Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Mật mã Tây Tạng – tập 2

Chương 10: Lọt Vào Bộ Lạc Nguyên Thủy Người Kukuer

Tác giả: Hà Mã

Trận chiến vừa bắt đầu đã lệch hẳn về một phía. Những cư dân của rừng già như cá trong nước, thân hình còn linh hoạt nhanh nhẹn hơn cả loài khỉ vượn, nhảy lên nhảy xuống giữa các tán cây như đi trên đất bằng, hơn nữa người nào cũng là tay cung thần, hễ có mũi tên nào bắn ra, không cần biết từ hướng nào, là ắt có một tên buôn ma túy ngã xuống. Mặc dù vết thương không chí mạng, song chất độc trên đầu mũi tên lại là chí mạng, bọn buôn ma túy ngã xuống thường chỉ kêu lên vài tiếng thảm thiết, rồi lặng lẽ nằm đó luôn.

Bất ngờ thoát nạn

“Hắc hắc hắc,” Gonzales cười gằn lạnh lẽo, “Xem ra lúc chúng mày quần nhau với Basinas bị thương cũng không nhẹ đâu nhỉ, sao hả? Cả đạn cũng hết rồi à? Sao không nổ súng bắn trả đi?” Con cáo già chốn rừng sâu này quả nhiên chỉ nhìn thoáng qua đã hiểu rõ tình thế trước mắt, vừa mở miệng ra đã dùng tiếng Anh nói chuyện với người trong vòng vây. Trương Lập và Nhạc Dương không thể nổ súng phản kích hiểu tượng trưng, trong rừng thấp thoáng bóng người, kẻ địch đã từ bốn phương tám hướng dần vây tới.

Hỏa lực mạnh áp chế, đồng thời đòn tấn công tâm lý của Gonzales cũng không hề dừng lại, hắn tiếp tục nói: “Bọn mày tới đây làm gì, mục đích của chúng mày, bọn tao đều biết rất rõ, muốn cướp đoạt của cải trên đất của người khác, đó là một sự lựa chọn hết sức sai lầm. Chúng mày đầu hàng đi, không những tao bảo đảm được chúng mày sẽ an toàn, hơn nữa… chúng ta còn có thể hợp tác, sau khi xong việc tao sẽ hộ tống bọn mày ra khỏi khu vực rừng nguyên sinh này, đồng thời chia cho một phần lớn… hừm, haha, thế nào hả, có hứng thú không?”

Đây vốn là một điều kiện hết sức hấp dẫn, song bọn Trương Lập nghe vậy lại vô cùng nghi hoặc. “Ý gì đây? Thằng cha này rốt cuộc đang nói cái khỉ gì vậy?” Trương Lập và Nhạc Dương, anh nhìn tôi, tôi nhìn anh, cả Ba Tang đang dựa người vào thân cây cũng không nói gì.

Gonzales thấy người bên trong không phản ứng gì, lại bổ sung thêm: “Đừng giãy giụa vô ích nữa, chỉ dựa vào mấy người chúng mày, cũng chẳng có năng lực mà nuốt trọn món lớn như vậy đâu. Phải biết là, người nào…” Trong rừng chợt có biến cố, một mũi tên lao vút qua khoảng không, đồng thời một tên buôn ma túy phụ trách canh phòng trên cao “hự” lên một tiếng rồi ngã xuống như bao cát.

“Cái quái gì vậy?” Bọn buôn ma túy tức khắc trở nên rối loạn, một tên thuộc hạ báo cáo: “Người Kukuer!” Gonzales kinh hoàng: “Cái gì? Người Kukuer! Chỗ này không phải phạm vi hoạt động của chúng, tại sao chúng lại đến đây chứ?”

Nhất thời, trong rừng, trên tán cây, chỗ đất trũng, đâu đâu cũng thấy bóng lông chim đung đưa lay động. Gonzales không thể tiếp tục cất lời uy hiếp, mà chuyển sang dùng tiếng Quechua nói: “Là ai? Nanh Sắc hay San thế? Chúng tôi là thuộc hạ của ngài Balang, ngài Balang và các người đã ký điều ước không xâm phạm lẫn nhau cơ mà, sao các người lại tấn công chúng tôi?”

Trong rừng vang lên tiếng đáp lại: “Basaka, ở Putumayo, ngươi và người của ngươi làm thủ lĩnh Nanh Sắc của chúng ta bị thương, chúng ta bắt người nợ máu trả máu!”

Gonzales hằn học trợn mắt lên nhìn kẻ tên là Basaka đứng bên cạnh, gã cao to ấy ủ rũ cuối đầu trước ánh mắt sắc như chim ưng của y, yếu ớt giải thích: “Không, không phải bọn tôi làm đâu, là một ông lão thổi rắn thả rắn cắn bị thương hắn ta mà, chúng tôi đâu biết hắn là Nanh Sắc, sớm biết thì đã…”

“Câm miệng!” Gonzales quát thuuộc hạ, sau đó gào lên với người trong rừng: “Hiểu lầm! Đó chỉ là hiểu lầm thôi! Chúng tôi biểu lộ lòng cảm thương sâu sắc và vô cùng xin lỗi thủ lĩnh Nanh Sắc, mong rằng anh ấy đã hồi phục trở lại, thần rừng sẽ bảo vệ anh ấy. Mấy hôm nữa ngài Balang nhất định sẽ đích thân đến tận nơi xin lỗi.”

Trong rừng không có tiếng đáp lại, mà chỉ có tiếng gầm như của loài dã thú, biểu thị quyết tâm báo thù cho thủ lĩnh của bọn họ. Basaka căng thẳng nói: “Xem ra tên của ngài Balang không dọa nổi chúng rồi, có cần nói tên của nhân vật lớn kia ra không?”

“Rắm chó!” Cái tát của Gonzales làm Basaka chảy cả máu miệng, “Bọn dã nhân này mà nổi cơn điên lên thì hiệp ước điều ước gì cũng là rắm chó hết. Bảo các anh em cẩn thận, ở trong rừng bọn này không khác bóng ma là mấy đâu.”

Lại một mũi tên nữa không biết từ đâu bay tới, một tên buôn lậu khác lại ngã xuống. Gonzales bừng bừng nổi giận: “Bắn mạnh vào cho tao, đừng tưởng người của tao chỉ biết ăn chay thôi nhé.”

Trận chiến vừa bắt đầu đã lệch hẳn về một phía. Những cư dân của rừng già như cá trong nước, thân hình còn linh hoạt nhanh nhẹn hơn loài khỉ vượn, nhảy lên nhảy xuống giữa các tán cây như đi trên đất bằng, hơn nữa người nào cũng là tay cung thần, hễ có mũi tên nào bắn ra, không cần biết từ hướng nào, là ắt có một tên buôn ma túy ngã xuống. Mặc dù vết thương không chí mạng, song chất độc trên đầu mũi tên lại là chí mạng, bọn buôn ma túy ngã xuống thường chỉ kêu lên vài tiếng thảm thiết, rồi lặng lẽ nằm đó luôn. Còn hỏa lực của bọn buôn ma túy lại bị các thân cây cao lớn chặn lại, mất hết cả uy phong thuở trước, toàn là bắn bừa bắn bãi làm cành cây lá cây rơi lả tả, nhưng lại chẳng thấy bóng người đâu. Tên không ngừng bay tới, còn cả đá, phi tiêu, boomerang, giáo mác, những vũ khí từ thời viễn cổ này không ngờ lại khiến cả đám người hiện đại trang bị vũ khí tới tận răng phải ôm đầu chạy trối chết, thảm hại vô cùng. Gonzales thấy tình hình không ổn, đành phải hạ lệnh: “Rút lui, rút lui, tập trung lại, đột phá vòng vây ở phía Nam.”

“Soạt…” một chiếc boomerang bằng xương lướt qua mặt Gonzales, tới nửa chừng không lại quay ngược trở về, rạch một vết máu me đầm đìa trên cái bụng béo của hắn. Gonzales cuống cuồng sợ hãi, vừa chạy như bay vừa hét lớn: “Yểm hộ cho tao, con bà nó, bọn mày chạy đâu hết cả rồi!”

Biến hóa liên tục diễn ra, làm người ta không kịp suy nghĩ. Trương Lập, Nhạc Dương và Ba Tang ở trung tâm vòng vây, song không ai có vẻ gì là bị tấn công. Đặc biệt là Trương Lập và Nhạc Dương, bọn họ không biết Trác Mộc Cường Ba và người Kukuer đã quen biết nhau từ trước, có cảm giác cứ như trời giáng thiên binh, kỳ tích xảy ra vậy. Các chiến sĩ thổ dân cũng không truy kích quá xa, đánh lui kẻ địch liền tự động rút lui. Trong rừng lại cất lên một giọng nói dễ nghe, hệt như thần nữ của rừng già đang triệu gọi: “Nhanh lên, theo chúng tôi. Nhân lúc máy bay trực thăng của chúng còn chưa đến, mau rời khỏi nơi này.” Bốn năm thổ dân mặt vẽ totem vằn vện, đầu đội trang sức lông chim, tay cầm vũ khí nguyên thủy chạy đến trước mặt bốn người.

Trương Lập và Nhạc Dương còn sợ hãi hơn cả lúc nãy, có trời mới biết được đám người này muốn làm gì! Dù giọng nữ kia nghe có vẻ không ác ý gì, nhưng Trác Mộc Cường Ba vẫn còn hôn mê nằm dưới đất, Ba Tang thì nghiến răng đau đớn, hai bọn họ không thể tự quyết định được. Cũng may Ba Tang vẫn còn tỉnh táo, anh ta ra lệnh: “Đi theo họ.” Lúc này đã có hai thổ dân lực lưỡng nhấc Trác Mộc Cường Ba, chạy như bay vào sâu trong rừng, lại có thêm hai người nữa đỡ Ba Tang chạy sát theo sau, Trương Lập và Nhạc Dương đành phải co chân đuổi theo.

Gonzales dẫn theo đám thuộc hạ hỗn loạn băng qua khu rừng, cuối cùng cũng coi như thoát khỏi sự truy đuổi của người Kukuer. Bọn chúng tôi đến chỗ người Basinas ngã xuống, nhìn từng cỗ thi thể đã sưng vù lên, hoàn toàn không còn nhận dạng, tên Cú Độc nổi tiếng máu lạnh này cũng không khỏi kinh hồn bạt vía, thở hắt ra một hơi. Mỗi cổ thi thể đều vặn vẹo theo những tư thế kỳ quái khác nhau, cơ thịt co rút cứng đờ, tư thế ấy như muốn bảo với những người khác rằng, bọn chúng bị cái đau cực kỳ khủng khiếp giày vò đến chết. Có thi thể còn tự lột cả da mình ra, chẳng còn đâu mặt mũi, gan ruột nát nhừ lòi cả ra ngoài; có người thì nổ súng tự sát, còn có người nghiến đến vỡ cả răng. Trước đó rốt cuộc là có thứ gì? Cảnh tượng kinh hoàng trước mắt làm cả đám người không làm còn dám tiếp tục chạy về hướng này nữa. Những nốt sưng vù trên thi thể, những tư thế chết kỳ quái này, rốt cuộc là do thứ gì gây nên? Gonzales lấy nòng súng lật một xác chết lên, trong lỗ mũi kẻ ấy liền có một con ong vàng vằn đen bò ra, hắn lập tức hiểu ra: “Ong sát nhân! Bọn chúng sao lại đụng tới ong sát nhân cơ chứ! Đúng là đáng chết. Không biết trong rừng có còn nữa hay không? Nhìn xác của đám người này, số lượng đàn ong sát nhân kia hẳn phải khủng khiếp lắm. Hừ, lại để bốn tên người Trung Quốc đó chạy mất rồi, tao ra đời bao nhiêu năm nay, còn chưa đen đủi như vậy bao giờ! Basaka, mày chết chưa? Chưa chết thì cút ra đây cho tao! Mày là thằng ngu xuẩn, lại đụng cả bọn Kukuer ấy làm gì! Chẳng lẽ mày không biết! Bọn ta muốn băng qua rừng già, không quan hệ tốt với bọn Kukuer là không xong hay sao! Con bà nó, bây giờ bọn chúng lọt vào tay người Kukuer rồi, muốn đưa người đi khó lắm đấy!”

Basaka hoảng hốt nói: “Vâng, vâng, tại tôi nhất thời sơ ý, tôi, tôi biết lỗi rồi.”

Gonzales chửi bới: “Biết lỗi thì được cái cứt gì, mày phải nghĩ cách bắt người về cho tao!”

Basaka gật đầu lia lịa, nhưng trong đầu hắn cũng biết, muốn đoạt người từ tay bộ lạc Kukuer về, vậy chẳng phải là đùa với Tử thần hay sao? Hắn còn chưa ngu tới mức ấy. Basaka nói: “Nhưng tôi chưa hiểu, đội trưởng, vừa rồi rõ ràng là có cơ hội bắn chết mấy tên đó, tại sao…”

Gonzales nói: “Mày thì hiểu cái gì. Tướng Kulu đã chỉ rõ là phải giữ lại mấy tên ngươi Trung Quốc đó.” Hắn đảo mắt nhìn quanh, rồi thấp giọng thì thầm vào tai tên thủ hạ tâm phúc: “Nghe nói, bọn chúng biết lối vào Thành phố Vàng.” “A!” Basaka giật mình kêu lên một tiếng, kích động đến nỗi mồ hôi chảy ròng ròng. Thành phố Vàng! Từ thế kỷ mười sáu, khi thực dân Tây Ban Nha đặt chân lên mảnh đất này, Thành phố Vàng được coi là kho báu vĩ đại nhất của đế quốc Inca cổ đại, mấy trăm năm nay đã có biết bao người vì tìm kiếm bí mật của Thành phố Vàng mà tiến vào rừng già nguyên sinh, người trước ngã xuống, người sau tiến lên, mãi đến giờ vẫn chưa chấm dứt. Gonzales nói: “Nếu không tại sao mấy phân đội chúng ta đều tranh nhau hành động như thế? Hy sinh vài thằng, có đáng để chúng ta huy động nhân lực đến thế không.” Nói đến đây, Gonzales cũng ngẩn người ra: “Thằng cha Merkin bảo chúng ta cầm chân mấy tên đó, lẽ nào hắn đã biết trước, hơn nữa cả hắn cũng biết nơi ấy ở đâu rồi? Hà, nếu vậy thì, chẳng phải là…”

Gonzales lấy lại bình tĩnh trước, hắn vỗ vỗ lên vai tên thuộc hạ đang ngẩn người ra vì hưng phấn, nghĩ ngợi giây lát, rồi đưa ra chủ ý: “Mặc dù lãnh địa người Kukuer cực kỳ nguy hiểm, nhưng bọn chúng cũng không thể ở đó cả đời được, thế nào cũng phải ra thôi, tới lúc ấy, chúng ta sẽ làm thế này… thế này…”

Gonzales không hề hay biết, cuộc đối thoại của hắn và Basaka, tất cả đều đã bị Soares đang nấp gần đó thu dọn chiến trường nghe hết từng chữ một, khi nghe đến đoạn Thành phố Vàng, tay y khẽ giật mình, suýt chút nữa thì để con ong chúa trong lọ thủy tinh bay đi mất. Y lấy làm khó hiểu, thầm nhủ: “Sao lại thế được, ai chơi trò này nhỉ? Merkin? Không thể nào, trò đùa này không hề có lợi gì cho hắn ta cả. Tin tức của chúng ta có vấn đề gì? Cũng không thể nào, chuyện này không hợp lý chút nào. Nhưng mà, đám quân du kích và bọn buôn ma túy đang bắt tay hành động với quy mô lớn như vậy, giao tình của Merkin và tên béo Gonzales kia tuyệt đối không thể làm tới mức này được, ngoài nguyên nhân kia ra, nhìn như cũng không còn lý do nào khác nữa rồi.” Soares không thể đoán định tính chân thực của đoạn đối thoại này, song y hiểu rõ, đám người Trác Mộc Cường Ba căn bản còn không biết cái gì gọi là Thành phố Vàng nữa.

“Tối quá, khắp nơi đều là bóng tối mù mịt. Ta đang ở đâu? Địa ngục ư? Nghĩ lại xem nào, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Hình như chúng ta bị tập kích, là cái gì, cái gì đang kêu ong ong kia! Trời ơi! Ong sát nhân, chính là chúng, là bọn chúng! Lại đến nữa rồi!” Trác Mộc Cường Ba mở trừng hai mắt, định nhúc nhích thân thể một chút, chỉ thấy xương cốt toàn thân đau đớn như bị nghiến nát, sau mấy lần đứng dậy thất bại, gã đành bỏ cuộc. Trác Mộc Cường Ba nhìn chăm chăm lên trần nhà, lấy làm kỳ quái trước hoàn cảnh hiện tại của mình, trần nhà lợp bằng lá cọ và cành cây tươi, công nghệ thô sơ, bốn vách tường đều gỗ ván, trên tường treo vài đầu thú và da hươu, không có cửa, chỉ có một tấm rèm cửa hình như kết bằng cỏ tranh. Không khí nóng như thiêu đốt và tiếng chim hót nghe đã quen thuộc kia nhắc nhở gã, lúc này gã vẫn còn trong rừng rậm nhiệt đới. Thế nhưng, đây là nơi nào?

“A, anh tỉnh rồi! Đã ngủ trọn một ngày hai đêm rồi.” Giọng tiếng Anh sao quen thuộc quá vậy, Trác Mộc Cường Ba khó khăn quay đầu lại, ngước nhìn về phía tấm rèm cửa, đồng thời nói: “Baba…” Chữ “tou” còn chưa thốt ra, gã đã trợn mắt há hốc miệng ra.

Babatou lúc này, đã không còn là cô gái ăn mặc theo kiểu văn minh ở Putumayo nữa, mà là một cô thiếu nữ thổ dân Anh điêng chính gốc. Mái tóc xanh thắt thành hai cái đuôi sam thả xuống hai vai, ngoài ra không còn bất cứ trang sức gì nữa, chẳng những thế, mà cả nửa thân trên cũng đều… đều không có bất cứ thứ gì, trên người chỉ có mỗi chiếc váy ngắn. Nước da khỏe mạnh màu vàng cam, toát lên vẻ quyến rũ đầy nữ tính phơi bày trước mắt Trác Mộc Cường Ba theo cách nguyên thủy nhất, dù đã trải qua nhiều thương hải tang điền, Trác Mộc Cường Ba vẫn không khỏi chấn động, nhất thời không nói được tiếng nào nữa.

Babatou tự nhiên cũng nhìn thấy ánh mắt rực lửa trợn trừng trừng lên của Trác Mộc Cường Ba, nét mặt không tránh khỏi thoáng hiện sắc hồng, có điều chỉ thoáng chốc cô đã trấn tĩnh lại, không có vẻ gì là xấu hổ nữa. Trên người Babatou vẽ đủ các loại hình xăm, trên hai cánh tay là một hình tương tự như hình rồng cuộn giản hóa trên lỗ châu mai Vạn Lý Trường Thành, từ eo đến bụng hình như vẽ một cánh cửa bên trong có thần minh, đến cả, đến cả, hai bầu vú cũng vẽ hình giống như nụ hoa vậy. Trác Mộc Cưởng Ba thầm tự mắng: đáng chết, tại sao lại nhìn kỹ thế chứ, hình như đây không phải là vấn đề mày cần quan tâm lúc này. Bình tĩnh, bình tĩnh, bình tĩnh, đây chỉ là phong tục cổ xưa của người dân vùng này thôi, chẳng có gì đáng kể kinh ngạc cả. Chết thật, sao lại đến gần mình thế, tại sao mình vẫn không cử động được?

Thấy Trác Mộc Cường Ba đỏ bừng mặt lên, mồ hôi ướt đẫm cả lưng. Babatou nhoẻn miệng nở một nụ cười tươi, nói: “Không cần kinh ngạc vậy đâu! Tôi vốn là người bộ lạc nguyên thủy mà. Hơn nữa, dù ở các thành phố văn minh, bên Đức bên Pháp, cũng có bãi tắm khỏa thân cơ thể mà, chỉ cần trong lòng ngay thẳng thì chẳng ngại gì đâu. Chẳng lẽ, anh có ý đồ gì không tốt hả?”

Trác Mộc Cường Ba lấy làm lúng túng, đành dứt khoát nhắm luôn mắt lại, tựa hồ như dùng Thiền đạo làm cho lục căn thanh tịnh, chỉ nghe trong phòng vang lên một tràng cười khúc khích như chuông bạc va vào nhau. Một lát sau thì không còn nghe tiếng gì nữa, thấy lỗ mũi ngưa ngứa, hắt xì một cái, Trác Mộc Cường Ba mở to mắt, thấy Babatou đang ngồi xổm bên giường, nhìn thẳng vào mắt mình, tay cầm một chiếc lông vũ sặc sỡ ve vẩy trên mặt gã. Lần này đã có chuẩn bị tâm lý, nên nói chung cũng đỡ hơn phần nào, ít nhất thì cũng đè nén được niềm thôi thúc nguyên thủy trong cơ thể kia, Trác Mộc Cường Ba từ từ tỉnh táo trở lại, cảm kích nói: “Các bạn đã cứu tôi?”

Babatou dẩu môi lên cười cười: “Người cao lớn khỏe mạnh thế này mà gan nhỏ thế. Phải rồi, anh trai tôi nhờ cao chữa rắn của anh nên mới không sao, cả bộ tộc chúng tôi đều rất cảm ơn anh đấy. Về sau nhìn thấy quân du kích và bốn người da vàng bắn nhau trong rừng, bọn tôi đều rất lo lắng, nhưng cũng không biết có phải là các anh không nữa, lần này chúng tôi vào rừng chỉ là để tìm tên Basaka trả thù thôi, không ngờ lại gặp được các anh thật. Lại càng chẳng thể ngờ các anh đụng với bọn ong sát nhân, đáng lẽ ong sát nhân cũng không ghê gớm như vậy đâu, độc của chúng tùy theo thể chất từng người mà khác nhau, thật không may, anh và cái chú nhìn có vẻ hung hăng kia đều có thể chất quá mẫn cảm, nếu không hai người đã không bị nặng thế này rồi.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Xem ra vận may của chúng tôi cũng không tệ nhỉ, không ngờ các bạn ở trong rừng mà thông tin cũng nhanh nhạy thế, phải rồi, có điện thoại di động không?? Tôi muốn liên lạc với thế giới bên ngoài một chút.”

Babatou bật cười khanh khách: “Anh nghĩ rằng chỗ chúng tôi đây có điện thoại di động chắc? Nếu có cái thứ ấy, làm sao còn gọi là bộ lạc nguyên thủy được nữa chứ. Chúng tôi biết là nhờ mấy du khách gặp nạn nói thôi, họ cũng là người châu Á, nên bị quân du kích nhận lầm.”

Tim Trác Mộc Cường Ba như thắt lại, vội vàng hỏi: “Bọn họ đâu rồi? Bọn người ấy như thế nào? Có ai bị thương không?” Nhóm của giáo sư Phương Tân chẳng phải cũng vừa vặn có bốn người hay sao!

Babatou ngạc nhiên nói: “Anh quen họ hả? Chẳng qua chỉ là một nhóm người du lịch tự phát thôi mà, không ai bị thương cả, chỉ là hơi kinh hoàng chút thôi, chúng tôi đã phái người đưa họ đi rồi. Để nhớ xem nào, có một người Nhật Bản, hai người Trung Quốc này, còn một nữa hình như là người Singapore thì phải…” Kế đó lại tả cho Trác Mộc Cường Ba sơ qua tướng mạo bốn người đó, thì ra là bốn người đàn ông, Trác Mộc Cường Ba giờ mới yên tâm, xem ra chắc là thành viên của tổ chức “phượt” kia, chẳng phải là người Anh tên Sean kia đã nói, bọn họ có bốn người bị lạc mất hay sao. Trong lòng gã thầm cầu khấn, chỉ mong nhóm của giáo sư Phương Tân không xảy ra chuyện gì.

Nghĩ đến nhóm giáo sư Phương Tân, Trác Mộc Cường Ba lại hỏi: “Phải rồi, mấy người bạn của tôi đâu?”

Babatou thong thả nói: “Không sao đâu, trong lãnh địa của người Kukuer chúng tôi, dù là quân du kích cũng không tùy tiện tiến vào đâu. Nào, nào…” Vừa nói cô vừa lật tấm chăn giống như dệt bằng vải gai trên người Trác Mộc Cường Ba lên.

Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Cô, cô làm gì vậy?” Babatou nở một nụ cười bí hiểm: “Chữa cho anh chứ còn làm gì, thời gian này, toàn là tôi chữa bệnh cho anh đấy.”

“Cô là bác sĩ hả?” “Không, dùng phương pháp chữa bệnh đặc biệt của người Kukuer chúng tôi, anh hồi phục nhanh lắm.”

Trác Mộc Cường Ba đầu kêu ong ong, nóng bừng lên, thầm nhủ: “Sao lại cười như thế? Cách chữa bệnh của họ, chắc là… không phải cái cách đó chứ?”

Babatou vỗ một cái lên ngực Trác Mộc Cường Ba, gương mặt xinh đẹp làm bộ giận dữ, nhiếc móc: “Anh nghĩ đi tận đâu vậy? Sao mặt còn đỏ hơn cả mông khỉ đuôi xoắn thế?” Kế đó cô lại ra lệnh: “Xoay người qua, nào, một, hai, ba, anh tự dùng sức đi, một hai ba…”

Trác Mộc Cường Ba vất vả lắm mới lật sấp người xuống được, cũng đỡ phái rơi vào tình huống lúng túng như lúc nãy, gã không nên nổi một tiếng “phù” nhẹ nhõm, chỉ thấy những chỗ bị ong đốt trên lưng như bị kim chích, vừa ngứa vừa tê, còn nhoi nhói đau nữa. Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Cô sẽ không chọc thủng những nốt bị ong đốt đó đấy chứ?”

Babaotu lắc đầu: “Không đâu, tôi chỉ rạch những chỗ đã kết sẹo, để máu lại chảy ra thôi. Không làm vậy, thần Yize sẽ không chịu chữa bệnh cho anh đâu.”

Phát âm hết sức quái dị, Trác Mộc Cường Ba nói: “Thần Yize? Là, là cái gì thế?” Lúc này gã đã thấy lưng mình càng lúc càng ngứa hơn, lại còn hơi đau đau như bị vô số con kiến cùng cắn xé vậy.

“A, người Kukuer chúng tôi mà bị con gì cắn, hay mắc phải các chứng bệnh thông thường, đều nhờ thần Yize chữa trị cho cả, chúng là bác sĩ tốt nhất của rừng già này đấy. Anh có muốn xem không?”

“Ừm, ít nhất thì tôi cũng phải cảm ơn bác sĩ đã chữa bệnh cho mình chứ”. Trác Mộc Cường Ba vừa dứt lời. Babatou đã đưa một bình gốm tới trước mặt gã.

“Đây, đây chính là thần Yize sao?” Trong bình gốm quả nhiên là đầy kiến nhung nhúc ra vào, những con kiến đen dài chừng một centimet, tốc độ di chuyển nhanh nhẹn vô cùng. Trác Mộc Cường Ba ngẩn ra trong giây lát, rồi hỏi: “Bọn chúng đang làm gì trên lưng tôi vậy?”

Babaotu nở một nụ cười giảo hoạt, nói: “Bọn chúng ấy à, bây giờ chúng đang hút máu của anh. Sau đó, chúng sẽ bài tiết ra một loại kích thích tố, trung hòa độc tố xung quanh vết thương của anh, thứ vật chất ấy, còn thúc đẩy tuần hoàn máu, tẩy rửa các chất thải thừa trong cơ thể anh, đồng thời khôi phục những tế bào bị hủy hoại nữa.”

Trác Mộc Cường Ba hồ nghi hỏi: “Thần kỳ vậy sao?”

Babatou nghiêm nghị gật đầu: “Đương nhiên rồi, người Kukuer chúng tôi mấy ngàn năm nay được thần Yize bảo hộ, mà không gặp phải bệnh dịch nào lớn cả. Được rồi, xem ra cũng gần xong, để tôi bôi thuốc cho anh.”

Trác Mộc Cường Ba thấy sống lưng mát lạnh, cảm giác như thoa kem chống nắng, lại không nhịn được hỏi tiếp: “Giờ lại bôi thuốc gì nữa?”

Babatou nói: “Là thuốc cao đặc chế của người Kukuer chúng tôi, gồm có Turneraceae, cỏ gấu, mây vuốt gấu, lá thược dược và rất nhiều dược thảo khác. Xoa vết thương bị cắn đốt là cực kỳ công hiệu. Xong rồi, anh nghỉ ngơi cho tốt, lát nữa tôi mang cháo ngô với mật ong cho, lâu như vậy không ăn gì, người có khỏe mấy thì cũng không chịu được đâu.”

Babatou vén rèm cửa bước ra, Trương Lập và Nhạc Dương ngồi trên đàn tế bằng gỗ đằng xa buồn chán đến thẫn thờ, thở dài đến tiếng thứ một trăm lẻ bảy: “Ôi, thiên lý ở đâu chứ!” “Ài, đen tối quá!” “Tại sao tôi không được đãi ngộ như thế chứ?” “Sớm biết thế, lúc ấy đã cho bọn ong mật kia đốt mấy phát rồi!”

Người Kukuer

Lần đầu tiên, hai người đến lãnh địa của người Kukuer, cơ hồ không dám tin vào mắt mình nữa. Khu này là vùng đồi cao hơn rừng cây thông thường một chút, cả khu vực vẫn được cây cối che phủ, nhưng ở chỗ cao nhất là đàn tế thì có thể nhìn thấy toàn bộ mấy cánh rừng nhỏ xung quanh và các dòng sông uốn khúc. Dưới tán lá xanh tốt có hơn trăm căn nhà gỗ lợp lá cọ, có đàn tế, có điện thờ, có nơi sinh hoạt tôn giáo, mái nhà hình bầu dục nhọn, nhìn chữ V, tất cả các kiến trúc cần thiết của một nền văn minh bộ lạc nguyên thủy đều có hết. Điều làm hai người không thể ngờ được, tự nhiên chính là chuyện phụ nữ trong bộ lạc toàn bộ đều để ngực trần, hơn nữa còn hết sức tự nhiên, hoàn toàn không hề có ý che giấu hay xấu hổ thẹn thùng gì cả. Nhạc Dương và Trương Lập vừa thấy mấy thiếu nữ đầu đội bình gốm ra suối lấy nước về, bên này lại có vài người nữa đội quần áo thực phẩm đi ra bờ sông, vừa đi vừa nói nói cười cười, nét mặt động tác hoàn toàn chẳng khác gì các cô gái mặt quần áo đầy đủ ở các thành phố trò chuyện cười đùa với nhau, chỉ khác một điểm duy nhất, bọn họ không ai mặc quần áo! Hai chàng thanh niên máu nóng kiến thức nông cạn, cứ tranh nhau nhìn đến mạch máu căng phồng. Trương Lập còn suýt chút nữa thì chảy máu mũi. Đặc biệt là khi hai anh chàng này trông thấy cô gái xinh đẹp quyến rũ nhất bộ lạc Babatou tự tay chăm sóc Trác Mộc Cường Ba, ngày nào cũng ra ra vào vào căn nhà gỗ nhỏ ấy, lần nào vào cũng mấy tiếng đồng hồ không thấy ra. Hai người lấy làm tức tối, thậm chí còn nổi ý đồ giết quách Trác Mộc Cường Ba đi cho xong nữa.

Chiếu lý mà nói thì Trác Mộc Cường Ba không trẻ như họ, hình như tướng mạo cũng không được tuấn tú bằng, hai người nghĩ mãi mà không thông, cuối cùng đã đưa ra kết luận thế này: “Cường Ba thiếu gia có sức hấp dẫn thần kỳ đối với phái nữ… à không, đối với tất cả các động vật giống cái, phạm vi sát thương từ tám tuổi đến tám mươi tuổi. Chính tại vì ma lực trời sinh đó, mới khiến hai chàng thanh niên lý tưởng có tương lai tươi sáng đồng hành nhiều lần không được các cô gái xinh đẹp bằng tuổi để mắt tới. “Suy luận thế này chắc chắn không sai vào đâu được, ngày hôm ấy chẳng phải con ếch kia cứ bám chặt lên đầu Cường Ba thiếu gia còn gì, bây giờ nghĩ lại, gần như có thể khẳng định trăm phần trăm, đó là một con ếch cái rồi.” Đưa ra được kết luận như vậy, tâm lý hai người nói chung cân bằng lại đôi chút. Bọn họ nào biết rằng, kết luận thoạt nghe có vẻ hoang đường này, về sau lại chính xác như dự đoán tiên tri vậy.

“Anh ấy tỉnh rồi, hai người vào thăm đi.” Babatou mỉm cười, cầm lọ gốm đi qua hai anh chàng đang để hồn vía lơ lửng trên mây.

“Cường Ba thiếu gia, đã mất nửa thời gian rồi, vậy mà, giờ chúng ta còn chưa rõ mình đang ở đâu nữa.”

“Phải đấy, hơn nữa nghe Khỉ Đuôi Xoắn nói, quân du kích đã mai phục sẵn xung quanh lãnh địa của người Kukuer rồi, xem ra chúng ta vừa ra khỏi đây là chúng sẽ lập tức ra tay luôn đó.”

“Ba Tang? Anh Ba Tang đã khỏe rồi, nhưng hình như anh ấy rất hợp chuyện với thầy tế ở đây, từ chiều hôm qua cứ rịt trong đền thờ của họ ấy.”

“Này, Cường Ba thiếu gia, Babatou lúc nào cũng ở bên cạnh anh, hai người…”

“Hai thằng nhóc này… tôi vừa mới tỉnh lại, giờ còn chưa biết mình đang ở đâu nữa, lẽ nào hai người không biết người bệnh cần được nghỉ ngơi hay sao? Yên lặng một chút cho tôi nhờ có được không?”

“Không được.”

“Cường Ba thiếu gia, các cô gái thổ dân ở đây vừa nhiệt tình lại vừa buông thả, anh nhất định phải khống chế được tình cảm của mình, anh phải giữ đạo đức trong tình yêu đấy nhé, chớ có làm chuyện gì để cô Mẫn Mẫn phải đau lòng đấy!”

“Các… các cậu, hai thằng nhóc này… ra ngoài! Đây là mệnh lệnh đấy!”

“Cường Ba thiếu gia, ngàn vạn lần chớ nên nổi nóng, chúng tôi chỉ muốn tốt cho anh thôi mà.”

“Phải đấy phải đấy.”

….

Đêm đến, quả nhiên Babatou đang ở trên đàn tế quan sát bầu trời đầy sao, anh ta nằm nghiêng bên cạnh đài quan sát. Được sự cho phép của đại tế sư, Ba Tang là người ngoài tộc duy nhất được bước lên đàn tế ngắm sao trời. nói là đàn tế, kỳ thực là một gò đất hơi cao hơn một chút so với khu vực xung quanh, người Kukuer đã dùng các thân cây to dựng nên một giàn gỗ hình thang trên gò đất đó, trên đó, có hai giá gỗ như cần trục, ở giữa là một đĩa tròn không tâm, chính giữa đĩa tròn là một khúc gỗ hình như cây thập tự, khúc gỗ và đĩa tròn có thể di chuyển xung quanh nhau, mỗi lần đến ngày lễ của bộ tộc, đại tế sư bao giờ cũng một mình bước lên đài tế sử dụng thứ kỳ dị này để quan sát các ngôi sao trên trời.

Dù Babatou không biết Ba Tang đã nói chuyện gì với đại tế sư, nhưng người nào đã được đại tế sư công nhận thì cũng được người Kukuer tôn trọng, cô nhã nhặn nói: “Ngài Ba Tang.”

“Ừm,” Ba Tang điềm đạm nói, “năm ngày rồi.” Trong vẻ cao ngạo của anh ta thấp thoáng nỗi lo âu, ánh mắt anh ta cũng vô cùng phức tạp, dường như đang cực kỳ mâu thuẫn, lại như đang phải gánh trên vai áp lực nặng nề, ít nhất, đó là cảm giác của Babatou trong lúc này. Ẩn chứa trong giọng nói của Ba Tang là sự bất lực và cam chịu: “Kế hoạch ban đầu vốn không phải như vậy, chúng tôi chỉ muốn bình yên băng qua rừng già, đã suy tính hết sức đầy đủ đến hoàn cảnh môi trường khốc liệt và các loài động vật nguy hiểm rồi, có điều, căn bản không ai nghĩ đến chuyện sẽ xung đột trực tiếp với quân du kích và bọn buôn ma túy. Dường như trong bóng tối kia có một cánh tay vô hình đang thao túng hành trình của chúng tôi, đến giờ, cả ông Trời cũng muốn khảo nghiệm chúng tôi chắc?”

Babatou nói: “Đại tế sư có nói rồi, thần Chac vĩ đại đã phẫn nộ, người sẽ trừng phạt những kẻ phá hoại thế giới này. Có điều tôi cũng không được hiểu cho lắm, ông Ba Tang, ông có thể dùng kiến thức khoa học hiện đại để giải thích ngôn ngữ đã được đại tế sư thần hóa không? Dù sao thì, ông nói cũng giống hệt như đại tế sư vậy.”

Ba Tang lẩm bẩm đáp: “Rừng mưa nhiệt đới Nam Mỹ là môi trường nhiệt đới khí áp thấp, được luồng không khí xích đạo tuần hoàn bao bọc. Theo lẽ thông thường, khu vực này một năm có gần bảy tháng là bị mây mù bao phủ, thời tiết thường gặp nhất chính là hàng ngày lúc mặt trời lên thì mát mẻ dễ chịu, tới trưa bắt đầu có mây tích tụ, chiều thì mưa như trút nước tới tận hoàng hôn. Nhưng chúng tôi vào rừng đã năm ngày rồi, chẳng những không có một giọt nước mưa, hơn nữa đêm nào cũng trời trong đầy sao, mây mù nhiệt đới đi đâu rồi? Cô, cô có biết sóng thần không?” Ba Tang chợt hỏi.

Babatou nói: “Ừm, có nghe nói, địa chấn dưới biển gây ra sóng thần, là thảm họa tự nhiên vô cùng đáng sợ, nhưng có chuyện gì với việc này chứ?”

Ba Tang lắc đầu: “Không, không có quan hệ, chỉ có điều đạo lý là giống hệt như nhau. Khi tầng đáy đứt gãy gây ra xê dịch, địa hình đáy biển đột nhiên biến hóa, trước tiên không phải là biển động sóng thần, mà là dung tích đáy biển tăng lên, khiến mặt biển rút xuống, đường bờ biển rút ra ngoài xa mấy dặm hoặc nhiều hơn nữa, để lộ ra tầng đá ngầm trước giờ chưa từng hiện ra. Sau đó, mặt biển phải khôi phục lại cân bằng của nó, lượng nước biển kia sẽ dựng lên thành một bức tường nước, cuồn cuộn ập trở về, sức mạnh đáng sợ đủ để hủy diệt tất cả mọi thứ, thậm chí chúng còn cao hơn mặt biển trước đó mấy chục đến gần trăm mét, nhấm chìm, nuốt trọn tất cả những thứ dưới bậc nước đó, rồi lại rút đi. Lúc này tầng mây trên cao đang bị ảnh hưởng của khí áp, về cơ chế cũng giống hệt như sóng thần vậy, khi khí áp thấp bị khí áp thấp hơn ảnh hưởng, luồng khí tuần hoàn sẽ tản ra xung quanh, giống như là thổi bong bóng vậy, dồn hết mây ra bên ngoài quả bong bóng đó. Thế nhưng, một khi quả bong bóng ấy bị vỡ, mây ở xung quanh sẽ dồn vào lấp chỗ với tốc độ nhanh chưa từng thấy, tới lúc đó, mưa của mấy ngày, mấy chục ngày sẽ tập trung đổ xuống trong một ngày. Cô thử tưởng tượng, đó là cảnh tượng thế nào.”

“A.” Babatou kêu lên một tiếng khe khẽ, phảng phất như cảm thấy nguy cơ trong một sớm một chiều.

Ba Tang lại tiếp lời: “Kiểu khí hậu biến dị này, từ rất lâu trước đây hoặc phải mất mấy trăm năm mới có một lần. Còn bây giờ, rừng nhiệt đới bị chặt phá trên diện rộng, thảm thực vật trên núi Andes cũng bị phá hoại nặng nề, tốc độ tan chảy của sông băng tăng lên, tác dụng điều tiết khí áp của khe núi giảm sút, có lẽ sau này cứ vài năm, hoặc mỗi năm, đều sẽ xuất hiện thiên tai như vậy, đây chính là cái giá con người phải trả cho chính những hành vi của mỗi người thôi. Có điều, cô cũng không cần lo lắng, tôi quan sát rồi, khu rừng này cao hơn những nơi khác xung quanh đây, dù có mưa to, cũng không ảnh hưởng gì đến bộ tộc các cô đâu.”

