẳng trẻ hơn cha đến mười tuổi đâu.”

“Con luôn quên là cha già hơn mẹ con rất nhiều.”

“Con đang ở cùng một ma cà rồng mà lại có xu hướng phản đối tình yêu lãng mạn bất chấp tuổi tác ư?” Cách biểu lộ kỳ lạ của cha làm tôi bật cười.

Đúng thế thật, tôi đã nhẩm một phép toán thật nhanh. “Vậy cha đến từ năm 1980 à?”

“Đúng, cuối cùng thì cha cũng đã nâng cao trình độ của mình và hướng tới thực hiện một vài khám phá.” Stephen ngắm nhìn chúng tôi. “Đây là thời điểm và địa điểm hai con gặp nhau à?”

“không ạ, chúng con gặp nhau ở Oxford, vào tháng Chín năm 2009, tại thư viện Bodleian.” Tôi nhìn Matthew, anh mỉm cười khích lệ tôi. Tôi quay lại phía cha và hít vào một hơi thật sâu lấy tinh thần. “Con có thể du hành vượt thời gian giống cha nên đã mang Matthew theo cùng.”

“Cha biết con có thể du hành thời gian, nhóc con ạ. Con đã dọa mẹ con suýt chết vì sợ vào tháng Tám năm ngoái, khi con biến mất vào ngày sinh nhật ba tuổi. một cô nhóc chập chững du hành vượt thời gian là cơn ác mộng tồi tệ nhất của một bà mẹ.” Ông nhìn tôi một cách sắc sảo. “Vậy là con có đôi mắt, đôi tai, mùi hương và khả năng du hành vượt thời gian của cha. Còn gì nữa không?”

Tôi gật đầu. “Con có thể tạo ra các câu thần chú.”

“Ồ. Chúng ta đã hy vọng con sẽ có thiên hướng với lửa giống mẹ con, nhưng không có may mắn như vậy.” Cha tôi có vẻ không thoải mái và hạ thấp giọng. “Có lẽ con không nên đề cập về khả năng của mình với các phù thủy khác. Và khi họ cố gắng dạy con những câu thần chú của họ, chỉ cần để chúng vào tai này rồi ra tai kia thôi, thậm chí cũng đừng có cố học chúng nhé.”

“Con ước gì cha nói với con điều đó từ trước, nó sẽ giúp con rất nhiều khi ở cùng dì Sarah,” tôi nói.

“Sarah già tốt bụng.” Tiếng cười của cha tôi ấm áp và thật dễ lan truyền.

Tiếng bước chân vang lên như sấm trên cầu thang, rồi một cái giẻ lau bốn chân và một cậu nhóc phóng sầm sập qua bậu cửa, đập cánh cửa đánh sầm vào tường bằng tất cả sức lực hăng hái cùng sự nhiệt tình khi lao vào nhà.

“Ông Harriot nói cháu có thể lại đi ra ngoài cùng ông ấy và ngắm nhìn các ngôi sao. Ông ấy hứa lần này sẽ không quên mất cháu và ông Shakespeare đã cho cháu cái này.” Jack ve vẩy một mảnh giấy trên không. “Ông ấy nói đây là một lá thư của lòng tin còn Annie thì vẫn cứ nhìn chằm chằm một anh chàng ở quán Mũ Hồng Y Giáo Chủ trong khi ăn bánh. Ai đấy ạ?” Câu cuối cùng được nói ra kèm theo một ngón tay cáu bẩn chỉ về phía cha tôi.

“Đó là ông Proctor,” Matthew nói, vòng tay ôm lấy thắt lưng Jack. “Cháu đã cho Giẻ Lau ăn theo cách của cháu rồi hả?” Chẳng có cách nào tách được thằng bé và con chó ở Praha, vậy nên Giẻ Lau đã đến London, nơi mà vẻ ngoài kỳ lạ của nó đã tạo sự hiếu kỳ đối với dân địa phương.

“Tất nhiên là cháu đã cho Giẻ Lau ăn rồi ạ. Nếu cháu quên là nó lại ăn giày của cháu, và Pierre bảo chú ấy sẽ trả tiền cho đôi giày mới mà không nói cho ông biết, nhưng không có lần thứ hai đâu.” Jack vội bụm tay bưng kín miệng.

“Cháu xin lỗi, bà Roydon, em ấy chạy xuống phố mà cháu chẳng thể nào đuổi kịp.” Annie cau có lao vào phòng, rồi dừng khựng lại, mặt cô bé trở nên trắng bệch và nhìn chằm chằm cha tôi.

“Ổn cả mà, Annie,” tôi nhẹ nhàng nói. cô bé sợ những sinh vật khác người xa lạ kể từ hồi ở Greenwich. “Đây là ông Proctor, là một người bạn.”

“Cháu có nhiều bi lắm, ông có biết chơi bắn bi không ạ?” Jack vẫn nhìn cha tôi không rời mắt với vẻ thăm dò công khai, như thể cậu nhóc cố gắng xác định xem, liệu người mới đến này có phải một nhân vật hữu ích có thể giao du không.

“Ông Proctor đến đây để nói chuyện với bà Roydon, Jack.” Matthew xoay tít cậu nhóc. “Chúng ta cần nước, rượu và bánh mỳ. Cháu và Annie phân chia lo mấy việc vặt đó đi, và khi nào Pierre về thì chú ấy sẽ đưa cháu tới Moorifields.”

Vừa lầu bầu vài tiếng, Jack vừa cùng Annie quay ra đi lên phố. Cuối cùng, tôi đón lấy ánh mắt của cha. Ông vẫn đang quan sát Matthew và tôi mà không nói gì trong khi bầu không khí thì đậm đặc những câu hỏi của ông.

“Tại sao con ở đây, con yêu?” Cha tôi lặng lẽ lặp lại khi lũ trẻ đã đi khỏi.

