Tập 9
Khi Đại Địch ô Thứ Kiệt mở gói công cụ ấy ra, hai mắt pháp sư Tháp Tây sáng bừng lên. Ông cẩn thận đưa tay vuốt nhẹ lên từng món một, hạ giọng thì thầm: “Hơn một nghìn năm rồi, vậy mà vẫn còn giữ được hoàn hảo thế này. Đây là một bộ Đại diễn man khí, tổng cộng có ba trăm mười ba món, giờ đây trên thế gian chỉ sợ không còn bộ dụng cụ nào hoàn chỉnh được như vậy nữa đâu. Tốt quá, bệnh của công chúa có thể chữa khỏi rồi!”
Tẩy huyết
“Đội trưởng Hồ Dương!”
“Choang” một tiếng, bình bảo quản máu dự trữ trên tay Trương Lập rơi xuống đất. “Đội trưởng Hồ Dương!” Vừa khóc, anh vừa bổ nhào đến. Trương Lập không dám tin, người đàn ông râu rậm thô lỗ mà hào sảng ấy, con người cứng rắn tưởng như được rèn từ sắt thép, con người đã bao lần kéo họ về từ lằn ranh của cái chết ấy, con người mà đến cả núi tuyết cũng không đè nổi, giờ đây lại lặng lẽ ra đi như thế.
Lúc này, Tước Mẫu vương mới hớt hơ hớt hải chạy đến, vừa ngó nghiêng đánh giá bọn Trác Mộc Cường Ba, vừa cất tiếng hỏi: “Nghe nói đã mời được Qua Ba Đại Địch ô đến rồi? Vị nào là Qua Ba Đại Địch ô vậy?” Ánh mắt ông ta đảo một vòng, lập tức khóa chặt trên người pháp sư Tháp Tây trong bộ y phục đen tuyền.
Trác Mộc Cường Ba vươn tay nhấc Tước Mẫu vương lên trước ngực mình, chỉ vào di thể của đội trưởng Hồ Dương gằn giọng quát: “Đây là minh ước thần thánh của các người đó hả? Chuyện này là như thế nào? Rốt cuộc là như thế nào đây hả?”
Tước Mẫu vương bấy giờ mới phát hiện trên mặt đất có một người đã nằm xuống, ông ta há hốc miệng hồi lâu, không thốt lên được tiếng nào. Đám hộ vệ xung quanh thấy đại vương bị bắt giữ, liền nhao nhao rút khí giới ra, nhưng gặp phải ánh mắt lạnh lùng của Ba Tang, đồng thời lại thấy bọn Lữ Cánh Nam, Nhạc Dương đều cầm vũ khí trên tay, bọn chúng cũng không dám vọng động, chỉ đứng tại chỗ quát tháo ầm ĩ:
“Mau thả đại vương ra!”
“To gan!”
“Vô lễ!”
“Mau thả người!”
Trác Mộc Cường Ba cố gắng ghìm ngọn lửa giận đang hừng hực bốc cao trong lòng, nhưng bắp thịt trên hai cánh tay lại không chịu sự khống chế của gã, cứ run lên bần bật. Tước Mẫu vương bị gã nhấc bổng khỏi mặt đất, thân thể cũng bắt đầu run rẩy theo đôi cánh tay ấy, tới khi được Trác Mộc Cường Ba thả xuống đất, hai chân vẫn còn hơi run run. Chỉ nghe Tước Mẫu vương lập cập nói: “Yên tĩnh! Tất cả yên tĩnh cho ta! Bản vương không sao!”
Ông ta nhìn thi thể của đội trưởng Hồ Dương, cũng không biết phải nói sao cho phải, một hồi lâu sau mới cất tiếng: “Ta không biết chuyện này, là do Quách Nhật Niệm Thanh làm, tất cả đều do Quách Nhật Niệm Thanh làm cả.” Kế đó, Tước Mẫu vương lại quát lớn: “Quách Nhật Niệm Thanh đâu rồi? Mau gọi hắn đến gặp ta!”
“Khởi bẩm đại vương, Quách Nhật Niệm Thanh đại nhân vừa rời khỏi Tước Mẫu, không biết đã đi đâu.” Một tên hộ vệ lập tức hồi báo.
“Quách Nhật Niệm Thanh! Tại sao? Tại sao hắn ta phải làm vậy?” Hai tay Trác Mộc Cường Ba nắm chặt đến nỗi kêu lên răng rắc, tựa hồ muốn bóp nát xương cốt của tên Quách Nhật Niệm Thanh kia thành bột phấn vậy. Nhưng câu trả lời gã nhận được, chỉ là cái lắc đầu ngây ngốc của Tước Mẫu vương mà thôi.
Không ai biết tại sao Quách Nhật Niệm Thanh lại làm như vậy, đến cả Nhạc Dương cũng lấy làm nghi hoặc khó hiểu. Nếu nói mục tiêu của y là Tước Mẫu vương, vậy thì hà tất phải mạo hiểm phá hoại minh ước thần thánh làm gì? Gần như là đã bất chấp tất cả để giết cho bằng được đội trưởng Hồ Dương vậy, hơn nữa, còn phải đích thân y hạ sát nữa, rốt cuộc chuyện này là như thế nào?
Tước Mẫu vương biết rõ, phá hoại minh ước thần thánh không phải chuyện nhỏ, điều này can hệ đến cả hoàng quyền và uy tín, liền lập tức hạ lệnh: “Tìm! Dù có lật tung cả Langbu này lên cũng phải tìm được hắn về đây!” Đám binh sĩ vội vàng vâng lệnh chạy đi.
Trước mặt Qua Ba Đại Địch ô, Tước Mẫu vương bỗng trở nên cực kỳ cung kính và khách khí, thái độ có thể nói là đã thay đổi một trăm tám mươi độ, bọn Trác Mộc Cường Ba gần như muốn gì được nấy, kể cả việc thực hiện nghi thức thiên táng cho đội trưởng Hồ Dương cũng được đáp ứng ngay và luôn. Xem ra, chỉ cần chữa khỏi đôi mắt cho công chúa, cho dù có bảo lập tức thoái vị nhường ngôi, ông ta cũng không hề tiếc nuối.
Trong vương cung Tước Mẫu, Mẫn Mẫn mơ màng tỉnh dậy sau cơn hôn mê, biết được tin buồn của đội trưởng Hồ Dương, cô gục đầu vào lòng Trác Mộc Cường Ba khóc một hồi lâu. Cô kể với cả bọn, đội trưởng Hồ Dương từng nói với cô một lý do hết sức kỳ quái. Quách Nhật Niệm Thanh cứ một mực cho rằng, đội trưởng Hồ Dương đã cướp đi thứ quý giá nhất của y. Nhưng rốt cuộc thứ ấy là gì, thì mọi người đều không hề có chút đầu mối nào cả.
Theo tập tục thiên táng của Langbu, thi thể đội trưởng Hồ Dương được quấn chặt bằng nhiều lớp vải lụa trắng tinh khiết, tựa như con tằm nhả tơ làm kén. Thân thể anh được cố định ở tư thế giống như thai nhi nằm trong bụng mẹ, hai tay ôm ngực, cằm chạm đến gối. Sau đó, người ta đưa anh vào một gian phòng đá trống không, chẳng có ban thờ, cũng không thắp hương thắp nến hay đốt giấy tiền vàng mã gì cả. Cái vỏ kén trắng tinh khiết ấy cứ nằm trơ trọi ở đó đến tận hết trung ấm kỳ[i] , những người chuyên trách nghi thức mới chọn ngày lành giờ tốt để tiến hành thiên táng.
Về gian phòng rỗng không này, Nhạc Dương thắc mắc, nghi thức tang lễ chỉ quốc vương mới được hưởng mà lại đơn giản có vậy thôi sao? Tước Mẫu vương đáp rằng, đó mới là sự hồi quy luân chuyển. Pháp sư Á La cũng bảo, thiên táng, tương ứng với “không táng” trong bốn phương thức mai táng cơ bản của loài người, bao gồm thổ táng, hỏa táng, thủy táng, và không táng. Ý nghĩa căn bản của nghi thức này là trở về với hư vô, tất cả tuân theo cảnh giới “vô ngã vô vật”, mọi món đồ trang sức của tục thế đều sẽ trở thành chướng ngại đối với sự trở về của linh hồn.
Sau khi Quách Nhật Niệm Thanh bỏ trốn, Tước Mẫu vương dường như không còn chủ kiến, chuyện gì cũng do dự bất quyết, thái độ đối với bọn Trác Mộc Cường Ba lại càng thay đổi một trăm tám mươi độ, trở nên hết sức cung kính, nếu người ngoài không biết, thậm chí có khi còn tưởng rằng ông ta chỉ là một tên hầu cận bưng trà rót nước cũng nên. Thái độ khiêm cung lễ phép này lẽ dĩ nhiên là dành cho Qua Ba Đại Địch ô trước nhất. Mà sự thực, nhân khoảng thời gian di thể của đội trưởng Hồ Dương được quàn trong phòng trống, Tước Mẫu vương cũng đã nhiều lần nhắc đến cô con gái đáng thương của mình. Câu trả lời của pháp sư Tháp Tây lần nào cũng là, phải xem rồi mới biết được. Kỳ thực, trên đường ông đã hỏi han Lữ Cánh Nam rất kỹ về bệnh tình của công chúa Lạp Mẫu, đồng thời, sứ giả Langbu cũng từng mang đến những thông tin tường tận hơn rất nhiều. Đối với căn bệnh này của công chúa, ông cũng có niềm tin chữa khỏi được. Tuy nhiên có trị liệu cho công chúa hay không? Nên chữa bệnh cho công chúa Lạp Mẫu trước, hay là bảo Tước Mẫu vương lấy tằm diên ra giải độc cho Trác Mộc Cường Ba trước, pháp sư Tháp Tây vẫn đợi xem thái độ của Trác Mộc Cường Ba. Bởi xét cho cùng, một thành viên trong nhóm của họ cũng vừa mới mất mạng bởi cái minh ước thần thánh lập với vị Tước Mẫu vương này.
Tước Mẫu vương không phải kẻ mù, ông ta nhanh chóng nhìn ra được đầu mối, vị Qua Ba Đại Địch ô này rõ ràng không chỉ quen biết với bọn Trác Mộc Cường Ba, mà dường như còn rất thân thuộc nữa. Cần vị nào ở đây lên tiếng để cứu chữa cho con gái mình, trong lòng ông ta cũng đã có tính toán. Thế nhưng, điều làm ông ta lo lắng là, người phát ngôn có quyền quyết định kia vẫn đang trong cơn giận dữ vì cái chết của một người khác trong nhóm của anh ta. Tước Mẫu vương vẫn còn chưa quên cảm giác lúc người này nhấc mình lên khỏi mặt đất, khi ấy, sự sống chết của bản thân có lẽ thật sự chỉ cách nhau một đường tơ mỏng mảnh. Mỗi lần nghĩ đến đây, Tước Mẫu vương lại càng không có chủ kiến, cũng bởi bao nhiêu năm nay, ông ta quá ỷ lại và coi trọng ý kiến cũng như cách nhìn của Quách Nhật Niệm Thanh rồi.
Nhìn bộ dạng nơm nớp âu lo, lại suốt ngày ngó trước nhìn sau ấy của Tước Mẫu vương, Nhạc Dương rất muốn bảo với lão quốc vương già hồ đồ này, Quách Nhật Niệm Thanh đã nhìn ngó cái ngai vàng của ông ta từ lâu rồi, một loạt những âm mưu này không phải là không có can hệ gì đến ông ta đâu. Đặc biệt khi thấy vị quốc vương già chỉ chăm chăm lo lắng cho con gái mình, còn những chuyện khác đều nhất loạt không để trong lòng, cuối cùng Nhạc Dương cũng không nhịn được mà lên tiếng: “Mắt của con gái ông, mắt của con gái ông, ông lúc nào cũng chỉ biết có vậy à? Ông có biết Quách Nhật Niệm Thanh muốn tạo phản hay không? Hắn ta muốn cướp vương vị của ông đấy! Đối phó với chúng tôi, chẳng qua chỉ là một mắt xích trong âm mưu liên hoàn của hắn mà thôi, đến lúc vương vị cũng mất luôn rồi, thử hỏi ông còn lại được cái gì nữa chứ?”
Không ngờ câu trả lời của Tước Mẫu vương lại khiến tất cả mọi người đều giật mình kinh ngạc: “Bản vương sớm đã biết rồi.” Ông vua già ấy vẫn giữ vẻ mặt hờ hững như không, bình thản nói: “Chớ nghĩ rằng bản vương già mà hồ đồ thật, kỳ thực, cách đây rất lâu, Đại Địch ô Thứ Kiệt đã nói với ta, Quách Nhật Niệm Thanh đang lén lút làm gì đó. Y đã nắm trong tay toàn bộ quân đội của Langbu, vậy mà vẫn thấy chưa đủ, lại còn ngấm ngầm huấn luyện một đội thân vệ trung thành tuyệt đối, chỉ phục tùng mệnh lệnh của một mình y mà thôi. Kể từ lúc đó, chúng ta đã biết, dường như y không đợi được nữa rồi.”
“Hả?” Nhạc Dương lấy làm ngạc nhiên, xưa nay anh chưa từng nghe nói có vị quân vương nào sau khi biết ngôi báu của mình sắp bị người khác bày mưu đoạt mất mà vẫn giữ được thái độ bình tĩnh như thế cả, tựa hồ đó là chuyện đương nhiên phải thế vậy. Thực sự không sao hiểu nổi, anh bất giác buột miệng lớn tiếng hỏi: “Có nhầm lẫn không vậy? Hắn ta muốn đoạt ngôi báu của ông đấy nhé! Sao ông có thể để âm mưu của hắn tiến hành từng bước từng bước như thế được chứ?”
Tước Mẫu vương điềm đạm nói: “Ngôi báu này vốn là của y mà.” Thấy bọn Trác Mộc Cường Ba có vẻ không hiểu, Tước Mẫu vương bèn giải thích: “Quách Nhật Niệm Thanh là đứa cháu duy nhất của ta, Langbu này cũng không thể có nữ vương, vì vậy, sau khi ta chết, ngôi báu này nhất định sẽ thuộc về y. Bây giờ, các vị đã hiểu tại sao ta lại coi trọng y như vậy rồi chứ. Xưa nay ta vẫn luôn coi y như con trai, cho dù y muốn đoạt lấy ngôi báu này cũng vậy thôi. Huống hồ, uy tín của y trong quân đội vốn đã rất cao, thêm vào đó, ba năm trước y còn lập công dẹp yên được trận chiến tranh kéo dài nhiều năm giữa Langbu và Yaca, đã trở thành thống lĩnh tối cao của quân đội rồi. Bởi thế, ở Langbu này, y chỉ kiêng dè có mình ta và Đại Địch ô Thứ Kiệt mà thôi. Nếu không phải trong tay các vị có hỏa khí lợi hại, y vốn cũng không cần phải bỏ chạy như thế. Kỳ thực, điểm duy nhất làm ta nghi hoặc là, tại sao y phải nôn nóng đến vậy? Trước đây y cũng không phải là kẻ tham lam quyền lực gì, nhưng từ sau lần hòa đàm ba năm trước, y cứ như thể đã biến thành một con người hoàn toàn khác vậy.”
“Vậy thì, kể cả khi hắn dùng cổ độc làm mù mắt công chúa Lạp Mẫu, ông cũng dung thứ được à?” Giác quan nhạy bén của Nhạc Dương nhận ra, có lẽ Tước Mẫu vương biết được chuyện gì đó, nhưng nhất định ông ta không thể có được một cái nhìn toàn diện.
“Cậu nói cái gì?” Quả nhiên, Tước Mẫu vương kinh hãi đứng bật dậy, luôn miệng nói: “Không thể nào! Không thể nào như vậy được! Tại sao y lại hạ thủ với con gái ta?”
Nhạc Dương thở dài nói: “Phải rồi, tại sao chứ? Tại sao phải đối phó với công chúa? Tại sao phải mạo hiểm phá hoại minh ước thần thánh để ra tay với đội trưởng Hồ Dương? Tên Quách Nhật Niệm Thanh rốt cuộc đang nghĩ cái gì trong đầu vậy?” Tất cả mọi người đều chìm vào suy tư.
“Gượm đã…” Nhạc Dương đột nhiên sực nghĩ ra điều gì đó, vội hỏi Tước Mẫu vương: “Ông bảo Quách Nhật Niệm Thanh là cháu ông? Vậy thì hắn ta cũng có thể coi như là vương tử của Langbu rồi đúng không?”
Tước Mẫu vương gật đầu: “Đúng thế, là vương tử duy nhất của Langbu.”
“Nếu muốn thuận lợi kế thừa vương vị, liệu hắn ta có phải có quan hệ gì với công chúa Lạp Mẫu không?”
“À! Có, có đấy, y phải lấy con gái ta thì mới có quyền kế thừa vương vị!” Tước Mẫu vương dường như đã hiểu ra điều gì đó, lẩm bẩm nói: “Cậu, ý cậu là, nó hạ thủ với con gái bản vương, lẽ nào vì…”
Nhạc Dương đột nhiên chỉ tay vào Trương Lập, đứng dậy nói: “Tôi hiểu rồi! Tất cả đều rõ ràng rồi! Ba năm trước, tất cả đều bắt nguồn từ ba năm trước! Tại sao Quách Nhật Niệm Thanh phải làm mù mắt công chúa, tại sao lại muốn giết chết đội trưởng Hồ Dương, tôi đã tìm được nguyên nhân rồi!”
“Rốt cuộc là chuyện gì vậy?”
“Cậu phát hiện được gì thế, Nhạc Dương?”
Bọn Trác Mộc Cường Ba đều nôn nóng gặng hỏi. Cái chết của đội trưởng Hồ Dương quả thực đã mang đến cho họ quá nhiều nghi vấn.
Nhạc Dương chừng như đứng không vững lắm, anh nhìn Trương Lập nói: “Có lẽ, đội trưởng Hồ Dương đã chết oan, người Quách Nhật Niệm Thanh thực sự muốn giết, sợ rằng chính là anh đấy!”
“Cậu… cậu nói cái gì?” Trương Lập cũng đứng lên, đối mặt với Nhạc Dương, ánh mắt đầy kinh ngạc pha lẫn ngờ vực. Nhạc Dương khi ấy liền chậm rãi giải thích: “Còn nhớ câu chuyện cổ tích tôi từng kể với anh không? Vương tử bị thương gặp nàng thiếu nữ xinh đẹp lương thiện, trái tim chàng không thể kháng cự, đã trở thành tù binh của nàng thiếu nữ thuần khiết kia… Địch ô An Cát Mẫu có nói, Mã Cát cũng từng có trải nghiệm tương tự như vậy! Lần Quách Nhật Niệm Thanh bị bắn mù mắt đó, chính Mã Cát đã cứu hắn ta! Trời đất ơi! Là Mã Cát, Mã Cát A Mễ, người Quách Nhật Niệm Thanh yêu chính là Mã Cát A Mễ! Ba năm trước, khi hắn bị thương nặng, chính Mã Cát đã cứu mạng hắn! Để giành được trái tim của Mã Cát A Mễ, hắn mới bất chấp tất cả: hắn chấm dứt chiến tranh, hòa đàm với Yaca; hắn không muốn lấy công chúa, vì vậy mới bày kế khiến nàng mù mắt; hắn muốn giành lấy ngôi báu, bất chấp mọi giá, những thứ này, đều là vì Mã Cát! Chỉ là không hiểu tại sao, hắn ta đã nhầm đội trưởng Hồ Dương là anh, người mà hắn muốn bất chấp mọi giá để giết cho bằng được, là anh đấy! Anh đã cướp đi thứ quý giá nhất của hắn ta, đó chính là trái tim của Mã Cát! Thứ ấy thì vĩnh viễn cũng không bao giờ trả lại được!”