“Ừm.” Babatou nói, “Đại tế sư cũng nói rồi, thần Kukuer sẽ bảo vệ chúng tôi được bình an.”

“Hừ, thần kukuer hả?” Trong tiếng cười của Ba Tang ẩn chứa chút khinh miệt, nhưng nét mặt lại không tỏ vẻ gì, anh ta ngoảnh mặt đi hỏi: “Các cô, là hậu duệ của người Anh điêng hả?”

“À…” Babatou không hiểu tại sao Ba Tang lại đột nhiên hỏi vấn đề này, cô líu ríu nói: “Chuyện này, tôi cũng không rõ lắm, có điều, chắc là phải đấy. Tổ tiên chúng tôi đã sống rất nhiều năm trong cánh rừng này rồi, theo những ghi chép trong bộ tộc, từ thời đại Kakupakate, tổ tiên của chúng tôi đã được các vị thần bảo vệ mà an cư lạc nghiệp ở đây rồi.”

Ba Tang nhìn cây thập tự, bình phẩm: “Bất kể các cô là hậu duệ của người nào, từ dụng cụ các cô dùng để làm quan sát bầu trời có thể thấy, tổ tiên của các cô có một nền văn minh hết sức huy hoàng chói lọi đấy. Dụng cụ này đơn giản thế thôi, nhưng lại có thể theo dõi đường đi của mặt trăng và mặt trời một cách rất dễ dàng, hơn nữa còn có tác dụng rất nỗi bật trong việc quan trắc chòm sao Đại Hùng và Tiểu Hùng nữa.”

Nghe Ba Tang đánh giá cao tổ tiên mình, Babatou tỏ ra vô cùng cao hứng, nhưng chỉ thoáng chốc cô lại ủ rũ nói: “Đáng lẽ, bộ tộc chúng tôi còn có cả thánh thạch truyền đời nữa cơ, nhưng mấy năm trước đã bị người ta ăn trộm mất rồi.” “Ừm, vậy hả?” Ba Tang đột nhiên nổi hứng với chuyện này, liền hỏi han cặn kẽ các chi tiết liên quan đến thánh thạch. Thì ra thánh thạch là một tảng đá hình trụ tròn có khắc các hoa văn kỳ quái, nghe nói có cán, có đầu, toàn thân đều chạm nổi, hình tượng đó, rất giống một trụ đá trổ hoa thu nhỏ theo tỷ lệ nhất định, cầm trong tay giống như một cái giản (1) bằng đá. Hai người nói chuyện rất muộn, trước khi rời khỏi đàn tế, Ba Tang vẫn không quên nhìn lên bầu trời một lần nữa. Vầng trăng lông kia lại tròn hơn hôm qua thêm một chút.

Độc tố trong cơ thể dần dần được thanh tẩy, mấy vết thương phần mềm kia đến nhanh, nhưng cũng đi nhanh, chiều hôm sau, Trác Mộc Cường Ba đã có thể xuống giường đi lại, hoạt động cho dãn gân dãn cốt, hầu như đã không còn gì đáng ngại, cả cảm giác đau đớn cũng không thấy nữa. Trác Mộc Cường Ba không ngờ, ngoài cửa kia, thủ lĩnh trẻ tuổi Gấu Mật Nanh Sắc đã dẫn theo một đám chiến sĩ, xếp hàng hoan nghênh gã khỏi bệnh, đằng xa là các nam nữ lão thiếu trong bộ tộc Kukuer, Babatou phụ trách phiên dịch. Nanh Sắc thân mật vỗ mạnh lên lưng Trác Mộc Cường Ba, cao hứng nói: “Người dám đối đầu với tướng Kulu, nhất định là anh hùng.” Nói xong anh ta lại chỉ vào ngực mình: “Anh cứu mạng tôi, chúng ta là anh em, là người một nhà.” Cả bộ tộc liền reo hò ầm ĩ.

Trác Mộc Cường Ba được Babatou và Nanh Sắc dẫn đi vòng quanh thôn làng của người Kukuer. Babatou làm hướng đạo kiêm phiên dịch, được âm thanh tràn trề niềm vui ấy giới thiệu, Trác Mộc Cường Ba dần dần hiểu được về bộ lạc Kukuer này.

Chiều cao trung bình của người Kukuer tương đối thấp, màu da sẫm hơn những chủng tộc người Anh điêng khác, hầu hết các chiến sĩ đều cường tráng mạnh mẽ, bắp chân thô ngắn, vai rộng, đầu to, đôi mắt màu da cam và mái tóc đen kia, nhìn cũng có mấy phần đặc điểm của dân người châu Á. Trang phục của họ tương đối đơn giản, đàn ông mặc một chiếc khố rộng bằng lòng bàn tay, bọn họ quấn khố vài vòng quanh hông, một đầu thả phía trước, một đầu ở phía sau, trông rất giống trang phục của võ sĩ Sumo Nhật Bản. Hai đầu mảnh khố đều có hình thêu do chính tay mẹ hoặc vợ người đó làm. Phụ nữ thì từ eo trở xuống quấn một chiếc váy. Trong bộ tộc bất kể nam hay nữ, những phần lộ ra trên cơ thể đều có hình vẽ totem, trong đó hình xăm trên mặt là đẹp nhất, dựa theo thân phận và đẳng cấp khác nhau mà xăm những hình khác nhau. Chỉ có đàn ông mới có trang sức trên đầu, phụ nữ thông thường tết tóc từ hai đến bốn bím, đàn ông dùng lông chim làm trang sức, cắm thành nhìn rẻ quạt, cũng có phân biệt theo đẳng cấp. Đàn ông thông thường cắm lông vẹt châu Mỹ, chiến sĩ thì cắm lông chim ưng, còn thủ lĩnh như Gấu Mật Nanh Sắc thì là lông của một loài đỗ quyên đến từ Trung Mỹ.

Họ sống trong nhà cỏ tranh hoặc nhà lợp bằng lá cọ, trong nhà có tường chia làm hai gian, phía trước là phòng khách, phía sau là phòng ngủ, phòng ốc thường không có cửa, mái hiên rất thấp, có thể chắn mưa che nắng. Giường bện bằng cành cây, bên trên rải cỏ, lúc ngủ dùng một tấm thảm bằng cỏ hoặc vải bông thay cho chăn. Họ không nấu nướng trong nhà, mà dùng bếp lộ thiên bên ngoài. Người Kukuer trồng khoai, sắn, đậu tằm, ngoài ra cũng chăn nuôi các động vật lớn như lạc đà không bướu, ngựa…, nhưng hầu hết các chiến sĩ đều vào rừng săn bắn, khỉ nhện là thức ăn thường xuyên nhất của họ. Họ có các thợ thủ công lành nghề chế tạo vũ khí, nhưng cũng tiếp xúc cả với súng ống hiện đại, quần áo mặc thường ngày cũng có một phần được dệt may bằng công nghệ hiện đại, bộ lạc này cũng không hề cách biệt với thế giới bên ngoài, mà tiếp xúc với nền văn minh hiện đại bên ngoài một cách vừa phải, thích đáng. Họ bắt một số động vật trong rừng ra ngoài đổi lấy nhu yếu phẩm, trong rừng nguyên sinh đâu đâu cũng cò nguy hiểm rình rập, các nhà sưu tập và chủ quán đặc sản muốn có các loại động vật hoang dã, đều đồng ý trả giá không hề thấp để mua các thứ đó.

Chiến sĩ của bộ tộc Kukuer từ nhỏ đã sinh ra trong rừng, lớn lên trong rừng, rừng già này chính là nhà của họ, họ thông thạo đủ các phương pháp tác chiến trong rừng sâu, bố trí những loại bẫy rập đơn giản để bắt dã thú. Vì vậy, lãnh địa của người Kukuer xưa nay đều bất khả xâm phạm, đến cả quân du kích và bọn buôn ma túy xưa nay vẫn xưng bá trong rừng sâu này cũng phải ký điều ước không xâm phạm lẫn nhau với họ. Có lúc bọn buôn ma túy còn phải trả một khoản tiền lớn làm phí mãi lộ, mới được đi qua lãnh địa của người Kukuer, nhưng nơi này đã là đường sát biên giới, chưa tới lúc vạn bất đắc dĩ, bọn chúng cũng không bao giờ đặt chân lên lãnh địa của họ. Nghe nói, ở sâu trong lãnh địa này, có thứ còn đáng sợ hơn cả người Kukuer gấp trăm gấp ngàn lẩn, nơi ấy thì càng không có một dấu chân người.

Trong bộ tộc chia làm nhân quyền và thần quyền, nhân quyền là tộc trưởng, cũng chính là cha của Gấu Mật Nanh Sắc và Babatou, thần quyền là đại tế sư, ông ta lúc nào cũng ở trong đền thờ. Đền thờ thần linh của họ, là một gian nhà gỗ không lớn lắm, đứng dưới tán của một cây cổ thụ cao gần bốn chục mét, đích thực là khiến người ta nảy sinh cảm giác kính ngưỡng trước bậc minh thần cao quý. Nghe nói sau khi Ba Tang tỉnh lại, có nói mấy câu về thời tiết biến dị, vừa hay lại trùng khớp với cách nói của đại tế sư trong đền thần, nên đã được đại tế sư mời vào nói chuyện, sau đó còn đồng ý cho anh ta lên đàn tế quan sát bầu trời nữa. Về chuyện này, cả Trác Mộc Cường Ba cũng cảm thấy không thể nào tin nổi, nhưng sau đó Ba Tang lúc nào cũng chỉ hờ hững lảng tránh không nói gì.

Người Kukuer rất giỏi uống rượu, họ dùng mật ong, nước và một loại rễ cây đặc biệt để ủ rượu, làm ra một loại rượu nồng độ rất cao, mùi thơm sực nức.

Điều làm Trác Mộc Cường Ba thấy hứng thú nhất là người Kukuer hầu như nhà nào cũng nuôi chó, rất tạp, nhỏ thì có chó không lông, chó đốm hoa, chó chồn, lớn thì có chó fila, có chăn cừu, chó bull, thứ nào cũng có, thậm chí còn có cả loại mà Trác Mộc Cường Ba không gọi được tên. Đáng kinh ngạc nhất là, lũ chó này đều không sủa, thấy người tới thì chỉ nghếch mắt lên liếc nhìn một cái, rồi lại nhắm tịt mắt vào ngủ, đến cả mấy con nổi tiếng hung hăn như chó ngao Brazil cũng thế.

Trác Mộc Cường Ba hỏi Babatou tại sao chó họ nuôi lại không kêu, câu trả lời của cô là, đó là cách huấn luyện chó đã lưu truyền từ rất lâu rồi, ở đây họ có câu tục ngữ gọi là: “Chó không sủa mới là chó tốt.” Trác Mộc Cường Ba cứ có cảm giác hình như mình đã nghe cách nói này ở đâu rồi, có điều gã vừa mới khỏi bệnh, trước sau không tài nào nhớ ra nổi. Gã đến trước mặt một con chó trông có vẻ như là chó Argentina, xoa xoa đầu con vật đang rúc mình ngủ khò khò ấy, con chó mở đôi mắt nhập nhèm lên nhìn Trác Mộc Cường Ba, ngáp một cái rõ dài, rồi quẫy quẫy đuôi, vùi đầu ngủ tiếp. Trác Mộc Cường Ba tò mò hỏi: “Nếu không sủa, vậy tác dụng chủ yếu của chúng là làm gì?”

Babatou đáp: “Có thể dùng đề truy dấu vật săn, có điều hầu hết thời gian bọn chúng đều chơi với lũ trẻ con, địa vị của chúng trong làng của chúng tôi cũng cao lắm đấy nhé. Trong làng có tập tục, nhà nào có chó bất hạnh qua đời, thì phải cử hành tang lễ long trọng cho nó, hơn nữa về sau chúng còn được hợp táng với chủ nhân của mình nữa cơ.” Trác Mộc Cường Ba lại hỏi thêm một số chuyện về lũ chó châu Mỹ này, kết quả phát hiện ra Babatou cũng không thích chó lắm, cô cũng chỉ biết là có tập tục như vậy, còn tại sao lại có, thì cũng không rõ cho lắm.

Ngoài đền thờ và đàn tế, Babatou đã dẫn Trác Mộc Cường Ba đi tới từng góc nhỏ của ngôi làng bộ tộc Kukuer cư trú, giúp gã có đượcn những hiểu biết đại thể về bộ lạc nửa nguyên thủy nửa văn minh này. Tham quan trong bộ lạc Kukuer này, Trác Mộc Cường Ba cảm thấy sức khỏe mình đã khôi phục đáng kể, bèn định tạm biệt Babatou, nhưng bị cô từ chối. Babatou nói: “Bây giờ sức khỏe anh vừa mới bình phục, còn chưa cảm thấy gì, nhưng chất độc trong cơ thể thì chưa hoàn toàn hết đâu, đi trong rừng một hai ngày là lại tái phát nữa đấytôi phải tiếp tục bôi thuốc cho anh mới được. Còn nữa, dù có muốn đi, thì nhất định cũng phải đợi qua ngày mai mới đi được, ngày mai chính là ngày lễ của bộ tộc Kukuer chúng tôi, mọi người ai cũng tham gia chúc mừng, nếu đại ân nhân của bộ lạc như anh mà không tham gia, tức là đã coi thường người Kukuer chúng tôi, mà chúng tôi thù dai lắm đấy nhé. Trong rừng sâu, cả quân du kích và bọn buôn lậu đều biết rất rõ, ở vùng này mà đắc tộc với người Kukuer, muốn đi một bước cũng khó khăn lắm. Nhìn anh kìa, cuống lên muốn đi như vậy, chẳng lẽ người Kukuer chúng tôi làm anh thấy ghét thế à?”

Trác Mộc Cường Ba vội nói: “Không phải, vì lần đầu tiên chúng ta gặp mặt vội vã quá, có rất nhiều chuyện mọi người còn chưa hay. Chúng tôi đang tham gia một đội thi đấu tranh giải, phải từ Putumayo băng qua rừng nguyên sinh tới Saint Mary trong thời gian quy định, bị chậm trễ ở đây, chúng tôi đã bị các đội khác bỏ rớt lại phía sau rồi, thế nên tôi mới nghĩ, nếu mình cử động được rồi, vậy thì phải nhanh chóng đuổi kịp các đội khác.”

Babatou dẩu môi lên nói: “Tôi mặc kệ, thế nào anh cũng phải đợi qua ngày mai mới đi được, mấy bạn kia của anh đều đang giúp chúng tôi sắp xếp cho buổi lễ cơ mà.” Vừa nói cô vừa nhủ thầm: “Bôi cho anh bao nhiêu nước ép với dầu Maja, thế nào cũng không thể chưa có tác dụng gì đã để anh đi rồi chứ.” Nghĩ tới đây, cô không giấu nổi một nụ cười tinh nghịch, làm Trác Mộc Cường Ba lại thêm một phen mù mờ chẳng hiểu ra làm sao.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ngày mai chắc không phải ngày thu hoạch mùa màng, vậy là ngày lễ gì nhỉ?”

Babatou nghiêng đầu nói: “Ừ, nói thế nào nhỉ, ngày mai là ngày lễ lớn một năm một lần của chúng tôi, đã lưu truyền từ rất lâu rất lâu rồi, giống như… có lẽ là giống ngày lễ Độc lập của người Mỹ vậy, tôi nghĩ chắc là như thế đấy, có điều theo cách nói của tổ tiên, thì đây là ngày lễ do thần thánh đặt ra đó.”

Trác Mộc Cường Ba không nói lại được Babatou, đành miễn cưỡng gật đầu đáp ứng, gã muốn một mình yên tĩnh để suy nghĩ lại các vấn đề gặp phải trong lần băng rừng này. Babatou cũng bận rộn sắp xếp chuẩn bị cho lễ tế, liền dặn dò Trác Mộc Cường Ba không được đi lung tung, rồi để gã một mình nghỉ ngơi.

Trác Mộc Cường Ba nhớ lại các vấn đề gặp phải trong cuộc hành trình này, không phải là không có chuẩn bị, bọn gã cũng đã điều tra nghiên cứu phạm vi thế lực của quân du kích và bọn buôn lậu ma túy rồi, cũng tìm hiểu tư liệu về các sinh vật nguy hiểm trong rừng rậm châu Mỹ, thế nhưng, khi mấy người bọn gã phải thực sự đối mặt với những nhân tố nguy hiểm đó thì đều tỏ ra luống cuống tay chân cả. Gã nhớ lại những điều Lữ Cánh Nam từng cảnh cáo trong lúc huấn luyện cả bọn, xem ra những lời ấy đích thực là rất chính xác – “Không tự thân trải qua, chỉ biết lý thuyết không thôi, dù là anh có đọc cả ngàn vạn lần thuộc lòng như cháo, thì cũng không bằng vận dụng trong thực tiễn một lần.”

Từ miệng Babatou gã biết được, lãnh địa của người Kukuer nằm giữa Putumayo và Saint Mary, cũng có nghĩa là, bọn gã đã may mắn được người Kukuer đưa đi một đoạn khá dài. Nếu ngày kia mới rời khỏi bộ lạc Kukuer, thời gian đã mất một nửa, hành trình chỉ sợ mới đi được một phần ba, còn lại một nửa thời gian làm sao hoàn thành được hai phần ba hành trình còn lại đây? Không được, lần băng rừng này buộc phải hoàn thành, nhất định phải cho con mụ khó tính Lữ Cánh Nam đó biết được năng lực của bọn gã, dù là bị quân du kích và bọn buôn ma túy bắt tay vây bắt, bọn gã cũng vẫn băng qua được khu rừng rậm nguyên sinh nguy hiểm này. Tới lúc đó, để xem cô ta nói được gì? Như thế thì có thể trực tiếp đi tìm Bạc Ba La thần miếu được rồi. Trên thảo nguyên mênh mông ấy, bóng hình uy phong lẫm lẫm đó, đôi mắt tràn trề bá khí đó, vẫn còn đang đợi chờ gã cơ mà.

(1) Giản: Binh khí cổ, giống như thanh kiếm, nhưng không có mũi nhọn, cũng không có lưỡi hình trụ.

Lễ tế của người Kukuer

Trác Mộc Cường Ba ngồi trên một bình đài cao hơn mặt đất một chút, lòng hướng về sự thanh thản an nhàn, phảng phất như đã thấy Tử Kỳ Lân ở ngay trước mắt. Ở thôn làng dưới kia, người Kukuer đang ra ra vào vào bận rộn chuẩn bị cho lễ tế. Trên bãi đất trống phía xa xa, đám trẻ con Kukuer đang chơi đùa, bọn chúng dựng mấy tấm bảng gỗ ở đằng xa, có lớn có nhỏ, cắm hờ trên đất bùn, sau đó dùng một cái túi hình vuông bên trong nhét đầy bùn đất, ném vào bảng gỗ, hình như xem độ to nhỏ của bảng gỗ ném trúng để xác định địa vị cao thấp, chơi đùa hết sức vui vẻ.

Trác Mộc Cường Ba nhìn lũ trẻ với ánh mắt đầy ngưỡng mộ, bọn trẻ này có cả nam cả nữ, nhưng trẻ con Kukuer đều không mặc bất cứ quần áo gì, bọn chúng vui vẻ nô đùa ầm ĩ, hình như không hề có phân biệt giới tính. Nhìn lũ trẻ ngây thơ hoạt bát ấy, Trác Mộc Cường Ba không khỏi nghĩ ngợi xa xăm: “Thời viễn cổ, phải chăng con người cũng như vậy? Mặc quần áo chỉ để chống lại cái lạnh, phòng ngừa bị sây sát kể từ khi nào, con người bắt đầu khoác lên cái áo văn minh, có nghi lễ tôn giáo, rồi tỏ ra khinh thường coi rẻ hành vi nguyên thủy này? Bọn họ quên mất bản tính động vật của mình, tự xưng mình là giống loài được thiên thần sủng ái, là tồn tại hoàn toàn khác biệt với những sinh mệnh khác trong tự nhiên, thế nên có quyền mặt sức muốn làm gì thì làm với những sinh vật cấp thấp hơn, đối với tự nhiên không có lợi cho văn minh của họ cũng thỏa ý phá hoại. Nền văn minh như của người Kukuer đây, liệu còn có thể tiếp tục tồn tại trong rừng sâu được bao nhiêu lâu nữa? Bọn họ hoặc là phải hòa nhập vào nền văn minh chung, hoặc là sẽ bị văn minh ấy tiêu diệt, chỉ có hai con đường ấy để lựa chọn mà thôi.” Gã đứng dậy, dõi mắt nhìn khu rừng già tĩnh lặng, ai mà biết được, đằng sau sự tĩnh lặng ấy, ẩn chứa bao nhiêu âm mưu và chém giết. Sinh mệnh tồn tại được là nhờ xâm chiếm, trong thế giới này, có lúc nào mà không diễn ra cảnh thôn tính và chiếm đoạt. Bỗng nhiên, Trác Mộc Cường Ba giật mình ngoảnh đầu lại lần nữa, nhìn lũ trẻ đang chơi đùa kia, trò chơi ấy quả thực quá đỗi quen thuộc, hình như bản thân gã hồi nhỏ cũng chơi rồi thì phải. Đúng hồ nhỏ gã cũng chơi trò này rồi, chỉ có điều dùng bảng đá thay cho bảng gỗ, đá cục thay cho túi vải đổ bùn mà thôi. Đã bao nhiêu năm gã không chơi trò này rồi? Ba mươi năm? Hay là ba mươi lăm năm? Lâu quá rồi, bản thân gã cũng không nhớ nổi nữa.

Ngày hôm sau, là ngày lễ lớn nhất trong năm của người Kukuer, được họ gọi là lễ thần Nadimuke, lễ tế được mở màn trong tiếng ồn ào náo động. Người Kukuer tập trung cả ở bãi đất trống lớn nhất giữa làng, dùng ván gỗ dựng thành một vũ đài. Từ sáng sớm nam nữ già trẻ lớn bé đã đến xung quanh vũ đài, ai nấy đều hết sức dày công tô vẽ trên thân mình, dùng những màu đậm sặc sỡ nhất, những hoạt tiết phức tạp nhất, tộc trưởng và đại tế sư cũng có mặt. Bọn Trác Mộc Cường Ba ra chào tộc trường và đại tế sư, được sắp xếp ngồi vào bàn khách quý. Babatou không ngồi bên cạnh trưởng tộc, mà đặc biệt chạy tới làm thuyết minh cho mấy người đám Trác Mộc Cường Ba.

Đại tế sư là một ông già, tên là Akima, ông vừa cất tiếng nói, người bên dưới vũ đài liền im lặng như tờ. Giọng nói âm sắc cao âm vang khắp không gian rộng lớn, đợi khi đại tế sư nói xong, Babatou mới thì thầm nói cho bọn Trác Mộc Cường Ba biết, đây là đại tế sư đang thay mặt toàn bộ tộc cầu khẩn với thần linh.

Sau khi đại tế sư nói một tràng dài, lễ tế chính thức bắt đầu, người Kukuer dùng các thứ phát ra âm thanh có tiết tấu giống như trống gỗ, xương thú, vỏ quả, đồ gốm, và một loại nhạc khí giống cây sáo bốn lỗ thổi ra tiếng nhạc trầm hùng. Bốn người cao lớn vạm vỡ nâng một người tiến vào, người trong bộ tộc lần lượt cung kính nhường ra một con người, cúi rạp đầu xuống đất, xung quanh còn có rất nhiều người khác vung tay múa chân xoay chuyển nhảy múa, theo vào tận giữa bãi.

Bọn Trác Mộc Cường Ba nhìn thấy, những người đứng giữa đều đeo mặt nạ khắc bằng gỗ, bên trên tô hai màu đỏ, lam, dáng điệu hung hăng dữ tợn vô cùng. Babatou nói, người đàn ông được khiêng vào kia là Quilan, anh ta là người mang lời đáp của vị thần tối cao truyền đạt lại cho người trong bộ tộc, đây là màn đầu tiên, gọi là nghi thức ban tên của thần.

Người tên là Quilan đó ngồi ở ngôi cao, theo sau có rất nhiều người Kukuer đeo mặt nạ hình các loại động vật khác nhau lục tục kéo nhau vào sân trong nhịp trống, tiếp nhận sự chúc phúc của Quilan. Mỗi người đầu thú đều biểu diễn một điệu múa giữa khoảng đất trước mặt đám người đep mặt nạ khắc gỗ, đại để mô phỏng lại hành vi của loài động vật ấy, biểu hiện các ích lợi mà loài vật đó mang lại cho người Kukuer. Babatou giới thiệu, Quilan đang truyền đạt ý chí của thần tối cao, ban cho các loài động thực vật có ích cho bộ tộc Kukuer danh hiệu của thần, tổng cộng có tới hơn một trăm vị thần bước ra.

Từ lời giới thiệu của Babatou, họ biết được người Kukuer là một dân tộc đa thần, bọn họ tin thờ giáo nghĩa “vạn vật trong trời đất đều có thần linh”, chẳng hạn như vị thần đầu tiên là thần quản việc trồng ngô, gọi là Yumil Kaxob, còn vị thần trông nom cây ca cao thì gọi là Ek Chuah. Trong đó so về thần bí thì không ai hơn được Yinawea, nghe nói, đó là bậc chân thần xuống chốn thế gian, đến cả một trong những vị thần có địa vị cao nhất là Thần Chó cũng phái phân thân xuống bảo vệ Yinawea. Vũ điệu tiếp sau biểu thị thần Yinawea chỉ dẫn tổ tiên người Kukuer đánh thắng chiến trận, xây dựng thành trì, lại dạy họ cách chữa bệnh, chế tạo đồ kim loại, canh nông, chăn nuôi gia súc, văn tự…

Xem mãi xem mãi, Trương Lập không khỏi nghi hoặc thốt: “Quái thật, sao càng xem tôi càng thấy giống lễ “nhảy đại thần” ở Tây Tạng thế nhỉ?”

Nhạc Dương hỏi: “Nhảy đại thần là cái gì?”

Trương Lập nói: “Cũng kiểu một hoạt động tôn giáo thôi, một điệu múa mà người biểu diễn phải đeo các loại mặt nạ khác nhau, sư đoàn trưởng có dẫn tôi đi xem một lần rồi. Mặt nạ ở Tây Tạng to hơn, hình vẽ quái dị hơn, hình như là kể một số chuyện giáng yêu trừ ma gì đó. Chẳng biết có phải mấy nền văn minh cổ đại đều có các hoạt động tương tự như thế hay không nhỉ.”

Nhạc Dương nói: “Ừ, chỗ chúng tôi gọi là “nhảy nợ”, chỗ chúng tôi cũng có, nghe anh nói vậy, mới thấy giống thật, quái lạ nhỉ?”

Trương Lập nói: “Mấy điệu múa kiểu sùng bái thần thánh này, chắc Trác Mộc Cường Ba hiểu biết hơn phải không, Cường Ba thiếu gia, Cường Ba thiếu gia?”

Trác Mộc Cường Ba đang thần người ra, từ lúc điệu múa tế thần bắt đầu, gã đã ngẩn người ra đó rồi. Mặc dù những tấm mặt nạ khắc gỗ kia và mặt nạ của kịch Tây Tạng có chút khác nhau, nhưng tư thế nhảy múa kia, nội dung điệu múa kia, chẳng phải chính là “khương mẫu (1)” của người Tạng hay sao? Mặc dù không thích đọc các thứ liên quan qua nhiều đến vấn đề tôn giáo, nhưng khương mẫu” và kịch nghệ của người Tạng, đều là những thứ hồi nhỏ Trác Mộc Cường Ba tương đối hứng thú. Bây giờ mặt dù không có âm nhạc hoành tráng như lúc biểu diễn “khương mẫu”, chỉ có tiếng trống và tiếng gõ vào vỏ cứng của quả cây, nhưng động tác nhảy múa của người Kukuer kia, mặt nạ đầu thú mà họ đang đeo trên đầu, thật giống hệt như điệu “khương mẫu” mà gã xem hồi nhỏ. Trong khoảnh khắc đó, điệu múa thần bí mà nguyên thủy ấy, cơ hồ như lại đưa Trác Mộc Cường Ba trở về Tây Tạng, Tây Tạng thuở gã còn là một đứa trẻ, vùng đất vẫn còn chỉ thuộc về thiên nhiên vĩ đại, vùng đất còn chưa bị văn minh chinh phục!

Trương Lập hỏi mấy câu liền, Trác Mộc Cường Ba mới sực tỉnh, lẩm bẩm nói: “Cái gì? Nhảy thần? Hay lẽ nào, đây chính là ngôn ngữ cơ thể mô phỏng tự nhiên mà con người thời viễn cổ học được trước tiên, thế nên, những vũ điệu từ thời xa xưa lưu truyền lại này, bất kể là chủng tộc gì, khu vực nào, cũng đều có những nét tương tự đến kinh người. Đây là cách lý giải của tôi, các cậu thấy thế nào?”

Trương Lập nói: “Ừm… có lý đấy, tôi tán thành phân tích này của anh.”

Nhạc Dương lại phát biểu ý kiến bất đồng: “Nói như vậy hình như hơi miễn cưỡng thì phải. Tôi nghe nói, người Tạng trước đâu cũng là một dân tộc theo thuyết đa thần, bộ tộc Kukuer cũng có rất nhiều thần linh, lễ nhảy thần của họ lại giống với lễ nhảy thần của Tây Tạng như thế, dựa vào điểm này, có chắc là họ không có quan hệ gì với Tây Tạng không nhỉ?”

Trương Lập phì cười nói: “Cậu đúng là biết liên tưởng, phải biết rằng bây giờ chúng ta đang ở đâu chứ, là Nam Mỹ cách Trung Quốc Đại lục hai mươi ngàn kilomet đấy. Bộ tộc Kukuer này lạ là thổ dân sống ở đây từ bao đời, lại cư trú ở vị trí địa lý thế này, gần như là không có tiếp xúc với thế giới bên ngoài, cậu nói họ và Tây Tạng có quan hệ, chứng cứ ở đâu chứ?”

Nhạc Dương xòe hai tay ra, nói: “Bằng trực giác.”

“Phì.” Trương Lập khoát tay một cái, tỏ vẻ coi thường không thèm quan tâm nữa.

Nhưng sau đó Nhạc Dương lại bổ sung: “Từ trước khi chúng ta chuẩn bị xuất phát, bắt đầu là câu nói kỳ quái của giáo quan, sau đó là chúng ta chẳng hiểu sao lại bị quân du kích và bọn buôn ma túy đuổi giết, tiếp theo là gặp được một số thứ hình như có liên quan tới Tây Tạng ở bộ lạc nguyên thủy này, những điều này làm tôi không sao hiểu nổi. Phía sau những sự việc tưởng chừng như riêng rẽ này, hình như có liên hệ gì đó, trực giác cho tôi biết, chuyến đi này của chúng ta, không đơn giản chỉ là băng qua rừng rậm thôi đâu, nhất định là có thứ gì đó, thứ gì đó mà chúng ta không biết.”

Trác Mộc Cường Ba giật mình, trực giác của Nhạc Dương hoàn toàn không đơn giản chỉ là dựa vào cảm giác để đưa ra kết luận, mà được đưa ra dựa trên một tư duy logic tinh tế tỉ mỉ. Nghe Nhạc Dương nói như vậy, gã cũng sinh lòng hồ nghi, vậy thì, trò chơi gã thấy lũ trẻ chơi hôm qua là thế nào, vùng đất này, lẽ nào thực sự có liên quan tới Tây Tạng?

Babatou trợn tròn mắt, hiếu kỳ nhìn hai người đang lầm rầm nói chuyện, lên tiếng nhắc nhở: “Tập trung xem đi, ít nói thôi, đây là lễ tế quan trọng của người ta đó.”

Kế đó là Hành trình di cư, một người Kukuer đóng giả làm ông già, trên lưng vác một cái bao to tướng tượng trưng cho trọng lượng nặng nề, bắt đầu đi vòng xung quanh vũ đài, tất cả người Kukuer có mặt đều đứng lên, đi theo sau lưng ông già đó, bọn Trác Mộc Cường Ba cũng đứng lên đi theo, Babatou giải thích, tiết mục này nói lên tổ tiên họ năm xưa vì muốn tìm kiếm vùng đất an cư đã phải bôn ba vô cùng vất vả, tất cả người Kukuer đều sẽ không bao giờ quên, cuộc sống hôm nay là do vô số bậc cha ông đã dùng máu và tuổi xuân đổi lấy cho họ.

Đi quanh bốn vòng, hoạt động mang tính toàn bộ tộc này cũng kết thúc. Phần thứ ba là màn chiến tranh, chỉ thấy hai nhóm người Kukuer đeo các mặt nạ tô màu khác nhau, biểu thị cho hai bộ tộc, mở đầu là người bộ tộc khác đeo mặt nạ màu đen thắng thế, người Kukuer đeo mặt nạ đỏ liên tiếp bại trận rút lui, đúng lúc đó, một người Kukuer đeo mặt nạ tượng trưng cho thầy tế đứng ra, trịnh trọng lấy ra một mảnh vỏ cây tượng trưng cho lời dạy của thần thánh, lớn tiếng đọc vang, trong tiếng đọc đó, một thiếu nữ Kukuer được khiêng ra.

Thiếu nữ Kukuer này toàn thân không một mảnh vải, trên mặt vẽ hoa văn màu đen, được đặt xuống một bàn gỗ tượng trưng cho đàn tế, nét mặt cô có vẻ vô cùng hạnh phúc và vinh hiển. Những người Kukuer đeo mặt nạ đỏ dùng dao vạch ngang vạch dọc bên trên cơ thể thiếu nữ, sau đó đặt đủ loại hoa quả màu đỏ, quả hạch và ngũ cốc lên ngực, hông và tay chân cô, một lúc sau, họ lại lấy các thứ đó xuống, chia cho những người đeo mặt nạ đỏ khác cùng ăn.

Nhạc Dương kinh ngạc thốt: “Người Kukuer cũng biết trò này à, hình như đây là Nyotaimori (2) của người Nhật mà?”

Lần này đến lượt Trương Lập hỏi: “No no cái gì? Nyotaimori? Là cái gì thế?”

Nhạc Dương thè lưỡi nói: “Cái này, cái này… ây da. Đằng nào thì cũng gần giống như anh đang xem đây này.”

Babatou giải thích, những hoa văn màu đen vẽ trên mặt đó tượng trưng cho việc cô gái đã được chọn làm tế phẩm của thần, đó là một việc hết sức vinh hạnh. Tương truyền, rất lâu, rất lâu trước đây, thiếu nữ đó phải hiến lên thần linh cả máu tươi và sinh mạng của chính mình, không biết từ bao giờ, nghi thức này đã dần dần biến hóa thành như ngày hôm nay.

Những người đeo mặt nạ đỏ ăn uống xong liền xông ra tái chiến với người đeo mặt nạ đen, lần này, người Kukuer đeo mặt nạ đỏ như có thần linh phù trợ, uy lực tăng cao, chẳng mấy chốc đã đánh cho lũ người ngoại tộc đeo mặt nạ đen tơi bời hoa lá, bỏ cả vũ khí giáp trụ chạy trối chết.

Nhạc Dương nhìn đoạn biểu diễn đó, bỗng thấy chấn động trong lòng. Điệu múa nguyên thủy vụng về đơn sơ ấy, tiếng nhạc tràn đầy tiết tấu ấy, những hoa quả ngũ cốc màu đỏ mà các chiến sĩ Kukuer đặt trên thân thể thiếu nữ kia trong tiết mục chiến tranh giản hóa ấy, dường như ẩn dụ một điều gì đó. Anh không dám khẳng định, nhưng cứ có cảm giác, ẩn dụ ngầm ấy, làm sống lưng anh lạnh toát.

Còn một người nữa cũng cảm thấy kinh hãi, đó chính là Batang đang ngấm ngầm nắm chặt tay ngồi bên cạnh, chỉ là hình thức của điệu múa không làm anh ta chấn động là mấy, thứ làm Ba Tang thấy bất an và căng thẳng là tiếng trống và tiếng gõ kia, tiết tấu gấp rút tựa hồ như chiến đấu kia mang đến cho anh ta cảm giác sợ hãi. Anh ta biết, có lẽ trong sâu thẳm ký ức, mình đã từng nghe âm thanh đó rồi, nhưng là lúc nào, ở nơi đâu, thì anh ta không muốn và cũng không thể nhớ lại được.

Tiếp theo sau là bắt đầu lễ chúc mừng của toàn bộ tộc, mọi người đều tham gia, bắt đầu nhảy múa hát ca, nam nữ già trẻ cùng cất tiếng hoan ca, Nhạc Dương và Trương Lập không kìm nổi mà cuống quýt nhảy lên vũ đài, hòa vào đám người Kukuer kia. Trác Mộc Cường Ba đứng bên cạnh, cũng cảm nhận được lòng nhiệt tình dào dạt và niềm vui phấn khởi của họ.

Phía xa xa, có mấy thợ săn Kukuer đang lùa một con vật đeo vải đỏ, trông như con dê, chắc có lẽ là lạc đà không bướu châu Mỹ. Người đầu tiên cầm cốc gỗ, dùng cành cây nhúng nước vẩy mở đường, miệng lẩm nhẩm tụng niệm gì đó, một người lực lưỡng mình trần tay cầm vũ khí bằng sắt, cơ hồ như đợi để mổ bụng moi ruột con vật. Trác Mộc Cường Ba hỏi Babatou: “Họ làm gì vậy?”

Babatou mỉm cười: “Phóng sinh, vừa để chúc mừng buổi lễ, vừa chúc mừng anh khỏi bệnh luôn!”

“Ồ,” Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn, cảm thấy cảnh tượng này hết sức quen thuộc, tựa như đã thấy ở đâu rồi vậy. Ai ngờ người đàn ông mình trần kia cầm vũ khí, lại đâm thẳng vào ngực con vật trông giống dê kia một cách hết sức chuẩn xác, máu tươi lập tức phun trào ra, rõ ràng là đã đâm thẳng vào tim con vật rồi. Con vật bị mấy người Kukuer giữ chặt tứ chi, không thể giãy giụa, co rút mấy cái rồi lăn ra chết. Nhìn cảnh tượng đó, Trác Mộc Cường Ba sực nhớ ra, đây hình như là một màn pháp sự, ngày trước ở Tây Tạng, gã đã từng thấy cảnh tượng tương tự như vậy rồi. Lẽ nào, giữa các nền văn inh nguyên thủy, đúng là có sự tương đồng đến mức đáng ngạc nhiên như vậy hay sao? Đây rốt cuộc là chuyện gì? Trác Mộc Cường Ba không kìm được, liền hỏi: “Không phải là phóng sinh à? Sao lại…”

Babatou giải thích: “Phóng sinh theo cách hiểu của chúng tôi, là giải thoát triệt để. Trước tiên là mở ra hố sinh mệnh của con lạc đà không bướu đó, tức là tim, sau đó là cắt đứt động mạch, lột da rồi pha thành miếng nhỏ, đặt vào các đồ đựng khác nhau, dựa theo vị trí trên cơ thể mà phân thành đẳng cấp một cách nghiêm khắc, rồi dùng ba thanh gỗ bắc thảnh giá để nấu lên, đêm nay sẽ có nghi thức mời khách, mọi người sẽ hát bài ca cảm tạ với anh. Anh xem, mọi người đều đến cả rồi kìa.”

Người Kukuer vừa ca vừa múa, vô cùng náo nhiệt, bọn họ mang những món ngon nhất ra khoản đãi ân nhân của thủ lĩnh, dùng những lễ nghi long trọng nhất để chúc phúc cho Trác Mộc Cường Ba.

Tối hôm ấy mọi người vừa uống rượu, vừa nghe nhạc nhảy múa, Nanh Sắc rót mười bát rượu, chìa tay ra với Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba chỉ cười nhạt, mặt không đổi sắc uống một mạch hết cả mười bát rượu ấy, làm Nanh Sắc lấy làm kinh ngạc. Anh ta vốn định nói, mỗi người năm bát, vừa để bày tỏ lòng hữu hảo, đồng thời cũng có ý phân cao thấp thêm lần nữa, chẳng ngờ Trác Mộc Cường Ba lại một mình uống cả mười bát, hơn nữa lại còn điềm nhiên như không, bản lĩnh này, anh ta tự biết là mình không bì nổi. Mà người Kukuer thì cứ ai uống được rượu tức là anh hùng, Trác Mộc Cường Ba tự nhiên lại được vẻ vang thêm lần nữa. Babatou rót rượu cho gã, trong mắt cũng ánh lên ý đồ riêng. Song họ nào có biết, chưa tính đến chuyện Trác Mộc Cường Ba là người tộc Tạng, chỉ riêng việc gã bao năm lăn lộn trên thương trường thôi, mười bát rượu đó đương nhiên chỉ là chuyện nhỏ. Lát sau, trên bàn tiệc, Nanh Sắc vô cùng thành khẩn mời bọn Trác Mộc Cường Ba ở lại bộ lạc thêm mấy ngày, gọi bọn gã là những vị khách tôn quý nhất của người Kukuer, Babatou cũng tỏ ý đó, nhưng Trác Mộc Cường Ba đều khéo léo khước từ.

