Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Mật mã Tây Tạng – tập 6

Chương 116: Đắp Đê Và Dẫn Dòng

Tác giả: Hà Mã
Chọn tập

Giáo sư Phương Tân nói: “Không sai, tấm bản đồ này được quân Đức đồn trú ở Tây Tạng vẽ ra, nên tôi đã nghĩ nhất định là một nơi nào đó ở Tây Tạng. Sau khi so sánh với bản đồ Tây Tạng và các quốc gia xung quanh, tôi liền lập tức nhận ra địa phương trên tấm bản đồ này là nơi nào.”

Ba Tang và Sean cùng chúi đầu vào quan sát. Giáo sư lại chỉ lên tấm bản đồ nói: “Mọi người xem đi, chỗ có chú thích số “3” này, cũng chính là căn cứ địa số 3, hết sức rõ ràng rồi đúng không?”

Nhịp tim Trác Mộc Cường Ba không khỏi đập loạn lên, gã nói: “Đây, đây chính là vị trí của di chỉ vương triều Cổ Cách!”

Ba Tang và Trương Lập đồng thanh thốt lên: “Hóa ra là ở đây!” Sean tò mò hỏi: “Đây là nơi nào thế?”

Giáo sư Phương Tân liền giải thích: “Như vậy, tấm bản đồ này ít nhất cũng giải đáp cho chúng ta được một phần mệnh lệnh trên hộp thuốc lá, cấp trên yêu cầu họ trở lại căn cứ địa số 3, tìm thấy, và giải dịch. Ở đây nói là trở lại, cũng có nghĩa là, bọn họ cũng giống như chúng ta vậy, không phát hiện ra bất cứ lối đi nào trên đỉnh núi, tên lính Quốc xã đó chắc là lọt vào khu vực băng đứt gãy trên đường trở về. Thượng cấp yêu cầu họ trở lại Cổ Cách để tìm kiếm cái gì? Giải đọc cái gì?” Đưa mắt nhìn ba người đang trầm ngâm suy nghĩ và vẻ mặt hoang mang của Sean, giáo sư Phương Tân lại nói: “Chúng ta có thể đưa ra giả thiết thế này, sau khi có được bản đồ của Morton Stanley, quân Đức mới đến Tây Tạng. Vậy thì, nguyên nhân dẫn đến hành trình này tuyệt đối không thể chỉ là một tấm bản đồ không thôi. Chắc chắn bọn họ còn có được những đầu mối khác của Morton Stanley để lại. Đó là đầu mối gì được chứ? Liệu có thể nào là ký lục của Morton Stanley về chuyến hành trình đến Tây Tạng hay không?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ý của thầy là… là… a, tôi hiểu rồi! Nếu quân Đức biết được Morton Stanley phát hiện ra tấm bản đồ ấy ở trong mật thất Cổ Cách, hơn nữa còn biết được trong mật thất đó vẫn còn một cái hộp chưa bị lấy đi, sau khi lần theo bản đồ của Morton Stanley mà không tìm được lối vào, họ liền nghĩ đến việc trở lại Cổ Cách lấy chiếc hòm còn lại, cũng chính là…”

“Tấm bản đồ ở trong tay chúng ta!” Ba Tang và Trương Lập đồng thanh nói.

Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Có thể giả thiết là như vậy.”

Trác Mộc Cường Ba kích động thốt lên: “Như vậy có nghĩa là, chúng ta đã nắm trong tay tấm bản đồ duy nhất dẫn đến Bạc Ba La thần miếu?”

Giáo sư Phương Tân ngần ngừ nói: “Có thể nói như vậy, nhưng… vấn đề cũng chính là ở đây, tấm bản đồ này…” Ông nói tới đây, trên màn hình máy tính liền hiện ra tấm bản đồ da sói mà họ tìm được trong mật thất ở di chỉ Cổ Cách, chính là tấm bản đồ nhìn như bản đồ chi tiết mạng lưới giao thông thành phố Bắc Kinh. “Thực sự không có cách nào phá giải, ban đầu tôi vẫn còn cẩn thận chỉ gửi đi một phần, về sau đánh liều một phen, gửi hết toàn bộ bản đồ này cho các chuyên gia phá giải mật mã hình ảnh, có thể hỏi ý kiến được ai đều hỏi hết cả rồi. Cả Lữ Cánh Nam cũng phản hồi, rằng các chuyên gia nghiên cứu Tây Tạng cả đời ấy đều không thể tìm ra được gì trên tấm bản đồ này. Kết luận của tất cả các chuyên gia giống hệt như nhau, không có tấm bản đồ chỉ dẫn phương hướng nào lại vẽ như thế cả. Mười vị thì có đến tám vị không chịu tiếp tục đi sâu nghiên cứu tấm bản đồ này nữa, chỉ vừa nhìn qua đã nói ngay với tôi, đây rõ ràng là bản đồ giả. Vì vậy, đầu mối của chúng ta cũng đến đây là đứt quãng.”

Trác Mộc Cường Ba lại quan sát thật kỹ một lần nữa, những đường nét chằng chịt như tơ nhện phân bố khắp tấm bản đồ, khá nhiều đường còn được tô màu, bên cạnh có những ký hiệu kỳ quái, trên cả tấm bản đồ không hề có bất cứ văn tự nào. Những ký hiệu đó mang tính hình tượng rất cao, hoàn toàn khác với tiếng Tạng cổ, cũng có thể nói, những hình ấy là vẽ một số loài động vật trừu tượng cũng không sai. Trác Mộc Cường Ba lại một lần nữa chìm vào giữa vùng mê hoặc mịt mờ. Trước mắt, chỉ riêng về ký hiệu văn tự bọn gã đã tiếp xúc với bốn, năm loại khác nhau rồi, nhưng chỉ hiểu được một ít tiếng Tạng cổ, còn văn khắc Maya, những ký hiệu hình vẽ Maya, ký hiệu văn tự của người Qua Ba (cũng tức là nhữngký hiệu ở mặt sau tấm gương đồng và tấm thanga có nói đến việc người Qua Ba sống chung với sói). Còn những ký hiệu động vật trừu tượng vô số ở trước mắt gã đây, tất cả cứ xoay chuyển, bay lượn không ngừng trong tâm trí…

Trác Mộc Cường Ba nhìn chằm chằm vào màn hình máy tính, nét mặt nặng nề, nói: “Cũng có nghĩa là, tuy chúng ta đã phát hiện ra tấm bản đồ duy nhất và tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, nhưng tất cả đầu mối đều dừng lại ở hai thứ này, nếu không thể phá giải được thông tin ẩn chứa bên trong chúng thì cũng chẳng thể biết được điều gì hơn nữa, có phải vậy không, thầy giáo?”

Giáo sư Phương Tân gật gật đầu: “Có thể nói như vậy.”

Trương Lập nhắc nhở: “Liệu có giống như các hình vẽ của người Maya, kỳ thực tấm bản đồ này không giống như vẻ bề ngoài của nó, thông tin thực sự vẫn còn ẩn tàng bên dưới nữa?”

Giọng khàn khàn của Ba Tang cất lên: “Nhưng chúng ta không có tấm bản đồ gốc, cho dù có đúng là vậy thì cũng làm gì có cơ hội nghiên cứu chứ.”