Lời này của Nhạc Dương tựa như một tiếng sấm vang lên trong lòng tất cả những người có mặt tại đó. Tước Mẫu vương, Trương Lập, đều đứng ngẩn người ra tại chỗ. Tất cả đều đã được móc nối với nhau, không ngờ lại là như vậy, thậm chí cả bản thân Nhạc Dương cũng không dám tin đây lại là sự thực. Sở dĩ trước nay anh không bao giờ nghĩ đến khả năng này, là bởi thực tình anh không tài nào có thể liên tưởng hình tượng của Quách Nhật Niệm Thanh với vị vương tử trong câu chuyện cổ tích ấy. Trương Lập bần thần ra một lúc lâu, rồi đột nhiên hét lên: “Đội trưởng Hồ Dương! Đội trưởng Hồ Dương…” Vừa hét, anh vừa lao về phía gian phòng quàn đội trưởng Hồ Dương.
“Trương Lập!” Nhạc Dương cuống quýt gọi, nhưng Trác Mộc Cường Ba đã ngăn lại: “Đừng đuổi theo, để cậu ấy yên tĩnh một lúc.”
Nhạc Dương nói với Trác Mộc Cường Ba: “Cường Ba thiếu gia, việc Quách Nhật Niệm Thanh giết chết đội trưởng Hồ Dương, sợ rằng còn có một tầng ý nghĩa nữa. Hắn ta muốn kích cho chúng ta nổi giận. Nếu chúng ta vì phẫn nộ mà không chữa mắt cho công chúa Lạp Mẫu, thì vừa khéo đúng với ý đồ của hắn. Hắn ta muốn đẩy quan hệ giữa chúng ta và Tước Mẫu vương nằm mấp mé bên bờ sụp đổ, hừ… đây mới thực sự là sách lược của một nhà âm mưu, giống như đánh cờ vậy, mỗi bước đều đã tính toán hết sức tỉ mỉ kỹ lưỡng rồi.”
Trác Mộc Cường Ba ngẩn người ra nhìn Nhạc Dương, nếu không có anh chàng này, e là không ai có thể nghĩ xa đến vậy. Lúc này, Tước Mẫu vương vội vàng lên tiếng: “Đại Địch ô, vậy ngài xem, bao giờ thì đi xem…”
Trác Mộc Cường Ba thầm thở dài một tiếng, suy nghĩ đầu tiên hiện lên trong đầu gã là, không thể để âm mưu của Quách Nhật Niệm Thanh thành công được, gã bèn nói với pháp sư Tháp Tây: “Pháp sư.”
Pháp sư Tháp Tây gật đầu: “Đi thôi, đưa tôi đến gặp công chúa.”
Trong căn phòng đá đèn đuốc sáng trưng, công chúa Lạp Mẫu ngồi bên mép giường, pháp sư Tháp Tây đang kiểm tra cho nàng, Đại Địch ô Thứ Kiệt cũng ở bên cạnh. “Bệnh mù sông.” Trên đường quay về Tước Mẫu, pháp sư Tháp Tây đã nghe Lữ Cánh Nam kể về bệnh tình của công chúa, giờ chẳng qua là khẳng định thêm một lần nữa mà thôi. Ông cũng sử dụng máy siêu âm ba chiều.
Đại Địch ô Thứ Kiệt nói: “Có cách gì không?”
Pháp sư Tháp Tây hỏi: “Nghe nói chỗ các vị còn giữ được các công cụ của bộ tộc Qua Ba để lại?”
Đại Địch ô Thứ Kiệt gật đầu: “Đúng thế.”
Pháp sư Tháp Tây liền nói: “Đưa tôi đi xem.”
Khi Đại Địch ô Thứ Kiệt mở gói công cụ ấy ra, hai mắt pháp sư Tháp Tây sáng bừng lên. Ông cẩn thận đưa tay vuốt nhẹ lên từng món một, hạ giọng thì thầm: “Hơn một nghìn năm rồi, vậy mà vẫn còn giữ được hoàn hảo thế này. Đây là một bộ Đại diễn man khí, tổng cộng có ba trăm mười ba món, giờ đây trên thế gian chỉ sợ không còn bộ dụng cụ nào hoàn chỉnh được như vậy nữa đâu. Tốt quá, bệnh của công chúa có thể chữa khỏi rồi!”
“Pháp sư, ngài nói đây là dụng cụ phẫu thuật ạ? Dùng những thứ này để làm phẫu thuật cho công chúa Lạp Mẫu sao ạ?” Đường Mẫn vẫn không dám tin những thứ đáng sợ trước mắt này lại là dụng cụ để phẫu thuật.
Pháp sư Tháp Tây mỉm cười nói: “Đúng vậy, đây là bộ dụng cụ phẫu thuật hoàn chỉnh nhất mà tôi biết, đừng nhìn hình dạng cổ quái kỳ dị của chúng, kỳ thực mỗi loại tạo hình đều có công dụng riêng. Có thể nói, chúng còn đầy đủ hơn các bộ dụng cụ phẫu thuật thường thấy trong y học hiện đại nhiều. Người nào thực sự biết cách sử dụng, cầm những thứ này, sẽ thấy tiện lợi hơn hẳn các loại dụng cụ phẫu thuật hiện đại. Các loại dụng cụ hiện đại bây giờ đại để chia thành từng nhóm như dao, kéo, kìm, nhíp, kẹp, móc, kim, cưa và loại hỗn tạp, còn dụng cụ của nền y học Tây Tạng cổ xưa lại phân loại dựa trên ba nguyên tố lớn của cơ thể người. Nói theo lý luận của y học ngày nay thì đại để chia làm các loại: chọc, mổ và thăm dò. Thứ Kiệt đại nhân, ngài còn nhớ danh xưng của chúng chứ?”
Đại Địch ô Thứ Kiệt gật đầu, nói: “Tuy không biết cách dùng, nhưng tên gọi thì vẫn nhớ được.”
Pháp sư Tháp Tây nói: “Tốt quá rồi, tôi đang cần một trợ thủ như ngài đây. Cánh Nam và Mẫn Mẫn, hai người có thể đứng một bên quan sát.”
Lữ Cánh Nam hỏi: “Làm phẫu thuật ngay bây giờ ạ?”
Pháp sư Tháp Tây gật đầu: “Ừm, hình ảnh siêu âm ba chiều lúc nãy cho thấy, khối u không chỉ đè lên thần kinh thị giác, mà còn có nguy cơ bị vỡ ra, chậm một phút, cũng có khả năng khiến công chúa mãi mãi mất đi ánh sáng, bại liệt hoặc thậm chí là tử vong.”
“Đợi chút đã!” Lúc này, Nhạc Dương chợt lên tiếng: “Tằm diên ở đâu?”
Đại Địch ô Thứ Kiệt đưa mắt nhìn Tước Mẫu vương. Tước Mẫu vương vội nói: “Ở trong kho của bản vương.”
Nhạc Dương hỏi: “Việc bảo quản tằm diên có cần điều kiện đặc thù gì không?”
Đại Địch ô Thứ Kiệt lắc đầu đáp: “Không, chúng đã được đóng trong vại kín, không cần điều kiện đặc thù gì.”
“Vậy thì tốt, lấy tằm diên ra đây đã. Tôi mong rằng sau khi phẫu thuật cho công chúa xong, Cường Ba thiếu gia cũng có thể được trị liệu ngay lập tức.” Nhạc Dương nói.
Tước Mẫu vương lại rốt rít gật đầu: “Phải, phải, nên như thế, nên như thế, để ta lập tức bảo người đi lấy.”
“Tôi cũng đi.” Nhạc Dương lại nói.
Thấy Trác Mộc Cường Ba nhìn mình với ánh mắt kỳ quái, Nhạc Dương liền nhún vai nói: “Chúng ta phải đi trước đối phương một bước, đề phòng bất trắc.” Trác Mộc Cường Ba bấy giờ mới hiểu, liền gật đầu.
Pháp sư Tháp Tây nói: “Mọi người lập tức chuẩn bị phòng ốc, mấy loại thuốc này, cũng phải mau mau phối chế…”
Đại Địch ô Thứ Kiệt vừa nghe liền hiểu ra ngay: “Tôi biết rồi, người hầu sẽ xử lý.”
Pháp sư Tháp Tây lại nói: “Nhớ rõ, bảo với người hầu, phòng ốc phải hun đốt trước.” Nói đoạn, ông quay sang Tước Mẫu vương: “Ngài bảo công chúa chuẩn bị một chút, mấy thứ thuốc này phải sắc ngay để công chúa sử dụng.” Dứt lời, pháp sư lại dặn Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn: “Ba lô của chúng ta cũng phải chuyển vào trong phòng, hai người đi với họ một chút.” Kế đó, ông bảo bọn Trác Mộc Cường Ba: “Giúp họ một tay, lấy dụng cụ ra.”
Nhạc Dương đi theo mấy tên hộ vệ xuống kho ngầm, liền gặp ba bốn binh sĩ đang vác một cái vại lớn bước lên. Nhạc Dương liền hỏi: “Cái gì thế?”
Tên hộ vệ bước lên hỏi mấy gã binh sĩ, một gã trả lời: “Vừa nhận được lệnh của đội trưởng, quốc vương cần dùng tằm diên, bảo chúng tôi đến lấy.”
Tên hộ vệ ấy còn định nói gì đó nữa, nhưng Nhạc Dương đã ngăn lại: “Khỏi phải tranh chấp, cứ bảo với họ, quốc vương sai chúng ta đến lấy, bọn họ có thể trở về vị trí của mình được rồi.”
Mấy tên hộ vệ gánh lấy cái vại, Nhạc Dương lại hỏi: “Bên trong là tằm diên à? Các ngươi chắc chắn chứ?” Cả mấy người đều tỏ vẻ khẳng định. Nhạc Dương kiểm tra niêm phong trên miệng vại, thấy hết sức chắc chắn, thời gian cũng đã lâu, mà đám hộ vệ có vẻ cũng phải rất gắng sức mới gánh được, bấy giờ anh mới thở phào nhẹ nhõm, nói: “Khiêng đi tìm Đại Địch ô Thứ Kiệt.” Nói đoạn, trong lòng thầm nhủ: “Nguy hiểm quá, sém chút nữa thì bị đối phương giành trước rồi.”
“Dao cắt mạch…”
“Dùi xương…”
“Kìm mỏ vịt…”
“Kìm mỏ âu…”
“Tước vĩ đao…”
Từng cái tên xưa nay chưa từng được nghe nói đến bao giờ thốt ra khỏi miệng pháp sư Tháp Tây, Đại Địch ô Thứ Kiệt lập tức đưa ra một món công cụ hình dáng kỳ quái. Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam chưa bao giờ thấy thủ thuật như vậy, mỗi món công cụ đều thật kỳ dị, nhưng trong tay pháp sư Tháp Tây, chúng lại trở nên linh hoạt vô cùng. Hai người kinh ngạc phát hiện, thì ra những hình dáng kỳ quái ấy lại có công dụng đặc biệt như thế, mở hộp sọ, thăm dò tổ chức não, chia nhỏ, lấy khối u ra. Bàn tay pháp sư Tháp Tây tựa như đầu bếp mổ trâu[ii] , có thêm những món công cụ này lại càng chẳng khác nào hổ mọc thêm cánh.
Ban đầu, thảo dược dùng để ngâm dụng cụ, sau đó dùng lửa đốt, gian phòng được xông hơi cũng đạt đến một mức độ diệt khuẩn nhất định, còn công chúa uống thuốc vào xong, liền rơi vào trạng thái ngủ sâu. Pháp sư Tháp Tây dùng kim châm định huyệt, kế đó bắt đầu tiến hành phẫu thuật. Dưới sự trợ giúp định vị của máy siêu âm ba chiều, gần như không tốn mấy thời gian, pháp sư Tháp Tây đã lấy ra được mấy khối u hạch trong hộp sọ công chúa, rồi khâu lại và băng bó, còn các khối u ở những phần khác trên cơ thể, ông có thể dùng thuốc để làm tiêu đi.
Khi pháp sư Tháp Tây báo với Tước Mẫu vương, con gái ông ta sau mấy ngày nữa sẽ có thể dần dần hồi phục thị lực, vị quốc vương già ấy mừng đến nỗi suýt chút nữa thì ngất xỉu tại chỗ. Tiếp sau đây, sẽ đến lượt Trác Mộc Cường Ba giải độc Đại thanh liên cổ. Để khỏi đêm dài lắm mộng, bọn Nhạc Dương đều khăng khăng đòi lập tức tiến hành trị liệu ngay cho gã.
Lữ Cánh Nam lo lắng nói: “Có cần nghỉ ngơi một lát không? Đại Địch ô Thứ Kiệt có vẻ hơi mệt rồi.” Cô biết, trong một cuộc phẫu thuật mở hộp sọ thế này, tinh thần của cả người thực hiện phẫu thuật và trợ thủ đều căng thẳng cực độ, cường độ hoạt động của họ tuyệt đối không kém gì tiến hành một cuộc đấu đối kháng tay đôi trong cùng một khoảng thời gian như thế cả.
Đại Địch ô Thứ Kiệt nói: “Ừm, không sao, thực ra giải độc Đại thanh liên cổ không hề phức tạp, quan trọng nhất là phải dùng tằm diên để tẩy huyết, không có tằm diên thì không thể làm gì được.” Ông gọi một người hầu đến, dặn dò mấy câu. Đám người hầu lại chạy đi chuẩn bị. Trong lúc đó, Đại Địch ô Thứ Kiệt nói với Trác Mộc Cường Ba: “Mời đi theo ta, Cường Ba thiếu gia.”
Cả bọn đi theo Đại Địch ô Thứ Kiệt đến một gian phòng bằng đá khác, chỉ thấy mấy người hầu đã ở trong đó bận rộn sửa soạn các thứ. Họ mang những thùng gỗ chứa đầy thảo dược đi đun nóng để xông hơi, chuẩn bị tiêu độc diệt khuẩn. Nhưng bọn Trác Mộc Cường Ba thì lập tức chú ý đến vật thể hình chữ nhật khổng lồ màu trắng đặt chính giữa gian phòng. “Huyết trì!” Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc thốt lên.
Trước mắt, đích thực là một cái huyết trì, nhưng lại hơi khác với những huyết trì trước đây bọn Trác Mộc Cường Ba từng trông thấy. Chính giữa cái huyết trì đó, là một rãnh lõm hình chữ “đại”[iii] , vừa khéo đủ cho một người nằm, bên cạnh có mấy nhánh rẽ, trông như rãnh dẫn lưu. Những rãnh dẫn lưu này đều tụ lại ở một cái hốc hình vuông tương đối lớn, đầu bên kia lại có một máng chảy ra ngoài. Khoảng giữa những máng những rãnh này khá giống với các huyết trì khác, có nơi khoét lỗ, lại có chỗ cầu bắc ngang, khiến người ta không khỏi nghĩ đến những khu nhà vườn đẹp đẽ tinh xảo ở vùng Giang Nam, song lại cũng toát lên một thứ cảm quan thần bí.
“Đúng thế, giải độc vốn là một trong ba công năng chủ yếu của huyết trì.” Pháp sư Tháp Tây nói.
“Ba công năng chủ yếu của huyết trì?” Nhạc Dương lấy làm thắc mắc.
Pháp sư Tháp Tây nói: “Sau khi hệ thống huyết trì dần dần hoàn thiện, đã hình thành nên ba loại công năng lớn, lần lượt là phối chế chất độc, giải độc và mở khóa. Dựa trên những công năng khác nhau, tạo hình của huyết trì cũng khác nhau, loại có rãnh hình chữ “đại” ở giữa này, chính là mẫu huyết trì giải độc điển hình. Những huyết trì mà trước đây mọi người gặp phải, có lẽ đều thuộc hai loại mở khóa và phối chế độc được.”
Đại Địch ô Thứ Kiệt kiểm tra cái vại to ấy, rồi nói: “Ừm, đây là số tằm diên cuối cùng còn lại trong kho, dấu niêm phong trên này là do đích thân sư phụ của ta dán vào, thật không ngờ, sau sáu mươi năm, ta lại đích thân mở nó ra.” Nói đoạn, ông lại kiểm tra hết một lượt các thứ, rồi cất tiếng: “Được rồi, Cường Ba thiếu gia, mời nằm lên trên.”
“Hả!” Trác Mộc Cường Ba kinh hãi nói: “Cứ, cứ vậy mà nằm lên sao?”
Đại Địch ô Thứ Kiệt nói: “Ừm, dĩ nhiên, nếu cậu muốn tắm rửa thay quần áo trước cũng được, chẳng qua sẽ phải tốn thêm chút thời gian thôi.”
Trác Mộc Cường Ba lại đưa mắt nhìn huyết trì, mỗi lần trông thấy thứ này, họ đều không khỏi liên hệ nó với những gì tanh máu, tàn nhẫn và khủng bố, giờ đây lại bảo mình phải nằm lên trên đó, trong lòng cũng hơi có chút thấp thỏm không yên. Có điều, một chút lo lắng ấy cũng không đáng gì, gã chỉ thoáng do dự rồi để nguyên cả quần áo nằm lên trên đó. Cái rãnh hình chữ “đại” ấy cơ hồ như được thiết kế dựa trên tỷ lệ cơ thể người, chỗ hõm ở phần lưng hoàn toàn khớp với xương sống người, nằm lên không hề có chút cảm giác khó chịu nào. Nhưng liền sau đó, Đại Địch ô Thứ Kiệt lại mang ra một món vũ khí hạng nặng, bề ngoài thoạt trông như một khẩu đại liên hoặc súng phun nước cỡ lớn. Ở một đầu thứ ấy, rõ ràng chính là thứ đao rút máu đã từng ghim vào cơ thể đội trưởng Hồ Dương. Trác Mộc Cường Ba kinh hãi nhảy bật lên khỏi huyết trì, hỏi: “Ngài, ngài định làm gì?”
Đại Địch ô Thứ Kiệt dường như đã biết trước Trác Mộc Cường Ba sẽ có phản ứng như vậy, chỉ bình tĩnh nói: “Ta phải rút máu cho cậu. Máu không rút ra, thì làm sao rửa được đây?” Như để Trác Mộc Cường Ba yên tâm hơn, ông lại giải thích tỉ mỉ: “Yên tâm, biết được hôm nay các vị sẽ trở lại, ta sớm đã có chuẩn bị rồi. Thứ này đã được đun trong nước thuốc Ba la sôi già suốt mười hai canh giờ, sẽ không gây ra bất cứ ảnh hưởng xấu nào đến cơ thể cậu đâu.”
Nhạc Dương lẩm bẩm nói: “Cái trò rửa máu với chẳng giặt máu này rốt cuộc là như thế nào vậy?” Không ai trả lời, thoáng sau đó, anh lại khẽ nói: “Chẳng lẽ giống như giặt quần áo vậy à?”