“Tại sao lại đi gấp như vậy?” Không chỉ có Babatou ỉu xìu thất vọng, đến cả Trương Lập và Nhạc Dương cũng xị mặt ra.

Trác Mộc Cường Ba thành thực trả lời: “Thực ra mục đích chuyến đi lần này của chúng tôi, chỉ là băng qua khu rừng này, để lấy kinh nghiệm cho đợt huấn luyện sinh tồn nơi hoang dã mà chúng tôi tham gia thôi. Còn việc thành ra nông nỗi này, đến cả chúng tôi cũng chưa từng nghĩ tới. Thời gian định ra ban đầu chỉ có mười ngày, giờ đã qua mất một nửa, chúng tôi lại lỡ mất hai ngày ở đây nữa, giờ vết thương đã lành rồi, chúng tôi cần phải nhanh chóng lên đường mới bổ sung lại được thời gian bị chậm trễ.”

Nhạc Dương đứng bên cạnh nhắc nhở: “Nhưng mà, quân du kích đang rình rập xung quanh lãnh địa của người Kukuer, chỉ đợi chúng ta ra khỏi đây thôi đấy.”

Trương Lập cũng nói: “Đúng đấy, lần này chẳng biết là chúng ta tiếp nhận huấn luyện kiểu gì nữa, bị quân du kích và bọn buôn ma túy bắt tay đuổi đánh, đừng nói là chúng ta, dù là bộ đội đặc chủng chính quy chăng nữa, cũng chưa chắc mà bình yên rút lui được đâu. Muốn băng rừng trong mười ngày hả, tôi thấy chẳng thể nào đâu, hay là chúng ta cứ ở đây, chờ cho hết mười ngày, chắc là họ sẽ tới tìm chúng ta thôi, nếu không thì lúc ấy liên lạc với họ cũng được, coi như chúng ta lại thất bại lần nữa có sao đâu.”

Trác Mộc Cường Ba vừa nhíu mày, Ba Tang đã cười gằn lạnh lẽo: “Hừ, đây mà giống lời của sĩ quan đặc cảnh nói ra à. Mục đích của đợt huấn luyện này, chính là để chúng ta đối mặt với các hoàn cảnh nguy hiểm, cũng bao gồm cả chuyện chiến đấu với kẻ địch, bỏ cuộc như vậy, không chỉ đại diện cho một lần thất bại, mà còn nói lên rằng tất cả các nội dung huấn luyện đều uổng phí cả, rằng chúng ta căn bản không có cơ hội để đối đầu với những thách thức khó hơn nữa, cậu có hiểu không?”

Trương Lập phản bác: “Nhưng giờ cả vũ khí cơ bản chúng ta cũng chẳng có, chúng ta lấy gì để chiến đấu với đám quân du kích đó đây? Lần này bị thương, còn có người Kukuer giúp chúng ta, vậy còn lần sau thì sao? Lần sau anh hay Cường Ba thiếu gia hoặc người khác, bao gồm cả tôi và Nhạc Dương, chúng ta ngã xuống lần nữa, liệu còn may mắn như lần này nữa không?”

Babatou lúng túng nhìn bốn vị khách, sao họ càng nói càng hăng, chừng như sắp đánh nhau tới nơi thế kia. Trác Mộc Cường Ba cất tiếng: “Được rồi, được rồi. Không có gì phải tranh luận nữa, lấy ít thắng nhiều, xoay chuyển tình thế, tay không chiến đấu giữa vòng hỏa lực trùng trùng của kẻ địch, đây cũng là một trong các hạng mục huấn luyện của chúng ta. Trước giờ chúng ta vẫn được huấn luyện kỹ năng sinh tồn nơi hoang dã, chính là phải dựa vào đôi tay này tạo ra hoàn cảnh thích hợp cho mình sinh tồn ở môi trường hoàn toàn xa lạ. Không thể nào vác vũ khí đi khắp nơi được, chúng ta phải dựa vào… cái đầu mình nhiều hơn nữa chứ. Lần này tình thế bất lợi đối với chúng ta, ai bảo chúng ta phải so vũ khí nhiều với quân du kích đâu chứ? The tôi được biết, bộ tộc Kukuer, chẳng phải còn có lối đi sau có thể ra vào hay sao?” Câu cuối cùng, gã cố ý nói bằng tiếng Anh cho Babatou nghe.

Babatou lắp bắp thốt lên: “Cái đó, thì đúng rồi, nhưng mà chỗ ấy, chỗ ấy làm sao đi qua được chứ? Chỗ ấy đã được gọi là cấm địa yên nghỉ của Ah puch đấy.”

Nhạc Dương nói: “Thật sự phải đi đường đó sao? Đấy hình như là khu rừng chết mà hình như cả người Kukuer cũng bị cấm đi vào cơ mà?”

Trác Mộc Cường Ba hỏi: “So với rừng rậm nguyên sinh có quân du kích vũ trang lập trạm canh, cậu thấy lối nào nguy hiểm hơn?”

Ba Tang nói: “Đều rất nguy hiểm, theo những ghi chép lịch sử của người Kukuer, từ thế kỷ mười sáu, người Tây Ban Nha, nhà khảo cổ người Đức, thám hiểm gia người Mỹ, bao nhiêu người bước vào khu rừng đó mà không một ai trở ra cả, đó à rừng Than Thở, được mệnh danh là mộ phần của các nhà thám hiểm. Lần cuối cùng là vào năm 1965, nhà thám hiểm người Anh Malaer đã đặt dấu chấm hết cho cuộc đời mình ở trong khu rừng ấy.”

Trác Mộc Cường Ba vỗ vỗ lên vai Ba Tang cổ vũ tinh thần: “Chẳng sao cả. Đừng quên bây giờ là thế kỷ hai mốt, giờ đây khoa học kỹ thuật mỗi ngày mỗi khác, người năm một chín sáu mấy có thể không qua được, nhưng cũng không chứng tỏ rằng chúng ta không vượt qua được.”

Ba Tang liếc xéo Trương Lập và Nhạc Dương: “Tôi thì chẳng sao cả.”

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn Trương Lập, Trương Lập cúi đầu không nói, lại quay sang nhìn Nhạc Dương, Nhạc Dương nghĩ giây lát, rồi đáp: “Chết thì chết, ai bảo anh là đội trưởng.” Trác Mộc Cường Ba mỉm cười, nói: “Được, cứ quyết định như vậy đi.”

Nanh Sắc nhờ em gái phiên dịch, nói: “Nếu mọi người đã quyết ý muốn đi, chúng tôi cũng không thể miễn cưỡng, đêm nay chúng ta cứ uống cho thoải mái no say đi, thần Chac sẽ bảo vệ cho các bạn.”

“Nào, cạn ly!”

Chú thích:

(1) Khương mẫu: Một điệu múa truyền thống của người Tạng, các từ “nhảy thần”, “nhảy đại thần”, “nhảy nợ” đều chỉ loại hình nghệ thuật này. Các phái khác nhau của Phật giáo Tạng truyền đều có nội dung “khương mẫu” của riêng mình, tuy có khác nhau, nhưng nội dung chủ yếu đều phản ánh tâm lý sùng bái tự nhiên của người cổ đại.

(2) Hay còn gọi là body sushi, là cách bày món ăn truyền thống của Nhật Bản, trực tiếp bày đồ ăn lên mình một geisha khỏa thân.

Trò chuyện trên đàn tế

Sau đêm cuồng hoan, tiếng ca tiếng hát cũng dứt, mọi người tản đi, Babatou dẫn Trác Mộc Cường Ba lên đàn tế, bầu trời vẫn đầy sao sáng lấp lánh, chỉ có vầng trăng là ảm đạm đi phần nào. Vị công chúa cao quý xõa mái tóc dài mềm mại, hai tay bó gối ngồi cuộn giữa đàn tế, ánh mắt hân hoan như đứa trẻ, cô ngước lên nhìn bầu trời lồng lộng nói: “Hồi nhỏ, tôi thường một mình lên đàn tế này ngắm sao. Những ngôi sao kia nhìn có vẻ rất xa xôi, lại như ở gần tôi lắm. Lúc đó, tôi thường hay băn khoăn tự hỏi, thế giới bên ngoài rừng già, rốt cuộc là như thế nào. Nhưng khi ấy tôi vẫn còn chưa dám có suy nghĩ viển vông như thế, rời khỏi rừng già ra thế giới bên ngoài, quả thực là một việc mà cả nghĩ đến tôi cũng không dám nữa. Về sau, người bên ngoài vào rừng càng lúc càng nhiều, có bọn buôn ma túy muốn mượn đường đi qua lãnh địa của chúng tôi, quân du kích thì ky vọng hai bên tránh được xung đột, còn có cả một số người thích mấy loài mà các anh gọi là động vật hoang dã quý hiếm. Tôi nghe được rất nhiều chuyện về thế giới bên ngoài từ họ, có nhà cao trăm tầng, có máy bay bay lượn, thậm chí còn có người lên cả vũ trụ nữa, nghe nói còn bay thẳng tới tận mặt trăng nữa cơ.”

Nói đoạn, Babatou ngoảnh đầu lại nhìn Trác Mộc Cường Ba, thấy gã đang chăm chú lắng nghe, cô lại nói tiếp: “Năm mười sáu tuổi, chồng tôi chết trong rừng, theo cách nói của người trong bộ tộc, anh ta đã chọc giận thần rừng, có trời mới biết anh ta chết thế nào. Nhưng lúc ấy cha tôi đã nói một câu, ông bảo là, sinh ra ở rừng, lớn lên trong rừng, chết ở trong rừng, đây là kết cục tốt nhất của một con người. Khi người đàn ông ấy được khênh trở về, nửa người đã đen kịt rồi, đó là lần đầu tiên tôi khiếp hãi đến thế. Tôi đột nhiên muốn rời khỏi đây, chưa bao giờ tôi khát khao rời khỏi đây đến thế cả, nhưng quy củ trong tộc là không được tộc trưởng đồng ý thì không được phép làm điều đó. Tộc trưởng, cũng chính là cha tôi, ông ấy có quyền lực đó, nhưng ông kiên quyết không chấp nhận.” Ánh mắt Babatou ánh lên một tia cuồng dại, “Sau đó, tôi tìm một người đàn ông tới đây thu mua động vật hoang dã, ngủ với hắn hai đêm, chỉ cần một điều kiện, là hắn sẽ dẫn tôi đi, đi khỏi khu rừng này, khu rừng nhìn mãi không thấy tận cùng đáng chết này! Hắn đáp ứng nhanh lắm, nhưng đến cuối cùng hắn lại hối hận, hắn muốn giết chết tôi rồi bỏ lại trong rừng, rồi cướp hết trang sức trên người tôi, nhưng đã bĩ anh trai tôi bắn chết. Về sau, cha tôi thấy nợ tôi, mới đồng ý cho tôi ra khỏi rừng, đầu tiên họ đưa tôi tới Santa Fe de Bogotá (1) học hành, sau rồi lại sang Mỹ. Thực ra, cha tôi cũng có thể coi là một tộc trưởng văn minh, ông ấy nói, thế giới bên ngoài đang thay đổi, bộ tộc chúng tôi muốn tiếp tục sinh tồn, thì cần phải biết nhiều hơn nữa. Ông ấy mong tôi học thành tài trở về, có tể mang đến cho bộ tộc những thay đổi lớn, thế nhưng…”

Cùng một tiếng thở dài, đàn tế chìm vào tĩnh lặng một lúc lâu, Trác Mộc Cường Ba cảm nhận được nỗi buồn u uất của cô gái trước mặt mình, đảm nhiệm sứ mệnh thay đổi vận mệnh của cả một bộ lạc, đối với bất kỳ ai, cũng là một trọng trách quá ư tàn khốc, huống hồ là một cô gái còn trẻ như vậy. Babatou nói: “Tôi sợ lắm, ở bên ngoài càng lâu tôi lại càng sợ. Bởi tôi biết rất rõ, tôi không có khả năng thay đổi bất cứ điều gì, muốn thay đổi cả một bộ lạc, muốn thay đổi thói quen sinh sống và văn hóa mấy ngàn năm nay của chúng tôi, điều ấy quả thật quá khó khăn. Bộ tộc muốn có những bước phát triển mới, thì cần phải rời khỏi rừng già, nhưng một khi rời khỏi rừng già, bộ tộc này sẽ chẳng còn ý nghĩa tồn tại nữa rồi, từ bao lâu nay tôi vẫn không biết phải làm thế nào. Ra đi mười năm, trở về bộ lạc lại nhận ra mọi người vẫn sống lối sống lạc hậu ấy, sau này, mỗi lần thấy không thuận mắt, tôi lại một mình lẻn đi, đây cũng chính là nguyên nhân anh thấy tôi và anh trai tranh chấp lần trước. Họ muốn tôi trở về, còn tôi thì không chịu, theo quy tắc trong bộ tộc, kha kha, tôi không thể cưới người nào nữa rồi.”

Babatou lại ngẩng đầu lên ngắm sao, dưới hàng lông mi dài kia, sao trời lấp lánh trong mắt cô: “Lúc tôi đi học, cũng có mấy người bạn trai, nhưng họ vừa nghe thấy tôi là con gái của tộc trưởng bộ lạc, người nào người nấy đều hồn vía lên mây. Tôi nhớ nhất là có một anh chàng, anh ta kinh hoảng hỏi tôi, nghe nói có bộ lạc, sao khi nam nữ giao hoan, người đàn bà sẽ ăn thịt người đàn ông, có phải thật thế không? Ha ha, đúng là tức cười thật, đến cả tôi còn chưa nghe nói đến cái bộ lạc ấy cơ mà.”

Babatou cười cười, trong mắt cô, vẻ u buồn dường như càng hiện lên rõ hơn, cô bỗng nhiên đứng dậy, xoay một vòng, làn da trơn láng như gấm sa tanh, dưới ánh trăng càng như một khối ngọc, mái tóc mềm như dải ngân hà lả lướt, đôi mắt xinh đẹp và ngũ quan thanh tú, tất cả tạo nên một gương mặt quyến rũ tựa ánh trăng ngời. Gò ngực tròn đầy đặn kiêu ngao dựng đứng lên dưới ánh trăng, khe khẽ rung nhè nhẹ, làn da căng mọng không có lấy một chút mỡ thừa. Bất kể là từ góc độ nào, cô cũng đều lồ lộ ra một sinh mệnh trẻ trung mà tràn đầy sức sống, một đóa hoa tươi đang nở rộ. Babatou nheo nheo mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, hỏi: “Tôi có đẹp không?”

Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu, mặc dù không lên tiếng khen ngợi, nhưng ánh mắt gã đã ngợi khen rồi. Chỉ thấy Babatou uất ức, như một cô bé hờn dỗi: “Nếu tôi gặp được người đàn ông có thể gửi gắm cả đời, tôi sẽ cùng người đó rời xa chỗ này, không bao giờ trở lại rừng già nữa. Lúc nào tôi cũng nghĩ thế, lúc nào cũng vậy.”

Cùng với hơi thở, lồng ngực cô không ngừng bập bềnh lên xuống, Trác Mộc Cường Ba ra hiệu bảo cô ngồi xuống, Babatou lại ôm gối ngồi xuống sát bên gã, dưới ánh trăng, đôi mắt thông minh của cô tựa hai làn thu thủy dập dờn. Cô dõi mắt nhìn xuống bên dưới đàn tế, nơi đó, hơn trăm mái nhà cỏ đang nằm lặng lẽ, đó là toàn thể bộ tộc của cô, trên vai cô đang là sứ mệnh thay đổi vận mệnh của họ. Trác Mộc Cường Ba nhất thời cũng không biết nên nói gì mới phải, an ủi người khác vốn không phải là sở trường của gã, đành chỉ còn biết cùng Babatou chìm đắm trong trầm mặc lặng im. Đêm về khuya, làn gió đêm dịu nhẹ phất phơ mái tóc ai, sao trời nhấp nháy, ánh trăng trắng như tuyết kia đang phủ lên bờ vai ai. Toàn thân Babatou đều được ánh trăng bao bọc, tóc đen như màn đêm, da trắng như vầng nguyệt, cô dường như đã hóa thành một vị nữ thần đang trầm ngâm suy tư, khiến người ta chỉ có thể đứng mãi phía xa mà ngắm nhìn bằng ánh mắt sùng kính. Hơi men lại dâng lên đến tận đầu Trác Mộc Cường Ba, lờ mờ không hiểu vì ai mà say đắm.

Ở nơi trời đất cùng tan chảy ấy, duy chỉ có không gian của nữ thần Mặt trăng là thấp thoáng vang lên âm điệu, tiếng ca đó u oán sầu thương, tựa loài đỗ quyên khóc ra máu, chim hoàng oanh tặng con, khiến người ta nghe mà mềm lòng. Phảng phất như thể một nỗi đau thương từ chốn thiên đàng, đủ để khơi dậy nỗi đau nơi sâu thẳm nhất trong linh hồn người ta. Trác Mộc Cường Ba mê mêm mang mang, cảm giác như trái tim mình cũng bị tiếng ca ấy níu đi, lúc thì hụt hẫng, lúc lại cảm thương, dù không rung động đến nỗi phải khóc thương buồn thảm, nhưng cánh cửa ký ức bị hóa chặt trong nơi sâu thẳm nhất của linh hồn gã, đã bị từng tiếng ca bi tráng thê lương đó, dễ dàng đập nát.

Trác Mộc Cường Ba giật mình sực tỉnh khỏi cơn mộng ảo, thì ra là Babatou đang thấp giọng khe khe hát, dù gã không hiểu ca từ, nhưng âm nhạc vốn không biên giới, đâu nhất định là phải nghe ca từ mới được. Tiếng hát ấy, lúc tựa như gió nhẹ thổi qua rừng rậm, lúc lại như tiếng suối róc rách chảy qua hang núi, lúc như ngàn quân vạn mã sục sôi chiến đấu, lúc như lời rì rầm thân thiết dưới ngàn sao lấp lánh. Trác Mộc Cường Ba im lặng lắng nghe, phảng phất như hiểu được ý nghĩa trong đó, dài dòng như sử thi, bỉ tráng như sử thi, hỉ nộ ai lạc của nhân gian, đường đời đằng đẵng của con người, dường như tất cả đều dập dềnh chìm nổi trong tiếng ca kỳ diệu ấy.

Tiếng ca thấp dần, cuối cùng khúc điệu thay đổi, tựa như khúc nhạc ru con, cảm giác ấy, tựa hồ một người vừa trải bao hiểm nguy, toàn thân mệt mỏi rã rời, cuối cùng cũng trở về trong lòng mẹ. Thư thái, an tâm, không cần phải giả tạo bất cứ điều gì, cũng không tìm được nửa phần hư giả, có thể hoàn toàn thả lỏng, nhắm mắt ngủ một giấc dài. Không biết từ khi nào, Babatou đã ngừng hát, nhưng trong tai Trác Mộc Cường Ba, âm thanh ấy dường như vẫn đang bay bổng trên chín tầng trời, cộng hưởng với mặt đất bao la, âm thanh ấy tựa hồ Phạn âm của chốn Tây Thiên, khiến linh hồn con người ta được thanh tẩy hoàn toàn triệt để.

Trái tim Trác Mộc Cường Ba, chưa bao giờ đập mạnh đến thế, mãi hồi lâu cũng không sao trở lại bình thường được. Babatou lên tiếng nói: “Chỉ khi nào hát bài này, tâm trạng tôi mới đỡ hơn một chút, bao nhiêu phiền não u uất trong lòng đều theo tiếng ca mà tan biến.”

Trác Mộc Cường Ba lấy lại bình tĩnh, hỏi: “Đây là bài hát gì?”

“Là thánh ca của chúng tôi.” Babatou tự hào đáp, “tổ tiên chúng tôi, mang nguồn gốc bộ tộc Kukuer, lịch sử huy hoàng của bộ tộc Kukuer, hòa thành lời ca truyền lại cho con cháu.”Trác Mộc Cường Ba đã qua tuổi gặp chuyện gì cũng hiếu kỳ, song lần này, gã vẫn không cầm lòng được, cất tiếng hỏi: “Bài ca này, là bài ca lịch sử của bộ tộc Kukuer các cô à? Có thể cho tôi biết nội dung được không?”

Babatou nhoẻn miệng cười tươi tắn: “Đương nhiên là được, nhưng mà dài lắm đấy.” Cô bỗng cúi đầu buồn nản: “Cũng tốt, đằng nào sáng mai anh cũng phải đi rồi, nếu không nghe hết cả bài hát này, e rằng cũng là một điều đáng tiếc.”

Lịch sử của bộ tộc Kukuer tái hiện như mộng ảo trong tiếng ca, lịch sử của họ bắt nguồn từ bóng đêm: “Bước ra từ bóng đêm, sinh sống trong hang động, khu rừng đen tối che mất ánh sáng mặt trời, bầu sữa mẹ hóa thành dòng sông lớn…” Đây là một dân tộc yêu rừng sâu, yêu hòa bình, tổ tiên họ sống ở tít sâu trong rừng rậm và các hang động, hữu hảo hòa thuận với các động vật trong rừng, được chư thần ban ơn cho đồ ăn và lửa. Thời gian trôi qua trong tĩnh lặng và hòa bình, không ai thiếu thốn đồ ăn thức uống cả, cây cỏ lương thực tốt tươi, thu hoạch đầy đặn, thế nhưng, “Lũ ác ma phương Bắc, bọn chúng mang đến tội ác, chiến tranh, bệnh dịch và đói khát, bọn chúng nhiều như sao trên trời, bọn chúng chỉ biết chém giết, chém giết không biế mệt mỏi…” Trong trận chiến đó, tổ tiên người Kukuer hoàn toàn không có sức kháng cự lại. Trong thời khắc nguy cấp quyết định sự tồn vong của dân tộc, thần Nadimuke đã chỉ lối đưa đường cho họ, bảo họ hãy đi về phía Nam, trong rặng núi phủ đầy rừng rậm ở phương xa, có một vùng đất bằng, nơi đó rừng cây rậm rạp, nguồn nước phong phú, đất đai màu mỡ, không có nhiều đầm lầy khiến người ta sợ hãi, cũng không phải lân cơn sốt vì bệnh dịch, hoặc run rẩy vì đau đớn. Vậy là, những người Kukuer mang theo vết thương chiến tranh, bắt đầu hành trình di cư bi tráng của mình, dùng máu tươi của muôn ngàn người tưới đẫm mặt đường, tìm kiếm mái nhà tương lai của mình. “Vượt qua chín trăm chín mươi chín ngọn núi màu trắng, băng qua chín mươi chín vạn con sông… mặt trời đỏ như máu treo trên bầu trời, trên tán cây xanh lục là mây đen vần vũ… trong rừng không dấu chân người, vô số người đã chết vì đói khát… người trẻ tuổi đều đã chết vì già, lũ trẻ con cũng biến thành những ông bà tóc bạc da mồi, chúng tôi chưa bao giờ dừng lại, một giây một khắc cũng không dừng…”

Thủ lĩnh đổi hết đời này sang đời khác, trải qua bốn năm Katun (2), vượt bao khó khăn gian khổ, tổ tiên người Kukuer được tộc trưởng và đại tế sư lãnh đạo, vẫn kiên định tiếp tục tiến lên. Cuối cùng, họ đã tìm thấy bình nguyên, nơi đó không có chiến tranh, không có đói khát. Ở nơi đó, họ dung đá tảng dựng lên một tòa thành lớn màu trắng, đặt thánh miếu trên nơi cao nhất, thành thị có chùa miếu, cung điện và bảo tháp này càng lúc càng lớn, nó là tòa thành lớn nhất, bình yên nhất trong tất cả các tòa thành ở vùng đất này, nơi đây tựa như một gia đình lớn, tất cả mọi người đều sống hòa thuận bên nhau. Ngày tháng trôi qua trong cuộc sống yên bình mà sung túc, nhưng rồi sau đó con người lại làm ngơ trước lời cảnh cáo của thần Nadimuke trí tuệ cao vời: “Một khi để máu tươi làm bẩn bậc thềm đền thánh, vô số tai nạn sẽ như mưa đá dồn dập đổ xuống khắp nơi, tòa thành sẽ trở thành một thành phố chết, không một bóng người.”

Khi đó, để báo thù, trả đũa bọn xâm lăng từ phương Bắc, người đứng đầu bộ tộc hồi ấy đã khởi động tế lễ hủy diệt của Yinawea để lại, khi máu tươi nhuộm đỏ tất cả bậc thềm đền thánh, tai họa đã giáng xuống…khi máu và sự chém giết đều bị nhấn chìm trong lịch sử, kẻ thống trị tà ác kia cũng bắt đầu sợ hãi và trầm tư, tòa thành màu trắng vĩ đại bắt đầu trở nên hoang lương, bốn bề đều mù mịt trong bầu không khí chết chóc, nền văn minh từng một độ huy hoàng đã trượt xuống con dốc suy vong trong tay không ta. Để trừng phạt bản thân, ông ta hạ lệnh chôn mình bên dưới đền thánh, cùng một chỗ với những vong hồn đã hiến lên sinh mạng của mình trong các lễ tế, trong điện thánh đốt ngọn đèn ngàn vạn năm không bao giờ tắt, dẫn lối chỉ đường cho các linh hồn đang bị đọa đày chốn địa ngục vĩnh viễn không thể siêu sinh kia. Cửa lớn không bao giờ đóng lại, để người đời sau có thể đến hành hạ thi thể ông ta bất cứ lúc nào, để thân thể và linh hồn của ông ta đều chịu đày đọa và nguyền rủa trong địa ngục sâu thẳm nhất. Kẻ gây ra tai họa, đã tự trừng phạt mình bằng cách tàn khốc nhất, nhưng tất cả đều không ích lợi gì, tòa thành ấy cuối cùng cũng biến thành một thành phố chết. Người Kukuer không thể không từ bỏ tòa thành họ đã dựng nên bằng máu và nước mắt đó, tiếp tục đi sâu nữa vào rừng, tìm một vùng đất mới, bọn họ sẽ tiếp tục tìm kiếm…

Trác Mộc Cường Ba chỉ lẳng lặng lắng nghe, thậm chí không có cả cơ hội nói xen vào, cả đoạn sử thi viết bằng máu và nước mắt của người Kukuer, đã được tiếng ca du dương trầm bổng kia miêu tả tường tận và sinh động, máu tanh sát phạt của lời nguyền trong đền thánh khiến người ta không lạnh mà run, cả bài ca ấy như một đoạn lịch sử truyền kỳ đậm sắc thái thần thoại. Trác Mộc Cường Ba lấy làm khâm phục trước sự dũng cảm và lòng kiên định của tổ tiên người Kukuer, gã cũng hiểu và cảm nhận được áp lực vô hình đang đè nặng trên vai Babatou. Một luồng trọc khí dâng trào lên cơ thể, tắc nghẽn ở ngực, gã đột nhiên muốn tìm người để dốc lòng, bất kể là ai cũng được. Vậy là, gã lè nhè cất tiếng: “Con người, không nhất định là phải thay đổi cái gì, nhưng nhất định phải tìm thấy chính mình. Muốn tìm được chính mình, kỳ thực cũng rất dễ dàng, có lúc, chỉ cần có thêm một chút quyết tâm và dũng cảm là được rồi. Muốn biết tại sao tôi muốn băng qua khu rừng này không?”

Babatou mở to mắt, nhoẻn miệng cười gật đầu.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Để tôi kể hai chuyện trước, chuyện đầu tiên, chính là bạn của tôi. Tôi là người Tạng, Tây Tạng ở Trung Quốc ấy, có biết không? Ở đó có núi Tuyết, đỉnh Chomolungma, cao nhất thế giới. Nhưng nhà tôi không ở đấy, chỗ chúng tôi ở thấp hơn nhiều, là một làng nhỏ rất hẻo lánh hoang vu, đến đầu thế kỷ mười chín vẫn còn chưa thông xe, khắp nơi đều là rừng nguyên sinh, gần nhà tôi có mấy ngọn núi lớn, trong núi rừng sâu cỏ rậm, chẳng hề thua kém rừng rậm ở nơi này chút nào.”

Trác Mộc Cường Ba cúi đầu trầm ngâm: “Hồi tôi còn nhỏ, khi ấy tình hình rất phức tạp, những người xung quanh vừa kính lại vừa sợ nhà chúng tô, bọn trẻ con chẳng đứa nào muốn chơi với tôi cả, đến một người bạn để nói chuyện tôi cũng không có nữa. Hơn nữa, người ta nhà nào cũng nuôi chó, chỉ mỗi nhà tôi là không, vì vậy, tôi chỉ biết chơi một mình. Có lúc tôi nghĩ, cho dù không có bạn, bố mẹ có thể cho tôi nuôi một con chó nhỏ cũng tốt, nhưng mà…” Trác Mộc Cường Ba cười khổ lắc đầu, lại nói: “Gan tôi lớn lắm, những nơi người khác không dám đi tôi cũng dám đi, tôi thường một mình lẻn vào trong ngọn núi gần nhà, ở chỗ ấy, có một đàn sói sinh sống.”

“A.” Babatou thấp giọng kêu lên. Trác Mộc Cường Ba cười cười, nói: “Nhưng tôi chẳng sợ chút nào, bọn chúng chỉ bắt lũ động vật nhỏ như thỏ hoang, chồn nhỏ để ăn thôi, nếu không tới lúc cự kỳ đói, chúng sẽ không đụng đến con người đâu. Mặc dù khi ấy tôi còn chưa biết, nhưng đích thực là bọn chúng không hề hung ác như người ta vẫn thường nói, ngược lại, tôi cảm thấy chúng còn hơi sợ tôi nữa cơ. Chân trái của con sói già đầu đàn bị tật, lúc tôi gặp nó, mặt con sói ấy đã có nhiều nếp nhăn lắm rồi. Trong làng người ta vẫn nói, sói già thì thành tinh, nói biết trẻ con không thể tấn công được mình, thế nên khi thấy trẻ con sẽ không chạy, chỉ khi nào thấy đàn ông trưởng thành mới chạy thôi. Nhưng mà, nó cũng không ăn thịt tôi như người trong làng đồn đãi, khi ấy tôi nhìn nó, nó nhìn tôi, lúc ấy tôi nghĩ, sói thì có gì mà đáng sợ chứ, bọn chúng gần như giống hệt như lũ chó trong nhà chúng ta thôi, khác mỗi một điều là chúng không biết vẫy đuôi. Tôi người xổm xuống, nói chuyện với sói đầu đàn, tôi nhớ lúc ấy mình nói nhiều lắm, tôi nghĩ là, bọn sói ấy đại để cũng hiểu được hầu hết những gì mình nói, chỉ là những gì chúng muốn biểu đạt, chúng ta chưa hiểu được mà thôi. Tóm lại, đó là một trải nghiệm vô cùng kỳ quái, tôi có thể tiếp xúc với lũ sói mà người ta không dám lại gần, về sau, khi tôi muốn nói chuyện, tôi thường tới chỗ ấy, tìm chúng nói chuyện. Năm đó, tôi mới bảy tuổi.”

Babatou cảm thán: “A, gan anh to thật đấy.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Về sau tôi và chúng trở nên rất thân thuộc, tôi coi chúng như bạn mình, chúng hình như cũng rất hòa thuận với tôi, lúc đó tôi cũng chẳng biết vì sao, chỉ cần có bạn cho mình dốc lòng tâm sự, là tôi đã thỏa mãn lắm rồi. Có khi tôi cũng mang theo chút đồ ăn, hoặc có lúc phải cách mấy tháng tôi không ra ngoài được, nhưng lần nào đến, chúng vẫn nhận ra tôi, người khác thì tuyệt nhiên không được lại gần. Năm tôi mười bốn tuổi, con sói già bỏ đi, rời khỏi bầy sói, một mình đi sâu vào núi, mặc dù không con sói nào có thể nói cho tôi biết nó đã đi đâu, đi lúc nào. Nhưng khi ấy tôi đã hiểu rất rõ, nó đã bị con đầu đàn mới đánh bại rồi, con đầu đàn mới có bộ lông xám sẫm đó rất cường tráng, đã ngấp nghé vị trí đầu đàn từ lâu rồi. Sói đầu đàn già bỏ đi, nó sẽ một mình lên đỉnh núi tách xa hẳn đàn sói, hướng về phía mặt trăng mọc, lặng lẽ chờ chết. Bọn sói đổi thủ lĩnh mới, nhưng quan hệ của toio6 và bọn chúng cũng không bị ảnh hưởng gì, tôi vẫn có thể đến tìm chúng nói chuyện, chúng cũng đã quen với sự tồn tại của tôi, tựa hồ như tôi đã là một phần tử của bọn chúng rồi vậy, cứ thế cho tới khi tôi hai mươi tuổi. Rất nhiều năm sau tôi mới biết, thì ra sâu trong những ngọn núi đó, còn có một bộ tộc tên gì Qua Ba chung sống với lũ sói, bọn sói đấy, rất có thể là hậu duệ của lũ sói đã sống cùng người Qua Ba, chúng vẫn giữ tập tính sống gần con người, vậy nên mới dễ dàng để tôi tiếp cận như vậy. Vì thế, bạn của tôi là một đàn sói, đây là bí mật cá nhân của tôi, đến cả bố mẹ tôi cũng không định nói. Bởi vì mỗi khi trong lòng tôi có suy nghĩ hay bí mật gì đó, tôi chỉ nói với những người bạn đó, bọn chúng sẽ giúp tôi giữ bí mật, cho tới một ngày, trong đời tôi, xuất hiện một người bạn khác để cùng chia sẻ bí mật.”

(1) Thủ đô của Colombia

(2) Katun là đơn vị năm trong lịch của người Maya, một năm Katun dài 7.200 ngày, bằng khoảng 20 năm theo lịch hiện đại.

Duyên tình mờ mịt

Trác Mộc Cường Ba lầm rầm kể: “Người đó, là em gái tôi, nhỏ hơn tôi mười ba tuổi, nếu nó vẫn còn sống, chắc là cũng suýt soát tuổi cô đấy. Cô xem đi, đây là ảnh nó hồi nhỏ.” Babatou trông thấy ảnh một cô bé tầm năm sáu tuổi đã ngả vàng, Trác Mộc Cường Ba hình như lúc nào cũng mang sát bên mình thì phải. Cô biết, đây nhất định là bí mật chôn giấu tận nơi sâu thẳm nhất trong lòng Trác Mộc Cường Ba, hoặc cũng có thể là, nỗi đau chôn giấu sâu nhất của gã. Cô bé trên tấm ảnh có đôi mắt to rất đáng yêu, tóc mái để lòa xòa, mái tóc xinh xắn ánh lên như hắc trân châu, gương mặt trắng mịn dễ thương đầy vẻ hoạt bát tinh nghịch, nụ cười thuần khiết đó tựa như đóa sen tuyết mới nở, vầng trán cũng lờ mờ thấp thoáng phong cách hào sảng của anh trai Trác Mộc Cường Ba của cô.

Trác Mộc Cường Ba tiếp lời: “Tính cách của em ấy hoàn toàn khác với tôi, từ nhỏ nó đã nhát như con thỏ trắng nhỏ, ngoại trừ lúc ở cùng tôi, nói chuyện một câu với thằng bé nào khác là nó cũng đỏ bừng mặt lên. Lúc em gái ra đời, tôi đã không thường ở nhà nữa mà chạy lông nhông khắp nơi rồi, nhưng mỗi lần tôi về đến nhà, anh em đều rất thân thiết, dù sao nó cũng là em gái cùng cha cùng mẹ với tôi mà! Em gái sẽ mang bí mật nhỏ trong lòng nó chia sẻ với tôi, nó sẽ giấu món kẹo ngon nhất, món điểm tâm ngon nhất đi, đợi tôi về cùng ăn, dù có lúc đem ra, kẹo đã tan chảy, điểm tâm đã hỏng, tôi cũng nhiều lần bảo nó rồi, nhưng nó vẫn cứ làm thế, đem những thứ trong lòng nó cho là tốt nhất chia sẻ với anh trai. Nó, nó là một cô bé ngốc nghếch đáng yêu như thế đấy.” Kể tới đây, mắt Trác Mộc Cường Ba bỗng đỏ lựng lên, lần đầu tiên trong đời Babatou nhận ra, dù người đàn ông có anh dũng đến nhường nào, anh ta cũng có lúc phải đau lòng xót ruột.

“Em gái tôi thường hay nói với lũ bạn nó, rằng nó có người anh trai tài giỏi, anh trai nó đã đi rất nhiều nơi, gặp rất nhiều người, anh trai nó vừa dũng cảm, lại vừa thông minh. Lúc nói những điều này, đúng là nó rất tự hào, tôi cũng thấy hết sức tự hào vì có đứa em gái như nó, vừa khả ái vừa thông minh, nghịch ngợm mà lanh lợi. Em gái tôi khi ấy là viên ngọc trong nhà, lúc có nó, cả nhà lúc nào cũng tràn ngập niềm vui. Những lúc ấy, tôi cảm thấy nhà mình là gia đình hạnh phúc nhất, hoàn mỹ nhất trên đời này.” Trác Mộc Cường Ba cố kìm nén bi thương, cả ngữ điệu cũng ép xuống: “Thực ra hoàn cảnh của cô và tôi khá là giống nhau, bố tôi ở quê, cũng là một người rất được tôn kính. Nhưng tôi khác với cô, mười bốn tuổi tôi đã một mình rời khỏi Tây Tạng ra thế giới bên ngoài tìm đường phát triển, sau đó lang bạt khắp nơi, vừa làm thêm vừa tự kiếm tiền đi học. Mười chín tuổi tôi đã kiếm được một món tiền kha khá, tôi rất tự hào trở về nhà, chứng minh với bố mẹ rằng mình đã tự sinh tồn được rồi, lúc ấy em gái tôi mới bảy tuổi, dễ thương y như trong hình này vậy. Tôi ở nhà một thời gian, thỉnh thoảng lại đi gặp những người bạn kia của mình, lần đó, người em gái đã biết bí mật này của tôi, xin tôi dẫn nó đi cùng. Trước đó bố tôi đã nhắc nhở, bên ngoài dường như có điều gì bất ổn, bảo tôi phải chú ý an toàn cho em gái, nhưng tôi chẳng buồn để tâm. Tôi thuở đó thì biết sợ là cái gì chứ, tôi chẳng sợ gì cả, tôi lúc ấy cứ ngỡ mình đã từng trải sự đời lắm, cứ ngỡ mình thừa sức bảo vệ em gái. Em còn nói với tôi, chỉ cần có anh trai ở bên, nó cũng không sợ gì hết, nó muốn đi gặp bạn của anh, nếu được, nó còn muốn làm bạn tốt với những người bạn của anh trai nữa.”

Trác Mộc Cường Ba đưa hai tay lên ôm đầu, chìm vào trong những ký ức hỗn loạn, gã bi phẫn kể tiếp: “Không ngờ rằng, số mệnh xoay chuyển chỉ trong chớp mắt. Tất cả đều như một cơn ác mộng, tôi không biết bọn người ấy, không hiểu chúng từ đâu đột nhiên xông tới, tôi liều mạng chống cự nhưng cũng chẳng ích lợi gì, sau khi bị một tên cao lớn đập trúng đầu, tôi ngã gục xuống. Đáng lẽ, đáng lẽ tôi phải bò dậy đuổi theo bọn chúng, thế nhưng lần đó, tôi lại sợ hãi. Tôi sợ cái đau tựa hồ muốn vỡ nát xương cốt ấy, càng sợ hơn là đôi mắt như loài rắn độc của hắn, bọn người đó tên nào tên nấy đều vô cùng hung ác, tựa như chúng chui từ địa ngục lên vậy. Tôi mở mắt trân trân ra nhìn em gái duy nhất của mình bị người ta kéo đi, nó ra sức giãy giụa cũng vô dụng, bọn người đó còn khỏe hơn cả bò Tây Tạng nữa; nó gào hét gọi anh trai, nhưng anh trai nó, lại do dự. Chần chừ mấy giây, em gái tôi đã bị bọn người kia lôi lên xe, tôi vốn không nên chần chừ chút nào, đúng vào khoảnh khắc xe hơi nổ máy, bạn tôi, con sói đầu đàn mới kia đã đuổi tới, nó gầm lên xông thẳng vào chiếc xe, chui tọt vào trong đúng lúc cửa xe sập lại. Nhìn chiếc xe đi xa dần xa dần, tôi mới giật mình sực tỉnh, tôi bắt đầu đuổi, cật lực đuổi theo, nhưng ô tô chạy càng lúc càng xa, cuối cùng thì biến mất khỏi tầm mắt. Còn tôi và lũ sói còn lại, chỉ biết nhìn theo đám khói bụi mờ mịt bị chiếc xe kia cuộn lên. Kể từ đó trở đi, đám người kia tựa hồ như bốc hơi vậy, không tài nào tìm được bọn chúng nữa.”