“Chúng con nghĩ, có thể tìm thấy ai đó giúp con giải đáp vài câu hỏi về phép thuật và giả kim thuật.” Vì một vài lý do, tôi không muốn cha tôi biết chi tiết. “Người dạy con tên là Goody Alsop. Bà và hội phù thủy của bà đã đón nhận con.”

“Cố gắng giỏi lắm, Diana. Cha cũng là phù thủy, nên cha biết khi nào con đang vòng vèo lướt qua sự thật.” Cha tôi ngồi ngả người trong ghế. “Con sẽ phải kể cho cha đến cùng. Cha chỉ nghĩ đây là cách tiết kiệm thời gian thôi.”

“Tại sao cha ở đây, Stephen?” Matthew hỏi.

“Chỉ đi loanh quanh thôi vì ta là một nhà nhân loại học mà. Đó là công việc của ta, còn cậu làm nghề gì?”

“Con là khoa học gia – hóa sinh học và làm việc ở Oxford ạ.”

“Cha không chỉ ‘đi loanh quanh’ ở London trong thời đại Elizabeth, cha ạ. Cha đã có trang sách từ Ashmole 782 rồi.” Tôi đột nhiên hiểu lý do tại sao ông có mặt ở đây. “Cha đang tìm kiếm phần còn lại của cuốn cổ thư đó.” Tôi hạ chùm giá nến bằng gỗ xuống. Bộ dụng cụ thiên văn học của ông Habermel được đặt nằm lọt thỏm giữa hai cây nến. Chúng tôi phải di chuyển nó hàng ngày, bởi vì Jack đều tìm ra chỗ giấu nó.

“Trang sách nào cơ?” Cha tôi hỏi, giọng ngây ngô một cách đáng ngờ.

“Trang sách có bức hình đám cưới giả kim thuật ấy, nó đến từ một cuốn cổ thư trong thư viện Bodleian.” Tôi mở bộ dụng cụ ra. Nó hoàn toàn đứng im, y như tôi kỳ vọng. “Nhìn này, Matthew.”

“Tuyệt,” cha tôi nói kèm theo một tiếng huýt sáo.

“Cha nên xem cái bẫy chuột của cô ấy,” Matthew thì thào.

“Nó dùng làm gì thế?” Cha tôi với tay kéo bộ dụng cụ lại để nhìn kỹ hơn.

“Nó là một công cụ toán học để báo giờ và theo dõi các sự kiện thiên văn học giống như chu kỳ của mặt trăng. Nó bắt đầu tự dịch chuyển khi chúng con ở Praha. Con đã nghĩ điều đó có nghĩa là ai đấy đang tìm kiếm con và Matthew, nhưng giờ con băn khoăn có phải nó không ám chỉ cha, mà là đang tìm kiếm cuốn cổ thư kia.” Bộ dụng cụ vẫn hoạt động theo chu kỳ, các bánh quay của nó xoay tròn mà không hề báo trước nên mọi người trong nhà đều gọi nó là “đồng hồ phù thủy.”

“Có lẽ anh nên đi lấy cuốn sách,” Matthew nói rồi đứng dậy.

“Được rồi, được rồi mà,” cha tôi đáp, ra hiệu cho anh ngồi xuống. “không có gì phải vội cả, Rebecca không mong cha về trong vài ngày tới đâu.”

“Vậy là cha sẽ ở lại đây – tại London ạ?”

Khuôn mặt cha tôi dịu hẳn đi. Ông gật đầu.

“Cha sẽ ở đâu?” Matthew hỏi.

“Ở đây!” Tôi phẫn nộ nói. “Ông sẽ ở đây.” Sau bao nhiêu năm không có cha, việc lại để ông rời khỏi tầm mắt là điều tôi không thể tưởng tượng nổi.

“Con gái cha có những quan điểm rất rõ ràng về việc gia đình của cô ấy mà lại phải đăng ký ở khách sạn,” Matthew kể cho cha tôi kèm nụ cười nhăn nhở, nhớ lại tôi đã phản ứng như thế nào khi anh cố sắp xếp Marcus và Miriam vào một nhà trọ ở Cazenovia. “Dĩ nhiên là cha được chào đón tới đây ở cùng chúng con rồi.”

“Cha đã lấy phòng ở phía bên kia thành phố,” cha tôi lưỡng lự nói.

“Ở lại đi ạ.” Tôi mím chặp môi và chớp chớp mắt để kìm nén những giọt nước mắt. “Xin cha đấy.” Tôi có quá nhiều điều muốn hỏi ông, quá nhiều câu hỏi mà chỉ ông mới có thể trả lời. Cha và chồng tôi cùng trao đổi một cái nhìn thật lâu.

“Được rồi,” cuối cùng cha tôi nói. “Loanh quanh bên con một chốc lát cũng rất tuyệt.”

Tôi cố gắng nhường ông phòng ngủ của chúng tôi, vì Matthew sẽ không thể ngủ khi có người lạ ở trong nhà, mà tôi thì dễ dàng nằm vừa trên bậu ngồi cửa sổ, nhưng cha tôi từ chối. Thay vào đó, Pierre nhường giường của anh ta cho cha tôi. Tôi đứng trên chiếu nghỉ cầu thang, lắng nghe một cách ghen tỵ khi Jack và cha tôi trò chuyện như những người bạn cũ.

“anh nghĩ cha Stephen đã có mọi thứ ông cần rồi,” Matthew nói, vòng hai cánh tay ôm tôi.

“Ông có thất vọng vì em không?” Tôi nói thành lời nỗi băn khoăn của mình.

“Cha em ư?” Matthew thốt lên nghe vẻ hoài nghi. “Dĩ nhiên là không rồi!”

“Ông có vẻ không được thoải mái lắm.”

“Khi Stephen hôn tạm biệt em mấy ngày trước, em vẫn còn là một cô nhóc chập chững tập đi nên ông chỉ bị choáng váng thôi.”