Giáo sư Phương Tân điềm đạm: “Về điểm này thì có thể yên tâm. Từ sau khi chúng ta ở Đảo Huyền Không tự trở về, các chuyên gia về Tây Tạng đã sử dụng tất cả các phương pháp kiểm tra một cách triệt để hai tấm bản đồ da sói đó rồi. Sau khi dùng đủ các phương pháp hóa học, quang học, thanh học, điện từ học, ảnh tượng học, ký hiệu mật mã và hình hành trừu tượng ám thị học, kết luận rút ra đều như nhau. Đây là hai tấm bản đồ vẽ tay, ngoài việc dùng các màu sắc khác nhau để đánh dấu một số đoạn đường, cả hai tấm bản đồ đều không hề được xử lý đặc biệt gì, chúng ta thấy nó như thế nào, thì nó là như thế ấy.”

Sean cũng lên tiếng: “Cũng có nghĩa là, mấu chốt để giải mã tấm bản đồ này nằm ở nội dung của nó, tất cả bí mật đều ẩn giấu bên trong những hình vẽ này thôi?”

Giáo sư Phương Tân gật đầu tán thưởng: “Đúng vậy.”

Trác Mộc Cường Ba nhìn những đường nét ấy, dần dần, cảm giác cả tấm bản đồ dường như đã hóa thành một mặt người nhìn gã cười chế nhạo. Giờ đây đầu mối quan trọng nhất đã ở trong tay, nhưng làm sao mới phá giải được lại trở thành một vấn đề lớn. Bọn họ về thực chất chẳng khác nào người mù đọc sách, đến cả các phương pháp giải mã cơ bản cũng không nghĩ ra được.

Giáo sư Phương Tân thấy Trác Mộc Cường Ba mặt ủ mày chau, liền an ủi: “Thư giãn đi một chút, sẽ có cách thôi. Chỉ tìm đầu mối trên tấm bản đồ này vẫn chưa đủ đâu, muốn giải mã được thông tin ẩn chứa trong nó, còn thì phải làm mấy việc nữa. Đầu tiên, đó là tận dụng hết khả năng thu thập thông tin liên quan đến Shangri- la và những danh xưng khác đã được biết đến của nó, xét cho cùng đó cũng là những thông tin bề mặt có thể tìm được. Thứ hai, chúng ta cần nhanh chóng có được tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu trong tay, đây là một đầu mối nguyên bản mà chúng ta có được, nói không chừng nó có thể là chìa khóa để giải mã bản đồ cũng nên. Thứ ba, chúng ta cần đi sâu vào tìm hiểu các thông tin về tôn giáo thần bí của pháp sư Á La. Từ những nơi chúng ta đã đi qua, và các thông tin có được cho tới hiện giờ, đã không thể dùng ba chữ “không đơn giản” để hình dung tôn giáo này nữa rồi.”

Trác Mộc Cường Ba nhớ lại những gì Lữ Cánh Nam đã nói với mình trong phòng bệnh tối hôm đó, hiểu rằng đó là một tôn giáo bí mật, bọn họ không muốn tiết lộ quá nhiều thông tin cho người ngoài, gã khe khẽ lắc đầu nói: “Được rồi, vậy bước đầu tiên của chúng ta chính là lấy tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, hy vọng có thể nhanh chóng tìm ra bí mật ẩn chứa bên trong tấm gương đồng ấy.”

Giáo sư Phương Tân gật đầu nói: “Nhưng có một điểm này tôi cần phải nói trước với cậu, Cường Ba à. Cái tay Vương Hựu đó, anh ta là một thương nhân rất lý trí, anh ta hiểu rất rõ mình đang làm gì. Từ thái độ của anh ta có thể thấy rằng, dù cho có chết, anh ta cũng nhất định phải chết ở Shangri- la đấy. Trong lúc đàm phán, cậu cũng phải giữ vững lý trí. Có hiểu ý tôi không?”

Trác Mộc Cường Ba cười khổ nói: “Hiểu rồi, nếu anh ta thích tới đó tự tử, tôi cũng không thể thay đổi ý chí của một con người được.”

Sean và Trương Lập không rõ lắm về việc của Vương Hựu, hỏi han một hồi mới vỡ nhẽ. Sean nói: “Ồ, thì ra là như vậy, nói thế thì, tất cả những người nghe nói đến nơi ấy đều muốn đến đó rồi? Nhưng tôi có một chủ ý thế này, mọi người có biết câu chuyện về người chèo thuyền và núi vàng không? Người ta phát hiện ra quặng vàng ở một bang nào đó trên đất Mỹ, vô số người ùn ùn kéo đến đào vàng, nhưng ở đó lại có một con sông rất rộng, mà trên sông cũng không có thuyền bè gì. Một người đào vàng lập tức từ bỏ ý định đào vàng của mình, anh ta lấy hết vốn liếng ra mua một con thuyền, chuyên chở người qua sông, thu tiền rất đắt. Bất kể những người đào vàng ấy có được vàng thật hay không, nhưng ngườichèo thuyền ấy vẫn giàu có hơn tất cả bọn họ. Tình huống của chúng ta lúc này, hình như cũng rất giống vậy, chi bằng dứt khoát mở luôn một công ty du lịch cho rồi, đằng nào cũng có bao nhiêu người muốn đi như vậy cơ mà. Muốn đi thì cứ việc, chúng ta đứng ra thu phí, vừa hay có thể giải quyết được vấn đề tài chính, còn bọn họ có tìm được nơi ấy hay không, đến rồi có tìm được thứ bọn họ muốn hay không lại là chuyện khác.”

Sean tự nhận thấy đây là một kiến nghị không tồi chút nào, nhưng sau khi dứt lời, bỗng phát hiện những người khác đều tròn mắt lên nhìn mình đầy kinh ngạc, không khỏi hơi có chút lo lắng: “Tôi, tôi nói sai gì à?”

Sau một hồi trầm ngâm, giáo sư Phương Tân là người đầu tiên lên tiếng: “Xem ra, chúng ta cần phải thay đổi phương thức tư duy rồi.” Trong lòng ông lại thầm nhủ: “Cuối cùng cũng có người đề ra phương án này, anh bạn, kế hoạch của anh cuối cùng cũng tiến lên bước đầu tiên rồi, con đường này, thực sự rất nguy hiểm đấy. Cường Ba à, thứ lỗi cho tôi, lần này không thể cho cậu biết chân tướng được.”

Trác Mộc Cường Ba vỗ mạnh lên vai Sean, nói: “Chỉ có anh mới nghĩ đến chuyện này thôi đấy, Sean ạ!”

Vốn ban đầu, Trác Mộc Cường Ba và các thành viên trong tổ huấn luyện đặc biệt chỉ muốn tập hợp thành một nhóm nhỏ, bí mật đi tìm Bạc Ba La thần miếu, cho dù có tìm bạn bè giúp sức thì cũng chưa bao giờ nghĩ đến phương án “mua thuyền thu phí”. Cũng chính vì nguyên nhân này, khi Vương Hựu đề nghị ủng hộ tài chính để đổi lấy một chân trong đoàn đi Shangri- la, Trác Mộc Cường Ba không cần nghĩ ngợi gì đã cự tuyệt ngay lập tức.