Giọng Trác Mộc Cường Ba nhỏ dần nhỏ dần: “Cho tới khoảnh khắc con sói đầu đàn nhảy lên, tôi mới cảm thấy, dũng khí và quyết tâm bảo vệ em gái của mình, còn chẳng bằng người bạn của mình, một con chó sói. Ra sức rèn luyện thân thể, chẳng qua chỉ để tìm thấy vỏ bọc che đi sự yếu hèn trong nội tâm; bỏ nhà ra đi, chỉ là để trốn tránh trách nhiệm gia đình mà lẽ ra tôi phải gánh vác; tìm kiếm của cải, chỉ là để mở lối thoát cho việc chối bỏ sứ mệnh đáng lẽ mình phải kế tục. Tôi không sợ chó sói, tại sao lại sợ đám người độc ác như sói ấy? Chuyện đã xảy ra rồi, có tự trách với đau buồn cũng chẳng ích gì, tôi đành nói hết sự tình với cha. Cha tôi đã dùng đến tất cả các lực lượng có thể sử dụgn để tìm kiếm em gái, nhưng trước sau vẫn không thể tìm được. Về sau tôi mới biết, bọn bắt cóc muốn dùng em gái tôi để đổi lấy cổ kinh Ninh Mã gia truyền của nhà tôi, còn cha tôi, sau khi nhận được thông báo ấy, liền lập tức liên hệ với chính quyền khu tự trị và Bố Đạt La cung, quyết định hiến tặng cổ kinh Ninh Mã cho nhà nước vô điều kiện. Bây giờ tôi vẫn còn nhớ rất rõ, cha chỉ nói với tôi thế này, Mày chưa làm hết trách nhiệm của một người anh. Câu nói đó, đã đủ để làm tôi dằn vặt cả đời rồi. Khi tôi đờ đẫn đi vào trong núi, muốn dốc mình tâm sự với bạn bè, thì chợt nhận ra, bất kể tôi gào thét thế nào, đám bạn ở bên tôi suốt thuở thiếu thời ấy, không bao giờ xuất hiện trước mặt tôi nữa. Nhất định là bọn chúng đã cho rằng, chính tôi là kẻ dẫn người khác đến bắt sói đầu đàn đi, tôi đã mất đi sự tín nhiệm của chúng. Trong một ngày hôm đó, tôi đã mất đi bạn bè, cùng người em gái thân thiết nhất.”

Một giọt nước mắt lặng lẽ lăn qua các kẽ ngón tay, trong đêm khuya tĩnh lặng, giọt xuống sàn gỗ, phát ra một tiếng “tách”, tựa như mặt hồ phẳng lặng bỗng lăn tăn gợn sóng. Van chặn đã được mở, không còn khống chế nổi tình cảm cuộn trào lên, giọng nói khan khàn bi tráng kia của Trác Mộc Cường Ba lại vang lên, lúc được lúc mất: “Ngày hôm đó, đã triệt để thay đổi cuộc đời tôi. Tôi không sao xóa đi được ý nghĩ, nếu lúc đó tôi dũng cảm hơn một chút, kiên trì thêm một giây nữa thôi, hoặc giả tình huống đã thay đổi, nỗi nhớ em gái, tựa như cỏ dại sinh sôi nảy nở trên đồng hoang, tôi đã không làm nổi chuyện một người anh trai cần làm. Tôi ra sức tìm kiếm đầu mối, dùng hết đủ cả mọi cách, nhưng trời cao kia không cho tôi cơ hội làm lại. Mặc dù lúc cha tôi đưa ra quyết định tàn nhẫn kia, mọi người đều biết hậu quả rồi sẽ rất đáng sợ, nhưng ngày nào còn chưa tìm thấy thi thể em gái, tôi vẫn có lý do để tin rằng, nó vẫn còn sống trên đời này. Tôi ghét cha mình, bởi vì ông ấy đã đẩy em gái tôi vào đống lửa, nhưng tôi càng căm hận bản thân hơn, thì ra bản thân tôi lại hèn nhát yếu đuối như vậy, tôi cũng không thể nào đối diện với gương mặt ngày một tiều tụy ấy của mẹ, lại một lần nữa, tôi chọn cách trốn tránh, thời gian về nhà càng lúc càng ít. Tôi bắt đầu vừa làm việc, vừa tìm kiếm em gái, tìm kiếm mà chẳng có đầu mối gì trong tay, cả công việc cũng tiến hành với thái độ gần như điên cuồng…”

Trác Mộc Cường Ba mở hòm chứa bí mạt trong lòng, chỉ hận không thể dốc hết những chuyện lận đận trong đời mình ra trong một đêm này. Khi ấy, không có đầu mối nào về em gái, gã mang đầu mối đặt lên những người bạn sói, vì vậy mà bắt đầu nghiên cứu với loài động vật đặc biệt này, được giáo sư Phương Tân hướng dẫn, gã đã đi đến một cảnh giới mới trong nghiên cứu về động vật họ chó. Gã bị sự cố chấp và lòng trung thành của loài vật này khiến cho xúc động, từ chúng, gã học được cách làm người và kết bạn, cách tuân thủ lời hứa của mình, cách bảo vệ tín niệm của bản thân. Không biết tự bao giờ, gã buông bỏ tất cả sự nghiệp trước đó, dồn hết tinh lực cả đời vào nghiên cứu động vật họ chó, gã gần như điên cuồng lao vào công việc chỉ là để làm tê liệt bản thân, hy vọng có thể mượn việc này mà quên đi cảm giác tội lỗi trong lòng. “Nhưng đều vô dụng, mỗi lần đêm khuya tĩnh lặng, tôi lại một mình chìm vào mộng mị, đôi mắt đầy trông đợi của em gái lúc bị đám người kia bắt đi cứ không ngừng tái hiện trong những giấc mộng ấy. Anh trai vẫn còn đấy, anh trai nhất định sẽ đánh đuổi lũ người xấu, cứu em về, lúc đó hẳn là nó đã nghĩ như thế. Tôi biết, đôi mắt chan chứa mong chờ ấy đã vĩnh viễn trở thành cơn ác mộng của tôi, khắc ghi vào tận góc sâu thẳm nhất của linh hồn, làm tôi đau đớn khôn nguôi, cả đời này cũng không thể nào chuộc tội được. Muốn được mạnh hơn, tôi càng ra sức luyện tập thể năng, sau khi nghiên cứu về loài chó ở trường đại học, tôi đã trở về Tây Tạng đoạt Khố bái ba năm liền, nhưng thế thì có ích gì đâu chứ? Em gái vẫn bặt vô âm tín, sống hay chết, giờ nó đang ở đâu? Tôi thật mong có thể gặp lại nó dù chỉ một lần, đó là tâm nguyện nhỏ nhất của tôi, tâm nguyện chỉ đơn giản có thế…” Trác Mộc Cường Ba nói tới đây, lớp vỏ bọc kiên nghị cứng rắn kia đã hoàn toàn trút bỏ, người đàn ông cứng rắn như sắt thép ấy cuối cùng cũng khóc không thành tiếng.

Mắt Babatou đã đỏ hoe lên từ lâu, cô nhìn gã đàn ông đối diện với mình bằng ánh mắt hết sức thương hại, không ngờ bên dưới lớp vỏ bọc lạnh lùng kia, lại là một trái tim tình nghĩa sâu nặng đến thế. Cô dịch người lại, ôm Trác Mộc Cường Ba vào lòng, lấy bầu ngực sưởi ấm gương mặt đã ướt nhẹp của gã, cho gã sự từ ái của người mẹ, chỉ nghe Trác Mộc Cường Ba thấp giọng nghẹn ngào tiếp lời: “Tôi không chỉ muốn làm tê liệt cơ thể mình, mà còn cả linh hồn nữa, tôi thà tin vào những gì cha nói, người nào cũng có số mệnh của mình, luân hồi ba kiếp, trước khi sinh ra trên đời này, vận mệnh của người ta đã được quyết định rồi. Thế nhưng, những lời đó đều chỉ là giả dối thôi, căn bản là tôi không thể ép mình tin vào chúng được, thực ra, tất cả đều là lỗi của tôi, chẳng những làm mất em gái, mà còn đẩy một gia đình hạnh phúc chìm vào địa ngục, làm bạn bè mất đi một chút tín nhiệm cuối cùng với con người. Lòng tôi, đau lắm!”

Babatou lấy ra một thứ giống như vỏ cây, đưa vào miệng Trác Mộc Cường Ba, nói: “Anh nhai đi, sẽ cảm thấy dễ chịu hơn đấy. Đây là thánh dược thần linh đã ban tặng cho người Kukuer để giải trừ nỗi đau trong lòng, biến tất cả những điều không vui trở thành ký ức ngắn ngủi, nó sẽ đưa anh băng qua địa ngục thẳng đến thiên đường.”

Trác Mộc Cường Ba không từ chối, đây là lúc gã đang cần được giải thoát, thà rằng tin vào tác dụng của thần dược, cho dù tác dụng của nó chỉ ngắn ngủi trong nháy mắt cũng được. Thứ mềm mềm nhũn nhũn như cao su, mới đầu nhai thấy đắng chát, nhưng chỉ chốc lát đã trở nên ngòn ngọt, nước bọt tứa ra đầy miệng, một mùi hương kỳ dị xộc thẳng từ miệng lên mũi, cảm giác phiêu phiêu dị dạng, làm đầu óc choáng váng nửa tỉnh nửa say của gã tỉnh hẳn lại, đồng thời toàn thân cũng bắt đầu nóng lên.

Trác Mộc Cường Ba tỉnh táo trở lại, lập tức ý thức ra hiện trạng của mình, gã ngừng khóc. Lau khô mặt, ngại ngùng dịch người ra khỏi bầu ngực Babatou, lẩm bẩm nói: “Ừm, tôi bị sao thế nhỉ? Vốn là định khuyên cô, sao lại trở thành cô an ủi tôi vậy. Thật tình, nói với cô nhiều quá rồi, còn chuyện kia, cô cũng không cần để tâm đến sứ mệnh của mình làm gì, tất cả cứ thuận theo tự nhiên đi.”

Babatou cũng không nhắc lại chuyện xưa thương tâm của Trác Mộc Cường Ba, chỉ thuận theo lời gã nói: “Anh chẳng bảo tôi phải tìm lấy chính mình còn gì, anh đã tìm được chính mình chưa?” Cô không khỏi ngạc nhiên, lượng thuốc như vậy, nếu người đàn ông nào khác dùng phải, chắc đã có phản ứng ngay rồi, nhưng người này chẳng những không có phản ứng gì, mà ngược lại còn tỉnh táo hơn nữa.

Trác Mộc Cường Ba trầm tư: “Tôi nghĩ, nếu đúng là có số mệnh, vậy thì có lẽ là Phật tổ hy vọng tôi đi tìm những người bạn giống chó quý hiếm kia, làm quen với chúng, phát hiện ra giá trị của chúng cũng nên. Từ nhỏ, chúng đã làm bạn với tôi, lớn lên cùng tôi, về sau này, đời tôi cũng không bao giờ rời xa chúng, nhờ tìm hiểu và nhận thức, chúng cũgn giúp tôi tạo ra nhiều tài sản. Đặc biệt, là từ sau khi tôi biết đến một loài động vật gọi là ngao.” Trác Mộc Cường Ba bắt đầu giới thiệu, từ nhỏ gã đã được nghe bao nhiêu thần thoại và truyền thuyết về chó ngao như thế nào, sau này lại biết đến ngao ra sao, chuyện tình yêu của gã, công ty của gã, tất cả những gì của gã ngày hôm nay đều không tách rời khỏi quan hệ với chó ngao, cuối cùng thì kể đến chuyện phát hiện tấm ảnh Tử Kỳ Lân, cùng chuyến đi băng rừng mạo hiểm lần này của gã và bọn Trương Lập. Babatou nghe mà trợn tròn cả mắt lên, kinh ngạc không ngờ thế giới bên ngoài và cuộc đời của Trác Mộc Cường Ba lại đặc sắc như thế, đồng thời cô lại càng kinh ngạc hơn trước thể chất và ý chí như sắt đá của gã đàn ông này.

Cuối cùng, Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi tin chắc rằng, đây chính là số mệnh của mình, nếu biết rõ rằng trên thế gian này có tồn tại một loài như thế, mà tôi lại thờ ơ bỏ qua, thì tôi sẽ hối hận cả đời mất. Kỳ thực, khi của cải và quyền lực có thể chi phối trong tay cô đạt tới một mức độ nào đấy, nhu cầu về vật chất từ lâu đã không còn thỏa mãn được bản thân nữa, mà phải cần đến tinh thần và tín niệm mới làm cho sinh mệnh của mình phát huy tới mức cực điểm, không bị những chuyện vặt vãnh thường ngày làm mình chìm đắm, rồi lãng phí cuộc đời đi. Mỗi người đều trải qua một giai đoạn lịch sử nhất định, nhưng không phải giai đoạn lịch sử nào cũng được ghi lại, con người ta cũng không thể sốn mãi trong ký ức, chỉ có nắm được hiện tại, thì mới có thể khiến cuộc đời ta càng thêm ý nghĩa hơn mà thôi.”

Babatou nói: “Nghe cứ như luận ngôn của triết học phương Tây vậy, đây là bản thân anh tự lĩnh ngộ ra à?”

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Không, bố tôi nói đấy. Đi thôi, thời gian không còn sớm nữa đâu, trời sáng là tôi phải đi luôn rồi.” Dứt lời, gã liền đứng dậy, đột nhiên thấy đầu hoa mắt váng, cảm giác như trời đất xoay chuyển, ngũ quan đều mất đi cảm giác. Babatou vốn đang thất vọng nhìn Trác Mộc Cường Ba đứng lên, kế đó lại thấy gã lảo đảo loạng choạng, khóe miệng liền nở ra một nụ cười.

“Nhức đầu quá, thứ rượu của người Kukuer này mới uống thì chưa thấy gì, không ngờ ngấm vào lại ghê thế.” Trác Mộc Cường Ba mở mắt ra, nhìn nóc nhà lợp cỏ, mệt mỏi duỗi người trên giường, nhớ lại, “Đêm qua lúc tan tiệc, mình lên đàn tế với Babatou, lúc ấy rượu ngấm xộc lên đầu, toàn thân không còn chút sức lực, ừm, hình như mình và cô ấy nói rất nhiều chuyện. Hình như mình còn nói chuyện em gái với cô ấy nữa. Tối qua làm sao vậy nhỉ? Xưa nay mình có nói những chuyện đó với ai đâu, cả Mẫn Mẫn cũng đâu có nói, mình còn tưởng sẽ không bao giờ nói chuyện này với bất cứ ai nữa chứ. Ừm, Mẫn Mẫn, không biết nhóm của họ bây giờ thế nào rồi, tối qua sao lại mơ thấy… với cô ấy chứ, thôi bỏ đi, giờ đáng lẽ phải lo cho sự an nguy của cô ấy nhiều hơn mới phải, không ngờ mình vẫn còn nghĩ đến chuyện kia được. Đúng rồi! Tối qua mình đã nói với Babatou mục đích của chuyến đi lần này thì phải? Hình như là có, sao mình không nhớ nổi nhỉ? Sao mình về được căn phòng này? Lẽ nào lâu nay bỏ bê luyện tập, tửu lượng kém đi rồi? Xem ra sau này tốt nhất là uống bớt đi thì hơn, mình cũng đâu còn trẻ như bọn Trương Lập nữa. Phải rồi, hình như mình còn khóc nữa, chẳng lẽ mình khóc thật? Hai mươi mấy năm chưa từng rơi lệ, lại khóc trước mặt một người đàn bà xa lạ hay sao?” Trác Mộc Cường Ba xoa xoa gương mặt căng thẳng, cơ hồ như nước mắt vẫn còn để lại dấu vết trên đó.

“Anh tỉnh rồi à?” Babatou bê một chậu gỗ vào phòng, trên miệng nở nụ cười rạng rỡ như hoa đào tháng Ba, hôm nay trông cô đẹp một cách lạ thường, ánh mắt lúng liếng đong đưa, tình ý dạt dào. “Ừm,” Trác Mộc Cường Ba thoáng đỏ mặt, tối qua thổ lộ tâm sự, giờ gã không dám nhìn thẳng vào mặt Babatou nữa, kỳ thực, trong lòng gã cũng có chút hồ nghi, đêm hôm qua, liệu có phải gã và Babatou đã… mặc dù gã lập tức triệt tiêu ý nghĩ hoang đường đó khỏi đầu óc mình, nhưng cảm giác thỏa mãn kèm chút rã rời mệt mỏi đó là thế nào đây?

“Rửa mặt đi.” Babatou để chậu gỗ xuống trước giường, nước trong dập dềnh, một chiếc khăn bông tỏa mùi hương tươi mát vắt trên thành chậu, dường như cô cũng không được tự nhiên thoải mái như hôm qua nữa, cơ thể đã được che lại một cách cẩn thận. Trác Mộc Cường Ba còn tưởng rằng tại mình để lộ ý nghĩ hoang đường ấy ra mặt, làm người ta thấy khó xử, nhưng gã nào biết rằng, Babatou chỉ muốn che đi những vết móng tay, vết răng cắn ở những chỗ da mềm kia thôi.

Rừng Than Thở

Bữa sáng là mấy loại hoa quả lạ lùng và một ít đồ ăn làm từ bột mì, ngồi bên chiếc bàn lớn dùng để chiêu đãi khách quý, Trương Lập thì thầm hỏi Nhạc Dương: “Theo như cậu điều tra, tối qua cô Babatou và Cường Ba thiếu gia đã lẻn đi đâu vậy? Cậu biết đấy, tôi uống hơi nhiều chút nên chỉ thấy họ cùng lủi đi, nhng không biết đi đâu cả.”

Nhạc Dương cảnh giác liếc nhìn sang phía Trác Mộc Cường Ba một cái, rồi cũng thấp giọng trả lời: “Đêm qua ấy à, sau khi chúng ta đều về nghỉ hết, họ đã đến đàn tế.” “Ra đấy làm khỉ gì nhỉ?” “Uầy, thế mà còn phải hỏi à, vậy mà cũng không hiểu, anh nghĩ thử xem, cô nam quả nữ, đêm khuya thanh vắng… cái đó cái đó ấy, hiểu chưa.” “Nhưng mà đàn tế là nơi của thần thánh cơ mà, họ dám… ở đó sao?” “Vậy mới bảo anh chẳng hiểu chuyện gì hết, đối với người bình thường trong bộ lạc thì đàn tế ấy là nơi thần thánh bất khả xâm phạm, muốn lên trên ấy cũng còn chưa đủ tư cách ấy chứ. Nhưng anh thử nghĩ ngược lại mà xem, chính vì không ai dám lên trên ấy, thế nên đối với người có địa vị đặc biệt như cô Babatou mà nói, đó chẳng phải là nơi tuyệt nhất để vụng trộm yêu đương hay sao? Dù có bị người ta phát hiện, chất vấn hỏi han, họ cũng vẫn giải thích đường hoàng, ừm, có bài hát thế nào ấy nhỉ… đều là tại mặt trăng cả đấy thôi…” “Ừm, hiểu rồi, nhưng mà, nhìn nét mặt hai bọn họ, hình như là không giống đã xảy ra chuyện gì thì phải?” “Hì, năng lực tư duy có thế, thật là hổ cho thân phận đặc cảnh của anh đấy. Cái gì gọi là giấu đầu hở đuôi, anh có biết không?” “Hiểu rồi. Có điều tối qua cậu ở với tôi cơ mà, sao nói như là đã chính mắt nhìn thấy vậy?” “Anh… anh hiểu cái khỉ gì chứ, bây giờ tác giả hạng ba nào chẳng viết thế, phát triển như thế là tự nhiên nhất rồi còn gì.”

Sau bữa ăn, Babatou lấy ra một cuộn giấy, và một tấm bản đồ, nói với bốn người: “Mọi người xem cái này trước đi, đây là bản đồ tường tận nhất do chính phủ vẽ ra.”

Ba Tang chăm chú quan sát tấm bản đồ, đoạn hỏi: “Chúng ta đang ở đâu?”

Babatou chỉ vào một nơi trên bản đồ, Ba Tang trợn tròn mắt lên, hỏi: “Tại… tại sao, chỗ này lại là một vùng đất trống?”

Babatou nói: “Bởi vì không có cách nào vẽ được bản đồ tường tận, những người có gan vào khu rừng này khảo sát, đều chẳng ai sống mà đi ra được. Phải rồi, các anh cũng từ Ecuador sang mà, lúc qua biên giới có cảm giác gì không?”

“Qua biên giới?” Nhạc Dương ngạc nhiên, “Làm gì có cảm giác gì chứ, chúng tôi căn bản đều chẳng biết là mình qua thế nào nữa cơ.”

Babatou mỉm cười, nói: “Đúng, bởi vì ở vùng này, đơn giản là không cần đến canh phòng. Đỉnh núi tuyết phủ chính là tấm bình phong an toàn nhất, môi trường đáng sợ ấy đã đủ khiến những kẻ có ý đồ vượt qua mười phần chết chín rồi, thế nên trạm biên phòng thông thường đều cách nhau mấy chục cây số hoặc thậm chí là mấy trăm cây số, chỉ cần thỉnh thoảng tập hợp thành đội đi tuần núi là được rồi. Ở đây chỉ khác là rừng già thay cho núi tuyết, mà đây lại còn là địa bàn của quân du kích và bọn buôn lậu, nên hoàn cảnh càng thêm phức tạp, đây cũng chính là nguyên nhân để không thể vẽ được bản đồ tường tận.”

Trác Mộc Cường Ba dựa theo địa hình đưa ra phán đoán sơ lược: “Có phải chúng ta đang sống ở đây không?”

Babatou gật đầu: “Không sai, đây chính là nơi chúng ta đang ở, đến cả bản đồ tường tận nhất, cũng chỉ là một khoảng trống mà thôi. Đừng nói tôi chưa nhắc nhở các anh, rừng Than Thở không phải chỉ để nói không thôi đâu, bên trong mới chính là rừng nguyên sinh thật sự đó, ngoài những nhà thám hiểm liều chết đi vào, trong khu rừng ấy không có dấu vết của bất cứ con người nào khác. Còn tấm bản đồ này, là do các thợ săn ưu tú bao đời của bộ tộc Kukuer chúng tôi, tốn không biết bao năm vẽ ra, rồi bổ sung, sửa chữa, cuối cùng mới hoàn thành được, các anh xem thử đi.”

Bốn người chụm đầu lại, từ trên cao nhìn chằm chằm thẳng xuống cuộn giấy Babatou vừa mở ra, bản đồ dùng một mảng xanh lục lớn biểu thị rừng già, đường vạch màu xanh lam là các dòng sông, ngoài ra còn có rất nhiều còng tròn, xem ra là nơi cư trú của những bộ lạc khác. Vậy thì, những hình đầu lâu kia là ý gì?

Sau khi Trương Lập hỏi vấn đề này, Babatou hờ hững như không đáp: “Ừm, cái đó hả, bộ lạc anh thịt người thôi.”

“Hả!” Bốn người đồng thanh kêu lên kinh hãi. Trương Lập lắp bắp: “Đúng… đúng là có bộ lạc ăn thịt người thật hả?” Nhạc Dương giật bắn mình, anh nhớ lại rồi, hôm qua lúc xem đoạn chiến tranh trong lễ tế của người Kukuer, không hiểu sao anh cứ thấy lành lạnh cả người, hôm nay Babatou nhắc nhở, Nhạc Dương liền có cảm giác, bộ tộc Kukuer này, có lẽ cũng từng là một nhánh của bộ lạc anh thịt người. Nếu trực giác của anh không sai, điều ẩn dụ đằng sau thiếu nữ được hiến tế ấy, chính là ăn thịt người chứ chẳng sai!

Babatou đắc ý cười cười nói: “Chẳng lẽ còn gạt các anh làm gì. Mặc dù là người Nukak đã ra khỏi rừng già, nhưng các bộ lạc trong rừng vẫn còn nhiều lắm, bộ lạc nguyên thủy bán hiện đại hóa như chúng tôi đây, cũng được coi là một kiểu, còn có kiểu bộ lạc vẫn hoàn toàn giữ các tập tục nguyên thủy nữa. Cũng như vậy, bộ lạc ăn thịt người cũng có mấy loại khác nhau. Mấy bộ lạc nhỏ thì chúng ta không để tâm làm gì, đa phần bọ họ đều tương đối hữu hảo thôi, mà có khi người ít đến nỗi các anh chắc không gặp được họ đâu, giờ tôi sẽ nói cho các anh biết vài bộ lạc lớn. Xuất phát từ đây, ở hướng Đông Bắc là Zuay, đây là một bộ tộc thuộc loại nguyên thủy triệt để, bọn họ thích dùng cành cây xuyên qua môi, môi xuyên được cành cây càng lớn, thì càng đẹp, chúng tôi gọi là bộ tộc cây trong môi, bộ tộc này thì không ăn thịt người.” Cô đột nhiên ngước mắt lên nhìn Trương Lập bổ sung: “Bộ tộc này không có đơn vị gia đình, một người phụ nữ có thể có vô số chồng, một người chồng cũng đồng tời có thể có vô số người vợ, đàn bà có con, thì đứa trẻ chính là con của cả bộ tộc. Hơn nữa, bọn họ còn hoàn toàn khỏa thân đấy.”

Trương Lập đỏ mặt, cúi đầu lẩm bẩm: “Cô Babatou nhất định, nhất định là hiểu lầm tôi rồi.”

Nhìn vẻ mặt Trương Lập, Babatou bật cười khúc khích, kế đó nói: “Còn bộ lạc gần với chúng ta nhất ở phía Đông Nam, là người Avaguajia, bọn họ theo chế độ mẫu hệ, đặc điểm lớn nhất chính là sùng bái lũ khỉ trong rừng, hơn nữa phụ nữ trong bộ tộc còn dùng sữa mình để nuôi dưỡng lũ khỉ con nữa. Từ đây tiếp tục đi về phía Đông, thì sẽ gặp bộ tộc Alavake, bọn họ thích ăn thịt người, trong chiến tranh giữa các bộ lạc thường xuyên ăn thịt tù nhân, nếu là trẻ con thì cắt sinh thực khí của chúng đi, rồi nuôi cho béo tròn béo mập, khi nào muốn ăn thì bắt ra thịt ăn. Hơn nữa, nghe đồn cả bọn trẻ con cùng tộc họ cũng xơi luôn, người nào cũng chỉ chăm nuôi trẻ con do người đàn bà của mình đẻ ra thôi. Nếu từ chỗ người Zuay đi tiếp về hướng Đông, thì sẽ tới lãnh địa của người Asimata, bọn họ thì chắc các anh cũng nghe nói tới rồi, bộ tộc săn đầu người. Bọ họ giết người xong, thường thích chặt đầu nạn nhân treo ở thắt lưng, mang về bộ lạc treo trên sào cao, có tin đồn là họ biết pháp thuật gì kỳ quái lắm, có thể biến đầu người ta trở thành nhỏ như quả bóng bàn vậy, thực ra không phải thế đâu. Theo như tôi tìm hiểu, chẳng qua chỉ là bọn họ thích điêu khắc một số đồ hình đầu lâu nho nhỏ mà thôi, thủ công cũng tinh tế lắm đó. Ở đây, ở đây còn một bộ tộc nữ, đi về phía Bắc, là… tôi nghĩ xem nào, chắc là bộ tộc Muke, Muke, ừm, phát âm đại khái là như vậy đó. Bọn họ là một dân tộc tương đối văn minh, lúc ăn thịt người, họ không bao giờ ăn hết, thông thường chỉ xơi một phần, còn một phần để lại làm đồ trang sức, treo trên người mình, chắc là để kỷ niệm cũng nên…”

“Thôi đừng nói nữa!” Trương Lập vung tay ngắt lời, vừa mới nghe Babatou nói là một dân tộc tương đối văn minh anh chàng còn thở phào nhẹ nhõm, chẳng ngờ lại là văn minh kiểu ấy, nhìn trên tấm bản đồ, các vòng tròn có hình đầu lâu ít nhất cũng phải đến hai ba chục cái, thật không biết khu rừng Than Thở này rốt cuộc còn có bao điều hung hiểm. Trương Lập nhìn sắc mặt trắng bệch của ba người còn lại, cất tiếng hỏi: “Theo tôi, hay là quay lại liều mạng với quân du kích? Mọi người thấy sao?” Ba người còn lại đưa mắt nhìn nhau, lấy làm đồng cảm.

Babatou che miệng cười khúc khích, nói: “Không phải các anh ai cũng dũng cảm lắm hay sao? Sao vừa nghe thấy bộ lạc anh thịt người là đã sợ đến hồn vía lên mây rồi. Thực ra, tôi mới chỉ giới thiệu tóm lược sự phân bố của các bộ lạc trong khu rừng này mà thôi, đã bảo các anh phải đi tới đó thật đâu. Các anh nhìn nè, ra khỏi bộ tộc chúng tôi, trước khi đến lãnh địa của Avaguajia, các anh đi thẳng xuống phía Nam, ở đây vẫn chưa phải là phạm vi thế lực của quân du kích, sau đó các anh lại chuyển hướng đi về phía Đông, vừa hay sẽ đi qua khe hẹp giữa lãnh địa của người Alavake và Lapaniva, rồi lại đi tiếp về phía sông Putumayo, vậy là có thể thoát khỏi nguy hiểm rồi. Đến lúc ấy, Khỉ Đuôi Xoắn sẽ đưa các anh thẳng tới chỗ này, anh chàng đó, còn tinh quái hơn lũ khỉ trong rừng này, có anh ta đi theo các anh, chắc là không có chuyện gì đâu.”

Bốn người giờ mới thở phào một tiếng, Nhạc Dương thầm nhủ: “Hình như tâm trạng của cô Babatou này hôm nay rất vui vẻ thì phải, không dọa cho bọn mình thất kinh hồn vía thì quyết không tha hay sao vậy.” Ba Tang chỉ xuống bản đồ hỏi: “Nhưng mà, từ đây tới Montclar vân còn cả một đoạn dài, sao trên bản đồ có một nửa vẫn còn trống trơn vậy?”

Babatou tắt dần nụ cười trên môi, nghiêm mặt lại nói: “Chỗ này, có lẽ chính là cấm địa yên nghỉ của Ah Puch. Đây là nơi con người không được phép quấy nhiễu, cả những thợ săn ưu tú nhất của người Kukuer chúng tôi cũng không ai đến được đó, hoặc nên nói là chưa có ai từ đó trở về thì đúng hơn. Thế nên, bất luận thế nào, các anh cũng đừng tới đây, đó là vùng chân không mà cả chúng tôi cũng không hề có bất cứ thông tin gì. Ừm, chắc là các anh cũng không đến nỗi đen đủi vậy đâu.”

Trác Mộc Cường Ba nhận ra vẻ buồn thương thấp thoáng trên mặt Babatou, thầm nhủ: “Lẽ nào, chồng của cô ấy cũng…”

Có bản đồ, lại có cả người dẫn đường, tiếp theo là vấn đề trang bị, trải qua bao trắc trở, nhưng may là bốn người vẫn giữ được ba lô trên người, chỉ mất vũ khí, nên đành lấy vũ khí của người Kukuer bổ sung lại cho đủ. Mỗi người một cây cung, ngoài ra còn trang bị thêm một loại vũ khí đặc thù nữa. Ba Tang ngắm giỏi, nên cầm một ống thổi tiêu, vừa cầm vừa lắc đầu chán nản. Nhạc Dương mấy ngày nay rỗi việc, luyện tập ném boomerang, kết quả luyện tập là, bất kể anh ta ném boomerang theo hướng nào, cuối cùng cũng nhất định bay tới trước mặt mình; nói cách khác, mặc kệ có ném trúng kẻ địch hay không, cũng khẳng định được rằng chắc chắn sẽ ném trúng chính mình. Trương Lập cầm một cây lao ném, lẩm bẩm nói: “Hôm trước còn cầm súng tiểu liên, bây giờ thì lao ném, làm thế nào bây giờ?”

Nhạc Dương cười cười: “Không tệ đâu là không tệ đâu, dù sao cũng còn ném được mà. Anh xem cái khúc xương này này, ném thế nào nó cũng bay về trước mặt tôi, tôi còn đang lo tự làm mình bị thương đây.”

Trác Mộc Cường Ba đứng phía xa gọi: “Được rồi, đủ trang bị chưa, chúng ta xuất phát!”

Trương Lập hỏi: “Cường Ba thiếu gia, anh không có vũ khí gì khác à?”

“Có chứ, cái này.” Trác Mộc Cường Ba lấy ra một mảnh vải khá rộng, chỗ tay cầm bó thành một bó, phía trước như cái túi, rồi giải thích: “Cái này để ném đá, chỉ người dân tộc thiểu số chúng tôi mới biết dùng. Đừng coi thường nó thô sơ, uy lực lớn lắm đấy. Được rồi, chúng ta lên đường thôi.”

Trương Lập lại quay sang thì thầm hỏi nhỏ Babatou: “À, cô Babatou này, mặc dù chúng tôi vô cùng thỏa mãn với kế hoạch này của cô rồi, nhưng dù sao thì cũng là rừng Than Thở hung hiểm vạn phần cơ mà, cô xem có nên sắp xếp cho chúng tôi độ trăm dũng sĩ của bộ tộc Kukuer, như vậy chúng tôi cũng vững dạ hơn chút chút đó.”

“À,” Babatou hiểu ý, nói: “Phải đấy, suy nghĩ của tôi và anh Trương Lập đúng là không hẹn mà gặp rồi.” Kế đó cô lại cười tinh nghịch nói, “Có điều ấy mà, đội trưởng với đội phó của các anh đều nói với tôi thế này, nếu chúng tôi điều động nhiều người, vậy thì lần huấn luyện lần này của các anh chẳng còn ý nghĩa gì nữa, vì thế, Khỉ Đuôi Xoắn cũng chỉ hộ tống các anh ra khỏi rừng Than Thở thôi, sau đó thì các anh phải dựa hết vào bản thân rồi.” “Ái chà…” Trương Lập ngoảnh đầu lại nhìn hai vị cán bộ thích liều mạng, gặp phải ánh mắt sắc bén gườm gườm của đối phương, không dám thốt lên nửa lời kháng nghị.

Babatou quay sang dặn dò Khỉ Đuôi Xoắn mấy câu, đó là một chiến binh người hơi thấp nhưng rắn chắc, da ngăm ngăm đen, gò má cao, mũi lệch, môi dày, đôi mắt chim ưng rất có thần. Dặn dò xong, Babatou đến trước mặt Trác Mộc Cường Ba, nghĩ ngợi gì đó giây lát, rồi lấy ra một mảnh đá màu hổ phách buộc bằng dây thừng, đeo lên cổ gã, nồng nàn nói: “Anh đeo thứ này vào, nó sẽ bảo vệ các anh được bình an. Nhớ kỹ, trong rừng già, thứ thực sự đáng sợ nhất, là những thứ mà ta không nhìn thấy.”

Trác Mộc Cường Ba thoáng đỏ mặt, đang định lùi lại một bước thì mảnh đá đã được treo lên cổ rồi, nhất thời gã cũng không biết phải xử trí ra sao trước tấm thịnh tình của người con gái Anh điêng này, chỉ đành lẩm bẩm không nói nên lời. Nhân cơ hội đó, Nhạc Dương lại sấn tới, nói với Babatou: “Cô Babatou à, từ khi gặp cô lần đầu tiên, tôi đã khâm phục tài năng phi phàm của Đấng tạo hóa, rồi mới chỉ ở bên nhau có mấy ngày, tôi đã có thể cảm nhận được tấm lòng nhiệt tình cùng sự dịu dàng của cô rồi. Tôi tin chắc chúng ta gặp gỡ chính là duyên phận, hy vọng rằng chúng ta có thể trở thành những người bạn tốt nhất của nhau, cùng trải nỗi lòng dưới tán cây rợp bóng trăng, hay hẹn nhau nghe tiếng sóng biển rì rào, ngắm sao trời lấp lánh. Yêu một người cần bao thời gian chứ? Trong khoảnh khắc nhìn thấy cô, tôi mới hiểu ra rằng, chỉ cần một cái chớp mắt là đã đủ lắm rồi. Hiềm nỗi lần này thời gian quá ngắn, tôi chỉ có thể đem nỗi nhớ trong tim chôn giấu vào nơi sâu thẳm nhất của linh hồn mà thôi, nếu lần này tôi hoàn thành được nhiệm vụ, chẳng hay cô có thể cho Nhạc Dương thêm một cơ hội làm quen hay không?”

Trương Lập nghiến răng kèn kẹt, thầm nhủ: “Chẳng trách cứ suốt ngày kể lể chuyện cô Babatou với Cường Ba thiếu gia thế nọ thế kia, thì ra để dành đến lúc này cướp lời thoại của mình đây, thằng nhóc giảo hoạt thật.”

Babatou không hề ngượng ngập, hôn phớt lên trán Nhạc Dương như chuồn chuồn điểm nước, mỉm cười nói: “Được rồi. Nhạc Dương, đường phía trước vô cùng nguy hiểm, anh phải cẩn thận giữ mình, tôi… chấp nhận lời đề nghị đó.”

Nhạc Dương mừng ra mặt, cười hì hì nói: “Thế thì tôi đủ mười phần tự tin để chấp nhận bất cứ thách thức nào rồi.” Nói đoạn, anh chàng ngoảnh mặt đi, thở phào một tiếng, vo tròn mảnh giấy viết chi chít chữ tiếng Anh nãy giờ vẫn trộm liếc lại, rõ là đã học thuộc lòng từ lâu lắm rồi. Mấy người còn lại đi trước quát lên: “Này, đi thôi, còn lề rà lề rề đến bao giờ nữa.”

Nhạc Dương như có hoa nở trong lòng, hoan hỉ hô vang khẩu hiệu: “Ở với Cường Ba thiếu gia, ngày nào đời cũng nở hoa!”

Trương Lập lườm Nhạc Dương bằng ánh mắt khinh thường, thầm nhủ: “Ừm, nếu Cường Ba thiếu gia và cô Babatou có chuyện gì thật, thì mới gọi là nở hoa đấy.”

Nhìn bóng bốn người khuất hẳn trong rừng, Babatou mới thở phào nhẹ nhõm, cảm giác trong lòng rốt cuộc là gì đây? Thất vọng, hay là hoan hỉ, bản thân cô cũng không tài nào nói ra được, chỉ nghe Babatou khẽ thở dài: “Cuối cùng họ cũng đi rồi.”

“Phải, họ đi rồi. Họ là những người có mục tiêu, có mục tiêu, cuộc đời sẽ không trôi qua trong buồn chán vô vị. Khi kẻ lữ hành dừng bước, ngoảnh đầu nhìn lại, họ sẽ thu hoạch được nhiều hơn những người bình thường khác.” Gấu Mật Nanh Sắc cũng nhìn theo bốn người đi xa dần từ nãy.

Babatou tự hào đặt tay lên bụng, ở đó, mầm sống của người đàn ông mạnh mẽ nhất kia đã được đưa vào cơ thể cô. Thời gian và chu kỳ đều đã được cô tính toán cẩn thận, nhất định có thể đậu thai sinh ra một mạng sống mới, cuộc đời sau này, cô sẽ không bị nỗi cô đơn tịch mịch độc chiếm nữa rồi. Babatou nghĩ vậy, gương mặt thoáng nở một nụ cười. “Cường Ba thiếu gia, không chừng đến một ngày nào đó, em sẽ dẫn con chúng ta đến gặp anh cũng nên đó.” Babatou nghĩ ngợi xa xăm.

“Babatou, em đưa phù tiết thạch cho Cường Ba rồi à? Chẳng lẽ hai người đã…” Nanh Sắc hỏi.

Babatou không trả lời, cô hất mái tóc dài bay bay, đôi mắt bên dưới hàng mi dài thanh tú vương đầy sương mai toát lên nét cười, tiếng khúc khích như oanh vàng vang động mãi trong rừng sâu. Nanh Sắc mỉm cười, anh đã hiểu quá rõ cô em gái này của mình rồi.