“Ông có biết chuyện sẽ xảy đến với ông và mẹ em không?” Tôi thì thầm.

“anh không biết, mon coeur, nhưng anh cũng nghĩ vậy.” Matthew kéo tôi về phía phòng ngủ của chúng tôi. “Lên giường ngủ đi em, mọi chuyện sẽ khác vào sáng ngày mai.”

Matthew đã đúng: Cha tôi đã có phần thư thái hơn vào ngày hôm sau, mặc dù trông ông có vẻ không ngủ được nhiều. Cả Jack cũng thế.

“Thằng bé luôn có những cơn ác mộng tồi tệ như thế à?” Cha tôi hỏi.

“Con xin lỗi vì thằng bé làm cha không ngủ được,” tôi lấy làm tiếc. “sự thay đổi làm nó hồi hộp và lo lắng nên Matthew luôn chăm sóc nó.”

“Cha biết. Cha đã thấy anh ta,” cha tôi nói, nhấp một ngụm nước sắc thảo dược mà Annie đã chuẩn bị.

Đó chính là vấn đề với cha tôi. Ông thấy mọi thứ. Khả năng theo dõi và quan sát của ông khiến ma cà rồng cũng phải hổ thẹn. Mặc dù tôi có hàng trăm câu hỏi – về mẹ và phép thuật của bà, về trang sách của Ashmole 782 – nhưng tất cả chúng dường như đều bốc hơi hết dưới cái nhìn lặng lẽ của ông. Thi thoảng ông hỏi tôi vài chuyện tầm thường không đáng kể. Tôi có biết ném bóng chày không? Tôi có nghĩ Bod Dylan là thiên tài không? Tôi đã từng được dạy cách dựng một cái lều chưa? Ông không hỏi gì về Matthew và tôi cả, hay trường tôi đã học, hoặc thậm chí cả việc tôi làm gì để kiếm sống. Ông không có bất kỳ biểu hiện nào thể hiện sự quan tâm, nên tôi cảm thấy lúng túng và ngượng ngùng khi tự động đưa ra các thông tin này. Đến cuối ngày đầu tiên chúng tôi ở cùng nhau, tôi đã thực sự trào nước mắt.

“Tại sao ông không nói chuyện với em?” Tôi hỏi khi Matthew tháo dây chiếc coóc-xê của tôi.

“Bởi vì ông quá bận lắng nghe. Ông là một nhà nhân loại học – một người quan sát chuyên nghiệp mà, còn em lại là sử gia trong gia đình. Các câu hỏi là thế mạnh của em chứ không phải của ông.”

“Em cứ líu cả lưỡi khi ở quanh ông và không biết bắt đầu từ đâu. Khi ông thực sự nói chuyện với em, thì nó lại luôn là những chủ đề kỳ lạ, kiểu như liệu việc cho phép các cầu thủ được chỉ định đánh bóng có hủy hoại môn bóng chày không.”

“Đó là điều mà một người cha sẽ nói với con gái mình khi ông bắt đầu dẫn dắt cô bé đến với trò chơi bóng chày. Vậy là cha Stephen biết ông sẽ không được nhìn thấy em lớn lên và không biết mình còn bao nhiêu thời gian ở bên em thôi.”

Tôi ngồi xuống mép giường. “Ông là một fan cuồng nhiệt của Red Sox. Em nhớ là mẹ đã nói rằng, giữa việc bà có thai và Carlton Fisk đánh được cú home run vào trận thứ sáu của giải World Series, thì năm 1975 là mùa thu tuyệt nhất trong cuộc đời ông, thậm chí cuối cùng Cincinnati có đánh bại Boston đi nữa.”

Matthew cười khẽ. “anh chắc chắn mùa thu năm 1975 là đỉnh cao của nó.”

“Đội Sox đã thắng vào năm đó à?”

“không, cha em đã thắng.” Matthew hôn tôi và thổi tắt nến.

***

Ngày hôm sau, khi tôi trở về nhà sau khi chạy vài việc vặt, tôi thấy cha đang ngồi trong phòng khách căn hộ vắng tanh của chúng tôi với Ashmole 782 mở trước mặt.

“Cha tìm thấy nó ở đâu thế?” Tôi hỏi và đặt mấy gói đồ lên bàn. “Con nghĩ Matthew đã đem giấu nó rồi chứ.” Tôi chẳng có đủ thời gian để ngăn bọn trẻ cách xa bộ dụng cụ đáng nguyền rủa đó.

“Jack đã đưa nó cho cha, thằng bé gọi nó là ‘cuốn sách về quái vật’ của bà Roydon.’ Hoàn toàn có thể hiểu là cha đã háo hức được thấy nó ngay khi nghe nói đến.” Cha tôi lật giở sang trang. Các ngón tay ông ngắn hơn ngón tay Matthew, cục mịch và mạnh mẽ hơn. “Đây là cuốn sách có bức tranh về hôn lễ đó hả?”

“Vâng. Còn có hai bức tranh khác nữa: một hình một cái cây, còn bức kia là hai con rồng đang chảy máu.” Tôi dừng lại. “Con không chắc mình có nên kể cho cha hay không, con biết về mối quan hệ của cha với cuốn sách này, điều mà cha không biết – những điều thậm chí chưa xảy ra.”

“Vậy thì hãy nói cho cha biết điều gì đã xảy ra với con sau khi con phát hiện ra nó ở Oxford và cha muốn biết sự thật, Diana. Cha có thể nhìn thấy những sợi tơ nối giữa con và cuốn sách này bị hư hại, tất cả chúng bện xoắn lại và gầm gừ. Vậy có ai đó đã làm hại con về thể xác.”

sự im lặng nặng nề lắng xuống trong phòng. không thể trốn đâu khỏi sự quan sát kỹ lưỡng và tỉ mỉ của cha tôi. Khi tôi không thể chịu đựng hơn được nữa, tôi đón lấy ánh mắt ông.