Khi đối mặt với nhóm của Merkin, bọn họ cũng có thái độ bất hợp tác, hai bên đã ngấm ngầm giao tranh, đồng thời trong quá trình tranh đoạt đầu mối ấy, dường như họ đã là kẻ chiến thắng cuối cùng. Có điều, rốt cuộc Merkin đã nắm được những đầu mối gì, họ lại hoàn toàn không hề hay biết.

Sau khi tin tức bị rò rỉ ra ngoài, thế lực các phương ùn ùn kéo đến như nước thủy triều, theo bản năng, bọn họ chỉ muốn né tránh. Có điều, đối với một nhóm người thiếu thốn cả tài chính, nhân lực và vật lực như họ, muốn tránh khỏi những thế lực hiện diện ở khắp nơi ấy đâu phải chuyện dễ. Biết được núi vàng ở đâu, tự nhiên sẽ có người muốn đến đó đào vàng, lúc này áp lực đối với những người duy nhất có phương tiện qua sông như bọn họ sẽ chỉ mỗi lúc một lớn thêm.

Giờ đây bọn họ đang phải đối mặt với tình hình tựa nước lũ tràn về. Khi trên đê xuất hiện một lỗ hổng cá biệt như Merkin, họ có thể dùng cách bít trám, đắp lại để bổ khuyết. Thế nhưng, nước lũ vẫn tiếp tục dâng cao, nguy cơ vỡ đê đã ở ngay trước mắt, cứ tiếp tục đắp thêm thế này thì thật lực bất tòng tâm. Được giáo sư Phương Tân chỉ dẫn, Trác Mộc Cường Ba đã từng giả điên giả ngốc, nhưng các thế lực kia hiển nhiên vẫn không chịu dễ dàng bỏ cuộc như vậy, do đó bọn họ đang phải đối mặt với một nguy cơ cực lớn. Hơn nữa, trong tình hình nước lũ không có vẻ gì là muốn rút đi này, tiếp tục đắp đê rõ ràng không phải là cách hay, kiến nghị của Sean vừa khéo có thể phá được cục diện bị động. Khi nước lũ sắp làm vỡ đê, thế không thể dừng được nữa, khơi thông dẫn dòng chắc chắn là lựa chọn tốt nhất, như vậy vừa có thể dẫn được dòng lũ đi, tránh được họa ngập úng, mà khi dòng nước lũ đã ở trong kênh dẫn nước, hướng đi của nó sẽ do người đào kênh quyết định.

Trương Lập không đồng ý, nói: “Lẽ nào, chúng ta cũng cho các thế lực khác nhập hội hết sao?”

Giáo sư Phương Tân lắc đầu nói: “Không, đương nhiên là không, nhưng kiến nghị của Sean lại có thể giúp chúng ta thoát khỏi sự đeo bám nhằng nhẵng của chúng.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Nếu làm tốt, đúng là còn có thể bù đắp được sự thiếu thốn về mặt tài chính của chúng ta.”

Trương Lập vẫn không hiểu: “Rốt cuộc mọi người đang nói gì đấy? Sao tôi càng nghe càng thấy hồ đồ vậy nhỉ?”

Ba Tang so sánh một cách hình tượng: “Giờ đây, các thế lực đó đều như một lũ chó điên, bọn chúng nhìn chằm chằm vào chúng ta, không phải vì chúng ta đã chọc giận chúng, mà vì trong tay chúng ta đang cầm khúc xương. Nếu chúng ta ném khúc xương ấy đi… Hừ,” Ba Tang cười lạnh lùng nói: “Lúc đó, sẽ được xem chó cắn nhau!”

Giáo sư Phương Tân mỉm cười nói: “Hơn nữa, khi chúng ta đã nắm trong tay hai đầu mối quan trọng nhất là tấm bản đồ chính xác duy nhất và tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu rồi, vậy thì, đem các tài liệu ghi lại được trong địa cung Maya và Đảo Huyền Không tự ra bán cho bọn họ cũng có hề gì?”

Sean thốt lên: “Mọi người giỏi quá, chủ ý này còn hay hơn của tôi nữa.”

Năm người lại thương lượng thêm một hồi, cho rằng phương pháp này quả thực rất khả thi, định đợi tất cả đến đông đủ rồi sẽ thảo luận cách thức thực hiện cụ thể. Cuối cùng, giáo sư Phương Tân nói: “Được rồi, mọi người đã bôn ba cả ngày rồi, cũng nên nghỉ ngơi đi. Chúng ta bàn tới đây thôi, ngày mai có lẽ Lữ Cánh Nam sẽ liên lạc với tôi. Cường Ba à, ngày mai cậu chọn lúc nào đó nhanh chóng gặp mặt tay Vương Hựu kia lấy tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu về đây. Tôi sẽ nghĩ cách liên hệ với các chuyên gia về quang điện học nữa.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Được, ngày mai tôi sẽ đi tìm Vương Hựu luôn.”

Trương Lập nói: “Đợi chút đã, giáo sư, gói hàng chúng tôi gửi từ nước ngoài về đâu? Tôi muốn lấy ra cho Cường Ba thiếu gia xem, để mọi người biết công cụ chúng tôi đi mua về tốt như thế nào.”

Giáo sư Phương Tân bật cười “kha kha” nói: “Đều ở bên trong cả, theo tôi.”

Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc thốt lên: “Cái gì? Đều gửi về qua đường bưu điện sao?”

Trương Lập ngoẹo đầu nói: “Chúng tôi mua toàn linh kiện điện tử, toàn là đồ hợp pháp cả đấy.”

Cả bọn đi theo giáo sư Phương Tân vào nhà trong, thấy trên bàn đặt mấy bọc hàng, nhìn bề ngoài đều không lớn lắm. Đây có lẽ chính là những trang bị mà mấy người bọn Trương Lập đã dựa theo quyển nhật ký của Đường Thọ đi khắp nơi chọn mua về. Trương Lập lấy làm thích thú xông đến bên chiếc bàn, thành thạo bóc bao bì. Lúc lấy các món đồ bên trong ra, anh dường như đã hoàn toàn biến thành một con người khác. Các loại thiết bị bày đầy một bàn trước mặt bọn Trác Mộc Cường Ba, có cái nhận ra được, có những cái không ai biết là gì, công dụng như thế nào.

Trương Lập giới thiệu từ trái sang phải: “Giày hút lực, một trong những trang bị thường dùng nhất của chúng ta, giảm chấn hình vòm, trợ lực đàn hồi cực mạnh, cái này thì không cần giới thiệu nhiều nữa, đây là sản phẩm tốt nhất, nhưng không phải của Mỹ, mà là hàng của Pháp. Còn cái này, cái món này, chính là hình mẫu ban đầu của dây móc mà chúng ta sử dụng, do một sinh viên đại học tên là Bauer phát minh ra, họ gọi nó là xích xoắn.”

Trác Mộc Cường Ba nhìn cái gọi là xích xoắn đó, thấy to bằng chiếc đài phát thanh cỡ nhỏ, dây thép và trục cuốn đều lộ cả ra ngoài, trông giống cuộn dây trên cần câu cá nhiều hơn. Ba Tang cũng nói: “To vậy sao?”