Trận chiến vừa bắt đầu đã lệch hẳn về một phía. Những cư dân của rừng già như cá trong nước, thân hình còn linh hoạt nhanh nhẹn hơn cả loài khỉ vượn, nhảy lên nhảy xuống giữa các tán cây như đi trên đất bằng, hơn nữa người nào cũng là tay cung thần, hễ có mũi tên nào bắn ra, không cần biết từ hướng nào, là ắt có một tên buôn ma túy ngã xuống. Mặc dù vết thương không chí mạng, song chất độc trên đầu mũi tên lại là chí mạng, bọn buôn ma túy ngã xuống thường chỉ kêu lên vài tiếng thảm thiết, rồi lặng lẽ nằm đó luôn.

Bất ngờ thoát nạn

“Hắc hắc hắc,” Gonzales cười gằn lạnh lẽo, “Xem ra lúc chúng mày quần nhau với Basinas bị thương cũng không nhẹ đâu nhỉ, sao hả? Cả đạn cũng hết rồi à? Sao không nổ súng bắn trả đi?” Con cáo già chốn rừng sâu này quả nhiên chỉ nhìn thoáng qua đã hiểu rõ tình thế trước mắt, vừa mở miệng ra đã dùng tiếng Anh nói chuyện với người trong vòng vây. Trương Lập và Nhạc Dương không thể nổ súng phản kích hiểu tượng trưng, trong rừng thấp thoáng bóng người, kẻ địch đã từ bốn phương tám hướng dần vây tới.

Hỏa lực mạnh áp chế, đồng thời đòn tấn công tâm lý của Gonzales cũng không hề dừng lại, hắn tiếp tục nói: “Bọn mày tới đây làm gì, mục đích của chúng mày, bọn tao đều biết rất rõ, muốn cướp đoạt của cải trên đất của người khác, đó là một sự lựa chọn hết sức sai lầm. Chúng mày đầu hàng đi, không những tao bảo đảm được chúng mày sẽ an toàn, hơn nữa… chúng ta còn có thể hợp tác, sau khi xong việc tao sẽ hộ tống bọn mày ra khỏi khu vực rừng nguyên sinh này, đồng thời chia cho một phần lớn… hừm, haha, thế nào hả, có hứng thú không?”

Đây vốn là một điều kiện hết sức hấp dẫn, song bọn Trương Lập nghe vậy lại vô cùng nghi hoặc. “Ý gì đây? Thằng cha này rốt cuộc đang nói cái khỉ gì vậy?” Trương Lập và Nhạc Dương, anh nhìn tôi, tôi nhìn anh, cả Ba Tang đang dựa người vào thân cây cũng không nói gì.

Gonzales thấy người bên trong không phản ứng gì, lại bổ sung thêm: “Đừng giãy giụa vô ích nữa, chỉ dựa vào mấy người chúng mày, cũng chẳng có năng lực mà nuốt trọn món lớn như vậy đâu. Phải biết là, người nào…” Trong rừng chợt có biến cố, một mũi tên lao vút qua khoảng không, đồng thời một tên buôn ma túy phụ trách canh phòng trên cao “hự” lên một tiếng rồi ngã xuống như bao cát.

“Cái quái gì vậy?” Bọn buôn ma túy tức khắc trở nên rối loạn, một tên thuộc hạ báo cáo: “Người Kukuer!” Gonzales kinh hoàng: “Cái gì? Người Kukuer! Chỗ này không phải phạm vi hoạt động của chúng, tại sao chúng lại đến đây chứ?”

Nhất thời, trong rừng, trên tán cây, chỗ đất trũng, đâu đâu cũng thấy bóng lông chim đung đưa lay động. Gonzales không thể tiếp tục cất lời uy hiếp, mà chuyển sang dùng tiếng Quechua nói: “Là ai? Nanh Sắc hay San thế? Chúng tôi là thuộc hạ của ngài Balang, ngài Balang và các người đã ký điều ước không xâm phạm lẫn nhau cơ mà, sao các người lại tấn công chúng tôi?”

Trong rừng vang lên tiếng đáp lại: “Basaka, ở Putumayo, ngươi và người của ngươi làm thủ lĩnh Nanh Sắc của chúng ta bị thương, chúng ta bắt người nợ máu trả máu!”

Gonzales hằn học trợn mắt lên nhìn kẻ tên là Basaka đứng bên cạnh, gã cao to ấy ủ rũ cuối đầu trước ánh mắt sắc như chim ưng của y, yếu ớt giải thích: “Không, không phải bọn tôi làm đâu, là một ông lão thổi rắn thả rắn cắn bị thương hắn ta mà, chúng tôi đâu biết hắn là Nanh Sắc, sớm biết thì đã…”

“Câm miệng!” Gonzales quát thuuộc hạ, sau đó gào lên với người trong rừng: “Hiểu lầm! Đó chỉ là hiểu lầm thôi! Chúng tôi biểu lộ lòng cảm thương sâu sắc và vô cùng xin lỗi thủ lĩnh Nanh Sắc, mong rằng anh ấy đã hồi phục trở lại, thần rừng sẽ bảo vệ anh ấy. Mấy hôm nữa ngài Balang nhất định sẽ đích thân đến tận nơi xin lỗi.”

Trong rừng không có tiếng đáp lại, mà chỉ có tiếng gầm như của loài dã thú, biểu thị quyết tâm báo thù cho thủ lĩnh của bọn họ. Basaka căng thẳng nói: “Xem ra tên của ngài Balang không dọa nổi chúng rồi, có cần nói tên của nhân vật lớn kia ra không?”

“Rắm chó!” Cái tát của Gonzales làm Basaka chảy cả máu miệng, “Bọn dã nhân này mà nổi cơn điên lên thì hiệp ước điều ước gì cũng là rắm chó hết. Bảo các anh em cẩn thận, ở trong rừng bọn này không khác bóng ma là mấy đâu.”

Lại một mũi tên nữa không biết từ đâu bay tới, một tên buôn lậu khác lại ngã xuống. Gonzales bừng bừng nổi giận: “Bắn mạnh vào cho tao, đừng tưởng người của tao chỉ biết ăn chay thôi nhé.”

Trận chiến vừa bắt đầu đã lệch hẳn về một phía. Những cư dân của rừng già như cá trong nước, thân hình còn linh hoạt nhanh nhẹn hơn loài khỉ vượn, nhảy lên nhảy xuống giữa các tán cây như đi trên đất bằng, hơn nữa người nào cũng là tay cung thần, hễ có mũi tên nào bắn ra, không cần biết từ hướng nào, là ắt có một tên buôn ma túy ngã xuống. Mặc dù vết thương không chí mạng, song chất độc trên đầu mũi tên lại là chí mạng, bọn buôn ma túy ngã xuống thường chỉ kêu lên vài tiếng thảm thiết, rồi lặng lẽ nằm đó luôn. Còn hỏa lực của bọn buôn ma túy lại bị các thân cây cao lớn chặn lại, mất hết cả uy phong thuở trước, toàn là bắn bừa bắn bãi làm cành cây lá cây rơi lả tả, nhưng lại chẳng thấy bóng người đâu. Tên không ngừng bay tới, còn cả đá, phi tiêu, boomerang, giáo mác, những vũ khí từ thời viễn cổ này không ngờ lại khiến cả đám người hiện đại trang bị vũ khí tới tận răng phải ôm đầu chạy trối chết, thảm hại vô cùng. Gonzales thấy tình hình không ổn, đành phải hạ lệnh: “Rút lui, rút lui, tập trung lại, đột phá vòng vây ở phía Nam.”

“Soạt…” một chiếc boomerang bằng xương lướt qua mặt Gonzales, tới nửa chừng không lại quay ngược trở về, rạch một vết máu me đầm đìa trên cái bụng béo của hắn. Gonzales cuống cuồng sợ hãi, vừa chạy như bay vừa hét lớn: “Yểm hộ cho tao, con bà nó, bọn mày chạy đâu hết cả rồi!”

Biến hóa liên tục diễn ra, làm người ta không kịp suy nghĩ. Trương Lập, Nhạc Dương và Ba Tang ở trung tâm vòng vây, song không ai có vẻ gì là bị tấn công. Đặc biệt là Trương Lập và Nhạc Dương, bọn họ không biết Trác Mộc Cường Ba và người Kukuer đã quen biết nhau từ trước, có cảm giác cứ như trời giáng thiên binh, kỳ tích xảy ra vậy. Các chiến sĩ thổ dân cũng không truy kích quá xa, đánh lui kẻ địch liền tự động rút lui. Trong rừng lại cất lên một giọng nói dễ nghe, hệt như thần nữ của rừng già đang triệu gọi: “Nhanh lên, theo chúng tôi. Nhân lúc máy bay trực thăng của chúng còn chưa đến, mau rời khỏi nơi này.” Bốn năm thổ dân mặt vẽ totem vằn vện, đầu đội trang sức lông chim, tay cầm vũ khí nguyên thủy chạy đến trước mặt bốn người.

Trương Lập và Nhạc Dương còn sợ hãi hơn cả lúc nãy, có trời mới biết được đám người này muốn làm gì! Dù giọng nữ kia nghe có vẻ không ác ý gì, nhưng Trác Mộc Cường Ba vẫn còn hôn mê nằm dưới đất, Ba Tang thì nghiến răng đau đớn, hai bọn họ không thể tự quyết định được. Cũng may Ba Tang vẫn còn tỉnh táo, anh ta ra lệnh: “Đi theo họ.” Lúc này đã có hai thổ dân lực lưỡng nhấc Trác Mộc Cường Ba, chạy như bay vào sâu trong rừng, lại có thêm hai người nữa đỡ Ba Tang chạy sát theo sau, Trương Lập và Nhạc Dương đành phải co chân đuổi theo.

Gonzales dẫn theo đám thuộc hạ hỗn loạn băng qua khu rừng, cuối cùng cũng coi như thoát khỏi sự truy đuổi của người Kukuer. Bọn chúng tôi đến chỗ người Basinas ngã xuống, nhìn từng cỗ thi thể đã sưng vù lên, hoàn toàn không còn nhận dạng, tên Cú Độc nổi tiếng máu lạnh này cũng không khỏi kinh hồn bạt vía, thở hắt ra một hơi. Mỗi cổ thi thể đều vặn vẹo theo những tư thế kỳ quái khác nhau, cơ thịt co rút cứng đờ, tư thế ấy như muốn bảo với những người khác rằng, bọn chúng bị cái đau cực kỳ khủng khiếp giày vò đến chết. Có thi thể còn tự lột cả da mình ra, chẳng còn đâu mặt mũi, gan ruột nát nhừ lòi cả ra ngoài; có người thì nổ súng tự sát, còn có người nghiến đến vỡ cả răng. Trước đó rốt cuộc là có thứ gì? Cảnh tượng kinh hoàng trước mắt làm cả đám người không làm còn dám tiếp tục chạy về hướng này nữa. Những nốt sưng vù trên thi thể, những tư thế chết kỳ quái này, rốt cuộc là do thứ gì gây nên? Gonzales lấy nòng súng lật một xác chết lên, trong lỗ mũi kẻ ấy liền có một con ong vàng vằn đen bò ra, hắn lập tức hiểu ra: “Ong sát nhân! Bọn chúng sao lại đụng tới ong sát nhân cơ chứ! Đúng là đáng chết. Không biết trong rừng có còn nữa hay không? Nhìn xác của đám người này, số lượng đàn ong sát nhân kia hẳn phải khủng khiếp lắm. Hừ, lại để bốn tên người Trung Quốc đó chạy mất rồi, tao ra đời bao nhiêu năm nay, còn chưa đen đủi như vậy bao giờ! Basaka, mày chết chưa? Chưa chết thì cút ra đây cho tao! Mày là thằng ngu xuẩn, lại đụng cả bọn Kukuer ấy làm gì! Chẳng lẽ mày không biết! Bọn ta muốn băng qua rừng già, không quan hệ tốt với bọn Kukuer là không xong hay sao! Con bà nó, bây giờ bọn chúng lọt vào tay người Kukuer rồi, muốn đưa người đi khó lắm đấy!”

Basaka hoảng hốt nói: “Vâng, vâng, tại tôi nhất thời sơ ý, tôi, tôi biết lỗi rồi.”

Gonzales chửi bới: “Biết lỗi thì được cái cứt gì, mày phải nghĩ cách bắt người về cho tao!”

Basaka gật đầu lia lịa, nhưng trong đầu hắn cũng biết, muốn đoạt người từ tay bộ lạc Kukuer về, vậy chẳng phải là đùa với Tử thần hay sao? Hắn còn chưa ngu tới mức ấy. Basaka nói: “Nhưng tôi chưa hiểu, đội trưởng, vừa rồi rõ ràng là có cơ hội bắn chết mấy tên đó, tại sao…”

Gonzales nói: “Mày thì hiểu cái gì. Tướng Kulu đã chỉ rõ là phải giữ lại mấy tên ngươi Trung Quốc đó.” Hắn đảo mắt nhìn quanh, rồi thấp giọng thì thầm vào tai tên thủ hạ tâm phúc: “Nghe nói, bọn chúng biết lối vào Thành phố Vàng.” “A!” Basaka giật mình kêu lên một tiếng, kích động đến nỗi mồ hôi chảy ròng ròng. Thành phố Vàng! Từ thế kỷ mười sáu, khi thực dân Tây Ban Nha đặt chân lên mảnh đất này, Thành phố Vàng được coi là kho báu vĩ đại nhất của đế quốc Inca cổ đại, mấy trăm năm nay đã có biết bao người vì tìm kiếm bí mật của Thành phố Vàng mà tiến vào rừng già nguyên sinh, người trước ngã xuống, người sau tiến lên, mãi đến giờ vẫn chưa chấm dứt. Gonzales nói: “Nếu không tại sao mấy phân đội chúng ta đều tranh nhau hành động như thế? Hy sinh vài thằng, có đáng để chúng ta huy động nhân lực đến thế không.” Nói đến đây, Gonzales cũng ngẩn người ra: “Thằng cha Merkin bảo chúng ta cầm chân mấy tên đó, lẽ nào hắn đã biết trước, hơn nữa cả hắn cũng biết nơi ấy ở đâu rồi? Hà, nếu vậy thì, chẳng phải là…”

Gonzales lấy lại bình tĩnh trước, hắn vỗ vỗ lên vai tên thuộc hạ đang ngẩn người ra vì hưng phấn, nghĩ ngợi giây lát, rồi đưa ra chủ ý: “Mặc dù lãnh địa người Kukuer cực kỳ nguy hiểm, nhưng bọn chúng cũng không thể ở đó cả đời được, thế nào cũng phải ra thôi, tới lúc ấy, chúng ta sẽ làm thế này… thế này…”

Gonzales không hề hay biết, cuộc đối thoại của hắn và Basaka, tất cả đều đã bị Soares đang nấp gần đó thu dọn chiến trường nghe hết từng chữ một, khi nghe đến đoạn Thành phố Vàng, tay y khẽ giật mình, suýt chút nữa thì để con ong chúa trong lọ thủy tinh bay đi mất. Y lấy làm khó hiểu, thầm nhủ: “Sao lại thế được, ai chơi trò này nhỉ? Merkin? Không thể nào, trò đùa này không hề có lợi gì cho hắn ta cả. Tin tức của chúng ta có vấn đề gì? Cũng không thể nào, chuyện này không hợp lý chút nào. Nhưng mà, đám quân du kích và bọn buôn ma túy đang bắt tay hành động với quy mô lớn như vậy, giao tình của Merkin và tên béo Gonzales kia tuyệt đối không thể làm tới mức này được, ngoài nguyên nhân kia ra, nhìn như cũng không còn lý do nào khác nữa rồi.” Soares không thể đoán định tính chân thực của đoạn đối thoại này, song y hiểu rõ, đám người Trác Mộc Cường Ba căn bản còn không biết cái gì gọi là Thành phố Vàng nữa.

“Tối quá, khắp nơi đều là bóng tối mù mịt. Ta đang ở đâu? Địa ngục ư? Nghĩ lại xem nào, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Hình như chúng ta bị tập kích, là cái gì, cái gì đang kêu ong ong kia! Trời ơi! Ong sát nhân, chính là chúng, là bọn chúng! Lại đến nữa rồi!” Trác Mộc Cường Ba mở trừng hai mắt, định nhúc nhích thân thể một chút, chỉ thấy xương cốt toàn thân đau đớn như bị nghiến nát, sau mấy lần đứng dậy thất bại, gã đành bỏ cuộc. Trác Mộc Cường Ba nhìn chăm chăm lên trần nhà, lấy làm kỳ quái trước hoàn cảnh hiện tại của mình, trần nhà lợp bằng lá cọ và cành cây tươi, công nghệ thô sơ, bốn vách tường đều gỗ ván, trên tường treo vài đầu thú và da hươu, không có cửa, chỉ có một tấm rèm cửa hình như kết bằng cỏ tranh. Không khí nóng như thiêu đốt và tiếng chim hót nghe đã quen thuộc kia nhắc nhở gã, lúc này gã vẫn còn trong rừng rậm nhiệt đới. Thế nhưng, đây là nơi nào?

“A, anh tỉnh rồi! Đã ngủ trọn một ngày hai đêm rồi.” Giọng tiếng Anh sao quen thuộc quá vậy, Trác Mộc Cường Ba khó khăn quay đầu lại, ngước nhìn về phía tấm rèm cửa, đồng thời nói: “Baba…” Chữ “tou” còn chưa thốt ra, gã đã trợn mắt há hốc miệng ra.

Babatou lúc này, đã không còn là cô gái ăn mặc theo kiểu văn minh ở Putumayo nữa, mà là một cô thiếu nữ thổ dân Anh điêng chính gốc. Mái tóc xanh thắt thành hai cái đuôi sam thả xuống hai vai, ngoài ra không còn bất cứ trang sức gì nữa, chẳng những thế, mà cả nửa thân trên cũng đều… đều không có bất cứ thứ gì, trên người chỉ có mỗi chiếc váy ngắn. Nước da khỏe mạnh màu vàng cam, toát lên vẻ quyến rũ đầy nữ tính phơi bày trước mắt Trác Mộc Cường Ba theo cách nguyên thủy nhất, dù đã trải qua nhiều thương hải tang điền, Trác Mộc Cường Ba vẫn không khỏi chấn động, nhất thời không nói được tiếng nào nữa.

Babatou tự nhiên cũng nhìn thấy ánh mắt rực lửa trợn trừng trừng lên của Trác Mộc Cường Ba, nét mặt không tránh khỏi thoáng hiện sắc hồng, có điều chỉ thoáng chốc cô đã trấn tĩnh lại, không có vẻ gì là xấu hổ nữa. Trên người Babatou vẽ đủ các loại hình xăm, trên hai cánh tay là một hình tương tự như hình rồng cuộn giản hóa trên lỗ châu mai Vạn Lý Trường Thành, từ eo đến bụng hình như vẽ một cánh cửa bên trong có thần minh, đến cả, đến cả, hai bầu vú cũng vẽ hình giống như nụ hoa vậy. Trác Mộc Cưởng Ba thầm tự mắng: đáng chết, tại sao lại nhìn kỹ thế chứ, hình như đây không phải là vấn đề mày cần quan tâm lúc này. Bình tĩnh, bình tĩnh, bình tĩnh, đây chỉ là phong tục cổ xưa của người dân vùng này thôi, chẳng có gì đáng kể kinh ngạc cả. Chết thật, sao lại đến gần mình thế, tại sao mình vẫn không cử động được?

Thấy Trác Mộc Cường Ba đỏ bừng mặt lên, mồ hôi ướt đẫm cả lưng. Babatou nhoẻn miệng nở một nụ cười tươi, nói: “Không cần kinh ngạc vậy đâu! Tôi vốn là người bộ lạc nguyên thủy mà. Hơn nữa, dù ở các thành phố văn minh, bên Đức bên Pháp, cũng có bãi tắm khỏa thân cơ thể mà, chỉ cần trong lòng ngay thẳng thì chẳng ngại gì đâu. Chẳng lẽ, anh có ý đồ gì không tốt hả?”

Trác Mộc Cường Ba lấy làm lúng túng, đành dứt khoát nhắm luôn mắt lại, tựa hồ như dùng Thiền đạo làm cho lục căn thanh tịnh, chỉ nghe trong phòng vang lên một tràng cười khúc khích như chuông bạc va vào nhau. Một lát sau thì không còn nghe tiếng gì nữa, thấy lỗ mũi ngưa ngứa, hắt xì một cái, Trác Mộc Cường Ba mở to mắt, thấy Babatou đang ngồi xổm bên giường, nhìn thẳng vào mắt mình, tay cầm một chiếc lông vũ sặc sỡ ve vẩy trên mặt gã. Lần này đã có chuẩn bị tâm lý, nên nói chung cũng đỡ hơn phần nào, ít nhất thì cũng đè nén được niềm thôi thúc nguyên thủy trong cơ thể kia, Trác Mộc Cường Ba từ từ tỉnh táo trở lại, cảm kích nói: “Các bạn đã cứu tôi?”

Babatou dẩu môi lên cười cười: “Người cao lớn khỏe mạnh thế này mà gan nhỏ thế. Phải rồi, anh trai tôi nhờ cao chữa rắn của anh nên mới không sao, cả bộ tộc chúng tôi đều rất cảm ơn anh đấy. Về sau nhìn thấy quân du kích và bốn người da vàng bắn nhau trong rừng, bọn tôi đều rất lo lắng, nhưng cũng không biết có phải là các anh không nữa, lần này chúng tôi vào rừng chỉ là để tìm tên Basaka trả thù thôi, không ngờ lại gặp được các anh thật. Lại càng chẳng thể ngờ các anh đụng với bọn ong sát nhân, đáng lẽ ong sát nhân cũng không ghê gớm như vậy đâu, độc của chúng tùy theo thể chất từng người mà khác nhau, thật không may, anh và cái chú nhìn có vẻ hung hăng kia đều có thể chất quá mẫn cảm, nếu không hai người đã không bị nặng thế này rồi.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Xem ra vận may của chúng tôi cũng không tệ nhỉ, không ngờ các bạn ở trong rừng mà thông tin cũng nhanh nhạy thế, phải rồi, có điện thoại di động không?? Tôi muốn liên lạc với thế giới bên ngoài một chút.”

Babatou bật cười khanh khách: “Anh nghĩ rằng chỗ chúng tôi đây có điện thoại di động chắc? Nếu có cái thứ ấy, làm sao còn gọi là bộ lạc nguyên thủy được nữa chứ. Chúng tôi biết là nhờ mấy du khách gặp nạn nói thôi, họ cũng là người châu Á, nên bị quân du kích nhận lầm.”

Tim Trác Mộc Cường Ba như thắt lại, vội vàng hỏi: “Bọn họ đâu rồi? Bọn người ấy như thế nào? Có ai bị thương không?” Nhóm của giáo sư Phương Tân chẳng phải cũng vừa vặn có bốn người hay sao!

Babatou ngạc nhiên nói: “Anh quen họ hả? Chẳng qua chỉ là một nhóm người du lịch tự phát thôi mà, không ai bị thương cả, chỉ là hơi kinh hoàng chút thôi, chúng tôi đã phái người đưa họ đi rồi. Để nhớ xem nào, có một người Nhật Bản, hai người Trung Quốc này, còn một nữa hình như là người Singapore thì phải…” Kế đó lại tả cho Trác Mộc Cường Ba sơ qua tướng mạo bốn người đó, thì ra là bốn người đàn ông, Trác Mộc Cường Ba giờ mới yên tâm, xem ra chắc là thành viên của tổ chức “phượt” kia, chẳng phải là người Anh tên Sean kia đã nói, bọn họ có bốn người bị lạc mất hay sao. Trong lòng gã thầm cầu khấn, chỉ mong nhóm của giáo sư Phương Tân không xảy ra chuyện gì.

Nghĩ đến nhóm giáo sư Phương Tân, Trác Mộc Cường Ba lại hỏi: “Phải rồi, mấy người bạn của tôi đâu?”

Babatou thong thả nói: “Không sao đâu, trong lãnh địa của người Kukuer chúng tôi, dù là quân du kích cũng không tùy tiện tiến vào đâu. Nào, nào…” Vừa nói cô vừa lật tấm chăn giống như dệt bằng vải gai trên người Trác Mộc Cường Ba lên.

Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Cô, cô làm gì vậy?” Babatou nở một nụ cười bí hiểm: “Chữa cho anh chứ còn làm gì, thời gian này, toàn là tôi chữa bệnh cho anh đấy.”

“Cô là bác sĩ hả?” “Không, dùng phương pháp chữa bệnh đặc biệt của người Kukuer chúng tôi, anh hồi phục nhanh lắm.”

Trác Mộc Cường Ba đầu kêu ong ong, nóng bừng lên, thầm nhủ: “Sao lại cười như thế? Cách chữa bệnh của họ, chắc là… không phải cái cách đó chứ?”

Babatou vỗ một cái lên ngực Trác Mộc Cường Ba, gương mặt xinh đẹp làm bộ giận dữ, nhiếc móc: “Anh nghĩ đi tận đâu vậy? Sao mặt còn đỏ hơn cả mông khỉ đuôi xoắn thế?” Kế đó cô lại ra lệnh: “Xoay người qua, nào, một, hai, ba, anh tự dùng sức đi, một hai ba…”

Trác Mộc Cường Ba vất vả lắm mới lật sấp người xuống được, cũng đỡ phái rơi vào tình huống lúng túng như lúc nãy, gã không nên nổi một tiếng “phù” nhẹ nhõm, chỉ thấy những chỗ bị ong đốt trên lưng như bị kim chích, vừa ngứa vừa tê, còn nhoi nhói đau nữa. Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Cô sẽ không chọc thủng những nốt bị ong đốt đó đấy chứ?”

Babaotu lắc đầu: “Không đâu, tôi chỉ rạch những chỗ đã kết sẹo, để máu lại chảy ra thôi. Không làm vậy, thần Yize sẽ không chịu chữa bệnh cho anh đâu.”

Phát âm hết sức quái dị, Trác Mộc Cường Ba nói: “Thần Yize? Là, là cái gì thế?” Lúc này gã đã thấy lưng mình càng lúc càng ngứa hơn, lại còn hơi đau đau như bị vô số con kiến cùng cắn xé vậy.

“A, người Kukuer chúng tôi mà bị con gì cắn, hay mắc phải các chứng bệnh thông thường, đều nhờ thần Yize chữa trị cho cả, chúng là bác sĩ tốt nhất của rừng già này đấy. Anh có muốn xem không?”

“Ừm, ít nhất thì tôi cũng phải cảm ơn bác sĩ đã chữa bệnh cho mình chứ”. Trác Mộc Cường Ba vừa dứt lời. Babatou đã đưa một bình gốm tới trước mặt gã.

“Đây, đây chính là thần Yize sao?” Trong bình gốm quả nhiên là đầy kiến nhung nhúc ra vào, những con kiến đen dài chừng một centimet, tốc độ di chuyển nhanh nhẹn vô cùng. Trác Mộc Cường Ba ngẩn ra trong giây lát, rồi hỏi: “Bọn chúng đang làm gì trên lưng tôi vậy?”

Babaotu nở một nụ cười giảo hoạt, nói: “Bọn chúng ấy à, bây giờ chúng đang hút máu của anh. Sau đó, chúng sẽ bài tiết ra một loại kích thích tố, trung hòa độc tố xung quanh vết thương của anh, thứ vật chất ấy, còn thúc đẩy tuần hoàn máu, tẩy rửa các chất thải thừa trong cơ thể anh, đồng thời khôi phục những tế bào bị hủy hoại nữa.”

Trác Mộc Cường Ba hồ nghi hỏi: “Thần kỳ vậy sao?”

Babatou nghiêm nghị gật đầu: “Đương nhiên rồi, người Kukuer chúng tôi mấy ngàn năm nay được thần Yize bảo hộ, mà không gặp phải bệnh dịch nào lớn cả. Được rồi, xem ra cũng gần xong, để tôi bôi thuốc cho anh.”

Trác Mộc Cường Ba thấy sống lưng mát lạnh, cảm giác như thoa kem chống nắng, lại không nhịn được hỏi tiếp: “Giờ lại bôi thuốc gì nữa?”

Babatou nói: “Là thuốc cao đặc chế của người Kukuer chúng tôi, gồm có Turneraceae, cỏ gấu, mây vuốt gấu, lá thược dược và rất nhiều dược thảo khác. Xoa vết thương bị cắn đốt là cực kỳ công hiệu. Xong rồi, anh nghỉ ngơi cho tốt, lát nữa tôi mang cháo ngô với mật ong cho, lâu như vậy không ăn gì, người có khỏe mấy thì cũng không chịu được đâu.”

Babatou vén rèm cửa bước ra, Trương Lập và Nhạc Dương ngồi trên đàn tế bằng gỗ đằng xa buồn chán đến thẫn thờ, thở dài đến tiếng thứ một trăm lẻ bảy: “Ôi, thiên lý ở đâu chứ!” “Ài, đen tối quá!” “Tại sao tôi không được đãi ngộ như thế chứ?” “Sớm biết thế, lúc ấy đã cho bọn ong mật kia đốt mấy phát rồi!”

Người Kukuer

Lần đầu tiên, hai người đến lãnh địa của người Kukuer, cơ hồ không dám tin vào mắt mình nữa. Khu này là vùng đồi cao hơn rừng cây thông thường một chút, cả khu vực vẫn được cây cối che phủ, nhưng ở chỗ cao nhất là đàn tế thì có thể nhìn thấy toàn bộ mấy cánh rừng nhỏ xung quanh và các dòng sông uốn khúc. Dưới tán lá xanh tốt có hơn trăm căn nhà gỗ lợp lá cọ, có đàn tế, có điện thờ, có nơi sinh hoạt tôn giáo, mái nhà hình bầu dục nhọn, nhìn chữ V, tất cả các kiến trúc cần thiết của một nền văn minh bộ lạc nguyên thủy đều có hết. Điều làm hai người không thể ngờ được, tự nhiên chính là chuyện phụ nữ trong bộ lạc toàn bộ đều để ngực trần, hơn nữa còn hết sức tự nhiên, hoàn toàn không hề có ý che giấu hay xấu hổ thẹn thùng gì cả. Nhạc Dương và Trương Lập vừa thấy mấy thiếu nữ đầu đội bình gốm ra suối lấy nước về, bên này lại có vài người nữa đội quần áo thực phẩm đi ra bờ sông, vừa đi vừa nói nói cười cười, nét mặt động tác hoàn toàn chẳng khác gì các cô gái mặt quần áo đầy đủ ở các thành phố trò chuyện cười đùa với nhau, chỉ khác một điểm duy nhất, bọn họ không ai mặc quần áo! Hai chàng thanh niên máu nóng kiến thức nông cạn, cứ tranh nhau nhìn đến mạch máu căng phồng. Trương Lập còn suýt chút nữa thì chảy máu mũi. Đặc biệt là khi hai anh chàng này trông thấy cô gái xinh đẹp quyến rũ nhất bộ lạc Babatou tự tay chăm sóc Trác Mộc Cường Ba, ngày nào cũng ra ra vào vào căn nhà gỗ nhỏ ấy, lần nào vào cũng mấy tiếng đồng hồ không thấy ra. Hai người lấy làm tức tối, thậm chí còn nổi ý đồ giết quách Trác Mộc Cường Ba đi cho xong nữa.

Chiếu lý mà nói thì Trác Mộc Cường Ba không trẻ như họ, hình như tướng mạo cũng không được tuấn tú bằng, hai người nghĩ mãi mà không thông, cuối cùng đã đưa ra kết luận thế này: “Cường Ba thiếu gia có sức hấp dẫn thần kỳ đối với phái nữ… à không, đối với tất cả các động vật giống cái, phạm vi sát thương từ tám tuổi đến tám mươi tuổi. Chính tại vì ma lực trời sinh đó, mới khiến hai chàng thanh niên lý tưởng có tương lai tươi sáng đồng hành nhiều lần không được các cô gái xinh đẹp bằng tuổi để mắt tới. “Suy luận thế này chắc chắn không sai vào đâu được, ngày hôm ấy chẳng phải con ếch kia cứ bám chặt lên đầu Cường Ba thiếu gia còn gì, bây giờ nghĩ lại, gần như có thể khẳng định trăm phần trăm, đó là một con ếch cái rồi.” Đưa ra được kết luận như vậy, tâm lý hai người nói chung cân bằng lại đôi chút. Bọn họ nào biết rằng, kết luận thoạt nghe có vẻ hoang đường này, về sau lại chính xác như dự đoán tiên tri vậy.

“Anh ấy tỉnh rồi, hai người vào thăm đi.” Babatou mỉm cười, cầm lọ gốm đi qua hai anh chàng đang để hồn vía lơ lửng trên mây.

“Cường Ba thiếu gia, đã mất nửa thời gian rồi, vậy mà, giờ chúng ta còn chưa rõ mình đang ở đâu nữa.”

“Phải đấy, hơn nữa nghe Khỉ Đuôi Xoắn nói, quân du kích đã mai phục sẵn xung quanh lãnh địa của người Kukuer rồi, xem ra chúng ta vừa ra khỏi đây là chúng sẽ lập tức ra tay luôn đó.”

“Ba Tang? Anh Ba Tang đã khỏe rồi, nhưng hình như anh ấy rất hợp chuyện với thầy tế ở đây, từ chiều hôm qua cứ rịt trong đền thờ của họ ấy.”

“Này, Cường Ba thiếu gia, Babatou lúc nào cũng ở bên cạnh anh, hai người…”

“Hai thằng nhóc này… tôi vừa mới tỉnh lại, giờ còn chưa biết mình đang ở đâu nữa, lẽ nào hai người không biết người bệnh cần được nghỉ ngơi hay sao? Yên lặng một chút cho tôi nhờ có được không?”

“Không được.”

“Cường Ba thiếu gia, các cô gái thổ dân ở đây vừa nhiệt tình lại vừa buông thả, anh nhất định phải khống chế được tình cảm của mình, anh phải giữ đạo đức trong tình yêu đấy nhé, chớ có làm chuyện gì để cô Mẫn Mẫn phải đau lòng đấy!”

“Các… các cậu, hai thằng nhóc này… ra ngoài! Đây là mệnh lệnh đấy!”

“Cường Ba thiếu gia, ngàn vạn lần chớ nên nổi nóng, chúng tôi chỉ muốn tốt cho anh thôi mà.”

“Phải đấy phải đấy.”

….

Đêm đến, quả nhiên Babatou đang ở trên đàn tế quan sát bầu trời đầy sao, anh ta nằm nghiêng bên cạnh đài quan sát. Được sự cho phép của đại tế sư, Ba Tang là người ngoài tộc duy nhất được bước lên đàn tế ngắm sao trời. nói là đàn tế, kỳ thực là một gò đất hơi cao hơn một chút so với khu vực xung quanh, người Kukuer đã dùng các thân cây to dựng nên một giàn gỗ hình thang trên gò đất đó, trên đó, có hai giá gỗ như cần trục, ở giữa là một đĩa tròn không tâm, chính giữa đĩa tròn là một khúc gỗ hình như cây thập tự, khúc gỗ và đĩa tròn có thể di chuyển xung quanh nhau, mỗi lần đến ngày lễ của bộ tộc, đại tế sư bao giờ cũng một mình bước lên đài tế sử dụng thứ kỳ dị này để quan sát các ngôi sao trên trời.

Dù Babatou không biết Ba Tang đã nói chuyện gì với đại tế sư, nhưng người nào đã được đại tế sư công nhận thì cũng được người Kukuer tôn trọng, cô nhã nhặn nói: “Ngài Ba Tang.”

“Ừm,” Ba Tang điềm đạm nói, “năm ngày rồi.” Trong vẻ cao ngạo của anh ta thấp thoáng nỗi lo âu, ánh mắt anh ta cũng vô cùng phức tạp, dường như đang cực kỳ mâu thuẫn, lại như đang phải gánh trên vai áp lực nặng nề, ít nhất, đó là cảm giác của Babatou trong lúc này. Ẩn chứa trong giọng nói của Ba Tang là sự bất lực và cam chịu: “Kế hoạch ban đầu vốn không phải như vậy, chúng tôi chỉ muốn bình yên băng qua rừng già, đã suy tính hết sức đầy đủ đến hoàn cảnh môi trường khốc liệt và các loài động vật nguy hiểm rồi, có điều, căn bản không ai nghĩ đến chuyện sẽ xung đột trực tiếp với quân du kích và bọn buôn ma túy. Dường như trong bóng tối kia có một cánh tay vô hình đang thao túng hành trình của chúng tôi, đến giờ, cả ông Trời cũng muốn khảo nghiệm chúng tôi chắc?”

Babatou nói: “Đại tế sư có nói rồi, thần Chac vĩ đại đã phẫn nộ, người sẽ trừng phạt những kẻ phá hoại thế giới này. Có điều tôi cũng không được hiểu cho lắm, ông Ba Tang, ông có thể dùng kiến thức khoa học hiện đại để giải thích ngôn ngữ đã được đại tế sư thần hóa không? Dù sao thì, ông nói cũng giống hệt như đại tế sư vậy.”

Ba Tang lẩm bẩm đáp: “Rừng mưa nhiệt đới Nam Mỹ là môi trường nhiệt đới khí áp thấp, được luồng không khí xích đạo tuần hoàn bao bọc. Theo lẽ thông thường, khu vực này một năm có gần bảy tháng là bị mây mù bao phủ, thời tiết thường gặp nhất chính là hàng ngày lúc mặt trời lên thì mát mẻ dễ chịu, tới trưa bắt đầu có mây tích tụ, chiều thì mưa như trút nước tới tận hoàng hôn. Nhưng chúng tôi vào rừng đã năm ngày rồi, chẳng những không có một giọt nước mưa, hơn nữa đêm nào cũng trời trong đầy sao, mây mù nhiệt đới đi đâu rồi? Cô, cô có biết sóng thần không?” Ba Tang chợt hỏi.

Babatou nói: “Ừm, có nghe nói, địa chấn dưới biển gây ra sóng thần, là thảm họa tự nhiên vô cùng đáng sợ, nhưng có chuyện gì với việc này chứ?”

Ba Tang lắc đầu: “Không, không có quan hệ, chỉ có điều đạo lý là giống hệt như nhau. Khi tầng đáy đứt gãy gây ra xê dịch, địa hình đáy biển đột nhiên biến hóa, trước tiên không phải là biển động sóng thần, mà là dung tích đáy biển tăng lên, khiến mặt biển rút xuống, đường bờ biển rút ra ngoài xa mấy dặm hoặc nhiều hơn nữa, để lộ ra tầng đá ngầm trước giờ chưa từng hiện ra. Sau đó, mặt biển phải khôi phục lại cân bằng của nó, lượng nước biển kia sẽ dựng lên thành một bức tường nước, cuồn cuộn ập trở về, sức mạnh đáng sợ đủ để hủy diệt tất cả mọi thứ, thậm chí chúng còn cao hơn mặt biển trước đó mấy chục đến gần trăm mét, nhấm chìm, nuốt trọn tất cả những thứ dưới bậc nước đó, rồi lại rút đi. Lúc này tầng mây trên cao đang bị ảnh hưởng của khí áp, về cơ chế cũng giống hệt như sóng thần vậy, khi khí áp thấp bị khí áp thấp hơn ảnh hưởng, luồng khí tuần hoàn sẽ tản ra xung quanh, giống như là thổi bong bóng vậy, dồn hết mây ra bên ngoài quả bong bóng đó. Thế nhưng, một khi quả bong bóng ấy bị vỡ, mây ở xung quanh sẽ dồn vào lấp chỗ với tốc độ nhanh chưa từng thấy, tới lúc đó, mưa của mấy ngày, mấy chục ngày sẽ tập trung đổ xuống trong một ngày. Cô thử tưởng tượng, đó là cảnh tượng thế nào.”

“A.” Babatou kêu lên một tiếng khe khẽ, phảng phất như cảm thấy nguy cơ trong một sớm một chiều.

Ba Tang lại tiếp lời: “Kiểu khí hậu biến dị này, từ rất lâu trước đây hoặc phải mất mấy trăm năm mới có một lần. Còn bây giờ, rừng nhiệt đới bị chặt phá trên diện rộng, thảm thực vật trên núi Andes cũng bị phá hoại nặng nề, tốc độ tan chảy của sông băng tăng lên, tác dụng điều tiết khí áp của khe núi giảm sút, có lẽ sau này cứ vài năm, hoặc mỗi năm, đều sẽ xuất hiện thiên tai như vậy, đây chính là cái giá con người phải trả cho chính những hành vi của mỗi người thôi. Có điều, cô cũng không cần lo lắng, tôi quan sát rồi, khu rừng này cao hơn những nơi khác xung quanh đây, dù có mưa to, cũng không ảnh hưởng gì đến bộ tộc các cô đâu.”