“Là các phù thủy. Matthew đã ngủ, và con đi ra ngoài để hít thở không khí trong lành. Nơi đó được cho là an toàn nhưng một phù thủy đã bắt con.” Tôi cựa mình trên ghế. “Hết chuyện. Chúng ta hãy nói về điều gì khác đi. Cha không muốn biết nơi con đã đi học sao? Con là một sử gia. Con đã được bổ nhiệm làm giảng viên chính thức ở Yale.” Tôi sẽ nói về bất cứ điều gì với cha tôi – ngoại trừ chuỗi sự kiện bắt đầu với bức ảnh cũ được giao đến phòng tôi ở New College và kết thúc với cái chết của Juliette.

“Để sau đi. Giờ cha cần biết tại sao một phù thủy khác lại muốn cuốn sách này đến mức sẵn sàng giết con vì nó. Ồ, đúng rồi,” ông nói trước cái nhìn hoài nghi của tôi, “cha đã tự mình khám phá ra rồi. một phù thủy đã dùng câu thần chú mở trên lưng con và để lại một vết sẹo kinh khủng. Cha có thể cảm thấy vết thương đó vì ánh mắt Matthew nấn ná ở đó, và con rồng của con – cha cũng biết về cô nàng đó nữa – che đậy vết sẹo đó bằng đôi cánh của nó.”

“Satu – phù thủy đã bắt con – không phải sinh vật khác người duy nhất muốn cuốn sách này. Peter Knox – thành viên của Đại Hội Đồng cũng muốn.”

“Peter Knox,” cha tôi khẽ thốt lên. “Ái chà chà.”

“Hai người đã gặp nhau ư?”

“thật không may, đúng thế. hắn ta luôn có gì đó với mẹ con và may mắn là mẹ con thấy ghê tởm hắn.” Cha tôi trông dữ dằn và lật qua trang khác. “Cha chắc chắn gã Peter chết tiệt không biết về các phù thủy bị chết trong thứ này. Có một loại phép thuật hắc ám nào đó quẩn quanh trong cuốn sách này, và Peter đã luôn hứng thú với khía cạnh đó của phép phù thủy. Cha có thể biết lý do vì sao hắn muốn nó, nhưng tại sao con và Matthew lại cần nó đến thế chứ?”

“Các sinh vật khác người đang biến mất, cha ạ. yêu tinh đang ngày càng hoang dại, máu ma cà rồng đôi khi không có khả năng biến đổi một con người nữa, còn phù thủy thì đang không sinh sôi thêm được. Chúng ta đang chết dần. Matthew tin rằng cuốn sách này có thể giúp chúng ta hiểu được lý do tại sao,” tôi giải thích. “Có rất nhiều thông tin di truyền trong cuốn sách này – da, tóc, thậm chí cả máu và xương nữa.”

“Con đã kết hôn với một sinh vật khác người không kém gì Charles Darwin đấy. Có phải anh chàng cũng quan tâm tới nguồn gốc các loài giống như sự tuyệt chủng không?”

“Vâng, anh ấy đã cố gắng trong một thời gian dài để tìm ra cách mà yêu tinh, phù thủy và ma cà rồng có liên hệ với nhau và với loài người. Cuốn cổ thư này – nếu chúng con có thể ghép nó lại với nhau và hiểu được nội dung của nó – có lẽ sẽ cung cấp được những manh mối quan trọng.”

Đôi mắt màu nâu lục nhạt của cha nhìn vào mắt tôi. “Và đây là những mối bận tâm mang tính lý thuyết đơn giản đối với chàng ma cà rồng của con à?”

“không gì hơn nữa. Con đang mang thai, cha ạ.” Tôi nhẹ nhàng đặt tay lên phần bụng dưới – một hành động vô thức mà gần đây tôi vẫn hay thực hiện.

“Cha biết.” Ông cười. “Cha cũng đã phát hiện ra điều đó, nhưng thật tuyệt khi được nghe con nói ra.”

“Cha mới chỉ ở đây có bốn mươi tám tiếng nên con không muốn thổ lộ dồn dập nhiều thứ hơn,” tôi nói với cảm giác xấu hổ. Cha tôi đứng dậy và kéo tôi vào vòng tay ôm thật chặt. “Hơn nữa, cha đáng ra nên ngạc nhiên chứ, vì phù thủy và ma cà rồng vốn không được yêu nhau và người ta kiên quyết cho rằng họ không thể có con cùng nhau.”

“Mẹ con đã báo trước cho cha về chuyện đó rồi – bà ấy đã thấy tất cả mọi chuyện bằng năng lực tiên tri phi thường của mình.” Ông cười lớn. “thật là lo lắng hão. Nếu không phải con thì bà ấy đang nhặng xị cả lên rồi, nó là ma cà rồng đấy. Chúc mừng con yêu. một đứa trẻ là món quà tuyệt vời.”

“Con chỉ hy vọng chúng con có thể kiểm soát được nó. Ai biết được đứa con của bọn con sẽ như thế nào?”

“Con có thể giải quyết tốt hơn là con nghĩ đấy.” Cha hôn lên má tôi. “Thôi nào, chúng ta hãy đi dạo một lát đi để con có thể chỉ cho cha thấy những nơi con thích trong thành phố này. Cha muốn gặp Shakespeare. một trong những đồng nghiệp ngu ngốc của cha nghĩ, thật ra chính nữ hoàng Elizabeth đã viết Hamlet. Mà nói đến đồng nghiệp: Làm thế nào mà sau nhiều năm mua yếm dãi và găng tay hở ngón Harvard cho con, kết cục là ta lại có một cô con gái dạy học ở Yale chứ?”