Lữ Cánh Nam thấp giọng hỏi pháp sư Tháp Tây: “Pháp sư Tháp Tây, ngài không tự tay rửa máu cho Cường Ba thiếu gia sao?”
“Không, ta cũng chỉ mới đọc trong thư tịch cách xử lý Đại thanh liên cổ, dù sao cũng không thể bằng Đại Địch ô Thứ Kiệt đích thân thao tác. Có điều, ta nhìn ra được, Đại Địch ô Thứ Kiệt cầm chắc có thể thay máu cho Cường Ba thiếu gia. Nhìn bộ lưới đao liên hoàn mà ông ấy đang cầm kia kìa, công nghệ ngày nay sợ rằng cũng khó mà phục chế nổi đấy.”
Đường Mẫn lo lắng hỏi han: “Rốt cuộc là rửa máu như thế nào vậy?”
Pháp sư Tháp Tây nói: “Theo như sách vở ghi chép lại, một đầu đao trích máu kia nối liền với ống mềm bằng kim loại, đến khi tiến hành thủ thuật thì sẽ đâm mũi đao vào tĩnh mạch hoặc động mạch của Cường Ba thiếu gia… ít nhất thì trong sách tôi đọc không phân biệt tĩnh mạch hay động mạch; sau đó máu sẽ theo ống mềm bằng kim loại kia chảy vào cái hốc nhỏ này, rồi dùng đến loại sinh vật đặc biệt là tằm diên để rửa máu; ở phía bên kia cái hốc ấy cũng có một ống mềm bằng kim loại khác, cũng nối với đao rút máu. Đầu lưỡi đao ấy sẽ cắm vào một mạch máu khác của Cường Ba thiếu gia. Cả quá trình này khá giống với quá trình thẩm tách trong hóa học, nhưng xét về nguyên lý và thủ pháp lợi dụng sinh vật của nó thì sợ rằng phức tạp gấp bội phần.” Thấy Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn về phía mình, pháp sư Tháp Tây gật đầu nói: “Quá trình là như vậy đấy.”
Trác Mộc Cường Ba nghe pháp sư Tháp Tây giải thích cũng thấy yên tâm hơn nhiều, liền lại nằm xuống, phối hợp với Đại Địch ô Thứ Kiệt đặt chân tay vào cái rãnh hình chữ “đại” giữa huyết trì, lộ ra cả cánh tay trái, cảm thấy bên trái hơi cao, bên phải thấp hơn một chút. Chỉ nghe Đại Địch ô Thứ Kiệt nói: “Ta sẽ đâm đao trích máu vào mạch máu của cậu, hơi đau một chút, hãy cố chịu đựng.” Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu, liền ngay sau đó, gã cảm thấy chỗ khuỷu tay mình có thứ gì đấy đâm vào, có thứ gì đó bị đâm toạc ra, rồi thứ ấy vẫn tiếp tục luồn sâu, men theo cánh tay vươn đến tận vai mới dừng lại. Đại Địch ô Thứ Kiệt khẽ nói: “Thư giãn đi, coi như ngủ một giấc là xong!”
Trác Mộc Cường Ba thở dài một hơi, nhắm mắt lại. Mấy ngày nay gã thực sự rất mệt mỏi, nên chỉ thoáng chốc sau đã ngủ thiếp đi. Nhưng những người xung quanh đều không ngủ, trợn tròn hết cả mắt lên mà quan sát, chỉ thấy đầu lưỡi đao trích máu tựa như đầu kim từ tĩnh mạch cùi chỏ tay Trác Mộc Cường Ba vươn dài lên đến tận vai. Trên cánh tay Trác Mộc Cường Ba như thể có thêm một con giun lớn bò thẳng tắp. Đại Địch ô Thứ Kiệt chầm chậm rút đầu kia của lưỡi đao trích máu ra khỏi vật thể to đùng bằng kim loại ấy, quả nhiên đúng như pháp sư Tháp Tây nói, đầu bên kia của lưỡi đao trích máu nối liền với một ống mềm bằng kim loại màu vàng, nhỏ như đầu đũa. Ống mềm này do vô số sợi tơ mảnh đan xen móc vào nhau tạo nên, có vô số mắt lưới nhỏ li ti. Máu của Trác Mộc Cường Ba tựa như một con côn trùng nhuyễn thể màu đỏ sậm bò men theo từng ô lưới ra ngoài. Đại Địch ô Thứ Kiệt vừa cẩn thận kéo ống lưới kim loại ấy ra, vừa nhẹ nhàng ấn nó vào trong một cái rãnh đá nhỏ.
Nhạc Dương nói: “Thế này không sợ bị nhiễm bẩn sao?”
“Dĩ nhiên là không.” Pháp sư Tháp Tây đáp: “Máu sẽ không thấm ra khỏi ống kim loại ấy, điều này quyết định bởi độ kết dính và sức căng bề mặt chất lỏng. Thoạt nhìn những mắt lưới ấy có vẻ lớn, nhưng thực tế trong những mắt lưới đó lại có những sợi tơ kim loại mảnh hơn, mắt thường không thể phân biệt. Chúng giống như cái sàng, sàng lọc từng tế bào hồng cầu một, những tế bào hỏng hay đã chết đều sẽ bị phân giải một cách triệt để.”
Lúc này, ống kim loại đã được kéo đến gần cái hốc nhỏ bên trên huyết trì, Đại Địch ô Thứ Kiệt tiếp tục kéo thêm ống ra, chỉ có điều, đột nhiên ống kim loại trở nên to hơn, không còn là ống nữa mà là một tấm lưới kim loại. Đại Địch ô trải phẳng tấm lưới ấy ra phủ khắp cả cái hốc nhỏ, kế đó lại kéo thêm dây, tấm lưới lại biến thành ống mềm nhỏ dần, vòng vèo sang đến cánh tay bên kia của Trác Mộc Cường Ba. Đại Địch ô Thứ Kiệt không vội cắm một lưỡi đao trích huyết khác vào tay Trác Mộc Cường Ba, mà ra lệnh cho đám binh sĩ cạnh đó: “Nhấc vại lên!”
Cái vại to tướng được khiêng lên, Đại Địch ô Thứ Kiệt đập vỡ niêm phong, các binh sĩ nghiêng vại xuống, vô số hạt nhỏ màu đen đổ vào trong cái hốc ấy, đè lên lưới kim loại. Sau khi đổ hết một vại hạt đen đó, mấy người bọn Nhạc Dương mới phát hiện, những hạt đen này cỡ bằng hạt gạo, có từng vòng từng vòng vân ngang, phỏng chừng đây chính là nhộng của tằm diên rồi. Đại Địch ô Thứ Kiệt lấy ra một cái nắp lớn, có vẻ như định đậy lên phía trên cái hốc. Ông quay sang hỏi đám người bọn Nhạc Dương: “Có muốn xem không?”
Mấy người đều lắc đầu, thứ nhộng ấy, nhìn thế nào cũng dễ khiến người ta liên tưởng đến nhộng trứng của loài ruồi nhặng, chỉ là nhỏ hơn một chút mà thôi, có trời mới biết sắp sửa sẽ xảy ra chuyện ghê rợn gì nữa. Đại Địch ô Thứ Kiệt gật đầu: “Ừm, đậy nắp lên cũng tốt cho người được giải độc.” Nói đoạn, ông đặt cái nắp lên trên, máu của Trác Mộc Cường Ba chầm chậm chảy bên dưới cái nắp ấy.
Khi máu thấm đến gần mép hốc đá, chỉ nghe bên dưới nắp vang lên những tiếng “tách tách tách tách” không ngừng, tựa hồ có thứ gì đang nứt toác ra, liền ngay sau đó, tốc độ chảy của dòng máu cũng tăng lên. m thanh “tách tách” ấy cũng mỗi lúc một mau hơn. Chẳng mấy chốc, máu của Trác Mộc Cường Ba đã chạy theo ống mềm kim loại chảy ra từ phía bên kia của hốc đá. Điều khiến người ta kinh ngạc là, máu tĩnh mạch vốn màu đen sậm, sau khi chảy qua cái hốc ấy, liền trở nên đỏ tươi như máu trong động mạch vậy.
Không lâu sau, tiếng “tách tách” bên dưới cái nắp nhỏ dần, thay vào đó là âm thanh như thể có vô số con cá nhỏ đang quẫy trong làn nước, hoặc giả nói, giống âm thanh phát ra khi có vô số con cá trạch bỏ vào một cái thùng nhỏ thì đúng hơn. Tuy đã đậy nắp lên, nhưng qua chỗ khe hở trên mép vẫn có thể nhìn thấy vỏ nhộng màu đen bên dưới không còn nữa, tất cả đã biến thành những con sâu nhỏ trắng như ngọc. Bọn chúng vừa mới thức dậy sau giấc ngủ dài, tựa như cảm nhận được sức hấp dẫn từ máu của Trác Mộc Cường Ba, tranh nhau chui xuống bên dưới hốc đá, không con nào chịu nhường con nào.
Thiên táng
Đường Mẫn nhìn thấy cảnh tượng đó, không nhịn được cắn chặt môi dưới. Nhạc Dương thấp giọng hỏi: “Làm thế này, liệu Cường Ba thiếu gia có chết không nhỉ?”
“Suỵt…” pháp sư Tháp Tây nói: “Sắp thay máu rồi.”
Chỉ thấy một dòng máu đỏ tươi đã chạy qua ống kim loại mềm, Đại Địch ô Thứ Kiệt cầm lưỡi đao trích huyết còn lại đâm vào cánh tay bên kia của Trác Mộc Cường Ba. Máu tươi lập tức chảy theo đường ống, dòng máu đỏ sậm và dòng máu đỏ tươi cùng đổ về một chỗ. Khi ấy, dòng máu đỏ tươi kia tựa hồ biến thành một sinh vật có linh tính, liền thuận theo dòng máu đỏ sậm kia bò lên, từ từ chảy vào huyết quản của Trác Mộc Cường Ba.
“Hả?” Mấy người bọn Nhạc Dương đều thốt lên một tiếng kinh ngạc. Pháp sư Tháp Tây cũng nói: “Sự ảo diệu bên trong như thế nào thì tôi cũng không biết rõ, đại để là một loại hoạt tính sinh vật, có lẽ các tế bào hồng cầu sau khi rửa máu mang một loại điện tích khác với điện tích của tế bào hồng cầu trong tĩnh mạch chảy ra.”
Đại Địch ô Thứ Kiệt nhìn dòng máu đỏ tươi chảy vào cơ thể Trác Mộc Cường Ba, thở phào một hơi nói: “Được rồi, thanh tẩy khoảng một canh giờ là được. Đại thanh liên cổ sẽ bị giải trừ hoàn toàn.”
Trên thực tế, quá trình thanh tẩy ấy kéo dài gần hai canh giờ, người nào cũng hết sức mệt mỏi, nhưng ai nấy đều mở to mắt nhìn chằm chằm vào huyết trì. Ngược lại, kẻ đang phải rửa máu là Trác Mộc Cường Ba thì cứ ngủ say thiêm thiếp.
Cho đến lúc máu từ cánh tay bên phải của Trác Mộc Cường Ba chảy ra cũng biến thành màu đỏ tươi, Đại Địch ô Thứ Kiệt mới nói: “Được rồi, mọi người quay về nghỉ ngơi đi, ngày mai cậu ấy tỉnh lại, sẽ hoàn toàn như người bình thường. Sự thực là, cũng chưa hề xảy ra bất cứ thay đổi gì, đúng vậy không?” Ông rút hai lưỡi đao trích huyết ra, bôi chút thảo dược lên vết thương, máu liền nhanh chóng ngừng chảy. Trác Mộc Cường Ba vẫn nằm yên lặng, không có phản ứng gì.
Những người còn lại đưa mắt nhìn nhau nghi hoặc. Tới khi pháp sư Tháp Tây cất tiếng: “Mọi người về nghỉ ngơi đi, để tôi trông chừng Cường Ba thiếu gia,” tất cả mới tản ra đi theo các hộ vệ về phòng nghỉ ngơi. Đường Mẫn thì vẫn ở lại.
Nhìn Trác Mộc Cường Ba đang say ngủ, trong lòng Đường Mẫn chợt dâng lên một cảm giác ấm áp lạ thường. Có lúc, gã giống như là cha cô vậy, thân thể khôi vĩ cao lớn ấy cho cô cảm giác an toàn để dựa dẫm; đồng thời, gã cũng là một người chồng và một người tình tốt, sự ngọt ngào và ấm áp đó, chỉ có hai người yêu nhau mới cảm nhận được; còn bây giờ, gã lại giống như con trai cô vậy, đang say ngủ, cần cô chuyên tâm săn sóc và bảo vệ. Cảm giác ấy, thật là kỳ diệu xiết bao.
“Anh ấy sẽ khỏe lên, đúng không ạ?”
“Ừm.” Pháp sư Tháp Tây đáp: “Đương nhiên, đương nhiên cậu ấy sẽ khỏe lại.” Ông coi câu hỏi này chỉ như sự quan tâm của Đường Mẫn dành cho Trác Mộc Cường Ba, song không hề lưu ý đến sự chua chát ẩn giấu đằng sau nụ cười của cô. Nụ cười ấy, là nụ cười thê lương thường nở trên môi những người sắp phải ly biệt.
“Nhưng mà, đội trưởng Hồ Dương lại không thể quay về nữa rồi.” Vừa nghĩ đến đội trưởng Hồ Dương, vành mắt Đường Mẫn lại đỏ lựng lên.
Pháp sư Tháp Tây nói: “Đừng nên quá thương tâm, thân thể con người chẳng qua chỉ là cái vỏ da thịt, vô vi vô tướng, linh hồn cậu ấy sẽ đến được miền cực lạc tịnh thổ. Cậu ấy hẳn đã nhìn thấu được sân, si, vọng của đời người, nên mới có thể ra đi không hề đau đớn như thế.”
Đêm hôm ấy trôi qua một cách bình lặng. Không ai nhận ra, trong một góc nhỏ không hề nổi bật ở bình đài Tước Mẫu, có một thiết bị phát xạ laser không lớn hơn cái đinh mũ bao nhiêu, đang lóe lên những tia sáng đỏ, chớp chớp, tắt tắt.
Trong rừng, Max bị một tràng âm thanh “tít tít” làm giật mình thức giấc, y cúi nhìn chiếc nhẫn đặc biệt trên ngón tay mình, mừng rỡ thầm nhủ: “Tốt quá, thiết bị phát xạ tia laser thứ hai đã được khởi động. Mấy người bọn ông chủ sẽ xuống đây ngay thôi. Hừ, Trác Mộc Cường Ba, các người cứ chờ đấy xem.”
Trạm biên phòng nước N.
Merkin đột nhiên kêu lớn: “Soares! Có tín hiệu rồi!”
“Gì hả?” Soares ở trong phòng lao ra, thấy trên màn hình xuất hiện một điểm sáng, liền kích động cầm tay Merkin nói: “Cuối cùng cũng đợi được rồi!”
Merkin cũng không giấu nổi niềm vui trong lòng, mừng rỡ ra mặt: “Mau đi chuẩn bị, chúng ta chỉ có hai mươi bốn tiếng đồng hồ thôi.”
Trác Mộc Cường Ba tỉnh dậy, phát hiện ra Đường Mẫn đã ngủ thiếp đi trên ngực mình. Gã vừa tỉnh giấc, Đường Mẫn cũng lập tức giật mình tỉnh theo, vẻ mặt mệt mỏi nhưng vẫn gượng nở một nụ cười. Hai người cứ thế nhìn nhau một lúc thật lâu. Khoảnh khắc ấy, thời gian như dừng lại, trời đất cũng không còn tồn tại, phảng phất như cả thế gian này chỉ còn có nhau. Ánh mắt ấy, đã chất chứa tất thảy mọi tình cảm họ dành cho nhau, cả hai đều sẵn lòng cứ nhìn nhau mãi thế này, cho đến vĩnh hằng vĩnh viễn.
“Anh ngủ bao lâu rồi?” Trác Mộc Cường Ba vuốt tay qua làn tóc mềm mại của Đường Mẫn.
“Một đêm rồi.” Đường Mẫn cúi người xuống, lắng nghe nhịp tim của Trác Mộc Cường Ba, nũng nịu hỏi: “Cảm giác bây giờ có khác gì không?”
“Ừm, cảm giác à…” Trác Mộc Cường Ba vừa luồn tay qua tóc Đường Mẫn, vừa ngước nhìn lên trần nhà: “Cảm giác rất lạ, anh cảm thấy mọi thứ quanh mình đều thay đổi, nhưng lại không thể nói ra rốt cuộc là có gì khác biệt so với trước đây.”
“Đáng ghét!” Đường Mẫn khẽ đập tay lên lồng ngực Trác Mộc Cường Ba.
Nghe Đường Mẫn nhắc nhở, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên phát hiện ra, đúng vậy, đúng là có gì đó khác biệt, cảm giác đó như thế nào nhỉ? Trong không khí có gió đang cuộn chảy, hơi thở phả ra từ mũi Mẫn Mẫn làm dòng chảy ấy rối loạn, thậm chí gã còn cảm giác được dòng không khí đó đang chảy qua trên bề mặt da mình nữa? Vết tích. Bàn tay cô đang đung đưa trên ngực gã, gã thậm chí còn nắm được một cách rõ ràng quỹ tích của bàn tay nhỏ nhắn ấy mỗi lần nhấc lên hạ xuống. Nhịp tim của gã chầm chậm, mà có quy luật, dường như ngầm theo một tiết tấu nào đó, mỗi lần đều hết sức quy chuẩn, nhịp đập tự nhiên mà mạnh mẽ. Mẫn Mẫn khẽ áp má vào ngực gã, làm lồng ngực ấy sao mà ấm áp, nhưng trong sự ấm áp ấy lại có một tia lành lạnh, gì vậy nhỉ? Hình như là nước.
“Em lại khóc à?” Trác Mộc Cường Ba hơi ngẩng đầu lên, vạt áo trước ngực quả nhiên đã bị nước mắt thấm đầy một mảng lớn, cảm giác này thật hết sức kỳ quái, trước đây gã tuyệt đối không thể nào nắm bắt được mọi thứ rõ ràng như vậy được.
“Chẳng phải tại anh hết à!” Đường Mẫn lấy móng tay vạch vạch trên ngực Trác Mộc Cường Ba qua lần áo, hai mắt đột nhiên lại đỏ lựng lên, thì thào khẽ hỏi: “Nếu như, em chỉ nói nếu như thôi nhé, có một ngày, chúng ta không thể ở bên nhau…”
“Ngốc ạ, sao lại thế được?” Trác Mộc Cường Ba ngắt lời cô, đột nhiên, gã có cảm giác nét mặt Đường Mẫn không được ổn lắm, một dự cảm không lành bất giác hiện ra trong tâm trí.
“Bốp bốp!” dường như cảm nhận được Trác Mộc Cường Ba đã phát giác ra gì đó, Đường Mẫn đập mạnh hai cái lên ngực gã, giận dỗi nói: “Mau dậy đi, để mọi người còn biết anh không sao rồi.” Cô ngập ngừng giây lát, rồi lại nói: “Hôm nay, cử hành nghi thức thiên táng cho đội trưởng Hồ Dương.”
Trác Mộc Cường Ba ngồi dậy, nghiêm nghị gật đầu: “Anh biết rồi.”
“Vậy chúng ta đi thôi, cậu có đi được không?” pháp sư Tháp Tây chợt lên tiếng.