“Ừm.” Babatou nói, “Đại tế sư cũng nói rồi, thần Kukuer sẽ bảo vệ chúng tôi được bình an.”

“Hừ, thần kukuer hả?” Trong tiếng cười của Ba Tang ẩn chứa chút khinh miệt, nhưng nét mặt lại không tỏ vẻ gì, anh ta ngoảnh mặt đi hỏi: “Các cô, là hậu duệ của người Anh điêng hả?”

“À…” Babatou không hiểu tại sao Ba Tang lại đột nhiên hỏi vấn đề này, cô líu ríu nói: “Chuyện này, tôi cũng không rõ lắm, có điều, chắc là phải đấy. Tổ tiên chúng tôi đã sống rất nhiều năm trong cánh rừng này rồi, theo những ghi chép trong bộ tộc, từ thời đại Kakupakate, tổ tiên của chúng tôi đã được các vị thần bảo vệ mà an cư lạc nghiệp ở đây rồi.”

Ba Tang nhìn cây thập tự, bình phẩm: “Bất kể các cô là hậu duệ của người nào, từ dụng cụ các cô dùng để làm quan sát bầu trời có thể thấy, tổ tiên của các cô có một nền văn minh hết sức huy hoàng chói lọi đấy. Dụng cụ này đơn giản thế thôi, nhưng lại có thể theo dõi đường đi của mặt trăng và mặt trời một cách rất dễ dàng, hơn nữa còn có tác dụng rất nỗi bật trong việc quan trắc chòm sao Đại Hùng và Tiểu Hùng nữa.”

Nghe Ba Tang đánh giá cao tổ tiên mình, Babatou tỏ ra vô cùng cao hứng, nhưng chỉ thoáng chốc cô lại ủ rũ nói: “Đáng lẽ, bộ tộc chúng tôi còn có cả thánh thạch truyền đời nữa cơ, nhưng mấy năm trước đã bị người ta ăn trộm mất rồi.” “Ừm, vậy hả?” Ba Tang đột nhiên nổi hứng với chuyện này, liền hỏi han cặn kẽ các chi tiết liên quan đến thánh thạch. Thì ra thánh thạch là một tảng đá hình trụ tròn có khắc các hoa văn kỳ quái, nghe nói có cán, có đầu, toàn thân đều chạm nổi, hình tượng đó, rất giống một trụ đá trổ hoa thu nhỏ theo tỷ lệ nhất định, cầm trong tay giống như một cái giản (1) bằng đá. Hai người nói chuyện rất muộn, trước khi rời khỏi đàn tế, Ba Tang vẫn không quên nhìn lên bầu trời một lần nữa. Vầng trăng lông kia lại tròn hơn hôm qua thêm một chút.

Độc tố trong cơ thể dần dần được thanh tẩy, mấy vết thương phần mềm kia đến nhanh, nhưng cũng đi nhanh, chiều hôm sau, Trác Mộc Cường Ba đã có thể xuống giường đi lại, hoạt động cho dãn gân dãn cốt, hầu như đã không còn gì đáng ngại, cả cảm giác đau đớn cũng không thấy nữa. Trác Mộc Cường Ba không ngờ, ngoài cửa kia, thủ lĩnh trẻ tuổi Gấu Mật Nanh Sắc đã dẫn theo một đám chiến sĩ, xếp hàng hoan nghênh gã khỏi bệnh, đằng xa là các nam nữ lão thiếu trong bộ tộc Kukuer, Babatou phụ trách phiên dịch. Nanh Sắc thân mật vỗ mạnh lên lưng Trác Mộc Cường Ba, cao hứng nói: “Người dám đối đầu với tướng Kulu, nhất định là anh hùng.” Nói xong anh ta lại chỉ vào ngực mình: “Anh cứu mạng tôi, chúng ta là anh em, là người một nhà.” Cả bộ tộc liền reo hò ầm ĩ.

Trác Mộc Cường Ba được Babatou và Nanh Sắc dẫn đi vòng quanh thôn làng của người Kukuer. Babatou làm hướng đạo kiêm phiên dịch, được âm thanh tràn trề niềm vui ấy giới thiệu, Trác Mộc Cường Ba dần dần hiểu được về bộ lạc Kukuer này.

Chiều cao trung bình của người Kukuer tương đối thấp, màu da sẫm hơn những chủng tộc người Anh điêng khác, hầu hết các chiến sĩ đều cường tráng mạnh mẽ, bắp chân thô ngắn, vai rộng, đầu to, đôi mắt màu da cam và mái tóc đen kia, nhìn cũng có mấy phần đặc điểm của dân người châu Á. Trang phục của họ tương đối đơn giản, đàn ông mặc một chiếc khố rộng bằng lòng bàn tay, bọn họ quấn khố vài vòng quanh hông, một đầu thả phía trước, một đầu ở phía sau, trông rất giống trang phục của võ sĩ Sumo Nhật Bản. Hai đầu mảnh khố đều có hình thêu do chính tay mẹ hoặc vợ người đó làm. Phụ nữ thì từ eo trở xuống quấn một chiếc váy. Trong bộ tộc bất kể nam hay nữ, những phần lộ ra trên cơ thể đều có hình vẽ totem, trong đó hình xăm trên mặt là đẹp nhất, dựa theo thân phận và đẳng cấp khác nhau mà xăm những hình khác nhau. Chỉ có đàn ông mới có trang sức trên đầu, phụ nữ thông thường tết tóc từ hai đến bốn bím, đàn ông dùng lông chim làm trang sức, cắm thành nhìn rẻ quạt, cũng có phân biệt theo đẳng cấp. Đàn ông thông thường cắm lông vẹt châu Mỹ, chiến sĩ thì cắm lông chim ưng, còn thủ lĩnh như Gấu Mật Nanh Sắc thì là lông của một loài đỗ quyên đến từ Trung Mỹ.

Họ sống trong nhà cỏ tranh hoặc nhà lợp bằng lá cọ, trong nhà có tường chia làm hai gian, phía trước là phòng khách, phía sau là phòng ngủ, phòng ốc thường không có cửa, mái hiên rất thấp, có thể chắn mưa che nắng. Giường bện bằng cành cây, bên trên rải cỏ, lúc ngủ dùng một tấm thảm bằng cỏ hoặc vải bông thay cho chăn. Họ không nấu nướng trong nhà, mà dùng bếp lộ thiên bên ngoài. Người Kukuer trồng khoai, sắn, đậu tằm, ngoài ra cũng chăn nuôi các động vật lớn như lạc đà không bướu, ngựa…, nhưng hầu hết các chiến sĩ đều vào rừng săn bắn, khỉ nhện là thức ăn thường xuyên nhất của họ. Họ có các thợ thủ công lành nghề chế tạo vũ khí, nhưng cũng tiếp xúc cả với súng ống hiện đại, quần áo mặc thường ngày cũng có một phần được dệt may bằng công nghệ hiện đại, bộ lạc này cũng không hề cách biệt với thế giới bên ngoài, mà tiếp xúc với nền văn minh hiện đại bên ngoài một cách vừa phải, thích đáng. Họ bắt một số động vật trong rừng ra ngoài đổi lấy nhu yếu phẩm, trong rừng nguyên sinh đâu đâu cũng cò nguy hiểm rình rập, các nhà sưu tập và chủ quán đặc sản muốn có các loại động vật hoang dã, đều đồng ý trả giá không hề thấp để mua các thứ đó.

Chiến sĩ của bộ tộc Kukuer từ nhỏ đã sinh ra trong rừng, lớn lên trong rừng, rừng già này chính là nhà của họ, họ thông thạo đủ các phương pháp tác chiến trong rừng sâu, bố trí những loại bẫy rập đơn giản để bắt dã thú. Vì vậy, lãnh địa của người Kukuer xưa nay đều bất khả xâm phạm, đến cả quân du kích và bọn buôn ma túy xưa nay vẫn xưng bá trong rừng sâu này cũng phải ký điều ước không xâm phạm lẫn nhau với họ. Có lúc bọn buôn ma túy còn phải trả một khoản tiền lớn làm phí mãi lộ, mới được đi qua lãnh địa của người Kukuer, nhưng nơi này đã là đường sát biên giới, chưa tới lúc vạn bất đắc dĩ, bọn chúng cũng không bao giờ đặt chân lên lãnh địa của họ. Nghe nói, ở sâu trong lãnh địa này, có thứ còn đáng sợ hơn cả người Kukuer gấp trăm gấp ngàn lẩn, nơi ấy thì càng không có một dấu chân người.

Trong bộ tộc chia làm nhân quyền và thần quyền, nhân quyền là tộc trưởng, cũng chính là cha của Gấu Mật Nanh Sắc và Babatou, thần quyền là đại tế sư, ông ta lúc nào cũng ở trong đền thờ. Đền thờ thần linh của họ, là một gian nhà gỗ không lớn lắm, đứng dưới tán của một cây cổ thụ cao gần bốn chục mét, đích thực là khiến người ta nảy sinh cảm giác kính ngưỡng trước bậc minh thần cao quý. Nghe nói sau khi Ba Tang tỉnh lại, có nói mấy câu về thời tiết biến dị, vừa hay lại trùng khớp với cách nói của đại tế sư trong đền thần, nên đã được đại tế sư mời vào nói chuyện, sau đó còn đồng ý cho anh ta lên đàn tế quan sát bầu trời nữa. Về chuyện này, cả Trác Mộc Cường Ba cũng cảm thấy không thể nào tin nổi, nhưng sau đó Ba Tang lúc nào cũng chỉ hờ hững lảng tránh không nói gì.

Người Kukuer rất giỏi uống rượu, họ dùng mật ong, nước và một loại rễ cây đặc biệt để ủ rượu, làm ra một loại rượu nồng độ rất cao, mùi thơm sực nức.

Điều làm Trác Mộc Cường Ba thấy hứng thú nhất là người Kukuer hầu như nhà nào cũng nuôi chó, rất tạp, nhỏ thì có chó không lông, chó đốm hoa, chó chồn, lớn thì có chó fila, có chăn cừu, chó bull, thứ nào cũng có, thậm chí còn có cả loại mà Trác Mộc Cường Ba không gọi được tên. Đáng kinh ngạc nhất là, lũ chó này đều không sủa, thấy người tới thì chỉ nghếch mắt lên liếc nhìn một cái, rồi lại nhắm tịt mắt vào ngủ, đến cả mấy con nổi tiếng hung hăn như chó ngao Brazil cũng thế.

Trác Mộc Cường Ba hỏi Babatou tại sao chó họ nuôi lại không kêu, câu trả lời của cô là, đó là cách huấn luyện chó đã lưu truyền từ rất lâu rồi, ở đây họ có câu tục ngữ gọi là: “Chó không sủa mới là chó tốt.” Trác Mộc Cường Ba cứ có cảm giác hình như mình đã nghe cách nói này ở đâu rồi, có điều gã vừa mới khỏi bệnh, trước sau không tài nào nhớ ra nổi. Gã đến trước mặt một con chó trông có vẻ như là chó Argentina, xoa xoa đầu con vật đang rúc mình ngủ khò khò ấy, con chó mở đôi mắt nhập nhèm lên nhìn Trác Mộc Cường Ba, ngáp một cái rõ dài, rồi quẫy quẫy đuôi, vùi đầu ngủ tiếp. Trác Mộc Cường Ba tò mò hỏi: “Nếu không sủa, vậy tác dụng chủ yếu của chúng là làm gì?”

Babatou đáp: “Có thể dùng đề truy dấu vật săn, có điều hầu hết thời gian bọn chúng đều chơi với lũ trẻ con, địa vị của chúng trong làng của chúng tôi cũng cao lắm đấy nhé. Trong làng có tập tục, nhà nào có chó bất hạnh qua đời, thì phải cử hành tang lễ long trọng cho nó, hơn nữa về sau chúng còn được hợp táng với chủ nhân của mình nữa cơ.” Trác Mộc Cường Ba lại hỏi thêm một số chuyện về lũ chó châu Mỹ này, kết quả phát hiện ra Babatou cũng không thích chó lắm, cô cũng chỉ biết là có tập tục như vậy, còn tại sao lại có, thì cũng không rõ cho lắm.

Ngoài đền thờ và đàn tế, Babatou đã dẫn Trác Mộc Cường Ba đi tới từng góc nhỏ của ngôi làng bộ tộc Kukuer cư trú, giúp gã có đượcn những hiểu biết đại thể về bộ lạc nửa nguyên thủy nửa văn minh này. Tham quan trong bộ lạc Kukuer này, Trác Mộc Cường Ba cảm thấy sức khỏe mình đã khôi phục đáng kể, bèn định tạm biệt Babatou, nhưng bị cô từ chối. Babatou nói: “Bây giờ sức khỏe anh vừa mới bình phục, còn chưa cảm thấy gì, nhưng chất độc trong cơ thể thì chưa hoàn toàn hết đâu, đi trong rừng một hai ngày là lại tái phát nữa đấytôi phải tiếp tục bôi thuốc cho anh mới được. Còn nữa, dù có muốn đi, thì nhất định cũng phải đợi qua ngày mai mới đi được, ngày mai chính là ngày lễ của bộ tộc Kukuer chúng tôi, mọi người ai cũng tham gia chúc mừng, nếu đại ân nhân của bộ lạc như anh mà không tham gia, tức là đã coi thường người Kukuer chúng tôi, mà chúng tôi thù dai lắm đấy nhé. Trong rừng sâu, cả quân du kích và bọn buôn lậu đều biết rất rõ, ở vùng này mà đắc tộc với người Kukuer, muốn đi một bước cũng khó khăn lắm. Nhìn anh kìa, cuống lên muốn đi như vậy, chẳng lẽ người Kukuer chúng tôi làm anh thấy ghét thế à?”

Trác Mộc Cường Ba vội nói: “Không phải, vì lần đầu tiên chúng ta gặp mặt vội vã quá, có rất nhiều chuyện mọi người còn chưa hay. Chúng tôi đang tham gia một đội thi đấu tranh giải, phải từ Putumayo băng qua rừng nguyên sinh tới Saint Mary trong thời gian quy định, bị chậm trễ ở đây, chúng tôi đã bị các đội khác bỏ rớt lại phía sau rồi, thế nên tôi mới nghĩ, nếu mình cử động được rồi, vậy thì phải nhanh chóng đuổi kịp các đội khác.”

Babatou dẩu môi lên nói: “Tôi mặc kệ, thế nào anh cũng phải đợi qua ngày mai mới đi được, mấy bạn kia của anh đều đang giúp chúng tôi sắp xếp cho buổi lễ cơ mà.” Vừa nói cô vừa nhủ thầm: “Bôi cho anh bao nhiêu nước ép với dầu Maja, thế nào cũng không thể chưa có tác dụng gì đã để anh đi rồi chứ.” Nghĩ tới đây, cô không giấu nổi một nụ cười tinh nghịch, làm Trác Mộc Cường Ba lại thêm một phen mù mờ chẳng hiểu ra làm sao.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ngày mai chắc không phải ngày thu hoạch mùa màng, vậy là ngày lễ gì nhỉ?”

Babatou nghiêng đầu nói: “Ừ, nói thế nào nhỉ, ngày mai là ngày lễ lớn một năm một lần của chúng tôi, đã lưu truyền từ rất lâu rất lâu rồi, giống như… có lẽ là giống ngày lễ Độc lập của người Mỹ vậy, tôi nghĩ chắc là như thế đấy, có điều theo cách nói của tổ tiên, thì đây là ngày lễ do thần thánh đặt ra đó.”

Trác Mộc Cường Ba không nói lại được Babatou, đành miễn cưỡng gật đầu đáp ứng, gã muốn một mình yên tĩnh để suy nghĩ lại các vấn đề gặp phải trong lần băng rừng này. Babatou cũng bận rộn sắp xếp chuẩn bị cho lễ tế, liền dặn dò Trác Mộc Cường Ba không được đi lung tung, rồi để gã một mình nghỉ ngơi.

Trác Mộc Cường Ba nhớ lại các vấn đề gặp phải trong cuộc hành trình này, không phải là không có chuẩn bị, bọn gã cũng đã điều tra nghiên cứu phạm vi thế lực của quân du kích và bọn buôn lậu ma túy rồi, cũng tìm hiểu tư liệu về các sinh vật nguy hiểm trong rừng rậm châu Mỹ, thế nhưng, khi mấy người bọn gã phải thực sự đối mặt với những nhân tố nguy hiểm đó thì đều tỏ ra luống cuống tay chân cả. Gã nhớ lại những điều Lữ Cánh Nam từng cảnh cáo trong lúc huấn luyện cả bọn, xem ra những lời ấy đích thực là rất chính xác – “Không tự thân trải qua, chỉ biết lý thuyết không thôi, dù là anh có đọc cả ngàn vạn lần thuộc lòng như cháo, thì cũng không bằng vận dụng trong thực tiễn một lần.”

Từ miệng Babatou gã biết được, lãnh địa của người Kukuer nằm giữa Putumayo và Saint Mary, cũng có nghĩa là, bọn gã đã may mắn được người Kukuer đưa đi một đoạn khá dài. Nếu ngày kia mới rời khỏi bộ lạc Kukuer, thời gian đã mất một nửa, hành trình chỉ sợ mới đi được một phần ba, còn lại một nửa thời gian làm sao hoàn thành được hai phần ba hành trình còn lại đây? Không được, lần băng rừng này buộc phải hoàn thành, nhất định phải cho con mụ khó tính Lữ Cánh Nam đó biết được năng lực của bọn gã, dù là bị quân du kích và bọn buôn ma túy bắt tay vây bắt, bọn gã cũng vẫn băng qua được khu rừng rậm nguyên sinh nguy hiểm này. Tới lúc đó, để xem cô ta nói được gì? Như thế thì có thể trực tiếp đi tìm Bạc Ba La thần miếu được rồi. Trên thảo nguyên mênh mông ấy, bóng hình uy phong lẫm lẫm đó, đôi mắt tràn trề bá khí đó, vẫn còn đang đợi chờ gã cơ mà.

(1) Giản: Binh khí cổ, giống như thanh kiếm, nhưng không có mũi nhọn, cũng không có lưỡi hình trụ.

Lễ tế của người Kukuer

Trác Mộc Cường Ba ngồi trên một bình đài cao hơn mặt đất một chút, lòng hướng về sự thanh thản an nhàn, phảng phất như đã thấy Tử Kỳ Lân ở ngay trước mắt. Ở thôn làng dưới kia, người Kukuer đang ra ra vào vào bận rộn chuẩn bị cho lễ tế. Trên bãi đất trống phía xa xa, đám trẻ con Kukuer đang chơi đùa, bọn chúng dựng mấy tấm bảng gỗ ở đằng xa, có lớn có nhỏ, cắm hờ trên đất bùn, sau đó dùng một cái túi hình vuông bên trong nhét đầy bùn đất, ném vào bảng gỗ, hình như xem độ to nhỏ của bảng gỗ ném trúng để xác định địa vị cao thấp, chơi đùa hết sức vui vẻ.

Trác Mộc Cường Ba nhìn lũ trẻ với ánh mắt đầy ngưỡng mộ, bọn trẻ này có cả nam cả nữ, nhưng trẻ con Kukuer đều không mặc bất cứ quần áo gì, bọn chúng vui vẻ nô đùa ầm ĩ, hình như không hề có phân biệt giới tính. Nhìn lũ trẻ ngây thơ hoạt bát ấy, Trác Mộc Cường Ba không khỏi nghĩ ngợi xa xăm: “Thời viễn cổ, phải chăng con người cũng như vậy? Mặc quần áo chỉ để chống lại cái lạnh, phòng ngừa bị sây sát kể từ khi nào, con người bắt đầu khoác lên cái áo văn minh, có nghi lễ tôn giáo, rồi tỏ ra khinh thường coi rẻ hành vi nguyên thủy này? Bọn họ quên mất bản tính động vật của mình, tự xưng mình là giống loài được thiên thần sủng ái, là tồn tại hoàn toàn khác biệt với những sinh mệnh khác trong tự nhiên, thế nên có quyền mặt sức muốn làm gì thì làm với những sinh vật cấp thấp hơn, đối với tự nhiên không có lợi cho văn minh của họ cũng thỏa ý phá hoại. Nền văn minh như của người Kukuer đây, liệu còn có thể tiếp tục tồn tại trong rừng sâu được bao nhiêu lâu nữa? Bọn họ hoặc là phải hòa nhập vào nền văn minh chung, hoặc là sẽ bị văn minh ấy tiêu diệt, chỉ có hai con đường ấy để lựa chọn mà thôi.” Gã đứng dậy, dõi mắt nhìn khu rừng già tĩnh lặng, ai mà biết được, đằng sau sự tĩnh lặng ấy, ẩn chứa bao nhiêu âm mưu và chém giết. Sinh mệnh tồn tại được là nhờ xâm chiếm, trong thế giới này, có lúc nào mà không diễn ra cảnh thôn tính và chiếm đoạt. Bỗng nhiên, Trác Mộc Cường Ba giật mình ngoảnh đầu lại lần nữa, nhìn lũ trẻ đang chơi đùa kia, trò chơi ấy quả thực quá đỗi quen thuộc, hình như bản thân gã hồi nhỏ cũng chơi rồi thì phải. Đúng hồ nhỏ gã cũng chơi trò này rồi, chỉ có điều dùng bảng đá thay cho bảng gỗ, đá cục thay cho túi vải đổ bùn mà thôi. Đã bao nhiêu năm gã không chơi trò này rồi? Ba mươi năm? Hay là ba mươi lăm năm? Lâu quá rồi, bản thân gã cũng không nhớ nổi nữa.

Ngày hôm sau, là ngày lễ lớn nhất trong năm của người Kukuer, được họ gọi là lễ thần Nadimuke, lễ tế được mở màn trong tiếng ồn ào náo động. Người Kukuer tập trung cả ở bãi đất trống lớn nhất giữa làng, dùng ván gỗ dựng thành một vũ đài. Từ sáng sớm nam nữ già trẻ lớn bé đã đến xung quanh vũ đài, ai nấy đều hết sức dày công tô vẽ trên thân mình, dùng những màu đậm sặc sỡ nhất, những hoạt tiết phức tạp nhất, tộc trưởng và đại tế sư cũng có mặt. Bọn Trác Mộc Cường Ba ra chào tộc trường và đại tế sư, được sắp xếp ngồi vào bàn khách quý. Babatou không ngồi bên cạnh trưởng tộc, mà đặc biệt chạy tới làm thuyết minh cho mấy người đám Trác Mộc Cường Ba.

Đại tế sư là một ông già, tên là Akima, ông vừa cất tiếng nói, người bên dưới vũ đài liền im lặng như tờ. Giọng nói âm sắc cao âm vang khắp không gian rộng lớn, đợi khi đại tế sư nói xong, Babatou mới thì thầm nói cho bọn Trác Mộc Cường Ba biết, đây là đại tế sư đang thay mặt toàn bộ tộc cầu khẩn với thần linh.

Sau khi đại tế sư nói một tràng dài, lễ tế chính thức bắt đầu, người Kukuer dùng các thứ phát ra âm thanh có tiết tấu giống như trống gỗ, xương thú, vỏ quả, đồ gốm, và một loại nhạc khí giống cây sáo bốn lỗ thổi ra tiếng nhạc trầm hùng. Bốn người cao lớn vạm vỡ nâng một người tiến vào, người trong bộ tộc lần lượt cung kính nhường ra một con người, cúi rạp đầu xuống đất, xung quanh còn có rất nhiều người khác vung tay múa chân xoay chuyển nhảy múa, theo vào tận giữa bãi.

Bọn Trác Mộc Cường Ba nhìn thấy, những người đứng giữa đều đeo mặt nạ khắc bằng gỗ, bên trên tô hai màu đỏ, lam, dáng điệu hung hăng dữ tợn vô cùng. Babatou nói, người đàn ông được khiêng vào kia là Quilan, anh ta là người mang lời đáp của vị thần tối cao truyền đạt lại cho người trong bộ tộc, đây là màn đầu tiên, gọi là nghi thức ban tên của thần.

Người tên là Quilan đó ngồi ở ngôi cao, theo sau có rất nhiều người Kukuer đeo mặt nạ hình các loại động vật khác nhau lục tục kéo nhau vào sân trong nhịp trống, tiếp nhận sự chúc phúc của Quilan. Mỗi người đầu thú đều biểu diễn một điệu múa giữa khoảng đất trước mặt đám người đep mặt nạ khắc gỗ, đại để mô phỏng lại hành vi của loài động vật ấy, biểu hiện các ích lợi mà loài vật đó mang lại cho người Kukuer. Babatou giới thiệu, Quilan đang truyền đạt ý chí của thần tối cao, ban cho các loài động thực vật có ích cho bộ tộc Kukuer danh hiệu của thần, tổng cộng có tới hơn một trăm vị thần bước ra.

Từ lời giới thiệu của Babatou, họ biết được người Kukuer là một dân tộc đa thần, bọn họ tin thờ giáo nghĩa “vạn vật trong trời đất đều có thần linh”, chẳng hạn như vị thần đầu tiên là thần quản việc trồng ngô, gọi là Yumil Kaxob, còn vị thần trông nom cây ca cao thì gọi là Ek Chuah. Trong đó so về thần bí thì không ai hơn được Yinawea, nghe nói, đó là bậc chân thần xuống chốn thế gian, đến cả một trong những vị thần có địa vị cao nhất là Thần Chó cũng phái phân thân xuống bảo vệ Yinawea. Vũ điệu tiếp sau biểu thị thần Yinawea chỉ dẫn tổ tiên người Kukuer đánh thắng chiến trận, xây dựng thành trì, lại dạy họ cách chữa bệnh, chế tạo đồ kim loại, canh nông, chăn nuôi gia súc, văn tự…

Xem mãi xem mãi, Trương Lập không khỏi nghi hoặc thốt: “Quái thật, sao càng xem tôi càng thấy giống lễ “nhảy đại thần” ở Tây Tạng thế nhỉ?”

Nhạc Dương hỏi: “Nhảy đại thần là cái gì?”

Trương Lập nói: “Cũng kiểu một hoạt động tôn giáo thôi, một điệu múa mà người biểu diễn phải đeo các loại mặt nạ khác nhau, sư đoàn trưởng có dẫn tôi đi xem một lần rồi. Mặt nạ ở Tây Tạng to hơn, hình vẽ quái dị hơn, hình như là kể một số chuyện giáng yêu trừ ma gì đó. Chẳng biết có phải mấy nền văn minh cổ đại đều có các hoạt động tương tự như thế hay không nhỉ.”

Nhạc Dương nói: “Ừ, chỗ chúng tôi gọi là “nhảy nợ”, chỗ chúng tôi cũng có, nghe anh nói vậy, mới thấy giống thật, quái lạ nhỉ?”

Trương Lập nói: “Mấy điệu múa kiểu sùng bái thần thánh này, chắc Trác Mộc Cường Ba hiểu biết hơn phải không, Cường Ba thiếu gia, Cường Ba thiếu gia?”

Trác Mộc Cường Ba đang thần người ra, từ lúc điệu múa tế thần bắt đầu, gã đã ngẩn người ra đó rồi. Mặc dù những tấm mặt nạ khắc gỗ kia và mặt nạ của kịch Tây Tạng có chút khác nhau, nhưng tư thế nhảy múa kia, nội dung điệu múa kia, chẳng phải chính là “khương mẫu (1)” của người Tạng hay sao? Mặc dù không thích đọc các thứ liên quan qua nhiều đến vấn đề tôn giáo, nhưng khương mẫu” và kịch nghệ của người Tạng, đều là những thứ hồi nhỏ Trác Mộc Cường Ba tương đối hứng thú. Bây giờ mặt dù không có âm nhạc hoành tráng như lúc biểu diễn “khương mẫu”, chỉ có tiếng trống và tiếng gõ vào vỏ cứng của quả cây, nhưng động tác nhảy múa của người Kukuer kia, mặt nạ đầu thú mà họ đang đeo trên đầu, thật giống hệt như điệu “khương mẫu” mà gã xem hồi nhỏ. Trong khoảnh khắc đó, điệu múa thần bí mà nguyên thủy ấy, cơ hồ như lại đưa Trác Mộc Cường Ba trở về Tây Tạng, Tây Tạng thuở gã còn là một đứa trẻ, vùng đất vẫn còn chỉ thuộc về thiên nhiên vĩ đại, vùng đất còn chưa bị văn minh chinh phục!

Trương Lập hỏi mấy câu liền, Trác Mộc Cường Ba mới sực tỉnh, lẩm bẩm nói: “Cái gì? Nhảy thần? Hay lẽ nào, đây chính là ngôn ngữ cơ thể mô phỏng tự nhiên mà con người thời viễn cổ học được trước tiên, thế nên, những vũ điệu từ thời xa xưa lưu truyền lại này, bất kể là chủng tộc gì, khu vực nào, cũng đều có những nét tương tự đến kinh người. Đây là cách lý giải của tôi, các cậu thấy thế nào?”

Trương Lập nói: “Ừm… có lý đấy, tôi tán thành phân tích này của anh.”

Nhạc Dương lại phát biểu ý kiến bất đồng: “Nói như vậy hình như hơi miễn cưỡng thì phải. Tôi nghe nói, người Tạng trước đâu cũng là một dân tộc theo thuyết đa thần, bộ tộc Kukuer cũng có rất nhiều thần linh, lễ nhảy thần của họ lại giống với lễ nhảy thần của Tây Tạng như thế, dựa vào điểm này, có chắc là họ không có quan hệ gì với Tây Tạng không nhỉ?”

Trương Lập phì cười nói: “Cậu đúng là biết liên tưởng, phải biết rằng bây giờ chúng ta đang ở đâu chứ, là Nam Mỹ cách Trung Quốc Đại lục hai mươi ngàn kilomet đấy. Bộ tộc Kukuer này lạ là thổ dân sống ở đây từ bao đời, lại cư trú ở vị trí địa lý thế này, gần như là không có tiếp xúc với thế giới bên ngoài, cậu nói họ và Tây Tạng có quan hệ, chứng cứ ở đâu chứ?”

Nhạc Dương xòe hai tay ra, nói: “Bằng trực giác.”

“Phì.” Trương Lập khoát tay một cái, tỏ vẻ coi thường không thèm quan tâm nữa.

Nhưng sau đó Nhạc Dương lại bổ sung: “Từ trước khi chúng ta chuẩn bị xuất phát, bắt đầu là câu nói kỳ quái của giáo quan, sau đó là chúng ta chẳng hiểu sao lại bị quân du kích và bọn buôn ma túy đuổi giết, tiếp theo là gặp được một số thứ hình như có liên quan tới Tây Tạng ở bộ lạc nguyên thủy này, những điều này làm tôi không sao hiểu nổi. Phía sau những sự việc tưởng chừng như riêng rẽ này, hình như có liên hệ gì đó, trực giác cho tôi biết, chuyến đi này của chúng ta, không đơn giản chỉ là băng qua rừng rậm thôi đâu, nhất định là có thứ gì đó, thứ gì đó mà chúng ta không biết.”

Trác Mộc Cường Ba giật mình, trực giác của Nhạc Dương hoàn toàn không đơn giản chỉ là dựa vào cảm giác để đưa ra kết luận, mà được đưa ra dựa trên một tư duy logic tinh tế tỉ mỉ. Nghe Nhạc Dương nói như vậy, gã cũng sinh lòng hồ nghi, vậy thì, trò chơi gã thấy lũ trẻ chơi hôm qua là thế nào, vùng đất này, lẽ nào thực sự có liên quan tới Tây Tạng?

Babatou trợn tròn mắt, hiếu kỳ nhìn hai người đang lầm rầm nói chuyện, lên tiếng nhắc nhở: “Tập trung xem đi, ít nói thôi, đây là lễ tế quan trọng của người ta đó.”

Kế đó là Hành trình di cư, một người Kukuer đóng giả làm ông già, trên lưng vác một cái bao to tướng tượng trưng cho trọng lượng nặng nề, bắt đầu đi vòng xung quanh vũ đài, tất cả người Kukuer có mặt đều đứng lên, đi theo sau lưng ông già đó, bọn Trác Mộc Cường Ba cũng đứng lên đi theo, Babatou giải thích, tiết mục này nói lên tổ tiên họ năm xưa vì muốn tìm kiếm vùng đất an cư đã phải bôn ba vô cùng vất vả, tất cả người Kukuer đều sẽ không bao giờ quên, cuộc sống hôm nay là do vô số bậc cha ông đã dùng máu và tuổi xuân đổi lấy cho họ.

Đi quanh bốn vòng, hoạt động mang tính toàn bộ tộc này cũng kết thúc. Phần thứ ba là màn chiến tranh, chỉ thấy hai nhóm người Kukuer đeo các mặt nạ tô màu khác nhau, biểu thị cho hai bộ tộc, mở đầu là người bộ tộc khác đeo mặt nạ màu đen thắng thế, người Kukuer đeo mặt nạ đỏ liên tiếp bại trận rút lui, đúng lúc đó, một người Kukuer đeo mặt nạ tượng trưng cho thầy tế đứng ra, trịnh trọng lấy ra một mảnh vỏ cây tượng trưng cho lời dạy của thần thánh, lớn tiếng đọc vang, trong tiếng đọc đó, một thiếu nữ Kukuer được khiêng ra.

Thiếu nữ Kukuer này toàn thân không một mảnh vải, trên mặt vẽ hoa văn màu đen, được đặt xuống một bàn gỗ tượng trưng cho đàn tế, nét mặt cô có vẻ vô cùng hạnh phúc và vinh hiển. Những người Kukuer đeo mặt nạ đỏ dùng dao vạch ngang vạch dọc bên trên cơ thể thiếu nữ, sau đó đặt đủ loại hoa quả màu đỏ, quả hạch và ngũ cốc lên ngực, hông và tay chân cô, một lúc sau, họ lại lấy các thứ đó xuống, chia cho những người đeo mặt nạ đỏ khác cùng ăn.

Nhạc Dương kinh ngạc thốt: “Người Kukuer cũng biết trò này à, hình như đây là Nyotaimori (2) của người Nhật mà?”

Lần này đến lượt Trương Lập hỏi: “No no cái gì? Nyotaimori? Là cái gì thế?”

Nhạc Dương thè lưỡi nói: “Cái này, cái này… ây da. Đằng nào thì cũng gần giống như anh đang xem đây này.”

Babatou giải thích, những hoa văn màu đen vẽ trên mặt đó tượng trưng cho việc cô gái đã được chọn làm tế phẩm của thần, đó là một việc hết sức vinh hạnh. Tương truyền, rất lâu, rất lâu trước đây, thiếu nữ đó phải hiến lên thần linh cả máu tươi và sinh mạng của chính mình, không biết từ bao giờ, nghi thức này đã dần dần biến hóa thành như ngày hôm nay.

Những người đeo mặt nạ đỏ ăn uống xong liền xông ra tái chiến với người đeo mặt nạ đen, lần này, người Kukuer đeo mặt nạ đỏ như có thần linh phù trợ, uy lực tăng cao, chẳng mấy chốc đã đánh cho lũ người ngoại tộc đeo mặt nạ đen tơi bời hoa lá, bỏ cả vũ khí giáp trụ chạy trối chết.

Nhạc Dương nhìn đoạn biểu diễn đó, bỗng thấy chấn động trong lòng. Điệu múa nguyên thủy vụng về đơn sơ ấy, tiếng nhạc tràn đầy tiết tấu ấy, những hoa quả ngũ cốc màu đỏ mà các chiến sĩ Kukuer đặt trên thân thể thiếu nữ kia trong tiết mục chiến tranh giản hóa ấy, dường như ẩn dụ một điều gì đó. Anh không dám khẳng định, nhưng cứ có cảm giác, ẩn dụ ngầm ấy, làm sống lưng anh lạnh toát.

Còn một người nữa cũng cảm thấy kinh hãi, đó chính là Batang đang ngấm ngầm nắm chặt tay ngồi bên cạnh, chỉ là hình thức của điệu múa không làm anh ta chấn động là mấy, thứ làm Ba Tang thấy bất an và căng thẳng là tiếng trống và tiếng gõ kia, tiết tấu gấp rút tựa hồ như chiến đấu kia mang đến cho anh ta cảm giác sợ hãi. Anh ta biết, có lẽ trong sâu thẳm ký ức, mình đã từng nghe âm thanh đó rồi, nhưng là lúc nào, ở nơi đâu, thì anh ta không muốn và cũng không thể nhớ lại được.

Tiếp theo sau là bắt đầu lễ chúc mừng của toàn bộ tộc, mọi người đều tham gia, bắt đầu nhảy múa hát ca, nam nữ già trẻ cùng cất tiếng hoan ca, Nhạc Dương và Trương Lập không kìm nổi mà cuống quýt nhảy lên vũ đài, hòa vào đám người Kukuer kia. Trác Mộc Cường Ba đứng bên cạnh, cũng cảm nhận được lòng nhiệt tình dào dạt và niềm vui phấn khởi của họ.

Phía xa xa, có mấy thợ săn Kukuer đang lùa một con vật đeo vải đỏ, trông như con dê, chắc có lẽ là lạc đà không bướu châu Mỹ. Người đầu tiên cầm cốc gỗ, dùng cành cây nhúng nước vẩy mở đường, miệng lẩm nhẩm tụng niệm gì đó, một người lực lưỡng mình trần tay cầm vũ khí bằng sắt, cơ hồ như đợi để mổ bụng moi ruột con vật. Trác Mộc Cường Ba hỏi Babatou: “Họ làm gì vậy?”

Babatou mỉm cười: “Phóng sinh, vừa để chúc mừng buổi lễ, vừa chúc mừng anh khỏi bệnh luôn!”

“Ồ,” Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn, cảm thấy cảnh tượng này hết sức quen thuộc, tựa như đã thấy ở đâu rồi vậy. Ai ngờ người đàn ông mình trần kia cầm vũ khí, lại đâm thẳng vào ngực con vật trông giống dê kia một cách hết sức chuẩn xác, máu tươi lập tức phun trào ra, rõ ràng là đã đâm thẳng vào tim con vật rồi. Con vật bị mấy người Kukuer giữ chặt tứ chi, không thể giãy giụa, co rút mấy cái rồi lăn ra chết. Nhìn cảnh tượng đó, Trác Mộc Cường Ba sực nhớ ra, đây hình như là một màn pháp sự, ngày trước ở Tây Tạng, gã đã từng thấy cảnh tượng tương tự như vậy rồi. Lẽ nào, giữa các nền văn inh nguyên thủy, đúng là có sự tương đồng đến mức đáng ngạc nhiên như vậy hay sao? Đây rốt cuộc là chuyện gì? Trác Mộc Cường Ba không kìm được, liền hỏi: “Không phải là phóng sinh à? Sao lại…”

Babatou giải thích: “Phóng sinh theo cách hiểu của chúng tôi, là giải thoát triệt để. Trước tiên là mở ra hố sinh mệnh của con lạc đà không bướu đó, tức là tim, sau đó là cắt đứt động mạch, lột da rồi pha thành miếng nhỏ, đặt vào các đồ đựng khác nhau, dựa theo vị trí trên cơ thể mà phân thành đẳng cấp một cách nghiêm khắc, rồi dùng ba thanh gỗ bắc thảnh giá để nấu lên, đêm nay sẽ có nghi thức mời khách, mọi người sẽ hát bài ca cảm tạ với anh. Anh xem, mọi người đều đến cả rồi kìa.”

Người Kukuer vừa ca vừa múa, vô cùng náo nhiệt, bọn họ mang những món ngon nhất ra khoản đãi ân nhân của thủ lĩnh, dùng những lễ nghi long trọng nhất để chúc phúc cho Trác Mộc Cường Ba.

Tối hôm ấy mọi người vừa uống rượu, vừa nghe nhạc nhảy múa, Nanh Sắc rót mười bát rượu, chìa tay ra với Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba chỉ cười nhạt, mặt không đổi sắc uống một mạch hết cả mười bát rượu ấy, làm Nanh Sắc lấy làm kinh ngạc. Anh ta vốn định nói, mỗi người năm bát, vừa để bày tỏ lòng hữu hảo, đồng thời cũng có ý phân cao thấp thêm lần nữa, chẳng ngờ Trác Mộc Cường Ba lại một mình uống cả mười bát, hơn nữa lại còn điềm nhiên như không, bản lĩnh này, anh ta tự biết là mình không bì nổi. Mà người Kukuer thì cứ ai uống được rượu tức là anh hùng, Trác Mộc Cường Ba tự nhiên lại được vẻ vang thêm lần nữa. Babatou rót rượu cho gã, trong mắt cũng ánh lên ý đồ riêng. Song họ nào có biết, chưa tính đến chuyện Trác Mộc Cường Ba là người tộc Tạng, chỉ riêng việc gã bao năm lăn lộn trên thương trường thôi, mười bát rượu đó đương nhiên chỉ là chuyện nhỏ. Lát sau, trên bàn tiệc, Nanh Sắc vô cùng thành khẩn mời bọn Trác Mộc Cường Ba ở lại bộ lạc thêm mấy ngày, gọi bọn gã là những vị khách tôn quý nhất của người Kukuer, Babatou cũng tỏ ý đó, nhưng Trác Mộc Cường Ba đều khéo léo khước từ.