***

“Ta tò mò vài chuyện,” cha tôi nói, nhìn không chớp mắt vào ly rượu vang của ông. Hai chúng tôi đã tận hưởng một chuyến đi dạo thú vị và đều đã ung dung, thong thả dùng xong bữa tối trong khi bọn trẻ đã được cho lên giường ngủ, còn Giẻ Lau thì đang ngáy khò khò cạnh lò sưởi. một ngày hoàn hảo là như thế đấy.

“Chuyện gì cơ, cha Stephen?” Matthew hỏi, mỉm cười ngước nhìn lên từ cốc rượu của anh.

“Hai đứa nghĩ, có thể kiểm soát cuộc sống điên cuồng mà các con đang dấn thân vào này bao lâu?”

Nụ cười của Matthew cứng lại. “Con không chắc mình hiểu câu hỏi của cha,” anh lẳng lặng nói.

“Hai đứa các con giữ mọi thứ chặt quá thể.” Cha tôi nhấp một ngụm rượu và cố ý nhìn đăm đăm vào nắm tay siết chặt của Matthew trên miệng cốc. “Con có thể vô tình hủy hoại đi thứ con yêu thích nhất bằng nắm tay đó đấy, Matthew.”

“Con sẽ chú ý điều đó ạ.” rõ ràng, Matthew đang kiểm soát tâm trạng của mình. Tôi mở miệng định xoa dịu mọi chuyện.

“Hãy thôi cố gắng sắp xếp mọi chuyện đi, con yêu,” cha nói trước khi tôi kịp thốt ra một lời.

“Con không mà,” tôi phản đối.

“Có, con có,” Stephen nói. “Mẹ con lúc nào cũng làm thế, và cha nhận ra các dấu hiệu đó. Đây là cơ hội cha được nói chuyện với con với tư cách là một người trưởng thành, Diana, và cha sẽ không lựa lời vòng vo chỉ bởi vì chúng khiến con – hoặc cậu ta – không thoải mái đâu.”

Cha tôi thọc tay vào trong áo khoác và rút ra một cuốn sách mỏng. “Cậu cũng đang cố gắng sắp đặt mọi chuyện, Matthew ạ.”

“Tin tức từ Scotland,” dòng tiêu đề chữ lớn được đánh máy trên bản in nhỏ viết: TUYÊN BỐ VỀ CUỘC ĐỜI ĐÁNG TỘI LỖI CỦA BÁC SĨ FIAN, một PHÙ THỦY NỔI TIẾNG, KẺ đã BỊ THIÊU CHẾT Ở EDINBURGH VÀO THÁNG một VỪA QUA.

“Cả thành phố đang nói về những phù thủy ở Scotland,” cha tôi nói, đẩy các trang báo về phía Matthew. “Nhưng các sinh vật khác người lại đang kể một câu chuyện khác so với loài máu nóng. Họ nói rằng, Matthew Roydon vĩ đại và kinh khủng, kẻ thù của phù thủy, đang bất chấp ý nguyện của Đại Hội Đồng và cứu kẻ bị kết tội kia.”

Các ngón tay Matthew dừng khựng lại trên các trang báo. “Cha không nên tin mọi điều nghe được, Stephen. Người London thích ngồi lê tán dóc.”

“Vì hai kẻ giả mạo quyền lực, các con chắc chắn đang khuấy đảo một thế giới rắc rối và rắc rối đó sẽ không dừng lại ở đây. Nó cũng sẽ bám theo các con về nhà nữa.”

“Thứ duy nhất sẽ đi theo chúng con về nhà từ năm 1591 là Ashmole 782,” tôi nói.

“Con không thể mang cuốn sách theo.” Cha tôi nhấn giọng. “Nó thuộc về nơi đây. Con đã làm thời gian bện xoắn lại đủ rồi, cứ ở đây chừng nào con cần.”

“Chúng con đã rất cẩn thận, cha ạ.” Tôi đau nhói vì lời chỉ trích của cha.

“Cẩn thận ư? Con đã ở đây bảy tháng rồi. Con đã mang thai một đứa bé. Chuyến đi lâu nhất ta từng trải qua trong quá khứ là hai tuần lễ. Hai đứa không phải là người du hành thời gian nữa. Các con đã không chống đỡ nổi một trong những vi phạm cơ bản nhất của lĩnh vực nhân loại học: Các con đã thành người bản địa.”

“Con đã ở đây từ trước đó rồi, Stephen,” Matthew ôn tồn nói, mặc dù các ngón tay anh gõ liên tục lên bắp đùi. Đó chưa bao giờ là một dấu hiệu tốt.

“Ta ý thức được điều đó, Matthew,” cha tôi bắn trả. “Nhưng cậu đã đi quá xa cùng quá nhiều nhân tố khả biến khiến cho quá khứ không còn y nguyên như lúc ban đầu nữa.”

“Quá khứ đã thay đổi chúng con,” tôi nói, không dám đối diện với cái nhìn chằm chằm giận dữ của cha. “Cũng có lý do khiến chúng con thay đổi nó.”

“Và điều đó không vấn đề gì ư? Việc du hành thời gian là một công việc nghiêm túc đấy Diana. Dù chỉ là một chuyến viếng thăm ngắn ngủi đi nữa, con cũng cần có kế hoạch – bao gồm việc để lại phía sau mọi thứ con đã tìm thấy.”

Tôi nhấp nhổm cựa mình trên ghế. “Chúng con không định ở đây lâu đến thế. Việc này dẫn tới việc kia, và giờ…”

“Giờ thì các con sắp sửa để lại một đống hỗn độn. Con cũng có thể sẽ phát hiện thấy đống lộn xộn đó khi quay về nhà.” Cha nhìn chúng tôi bằng một cái nhìn u ám.

“Con hiểu rồi cha. Chúng con đã xử lý tình huống rất kém.”