“Pháp sư Tháp Tây, sao ngài lại ở đây?” Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc thốt lên.
Pháp sư Tháp Tây mỉm cười: “Từ nãy giờ tôi vẫn ở đây mà.”
Trương Lập từ lúc biết chuyện đến giờ luôn ở trong gian phòng nhỏ quàn di thể của đội trưởng Hồ Dương. Xác đội trưởng Hồ Dương được nắn thành tư thế thai nhi trong bụng mẹ, hai tay ôm trước ngực, cằm chạm đầu gối, bên ngoài bọc một lớp lụa trắng, tựa như một cái kén hình người. Cả gian phòng trống huếch trống hoác, không có cả một gợn gió nhỏ, không thắp hương thắp nến, không đốt giấy tiền vàng mã, một sự trống rỗng u không bao trùm. Nơi này dường như đã hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài, bầu không khí âm ẩm khiến người ta có cảm giác rằng, đây là ranh giới giữa vùng đất của người sống và cõi chết. Trương Lập cứ thế ngồi bên cạnh xác đội trưởng Hồ Dương, từng cảnh tượng, từng câu chuyện nhỏ khi người đàn ông râu rậm này ở bên mọi người, tiếng cười hào sảng thoải mái ấy, giọng nói thô lỗ mạnh mẽ ấy, giờ đây nhớ lại, sao mà thân thiết đến vậy…
Bất giác, bầu trời sáng bạch, ánh sáng qua bốn tấm kính tròn trên đỉnh đầu khúc xạ xuống tụ lại trên lớp vải trắng, tựa như bọc thân xác đội trưởng Hồ Dương trong một quầng sáng trắng mỏng mảnh. Phải chăng, đúng như tất cả những người ở Tước Mẫu này nói, linh hồn đội trưởng Hồ Dương vẫn còn nằm lại bên trong lớp vải trắng ấy?
Gió, lặng lẽ phất qua mặt đất mênh mang, bầu không màu xám xịt thấp thoáng hiện ra vài vạt khói mờ, mưa nhỏ tí tách tí tách từng giọt một, Shangri-la dường như cũng đang đổ lệ.
Một đoàn người khiêng di thể đội trưởng Hồ Dương, bước trên con đường rải đá dăm nện chặt, không có tiếng nhạc ồn ĩ, cũng không có tiếng chim rừng hót vang, thời không lặng lẽ tựa một tấm gương, ngưng đọng, phản xạ ra những cảnh vật khác nhau.
Một kiến trúc nhân tạo khổng lồ lấp ló hiện ra phía đằng xa, càng đến gần, càng thấy nó kỳ vĩ, khiến người ta không khỏi có cảm giác bị đè nén. Nhạc Dương trầm mặc một thoáng, rồi không nén nổi, cất tiếng phá vỡ bầu không khí tĩnh lặng, thấp giọng thì thào: “Đài cô lâu!”
Xuất hiện trước mắt họ, là một đống xương trắng… chính xác hơn, là một vật thể hình dạng như kim tự tháp của người Maya, được xếp bằng xương đầu lâu người, xung quanh dùng đất sét kết dính lại, vuông vắn quy chuẩn, mỗi bậc thang đều do vô số đầu lâu xếp thành hàng thành lối mà nên. Những bộ răng hết sức hoàn chỉnh còn nguyên trên xương hàm trên hàm dưới, hốc mắt trống rỗng im lìm chăm chú nhìn về nơi xa xăm. Mỗi chiếc đầu lâu đều có hình thái khác nhau, có chiếc như đang thì thầm rủ rỉ, có chiếc lại như thể trầm mặc suy tư, nhiều hơn, là những chiếc tựa hồ đang quan sát và dò xét bọn họ, đám người xa lạ.
Đến rồi, Tước Mẫu vương khẽ hạ lệnh, liền có mấy hộ vệ cường tráng chuẩn bị đón lấy di thể của đội trưởng Hồ Dương, nhưng Trương Lập nói gì cũng nhất quyết đòi đưa tiễn đội trưởng Hồ Dương đến tận phút cuối cùng. Tước Mẫu vương quay sang nhìn pháp sư Á La với ánh mắt khó xử, pháp sư bèn nói với Trương Lập, theo quy củ từ thời xưa, khi cử hành nghi thức thiên táng, người ngoài không được phép đứng bên quan sát. Trương Lập không chịu, một mực nhất quyết đòi đích thân đưa di thể đội trưởng Hồ Dương lên đài. Tước Mẫu vương do dự một hồi lâu, cuối cùng miễn cưỡng đồng ý, nhưng cũng không chịu để những người khác lên theo. Pháp sư Á La phải làm công tác tư tưởng với những người còn lại, ông bảo, đây tuyệt đối không phải Tước Mẫu vương có ý làm khó, mà ngược lại, điều này thể hiện cho sự tôn kính với người chết và các vị thần linh trên trời. Vả lại, toàn bộ quá trình thiên táng, không chỉ đơn giản là khiến tâm trạng người ta cảm thấy nặng nề đau đớn, người bình thường thậm chí còn không thể nào chịu đựng nổi việc đứng bên quan sát quá trình ấy.
Mấy tên hộ vệ khỏe mạnh thay thế cho đám người Trác Mộc Cường Ba, đi theo hai người đàn ông cao lớn tay cầm những dụng cụ quái dị, một người mặc áo đen cũng bước đi theo sau. Pháp sư Á La nói, đó là người giải phẫu và Triệu hoán sư, rồi giải thích thêm, Triệu hoán sư là một chức nghiệp tách ra từ Thao thú sư, chỉ có điều, năng lực thấp hơn Thao thú sư nhiều lắm.
Sau khi bóng hình bọn họ biến mất trên đỉnh đài cô lâu, mọi người bèn lặng lẽ chờ đợi bên dưới. Tước Mẫu vương cũng ở đó đợi cùng.
Thời gian chầm chậm trôi đi, không biết bao lâu sau, mới nghe trên bầu không vang lên một tiếng hú, cao vang réo rắt, tiếng kêu ấy nhanh chóng vẳng đi xa tít tắp. Ngẩng đầu nhìn lên, trong đám mây mù trên bầu không ngoằn ngoèo hình rắn, một đàn chim không rõ tên ào ào bay đến. Chúng phát ra những tiếng kêu như thể tiếng đàn không hầu[iv] , trên đầu có lông ngũ sắc, toàn thân trắng như tuyết, thể hình lớn hơn quạ nhưng nhỏ hơn chim ưng. Bọn chúng đảo lượn bên trên bình đài, thoạt trông tựa như một áng mây phiêu dạt. Trong giây lát, chúng đã tụ lại thành hình một cây cột, con chim đầu đàn dẫn cả đàn bay thành hình xoắn ốc, chầm chậm hạ xuống đỉnh kim tự tháp xây toàn bằng đầu lâu ấy, cuối cùng thì đã chiếm lĩnh trọn cả phần đỉnh đài. Bốn bề lại trở nên tĩnh lặng, tựa hồ như một không gian bít kín, không có gió, không có nước chảy, mọi âm thanh đều im bặt, thậm chí cả không khí dường như cũng đông đặc lại.
Thời gian chầm chậm trôi từng giây từng phút, cuối cùng, không biết là người Triệu hoán sư kia hay con chim đầu đàn lại phát ra một tiếng kêu trong vắt. Cả đàn chim liền từ từ bốc lên cao như một áng mây. Đường bay của chúng, phảng phất như hình thành một đóa sen đang từ từ nở rộ, càng bay càng cao, cuối cùng hòa làm một với áng mây mù mịt trên cao, không còn thấy đâu nữa.
Tước Mẫu vương thở dài một tiếng, nói với mọi người, nghi thức đã hoàn thành, đỉnh đài cô lâu kia đã không còn là cấm địa. Chẳng kịp đợi Tước Mẫu vương nói dứt lời, Nhạc Dương đã xông lên trước tiên. Lúc lên đến nơi, chỉ thấy trên đỉnh đài cô lâu trống trơn, mấy người phẫu thuật thi thể và Triệu hoán sư đã rút cả xuống dưới, chỉ còn mình Trương Lập đứng lẻ loi trơ trọi ở đó. Đội trưởng Hồ Dương đã hoàn toàn biến mất, cả tấm lụa trắng bọc thi thể anh cũng không còn nữa. Bề mặt trên đỉnh đài cô lâu này không hiểu lát bằng loại đá gì, màu sắc trắng như sữa bò, sạch sẽ như thể một pho tượng ngọc mỡ dê được kỳ cọ cẩn thận mỗi ngày, không có một giọt máu, không có một chút xương, tất cả như một màn ảo thuật vậy.
Nhạc Dương bước đến bên cạnh Trương Lập sắc mặt đang tái nhợt, khẽ lắc lắc vai anh hỏi: “Đội trưởng Hồ Dương, đi rồi à?”
Không ngờ chỉ chạm khẽ một cái, Trương Lập đã gục vào vai Nhạc Dương như một con rối đứt dây, hướng về phía mép đài cô lâu, há hốc miệng nôn thốc nôn tháo, cùng với bãi nôn là nước mắt tuôn ra ào ào như suối. Nhạc Dương chỉ còn biết đỡ lấy thân hình Trương Lập, không để anh ngã xuống, trong lòng cũng dấy lên cảm giác đau đớn và chua xót khôn cùng.
Một hồi lâu sau, Trương Lập mới ngừng nôn, đưa tay quệt đi vết bẩn dính trên khóe miệng, nghẹn ngào nói: “Đội trưởng Hồ Dương, anh ấy đã hóa thành một đám mây, tôi… tôi tận mắt trông thấy rồi.”
Nhạc Dương không ngừng gật gật đầu. Anh thà tin rằng như vậy còn hơn.
Lúc này, bọn Trác Mộc Cường Ba cũng đã lên đỉnh đài cô lâu, trong mắt chỉ thấy một nơi thuần khiết, thiêng liêng, nghiêm trang, tựa như là nơi gần với trời cao nhất vậy. Sau cơn mưa, trời nắng lên, một dải cầu vồng bắc từ chỗ đài cô lâu này ra phương xa tít tắp, hai ba đóa mây trắng tha thướt ung dung nhẹ lướt dưới chân cầu. Mọi người đều nghiêm trang đứng nhìn nơi cầu vồng bắc tới kia, trong lòng tha thiết nhớ về người đàn ông râu rậm nói năng có phần hơi thô lỗ ấy.
Tròng mắt Nhạc Dương mở to, ở nơi cuối cầu vồng, dường như anh nhìn thấy hai con chim nhỏ, thấp thoáng ẩn hiện rồi nhanh chóng biến mất trong mây.
Max đang trốn chui trốn nhủi trong rừng như một con chuột chũi, cũng thò đầu ra khỏi tán cây, kinh ngạc thốt lên: “Hả? Cầu vồng?” Nhưng rồi chỉ thoáng sau đó, sự chú ý của hắn đã dồn vào hai chấm đỏ nho nhỏ đột nhiên xuất hiện trên màn hình thiết bị thông tín cá nhân. Hắn không sao đè nén nổi cảm giác mừng rỡ trong lòng, cẩn thận lần theo tín hiệu ấy, mỗi bước đi lại nhìn ngó xung quanh mấy lượt.
Trong mây mù, hai người nhảy dù vũ trang đến tận răng từ từ hạ xuống, họ không sử dụng dù dạng nấm, mà là loại dù động lực trông như một tấm ván lướt sóng khổng lồ, toàn thân kín mít, trên đầu đội mũ sắt tròn, thoạt nhìn trông như thể mặc đồ phi hành vũ trụ loại mỏng. Sau một loạt tiếng rẹt rẹt, giọng Merkin vang lên trong thiết bị liên lạc: “Khôi phục liên lạc được rồi, khá thật, tầng ngăn che tín hiệu điện tử này ít nhất cũng phải dày trên nghìn mét.”
Soares nói: “Phạm vi đám mây mù chết tiệt này che phủ còn lớn hơn, giữa ban ngày ban mặt, vậy mà chẳng nhìn thấy gì cả.”
Merkin nói: “Đừng nôn nóng, anh bạn già, cho đến lúc này, chẳng phải chúng ta vẫn khỏe mạnh bình yên đó sao? Chúng ta đã tới Shangri-la rồi, vùng đất thần bí này đã mở rộng cánh cửa đón chúng ta tiến vào trong nó. Ồ, xem kìa, đã bắt được tín hiệu với thiết bị phát sóng gắn trong người thằng Max rồi đây này.”
Soares nói: “Hả? Hình như từ chỗ nó đến điểm rơi chúng ta định trước còn cách một quãng khá xa.”
Merkin nói: “Chậc chậc, xem ra người bạn mới này chọn cho chúng ta một nơi nguy hiểm rồi, đi, đến chỗ thằng Max.” Dứt lời, y liền giật dây thừng một cái, chiếc dù động lực liền thay đổi phương hướng.
Soares bất mãn nói: “Anh cũng to gan thật, không ngờ lại dùng cách này để khảo nghiệm xem kẻ mới gia nhập với chúng ta kia có thể làm được đến đâu, anh không sợ hắn sẽ bán đứng toàn bộ chúng ta hay sao?”
Merkin cười cười nói: “Yên tâm đi, đây chỉ là một cuộc trắc nghiệm nhỏ rất đơn giản thôi mà, huống hồ hắn ta cũng hiểu, cho dù hắn không làm vậy, chúng ta cũng có cách khác đến được nơi này, tôi có chuẩn bị rồi.”
Soares khẽ “hừ” một tiếng, đột nhiên dây dù căng ra: “Chuyện gì vậy?”
Merkin nói: “Dòng khí lưu hỗn loạn! Chết tiệt, tôi ghét nhất là cái thời tiết này!”
Max kinh ngạc nhìn hai chấm nhỏ di động trên màn hình, khoảng cách của chúng và hắn mỗi lúc một xa hơn, trong lòng lấy làm lạ thầm nhủ: “Ông chủ làm sao vậy nhỉ?” Nghĩ đến tính cách đa nghi của Merkin, Max không khỏi giật thót mình, vội vàng đuổi theo phương hướng của hai chấm đỏ ấy.
Liên minh
Trong rừng.
Soares vò chiếc dù động lực thành một đám, bật nút khởi động thiết bị tự hủy, chiếc dù liền bốc lên một ngọn lửa màu xanh nhàn nhạt, rồi nhanh chóng hóa thành đống tro tàn, mắt thường khó có thể nhận ra một làn khói đen mỏng mảnh bốc lên. Kế đó, y ngẩng đầu lên nói: “Có thấy gì không, Ben?”
Dù của Merkin mắc vào cây gỗ lớn, y hạ chiếc ống nhòm xuống, nói: “Xem ra chúng ta cách điểm đáp dự định không xa lắm, tôi thấy một khu vực có dấu hiệu con người hoạt động, có vẻ như là di tích.”
“Có người nào không?”
“… không thấy.”
“Tôi cảm thấy có gì đó đang tiếp cận chúng ta, xuống đây trước đã.”
Merkin giật dây dù, cả người rơi xuống từ độ cao năm chục mét, trước khi chạm đất lộn nhào mấy vòng, rồi an nhiên đứng dậy. Y phủi phủi bụi đất bám trên người, đọc mấy số liệu hiện trên mũ trùm đầu, rồi gỡ cái mũ ấy xuống, hít sâu một hơi: “Xem ra, không khí ở đây tốt hơn chúng ta tưởng tượng nhiều!”
Soares nhếch mép một cái, coi như là cười. Lúc này, chiếc dù động lực trên tán cây cũng tự động bốc lửa, tro bụi màu trắng rơi xuống lả tả. Hai người cởi bỏ bộ quần áo ngoài nặng nề, lộ ra quân phục ngụy trang rằn ri và ba lô, nhanh chóng rời khỏi vị trí vừa đáp xuống.
Mới đi được chưa đến năm trăm mét, Soares đột nhiên dừng phắt lại, nói với Merkin: “Hình như chúng ta bị phát hiện rồi?”
Merkin mỉm cười, cũng không thấy y có động tác gì, trong chớp mắt đã rút từ hai bên ba lô ra hai khẩu Glock 18 có gắn ống giảm thanh, nói: “Hy vọng bọn chúng hữu hảo một chút.” Dứt lời, cổ tay lắc nhẹ, hai khẩu súng lục đã biến mất bên trong tay áo.
Đi được mấy bước, Soares lại nói: “Các bạn đến rồi!” Chỉ thấy, trên cây, trong bụi, đằng sau mấy tảng đá đều lộ ra bóng dáng các binh sĩ Tước Mẫu. Họ để trần thân trên, tay cầm vũ khí, vây Merkin và Soares vào giữa, một người trong bọn lớn tiếng quát lên: “Người Giáp Mễ, các ngươi từ đâu đến?”
Merkin nheo mắt nhìn một lượt, không nén nổi buột miệng kêu lên: “Lao ném, cung tên, rìu? Lẽ nào đây là vũ khí của bọn chúng sao? Không đến nỗi lạc hậu như vậy chứ? Hoàn toàn không tương xứng chút nào với quy mô của di tích lúc nãy tôi vừa trông thấy, lẽ nào là đám dã nhân trong rừng thôi?”
Soares nói: “Nghe xem hắn nói cái gì vậy.”
Người vừa quát lên ấy lại hỏi tiếp: “Các ngươi có phải cùng một bọn với Trác Mộc Cường Ba không?”
Merkin chau mày hỏi: “Ờ, hắn nói… nói là…” Y đột nhiên quát lại gã binh sĩ Tước Mẫu vừa lên tiếng ấy: “Mày có biết tiếng Anh không?”
“Ngươi nói gì? Có phải nói tiếng Lạc Ba[v] không vậy?”
“Tiếng Pháp? Tiếng Đức? Tiếng Hán có biết không?”
“Rốt cuộc ngươi đang nói gì vậy? Lẽ nào cả tiếng Mộc Nhĩ Mễ[vi] các ngươi cũng không biết nói à?”
“Chẳng lẽ chúng mày không có phiên dịch à?”
“Trên lưng các ngươi đeo cái gì đó? Mau bỏ xuống!”
“Lũ dã nhân chết tiệt, cút về, tao không nói chuyện với người không biết tiếng Anh!”
“Chưa bao giờ ta gặp người Giáp Mễ nào lỗ mãng như ngươi, đến cả tiếng Phổ Nhĩ là thứ tiếng cơ bản nhất ngươi cũng không biết! Ê, các ngươi có nghe thấy ta nói gì không vậy? Cái bọc, cái bọc, bỏ xuống!”
Hai người cứ đứng đó dùng các loại ngôn ngữ giao lưu theo kiểu râu ông nọ cắm cằm bà kia như thế một lúc.
Cuối cùng, gã binh sĩ Tước Mẫu cũng không nhẫn nhịn nổi nữa: “Đứng yên ở đó, ta đến đây!”
Merkin nói bằng tiếng phổ thông: “Tốt nhất mày nên giữ khoảng cách với tao thì hơn!” Thấy gã binh sĩ ấy nghe mà làm lơ, y liền quay sang nhoẻn miệng cười với Soares: “Giao lưu thất bại rồi…”
Soares bực tức nói: “Tôi tưởng anh biết tiếng Tạng cổ cơ mà.”
Merkin gượng cười: “Nhưng bọn chúng không nói thứ tiếng mà tôi biết, cũng may, còn một loại ngôn ngữ có thể dùng chung cho toàn thế giới.”