Trương Lập nhún vai: “Hết cách, hiện nay trên thị trường vẫn chưa có bán dây móc kiểu mới như của chúng ta dùng, vì vậy chỉ có thể mua loại sản phẩm của mười năm trước này thôi, các nhà leo núi trước đây đều đeo nó ở thắt lưng cả mà. Có điều cũng không ngại gì, cái này và dây móc cùng một nguyên lý, chỉ cần tìm hiểu được kết cấu bên trong của nó, chúng ta dư sức làm được một bộ dây móc mới. Còn đây, là áo cánh dơi, cũng không cần giới thiệu nhiều nữa, gần như là giống hệt thứ chúng ta đã dùng, vốn là do một người yêu thích các môn thể thao mạo hiểm tên là Kelly, và một nhà phát minh người Đức tên là Holden phát minh ra, nghe nói lấy cảm hứng từ loài sóc bay.”

Trác Mộc Cường Ba cầm một món đồ trông giống như cục pin sạc lên hỏi: “Cái này là gì?”

Mắt Trương Lập sáng rỡ lên, giật lấy cục pin sạc ấy, nói: “Thứ này hay lắm đấy, để tôi biểu diễn cho mọi người xem. Cường Ba thiếu gia, anh lấy điện thoại di động ra đi. Giáo sư, máy tính của ông chắc phải cất vào hòm cách ly đấy.”

Đợi giáo sư Phương Tân cất máy tính xong, nụ cười trên môi Trương Lập từ từ tắt. Anh chàng làm ra vẻ nghiêm túc nói: “Cường Ba thiếu gia, anh gọi thử một số điện thoại nào đi, số nào cũng được.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Vậy thì gọi số của thầy giáo đi.”

Điện thoại di động của giáo sư Phương Tân nhanh chóng đổ chuông. Trương Lập liền nói: “Chú ý đây.” Ngón cái tay phải của anh ấn nhẹ lên phần đuôi cục pin sạc một cái, đèn báo pin lập tức giảm đi một nấc, chuông điện thoại của giáo sư Phương Tân đồng thời tắt lịm, còn đầu Trác Mộc Cường Ba thì nghiêng ra xa khỏi chiếc điện thoại đang áp bên tai, bởi vì trong điện thoại đã vang lên những tạp âm rất chói tai.

“Chuyện gì thế?” Trác Mộc Cường Ba hỏi.

Trương Lập mỉm cười đáp: “Cái này gọi là đạn xung điện từ, tác dụng làm nhiễu tất cả các loại thiết bị điện tử, đồng thời gây ra những tổn hại không thể sửa chữa cho một số linh kiện điện tử. Trong đàn tế Mạn Đà La ở Đảo Huyền Không tự, chúng ta vốn đã có thể giành toàn thắng, nhưng lại bị bọn tên Ben đó áp đảo ở bên trong, không sao ra nổi. Điểm chúng ta thua kém đối phương chính là ở vũ khí, vũ khí của chúng ta không được tiên tiến như của đối phương. Giờ có thứ này rồi, mấy loại súng gắn camera, ống ngắm điều khiển của chúng đều không còn tác dụng gì nữa.”

Trác Mộc Cường Ba nhìn chiếc điện thoại màn hình đen kịt, vẫn không ngừng phát ra tạp âm của mình, hỏi: “Có thể kéo dài được bao lâu?”

Trương Lập đáp: “20 giây.”

Trác Mộc Cường Ba thốt lên: “20 giây thôi sao?”

Trương Lập nói: “Hữu dụng vào những lúc quan trọng là được rồi, hơn nữa thể tích của nó rất nhỏ, tiện mang theo người, mỗi người có thể cầm theo năm đến mười chiếc, chỉ cần sạc điện vào là có thể dùng đi dùng lại, thêm chiếc máy sạc điện bằng năng lượng mặt trời và quay tay này nữa chắc là đủ để đối phó với các thiết bị điện tử của bọn Merkin rồi.”

Ba Tang cũng lấy làm hứng thú với loại đạn xung điện từ này. Anh ta cầm một cục lên săm soi, hỏi: “Cái thứ này của ai nghĩ ra vậy?”

Trương Lập cười khổ đáp: “Đây là sản phẩm của chiến tranh. Anh Ba Tang, anh thử nghĩ mà xem, đến cả người xưa còn biết dùng từ trường để ngăn không cho các thiết bị điện tử hoạt động, con người ngày nay lẽ nào lại không nghiên cứu cách thức phá hoại các thứ ấy chứ. Quân đội các nước lớn thường chế thứ này thành to như quả tên lửa ấy, phạm vi phá hoại có thể lên đến mấy cây số vuông. Một khi sử dụng trong chiến tranh, nó có thể khiến tất cả các thiết bị điện tử của một thành phố mất hiệu lực. Thử nghĩ mà xem, trong xã hội ngày nay, nếu tất cả các thiết bị điện tử đều không thể sử dụng, cảnh tượng sẽ như thế nào chứ? Sức phá hoại của nó có thể nói còn đáng sợ hơn bom đạn trực tiếp phá hoại cảthành phố nhiều. Còn loại đạn xung điện từ cỡ nhỏ này của chúng ta, nghe đâu là thứ các nhân viên tình báo sử dụng. Khi ăn trộm thông tin cơ mật mà bị phát hiện, dùng cái này để vô hiệu hóa các camera lắp ở khắp nơi thì hiệu nghiệm lắm.”

Ba Tang kinh ngạc hỏi: “Thứ này mà các cậu cũng kiếm được à?”

Trương Lập nhún vai nói: “Chỉ cần là thứ được phát minh ra, ắt có người biết, mà chỉ cần có người biết thì ắt mua bán được. Hơn nữa, chế tạo nó không khó khăn gì. Chúng tôi tìm được thứ này ở Iraq, cũng không tốn tiền cho lắm.”

Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Cũng là theo chỉ dẫn trong nhật ký à?”

Trương Lập gật đầu: “Đúng vậy.”

Trác Mộc Cường Ba nghi hoặc hỏi: “Nhà thám hiểm thì dùng gì đến thứ này chứ?”

Trương Lập mỉm cười nói: “À, tôi quên mất không nói với mọi người, Đường Thọ ghi trong nhật ký rằng, anh ta phát hiện ra rất nhiều dân tộc cổ xưa đã có chút hiểu biết về một số hiện tượng cảm ứng điện từ đặc thù. Tuy họ không biết nguyên lý bên trong, nhưng đã học được cách vận dụng cảm ứng điện trường này, giống như ở Cánh cửa Sinh mệnh, và cả lúc ở trong bụng tượng Phật khổng lồ nữa. Kỳ thực, tác dụng của Thiên châu cũng chính là một loại cảm ứng điện từ mà thôi. Dựa vào những ghi chép ấy, tôi suy đoán, dùng cái thứ này, có lẽ cũng có tác dụng giống như là Thiên châu vậy.”

“Được rồi, trước mắt có bấy nhiêu đây thôi,” Trương Lập xòe tay ra nói: “Nhưng chớ coi thường mấy món đồ nho nhỏ này, chúng tôi phải đi khắp mười mấy nước mới tìm mua được những sản phẩm tốt nhất đấy. Tôi đoán, chắc hội đội trưởng Hồ Dương còn phải đi kiếm đạn hấp lực, áo cứu sinh nữa. Ừm… những thứ đó chắc là cũng đắc dụng lắm đây.”