“Đúng thế đấy,” ông nhẹ nhàng nói. “Có lẽ các con muốn suy nghĩ về việc đó trong khi ta đến quán Mũ Hồng Y Giáo Chủ. Cái người tự giới thiệu mình là Gallowglass lúc ở dưới sân nói rằng anh ta là họ hàng của Matthew và hứa giúp cha gặp Shakespeare, trong khi chính con gái lại từ chối giúp.” Cha bẹo má tôi. Có sự thất vọng trong đó, cũng đồng thời là sự tha thứ nữa. “Đừng thức đợi cha nhé.”

Matthew và tôi ngồi lại trong im lặng khi tiếng bước chân cha nhỏ dần rồi tắt hẳn. Tôi hít vào một hơi run rẩy.

“Có phải chúng ta đã xử lý tình huống rất kém không Matthew?” Tôi nhìn lại những tháng ngày vừa qua: gặp Philippe, phá vỡ sự phòng thủ của Matthew, quen biết Goody Alsop và các phù thủy khác, phát hiện ra tôi là một thợ dệt, làm bạn với Mary và các quý bà ở Malá Strana, đón nhận Jack và Annie vào ngôi nhà và vào trái tim của chúng tôi, phục hồi Ashmole 782, và đúng rồi, hoài thai một đứa bé. Bàn tay tôi thả trên bụng che chở. Nếu được lựa chọn, tôi sẽ không thay đổi chuyện gì cả.

“Rất khó để biết được, mon coeur,” Matthew ủ ê nói. “Thời gian sẽ trả lời tất cả.”

***

“Con nghĩ chúng con có thể gặp Goody Alsop, bà ấy sẽ giúp con làm câu thần chú để trở về tương lai.” Tôi đứng trước cha mình cùng chiếc hộp thần chú siết chặt trong hai bàn tay. Tôi vẫn thấy căng thẳng khi ở gần ông sau bài thuyết giáo ông dành cho Matthew và tôi tối hôm qua.

“Đó là vấn đề thời gian,” cha tôi nói, với lấy cái áo khoác. Ông vẫn mặc kiểu đàn ông hiện đại, cởi nó ra khi ở trong nhà và xắn tay áo sơ mi lên. “Cha không nghĩ có bất kỳ lời gợi ý nào giúp được con. Cha không thể đợi thêm nữa để được gặp một thợ dệt lão luyện. Và cuối cùng, con sẽ cho cha xem có gì trong hộp chứ?”

“Nếu cha tò mò về nó thế, tại sao cha không hỏi?”

“Con che che đậy đậy nó cẩn thận bằng màn khói mỏng của con như thế nên cha nghĩ con không muốn ai đề cập đến nó,” ông nói khi chúng tôi đi xuống cầu thang.

Khi chúng tôi đến xứ đạo của St. James Garlickhythe, bóng hồn của Goody Alsop ra mở cửa.

“Vào đi, vào đi,” bà nói, ra hiệu cho chúng tôi tiến tới chỗ ngồi của bà bên cạnh bếp lò. Hai mắt bà sáng rỡ đầy phấn khích. “Chúng ta đang đợi các vị đây.”

Toàn bộ hội phù thủy đều ở đây và đang ngồi trên mép ghế.

“Goody Alsop, đây là cha cháu, Stephen Proctor.”

“Thợ dệt.” Goody Alsop rạng rỡ nói với vẻ thỏa mãn. “Ông là một thợ dệt mang tính nước, giống như con gái ông.” Cha tôi hơi khom người như ông vẫn thường làm thế, quan sát mọi người và nói ít nhất có thể trong khi tôi làm thủ tục giới thiệu. Tất cả đám phụ nữ đều cười và gật đầu đáp lại, mặc dù Catherine phải lặp lại mọi điều với Elizabeth Jackson vì trọng âm của cha tôi lạ lùng quá.

“Ông không phiền chia sẻ cho chúng tôi biết tên sinh vật của ông chứ?” Goody Alsop nhìn chằm chằm vào vai cha tôi, nơi có thể nhìn thấy đường nét mờ mờ của một con diệc. Tôi chưa bao giờ nhận thấy nó trước đây.

“Bà có thể nhìn thấy Bennu ư?” Cha tôi ngạc nhiên nói.

“Dĩ nhiên rồi. anh chàng đậu ở đó, dang rộng cánh, ngang qua hai vai ông. Tinh linh thiết thân của tôi không có cánh, mặc dù tôi có mối liên hệ mạnh mẽ với không khí. Tôi ngờ là vì đó mà dễ thuần hóa cô ta hơn. Tên cô ta là Ella và rất khó huấn luyện.”

Bóng hồn của Goody Alsop lướt quanh cha tôi, khe khẽ ngâm nga với con chim khi bắt đầu nhìn rõ nó hơn.

“Có lẽ Bennu của ông có thể dỗ được nàng rồng lửa của Diana bỏ đi tên đó đấy. Tôi nghĩ, như thế sẽ giúp con gái ông trở về thời đại của cô ấy dễ dàng hơn. Chúng tôi không muốn có bất kỳ dấu vết nào từ vật thiết thân của cô ấy để lại nơi này vì nó sẽ kéo Diana trở lại London.”

“Ái chà.” Cha tôi đang đấu tranh để tiếp nhận tất cả chuyện này – nhóm hội của các phù thủy, bóng hồn của Goody Alsop và thực tế là các bí mật của ông đang bị phô bày ra.

“Ai cơ?” Elizabeth Jackson lịch sự hỏi, cho rằng mình đã hiểu nhầm.

Cha tôi hơi ngả người ra sau quan sát Elizabeth cẩn thận. “Chúng ta đã gặp nhau chưa nhỉ?”

“Chưa, đó là ông nhận ra nước trong huyết mạch của tôi đấy. Chúng tôi thật vui vì có ông ở đây, ông Proctor. Chưa khi nào lại có ba thợ dệt cùng lúc ở London thế này. Thành phố này thật ồn ào.”