Soares trừng mắt lên nhìn y một cái. Nụ cười trên gương mặt Merkin biến mất, giọng nói trở nên lạnh lùng: “Ngôn ngữ cơ thể!” Dứt lời, hai tay đã vung mạnh một cái, hai khẩu súng lục lập tức xuất hiện như có ma thuật, kế đó, hai tay y giơ ngang, giao nhau trước ngực, tia lửa của những viên đạn vẽ trên không trung một đường cong cánh quạt hoàn mỹ.
Đám binh sĩ Tước Mẫu đâu ngờ đối phương lại đột nhiên ra tay như thế, vũ khí trong tay vẫn còn chưa kịp phát huy công dụng thì đã lần lượt trúng đạn, chỉ thấy tia lửa lướt qua đến đâu là có người ngã xuống tới đó, hoặc bị đạn bắn xuyên bả vai, hoặc đùi non tóe máu. Hai tay Merkin một trước một sau, thoắt trái thoắt phải, phạm vi di động cực lớn, phối hợp cùng với bước chân nhẹ nhàng khinh khoái, lúc thì như Tô Tần đeo kiếm, thoắt cái lại như đại bàng sải cánh, lúc lại đứng một chân xoay tròn như diễn viên ba lê. Chớp mắt một cái, khẩu súng trên tay trái đã biến mất, kế đó lại thò ra dưới nách bên phải, giở ra một chiêu “ngoảnh đầu ngắm trăng”, tức thì có người ngã xuống theo tiếng súng.
Cặp mắt y dường như không để ý đến xung quanh, vậy mà đạn từ hai họng súng lại như có mắt bay đến các binh sĩ Tước Mẫu, cho dù nấp trên tán cây, trong lùm trong bụi hoặc đằng sau những tảng đá, nhất loạt đều ngã xuống. Nếu bọn Ba Tang mà nhìn thấy cảnh này, nhất định sẽ phải kinh ngạc trước thân thủ của Merkin, không chỉ là cách di động kỳ dị ấy, mà càng khó tin hơn nữa là, động tác của y thực sự rất giống với động tác của Trác Mộc Cường Ba thể hiện ở di tích trên vách đá. Tốc độ nổ súng nhanh đến khó bề tưởng tượng, góc độ nòng súng kỳ dị mà xảo diệu, chỉ khác một điều, Trác Mộc Cường Ba vẫn còn hơi trúc trắc, còn động tác của Merkin thì tự nhiên lưu loát như nước chảy mây trôi, hoàn toàn không có kẽ hở nào.
Sau khi tiếng súng ngừng hẳn, trong rừng chỉ còn lại một đám binh sĩ Tước Mẫu rên rỉ đau đớn. Merkin thổi thổi lên ống giảm thanh của hai khẩu súng, bàn tay xòe ra gập vào, súng đã biến đâu mất. Y nhìn đám binh sĩ đang lăn lộn xung quanh mình, dường như lấy làm vừa ý. Soares lại bất mãn nói: “Sao không giết bọn chúng đi cho rồi.”
Merkin nói: “Như vậy sẽ giữ được vận may của tôi.”
Soares giở giọng châm biếm: “Đã thấy anh may mắn bao giờ đâu.”
Merkin chau mày nói: “Vẫn còn sót à?” Tay phải liền vung lên, một họng súng đã chĩa ra.
“Đừng… đừng nổ súng…” Merkin lấy làm kinh ngạc, kẻ ở trong lùm cây kia không ngờ lại nói tiếng Anh, tuy không được lưu loát cho lắm, nhưng tròn vành rõ chữ, phát âm đúng tiêu chuẩn. Merkin và Soares còn đang ngạc nhiên trước khả năng phát âm của đối phương, chỉ thấy bên dưới lùm cây, một người thấp lùn đầu tròn ung ủng nhảy ra.
“Đa Cát!” Mới thoạt nhìn, Merkin cũng hơi giật mình, nhưng y nhanh chóng phát hiện ra mình nhận lầm người. Kẻ này dường như cường tráng hơn Đa Cát một chút, nụ cười dồn lên gương mặt khiến y lại nghĩ ngay đến Max.
Người trọc đầu thấp lùn có tướng mạo hao hao giống Đa Cát này không lập tức lại gần Merkin, mà bước đến gần một binh sĩ Tước Mẫu nằm dưới đất, không nói một lời, nhanh chóng vung đao cắt đứt cổ họng, rồi cọ cọ lưỡi đao lên thi thể y cho sạch, đút trở lại vào vỏ, bấy giờ mới nở một nụ cười thoải mái đứng lên, gật gật đầu với những binh sĩ ở xung quanh.
Merkin và Soares nhìn hành vi của gã lùn này với ánh mắt kỳ quái, chỉ thấy y bước đến, trên mặt nở một nụ cười hơi có chút xun xoe, khiến người ta cảm thấy có thể thả lỏng mình ra được, không sai không lệch, vừa khéo dừng lại đúng bên ngoài phạm vi mà Merkin nắm chắc có thể hạ sát y bằng một phát súng. Gã lùn này vẫn dùng kiểu cách phát âm chậm rãi, có nhịp điệu, nhưng hết sức rõ ràng ấy nói: “Các vị khách tôn kính, ta, Quách Nhật Niệm Thanh, ở đây xin được dâng lên các vị một tấm lòng thành vô hạn.” Nói đoạn, y ôm vai cúi người xuống, không ngờ lại rất hợp với chuẩn mực của nghi lễ cung đình châu u. Liền sau đó, lại nghe thấy y nói tiếp: “Những kẻ nằm dưới đất này, đều là binh sĩ của ta, hoặc có thể nói, đều từng là binh sĩ của ta. Chúng là đội quân tinh nhuệ nhất của vương quốc Langbu này, xin ngài hãy thứ tội mạo phạm của chúng, xin ngài hãy tha cho tính mạng nhỏ bé của bọn chúng.” Lần này, y lại dùng ánh mắt khiến người ta phải tan nát cõi lòng sở trường của mình nhìn chằm chằm vào Merkin.
Cho dù lão luyện như Merkin, cũng cảm thấy không chịu nổi tên Quách Nhật Niệm Thanh đổi nét mặt còn nhanh hơn tắc kè đổi màu này, chỉ hờ hững đáp một câu: “Ta vốn không có ý giết chúng, chỉ là chúng muốn uy hiếp ta, ta chỉ xóa bỏ sự uy hiếp ấy đi mà thôi. Còn ngươi, tại sao phải giết tên đồng bọn ấy? Không phải là quân lính của ngươi sao?”
“À không…” Quách Nhật Niệm Thanh tỏ ra hết sức hoảng hốt, nói: “Tên đó, là do lão quốc vương ác độc ấy phái đến giám thị bọn họ, hiển nhiên bậc anh minh như ngài đây đã sớm nhìn ra được, những binh sĩ ấy vốn không muốn dùng vũ khí đối phó với các ngài, họ bị ép buộc phải làm thế, không thể tự chủ được.”
Merkin nói: “Rốt cuộc là chuyện gì? Đây là nơi nào? Ngươi nói rõ cho ta xem.”
“Sẵn lòng được ra sức vì ngài.” Quách Nhật Niệm Thanh cúi người thật sâu.
Soares đột nhiên lên tiếng: “Làm cái trò gì vậy?” Đột nhiên y thò tay vào ba lô, lấy ra một nắm không rõ là thứ gì.
Quách Nhật Niệm Thanh tuy không hiểu ngôn ngữ của đối phương, nhưng từ động tác và nét mặt của Soares, y cũng đã nhìn ra được chút manh mối, liền vội nói: “Xin chớ, chớ có hiểu lầm! Đó chỉ là một loại hương liệu làm hưng phấn tinh thần, đồng thời có tác dụng xua tan mùi máu tanh. Trong rừng này có rất nhiều loài dã thú hung mãnh, chỉ trong chốc lát là bọn chúng nó sẽ bị mùi máu thu hút đến đây, chúng ta chỉ muốn che giấu mùi vị này đi, chứ không hề có ác ý gì hết. Ta xin được xin lỗi các ngài vì sự sơ suất này. Ra đi, Khước Ba.”
Khước Ba Ca Nhiệt mặc bộ đồ đen thùng thình bước ra sau một lùm cây. Hai mắt Soares sáng bừng lên, nhìn chằm chằm vào kẻ vừa mới xuất hiện này, trên người đối phương, ít nhất y cũng cảm nhận được có ba loại chất thông tin của sinh vật. Khước Ba cũng nhìn Soares với ánh mắt kinh ngạc, rõ ràng lão ta cũng phát hiện ra được điều gì đó.
Quách Nhật Niệm Thanh và Merkin đều chú ý thấy điểm này, Quách Nhật Niệm Thanh vội giải thích: “Xin các ngài để vu sư Khước Ba của ta trị thương cho những binh sĩ này, ông ta cũng biết một vài trò vặt vãnh đấy.”
Soares thấp giọng nói với Merkin: “Để tôi xem thử.”
Merkin nói: “Cẩn thận đấy.” Sau đó, y liền bảo Quách Nhật Niệm Thanh: “Qua đây, chúng ta nói chuyện.” Y vừa vẫy tay với Quách Nhật Niệm Thanh như thể gọi một đứa trẻ, vừa quan sát phản ứng của đối phương. Gương mặt Quách Nhật Niệm Thanh từ đầu chí cuối vẫn nở một nụ cười vô cùng thành khẩn. “Mặt nạ!” Khóe mắt Merkin giật giật, y hiểu rõ, phàm là kẻ nào có bộ mặt đeo mặt nạ kiểu này, đều là hạng không dễ dây dưa một chút nào.
Theo yêu cầu của Merkin, Quách Nhật Niệm Thanh giảng giải một cách tường tận tỉ mỉ về lịch sử, phân bố dân cư, phong tục và cả các mặt như nông nghiệp, khoa học kỹ thuật của hai vương quốc Langbu và Yaca cho y nghe. Trong lúc nói chuyện, thi thoảng y lại xen vào những lời tâng bốc, ca ngợi Merkin thân thủ bất phàm. Đối với những lời tán tụng khách sáo ấy, Merkin nhất loạt đều coi như không nghe, kế đó, y lại hỏi về tình hình đám người bọn Trác Mộc Cường Ba. Trước ánh mắt du di bất định của Merkin, Quách Nhật Niệm Thanh kể hết những gì mình biết, chỉ có điều, câu chuyện qua miệng của y, đã trở thành một phiên bản hoàn toàn khác…
Tước Mẫu vương là kẻ tà ác xấu xa tàn bạo chỉ biết bóc lột nhân dân. Quách Nhật Niệm Thanh tuy là cháu ruột duy nhất của quốc vương, đã nhiều lần cất lời can gián song đều bị trách phạt. Y không hề ham hố phú quý quyền thế gì, chỉ mong nhân dân Langbu được sống tốt hơn một chút. Đồng thời, y đã yêu một cô gái bình dân, đương nhiên, cô gái ấy đẹp như tiên trên trời, tâm địa lương thiện như Bồ Tát, hai người mới gặp đã yêu, rơi vào biển ái, và đã ước định chung thân. Thế nhưng, Tước Mẫu vương xấu xa kia không chịu buông tha cho Quách Nhật Niệm Thanh, vì theo quy chế của tổ tiên, lão quốc vương không có con trai ruột ấy sẽ phải truyền ngôi báu lại cho Quách Nhật Niệm Thanh, và Quách Nhật Niệm Thanh phải kết hôn với con gái duy nhất của lão. Để giữ lấy quyền lực cho họ nhà mình, lão quốc vương xấu xa ấy không ngờ đã hạ cổ độc lên người con gái ruột của mình. Sau khi trúng độc, hai mắt công chúa sẽ không nhìn thấy gì, nhưng trong đêm tân hôn, thứ cổ độc này sẽ từ người nữ chuyển dịch sang người nam. Như thế, sau khi Quách Nhật Niệm Thanh mù mắt, quyền lực sẽ lại rơi vào tay công chúa. Tất cả những điều này, Quách Nhật Niệm Thanh lương thiện đều lặng lẽ ẩn nhẫn chịu đựng, thậm chí y còn bày tỏ muốn từ bỏ ngôi báu, chỉ mong được cùng người trong lòng sống những ngày vui vẻ bên nhau là được. Thế nhưng, đúng vào lúc ấy, đám hung đồ Trác Mộc Cường Ba kia đột nhiên xông vào mảnh đất hòa bình này. Trong đó, tên xấu xa tàn bạo ghê gớm hung ác nhất chính là tên mặt người dạ thú, bệnh hoạn điên cuồng Trương Lập. Kẻ ấy đã tàn nhẫn cưỡng hiếp cô gái mà Quách Nhật Niệm Thanh yêu tha thiết, lại còn xàm ngôn vu khống với Tước Mẫu vương, muốn đuổi tận giết tuyệt, dồn Quách Nhật Niệm Thanh đến bước đường cùng. Những điều Quách Nhật Niệm Thanh đang làm, chính là để bắt lũ ác đồ không có lương tâm ấy phải nợ máu trả máu, giành lại những thứ đáng lẽ là của y. Vì Quách Nhật Niệm Thanh là hóa thân của cái thiện và chính nghĩa, nên nhân dân và binh sĩ ủng hộ cũng như bảo vệ y nhiều vô số kể, chẳng qua bị Tước Mẫu vương ép buộc, họ mới không dám công khai ủng hộ mà thôi. Chỉ cần trừ đi mấy tên tâm phúc do Tước Mẫu vương phái xuống thống lĩnh binh lính, thì quân đội sẽ lại trở về dưới tay y. Chính vì vậy, y rất mong muốn có được sự giúp sức của Merkin.
Sau một tràng những lời xun xoe nịnh bợ thao thao bất tuyệt không ngừng, Quách Nhật Niệm Thanh bày tỏ, chỉ cần Merkin chịu giúp mình, y sẽ có được rất nhiều lợi ích lớn, bao gồm cả việc tấn công vào nhóm kẻ thù chung là bọn Trác Mộc Cường Ba. Quách Nhật Niệm Thanh có thể điều động bất cứ nguồn lực nào của vương quốc Langbu, thậm chí là có thể chia đôi đất đai và tài sản của cả vương quốc này với Merkin cũng được.
Merkin cười mà như thể không cười, có điều y rất ngạc nhiên khi Quách Nhật Niệm Thanh nhắc đến bọn Trác Mộc Cường Ba như là kẻ thù chung của y và đối phương. Y lấy làm tò mò hỏi: “Sao ngươi biết ta và Trác Mộc Cường Ba là kẻ thù chứ không phải bạn bè?”
Quách Nhật Niệm Thanh nói: “Khi ta nhắc đến sự tàn ác xấu xa của chúng, ngài đã lộ ra nét mặt của tri âm.”
Merkin cười lên ha hả, nói: “Đúng thế, đúng thế, loại xấu xa tàn ác như vậy, sức mạnh đại diện cho chính nghĩa như chúng ta cần phải diệt trừ chúng đi. Ta có thể giúp ngươi đối phó với Trác Mộc Cường Ba mà không cần bất cứ báo đáp gì, nhưng việc của cái vương quốc Langbu khỉ gió gì đấy, tự ngươi phải nghĩ cách giải quyết đi.” Lúc này y liền để ý thấy, lão vu sư áo đen kia không biết đã dùng cách gì mà tiếng kêu của đám binh sĩ bị trúng đạn đã nhỏ đi nhiều, thậm chí một số người còn có thể đứng dậy nữa.
Soares từ đầu chí cuối vẫn không nói một lời, nhìn chằm chằm vào Khước Ba Ca Nhiệt. Khước Ba cũng làm mặt lạnh, không nói một lời, lẳng lặng thi triển thủ thuật với đám binh sĩ, sử dụng cổ trùng giảm đau, thi thoảng ánh mắt hai người lại gặp nhau, nhưng tựa như kẻ thù truyền kiếp, chất chứa đầy sự cảnh giác, dọa dẫm, uy hiếp.
Quách Nhật Niệm Thanh nhanh chóng ngẫm nghĩ về ý tứ của Merkin, rồi nhoẻn miệng cười thật tươi nói: “Đúng vậy đúng vậy, theo lý nên là thế, có điều, chúng ta vẫn là đồng minh phải không? Ta nhớ người ở bên ngoài các vị có một câu tục ngữ, kẻ địch của kẻ địch của ta, chính là bạn ta.”
Merkin mỉm cười, thầm nhủ: “Thằng lùn, đừng có tưởng bở, đa phần, kẻ địch của kẻ địch của ta, cũng là kẻ địch của ta! Hả? Tục ngữ ở bên ngoài?” Nghĩ tới đây, Merkin liền hỏi: “Ngươi biết gì về thế giới bên ngoài kia?”
Quách Nhật Niệm Thanh lộ ra một nụ cười bí hiểm: “Nơi này thường hay có vinh dự được đón tiếp người từ bên ngoài vào như các vị, những năm gần đây có vẻ mỗi lúc một nhiều hơn, ngôn ngữ này của ta chính là học được của bọn họ, vì vậy, ta cũng nắm được đôi phần về thế giới bên ngoài. Chỉ có điều… những người đến đây, xưa nay đều chưa bao giờ sống sót rời khỏi nơi này cả.”
“Nói cụ thể hơn xem nào, những người đó đã đi đâu rồi?” Cuối cùng, Merkin cũng thu nụ cười tự tin thường trực trên khóe miệng lại.
Thấy nét mặt Merkin thay đổi, Quách Nhật Niệm Thanh lại cười cười nói: “Vị khách tôn quý của ta, ngài xem đấy, chúng ta còn rất nhiều không gian hợp tác…”
Khoảng nửa tiếng đồng hồ sau, Quách Nhật Niệm Thanh dẫn theo đám binh sĩ bị thương biến mất trong khu rừng, không gian xung quanh lại trở nên hoang tịch cô liêu. Thấy Soares nhìn theo hướng đi của những binh sĩ ấy một hồi lâu, Merkin hỏi: “Sao vậy, Kahn? Hiếm khi nào lại thấy anh chú ý đến một người như vậy đấy.”
Soares trầm ngâm: “Nếu anh là Thao thú sư, anh cũng sẽ cảm thấy hứng thú với con người đó thôi.”
Merkin thu nụ cười trên môi lại, cảnh giác nói: “Hắn cũng là Thao thú sư à?”
“Không,” Soares lắc đầu: “Năng lực Thao thú của hắn không mạnh lắm. Có thể nhận ra được. Hắn cũng thiếu một hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh, nhưng khả năng thao tác trên thực tiễn của hắn lại rõ ràng đã vượt qua Thao thú sư, cũng có một số năng lực nhất định của Thao trùng sư[vii] , thậm chí có một vài phương diện còn đạt đến tiêu chuẩn của Cổ sư[viii] rồi.”
“Ồ…” Merkin cũng không khỏi biến sắc mặt: “Không có năng lực của Thao thú sư, nhưng lại trực tiếp vượt qua Thao trùng sư, đạt đến năng lực điều khiển của Cổ sư, thế há chẳng phải là cao hơn anh hai bậc ư? Nói như vậy, chúng ta phải hết sức cẩn thận với cái tên mặc đồ đen ấy mới được!”