Giáo sư Phương Tân nói: “Không sai, tấm bản đồ này được quân Đức đồn trú ở Tây Tạng vẽ ra, nên tôi đã nghĩ nhất định là một nơi nào đó ở Tây Tạng. Sau khi so sánh với bản đồ Tây Tạng và các quốc gia xung quanh, tôi liền lập tức nhận ra địa phương trên tấm bản đồ này là nơi nào.”

Ba Tang và Sean cùng chúi đầu vào quan sát. Giáo sư lại chỉ lên tấm bản đồ nói: “Mọi người xem đi, chỗ có chú thích số “3” này, cũng chính là căn cứ địa số 3, hết sức rõ ràng rồi đúng không?”

Nhịp tim Trác Mộc Cường Ba không khỏi đập loạn lên, gã nói: “Đây, đây chính là vị trí của di chỉ vương triều Cổ Cách!”

Ba Tang và Trương Lập đồng thanh thốt lên: “Hóa ra là ở đây!” Sean tò mò hỏi: “Đây là nơi nào thế?”

Giáo sư Phương Tân liền giải thích: “Như vậy, tấm bản đồ này ít nhất cũng giải đáp cho chúng ta được một phần mệnh lệnh trên hộp thuốc lá, cấp trên yêu cầu họ trở lại căn cứ địa số 3, tìm thấy, và giải dịch. Ở đây nói là trở lại, cũng có nghĩa là, bọn họ cũng giống như chúng ta vậy, không phát hiện ra bất cứ lối đi nào trên đỉnh núi, tên lính Quốc xã đó chắc là lọt vào khu vực băng đứt gãy trên đường trở về. Thượng cấp yêu cầu họ trở lại Cổ Cách để tìm kiếm cái gì? Giải đọc cái gì?” Đưa mắt nhìn ba người đang trầm ngâm suy nghĩ và vẻ mặt hoang mang của Sean, giáo sư Phương Tân lại nói: “Chúng ta có thể đưa ra giả thiết thế này, sau khi có được bản đồ của Morton Stanley, quân Đức mới đến Tây Tạng. Vậy thì, nguyên nhân dẫn đến hành trình này tuyệt đối không thể chỉ là một tấm bản đồ không thôi. Chắc chắn bọn họ còn có được những đầu mối khác của Morton Stanley để lại. Đó là đầu mối gì được chứ? Liệu có thể nào là ký lục của Morton Stanley về chuyến hành trình đến Tây Tạng hay không?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ý của thầy là… là… a, tôi hiểu rồi! Nếu quân Đức biết được Morton Stanley phát hiện ra tấm bản đồ ấy ở trong mật thất Cổ Cách, hơn nữa còn biết được trong mật thất đó vẫn còn một cái hộp chưa bị lấy đi, sau khi lần theo bản đồ của Morton Stanley mà không tìm được lối vào, họ liền nghĩ đến việc trở lại Cổ Cách lấy chiếc hòm còn lại, cũng chính là…”

“Tấm bản đồ ở trong tay chúng ta!” Ba Tang và Trương Lập đồng thanh nói.

Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Có thể giả thiết là như vậy.”

Trác Mộc Cường Ba kích động thốt lên: “Như vậy có nghĩa là, chúng ta đã nắm trong tay tấm bản đồ duy nhất dẫn đến Bạc Ba La thần miếu?”

Giáo sư Phương Tân ngần ngừ nói: “Có thể nói như vậy, nhưng… vấn đề cũng chính là ở đây, tấm bản đồ này…” Ông nói tới đây, trên màn hình máy tính liền hiện ra tấm bản đồ da sói mà họ tìm được trong mật thất ở di chỉ Cổ Cách, chính là tấm bản đồ nhìn như bản đồ chi tiết mạng lưới giao thông thành phố Bắc Kinh. “Thực sự không có cách nào phá giải, ban đầu tôi vẫn còn cẩn thận chỉ gửi đi một phần, về sau đánh liều một phen, gửi hết toàn bộ bản đồ này cho các chuyên gia phá giải mật mã hình ảnh, có thể hỏi ý kiến được ai đều hỏi hết cả rồi. Cả Lữ Cánh Nam cũng phản hồi, rằng các chuyên gia nghiên cứu Tây Tạng cả đời ấy đều không thể tìm ra được gì trên tấm bản đồ này. Kết luận của tất cả các chuyên gia giống hệt như nhau, không có tấm bản đồ chỉ dẫn phương hướng nào lại vẽ như thế cả. Mười vị thì có đến tám vị không chịu tiếp tục đi sâu nghiên cứu tấm bản đồ này nữa, chỉ vừa nhìn qua đã nói ngay với tôi, đây rõ ràng là bản đồ giả. Vì vậy, đầu mối của chúng ta cũng đến đây là đứt quãng.”

Trác Mộc Cường Ba lại quan sát thật kỹ một lần nữa, những đường nét chằng chịt như tơ nhện phân bố khắp tấm bản đồ, khá nhiều đường còn được tô màu, bên cạnh có những ký hiệu kỳ quái, trên cả tấm bản đồ không hề có bất cứ văn tự nào. Những ký hiệu đó mang tính hình tượng rất cao, hoàn toàn khác với tiếng Tạng cổ, cũng có thể nói, những hình ấy là vẽ một số loài động vật trừu tượng cũng không sai. Trác Mộc Cường Ba lại một lần nữa chìm vào giữa vùng mê hoặc mịt mờ. Trước mắt, chỉ riêng về ký hiệu văn tự bọn gã đã tiếp xúc với bốn, năm loại khác nhau rồi, nhưng chỉ hiểu được một ít tiếng Tạng cổ, còn văn khắc Maya, những ký hiệu hình vẽ Maya, ký hiệu văn tự của người Qua Ba (cũng tức là nhữngký hiệu ở mặt sau tấm gương đồng và tấm thanga có nói đến việc người Qua Ba sống chung với sói). Còn những ký hiệu động vật trừu tượng vô số ở trước mắt gã đây, tất cả cứ xoay chuyển, bay lượn không ngừng trong tâm trí…

Trác Mộc Cường Ba nhìn chằm chằm vào màn hình máy tính, nét mặt nặng nề, nói: “Cũng có nghĩa là, tuy chúng ta đã phát hiện ra tấm bản đồ duy nhất và tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, nhưng tất cả đầu mối đều dừng lại ở hai thứ này, nếu không thể phá giải được thông tin ẩn chứa bên trong chúng thì cũng chẳng thể biết được điều gì hơn nữa, có phải vậy không, thầy giáo?”

Giáo sư Phương Tân gật gật đầu: “Có thể nói như vậy.”

Trương Lập nhắc nhở: “Liệu có giống như các hình vẽ của người Maya, kỳ thực tấm bản đồ này không giống như vẻ bề ngoài của nó, thông tin thực sự vẫn còn ẩn tàng bên dưới nữa?”

Giọng khàn khàn của Ba Tang cất lên: “Nhưng chúng ta không có tấm bản đồ gốc, cho dù có đúng là vậy thì cũng làm gì có cơ hội nghiên cứu chứ.”