Goody Alsop ra hiệu về chiếc ghế bên cạnh bà. “Ngồi xuống đi nào.”

Cha tôi nhận lấy vị trí vinh dự đó. “không có ai ở nhà biết về công việc thợ dệt này cả.”

“Ngay cả mẹ con cũng không ư?” Tôi thở hắt ra. “Cha, cha phải nói cho mẹ biết.”

“Ồ, bà ấy biết nhưng cha không kể mà cho mẹ con xem.” Các ngón tay cha tôi gập lại rồi thả ra theo bản năng thể hiện một mệnh lệnh.

Thế giới được thắp sáng trong những cái bóng màu xanh lục, xám, tím oải hương và xanh lá khi ông kéo tất cả những sợi tơ mang tính nước ẩn giấu trong căn phòng: những cành liễu trong một cái bình cạnh cửa sổ, giá nến bạc mà Goody Alsop dùng cho các câu thần chú của bà và con cá đang đợi để nướng lên cho bữa tối. Mọi người và mọi vật trong căn phòng đều bị phủ trong những sắc màu của nước. Bennu bay lên, đôi cánh nhọn màu bạc của nó khuấy động không khí tạo thành những đợt sóng. Bóng hồn của Goody Alsop bị thổi bay hết bên này sang bên kia theo dòng nước, hình dáng của cô ta thay đổi thành một bông hoa bách hợp cuống dài, rồi trở về hình dạng con người và mọc ra những cái cánh. Hai tinh linh thiết thân như thể đang chơi đùa cùng nhau. Trước cảnh giải lao ấy, nàng rồng lửa cũng vẫy đuôi và đập đập hai cánh vào xương sườn tôi.

“không phải bây giờ,” tôi nghiêm khắc bảo cô nàng, tay nắm chặt lấy thân áo phía trên. Điều cuối cùng chúng tôi cần là một con rồng lửa nhảy cẫng lên vì vui sướng. Khả năng kiểm soát của tôi trong quá khứ có thể sơ suất, nhưng tôi biết rõ hơn hết việc thả một con rồng vào London thời đại Elizabeth là thế nào.

“Để cô bé ra đi, Diana,” cha tôi thúc giục. “Ben sẽ trông nom cô bé.”

Nhưng tôi không thể để mình làm thế. Cha tôi gọi Bennu, nó đã nhạt dần đi trên vai ông. Phép thuật nước xung quanh tôi cũng nhạt dần đi.

“Tại sao con lại e sợ?” Cha tôi lặng lẽ hỏi.

“Con sợ bởi vì cái này!” Tôi phất các sợi thừng của tôi trong không khí. “Và cái này nữa!” Tôi đập vào xương sườn mình, hích vào rồng lửa. cô nàng phun lửa đáp lại. Tôi trượt bàn tay xuống nơi bé con của chúng tôi đang lớn lên. “Và đây nữa, có quá nhiều. Con không cần dùng đến phép thuật mạnh mẽ phô trương như cách cha vừa làm. Con hạnh phúc vì là chính mình.”

“Con có thể dệt các câu thần chú, ra lệnh cho rồng lửa, uốn cong các quy luật thống trị sự sống và cái chết. Con cũng không ổn định, dễ thay đổi như bản thân sự sáng tạo, Diana ạ. Những thứ này là quyền năng mà bất cứ phù thủy có tự tôn nào cũng sẽ giết người vì nó.”

Tôi kinh hãi nhìn ông. Ông đã mang đến một thứ mà tôi không thể đối mặt trong căn phòng này: Những phù thủy đã giết người vì thứ sức mạnh này. Họ cũng đã giết cha và mẹ tôi.

“Việc đặt phép thuật của con nằm gọn gàng trong những chiếc hộp nhỏ và giữ nó tách biệt hẳn với thuật phù thủy sẽ không giúp cho mẹ con và ta thoát khỏi số mệnh được đâu,” cha tôi tiếp tục buồn bã nói.

“Đó không phải điều con đang cố gắng làm.”

“thật sao?” Lông mày ông nhướng lên. “Con muốn thử lần nữa không, Diana?”

“Dì Sarah nói, phép thuật mạnh và thuật phù thủy là thứ hoàn toàn tách biệt. Dì nói…”

“Quên những gì Sarah nói đi!” Cha nắm lấy hai vai tôi. “Con không phải là Sarah cũng như không giống bất cứ phù thủy nào từng sống. Con không phải lựa chọn giữa các câu thần chú và sức mạnh ở ngay trên đầu ngón tay mình. Chúng ta là thợ dệt, đúng không?”

Tôi gật đầu.

“Vậy thì hãy nghĩ phép thuật mạnh mẽ như chiếc khung dệt – những sợi tơ khỏe mạnh làm nên thế giới – và nghĩ đến các câu thần chú như những sợi ngang – đều là một phần của tấm thảm dệt. Tất cả là một hệ thống lớn, con yêu ạ. Con có thể nắm bắt nó, nếu con gạt đi nỗi sợ hãi của mình.”

Tôi có thể nhìn thấy các khả năng phát sáng quanh mình trong những tấm lưới màu sắc và bóng tối, nhưng nỗi sợ vẫn còn.

“Đợi đã. Con có một mối liên kết với lửa, giống mẹ. Chúng ta không biết nước và lửa sẽ phản ứng như thế nào, con chưa học những bài đó.” Tôi nghĩ, bởi Praha, bởi chúng tôi còn bận săn lùng Ashmole 782 và quên mất chuyện tập trung vào tương lai và việc quay trở về đó.

“Vậy con là cầu thủ đánh bóng bằng cả hai tay – vũ khí bí mật của phù thủy đây chăng.” Ông cười vang.

“Chuyện này nghiêm túc mà cha.”

“không cần phải thế.” Cha tôi để câu nói đó lắng xuống, rồi bắt lấy một đầu sợi tơ màu xám và xanh lá.