“Thế thì chưa chắc!” Soares tự tin nói: “Tuy hắn có một phần năng lực điều khiển thao túng của Thao trùng sư và Cổ sư, nhưng năng lực điều khiển thú vật lại quá kém cỏi, gần như là không có. Vả lại, tôi quan sát thủ pháp của hắn, hình như cũng chỉ biết sử dụng cổ trùng với con người, chứ không biết áp dụng với động vật, cũng có nghĩa là, tiêu chuẩn đánh giá của chúng ta hoàn toàn không thích hợp để đánh giá hắn, nếu phải động thủ thật… hừ, cũng không cần phải sợ. Chỉ có điều, có một số thủ pháp của hắn, tôi vẫn chưa nhìn thấu được, hừm, cần phải nghĩ cho kỹ càng đã.”
Merkin bấy giờ mới chuyển từ kinh ngạc sang mừng rỡ, nói: “Tôi đã bảo rồi mà, anh bạn già, nơi này dù sao cũng là đất tổ của đám Thao thú sư các anh. Chắc chắn anh sẽ có thu hoạch mà lại.”
Thực lực của Merkin
Soares thản nhiên nói: “Đừng nói chuyện của tôi nữa, anh và tên lùn đó sao rồi?”
Merkin nói bằng giọng tự giễu: “À, ước định cuối cùng của chúng tôi là, ai làm việc nấy.”
Soares nhe răng cười khùng khục: “Thế chẳng phải là không nói được chuyện gì hay sao?”
Merkin nhướng mày lên: “Đúng thế, kết quả đàm phán tốt nhất giữa hai người đàm phán lợi hại nhất, xưa nay vẫn luôn luôn là coi như không nói gì hết cả.” Trong lúc Soares vẫn đang nghiền ngẫm câu nói đầy triết lý ấy, Merkin đã lại bổ sung thêm: “Có điều, chúng tôi đều trực tiếp hoặc gián tiếp có được rất nhiều thông tin hữu ích từ phía đối phương. Ít nhất thì tôi cũng biết được, cái thần miếu chó chết kia ở tầng trên cùng, chỗ này được gọi là Thánh vực. Shangri-la trong truyền thuyết cũng ở phía trên cùng, nếu nhận được tín hiệu muộn hơn chút nữa, chúng ta sẽ bớt đi cả một quãng đường dài đấy. Tên lùn đó, biết cũng khá là nhiều.”
Soares lại nói: “Trông hắn thật giống với cái tên… tên là cái gì Đa Cát ấy nhỉ.”
Nụ cười vừa hé nở trên môi Merkin lập tức trở nên âm trầm lạnh lẽo, y cảnh cáo Soares: “Tôi không thể không nhắc nhở anh, Kahn, anh nghĩ như vậy là hết sức nguy hiểm. Tên lùn đó và Đa Cát là hai kẻ hoàn toàn khác nhau, so với tên pháp sư áo đen kia, thì hắn còn đáng sợ hơn gấp bội phần đấy.”
“Ừm…” Soares ngờ vực nói: “Có lợi hại vậy không? Tôi vẫn thường nghe bảo anh giỏi nhất chính là lợi dụng tất cả mọi tình thế có thể lợi dụng được, lần này có cơ hội tốt vậy, không ngờ lại bỏ qua mất.”
Merkin đanh mặt lại nói: “Trước khi nghĩ cách lợi dụng người khác, trước tiên phải đảm bảo chắc chắn mình không bị người khác lợi dụng đã. Giờ hợp tác với tên lùn đó, với nhân thủ và thông tin chúng ta đang nắm được, rất khó nói xem là ai đang lợi dụng ai.”
“Vậy thì lợi dụng lẫn nhau đi…” Giọng nói khàn khàn của Soares rít qua cuống họng.
Merkin lạnh lùng lắc đầu, lời cảnh cáo của người ông nội vẫn còn văng vẳng bên tai y: “Ben, cháu phải nhớ kỹ, hai bên hợp tác, điều này có thể, ta tin là vậy; nhưng cháu phải nhớ kỹ, trên đời này vĩnh viễn không thể nào có chuyện lợi dụng lẫn nhau, bao giờ cũng chỉ có người thông minh lợi dụng kẻ ngu xuẩn, cho dù lợi dụng hay phản lợi dụng, đến cuối cùng, chỉ có một kẻ có thể cười mà thôi. Vì vậy, cháu vĩnh viễn đừng bao giờ dễ dàng tin vào những lời hứa ngọt ngào. Thứ không đáng tin cậy nhất trên thế gian này, chính là những lời hứa. Hãy dùng đôi mắt và đôi tai của cháu để thăm dò chân tướng của sự việc, hãy dùng thực lực của bản thân cháu, để nắm lấy toàn cục.”
“Trên đời này, không thể có chuyện lợi dụng lẫn nhau đâu, Kahn ạ. Mấy năm nay anh quá đắm chìm vào nghiên cứu học thuật mất rồi, thành thử không hề phát hiện ra, tên lùn Quách Nhật Niệm Thanh ấy rốt cuộc là người như thế nào.” Merkin gằn giọng nhấn vào từng chữ một: “m hiểm, đa nghi, giỏi đoán biết tâm tư người khác, có khả năng nhẫn nại và năng lực tính toán cực kỳ đáng sợ, chỉ dựa vào những chi tiết rất nhỏ trong hành vi, hắn có thể phán đoán được tính cách và đặc điểm tâm lý của anh, đồng thời, cũng biết ngụy trang một vẻ bề ngoài tuyệt đối vô hại. Lời nói của hắn, mỗi câu mỗi chữ đều có tính kích động xúi giục, có tác dụng ám thị tâm lý rất mạnh. Ngoài ra, kẻ này còn cực kỳ giỏi bịa tạc, mỗi lời hắn nói ra đều khó mà phân biệt được đâu là thật giả đúng sai. Từ những vết sẹo trên người và một vài động tác lộ ra trong lúc vô ý, tôi tin rằng, thân thủ của hắn tuyệt đối không như những gì hắn thể hiện ra đâu. Hắn có thể rà soát toàn cục một cách nhạy bén, cũng có thể tỉ mỉ tính toán từng chi tiết nhỏ của âm mưu, lợi dụng tất cả mọi thứ có thể lợi dụng bên cạnh mình, hoàn toàn không có sơ hở. Đây chính là những gì tôi phát hiện được sau khi tiếp xúc với tên lùn đó đấy.”
“Hả?” Soares ngạc nhiên: “Vậy chẳng phải hắn là đồng loại của anh sao?”
Merkin gật đầu: “Đó chính là điều tôi muốn nói, tên lùn đó, có rất nhiều điểm tương đồng với tôi, không, thậm chí hắn còn giống với kẻ đó…” Yết hầu Merkin khẽ nhấp nhô lên xuống, đoạn nói: “Anh, cũng không muốn bị một kẻ như vậy lợi dụng, phải không?”
“Kẻ đó?” Soares thoáng ngẩn người, đột nhiên hai mắt đờ ra, toàn thân cứng ngắc, y biết kẻ mà Merkin muốn nói đến kia là ai rồi? Là kẻ có thể tính toán mọi khả năng có thể xảy ra của tất cả các biến cố từ trước khi sự việc diễn ra; là kẻ không cần nói nhiều, chỉ cần dùng ánh mắt và động tác tay cũng có thể khống chế toàn cục; gã đàn ông phương Đông thần bí đó, là kẻ vĩnh viễn không bao giờ người ta có thể nhìn thấu được y nghĩ gì trong đầu, vĩnh viễn không thể đoán được bước tiếp theo y sẽ làm gì; kẻ đó, chính là gã đội trưởng có đôi mắt u uất của bọn y, biệt hiệu dùng trong tổ chức là “Chồn”, nhưng vì các thành viên trong đội đều sợ y, cũng vì năng lực tính toán không chút sơ hở của y, đồng bọn đã đặt cho y một biệt hiệu khác ở sau lưng… Kẻ Quyết Sách.
Gần đến nơi rồi, sắp tới rồi, cuối cùng, mục tiêu ở ngay trước mặt, Max vẫn cảnh giác ló ra nửa cái đầu, chỉ để lộ một con mắt, đợi nhìn rõ đúng là Merkin và Soares, hắn mới khóc lóc ròng ròng chạy ra, đồng thời lớn tiếng rống lên: “Ông chủ, tôi nhớ ông đến chết đi được!”
Merkin và Soares đang ngồi dưới một gốc cây lớn nói chuyện gì đó, bộ dạng ấy căn bản không hề giống hai người thám hiểm đang ở giữa chốn rừng nguyên sinh bốn bề nguy cơ trùng trùng, ngược lại, còn giống hai ẩn sĩ ở nơi đào nguyên thế ngoại hơn, chỉ còn thiếu có chiếc bàn Bát tiên với hai chén trà xanh nữa thôi. Thấy Max từ trong rừng lao ra, hai người đều không hề ngạc nhiên. Merkin nói với giọng hơi giận dữ: “Sao nhận được tín hiệu lâu như vậy rồi mày mới đến?”
Max tỏ vẻ cực kỳ thương tâm, khóc lóc như thể sắp đứt hơi đến nơi. Chỉ nghe hắn rống lên: “Ông chủ… hu hu hu… cuối cùng các ngài cũng đến rồi… hu hu… tôi… hu hu…”
Soares nhìn Max, nét mặt như cười mà không phải cười. Merkin bực bội gắt lên: “Đủ rồi, cho mày ba giây, cấm không được khóc, trông mày cứ như lợn nái động đực ấy.”
Tiếng khóc của Max như thể bị kéo cắt, lập tức im bặt. Hiệu quả đặc biệt gần như một màn biểu diễn ấy làm khóe miệng như bị sâu cắn dở của Soares khẽ nhếch lên thêm một chút. Kế đó, Merkin lại nói: “Cho mày mười lăm giây, báo cáo lại tình hình đi.”
Max quẹt nước mắt nước mũi tèm nhèm trên mặt, sau đó nói: “Mười ba người đáp xuống thành công, giờ chỉ còn lại một mình tôi; lần đụng độ cuối cùng với đối phương, bọn chúng còn sáu người; ở tầng bình đài này chúng tôi phát hiện ra năm khu tập trung dân cư, trình độ sản xuất của người ở đây tương đương với châu u cuối thế kỷ mười tám; đích đến của bọn chúng là tầng bình đài trên cùng; trong rừng có rất nhiều cạm bẫy và dã thú, đáng sợ nhất là một loại động vật cao tầm ngang người bình thường, thoạt nhìn… giống như, giống như khủng long vậy. Báo cáo hết!”
“Động vật giống như khủng long à?” Soares hơi nhổm người lên, gặng hỏi thêm: “Mày bảo chúng cao tầm ngang một người bình thường à? Nói cụ thể hơn xem nào, hình dáng ra sao?”
Max lắp ba lắp bắp pha trộn giữa ngoại hình của người Lỗ Mặc và tưởng tượng của bản thân hắn, miêu tả lại một lượt. Soares phát ra tiếng cười khùng khục, còn Merkin thì bực bội ngắt lời: “Nói bậy, làm gì có thứ gì như thế?”
Max cúi gằm mặt xuống, không dám ho he tiếng nào. Bỗng nhiên, Soares lại lên tiếng nói thay: “Có thể hắn nói thật đấy.”
“Hả?”
“Ben, anh có chú ý thấy môi trường ở đây hoàn toàn khác hẳn với thế giới bên ngoài không?” Soares ngẩng đầu lên nhìn cây cối xung quanh, đoạn nói tiếp: “Chắc hẳn anh cũng cảm nhận được rồi, hít thở không khí ở đây, thân thể nhẹ nhàng thoải mái hơn, động tác cũng trở nên nhanh nhẹn hẳn lên. Không phải nghi ngờ gì nữa, hàm lượng ô xy trong không khí ở đây cao hơn bên ngoài kia rất nhiều. Theo quan điểm của sinh vật học, hàm lượng ô xy trong không khí trực tiếp quyết định đến mô thức tuần hoàn máu của sinh vật, đồng thời cũng gián tiếp quyết định thể hình và tướng mạo bên ngoài của chúng. Cho dù ở đây có khủng long thật, thì tôi cũng không hề ngạc nhiên, vả lại… tuy không phải Thực ngữ giả[ix] , nhưng tôi cũng nhìn ra được những loài thực vật này cực kỳ nguyên thủy, dường như đều là những loài từ đại Cổ sinh thì phải.”
Nói đến Thực ngữ giả, Soares đột nhiên hỏi: “Phải rồi, Max, trong sáu người còn lại đó, có tên nào tóc màu bạch kim không?”
“Không ạ.” Max biết rõ người Soares muốn hỏi là ai, hắn cũng rất để ý đến người này.
Soares và Merkin đưa mắt nhìn nhau, Merkin nói: “Lẽ nào đã bị loại trừ rồi?”
Soares lắc đầu: “Không, trong đám người ấy không ai có đủ năng lực làm việc đó. Quá nửa là bị phát hiện, sau khi tính toán tỷ lệ thắng thua và được mất, hắn đã lựa chọn tránh xung đột chính diện, một mình đơn độc hành động.” Soares ngẫm nghĩ giây lát, rồi khẳng định thêm: “Nếu là tôi, tôi cũng sẽ làm vậy.”
Merkin nhổm người đứng lên, nói: “Đi thôi, hy vọng hắn cũng không lựa chọn cách đối đầu với chúng ta.”
Max kinh ngạc hỏi: “Ông chủ, đi… đi đâu ạ?”
Merkin nói: “Đi đến nơi chúng muốn đi chứ còn đâu nữa.”
Max lắp bắp không thốt ra lời: “Chỉ… chỉ ba chúng ta… thôi ạ? Thế phía tướng quân Khafu…
Merkin sầm mặt xuống: “Sao hả, mày cảm thấy ba người chúng ta vẫn chưa đủ để đối phó với bọn Trác Mộc Cường Ba sao? Người của tướng quân Khafu sẽ đến sau.”
Soares ở bên cạnh chỉ còn biết cười khổ. Lần này thuần túy là vì điều kiện thời tiết quá khắc nghiệt, khiến bốn mươi lăm kẻ trong đội tiên phong cùng bọn họ lên đỉnh núi đều gặp nạn, chỉ còn lại y và Merkin sống sót. Nhưng trên người Merkin chắc chắn còn thiết bị phát xạ tín hiệu laser, hai bên chắc chắn cũng đã bàn trước phương án hậu bị. Nghĩ tới đây, Soares chợt lên tiếng thắc mắc: “Sao anh lại tín nhiệm cái tên Khafu đó vậy…”
Thành Tước Mẫu.
Bọn Trác Mộc Cường Ba vừa trở về liền nhận được tin xấu: binh sĩ canh phòng phát hiện có vật thể kỳ quái từ trên trời rơi xuống, Tô Thâm đã phái một nhóm binh sĩ mang theo vũ khí đi kiểm tra, cuối cùng chỉ có một viên phó quan tên là Trạch Ca dẫn theo mười mấy binh sĩ bị thương trở lại, đội trưởng Nha Châu của họ đã bị sát hại, những người khác cũng đều đã thiệt mạng.
Thâm Tô trực tiếp báo cáo chuyện này lên với Tước Mẫu vương. Không có Quách Nhật Niệm Thanh ở bên cạnh, vị quốc vương già hoàn toàn không biết nên xử lý thế nào, vì vậy lại gọi mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba đến bàn bạc. Nghe Thâm Tô kể xong, Trác Mộc Cường Ba liền bảo anh ta dẫn họ đi xem các binh sĩ bị thương. Còn Tước Mẫu vương thì chẳng hề quan tâm đến những kẻ xâm lược đến từ thế giới bên ngoài và cả đám thương binh của mình, chỉ lo lắng cho con gái. Thấy ông ta cứ nằn nì mãi, pháp sư Tháp Tây đành cùng với Mẫn Mẫn đi xem bệnh tình công chúa Lạp Mẫu thế nào, còn những người khác thì cùng Thâm Tô đến chỗ các binh sĩ dưỡng thương.
“Đạn 9 li, được bắn ra từ cùng một loại vũ khí.” Trương Lập trước tiên kiểm tra những viên đạn được gắp ra trong người mấy tên lính bị thương.
Trác Mộc Cường Ba hỏi Trạch Ca: “Bọn chúng có bao nhiêu người? Phát hiện vào lúc nào, ở nơi nào?”
Trạch Ca nói với họ, khi bọn Trác Mộc Cường Ba đi đài thiên táng, lính tuần phòng phát hiện ra có người từ trên trời đáp xuống. Cái nấm của bọn họ không giống những lần trước (vừa nói, anh ta vừa vẽ ra một hình trông như quả chuối), sau đó, Thâm Tô liền phái một nhóm khoảng ba mươi người đi kiểm tra. Bọn họ đuổi theo vật thể trên trời ấy, rồi tìm được đối phương ở một nơi cách Tước Mẫu khoảng một canh giờ đi đường về phía Bắc. Trạch Ca khẳng định, đối phương chỉ có hai người, mà chỉ có một người duy nhất nổ súng tấn công bọn họ, người còn lại không hề nhúc nhích. Thể hình người đó rất cao lớn, như một vị Kim cương hạ phàm, tóc trên đầu vàng óng, mặc y phục đồng màu với rừng xanh, nói thứ tiếng gì mà họ nghe không hiểu. Thậm chí họ còn không nhìn rõ y ra tay như thế nào thì đã bị thương cả rồi. Trước khi ngã xuống chỉ kịp nhìn thấy một tia đỏ như lửa, không biết từ đâu bay vèo tới.
Merkin đã đến rồi… từ trước khi Trạch Ca nói ra đặc điểm của người kia, bọn Trác Mộc Cường Ba đã nghĩ đến rồi. Toàn bộ đội tiền tiêu của Merkin đã bị bọn họ tiêu diệt, bản thân y không thể không đến được; mà trong chớp mắt bắn bị thương hơn ba chục binh sĩ Tước Mẫu, cũng không phải là chuyện người bình thường có thể làm được. Chỉ có điều, bọn Trác Mộc Cường Ba cũng không ngờ Merkin lại chỉ dẫn theo một người đến đây. Lẽ nào y không còn thủ hạ nữa? Đương nhiên, như vậy là tốt nhất, chỉ là… dù thế nào họ cũng không dám tin đó lại là sự thật. Còn nữa, người đi cùng với Merkin kia là ai? Có phải là người tên Soares kia không? Hay là Khafu?
Nhưng hỏi Trạch Ca và những binh sĩ còn lại, bọn họ đều không mô tả được đặc điểm của người còn lại. Lúc bấy giờ, sự chú ý của họ đều dồn cả lên thân hình Merkin và thứ tiếng cổ quái của y. Trác Mộc Cường Ba đảo mắt một vòng quan sát đám lính, chọn ra hai người bị thương nhẹ nhất, bảo họ dẫn đến nơi phát hiện ra hai người kia. Thâm Tô cũng phái thêm một nhóm binh sĩ đi theo.
Trước khi xuất phát, pháp sư Tháp Tây cũng đến nơi, một binh sĩ cường tráng cõng ông trên lưng. Sau đó, ông và Mẫn Mẫn cũng quyết định đi theo.
Nhạc Dương và Trương Lập tỉ mỉ quan sát khắp xung quanh. Lữ Cánh Nam hỏi một tên lính dẫn đường: “Không phải nói là nơi mấy người còn lại trong đội các ngươi thiệt mạng sao? Thi thể đâu rồi?”