Giáo sư Phương Tân điềm đạm: “Về điểm này thì có thể yên tâm. Từ sau khi chúng ta ở Đảo Huyền Không tự trở về, các chuyên gia về Tây Tạng đã sử dụng tất cả các phương pháp kiểm tra một cách triệt để hai tấm bản đồ da sói đó rồi. Sau khi dùng đủ các phương pháp hóa học, quang học, thanh học, điện từ học, ảnh tượng học, ký hiệu mật mã và hình hành trừu tượng ám thị học, kết luận rút ra đều như nhau. Đây là hai tấm bản đồ vẽ tay, ngoài việc dùng các màu sắc khác nhau để đánh dấu một số đoạn đường, cả hai tấm bản đồ đều không hề được xử lý đặc biệt gì, chúng ta thấy nó như thế nào, thì nó là như thế ấy.”

Sean cũng lên tiếng: “Cũng có nghĩa là, mấu chốt để giải mã tấm bản đồ này nằm ở nội dung của nó, tất cả bí mật đều ẩn giấu bên trong những hình vẽ này thôi?”

Giáo sư Phương Tân gật đầu tán thưởng: “Đúng vậy.”

Trác Mộc Cường Ba nhìn những đường nét ấy, dần dần, cảm giác cả tấm bản đồ dường như đã hóa thành một mặt người nhìn gã cười chế nhạo. Giờ đây đầu mối quan trọng nhất đã ở trong tay, nhưng làm sao mới phá giải được lại trở thành một vấn đề lớn. Bọn họ về thực chất chẳng khác nào người mù đọc sách, đến cả các phương pháp giải mã cơ bản cũng không nghĩ ra được.

Giáo sư Phương Tân thấy Trác Mộc Cường Ba mặt ủ mày chau, liền an ủi: “Thư giãn đi một chút, sẽ có cách thôi. Chỉ tìm đầu mối trên tấm bản đồ này vẫn chưa đủ đâu, muốn giải mã được thông tin ẩn chứa trong nó, còn thì phải làm mấy việc nữa. Đầu tiên, đó là tận dụng hết khả năng thu thập thông tin liên quan đến Shangri- la và những danh xưng khác đã được biết đến của nó, xét cho cùng đó cũng là những thông tin bề mặt có thể tìm được. Thứ hai, chúng ta cần nhanh chóng có được tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu trong tay, đây là một đầu mối nguyên bản mà chúng ta có được, nói không chừng nó có thể là chìa khóa để giải mã bản đồ cũng nên. Thứ ba, chúng ta cần đi sâu vào tìm hiểu các thông tin về tôn giáo thần bí của pháp sư Á La. Từ những nơi chúng ta đã đi qua, và các thông tin có được cho tới hiện giờ, đã không thể dùng ba chữ “không đơn giản” để hình dung tôn giáo này nữa rồi.”

Trác Mộc Cường Ba nhớ lại những gì Lữ Cánh Nam đã nói với mình trong phòng bệnh tối hôm đó, hiểu rằng đó là một tôn giáo bí mật, bọn họ không muốn tiết lộ quá nhiều thông tin cho người ngoài, gã khe khẽ lắc đầu nói: “Được rồi, vậy bước đầu tiên của chúng ta chính là lấy tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, hy vọng có thể nhanh chóng tìm ra bí mật ẩn chứa bên trong tấm gương đồng ấy.”

Giáo sư Phương Tân gật đầu nói: “Nhưng có một điểm này tôi cần phải nói trước với cậu, Cường Ba à. Cái tay Vương Hựu đó, anh ta là một thương nhân rất lý trí, anh ta hiểu rất rõ mình đang làm gì. Từ thái độ của anh ta có thể thấy rằng, dù cho có chết, anh ta cũng nhất định phải chết ở Shangri- la đấy. Trong lúc đàm phán, cậu cũng phải giữ vững lý trí. Có hiểu ý tôi không?”

Trác Mộc Cường Ba cười khổ nói: “Hiểu rồi, nếu anh ta thích tới đó tự tử, tôi cũng không thể thay đổi ý chí của một con người được.”

Sean và Trương Lập không rõ lắm về việc của Vương Hựu, hỏi han một hồi mới vỡ nhẽ. Sean nói: “Ồ, thì ra là như vậy, nói thế thì, tất cả những người nghe nói đến nơi ấy đều muốn đến đó rồi? Nhưng tôi có một chủ ý thế này, mọi người có biết câu chuyện về người chèo thuyền và núi vàng không? Người ta phát hiện ra quặng vàng ở một bang nào đó trên đất Mỹ, vô số người ùn ùn kéo đến đào vàng, nhưng ở đó lại có một con sông rất rộng, mà trên sông cũng không có thuyền bè gì. Một người đào vàng lập tức từ bỏ ý định đào vàng của mình, anh ta lấy hết vốn liếng ra mua một con thuyền, chuyên chở người qua sông, thu tiền rất đắt. Bất kể những người đào vàng ấy có được vàng thật hay không, nhưng ngườichèo thuyền ấy vẫn giàu có hơn tất cả bọn họ. Tình huống của chúng ta lúc này, hình như cũng rất giống vậy, chi bằng dứt khoát mở luôn một công ty du lịch cho rồi, đằng nào cũng có bao nhiêu người muốn đi như vậy cơ mà. Muốn đi thì cứ việc, chúng ta đứng ra thu phí, vừa hay có thể giải quyết được vấn đề tài chính, còn bọn họ có tìm được nơi ấy hay không, đến rồi có tìm được thứ bọn họ muốn hay không lại là chuyện khác.”

Sean tự nhận thấy đây là một kiến nghị không tồi chút nào, nhưng sau khi dứt lời, bỗng phát hiện những người khác đều tròn mắt lên nhìn mình đầy kinh ngạc, không khỏi hơi có chút lo lắng: “Tôi, tôi nói sai gì à?”

Sau một hồi trầm ngâm, giáo sư Phương Tân là người đầu tiên lên tiếng: “Xem ra, chúng ta cần phải thay đổi phương thức tư duy rồi.” Trong lòng ông lại thầm nhủ: “Cuối cùng cũng có người đề ra phương án này, anh bạn, kế hoạch của anh cuối cùng cũng tiến lên bước đầu tiên rồi, con đường này, thực sự rất nguy hiểm đấy. Cường Ba à, thứ lỗi cho tôi, lần này không thể cho cậu biết chân tướng được.”

Trác Mộc Cường Ba vỗ mạnh lên vai Sean, nói: “Chỉ có anh mới nghĩ đến chuyện này thôi đấy, Sean ạ!”

Vốn ban đầu, Trác Mộc Cường Ba và các thành viên trong tổ huấn luyện đặc biệt chỉ muốn tập hợp thành một nhóm nhỏ, bí mật đi tìm Bạc Ba La thần miếu, cho dù có tìm bạn bè giúp sức thì cũng chưa bao giờ nghĩ đến phương án “mua thuyền thu phí”. Cũng chính vì nguyên nhân này, khi Vương Hựu đề nghị ủng hộ tài chính để đổi lấy một chân trong đoàn đi Shangri- la, Trác Mộc Cường Ba không cần nghĩ ngợi gì đã cự tuyệt ngay lập tức.