“Tại sao lại đi gấp như vậy?” Không chỉ có Babatou ỉu xìu thất vọng, đến cả Trương Lập và Nhạc Dương cũng xị mặt ra.

Trác Mộc Cường Ba thành thực trả lời: “Thực ra mục đích chuyến đi lần này của chúng tôi, chỉ là băng qua khu rừng này, để lấy kinh nghiệm cho đợt huấn luyện sinh tồn nơi hoang dã mà chúng tôi tham gia thôi. Còn việc thành ra nông nỗi này, đến cả chúng tôi cũng chưa từng nghĩ tới. Thời gian định ra ban đầu chỉ có mười ngày, giờ đã qua mất một nửa, chúng tôi lại lỡ mất hai ngày ở đây nữa, giờ vết thương đã lành rồi, chúng tôi cần phải nhanh chóng lên đường mới bổ sung lại được thời gian bị chậm trễ.”

Nhạc Dương đứng bên cạnh nhắc nhở: “Nhưng mà, quân du kích đang rình rập xung quanh lãnh địa của người Kukuer, chỉ đợi chúng ta ra khỏi đây thôi đấy.”

Trương Lập cũng nói: “Đúng đấy, lần này chẳng biết là chúng ta tiếp nhận huấn luyện kiểu gì nữa, bị quân du kích và bọn buôn ma túy bắt tay đuổi đánh, đừng nói là chúng ta, dù là bộ đội đặc chủng chính quy chăng nữa, cũng chưa chắc mà bình yên rút lui được đâu. Muốn băng rừng trong mười ngày hả, tôi thấy chẳng thể nào đâu, hay là chúng ta cứ ở đây, chờ cho hết mười ngày, chắc là họ sẽ tới tìm chúng ta thôi, nếu không thì lúc ấy liên lạc với họ cũng được, coi như chúng ta lại thất bại lần nữa có sao đâu.”

Trác Mộc Cường Ba vừa nhíu mày, Ba Tang đã cười gằn lạnh lẽo: “Hừ, đây mà giống lời của sĩ quan đặc cảnh nói ra à. Mục đích của đợt huấn luyện này, chính là để chúng ta đối mặt với các hoàn cảnh nguy hiểm, cũng bao gồm cả chuyện chiến đấu với kẻ địch, bỏ cuộc như vậy, không chỉ đại diện cho một lần thất bại, mà còn nói lên rằng tất cả các nội dung huấn luyện đều uổng phí cả, rằng chúng ta căn bản không có cơ hội để đối đầu với những thách thức khó hơn nữa, cậu có hiểu không?”

Trương Lập phản bác: “Nhưng giờ cả vũ khí cơ bản chúng ta cũng chẳng có, chúng ta lấy gì để chiến đấu với đám quân du kích đó đây? Lần này bị thương, còn có người Kukuer giúp chúng ta, vậy còn lần sau thì sao? Lần sau anh hay Cường Ba thiếu gia hoặc người khác, bao gồm cả tôi và Nhạc Dương, chúng ta ngã xuống lần nữa, liệu còn may mắn như lần này nữa không?”

Babatou lúng túng nhìn bốn vị khách, sao họ càng nói càng hăng, chừng như sắp đánh nhau tới nơi thế kia. Trác Mộc Cường Ba cất tiếng: “Được rồi, được rồi. Không có gì phải tranh luận nữa, lấy ít thắng nhiều, xoay chuyển tình thế, tay không chiến đấu giữa vòng hỏa lực trùng trùng của kẻ địch, đây cũng là một trong các hạng mục huấn luyện của chúng ta. Trước giờ chúng ta vẫn được huấn luyện kỹ năng sinh tồn nơi hoang dã, chính là phải dựa vào đôi tay này tạo ra hoàn cảnh thích hợp cho mình sinh tồn ở môi trường hoàn toàn xa lạ. Không thể nào vác vũ khí đi khắp nơi được, chúng ta phải dựa vào… cái đầu mình nhiều hơn nữa chứ. Lần này tình thế bất lợi đối với chúng ta, ai bảo chúng ta phải so vũ khí nhiều với quân du kích đâu chứ? The tôi được biết, bộ tộc Kukuer, chẳng phải còn có lối đi sau có thể ra vào hay sao?” Câu cuối cùng, gã cố ý nói bằng tiếng Anh cho Babatou nghe.

Babatou lắp bắp thốt lên: “Cái đó, thì đúng rồi, nhưng mà chỗ ấy, chỗ ấy làm sao đi qua được chứ? Chỗ ấy đã được gọi là cấm địa yên nghỉ của Ah puch đấy.”

Nhạc Dương nói: “Thật sự phải đi đường đó sao? Đấy hình như là khu rừng chết mà hình như cả người Kukuer cũng bị cấm đi vào cơ mà?”

Trác Mộc Cường Ba hỏi: “So với rừng rậm nguyên sinh có quân du kích vũ trang lập trạm canh, cậu thấy lối nào nguy hiểm hơn?”

Ba Tang nói: “Đều rất nguy hiểm, theo những ghi chép lịch sử của người Kukuer, từ thế kỷ mười sáu, người Tây Ban Nha, nhà khảo cổ người Đức, thám hiểm gia người Mỹ, bao nhiêu người bước vào khu rừng đó mà không một ai trở ra cả, đó à rừng Than Thở, được mệnh danh là mộ phần của các nhà thám hiểm. Lần cuối cùng là vào năm 1965, nhà thám hiểm người Anh Malaer đã đặt dấu chấm hết cho cuộc đời mình ở trong khu rừng ấy.”

Trác Mộc Cường Ba vỗ vỗ lên vai Ba Tang cổ vũ tinh thần: “Chẳng sao cả. Đừng quên bây giờ là thế kỷ hai mốt, giờ đây khoa học kỹ thuật mỗi ngày mỗi khác, người năm một chín sáu mấy có thể không qua được, nhưng cũng không chứng tỏ rằng chúng ta không vượt qua được.”

Ba Tang liếc xéo Trương Lập và Nhạc Dương: “Tôi thì chẳng sao cả.”

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn Trương Lập, Trương Lập cúi đầu không nói, lại quay sang nhìn Nhạc Dương, Nhạc Dương nghĩ giây lát, rồi đáp: “Chết thì chết, ai bảo anh là đội trưởng.” Trác Mộc Cường Ba mỉm cười, nói: “Được, cứ quyết định như vậy đi.”

Nanh Sắc nhờ em gái phiên dịch, nói: “Nếu mọi người đã quyết ý muốn đi, chúng tôi cũng không thể miễn cưỡng, đêm nay chúng ta cứ uống cho thoải mái no say đi, thần Chac sẽ bảo vệ cho các bạn.”

“Nào, cạn ly!”

Chú thích:

(1) Khương mẫu: Một điệu múa truyền thống của người Tạng, các từ “nhảy thần”, “nhảy đại thần”, “nhảy nợ” đều chỉ loại hình nghệ thuật này. Các phái khác nhau của Phật giáo Tạng truyền đều có nội dung “khương mẫu” của riêng mình, tuy có khác nhau, nhưng nội dung chủ yếu đều phản ánh tâm lý sùng bái tự nhiên của người cổ đại.

(2) Hay còn gọi là body sushi, là cách bày món ăn truyền thống của Nhật Bản, trực tiếp bày đồ ăn lên mình một geisha khỏa thân.

Trò chuyện trên đàn tế

Sau đêm cuồng hoan, tiếng ca tiếng hát cũng dứt, mọi người tản đi, Babatou dẫn Trác Mộc Cường Ba lên đàn tế, bầu trời vẫn đầy sao sáng lấp lánh, chỉ có vầng trăng là ảm đạm đi phần nào. Vị công chúa cao quý xõa mái tóc dài mềm mại, hai tay bó gối ngồi cuộn giữa đàn tế, ánh mắt hân hoan như đứa trẻ, cô ngước lên nhìn bầu trời lồng lộng nói: “Hồi nhỏ, tôi thường một mình lên đàn tế này ngắm sao. Những ngôi sao kia nhìn có vẻ rất xa xôi, lại như ở gần tôi lắm. Lúc đó, tôi thường hay băn khoăn tự hỏi, thế giới bên ngoài rừng già, rốt cuộc là như thế nào. Nhưng khi ấy tôi vẫn còn chưa dám có suy nghĩ viển vông như thế, rời khỏi rừng già ra thế giới bên ngoài, quả thực là một việc mà cả nghĩ đến tôi cũng không dám nữa. Về sau, người bên ngoài vào rừng càng lúc càng nhiều, có bọn buôn ma túy muốn mượn đường đi qua lãnh địa của chúng tôi, quân du kích thì ky vọng hai bên tránh được xung đột, còn có cả một số người thích mấy loài mà các anh gọi là động vật hoang dã quý hiếm. Tôi nghe được rất nhiều chuyện về thế giới bên ngoài từ họ, có nhà cao trăm tầng, có máy bay bay lượn, thậm chí còn có người lên cả vũ trụ nữa, nghe nói còn bay thẳng tới tận mặt trăng nữa cơ.”

Nói đoạn, Babatou ngoảnh đầu lại nhìn Trác Mộc Cường Ba, thấy gã đang chăm chú lắng nghe, cô lại nói tiếp: “Năm mười sáu tuổi, chồng tôi chết trong rừng, theo cách nói của người trong bộ tộc, anh ta đã chọc giận thần rừng, có trời mới biết anh ta chết thế nào. Nhưng lúc ấy cha tôi đã nói một câu, ông bảo là, sinh ra ở rừng, lớn lên trong rừng, chết ở trong rừng, đây là kết cục tốt nhất của một con người. Khi người đàn ông ấy được khênh trở về, nửa người đã đen kịt rồi, đó là lần đầu tiên tôi khiếp hãi đến thế. Tôi đột nhiên muốn rời khỏi đây, chưa bao giờ tôi khát khao rời khỏi đây đến thế cả, nhưng quy củ trong tộc là không được tộc trưởng đồng ý thì không được phép làm điều đó. Tộc trưởng, cũng chính là cha tôi, ông ấy có quyền lực đó, nhưng ông kiên quyết không chấp nhận.” Ánh mắt Babatou ánh lên một tia cuồng dại, “Sau đó, tôi tìm một người đàn ông tới đây thu mua động vật hoang dã, ngủ với hắn hai đêm, chỉ cần một điều kiện, là hắn sẽ dẫn tôi đi, đi khỏi khu rừng này, khu rừng nhìn mãi không thấy tận cùng đáng chết này! Hắn đáp ứng nhanh lắm, nhưng đến cuối cùng hắn lại hối hận, hắn muốn giết chết tôi rồi bỏ lại trong rừng, rồi cướp hết trang sức trên người tôi, nhưng đã bĩ anh trai tôi bắn chết. Về sau, cha tôi thấy nợ tôi, mới đồng ý cho tôi ra khỏi rừng, đầu tiên họ đưa tôi tới Santa Fe de Bogotá (1) học hành, sau rồi lại sang Mỹ. Thực ra, cha tôi cũng có thể coi là một tộc trưởng văn minh, ông ấy nói, thế giới bên ngoài đang thay đổi, bộ tộc chúng tôi muốn tiếp tục sinh tồn, thì cần phải biết nhiều hơn nữa. Ông ấy mong tôi học thành tài trở về, có tể mang đến cho bộ tộc những thay đổi lớn, thế nhưng…”

Cùng một tiếng thở dài, đàn tế chìm vào tĩnh lặng một lúc lâu, Trác Mộc Cường Ba cảm nhận được nỗi buồn u uất của cô gái trước mặt mình, đảm nhiệm sứ mệnh thay đổi vận mệnh của cả một bộ lạc, đối với bất kỳ ai, cũng là một trọng trách quá ư tàn khốc, huống hồ là một cô gái còn trẻ như vậy. Babatou nói: “Tôi sợ lắm, ở bên ngoài càng lâu tôi lại càng sợ. Bởi tôi biết rất rõ, tôi không có khả năng thay đổi bất cứ điều gì, muốn thay đổi cả một bộ lạc, muốn thay đổi thói quen sinh sống và văn hóa mấy ngàn năm nay của chúng tôi, điều ấy quả thật quá khó khăn. Bộ tộc muốn có những bước phát triển mới, thì cần phải rời khỏi rừng già, nhưng một khi rời khỏi rừng già, bộ tộc này sẽ chẳng còn ý nghĩa tồn tại nữa rồi, từ bao lâu nay tôi vẫn không biết phải làm thế nào. Ra đi mười năm, trở về bộ lạc lại nhận ra mọi người vẫn sống lối sống lạc hậu ấy, sau này, mỗi lần thấy không thuận mắt, tôi lại một mình lẻn đi, đây cũng chính là nguyên nhân anh thấy tôi và anh trai tranh chấp lần trước. Họ muốn tôi trở về, còn tôi thì không chịu, theo quy tắc trong bộ tộc, kha kha, tôi không thể cưới người nào nữa rồi.”

Babatou lại ngẩng đầu lên ngắm sao, dưới hàng lông mi dài kia, sao trời lấp lánh trong mắt cô: “Lúc tôi đi học, cũng có mấy người bạn trai, nhưng họ vừa nghe thấy tôi là con gái của tộc trưởng bộ lạc, người nào người nấy đều hồn vía lên mây. Tôi nhớ nhất là có một anh chàng, anh ta kinh hoảng hỏi tôi, nghe nói có bộ lạc, sao khi nam nữ giao hoan, người đàn bà sẽ ăn thịt người đàn ông, có phải thật thế không? Ha ha, đúng là tức cười thật, đến cả tôi còn chưa nghe nói đến cái bộ lạc ấy cơ mà.”

Babatou cười cười, trong mắt cô, vẻ u buồn dường như càng hiện lên rõ hơn, cô bỗng nhiên đứng dậy, xoay một vòng, làn da trơn láng như gấm sa tanh, dưới ánh trăng càng như một khối ngọc, mái tóc mềm như dải ngân hà lả lướt, đôi mắt xinh đẹp và ngũ quan thanh tú, tất cả tạo nên một gương mặt quyến rũ tựa ánh trăng ngời. Gò ngực tròn đầy đặn kiêu ngao dựng đứng lên dưới ánh trăng, khe khẽ rung nhè nhẹ, làn da căng mọng không có lấy một chút mỡ thừa. Bất kể là từ góc độ nào, cô cũng đều lồ lộ ra một sinh mệnh trẻ trung mà tràn đầy sức sống, một đóa hoa tươi đang nở rộ. Babatou nheo nheo mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, hỏi: “Tôi có đẹp không?”

Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu, mặc dù không lên tiếng khen ngợi, nhưng ánh mắt gã đã ngợi khen rồi. Chỉ thấy Babatou uất ức, như một cô bé hờn dỗi: “Nếu tôi gặp được người đàn ông có thể gửi gắm cả đời, tôi sẽ cùng người đó rời xa chỗ này, không bao giờ trở lại rừng già nữa. Lúc nào tôi cũng nghĩ thế, lúc nào cũng vậy.”

Cùng với hơi thở, lồng ngực cô không ngừng bập bềnh lên xuống, Trác Mộc Cường Ba ra hiệu bảo cô ngồi xuống, Babatou lại ôm gối ngồi xuống sát bên gã, dưới ánh trăng, đôi mắt thông minh của cô tựa hai làn thu thủy dập dờn. Cô dõi mắt nhìn xuống bên dưới đàn tế, nơi đó, hơn trăm mái nhà cỏ đang nằm lặng lẽ, đó là toàn thể bộ tộc của cô, trên vai cô đang là sứ mệnh thay đổi vận mệnh của họ. Trác Mộc Cường Ba nhất thời cũng không biết nên nói gì mới phải, an ủi người khác vốn không phải là sở trường của gã, đành chỉ còn biết cùng Babatou chìm đắm trong trầm mặc lặng im. Đêm về khuya, làn gió đêm dịu nhẹ phất phơ mái tóc ai, sao trời nhấp nháy, ánh trăng trắng như tuyết kia đang phủ lên bờ vai ai. Toàn thân Babatou đều được ánh trăng bao bọc, tóc đen như màn đêm, da trắng như vầng nguyệt, cô dường như đã hóa thành một vị nữ thần đang trầm ngâm suy tư, khiến người ta chỉ có thể đứng mãi phía xa mà ngắm nhìn bằng ánh mắt sùng kính. Hơi men lại dâng lên đến tận đầu Trác Mộc Cường Ba, lờ mờ không hiểu vì ai mà say đắm.

Ở nơi trời đất cùng tan chảy ấy, duy chỉ có không gian của nữ thần Mặt trăng là thấp thoáng vang lên âm điệu, tiếng ca đó u oán sầu thương, tựa loài đỗ quyên khóc ra máu, chim hoàng oanh tặng con, khiến người ta nghe mà mềm lòng. Phảng phất như thể một nỗi đau thương từ chốn thiên đàng, đủ để khơi dậy nỗi đau nơi sâu thẳm nhất trong linh hồn người ta. Trác Mộc Cường Ba mê mêm mang mang, cảm giác như trái tim mình cũng bị tiếng ca ấy níu đi, lúc thì hụt hẫng, lúc lại cảm thương, dù không rung động đến nỗi phải khóc thương buồn thảm, nhưng cánh cửa ký ức bị hóa chặt trong nơi sâu thẳm nhất của linh hồn gã, đã bị từng tiếng ca bi tráng thê lương đó, dễ dàng đập nát.

Trác Mộc Cường Ba giật mình sực tỉnh khỏi cơn mộng ảo, thì ra là Babatou đang thấp giọng khe khe hát, dù gã không hiểu ca từ, nhưng âm nhạc vốn không biên giới, đâu nhất định là phải nghe ca từ mới được. Tiếng hát ấy, lúc tựa như gió nhẹ thổi qua rừng rậm, lúc lại như tiếng suối róc rách chảy qua hang núi, lúc như ngàn quân vạn mã sục sôi chiến đấu, lúc như lời rì rầm thân thiết dưới ngàn sao lấp lánh. Trác Mộc Cường Ba im lặng lắng nghe, phảng phất như hiểu được ý nghĩa trong đó, dài dòng như sử thi, bỉ tráng như sử thi, hỉ nộ ai lạc của nhân gian, đường đời đằng đẵng của con người, dường như tất cả đều dập dềnh chìm nổi trong tiếng ca kỳ diệu ấy.

Tiếng ca thấp dần, cuối cùng khúc điệu thay đổi, tựa như khúc nhạc ru con, cảm giác ấy, tựa hồ một người vừa trải bao hiểm nguy, toàn thân mệt mỏi rã rời, cuối cùng cũng trở về trong lòng mẹ. Thư thái, an tâm, không cần phải giả tạo bất cứ điều gì, cũng không tìm được nửa phần hư giả, có thể hoàn toàn thả lỏng, nhắm mắt ngủ một giấc dài. Không biết từ khi nào, Babatou đã ngừng hát, nhưng trong tai Trác Mộc Cường Ba, âm thanh ấy dường như vẫn đang bay bổng trên chín tầng trời, cộng hưởng với mặt đất bao la, âm thanh ấy tựa hồ Phạn âm của chốn Tây Thiên, khiến linh hồn con người ta được thanh tẩy hoàn toàn triệt để.

Trái tim Trác Mộc Cường Ba, chưa bao giờ đập mạnh đến thế, mãi hồi lâu cũng không sao trở lại bình thường được. Babatou lên tiếng nói: “Chỉ khi nào hát bài này, tâm trạng tôi mới đỡ hơn một chút, bao nhiêu phiền não u uất trong lòng đều theo tiếng ca mà tan biến.”

Trác Mộc Cường Ba lấy lại bình tĩnh, hỏi: “Đây là bài hát gì?”

“Là thánh ca của chúng tôi.” Babatou tự hào đáp, “tổ tiên chúng tôi, mang nguồn gốc bộ tộc Kukuer, lịch sử huy hoàng của bộ tộc Kukuer, hòa thành lời ca truyền lại cho con cháu.”Trác Mộc Cường Ba đã qua tuổi gặp chuyện gì cũng hiếu kỳ, song lần này, gã vẫn không cầm lòng được, cất tiếng hỏi: “Bài ca này, là bài ca lịch sử của bộ tộc Kukuer các cô à? Có thể cho tôi biết nội dung được không?”

Babatou nhoẻn miệng cười tươi tắn: “Đương nhiên là được, nhưng mà dài lắm đấy.” Cô bỗng cúi đầu buồn nản: “Cũng tốt, đằng nào sáng mai anh cũng phải đi rồi, nếu không nghe hết cả bài hát này, e rằng cũng là một điều đáng tiếc.”

Lịch sử của bộ tộc Kukuer tái hiện như mộng ảo trong tiếng ca, lịch sử của họ bắt nguồn từ bóng đêm: “Bước ra từ bóng đêm, sinh sống trong hang động, khu rừng đen tối che mất ánh sáng mặt trời, bầu sữa mẹ hóa thành dòng sông lớn…” Đây là một dân tộc yêu rừng sâu, yêu hòa bình, tổ tiên họ sống ở tít sâu trong rừng rậm và các hang động, hữu hảo hòa thuận với các động vật trong rừng, được chư thần ban ơn cho đồ ăn và lửa. Thời gian trôi qua trong tĩnh lặng và hòa bình, không ai thiếu thốn đồ ăn thức uống cả, cây cỏ lương thực tốt tươi, thu hoạch đầy đặn, thế nhưng, “Lũ ác ma phương Bắc, bọn chúng mang đến tội ác, chiến tranh, bệnh dịch và đói khát, bọn chúng nhiều như sao trên trời, bọn chúng chỉ biết chém giết, chém giết không biế mệt mỏi…” Trong trận chiến đó, tổ tiên người Kukuer hoàn toàn không có sức kháng cự lại. Trong thời khắc nguy cấp quyết định sự tồn vong của dân tộc, thần Nadimuke đã chỉ lối đưa đường cho họ, bảo họ hãy đi về phía Nam, trong rặng núi phủ đầy rừng rậm ở phương xa, có một vùng đất bằng, nơi đó rừng cây rậm rạp, nguồn nước phong phú, đất đai màu mỡ, không có nhiều đầm lầy khiến người ta sợ hãi, cũng không phải lân cơn sốt vì bệnh dịch, hoặc run rẩy vì đau đớn. Vậy là, những người Kukuer mang theo vết thương chiến tranh, bắt đầu hành trình di cư bi tráng của mình, dùng máu tươi của muôn ngàn người tưới đẫm mặt đường, tìm kiếm mái nhà tương lai của mình. “Vượt qua chín trăm chín mươi chín ngọn núi màu trắng, băng qua chín mươi chín vạn con sông… mặt trời đỏ như máu treo trên bầu trời, trên tán cây xanh lục là mây đen vần vũ… trong rừng không dấu chân người, vô số người đã chết vì đói khát… người trẻ tuổi đều đã chết vì già, lũ trẻ con cũng biến thành những ông bà tóc bạc da mồi, chúng tôi chưa bao giờ dừng lại, một giây một khắc cũng không dừng…”

Thủ lĩnh đổi hết đời này sang đời khác, trải qua bốn năm Katun (2), vượt bao khó khăn gian khổ, tổ tiên người Kukuer được tộc trưởng và đại tế sư lãnh đạo, vẫn kiên định tiếp tục tiến lên. Cuối cùng, họ đã tìm thấy bình nguyên, nơi đó không có chiến tranh, không có đói khát. Ở nơi đó, họ dung đá tảng dựng lên một tòa thành lớn màu trắng, đặt thánh miếu trên nơi cao nhất, thành thị có chùa miếu, cung điện và bảo tháp này càng lúc càng lớn, nó là tòa thành lớn nhất, bình yên nhất trong tất cả các tòa thành ở vùng đất này, nơi đây tựa như một gia đình lớn, tất cả mọi người đều sống hòa thuận bên nhau. Ngày tháng trôi qua trong cuộc sống yên bình mà sung túc, nhưng rồi sau đó con người lại làm ngơ trước lời cảnh cáo của thần Nadimuke trí tuệ cao vời: “Một khi để máu tươi làm bẩn bậc thềm đền thánh, vô số tai nạn sẽ như mưa đá dồn dập đổ xuống khắp nơi, tòa thành sẽ trở thành một thành phố chết, không một bóng người.”

Khi đó, để báo thù, trả đũa bọn xâm lăng từ phương Bắc, người đứng đầu bộ tộc hồi ấy đã khởi động tế lễ hủy diệt của Yinawea để lại, khi máu tươi nhuộm đỏ tất cả bậc thềm đền thánh, tai họa đã giáng xuống…khi máu và sự chém giết đều bị nhấn chìm trong lịch sử, kẻ thống trị tà ác kia cũng bắt đầu sợ hãi và trầm tư, tòa thành màu trắng vĩ đại bắt đầu trở nên hoang lương, bốn bề đều mù mịt trong bầu không khí chết chóc, nền văn minh từng một độ huy hoàng đã trượt xuống con dốc suy vong trong tay không ta. Để trừng phạt bản thân, ông ta hạ lệnh chôn mình bên dưới đền thánh, cùng một chỗ với những vong hồn đã hiến lên sinh mạng của mình trong các lễ tế, trong điện thánh đốt ngọn đèn ngàn vạn năm không bao giờ tắt, dẫn lối chỉ đường cho các linh hồn đang bị đọa đày chốn địa ngục vĩnh viễn không thể siêu sinh kia. Cửa lớn không bao giờ đóng lại, để người đời sau có thể đến hành hạ thi thể ông ta bất cứ lúc nào, để thân thể và linh hồn của ông ta đều chịu đày đọa và nguyền rủa trong địa ngục sâu thẳm nhất. Kẻ gây ra tai họa, đã tự trừng phạt mình bằng cách tàn khốc nhất, nhưng tất cả đều không ích lợi gì, tòa thành ấy cuối cùng cũng biến thành một thành phố chết. Người Kukuer không thể không từ bỏ tòa thành họ đã dựng nên bằng máu và nước mắt đó, tiếp tục đi sâu nữa vào rừng, tìm một vùng đất mới, bọn họ sẽ tiếp tục tìm kiếm…

Trác Mộc Cường Ba chỉ lẳng lặng lắng nghe, thậm chí không có cả cơ hội nói xen vào, cả đoạn sử thi viết bằng máu và nước mắt của người Kukuer, đã được tiếng ca du dương trầm bổng kia miêu tả tường tận và sinh động, máu tanh sát phạt của lời nguyền trong đền thánh khiến người ta không lạnh mà run, cả bài ca ấy như một đoạn lịch sử truyền kỳ đậm sắc thái thần thoại. Trác Mộc Cường Ba lấy làm khâm phục trước sự dũng cảm và lòng kiên định của tổ tiên người Kukuer, gã cũng hiểu và cảm nhận được áp lực vô hình đang đè nặng trên vai Babatou. Một luồng trọc khí dâng trào lên cơ thể, tắc nghẽn ở ngực, gã đột nhiên muốn tìm người để dốc lòng, bất kể là ai cũng được. Vậy là, gã lè nhè cất tiếng: “Con người, không nhất định là phải thay đổi cái gì, nhưng nhất định phải tìm thấy chính mình. Muốn tìm được chính mình, kỳ thực cũng rất dễ dàng, có lúc, chỉ cần có thêm một chút quyết tâm và dũng cảm là được rồi. Muốn biết tại sao tôi muốn băng qua khu rừng này không?”

Babatou mở to mắt, nhoẻn miệng cười gật đầu.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Để tôi kể hai chuyện trước, chuyện đầu tiên, chính là bạn của tôi. Tôi là người Tạng, Tây Tạng ở Trung Quốc ấy, có biết không? Ở đó có núi Tuyết, đỉnh Chomolungma, cao nhất thế giới. Nhưng nhà tôi không ở đấy, chỗ chúng tôi ở thấp hơn nhiều, là một làng nhỏ rất hẻo lánh hoang vu, đến đầu thế kỷ mười chín vẫn còn chưa thông xe, khắp nơi đều là rừng nguyên sinh, gần nhà tôi có mấy ngọn núi lớn, trong núi rừng sâu cỏ rậm, chẳng hề thua kém rừng rậm ở nơi này chút nào.”

Trác Mộc Cường Ba cúi đầu trầm ngâm: “Hồi tôi còn nhỏ, khi ấy tình hình rất phức tạp, những người xung quanh vừa kính lại vừa sợ nhà chúng tô, bọn trẻ con chẳng đứa nào muốn chơi với tôi cả, đến một người bạn để nói chuyện tôi cũng không có nữa. Hơn nữa, người ta nhà nào cũng nuôi chó, chỉ mỗi nhà tôi là không, vì vậy, tôi chỉ biết chơi một mình. Có lúc tôi nghĩ, cho dù không có bạn, bố mẹ có thể cho tôi nuôi một con chó nhỏ cũng tốt, nhưng mà…” Trác Mộc Cường Ba cười khổ lắc đầu, lại nói: “Gan tôi lớn lắm, những nơi người khác không dám đi tôi cũng dám đi, tôi thường một mình lẻn vào trong ngọn núi gần nhà, ở chỗ ấy, có một đàn sói sinh sống.”

“A.” Babatou thấp giọng kêu lên. Trác Mộc Cường Ba cười cười, nói: “Nhưng tôi chẳng sợ chút nào, bọn chúng chỉ bắt lũ động vật nhỏ như thỏ hoang, chồn nhỏ để ăn thôi, nếu không tới lúc cự kỳ đói, chúng sẽ không đụng đến con người đâu. Mặc dù khi ấy tôi còn chưa biết, nhưng đích thực là bọn chúng không hề hung ác như người ta vẫn thường nói, ngược lại, tôi cảm thấy chúng còn hơi sợ tôi nữa cơ. Chân trái của con sói già đầu đàn bị tật, lúc tôi gặp nó, mặt con sói ấy đã có nhiều nếp nhăn lắm rồi. Trong làng người ta vẫn nói, sói già thì thành tinh, nói biết trẻ con không thể tấn công được mình, thế nên khi thấy trẻ con sẽ không chạy, chỉ khi nào thấy đàn ông trưởng thành mới chạy thôi. Nhưng mà, nó cũng không ăn thịt tôi như người trong làng đồn đãi, khi ấy tôi nhìn nó, nó nhìn tôi, lúc ấy tôi nghĩ, sói thì có gì mà đáng sợ chứ, bọn chúng gần như giống hệt như lũ chó trong nhà chúng ta thôi, khác mỗi một điều là chúng không biết vẫy đuôi. Tôi người xổm xuống, nói chuyện với sói đầu đàn, tôi nhớ lúc ấy mình nói nhiều lắm, tôi nghĩ là, bọn sói ấy đại để cũng hiểu được hầu hết những gì mình nói, chỉ là những gì chúng muốn biểu đạt, chúng ta chưa hiểu được mà thôi. Tóm lại, đó là một trải nghiệm vô cùng kỳ quái, tôi có thể tiếp xúc với lũ sói mà người ta không dám lại gần, về sau, khi tôi muốn nói chuyện, tôi thường tới chỗ ấy, tìm chúng nói chuyện. Năm đó, tôi mới bảy tuổi.”

Babatou cảm thán: “A, gan anh to thật đấy.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Về sau tôi và chúng trở nên rất thân thuộc, tôi coi chúng như bạn mình, chúng hình như cũng rất hòa thuận với tôi, lúc đó tôi cũng chẳng biết vì sao, chỉ cần có bạn cho mình dốc lòng tâm sự, là tôi đã thỏa mãn lắm rồi. Có khi tôi cũng mang theo chút đồ ăn, hoặc có lúc phải cách mấy tháng tôi không ra ngoài được, nhưng lần nào đến, chúng vẫn nhận ra tôi, người khác thì tuyệt nhiên không được lại gần. Năm tôi mười bốn tuổi, con sói già bỏ đi, rời khỏi bầy sói, một mình đi sâu vào núi, mặc dù không con sói nào có thể nói cho tôi biết nó đã đi đâu, đi lúc nào. Nhưng khi ấy tôi đã hiểu rất rõ, nó đã bị con đầu đàn mới đánh bại rồi, con đầu đàn mới có bộ lông xám sẫm đó rất cường tráng, đã ngấp nghé vị trí đầu đàn từ lâu rồi. Sói đầu đàn già bỏ đi, nó sẽ một mình lên đỉnh núi tách xa hẳn đàn sói, hướng về phía mặt trăng mọc, lặng lẽ chờ chết. Bọn sói đổi thủ lĩnh mới, nhưng quan hệ của toio6 và bọn chúng cũng không bị ảnh hưởng gì, tôi vẫn có thể đến tìm chúng nói chuyện, chúng cũng đã quen với sự tồn tại của tôi, tựa hồ như tôi đã là một phần tử của bọn chúng rồi vậy, cứ thế cho tới khi tôi hai mươi tuổi. Rất nhiều năm sau tôi mới biết, thì ra sâu trong những ngọn núi đó, còn có một bộ tộc tên gì Qua Ba chung sống với lũ sói, bọn sói đấy, rất có thể là hậu duệ của lũ sói đã sống cùng người Qua Ba, chúng vẫn giữ tập tính sống gần con người, vậy nên mới dễ dàng để tôi tiếp cận như vậy. Vì thế, bạn của tôi là một đàn sói, đây là bí mật cá nhân của tôi, đến cả bố mẹ tôi cũng không định nói. Bởi vì mỗi khi trong lòng tôi có suy nghĩ hay bí mật gì đó, tôi chỉ nói với những người bạn đó, bọn chúng sẽ giúp tôi giữ bí mật, cho tới một ngày, trong đời tôi, xuất hiện một người bạn khác để cùng chia sẻ bí mật.”

(1) Thủ đô của Colombia

(2) Katun là đơn vị năm trong lịch của người Maya, một năm Katun dài 7.200 ngày, bằng khoảng 20 năm theo lịch hiện đại.

Duyên tình mờ mịt

Trác Mộc Cường Ba lầm rầm kể: “Người đó, là em gái tôi, nhỏ hơn tôi mười ba tuổi, nếu nó vẫn còn sống, chắc là cũng suýt soát tuổi cô đấy. Cô xem đi, đây là ảnh nó hồi nhỏ.” Babatou trông thấy ảnh một cô bé tầm năm sáu tuổi đã ngả vàng, Trác Mộc Cường Ba hình như lúc nào cũng mang sát bên mình thì phải. Cô biết, đây nhất định là bí mật chôn giấu tận nơi sâu thẳm nhất trong lòng Trác Mộc Cường Ba, hoặc cũng có thể là, nỗi đau chôn giấu sâu nhất của gã. Cô bé trên tấm ảnh có đôi mắt to rất đáng yêu, tóc mái để lòa xòa, mái tóc xinh xắn ánh lên như hắc trân châu, gương mặt trắng mịn dễ thương đầy vẻ hoạt bát tinh nghịch, nụ cười thuần khiết đó tựa như đóa sen tuyết mới nở, vầng trán cũng lờ mờ thấp thoáng phong cách hào sảng của anh trai Trác Mộc Cường Ba của cô.

Trác Mộc Cường Ba tiếp lời: “Tính cách của em ấy hoàn toàn khác với tôi, từ nhỏ nó đã nhát như con thỏ trắng nhỏ, ngoại trừ lúc ở cùng tôi, nói chuyện một câu với thằng bé nào khác là nó cũng đỏ bừng mặt lên. Lúc em gái ra đời, tôi đã không thường ở nhà nữa mà chạy lông nhông khắp nơi rồi, nhưng mỗi lần tôi về đến nhà, anh em đều rất thân thiết, dù sao nó cũng là em gái cùng cha cùng mẹ với tôi mà! Em gái sẽ mang bí mật nhỏ trong lòng nó chia sẻ với tôi, nó sẽ giấu món kẹo ngon nhất, món điểm tâm ngon nhất đi, đợi tôi về cùng ăn, dù có lúc đem ra, kẹo đã tan chảy, điểm tâm đã hỏng, tôi cũng nhiều lần bảo nó rồi, nhưng nó vẫn cứ làm thế, đem những thứ trong lòng nó cho là tốt nhất chia sẻ với anh trai. Nó, nó là một cô bé ngốc nghếch đáng yêu như thế đấy.” Kể tới đây, mắt Trác Mộc Cường Ba bỗng đỏ lựng lên, lần đầu tiên trong đời Babatou nhận ra, dù người đàn ông có anh dũng đến nhường nào, anh ta cũng có lúc phải đau lòng xót ruột.

“Em gái tôi thường hay nói với lũ bạn nó, rằng nó có người anh trai tài giỏi, anh trai nó đã đi rất nhiều nơi, gặp rất nhiều người, anh trai nó vừa dũng cảm, lại vừa thông minh. Lúc nói những điều này, đúng là nó rất tự hào, tôi cũng thấy hết sức tự hào vì có đứa em gái như nó, vừa khả ái vừa thông minh, nghịch ngợm mà lanh lợi. Em gái tôi khi ấy là viên ngọc trong nhà, lúc có nó, cả nhà lúc nào cũng tràn ngập niềm vui. Những lúc ấy, tôi cảm thấy nhà mình là gia đình hạnh phúc nhất, hoàn mỹ nhất trên đời này.” Trác Mộc Cường Ba cố kìm nén bi thương, cả ngữ điệu cũng ép xuống: “Thực ra hoàn cảnh của cô và tôi khá là giống nhau, bố tôi ở quê, cũng là một người rất được tôn kính. Nhưng tôi khác với cô, mười bốn tuổi tôi đã một mình rời khỏi Tây Tạng ra thế giới bên ngoài tìm đường phát triển, sau đó lang bạt khắp nơi, vừa làm thêm vừa tự kiếm tiền đi học. Mười chín tuổi tôi đã kiếm được một món tiền kha khá, tôi rất tự hào trở về nhà, chứng minh với bố mẹ rằng mình đã tự sinh tồn được rồi, lúc ấy em gái tôi mới bảy tuổi, dễ thương y như trong hình này vậy. Tôi ở nhà một thời gian, thỉnh thoảng lại đi gặp những người bạn kia của mình, lần đó, người em gái đã biết bí mật này của tôi, xin tôi dẫn nó đi cùng. Trước đó bố tôi đã nhắc nhở, bên ngoài dường như có điều gì bất ổn, bảo tôi phải chú ý an toàn cho em gái, nhưng tôi chẳng buồn để tâm. Tôi thuở đó thì biết sợ là cái gì chứ, tôi chẳng sợ gì cả, tôi lúc ấy cứ ngỡ mình đã từng trải sự đời lắm, cứ ngỡ mình thừa sức bảo vệ em gái. Em còn nói với tôi, chỉ cần có anh trai ở bên, nó cũng không sợ gì hết, nó muốn đi gặp bạn của anh, nếu được, nó còn muốn làm bạn tốt với những người bạn của anh trai nữa.”

Trác Mộc Cường Ba đưa hai tay lên ôm đầu, chìm vào trong những ký ức hỗn loạn, gã bi phẫn kể tiếp: “Không ngờ rằng, số mệnh xoay chuyển chỉ trong chớp mắt. Tất cả đều như một cơn ác mộng, tôi không biết bọn người ấy, không hiểu chúng từ đâu đột nhiên xông tới, tôi liều mạng chống cự nhưng cũng chẳng ích lợi gì, sau khi bị một tên cao lớn đập trúng đầu, tôi ngã gục xuống. Đáng lẽ, đáng lẽ tôi phải bò dậy đuổi theo bọn chúng, thế nhưng lần đó, tôi lại sợ hãi. Tôi sợ cái đau tựa hồ muốn vỡ nát xương cốt ấy, càng sợ hơn là đôi mắt như loài rắn độc của hắn, bọn người đó tên nào tên nấy đều vô cùng hung ác, tựa như chúng chui từ địa ngục lên vậy. Tôi mở mắt trân trân ra nhìn em gái duy nhất của mình bị người ta kéo đi, nó ra sức giãy giụa cũng vô dụng, bọn người đó còn khỏe hơn cả bò Tây Tạng nữa; nó gào hét gọi anh trai, nhưng anh trai nó, lại do dự. Chần chừ mấy giây, em gái tôi đã bị bọn người kia lôi lên xe, tôi vốn không nên chần chừ chút nào, đúng vào khoảnh khắc xe hơi nổ máy, bạn tôi, con sói đầu đàn mới kia đã đuổi tới, nó gầm lên xông thẳng vào chiếc xe, chui tọt vào trong đúng lúc cửa xe sập lại. Nhìn chiếc xe đi xa dần xa dần, tôi mới giật mình sực tỉnh, tôi bắt đầu đuổi, cật lực đuổi theo, nhưng ô tô chạy càng lúc càng xa, cuối cùng thì biến mất khỏi tầm mắt. Còn tôi và lũ sói còn lại, chỉ biết nhìn theo đám khói bụi mờ mịt bị chiếc xe kia cuộn lên. Kể từ đó trở đi, đám người kia tựa hồ như bốc hơi vậy, không tài nào tìm được bọn chúng nữa.”