Binh sĩ đó cũng hết sức hoảng hốt, lắc đầu nói: “Lúc ấy mọi người đều bị thương, chỉ muốn chạy trốn, bọn họ không theo kịp, chắc là không chạy thoát rồi, thi thể… thi thể… tôi không biết nữa…”
Ba Tang đảo mắt nhìn quanh, cất giọng khàn khàn nói: “Nơi này không giống như vừa xảy ra chiến đấu.”
Nhạc Dương quay lại nói: “Không, nơi này đã xảy ra chiến đấu, nhưng được dọn dẹp sạch sẽ rồi.”
Ba Tang lạnh lùng nhìn tên lính dẫn đường, nói: “Tại sao không thấy dấu hiệu phản kháng, cũng không có dấu vết đạn bắn để lại?”
Tên lính đó bị Ba Tang nhìn đến lạnh gai cả người, chỉ biết dùng ánh mắt cực kỳ vô tội nhìn mấy người bọn Đường Mẫn, Trác Mộc Cường Ba. Pháp sư Á La liền dịch lại lời của Ba Tang cho y nghe, bấy giờ y mới vội vàng nói: “Chúng tôi không kịp phản kháng, toàn bộ đều đã trúng thương rồi.”
Ba Tang kinh hãi biến sắc: “Một người, chọi ba mươi người, không hề phản kháng!” Lữ Cánh Nam cũng không khỏi ngấm ngầm kinh ngạc, xem ra phải đánh giá tên Merkin này cao hơn một nấc rồi, dẫu sao thì, ngoại trừ pháp sư Á La, bọn họ cũng chưa bao giờ chính diện đối mặt giao thủ với Merkin cả.
Trương Lập nheo nheo mắt, nhìn chăm chăm vào vết thương trên người tên binh sĩ dẫn đường, trầm giọng nói: “Dường như chỉ có một tình huống để giải thích tại sao không có vết đạn lưu lại ở hiện trường.”
Ba Tang ngạc nhiên, trợn tròn mắt lên nhìn Trương Lập nói: “Ý cậu là, trong chớp mắt hắn ta rút súng bắn trúng ba mươi người, mà không trượt một phát nào ư?” Trác Mộc Cường Ba giờ mới hiểu ra, chỉ có khả năng là mỗi viên đạn đều bắn trúng người thì trên cây cối và đất đá xung quanh mới không để lại vết đạn nào.
Chỉ nghe Lữ Cánh Nam lại cất tiếng hỏi tên binh sĩ ấy: “Lúc đó vị trí của các ngươi như thế nào?”
Tên binh sĩ đó liền chỉ ra một phạm vi đại khái, không ngờ lúc ấy bọn họ đã hình thành được vòng vây xung quanh đối phương. Như vậy, há chẳng phải càng khiến người ta kinh ngạc hay sao? Thế có nghĩa là, chỉ trong nháy mắt, Merkin đã bắn xoay vòng ba trăm sáu mươi độ, đồng thời không trượt một phát nào. Đây là thủ pháp gì chứ? Tuy rằng, theo như tên binh sĩ kia nói, lúc đó bọn họ đều đã đứng lộ ra ngoài, nhưng nếu muốn bắn gục toàn bộ từng ấy người trước khi tất cả kịp phản ứng… Pháp sư Tháp Tây và pháp sư Á La đều đưa mắt nhìn sang phía Lữ Cánh Nam. Lữ Cánh Nam ảm đạm lắc đầu, tỏ ý mình cũng không thể làm được. Hai vị pháp sư này đều không phải cao thủ dùng súng, Lữ Cánh Nam không làm được, bọn họ tự nhiên lại càng không thể.
Trương Lập suy đoán: “Cần phải hai tay hai súng, đồng thời nhanh nhẹn di chuyển và nổ súng một cách cực kỳ chuẩn xác và tinh tế mới thực hiện được, ngoài ra còn phải luyện được khả năng hai mắt cùng lúc ngắm những mục tiêu khác nhau nữa, tôi nhớ hồi trước giáo quan từng đề cập đến môn này, hình như gọi là kỹ thuật phân tâm của bộ đội đặc chủng thì phải?”
Lữ Cánh Nam gật đầu nói: “Đó là một thứ kỹ thuật ứng dụng trong hoàn cảnh chiến trường phức tạp, nhất tâm đa dụng, yêu cầu người lính phải in rõ vị trí và tư thế của kẻ địch vào trong đầu, sau khi xác định rồi thì không cần dùng mắt nhìn kẻ địch ấy nữa, mà dựa vào hình ảnh trong óc để nhả đạn về vị trí đã định trước ấy, còn mắt thì lại dùng để ghi nhớ vị trí của kẻ địch tiếp theo. Đấy mới thực sự gọi là kỹ thuật sát nhân trên chiến trường. Nghe nói, muốn thực sự đạt tiêu chuẩn, người thực hiện phải hai tay hai súng, trong vòng một giây bắn gục năm kẻ địch trở lên.”
Sau một thoáng trầm mặc, Mẫn Mẫn chợt hỏi: “Những binh sĩ bị thương kia đã đi đâu mất rồi?”
Nhạc Dương đột nhiên nghĩ ra điều gì đó, thốt lên: “Bọn chúng không biết đường ở đây!”
Trương Lập nói: “Ý cậu là, Merkin bắt những người ấy dẫn đường cho mình? Nhưng hai bên có hiểu nhau nói gì đâu?”
Mẫn Mẫn cũng nói: “Dẫn đường đâu cần nhiều người như vậy chứ?”
Lữ Cánh Nam nói: “Không, Nhạc Dương nói có lý, ngôn ngữ không thông thì có thể dùng tay ra hiệu, trong tình huống không biết những kẻ bị thương ấy kẻ nào có thể cầm cự được lâu hơn, xua tất cả đám tù binh ấy dẫn đường cho mình cũng không phải một lựa chọn tồi, dọc đường hắn có thể bỏ lại những ai không thể hành động được nữa.”
Nhạc Dương gật đầu: “Giáo quan nói không sai, có rất nhiều vết máu hướng về phía Yaca.”
Lữ Cánh Nam nói: “Vấn đề bây giờ là, tại sao Merkin biết phải đi hướng đó? Tại sao hắn lại đáp xuống chỗ này?”
Mẫn Mẫn nhanh miệng nói ngay: “A… có người tiếp ứng bọn hắn! Nhóm người nhảy dù đầu tiên vẫn chưa bị tiêu diệt hết, kẻ chúng ta phải đối mặt không chỉ là một hai tên, mà là nhiều hơn số đó!” Nhạc Dương và Trương Lập cũng đều lần lượt tỏ ý tán đồng.
Trác Mộc Cường Ba chau mày, thầm nhủ: “Không, Mẫn Mẫn, kẻ địch của chúng ta biết nơi này rất gần Tước Mẫu, bây giờ, nhóm người nhảy dù đầu tiên kia không thể không cảnh giác với chúng ta. Bọn chúng sẽ không đặt thiết bị phát tín hiệu laser ở gần Tước Mẫu thế này đâu, huống hồ, tên Merkin kia lại càng không muốn bị chúng ta phát hiện hắn đã đến đây. Có lẽ… có lẽ, một người nào đó trong đội ngũ của chúng ta, đã gắn thiết bị phát tín hiệu ấy!” Ánh mắt gã lướt qua các thành viên trong nhóm, không người nào lộ ra dù chỉ một chút vẻ kinh hoảng. Cuối cùng, gã chạm phải ánh mắt của Lữ Cánh Nam, dường như cô cũng đã nhìn thấu suy nghĩ trong đầu gã, khóe miệng khẽ nở một nụ cười như khích lệ, rồi khẽ gật nhẹ đầu, ý bảo: “Anh có thể nghĩ như vậy là đúng rồi đấy.”
Trác Mộc Cường Ba hỏi bằng ánh mắt: “Rốt cuộc là ai? Rốt cuộc cô nghi ngờ ai?”
Lữ Cánh Nam hướng ánh mắt sang phía Mẫn Mẫn, rồi lập tức nhìn ra xa. Trác Mộc Cường Ba ngây người, ngoảnh đầu lại, thấy Mẫn Mẫn đang mím môi, rõ ràng là vừa nhìn thấy cảnh hai người họ trao đổi bằng ánh mắt. Trác Mộc Cường Ba cũng không giải thích, mà quay sang nói với mọi người: “Đi thôi, nếu suy đoán của chúng ta là chuẩn xác, nói không chừng chặng đường phía trước sẽ phát hiện ra gì đó, có lẽ, chúng ta vẫn còn ở phía trước chúng một bước.”
Pháp sư Tháp Tây nói: “Không sai, bọn chúng vừa mới đặt chân đến đây, thiên thời địa lợi nhân hòa đều không có, nhân lúc chúng còn chưa đứng vững chân hãy tiêu diệt chúng luôn, bằng không, sau này bọn chúng không biết còn bao nhiêu người đến đây nữa.”
Trác Mộc Cường Ba từ chối yêu cầu tiếp tục đi theo họ của đám binh sĩ Tước Mẫu, bảo với họ rằng, cuộc chiến này đã nằm ngoài phạm vi lý giải của họ rồi. Họ có thể bại lộ hành tung mà chẳng hề hay biết, đi theo chỉ tổ thiệt mạng oan. Cuối cùng, theo lệnh của Trác Mộc Cường Ba, đám binh sĩ ấy đành phải mang theo người bị thương trở về Tước Mẫu, còn mấy người bọn gã thì tiếp tục truy đuổi theo hướng vết máu. Chỉ là họ không thể ngờ, sau khi họ đi, đám binh sĩ ấy đều nhìn nhau mỉm cười khó hiểu.
Lần đầu thân mật
Ba Tang, Trương Lập đi phía trước, Nhạc Dương và pháp sư Á La đi sát theo sau, Mẫn Mẫn và Lữ Cánh Nam chia hai bên cảnh giới, còn Trác Mộc Cường Ba cõng pháp sư Tháp Tây đi đoạn hậu. Khoảng nửa giờ sau, họ phát hiện ra thi thể Nha Châu ở một chỗ khuất bên đường. Rất hiển nhiên, sau khi không thể đi lại được nữa, anh ta đã bị kẻ địch bồi thêm một đao, nhát đao ấy rất sâu, vừa chuẩn lại vừa tàn độc.
Mấy người Trương Lập, Nhạc Dương nghiến răng kèn kẹt, sau khi phán đoán được phương hướng của kẻ địch, cả bọn liền tăng tốc đuổi theo. Từ khi đặt chân đến Shangri-la này, đây là lần đầu tiên bọn họ hoán đổi vị trí với kẻ địch. Trước đây, đều là họ bị truy đuổi, bị phục kích, bị hãm hại. Còn giờ đây, mọi sự đổi khác, họ lại ở phía sau đuổi giết không tha những tên địch hung ác cùng cực kia. Cái chết của đội trưởng Hồ Dương, gian kế của Quách Nhật Niệm Thanh đều như một bức tường đá đè nặng lên lồng ngực họ. Lửa giận đang bốc lên bừng bừng mà không tìm đâu ra nơi phát tiết. Giờ đây, trong nhóm đã có thêm hai vị pháp sư Tháp Tây và Á La, họ cảm thấy mình mạnh hơn bao giờ hết, nhất quyết không thể nhân nhượng buông tha cho hai ba tên địch đã bạo lộ hành tung kia được, mặc xác bọn chúng là ai đi chăng nữa!
Truy đuổi khoảng hai tiếng đồng hồ, Ba Tang đột nhiên thả bước chậm lại, đám Nhạc Dương, Trương Lập không hiểu tại sao, cũng đành giảm tốc độ theo. Họ đều tin tưởng, với trực giác nhạy bén như loài dã thú của mình, chắc chắn Ba Tang đã cảm thấy có nguy cơ trong sự bình yên tĩnh lặng đang bao trùm không gian xung quanh.
Pháp sư Tháp Tây cất tiếng: “Chúng ta đã vào sâu trong rừng rồi, nơi này rõ ràng là khu vực dã thú hay xuất hiện, tại sao bọn chúng lại đến đây?”
Nhạc Dương trầm ngâm: “Lẽ nào chúng ta nhầm đường rồi? Những dấu vết rõ ràng này là chúng cố ý để lại nhằm dẫn dụ chúng ta? Nhưng đã đi xa như vậy mà vẫn còn dấu vết, lẽ nào chúng chia làm hai nhóm?”
“Không thể nào!” Trác Mộc Cường Ba nói như chém đinh chặt sắt. Trong môi trường hoàn toàn xa lạ này, chỉ có mấy người mà còn muốn chia làm hai đường thật chẳng khác nào tự đâm đầu vào chỗ chết.
Đột nhiên, bốn phía trong rừng vang lên tiếng rít như tiếng còi hơi. Bọn Trác Mộc Cường Ba biến sắc. Pháp sư Tháp Tây nói: “Không cần hoảng hốt, xem ra gần đây có sào huyệt của bọn người Lỗ Mặc, nhưng chắc chúng không chạy về hướng này đâu.”
Lời ông vừa dứt, liền thấy bóng cây phía trước đung đưa, gương mặt sớm đã quen thuộc mà chưa một lần mặt đối mặt đó, bất thình lình xuất hiện ngay phía trước bọn họ. Có thể nói, đây là lần đầu tiên bọn họ chính diện mặt đối mặt với y trong ánh sáng… kẻ mà ngay từ đầu, họ đã biết là đối thủ cạnh tranh mạnh nhất của mình!
Y đứng ở đó, tựa như một món vũ khí lạnh, cứng rắn, sắc bén. Mái tóc vàng kim giờ không biết đã nhuộm bằng thứ gì, biến thành một màu xanh xanh vàng vàng; bộ đồ ngụy trang rằn ri bao lấy những cơ bắp rắn như đá tảng; một chiếc ba lô hành quân to tướng khiến y trông càng giống một khối đá; trong những đường nét gương mặt sắc cạnh như thể được gọt bằng dao ấy, toát lên một thứ khí phái anh hào khá giống với Trác Mộc Cường Ba, nhưng thêm một nụ cười giả dối mà thiếu đi ánh mắt chân thành. Thiết bị liên lạc gắn trên kính che đi đôi mắt màu xanh lam thăm thẳm, khiến người ta nhìn y mà có cảm giác như đang nhìn một cỗ máy giết người. Y nhích động rồi, rõ ràng y đang bước ra khỏi vạt rừng rậm, vậy mà lại khiến người ta thấy như thể cả khu rừng đang lùi về phía sau. Bước chân y cứng nhắc, tiêu chuẩn, mỗi điểm đặt chân xuống đều như đã được tính toán tinh vi bằng máy móc. Trong khoảnh khắc ấy, Trương Lập liền nghĩ ngay đến một con báo trước khi vồ mồi.
Nụ cười không mang theo ý tốt của Merkin thu hút sự chú ý của hầu hết mọi người, duy chỉ có Nhạc Dương là ngoại lệ. Anh không bỏ qua bất cứ động tĩnh nào xung quanh khu vực họ đang đứng, đặc biệt là hai người đứng bên cạnh Merkin. Người hơi thấp hơn kia không hiểu tại sao lại che kín mặt mũi, chỉ lộ ra đôi mắt vằn lên sắc đỏ, cơ hồ không giống mắt người, mà như mắt của loài dã thú đã cực kỳ đói khát; còn ở phía bên kia, là tên Max đang nem nép nấp sau lưng Merkin. Rõ ràng hắn chỉ thấp hơn Merkin có một chút, vậy mà lại khom lưng uốn gối khúm núm đứng bên cạnh, thoạt trông như là thấp hơn Merkin cả cái đầu vậy. Ngoài ba người trước mắt họ ra, không còn ai khác. Không còn ai khác! Nhạc Dương thầm kinh ngạc, rốt cuộc chuyện này là như thế nào vậy?
Tuy bên mình đã chiếm ưu thế tuyệt đối, nhưng Trác Mộc Cường Ba vẫn cảm thấy hơi căng thẳng, nguyên nhân không gì khác, mà chính là bởi đôi mắt của Merkin. Đôi mắt ấy cứ không ngừng du di bất định, lướt qua lướt lại những chỗ chí mạng trên cơ thể mỗi người. Người nào bị y chiếu tướng, cảm giác thật không khác gì đang bị một con rắn độc nhìn chằm chằm.
Pháp sư Tháp Tây và pháp sư Á La thì gần như cùng lúc bị ánh mắt của Soares trùm khăn che mặt thu hút. Nếu nói cặp mắt của Merkin như mắt rắn, mang đến cho người ta cảm giác băng lạnh, vậy thì ánh mắt của tên Soares này dường như thuộc về một loài dã thú cực kỳ đói khát nào đó, khát máu, tàn bạo, và đang bình tĩnh đè nén khát vọng được giày xéo sinh mạng kẻ khác. Trong mắt hai vị pháp sư, mức độ nguy hiểm của con người này tuyệt đối không hề kém Merkin một chút nào.
Nổ súng? Quát hỏi? Chất vấn? Trác Mộc Cường Ba cảm thấy đôi mắt ấy đang làm nhiễu loạn đầu óc tư duy của mình, khiến gã không thể nào đưa ra phán đoán chính xác. Song phương không ngờ lại rơi vào thế giằng co, chằm chằm nhìn nhau, giữ im lặng, suy nghĩ, phân tích tình hình trước mắt.
“Ông chủ Trác, thật bất ngờ, chúng ta lại gặp nhau ở đây. Tôi đã nói rồi, chúng ta sẽ gặp lại nhau mà.” Rốt cuộc, Merkin là người phá vỡ cục diện bế tắc, cách phát âm tiếng Anh của y hơi giống với Sean, rất có phong cách của một nhà quý tộc, nhưng kiểu cách nhấn nhá thì cao quý hơn: “Thảo nào tôi cứ thắc mắc, sao lại có người theo dõi mình, thì ra là tên lùn ấy giở trò, mưu kế của tên này cũng bỉ ổi thật!”
Ba chọi tám, vậy mà Merkin và Soares dường như không hề sợ hãi, ngược lại có vẻ như đã nắm chắc phần thắng trong tay, chỉ có Max là rúm người né sang một bên, tựa như đang sợ đến toàn thân run lẩy bẩy.
“Ngươi nói cái gì?” Câu cuối cùng Merkin nói rất nhẹ, bọn Trác Mộc Cường Ba đều không nghe rõ. Gã liền hỏi lại một lần nữa.
“Giờ nói gì cũng đều muộn rồi, phải không?” Thanh điệu của Merkin hết sức bình thản, tỏa ra một thứ ám thị tâm lý thôi thúc người ta chìm vào giấc ngủ. Chỉ nghe y chầm chậm tiếp lời: “Cho dù bây giờ tôi lại đưa ra đề nghị hợp tác, sợ rằng ông chủ Trác cũng vẫn không nhận lời đúng không.”
Trác Mộc Cường Ba gằn giọng nói: “Rốt cuộc ngươi muốn làm gì?”
Merkin vẫn vững như núi Thái, mỉm cười nói: “Đây chính là vấn đề của anh đấy, ông chủ Trác, thậm chí cả tôi muốn làm gì anh cũng không rõ, vậy mà cứ một mực cản trở tôi, không cho tôi tham gia vào trò chơi này, đây đâu phải tác phong của một doanh nhân chứ.”