Khi đối mặt với nhóm của Merkin, bọn họ cũng có thái độ bất hợp tác, hai bên đã ngấm ngầm giao tranh, đồng thời trong quá trình tranh đoạt đầu mối ấy, dường như họ đã là kẻ chiến thắng cuối cùng. Có điều, rốt cuộc Merkin đã nắm được những đầu mối gì, họ lại hoàn toàn không hề hay biết.

Sau khi tin tức bị rò rỉ ra ngoài, thế lực các phương ùn ùn kéo đến như nước thủy triều, theo bản năng, bọn họ chỉ muốn né tránh. Có điều, đối với một nhóm người thiếu thốn cả tài chính, nhân lực và vật lực như họ, muốn tránh khỏi những thế lực hiện diện ở khắp nơi ấy đâu phải chuyện dễ. Biết được núi vàng ở đâu, tự nhiên sẽ có người muốn đến đó đào vàng, lúc này áp lực đối với những người duy nhất có phương tiện qua sông như bọn họ sẽ chỉ mỗi lúc một lớn thêm.

Giờ đây bọn họ đang phải đối mặt với tình hình tựa nước lũ tràn về. Khi trên đê xuất hiện một lỗ hổng cá biệt như Merkin, họ có thể dùng cách bít trám, đắp lại để bổ khuyết. Thế nhưng, nước lũ vẫn tiếp tục dâng cao, nguy cơ vỡ đê đã ở ngay trước mắt, cứ tiếp tục đắp thêm thế này thì thật lực bất tòng tâm. Được giáo sư Phương Tân chỉ dẫn, Trác Mộc Cường Ba đã từng giả điên giả ngốc, nhưng các thế lực kia hiển nhiên vẫn không chịu dễ dàng bỏ cuộc như vậy, do đó bọn họ đang phải đối mặt với một nguy cơ cực lớn. Hơn nữa, trong tình hình nước lũ không có vẻ gì là muốn rút đi này, tiếp tục đắp đê rõ ràng không phải là cách hay, kiến nghị của Sean vừa khéo có thể phá được cục diện bị động. Khi nước lũ sắp làm vỡ đê, thế không thể dừng được nữa, khơi thông dẫn dòng chắc chắn là lựa chọn tốt nhất, như vậy vừa có thể dẫn được dòng lũ đi, tránh được họa ngập úng, mà khi dòng nước lũ đã ở trong kênh dẫn nước, hướng đi của nó sẽ do người đào kênh quyết định.

Trương Lập không đồng ý, nói: “Lẽ nào, chúng ta cũng cho các thế lực khác nhập hội hết sao?”

Giáo sư Phương Tân lắc đầu nói: “Không, đương nhiên là không, nhưng kiến nghị của Sean lại có thể giúp chúng ta thoát khỏi sự đeo bám nhằng nhẵng của chúng.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Nếu làm tốt, đúng là còn có thể bù đắp được sự thiếu thốn về mặt tài chính của chúng ta.”

Trương Lập vẫn không hiểu: “Rốt cuộc mọi người đang nói gì đấy? Sao tôi càng nghe càng thấy hồ đồ vậy nhỉ?”

Ba Tang so sánh một cách hình tượng: “Giờ đây, các thế lực đó đều như một lũ chó điên, bọn chúng nhìn chằm chằm vào chúng ta, không phải vì chúng ta đã chọc giận chúng, mà vì trong tay chúng ta đang cầm khúc xương. Nếu chúng ta ném khúc xương ấy đi… Hừ,” Ba Tang cười lạnh lùng nói: “Lúc đó, sẽ được xem chó cắn nhau!”

Giáo sư Phương Tân mỉm cười nói: “Hơn nữa, khi chúng ta đã nắm trong tay hai đầu mối quan trọng nhất là tấm bản đồ chính xác duy nhất và tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu rồi, vậy thì, đem các tài liệu ghi lại được trong địa cung Maya và Đảo Huyền Không tự ra bán cho bọn họ cũng có hề gì?”

Sean thốt lên: “Mọi người giỏi quá, chủ ý này còn hay hơn của tôi nữa.”

Năm người lại thương lượng thêm một hồi, cho rằng phương pháp này quả thực rất khả thi, định đợi tất cả đến đông đủ rồi sẽ thảo luận cách thức thực hiện cụ thể. Cuối cùng, giáo sư Phương Tân nói: “Được rồi, mọi người đã bôn ba cả ngày rồi, cũng nên nghỉ ngơi đi. Chúng ta bàn tới đây thôi, ngày mai có lẽ Lữ Cánh Nam sẽ liên lạc với tôi. Cường Ba à, ngày mai cậu chọn lúc nào đó nhanh chóng gặp mặt tay Vương Hựu kia lấy tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu về đây. Tôi sẽ nghĩ cách liên hệ với các chuyên gia về quang điện học nữa.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Được, ngày mai tôi sẽ đi tìm Vương Hựu luôn.”

Trương Lập nói: “Đợi chút đã, giáo sư, gói hàng chúng tôi gửi từ nước ngoài về đâu? Tôi muốn lấy ra cho Cường Ba thiếu gia xem, để mọi người biết công cụ chúng tôi đi mua về tốt như thế nào.”

Giáo sư Phương Tân bật cười “kha kha” nói: “Đều ở bên trong cả, theo tôi.”

Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc thốt lên: “Cái gì? Đều gửi về qua đường bưu điện sao?”

Trương Lập ngoẹo đầu nói: “Chúng tôi mua toàn linh kiện điện tử, toàn là đồ hợp pháp cả đấy.”

Cả bọn đi theo giáo sư Phương Tân vào nhà trong, thấy trên bàn đặt mấy bọc hàng, nhìn bề ngoài đều không lớn lắm. Đây có lẽ chính là những trang bị mà mấy người bọn Trương Lập đã dựa theo quyển nhật ký của Đường Thọ đi khắp nơi chọn mua về. Trương Lập lấy làm thích thú xông đến bên chiếc bàn, thành thạo bóc bao bì. Lúc lấy các món đồ bên trong ra, anh dường như đã hoàn toàn biến thành một con người khác. Các loại thiết bị bày đầy một bàn trước mặt bọn Trác Mộc Cường Ba, có cái nhận ra được, có những cái không ai biết là gì, công dụng như thế nào.

Trương Lập giới thiệu từ trái sang phải: “Giày hút lực, một trong những trang bị thường dùng nhất của chúng ta, giảm chấn hình vòm, trợ lực đàn hồi cực mạnh, cái này thì không cần giới thiệu nhiều nữa, đây là sản phẩm tốt nhất, nhưng không phải của Mỹ, mà là hàng của Pháp. Còn cái này, cái món này, chính là hình mẫu ban đầu của dây móc mà chúng ta sử dụng, do một sinh viên đại học tên là Bauer phát minh ra, họ gọi nó là xích xoắn.”

Trác Mộc Cường Ba nhìn cái gọi là xích xoắn đó, thấy to bằng chiếc đài phát thanh cỡ nhỏ, dây thép và trục cuốn đều lộ cả ra ngoài, trông giống cuộn dây trên cần câu cá nhiều hơn. Ba Tang cũng nói: “To vậy sao?”