“Cha đang làm gì đấy?” Tôi hoài nghi hỏi.

“Quan sát đi,” ông đáp trong tiếng rì rầm như những con sóng xô vào bờ cát. Ông kéo ngón tay về phía mình và mím chặt môi như thể đang cố giữ một phép thổi bóng vô hình. Khi ông thổi ra, một quả bóng nước thành hình. Ông búng ngón tay về phía cái xô nước gần lò sưởi, quả bóng chuyển thành đá, bồng bềnh trên không và rơi vào cái xô đánh bõm một cái. “Mắt bò.”

Elizabeth cười khúc khích, thả một dòng bong bóng nước vào không khí, mỗi trái bóng nhả ra một trận mưa nước bé xíu.

“Con không thích những thứ không biết rõ, Diana, nhưng đôi khi con phải nắm lấy nó. Con đã sợ hãi khi lần đầu tiên cha đặt con lên chiếc xe đạp ba bánh và con đã ném những khối đồ chơi vào tường khi không thể xếp tất cả chúng trở lại vào hộp. Chúng ta đã trải qua những cuộc khủng hoảng đó. Cha chắc chắn chúng ta có thể giải quyết chuyện này.” Cha tôi chìa tay ra.

“Nhưng nó quá…”

“Hỗn loạn? Đời là thế mà. Hãy thôi cố gắng hoàn hảo đi. Hãy thử thực sự thay đổi.” Cánh tay cha tôi quét qua không khí, làm lộ ra tất cả các sợi tơ bình thường vẫn ẩn đi không nhìn thấy. “Cả thế giới trong căn phòng này. Hãy tận dụng thời gian và tìm hiểu nó đi.”

Tôi quan sát kỹ các kiểu mẫu và thấy những luồng màu sắc xung quanh các phù thủy biểu lộ sức mạnh cụ thể của họ. Các sợi tơ lửa và nước vây xung quanh tôi trong một mớ hỗn độn những sắc màu tương phản. Cơn hoảng sợ của tôi quay trở lại.

“Hãy gọi lửa đi,” cha tôi nói, đơn giản như thể đó là chuyện đặt một cái bánh pizza. Sau một thoáng do dự, tôi ngoắc ngón tay và ước lửa đến với tôi. một sợi tơ màu đỏ cam mắc trên đầu ngón tay. Khi tôi thở ra một hơi qua bờ môi mím chặt, hàng tá bong bóng ánh sáng và hơi nóng nhỏ li ti bay vào không khí như những con đom đóm.

“Dễ thương quá, Diana!” Catherine vỗ tay kêu lên.

Giữa tiếng vỗ tay và ánh lửa, nàng rồng lửa của tôi muốn được thả ra. Bennu kêu lên từ trên vai bố tôi và rồng lửa đáp lại. “không,” tôi nói, nghiến chặt răng.

“Đừng có phá bĩnh như thế. cô nàng là một con rồng – không phải cá vàng. Tại sao con luôn cố giả vờ phép thuật là bình thường nhỉ? Hãy để cô nàng bay đi!”

Tôi thả lỏng người, xương sườn mềm đi, xương sống của tôi mở ra như những trang giấy của một cuốn sách. Rồng lửa của tôi thoát ra khỏi sự kìm hãm ngay khi có cơ hội đầu tiên, đập đập đôi cánh trong khi biến hóa từ màu xám mờ nhạt thành ngũ sắc lấp lánh tỏa sáng. Cái đuôi của nó xoắn cong thành một cái nút thắt lỏng và lượn vòng quanh phòng. Rồng lửa bắt những trái bóng ánh sáng nhỏ xíu bằng răng rồi nuốt chúng như ăn kẹo. Sau đó, cô nàng chuyển sự chú ý sang những quả bong bóng nước của cha tôi, như thể chúng là thứ sâm-panh ngon lành. Khi đã chơi đủ rồi, cô nàng vỗ cánh lơ lửng trong không trung trước mặt tôi, cái đuôi đập đập xuống sàn nhà và nghiêng đầu chờ đợi.

“cô bé là gì thế này?” Tôi tự hỏi, làm thế nào nó có thể xoay sở để hấp thụ được tất cả những sức mạnh trái ngược của nước và lửa.

“Là cô, nhưng không phải cô.” Rồng lửa chớp chớp đôi mắt như thủy tinh trong suốt quan sát tôi. một trái bóng năng lượng xoáy tròn thăng bằng ở cuối cái đuôi có hình răng cưa của nó. Rồng lửa vẩy đuôi hất quả bóng vào hai bàn tay tôi. Nó trông giống trái cầu tôi đã tặng Matthew ở Madision.

“Tên cô bé là gì?” Tôi thì thầm hỏi.

“cô có thể gọi tôi là Corra,” cô nàng nói bằng một thứ ngôn ngữ của khói và sương mù. Corra lúc lắc cái đầu chào tạm biệt, tan dần thành một cái bóng xám và biến mất.

Sức nặng của cô nàng uỵch một cái lại vào trong người tôi, hai cánh khum vòng quanh lưng tôi, và chỉ còn sự tĩnh lặng. Tôi hít vào một hơi thật sâu.

“thật tuyệt vời, con yêu.” Cha tôi ôm siết lấy tôi thật chặt. “Con đã suy nghĩ như lửa. Cảm thông và chia sẻ là bí mật của vạn vật trong cuộc sống này – bao gồm cả phép thuật trong đó. Hãy nhìn xem, giờ những sợi tơ mới sáng làm sao!”

Thế giới xung quanh chúng tôi sáng lấp lánh hơn bao giờ hết. Trong các góc phòng, màn dệt màu chàm và hổ phách cũng đang sáng dần lên đều đều, cảnh báo rằng thời gian đang ngày một gấp gáp rồi.

Bình luận