Giọng Trác Mộc Cường Ba nhỏ dần nhỏ dần: “Cho tới khoảnh khắc con sói đầu đàn nhảy lên, tôi mới cảm thấy, dũng khí và quyết tâm bảo vệ em gái của mình, còn chẳng bằng người bạn của mình, một con chó sói. Ra sức rèn luyện thân thể, chẳng qua chỉ để tìm thấy vỏ bọc che đi sự yếu hèn trong nội tâm; bỏ nhà ra đi, chỉ là để trốn tránh trách nhiệm gia đình mà lẽ ra tôi phải gánh vác; tìm kiếm của cải, chỉ là để mở lối thoát cho việc chối bỏ sứ mệnh đáng lẽ mình phải kế tục. Tôi không sợ chó sói, tại sao lại sợ đám người độc ác như sói ấy? Chuyện đã xảy ra rồi, có tự trách với đau buồn cũng chẳng ích gì, tôi đành nói hết sự tình với cha. Cha tôi đã dùng đến tất cả các lực lượng có thể sử dụgn để tìm kiếm em gái, nhưng trước sau vẫn không thể tìm được. Về sau tôi mới biết, bọn bắt cóc muốn dùng em gái tôi để đổi lấy cổ kinh Ninh Mã gia truyền của nhà tôi, còn cha tôi, sau khi nhận được thông báo ấy, liền lập tức liên hệ với chính quyền khu tự trị và Bố Đạt La cung, quyết định hiến tặng cổ kinh Ninh Mã cho nhà nước vô điều kiện. Bây giờ tôi vẫn còn nhớ rất rõ, cha chỉ nói với tôi thế này, Mày chưa làm hết trách nhiệm của một người anh. Câu nói đó, đã đủ để làm tôi dằn vặt cả đời rồi. Khi tôi đờ đẫn đi vào trong núi, muốn dốc mình tâm sự với bạn bè, thì chợt nhận ra, bất kể tôi gào thét thế nào, đám bạn ở bên tôi suốt thuở thiếu thời ấy, không bao giờ xuất hiện trước mặt tôi nữa. Nhất định là bọn chúng đã cho rằng, chính tôi là kẻ dẫn người khác đến bắt sói đầu đàn đi, tôi đã mất đi sự tín nhiệm của chúng. Trong một ngày hôm đó, tôi đã mất đi bạn bè, cùng người em gái thân thiết nhất.”

Một giọt nước mắt lặng lẽ lăn qua các kẽ ngón tay, trong đêm khuya tĩnh lặng, giọt xuống sàn gỗ, phát ra một tiếng “tách”, tựa như mặt hồ phẳng lặng bỗng lăn tăn gợn sóng. Van chặn đã được mở, không còn khống chế nổi tình cảm cuộn trào lên, giọng nói khan khàn bi tráng kia của Trác Mộc Cường Ba lại vang lên, lúc được lúc mất: “Ngày hôm đó, đã triệt để thay đổi cuộc đời tôi. Tôi không sao xóa đi được ý nghĩ, nếu lúc đó tôi dũng cảm hơn một chút, kiên trì thêm một giây nữa thôi, hoặc giả tình huống đã thay đổi, nỗi nhớ em gái, tựa như cỏ dại sinh sôi nảy nở trên đồng hoang, tôi đã không làm nổi chuyện một người anh trai cần làm. Tôi ra sức tìm kiếm đầu mối, dùng hết đủ cả mọi cách, nhưng trời cao kia không cho tôi cơ hội làm lại. Mặc dù lúc cha tôi đưa ra quyết định tàn nhẫn kia, mọi người đều biết hậu quả rồi sẽ rất đáng sợ, nhưng ngày nào còn chưa tìm thấy thi thể em gái, tôi vẫn có lý do để tin rằng, nó vẫn còn sống trên đời này. Tôi ghét cha mình, bởi vì ông ấy đã đẩy em gái tôi vào đống lửa, nhưng tôi càng căm hận bản thân hơn, thì ra bản thân tôi lại hèn nhát yếu đuối như vậy, tôi cũng không thể nào đối diện với gương mặt ngày một tiều tụy ấy của mẹ, lại một lần nữa, tôi chọn cách trốn tránh, thời gian về nhà càng lúc càng ít. Tôi bắt đầu vừa làm việc, vừa tìm kiếm em gái, tìm kiếm mà chẳng có đầu mối gì trong tay, cả công việc cũng tiến hành với thái độ gần như điên cuồng…”

Trác Mộc Cường Ba mở hòm chứa bí mạt trong lòng, chỉ hận không thể dốc hết những chuyện lận đận trong đời mình ra trong một đêm này. Khi ấy, không có đầu mối nào về em gái, gã mang đầu mối đặt lên những người bạn sói, vì vậy mà bắt đầu nghiên cứu với loài động vật đặc biệt này, được giáo sư Phương Tân hướng dẫn, gã đã đi đến một cảnh giới mới trong nghiên cứu về động vật họ chó. Gã bị sự cố chấp và lòng trung thành của loài vật này khiến cho xúc động, từ chúng, gã học được cách làm người và kết bạn, cách tuân thủ lời hứa của mình, cách bảo vệ tín niệm của bản thân. Không biết tự bao giờ, gã buông bỏ tất cả sự nghiệp trước đó, dồn hết tinh lực cả đời vào nghiên cứu động vật họ chó, gã gần như điên cuồng lao vào công việc chỉ là để làm tê liệt bản thân, hy vọng có thể mượn việc này mà quên đi cảm giác tội lỗi trong lòng. “Nhưng đều vô dụng, mỗi lần đêm khuya tĩnh lặng, tôi lại một mình chìm vào mộng mị, đôi mắt đầy trông đợi của em gái lúc bị đám người kia bắt đi cứ không ngừng tái hiện trong những giấc mộng ấy. Anh trai vẫn còn đấy, anh trai nhất định sẽ đánh đuổi lũ người xấu, cứu em về, lúc đó hẳn là nó đã nghĩ như thế. Tôi biết, đôi mắt chan chứa mong chờ ấy đã vĩnh viễn trở thành cơn ác mộng của tôi, khắc ghi vào tận góc sâu thẳm nhất của linh hồn, làm tôi đau đớn khôn nguôi, cả đời này cũng không thể nào chuộc tội được. Muốn được mạnh hơn, tôi càng ra sức luyện tập thể năng, sau khi nghiên cứu về loài chó ở trường đại học, tôi đã trở về Tây Tạng đoạt Khố bái ba năm liền, nhưng thế thì có ích gì đâu chứ? Em gái vẫn bặt vô âm tín, sống hay chết, giờ nó đang ở đâu? Tôi thật mong có thể gặp lại nó dù chỉ một lần, đó là tâm nguyện nhỏ nhất của tôi, tâm nguyện chỉ đơn giản có thế…” Trác Mộc Cường Ba nói tới đây, lớp vỏ bọc kiên nghị cứng rắn kia đã hoàn toàn trút bỏ, người đàn ông cứng rắn như sắt thép ấy cuối cùng cũng khóc không thành tiếng.

Mắt Babatou đã đỏ hoe lên từ lâu, cô nhìn gã đàn ông đối diện với mình bằng ánh mắt hết sức thương hại, không ngờ bên dưới lớp vỏ bọc lạnh lùng kia, lại là một trái tim tình nghĩa sâu nặng đến thế. Cô dịch người lại, ôm Trác Mộc Cường Ba vào lòng, lấy bầu ngực sưởi ấm gương mặt đã ướt nhẹp của gã, cho gã sự từ ái của người mẹ, chỉ nghe Trác Mộc Cường Ba thấp giọng nghẹn ngào tiếp lời: “Tôi không chỉ muốn làm tê liệt cơ thể mình, mà còn cả linh hồn nữa, tôi thà tin vào những gì cha nói, người nào cũng có số mệnh của mình, luân hồi ba kiếp, trước khi sinh ra trên đời này, vận mệnh của người ta đã được quyết định rồi. Thế nhưng, những lời đó đều chỉ là giả dối thôi, căn bản là tôi không thể ép mình tin vào chúng được, thực ra, tất cả đều là lỗi của tôi, chẳng những làm mất em gái, mà còn đẩy một gia đình hạnh phúc chìm vào địa ngục, làm bạn bè mất đi một chút tín nhiệm cuối cùng với con người. Lòng tôi, đau lắm!”

Babatou lấy ra một thứ giống như vỏ cây, đưa vào miệng Trác Mộc Cường Ba, nói: “Anh nhai đi, sẽ cảm thấy dễ chịu hơn đấy. Đây là thánh dược thần linh đã ban tặng cho người Kukuer để giải trừ nỗi đau trong lòng, biến tất cả những điều không vui trở thành ký ức ngắn ngủi, nó sẽ đưa anh băng qua địa ngục thẳng đến thiên đường.”

Trác Mộc Cường Ba không từ chối, đây là lúc gã đang cần được giải thoát, thà rằng tin vào tác dụng của thần dược, cho dù tác dụng của nó chỉ ngắn ngủi trong nháy mắt cũng được. Thứ mềm mềm nhũn nhũn như cao su, mới đầu nhai thấy đắng chát, nhưng chỉ chốc lát đã trở nên ngòn ngọt, nước bọt tứa ra đầy miệng, một mùi hương kỳ dị xộc thẳng từ miệng lên mũi, cảm giác phiêu phiêu dị dạng, làm đầu óc choáng váng nửa tỉnh nửa say của gã tỉnh hẳn lại, đồng thời toàn thân cũng bắt đầu nóng lên.

Trác Mộc Cường Ba tỉnh táo trở lại, lập tức ý thức ra hiện trạng của mình, gã ngừng khóc. Lau khô mặt, ngại ngùng dịch người ra khỏi bầu ngực Babatou, lẩm bẩm nói: “Ừm, tôi bị sao thế nhỉ? Vốn là định khuyên cô, sao lại trở thành cô an ủi tôi vậy. Thật tình, nói với cô nhiều quá rồi, còn chuyện kia, cô cũng không cần để tâm đến sứ mệnh của mình làm gì, tất cả cứ thuận theo tự nhiên đi.”

Babatou cũng không nhắc lại chuyện xưa thương tâm của Trác Mộc Cường Ba, chỉ thuận theo lời gã nói: “Anh chẳng bảo tôi phải tìm lấy chính mình còn gì, anh đã tìm được chính mình chưa?” Cô không khỏi ngạc nhiên, lượng thuốc như vậy, nếu người đàn ông nào khác dùng phải, chắc đã có phản ứng ngay rồi, nhưng người này chẳng những không có phản ứng gì, mà ngược lại còn tỉnh táo hơn nữa.

Trác Mộc Cường Ba trầm tư: “Tôi nghĩ, nếu đúng là có số mệnh, vậy thì có lẽ là Phật tổ hy vọng tôi đi tìm những người bạn giống chó quý hiếm kia, làm quen với chúng, phát hiện ra giá trị của chúng cũng nên. Từ nhỏ, chúng đã làm bạn với tôi, lớn lên cùng tôi, về sau này, đời tôi cũng không bao giờ rời xa chúng, nhờ tìm hiểu và nhận thức, chúng cũgn giúp tôi tạo ra nhiều tài sản. Đặc biệt, là từ sau khi tôi biết đến một loài động vật gọi là ngao.” Trác Mộc Cường Ba bắt đầu giới thiệu, từ nhỏ gã đã được nghe bao nhiêu thần thoại và truyền thuyết về chó ngao như thế nào, sau này lại biết đến ngao ra sao, chuyện tình yêu của gã, công ty của gã, tất cả những gì của gã ngày hôm nay đều không tách rời khỏi quan hệ với chó ngao, cuối cùng thì kể đến chuyện phát hiện tấm ảnh Tử Kỳ Lân, cùng chuyến đi băng rừng mạo hiểm lần này của gã và bọn Trương Lập. Babatou nghe mà trợn tròn cả mắt lên, kinh ngạc không ngờ thế giới bên ngoài và cuộc đời của Trác Mộc Cường Ba lại đặc sắc như thế, đồng thời cô lại càng kinh ngạc hơn trước thể chất và ý chí như sắt đá của gã đàn ông này.

Cuối cùng, Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi tin chắc rằng, đây chính là số mệnh của mình, nếu biết rõ rằng trên thế gian này có tồn tại một loài như thế, mà tôi lại thờ ơ bỏ qua, thì tôi sẽ hối hận cả đời mất. Kỳ thực, khi của cải và quyền lực có thể chi phối trong tay cô đạt tới một mức độ nào đấy, nhu cầu về vật chất từ lâu đã không còn thỏa mãn được bản thân nữa, mà phải cần đến tinh thần và tín niệm mới làm cho sinh mệnh của mình phát huy tới mức cực điểm, không bị những chuyện vặt vãnh thường ngày làm mình chìm đắm, rồi lãng phí cuộc đời đi. Mỗi người đều trải qua một giai đoạn lịch sử nhất định, nhưng không phải giai đoạn lịch sử nào cũng được ghi lại, con người ta cũng không thể sốn mãi trong ký ức, chỉ có nắm được hiện tại, thì mới có thể khiến cuộc đời ta càng thêm ý nghĩa hơn mà thôi.”

Babatou nói: “Nghe cứ như luận ngôn của triết học phương Tây vậy, đây là bản thân anh tự lĩnh ngộ ra à?”

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Không, bố tôi nói đấy. Đi thôi, thời gian không còn sớm nữa đâu, trời sáng là tôi phải đi luôn rồi.” Dứt lời, gã liền đứng dậy, đột nhiên thấy đầu hoa mắt váng, cảm giác như trời đất xoay chuyển, ngũ quan đều mất đi cảm giác. Babatou vốn đang thất vọng nhìn Trác Mộc Cường Ba đứng lên, kế đó lại thấy gã lảo đảo loạng choạng, khóe miệng liền nở ra một nụ cười.

“Nhức đầu quá, thứ rượu của người Kukuer này mới uống thì chưa thấy gì, không ngờ ngấm vào lại ghê thế.” Trác Mộc Cường Ba mở mắt ra, nhìn nóc nhà lợp cỏ, mệt mỏi duỗi người trên giường, nhớ lại, “Đêm qua lúc tan tiệc, mình lên đàn tế với Babatou, lúc ấy rượu ngấm xộc lên đầu, toàn thân không còn chút sức lực, ừm, hình như mình và cô ấy nói rất nhiều chuyện. Hình như mình còn nói chuyện em gái với cô ấy nữa. Tối qua làm sao vậy nhỉ? Xưa nay mình có nói những chuyện đó với ai đâu, cả Mẫn Mẫn cũng đâu có nói, mình còn tưởng sẽ không bao giờ nói chuyện này với bất cứ ai nữa chứ. Ừm, Mẫn Mẫn, không biết nhóm của họ bây giờ thế nào rồi, tối qua sao lại mơ thấy… với cô ấy chứ, thôi bỏ đi, giờ đáng lẽ phải lo cho sự an nguy của cô ấy nhiều hơn mới phải, không ngờ mình vẫn còn nghĩ đến chuyện kia được. Đúng rồi! Tối qua mình đã nói với Babatou mục đích của chuyến đi lần này thì phải? Hình như là có, sao mình không nhớ nổi nhỉ? Sao mình về được căn phòng này? Lẽ nào lâu nay bỏ bê luyện tập, tửu lượng kém đi rồi? Xem ra sau này tốt nhất là uống bớt đi thì hơn, mình cũng đâu còn trẻ như bọn Trương Lập nữa. Phải rồi, hình như mình còn khóc nữa, chẳng lẽ mình khóc thật? Hai mươi mấy năm chưa từng rơi lệ, lại khóc trước mặt một người đàn bà xa lạ hay sao?” Trác Mộc Cường Ba xoa xoa gương mặt căng thẳng, cơ hồ như nước mắt vẫn còn để lại dấu vết trên đó.

“Anh tỉnh rồi à?” Babatou bê một chậu gỗ vào phòng, trên miệng nở nụ cười rạng rỡ như hoa đào tháng Ba, hôm nay trông cô đẹp một cách lạ thường, ánh mắt lúng liếng đong đưa, tình ý dạt dào. “Ừm,” Trác Mộc Cường Ba thoáng đỏ mặt, tối qua thổ lộ tâm sự, giờ gã không dám nhìn thẳng vào mặt Babatou nữa, kỳ thực, trong lòng gã cũng có chút hồ nghi, đêm hôm qua, liệu có phải gã và Babatou đã… mặc dù gã lập tức triệt tiêu ý nghĩ hoang đường đó khỏi đầu óc mình, nhưng cảm giác thỏa mãn kèm chút rã rời mệt mỏi đó là thế nào đây?

“Rửa mặt đi.” Babatou để chậu gỗ xuống trước giường, nước trong dập dềnh, một chiếc khăn bông tỏa mùi hương tươi mát vắt trên thành chậu, dường như cô cũng không được tự nhiên thoải mái như hôm qua nữa, cơ thể đã được che lại một cách cẩn thận. Trác Mộc Cường Ba còn tưởng rằng tại mình để lộ ý nghĩ hoang đường ấy ra mặt, làm người ta thấy khó xử, nhưng gã nào biết rằng, Babatou chỉ muốn che đi những vết móng tay, vết răng cắn ở những chỗ da mềm kia thôi.

Rừng Than Thở

Bữa sáng là mấy loại hoa quả lạ lùng và một ít đồ ăn làm từ bột mì, ngồi bên chiếc bàn lớn dùng để chiêu đãi khách quý, Trương Lập thì thầm hỏi Nhạc Dương: “Theo như cậu điều tra, tối qua cô Babatou và Cường Ba thiếu gia đã lẻn đi đâu vậy? Cậu biết đấy, tôi uống hơi nhiều chút nên chỉ thấy họ cùng lủi đi, nhng không biết đi đâu cả.”

Nhạc Dương cảnh giác liếc nhìn sang phía Trác Mộc Cường Ba một cái, rồi cũng thấp giọng trả lời: “Đêm qua ấy à, sau khi chúng ta đều về nghỉ hết, họ đã đến đàn tế.” “Ra đấy làm khỉ gì nhỉ?” “Uầy, thế mà còn phải hỏi à, vậy mà cũng không hiểu, anh nghĩ thử xem, cô nam quả nữ, đêm khuya thanh vắng… cái đó cái đó ấy, hiểu chưa.” “Nhưng mà đàn tế là nơi của thần thánh cơ mà, họ dám… ở đó sao?” “Vậy mới bảo anh chẳng hiểu chuyện gì hết, đối với người bình thường trong bộ lạc thì đàn tế ấy là nơi thần thánh bất khả xâm phạm, muốn lên trên ấy cũng còn chưa đủ tư cách ấy chứ. Nhưng anh thử nghĩ ngược lại mà xem, chính vì không ai dám lên trên ấy, thế nên đối với người có địa vị đặc biệt như cô Babatou mà nói, đó chẳng phải là nơi tuyệt nhất để vụng trộm yêu đương hay sao? Dù có bị người ta phát hiện, chất vấn hỏi han, họ cũng vẫn giải thích đường hoàng, ừm, có bài hát thế nào ấy nhỉ… đều là tại mặt trăng cả đấy thôi…” “Ừm, hiểu rồi, nhưng mà, nhìn nét mặt hai bọn họ, hình như là không giống đã xảy ra chuyện gì thì phải?” “Hì, năng lực tư duy có thế, thật là hổ cho thân phận đặc cảnh của anh đấy. Cái gì gọi là giấu đầu hở đuôi, anh có biết không?” “Hiểu rồi. Có điều tối qua cậu ở với tôi cơ mà, sao nói như là đã chính mắt nhìn thấy vậy?” “Anh… anh hiểu cái khỉ gì chứ, bây giờ tác giả hạng ba nào chẳng viết thế, phát triển như thế là tự nhiên nhất rồi còn gì.”

Sau bữa ăn, Babatou lấy ra một cuộn giấy, và một tấm bản đồ, nói với bốn người: “Mọi người xem cái này trước đi, đây là bản đồ tường tận nhất do chính phủ vẽ ra.”

Ba Tang chăm chú quan sát tấm bản đồ, đoạn hỏi: “Chúng ta đang ở đâu?”

Babatou chỉ vào một nơi trên bản đồ, Ba Tang trợn tròn mắt lên, hỏi: “Tại… tại sao, chỗ này lại là một vùng đất trống?”

Babatou nói: “Bởi vì không có cách nào vẽ được bản đồ tường tận, những người có gan vào khu rừng này khảo sát, đều chẳng ai sống mà đi ra được. Phải rồi, các anh cũng từ Ecuador sang mà, lúc qua biên giới có cảm giác gì không?”

“Qua biên giới?” Nhạc Dương ngạc nhiên, “Làm gì có cảm giác gì chứ, chúng tôi căn bản đều chẳng biết là mình qua thế nào nữa cơ.”

Babatou mỉm cười, nói: “Đúng, bởi vì ở vùng này, đơn giản là không cần đến canh phòng. Đỉnh núi tuyết phủ chính là tấm bình phong an toàn nhất, môi trường đáng sợ ấy đã đủ khiến những kẻ có ý đồ vượt qua mười phần chết chín rồi, thế nên trạm biên phòng thông thường đều cách nhau mấy chục cây số hoặc thậm chí là mấy trăm cây số, chỉ cần thỉnh thoảng tập hợp thành đội đi tuần núi là được rồi. Ở đây chỉ khác là rừng già thay cho núi tuyết, mà đây lại còn là địa bàn của quân du kích và bọn buôn lậu, nên hoàn cảnh càng thêm phức tạp, đây cũng chính là nguyên nhân để không thể vẽ được bản đồ tường tận.”

Trác Mộc Cường Ba dựa theo địa hình đưa ra phán đoán sơ lược: “Có phải chúng ta đang sống ở đây không?”

Babatou gật đầu: “Không sai, đây chính là nơi chúng ta đang ở, đến cả bản đồ tường tận nhất, cũng chỉ là một khoảng trống mà thôi. Đừng nói tôi chưa nhắc nhở các anh, rừng Than Thở không phải chỉ để nói không thôi đâu, bên trong mới chính là rừng nguyên sinh thật sự đó, ngoài những nhà thám hiểm liều chết đi vào, trong khu rừng ấy không có dấu vết của bất cứ con người nào khác. Còn tấm bản đồ này, là do các thợ săn ưu tú bao đời của bộ tộc Kukuer chúng tôi, tốn không biết bao năm vẽ ra, rồi bổ sung, sửa chữa, cuối cùng mới hoàn thành được, các anh xem thử đi.”

Bốn người chụm đầu lại, từ trên cao nhìn chằm chằm thẳng xuống cuộn giấy Babatou vừa mở ra, bản đồ dùng một mảng xanh lục lớn biểu thị rừng già, đường vạch màu xanh lam là các dòng sông, ngoài ra còn có rất nhiều còng tròn, xem ra là nơi cư trú của những bộ lạc khác. Vậy thì, những hình đầu lâu kia là ý gì?

Sau khi Trương Lập hỏi vấn đề này, Babatou hờ hững như không đáp: “Ừm, cái đó hả, bộ lạc anh thịt người thôi.”

“Hả!” Bốn người đồng thanh kêu lên kinh hãi. Trương Lập lắp bắp: “Đúng… đúng là có bộ lạc ăn thịt người thật hả?” Nhạc Dương giật bắn mình, anh nhớ lại rồi, hôm qua lúc xem đoạn chiến tranh trong lễ tế của người Kukuer, không hiểu sao anh cứ thấy lành lạnh cả người, hôm nay Babatou nhắc nhở, Nhạc Dương liền có cảm giác, bộ tộc Kukuer này, có lẽ cũng từng là một nhánh của bộ lạc anh thịt người. Nếu trực giác của anh không sai, điều ẩn dụ đằng sau thiếu nữ được hiến tế ấy, chính là ăn thịt người chứ chẳng sai!

Babatou đắc ý cười cười nói: “Chẳng lẽ còn gạt các anh làm gì. Mặc dù là người Nukak đã ra khỏi rừng già, nhưng các bộ lạc trong rừng vẫn còn nhiều lắm, bộ lạc nguyên thủy bán hiện đại hóa như chúng tôi đây, cũng được coi là một kiểu, còn có kiểu bộ lạc vẫn hoàn toàn giữ các tập tục nguyên thủy nữa. Cũng như vậy, bộ lạc ăn thịt người cũng có mấy loại khác nhau. Mấy bộ lạc nhỏ thì chúng ta không để tâm làm gì, đa phần bọ họ đều tương đối hữu hảo thôi, mà có khi người ít đến nỗi các anh chắc không gặp được họ đâu, giờ tôi sẽ nói cho các anh biết vài bộ lạc lớn. Xuất phát từ đây, ở hướng Đông Bắc là Zuay, đây là một bộ tộc thuộc loại nguyên thủy triệt để, bọn họ thích dùng cành cây xuyên qua môi, môi xuyên được cành cây càng lớn, thì càng đẹp, chúng tôi gọi là bộ tộc cây trong môi, bộ tộc này thì không ăn thịt người.” Cô đột nhiên ngước mắt lên nhìn Trương Lập bổ sung: “Bộ tộc này không có đơn vị gia đình, một người phụ nữ có thể có vô số chồng, một người chồng cũng đồng tời có thể có vô số người vợ, đàn bà có con, thì đứa trẻ chính là con của cả bộ tộc. Hơn nữa, bọn họ còn hoàn toàn khỏa thân đấy.”

Trương Lập đỏ mặt, cúi đầu lẩm bẩm: “Cô Babatou nhất định, nhất định là hiểu lầm tôi rồi.”

Nhìn vẻ mặt Trương Lập, Babatou bật cười khúc khích, kế đó nói: “Còn bộ lạc gần với chúng ta nhất ở phía Đông Nam, là người Avaguajia, bọn họ theo chế độ mẫu hệ, đặc điểm lớn nhất chính là sùng bái lũ khỉ trong rừng, hơn nữa phụ nữ trong bộ tộc còn dùng sữa mình để nuôi dưỡng lũ khỉ con nữa. Từ đây tiếp tục đi về phía Đông, thì sẽ gặp bộ tộc Alavake, bọn họ thích ăn thịt người, trong chiến tranh giữa các bộ lạc thường xuyên ăn thịt tù nhân, nếu là trẻ con thì cắt sinh thực khí của chúng đi, rồi nuôi cho béo tròn béo mập, khi nào muốn ăn thì bắt ra thịt ăn. Hơn nữa, nghe đồn cả bọn trẻ con cùng tộc họ cũng xơi luôn, người nào cũng chỉ chăm nuôi trẻ con do người đàn bà của mình đẻ ra thôi. Nếu từ chỗ người Zuay đi tiếp về hướng Đông, thì sẽ tới lãnh địa của người Asimata, bọn họ thì chắc các anh cũng nghe nói tới rồi, bộ tộc săn đầu người. Bọ họ giết người xong, thường thích chặt đầu nạn nhân treo ở thắt lưng, mang về bộ lạc treo trên sào cao, có tin đồn là họ biết pháp thuật gì kỳ quái lắm, có thể biến đầu người ta trở thành nhỏ như quả bóng bàn vậy, thực ra không phải thế đâu. Theo như tôi tìm hiểu, chẳng qua chỉ là bọn họ thích điêu khắc một số đồ hình đầu lâu nho nhỏ mà thôi, thủ công cũng tinh tế lắm đó. Ở đây, ở đây còn một bộ tộc nữ, đi về phía Bắc, là… tôi nghĩ xem nào, chắc là bộ tộc Muke, Muke, ừm, phát âm đại khái là như vậy đó. Bọn họ là một dân tộc tương đối văn minh, lúc ăn thịt người, họ không bao giờ ăn hết, thông thường chỉ xơi một phần, còn một phần để lại làm đồ trang sức, treo trên người mình, chắc là để kỷ niệm cũng nên…”

“Thôi đừng nói nữa!” Trương Lập vung tay ngắt lời, vừa mới nghe Babatou nói là một dân tộc tương đối văn minh anh chàng còn thở phào nhẹ nhõm, chẳng ngờ lại là văn minh kiểu ấy, nhìn trên tấm bản đồ, các vòng tròn có hình đầu lâu ít nhất cũng phải đến hai ba chục cái, thật không biết khu rừng Than Thở này rốt cuộc còn có bao điều hung hiểm. Trương Lập nhìn sắc mặt trắng bệch của ba người còn lại, cất tiếng hỏi: “Theo tôi, hay là quay lại liều mạng với quân du kích? Mọi người thấy sao?” Ba người còn lại đưa mắt nhìn nhau, lấy làm đồng cảm.

Babatou che miệng cười khúc khích, nói: “Không phải các anh ai cũng dũng cảm lắm hay sao? Sao vừa nghe thấy bộ lạc anh thịt người là đã sợ đến hồn vía lên mây rồi. Thực ra, tôi mới chỉ giới thiệu tóm lược sự phân bố của các bộ lạc trong khu rừng này mà thôi, đã bảo các anh phải đi tới đó thật đâu. Các anh nhìn nè, ra khỏi bộ tộc chúng tôi, trước khi đến lãnh địa của Avaguajia, các anh đi thẳng xuống phía Nam, ở đây vẫn chưa phải là phạm vi thế lực của quân du kích, sau đó các anh lại chuyển hướng đi về phía Đông, vừa hay sẽ đi qua khe hẹp giữa lãnh địa của người Alavake và Lapaniva, rồi lại đi tiếp về phía sông Putumayo, vậy là có thể thoát khỏi nguy hiểm rồi. Đến lúc ấy, Khỉ Đuôi Xoắn sẽ đưa các anh thẳng tới chỗ này, anh chàng đó, còn tinh quái hơn lũ khỉ trong rừng này, có anh ta đi theo các anh, chắc là không có chuyện gì đâu.”

Bốn người giờ mới thở phào một tiếng, Nhạc Dương thầm nhủ: “Hình như tâm trạng của cô Babatou này hôm nay rất vui vẻ thì phải, không dọa cho bọn mình thất kinh hồn vía thì quyết không tha hay sao vậy.” Ba Tang chỉ xuống bản đồ hỏi: “Nhưng mà, từ đây tới Montclar vân còn cả một đoạn dài, sao trên bản đồ có một nửa vẫn còn trống trơn vậy?”

Babatou tắt dần nụ cười trên môi, nghiêm mặt lại nói: “Chỗ này, có lẽ chính là cấm địa yên nghỉ của Ah Puch. Đây là nơi con người không được phép quấy nhiễu, cả những thợ săn ưu tú nhất của người Kukuer chúng tôi cũng không ai đến được đó, hoặc nên nói là chưa có ai từ đó trở về thì đúng hơn. Thế nên, bất luận thế nào, các anh cũng đừng tới đây, đó là vùng chân không mà cả chúng tôi cũng không hề có bất cứ thông tin gì. Ừm, chắc là các anh cũng không đến nỗi đen đủi vậy đâu.”

Trác Mộc Cường Ba nhận ra vẻ buồn thương thấp thoáng trên mặt Babatou, thầm nhủ: “Lẽ nào, chồng của cô ấy cũng…”

Có bản đồ, lại có cả người dẫn đường, tiếp theo là vấn đề trang bị, trải qua bao trắc trở, nhưng may là bốn người vẫn giữ được ba lô trên người, chỉ mất vũ khí, nên đành lấy vũ khí của người Kukuer bổ sung lại cho đủ. Mỗi người một cây cung, ngoài ra còn trang bị thêm một loại vũ khí đặc thù nữa. Ba Tang ngắm giỏi, nên cầm một ống thổi tiêu, vừa cầm vừa lắc đầu chán nản. Nhạc Dương mấy ngày nay rỗi việc, luyện tập ném boomerang, kết quả luyện tập là, bất kể anh ta ném boomerang theo hướng nào, cuối cùng cũng nhất định bay tới trước mặt mình; nói cách khác, mặc kệ có ném trúng kẻ địch hay không, cũng khẳng định được rằng chắc chắn sẽ ném trúng chính mình. Trương Lập cầm một cây lao ném, lẩm bẩm nói: “Hôm trước còn cầm súng tiểu liên, bây giờ thì lao ném, làm thế nào bây giờ?”

Nhạc Dương cười cười: “Không tệ đâu là không tệ đâu, dù sao cũng còn ném được mà. Anh xem cái khúc xương này này, ném thế nào nó cũng bay về trước mặt tôi, tôi còn đang lo tự làm mình bị thương đây.”

Trác Mộc Cường Ba đứng phía xa gọi: “Được rồi, đủ trang bị chưa, chúng ta xuất phát!”

Trương Lập hỏi: “Cường Ba thiếu gia, anh không có vũ khí gì khác à?”

“Có chứ, cái này.” Trác Mộc Cường Ba lấy ra một mảnh vải khá rộng, chỗ tay cầm bó thành một bó, phía trước như cái túi, rồi giải thích: “Cái này để ném đá, chỉ người dân tộc thiểu số chúng tôi mới biết dùng. Đừng coi thường nó thô sơ, uy lực lớn lắm đấy. Được rồi, chúng ta lên đường thôi.”

Trương Lập lại quay sang thì thầm hỏi nhỏ Babatou: “À, cô Babatou này, mặc dù chúng tôi vô cùng thỏa mãn với kế hoạch này của cô rồi, nhưng dù sao thì cũng là rừng Than Thở hung hiểm vạn phần cơ mà, cô xem có nên sắp xếp cho chúng tôi độ trăm dũng sĩ của bộ tộc Kukuer, như vậy chúng tôi cũng vững dạ hơn chút chút đó.”

“À,” Babatou hiểu ý, nói: “Phải đấy, suy nghĩ của tôi và anh Trương Lập đúng là không hẹn mà gặp rồi.” Kế đó cô lại cười tinh nghịch nói, “Có điều ấy mà, đội trưởng với đội phó của các anh đều nói với tôi thế này, nếu chúng tôi điều động nhiều người, vậy thì lần huấn luyện lần này của các anh chẳng còn ý nghĩa gì nữa, vì thế, Khỉ Đuôi Xoắn cũng chỉ hộ tống các anh ra khỏi rừng Than Thở thôi, sau đó thì các anh phải dựa hết vào bản thân rồi.” “Ái chà…” Trương Lập ngoảnh đầu lại nhìn hai vị cán bộ thích liều mạng, gặp phải ánh mắt sắc bén gườm gườm của đối phương, không dám thốt lên nửa lời kháng nghị.

Babatou quay sang dặn dò Khỉ Đuôi Xoắn mấy câu, đó là một chiến binh người hơi thấp nhưng rắn chắc, da ngăm ngăm đen, gò má cao, mũi lệch, môi dày, đôi mắt chim ưng rất có thần. Dặn dò xong, Babatou đến trước mặt Trác Mộc Cường Ba, nghĩ ngợi gì đó giây lát, rồi lấy ra một mảnh đá màu hổ phách buộc bằng dây thừng, đeo lên cổ gã, nồng nàn nói: “Anh đeo thứ này vào, nó sẽ bảo vệ các anh được bình an. Nhớ kỹ, trong rừng già, thứ thực sự đáng sợ nhất, là những thứ mà ta không nhìn thấy.”

Trác Mộc Cường Ba thoáng đỏ mặt, đang định lùi lại một bước thì mảnh đá đã được treo lên cổ rồi, nhất thời gã cũng không biết phải xử trí ra sao trước tấm thịnh tình của người con gái Anh điêng này, chỉ đành lẩm bẩm không nói nên lời. Nhân cơ hội đó, Nhạc Dương lại sấn tới, nói với Babatou: “Cô Babatou à, từ khi gặp cô lần đầu tiên, tôi đã khâm phục tài năng phi phàm của Đấng tạo hóa, rồi mới chỉ ở bên nhau có mấy ngày, tôi đã có thể cảm nhận được tấm lòng nhiệt tình cùng sự dịu dàng của cô rồi. Tôi tin chắc chúng ta gặp gỡ chính là duyên phận, hy vọng rằng chúng ta có thể trở thành những người bạn tốt nhất của nhau, cùng trải nỗi lòng dưới tán cây rợp bóng trăng, hay hẹn nhau nghe tiếng sóng biển rì rào, ngắm sao trời lấp lánh. Yêu một người cần bao thời gian chứ? Trong khoảnh khắc nhìn thấy cô, tôi mới hiểu ra rằng, chỉ cần một cái chớp mắt là đã đủ lắm rồi. Hiềm nỗi lần này thời gian quá ngắn, tôi chỉ có thể đem nỗi nhớ trong tim chôn giấu vào nơi sâu thẳm nhất của linh hồn mà thôi, nếu lần này tôi hoàn thành được nhiệm vụ, chẳng hay cô có thể cho Nhạc Dương thêm một cơ hội làm quen hay không?”

Trương Lập nghiến răng kèn kẹt, thầm nhủ: “Chẳng trách cứ suốt ngày kể lể chuyện cô Babatou với Cường Ba thiếu gia thế nọ thế kia, thì ra để dành đến lúc này cướp lời thoại của mình đây, thằng nhóc giảo hoạt thật.”

Babatou không hề ngượng ngập, hôn phớt lên trán Nhạc Dương như chuồn chuồn điểm nước, mỉm cười nói: “Được rồi. Nhạc Dương, đường phía trước vô cùng nguy hiểm, anh phải cẩn thận giữ mình, tôi… chấp nhận lời đề nghị đó.”

Nhạc Dương mừng ra mặt, cười hì hì nói: “Thế thì tôi đủ mười phần tự tin để chấp nhận bất cứ thách thức nào rồi.” Nói đoạn, anh chàng ngoảnh mặt đi, thở phào một tiếng, vo tròn mảnh giấy viết chi chít chữ tiếng Anh nãy giờ vẫn trộm liếc lại, rõ là đã học thuộc lòng từ lâu lắm rồi. Mấy người còn lại đi trước quát lên: “Này, đi thôi, còn lề rà lề rề đến bao giờ nữa.”

Nhạc Dương như có hoa nở trong lòng, hoan hỉ hô vang khẩu hiệu: “Ở với Cường Ba thiếu gia, ngày nào đời cũng nở hoa!”

Trương Lập lườm Nhạc Dương bằng ánh mắt khinh thường, thầm nhủ: “Ừm, nếu Cường Ba thiếu gia và cô Babatou có chuyện gì thật, thì mới gọi là nở hoa đấy.”

Nhìn bóng bốn người khuất hẳn trong rừng, Babatou mới thở phào nhẹ nhõm, cảm giác trong lòng rốt cuộc là gì đây? Thất vọng, hay là hoan hỉ, bản thân cô cũng không tài nào nói ra được, chỉ nghe Babatou khẽ thở dài: “Cuối cùng họ cũng đi rồi.”

“Phải, họ đi rồi. Họ là những người có mục tiêu, có mục tiêu, cuộc đời sẽ không trôi qua trong buồn chán vô vị. Khi kẻ lữ hành dừng bước, ngoảnh đầu nhìn lại, họ sẽ thu hoạch được nhiều hơn những người bình thường khác.” Gấu Mật Nanh Sắc cũng nhìn theo bốn người đi xa dần từ nãy.

Babatou tự hào đặt tay lên bụng, ở đó, mầm sống của người đàn ông mạnh mẽ nhất kia đã được đưa vào cơ thể cô. Thời gian và chu kỳ đều đã được cô tính toán cẩn thận, nhất định có thể đậu thai sinh ra một mạng sống mới, cuộc đời sau này, cô sẽ không bị nỗi cô đơn tịch mịch độc chiếm nữa rồi. Babatou nghĩ vậy, gương mặt thoáng nở một nụ cười. “Cường Ba thiếu gia, không chừng đến một ngày nào đó, em sẽ dẫn con chúng ta đến gặp anh cũng nên đó.” Babatou nghĩ ngợi xa xăm.

“Babatou, em đưa phù tiết thạch cho Cường Ba rồi à? Chẳng lẽ hai người đã…” Nanh Sắc hỏi.

Babatou không trả lời, cô hất mái tóc dài bay bay, đôi mắt bên dưới hàng mi dài thanh tú vương đầy sương mai toát lên nét cười, tiếng khúc khích như oanh vàng vang động mãi trong rừng sâu. Nanh Sắc mỉm cười, anh đã hiểu quá rõ cô em gái này của mình rồi.

Bình luận
× sticky