Trương Lập nhún vai: “Hết cách, hiện nay trên thị trường vẫn chưa có bán dây móc kiểu mới như của chúng ta dùng, vì vậy chỉ có thể mua loại sản phẩm của mười năm trước này thôi, các nhà leo núi trước đây đều đeo nó ở thắt lưng cả mà. Có điều cũng không ngại gì, cái này và dây móc cùng một nguyên lý, chỉ cần tìm hiểu được kết cấu bên trong của nó, chúng ta dư sức làm được một bộ dây móc mới. Còn đây, là áo cánh dơi, cũng không cần giới thiệu nhiều nữa, gần như là giống hệt thứ chúng ta đã dùng, vốn là do một người yêu thích các môn thể thao mạo hiểm tên là Kelly, và một nhà phát minh người Đức tên là Holden phát minh ra, nghe nói lấy cảm hứng từ loài sóc bay.”

Trác Mộc Cường Ba cầm một món đồ trông giống như cục pin sạc lên hỏi: “Cái này là gì?”

Mắt Trương Lập sáng rỡ lên, giật lấy cục pin sạc ấy, nói: “Thứ này hay lắm đấy, để tôi biểu diễn cho mọi người xem. Cường Ba thiếu gia, anh lấy điện thoại di động ra đi. Giáo sư, máy tính của ông chắc phải cất vào hòm cách ly đấy.”

Đợi giáo sư Phương Tân cất máy tính xong, nụ cười trên môi Trương Lập từ từ tắt. Anh chàng làm ra vẻ nghiêm túc nói: “Cường Ba thiếu gia, anh gọi thử một số điện thoại nào đi, số nào cũng được.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Vậy thì gọi số của thầy giáo đi.”

Điện thoại di động của giáo sư Phương Tân nhanh chóng đổ chuông. Trương Lập liền nói: “Chú ý đây.” Ngón cái tay phải của anh ấn nhẹ lên phần đuôi cục pin sạc một cái, đèn báo pin lập tức giảm đi một nấc, chuông điện thoại của giáo sư Phương Tân đồng thời tắt lịm, còn đầu Trác Mộc Cường Ba thì nghiêng ra xa khỏi chiếc điện thoại đang áp bên tai, bởi vì trong điện thoại đã vang lên những tạp âm rất chói tai.

“Chuyện gì thế?” Trác Mộc Cường Ba hỏi.

Trương Lập mỉm cười đáp: “Cái này gọi là đạn xung điện từ, tác dụng làm nhiễu tất cả các loại thiết bị điện tử, đồng thời gây ra những tổn hại không thể sửa chữa cho một số linh kiện điện tử. Trong đàn tế Mạn Đà La ở Đảo Huyền Không tự, chúng ta vốn đã có thể giành toàn thắng, nhưng lại bị bọn tên Ben đó áp đảo ở bên trong, không sao ra nổi. Điểm chúng ta thua kém đối phương chính là ở vũ khí, vũ khí của chúng ta không được tiên tiến như của đối phương. Giờ có thứ này rồi, mấy loại súng gắn camera, ống ngắm điều khiển của chúng đều không còn tác dụng gì nữa.”

Trác Mộc Cường Ba nhìn chiếc điện thoại màn hình đen kịt, vẫn không ngừng phát ra tạp âm của mình, hỏi: “Có thể kéo dài được bao lâu?”

Trương Lập đáp: “20 giây.”

Trác Mộc Cường Ba thốt lên: “20 giây thôi sao?”

Trương Lập nói: “Hữu dụng vào những lúc quan trọng là được rồi, hơn nữa thể tích của nó rất nhỏ, tiện mang theo người, mỗi người có thể cầm theo năm đến mười chiếc, chỉ cần sạc điện vào là có thể dùng đi dùng lại, thêm chiếc máy sạc điện bằng năng lượng mặt trời và quay tay này nữa chắc là đủ để đối phó với các thiết bị điện tử của bọn Merkin rồi.”

Ba Tang cũng lấy làm hứng thú với loại đạn xung điện từ này. Anh ta cầm một cục lên săm soi, hỏi: “Cái thứ này của ai nghĩ ra vậy?”

Trương Lập cười khổ đáp: “Đây là sản phẩm của chiến tranh. Anh Ba Tang, anh thử nghĩ mà xem, đến cả người xưa còn biết dùng từ trường để ngăn không cho các thiết bị điện tử hoạt động, con người ngày nay lẽ nào lại không nghiên cứu cách thức phá hoại các thứ ấy chứ. Quân đội các nước lớn thường chế thứ này thành to như quả tên lửa ấy, phạm vi phá hoại có thể lên đến mấy cây số vuông. Một khi sử dụng trong chiến tranh, nó có thể khiến tất cả các thiết bị điện tử của một thành phố mất hiệu lực. Thử nghĩ mà xem, trong xã hội ngày nay, nếu tất cả các thiết bị điện tử đều không thể sử dụng, cảnh tượng sẽ như thế nào chứ? Sức phá hoại của nó có thể nói còn đáng sợ hơn bom đạn trực tiếp phá hoại cảthành phố nhiều. Còn loại đạn xung điện từ cỡ nhỏ này của chúng ta, nghe đâu là thứ các nhân viên tình báo sử dụng. Khi ăn trộm thông tin cơ mật mà bị phát hiện, dùng cái này để vô hiệu hóa các camera lắp ở khắp nơi thì hiệu nghiệm lắm.”

Ba Tang kinh ngạc hỏi: “Thứ này mà các cậu cũng kiếm được à?”

Trương Lập nhún vai nói: “Chỉ cần là thứ được phát minh ra, ắt có người biết, mà chỉ cần có người biết thì ắt mua bán được. Hơn nữa, chế tạo nó không khó khăn gì. Chúng tôi tìm được thứ này ở Iraq, cũng không tốn tiền cho lắm.”

Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Cũng là theo chỉ dẫn trong nhật ký à?”

Trương Lập gật đầu: “Đúng vậy.”

Trác Mộc Cường Ba nghi hoặc hỏi: “Nhà thám hiểm thì dùng gì đến thứ này chứ?”

Trương Lập mỉm cười nói: “À, tôi quên mất không nói với mọi người, Đường Thọ ghi trong nhật ký rằng, anh ta phát hiện ra rất nhiều dân tộc cổ xưa đã có chút hiểu biết về một số hiện tượng cảm ứng điện từ đặc thù. Tuy họ không biết nguyên lý bên trong, nhưng đã học được cách vận dụng cảm ứng điện trường này, giống như ở Cánh cửa Sinh mệnh, và cả lúc ở trong bụng tượng Phật khổng lồ nữa. Kỳ thực, tác dụng của Thiên châu cũng chính là một loại cảm ứng điện từ mà thôi. Dựa vào những ghi chép ấy, tôi suy đoán, dùng cái thứ này, có lẽ cũng có tác dụng giống như là Thiên châu vậy.”

“Được rồi, trước mắt có bấy nhiêu đây thôi,” Trương Lập xòe tay ra nói: “Nhưng chớ coi thường mấy món đồ nho nhỏ này, chúng tôi phải đi khắp mười mấy nước mới tìm mua được những sản phẩm tốt nhất đấy. Tôi đoán, chắc hội đội trưởng Hồ Dương còn phải đi kiếm đạn hấp lực, áo cứu sinh nữa. Ừm… những thứ đó chắc là cũng đắc dụng lắm đây.”

Chọn tập
Bình luận
× sticky