Trác Mộc Cường Ba nhất thời cứng họng, không biết phải đối đáp ra sao, nhưng Nhạc Dương đã nghe ra được manh mối trong lời nói của đối phương. Merkin câu nào câu nấy đều nhắc đến ba chữ “ông chủ Trác”, tựa hồ đang nhắc nhở Trác Mộc Cường Ba rằng gã là một doanh nhân, đồng thời ngầm ám chỉ, mọi thứ đều có thể dùng tiền để định giá. Trương Lập cũng lên tiếng nhắc nhở: “Cường Ba thiếu gia, cẩn thận hắn giở trò, đừng phí lời nữa.” Kế đó, anh lại lớn tiếng chất vấn Merkin: “Ngươi dẫn những binh sĩ Tước Mẫu kia đi đâu rồi?”
Merkin chỉ lừ mắt nhìn Trương Lập một cái, căn bản không buồn trả lời câu hỏi của anh.
Lúc này, trong đầu Trác Mộc Cường Ba đang diễn ra một cuộc đấu tranh tư tưởng kịch liệt. Ánh mắt lúc quyết biệt của Đa Cát, dáng điệu quỳ bái thành kính của Ca Ca, vụ nổ hủy diệt trong Đảo Huyền Không tự, tiếng khóc thất thanh đau đớn đến xé lòng của Mẫn Mẫn khi anh trai cô mất tích… từng cảnh tượng lần lượt hiện lên trước mắt gã, nhưng gã vẫn cảm thấy có gì đó không ổn lắm, cảm giác mơ hồ ấy, khiến gã ý thức rằng, có một số chuyện, cần phải làm cho rõ đã.
Trác Mộc Cường Ba vẫn còn đang do dự, Ba Tang đã không kiềm chế nổi nữa, bàn tay giơ lên chuẩn bị rút súng ra. Nhưng Merkin còn nhanh hơn bọn họ, bởi y không cần rút súng, mà chỉ trực tiếp dùng ngón cái và ngón trỏ tạo thành hình dạng như khẩu súng, chĩa vào bọn Trác Mộc Cường Ba, cất lời uy hiếp: “Bảo ban thuộc hạ của anh cho tốt vào, đừng để chúng làm loạn!”
Trác Mộc Cường Ba thầm kinh hãi, Merkin chỉ lấy tay giả bộ như khẩu súng thôi, mà đã khiến gã cảm thấy như thể có một khẩu súng thật đang chĩa về phía mình. Một thứ cảm giác lạnh lẽo đến độ băng giá, tựa như gã còn trông thấy cả họng súng đen ngòm. Cảm giác kỳ quái này, từ đâu mà có chứ?
Thấy Ba Tang không hề dao động, Merkin lại đưa cánh tay còn lại lên, làm thành hình dạng như khẩu súng chĩa thẳng vào Ba Tang, nhếch mép lên cười cười nói: “Nếu muốn động thủ, hậu quả sợ rằng các vị không gánh nổi đâu!”
Ba Tang cũng cảm thấy mối nguy hiểm như thể bị nòng súng chĩa vào, nhưng tay đối phương rõ ràng không hề cầm súng! Sau đó, ngón tay Merkin chầm chậm di động, người nào bị ngón tay ấy trỏ vào đều nảy sinh cảm ứng tương tự. Lúc y chĩa tay về phía Lữ Cánh Nam, trong đầu cô lóe lên một tia chớp, sực nghĩ ra gì đó, liền chú ý quan sát chỗ ống tay áo màu rằn ri. Quả nhiên, ống tay áo của Merkin không cài cúc, bên dưới gồ lên thứ gì đó không giống như cơ bắp trên tay. Chỉ nghe cô khẽ thốt lên một tiếng: “Sát thủ Tiệp Khắc!”
Hành động này của Merkin đã chọc giận Trác Mộc Cường Ba, giống hệt như trong căn phòng tối của nhiều năm về trước, y vẫn ngạo mạn như thế, vẫn không hề coi người khác ra gì như thế, chỉ để lại trong ấn tượng của người khác một cái bóng sừng sững từ trên cao nhìn xuống, như thể tất cả mọi người trên cõi đời này đều không đủ địa vị, không xứng để đối thoại bình đẳng với y vậy. Trong suốt cả quá trình tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, y và thủ hạ của y luôn bám theo bọn gã như âm hồn bất tán, bao nhiêu nỗi đau cùng bao nhiêu cái chết, đều trở nên hết sức rõ nét trong đầu Trác Mộc Cường Ba. Còn nữa, nếu muốn truy hỏi xem Đường Thọ đang ở đâu, cũng phải chế phục được tên Merkin này trước đã. Nhìn bộ dạng huênh hoang ấy của đối phương, Trác Mộc Cường Ba trầm giọng hạ lệnh: “Ra tay!” Còn Lữ Cánh Nam, cô đang chuẩn bị nhắc nhở Trác Mộc Cường Ba thì lời đã thốt ra khỏi miệng gã rồi. Lữ Cánh Nam chỉ kịp đẩy gã ra khỏi phạm vi ngón tay Merkin chỉ tới.
Quả nhiên, hai chữ “ra tay” vừa cất lên, hai ngón tay trỏ của Merkin đột nhiên rụt trở lại, sau đấy họ liền nhìn thấy tia lửa lóe lên, rồi mới nghe tiếng súng nổ. Tới tận lúc đó, tất cả mới phát hiện ra, trên tay Merkin, có súng!
Trác Mộc Cường Ba bị Lữ Cánh Nam đẩy một cái, mà Merkin dường như cũng không có ý nhắm vào chỗ yếu hại của gã, nên phát súng đó bắn vào khoảng không; khẩu súng thứ hai chĩa về phía Ba Tang, nhưng trước khi súng nổ thì trực giác nhạy bén của anh đã cảm nhận được, thân thể thình lình co rút lại rồi lắc người né tránh, hơn nữa còn đáp lại một phát súng nữa.
Nhưng họng súng của Merkin vốn không chỉ nhằm bắn một hai người, ngón tay móc vào cò súng không hề lơi ra, đạn liên tiếp bắn ra khỏi nòng súng với tốc độ 1.300 mét/giây, đồng thời cổ tay y khẽ rung lên nhè nhẹ để thay đổi phương hướng đạn ra khỏi nòng. Kỹ thuật bắn súng mỗi giây hạ sát năm tên địch đã được Merkin thể hiện đến mức tinh diệu tuyệt luân, chỉ trong một giây đồng hồ ngắn ngủi ấy, y đã bắn ra tám viên đạn về tám hướng khác nhau.
Đạn bay ra có trước có sau, người phản ứng có nhanh có chậm, ngoài Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang, những người khác đều có cơ hội phản ứng để tránh đạn. Nhưng khốn nỗi, Nhạc Dương và Trương Lập lại không tránh được, hai viên đạn lần lượt sướt qua đùi non và cánh tay của họ, cũng không thể không nói là hai anh chàng này quá đen đủi. Nhưng phát đạn của Ba Tang cũng làm Merkin giật mình kinh ngạc, rõ ràng, y không thể ngờ trong tình huống ấy Ba Tang vẫn còn phản kích được. Y biết rất rõ, trước họng súng nhanh như điện chớp của mình, cần phải có dũng khí từ bỏ mạng sống thì mới có cơ hội phản kích. Khả năng ngắm bắn của Ba Tang cũng không phải tầm thường, Merkin không thể không né tránh. Y vừa lách người dịch chuyển, Trương Lập và Nhạc Dương cũng tranh thủ thời cơ rút súng bắn trả. Chỉ thấy thân hình Merkin thoắt ẩn thoắt hiện, bộ đồ rằn ri bó sát người biến mất trong rừng cây, trong chớp mắt đã hóa thành một cái bóng mờ mờ.
Cùng lúc đó, bọn Trác Mộc Cường Ba cũng chia nhau tìm được nơi ẩn nấp. Chỉ trong chớp mắt, khu rừng đã biến thành chiến trường của một trận ám chiến. “Rốt cuộc là chuyện gì vậy?” Trác Mộc Cường Ba, pháp sư Tháp Tây và Lữ Cánh Nam cùng nấp dưới một gốc cây, Lữ Cánh Nam chỉ vào cổ tay mình giải thích: “Có một cái chốt ở đây, nguyên lý cũng giống như dây móc của chúng ta vậy, chỉ cần gảy ngón tay một cái là súng hiện ra trên tay ngay lập tức. Khả năng nắm bắt tốc độ của mắt người có hạn, nó sẽ lưu giữ lại hình ảnh của khoảnh khắc ngay trước đó trong não, vì vậy khi hắn kéo lẫy, chúng ta vẫn không nhìn thấy trên tay hắn có súng. Đây giống như một trò ảo thuật vậy. Thiết bị này do một tên lính trong đơn vị đặc biệt đã giải ngũ của Tiệp Khắc phát minh ra sau Thế chiến II. Sau khi rời khỏi quân đội, y trở thành sát ngủ chuyên nghiệp, vì vậy chúng tôi gọi bộ thiết bị này là Sát thủ Tiệp Khắc.”
Merkin phục trong một lùm cỏ, điều chỉnh lại tần số trên thiết bị liên lạc, thoáng sau đó, từng người trong bọn Trác Mộc Cường Ba đều hiện lên trên tấm kính trước mắt y dưới dạng những chấm đỏ. Còn trên mắt kính của bọn Trác Mộc Cường Ba, lại không hề thấy vị trí của mấy người bên phía bọn y. Nhưng họ đều đã khóa chặt phương vị của Merkin, pháp sư Tháp Tây và pháp sư Á La cũng không hề lơi là với Soares. Chỉ có Max, vì thực lực của hắn quá tệ lậu, xung đột còn chưa bắt đầu đã không biết hắn trốn đi đâu mất. Không ngờ, lại chẳng có ai để ý đến hắn.
Merkin nhìn khoảng cách và vị trí của đám người bọn Trác Mộc Cường Ba, vòng tay ra ba lô phía sau, dường như chuẩn bị đổi một loại vũ khí khác. Soares thình lình không hiểu từ đâu chui ra, đưa tay ngăn y lại: “Để tôi!” Giọng y lúc hạ thấp xuống, nghe như thể tiếng cất ra từ một bóng ma.
Merkin ngạc nhiên nhìn Soares, tựa hồ cảm thấy cực kỳ khó hiểu trước biểu hiện tích cực của người bạn cũ này. Chỉ nghe Soares cười khùng khục nói: “Tôi muốn thử xem, phương pháp mới kia có hữu dụng không.”
Merkin hơi lo lắng: “Có chắc ăn không?”
Soares nhe răng cười: “Thử là biết ngay.”
Trong lùm cỏ đột nhiên vươn ra một cánh tay gầy gò khẳng khiu, không giống như đầu hàng, cũng không giống thị uy, bàn tay ấy chỉ nắm chặt lại. Hai vị pháp sư ngay từ đầu đã chú ý đến Soares, chỉ thấy năm ngón tay y xòe ra, vẫy vẫy về phía chỗ bọn Trác Mộc Cường Ba ẩn nấp. Trác Mộc Cường Ba nhìn theo ánh mắt pháp sư Tháp Tây, trông thấy cánh tay lộ ra giữa lùm cỏ, lấy làm nghi hoặc hỏi: “Vậy là ý gì?”
Trước khi Ba Tang kịp phát hiện và ngắm bắn, cánh tay ấy lại rụt về. Ba Tang cẩn trọng bắn thử một phát, song không thấy phản ứng, liền ngay sau đó, không hiểu có thứ gì di động trong lùm cỏ và tản ra khắp bốn phía. Phút chốc, cả bãi cỏ đung đưa dào dạt, cản trở hết tầm nhìn của họ.
Mười giây sau, tiếng rít như còi tàu khiến người ta rởn hết cả tóc gáy lại vang lên lần nữa. Chỉ là lần này, pháp sư Tháp Tây nhận ra, âm thanh đó đang tiến về phía bọn họ. Nhớ lại hành động cổ quái của Soares vừa rồi, pháp sư Tháp Tây đột nhiên kêu lên: “Không ổn! Mau núp xuống!”
Nhưng rồi ông lại ngay tức thì ý thức được, bây giờ mà nằm rạp xuống ẩn trốn thì e đã quá muộn mất rồi, sau khi áp tai xuống đất nghe ngóng, ông lập tức nói: “Rời khỏi chỗ này, mau lên!” Đồng thời vỗ mạnh lên lưng Trác Mộc Cường Ba: “Lùi lại, mau lùi lại!”
Chưa bao giờ thấy pháp sư Tháp Tây kinh hoảng đến thế, điều này rõ ràng là vì tiếng rít từ xa đang tiến lại gần ấy. Mẫn Mẫn nấp sau một lùm cây khác đánh dấu tay ra hiệu hỏi ý, pháp sư Tháp Tây không còn ngại bị lộ vị trí nữa, hét lên: “Thao thú sư, người đó là một Thao thú sư!”
Pháp sư Á La đột nhiên nhớ lại câu cảnh báo mà các vị tiền bối Mật tu đã phải dùng vô số máu tươi và sinh mạng để đổi lấy: “Không bao giờ được đối đầu với một Thao thú sư trong rừng nguyên sinh đầy rẫy dã thú!”
Ba Tang kinh ngạc phát hiện, sau khi pháp sư Tháp Tây kêu lớn lên như thế, đối phương lại chẳng hề có phản ứng gì cả, bèn quét một loạt đạn ra cả bốn phía xung quanh, rồi mới nhảy từ trên tán cây xuống, lầm bầm chửi: “Bọn chúng chạy từ đời nào rồi!”
Trương Lập và Nhạc Dương cũng ló mình ra sau một gốc cây, lên tiếng hỏi: “Có đuổi hay không?”
Pháp sư Á La lắc đầu: “Nhanh, nhanh chóng trở về Tước Mẫu!”
Pháp sư Tháp Tây ấn tay lên cành cây, giọng nói trầm trầm toát ra vẻ bất lực: “Hình như chúng ta bị bao vây rồi.”
Mẫn Mẫn bối rối hỏi: “Chuyện gì vậy ạ? Đã xảy ra chuyện gì thế?”
Lữ Cánh Nam nói: “Khu rừng này lớn quá, phải phân biệt được phương hướng trước đã.” Cùng lúc ấy, tiếng rít trong rừng mỗi lúc một nhiều hơn, tốc độ cực nhanh.
Trác Mộc Cường Ba đột nhiên gầm lên một tiếng: “Đừng ồn nữa! Đi theo tôi!” Dứt lời gã cõng pháp sư Tháp Tây, xoay người guồng chân chạy, đồng thời nói: “Pháp sư, ngài chỉ hướng cho tôi!”
Pháp sư Tháp Tây “ừm” một tiếng, rồi nói: “Chạy về phía kia!” Cả đoàn người liền bám sát theo sau.
Đi được chừng năm chục bước, con Lỗ Mặc đầu tiên đã từ trong rừng chui ra. Tựa như ăn phải thuốc kích thích, nó kêu lên một tiếng hưng phấn, rồi bổ thẳng vào giữa đội hình của bọn Trác Mộc Cường Ba. Ba Tang, Trương Lập, Nhạc Dương, Lữ Cánh Nam cùng lúc nổ súng, từng đóa hoa máu đỏ tươi nở rộ trên sắc da màu xanh xám, nhưng cái sinh mệnh nguyên thủy ngoan cường ấy dường như không hề bị ảnh hưởng một chút nào, vẫn cứ vung vẩy chi trước như cánh tay bọ ngựa lao vù vù thẳng đến. Cuối cùng, bọn Ba Tang buộc phải lách người né tránh. Con “người” Lỗ Mặc trúng mấy viên đạn, cuối cùng đâm sầm vào một thân cây, móng vuốt găm cả vào đó, vẫn không ngừng vùng vẫy quẫy đạp, không chịu ngã xuống.
Pháp sư Tháp Tây lại chỉ hướng: “Bên này!” Trác Mộc Cường Ba vội vàng lao theo, bọn họ đã được nếm mùi lợi hại của lũ thợ săn khủng khiếp, cả nhóm của Tây Mễ đã có quá nửa đều bị lũ sát thủ này tiêu diệt, giờ đây vòng đời xoay chuyển, không ngờ tai vạ lại rơi đúng xuống đầu bọn họ.
Soares ngồi trên một tán cây, dùng ống nhòm quan sát bọn Trác Mộc Cường Ba luống cuống bỏ chạy, thấy bọn gã đâm đầu vào giữa vòng vây của đám người Lỗ Mặc, liền vui vẻ ghi lại mấy số liệu gì đó, đoạn nói với Merkin: “Có hiệu quả, xem ra từ thời viễn cổ, những loài sinh vật này đã tiến hóa ra một hệ thống tiếp nhận chất thông tin hoàn chỉnh rồi. Bọn thằn lằn to đùng ấy không khác gì các sinh vật thời hiện đại ở thế giới bên ngoài, cũng có hệ thống trao đổi thông tin bằng các kích thích tố sinh vật khá hoàn chỉnh. Tôi còn phải thử mấy loại nữa như xua đuổi, báo hiệu ăn…, còn cả hệ thống trao đổi bằng âm thanh của chúng nữa, cũng phải tiếp tục lần mò tìm hiểu.”
Merkin chẳng hứng thú gì với những sinh vật xấu xí ấy, trong lòng thầm nhủ, cả một khu rừng lớn thế này, giờ bị Soares làm cho đâu đâu cũng toàn là bọn thằn lằn dữ tợn đó, mình làm sao đi ra được đây? Đột nhiên, y sực nghĩ ra điều gì đó, lên tiếng hỏi Soares: “Sao bọn chúng không leo lên cây?”
Soares nói: “Bất cứ là ai, khi đối mặt với biến cố bất ngờ đều sẽ kinh hoảng, bọn chúng chỉ lo chạy tháo mạng, mà ngược lại quên mất phương pháp đơn giản dễ làm nhất.”
Lúc này, Max ở bên cạnh bỗng lắp bắp nói: “Ông… ông chủ, bọn chúng, bọn chúng biết leo cây!”
Merkin trừng mắt lên nhìn hắn, giận dữ quát lên: “Sao mày không nói sớm!” Đột nhiên bên dưới gốc cây bọn y đang ẩn nấp vang lên những tiếng “chắt chắt chắt”, ba con người Lỗ Mặc đã vây quanh bên dưới, rõ ràng đã phát hiện có người ở bên trên. Chỉ thấy một con tung mình nhảy lên, dán người vào cành cây, sau đó bắt đầu bò lên với tốc độ cực nhanh.
Merkin đưa mắt nhìn Soares hỏi: “Chất kích thích xua đuổi chúng đâu?”
Soares nhún vai đầy bất lực: “Tôi vẫn chưa trích rút ra được, dùng vũ khí đi…”
Tập 9
Khi Đại Địch ô Thứ Kiệt mở gói công cụ ấy ra, hai mắt pháp sư Tháp Tây sáng bừng lên. Ông cẩn thận đưa tay vuốt nhẹ lên từng món một, hạ giọng thì thầm: “Hơn một nghìn năm rồi, vậy mà vẫn còn giữ được hoàn hảo thế này. Đây là một bộ Đại diễn man khí, tổng cộng có ba trăm mười ba món, giờ đây trên thế gian chỉ sợ không còn bộ dụng cụ nào hoàn chỉnh được như vậy nữa đâu. Tốt quá, bệnh của công chúa có thể chữa khỏi rồi!”
Tẩy huyết
“Đội trưởng Hồ Dương!”
“Choang” một tiếng, bình bảo quản máu dự trữ trên tay Trương Lập rơi xuống đất. “Đội trưởng Hồ Dương!” Vừa khóc, anh vừa bổ nhào đến. Trương Lập không dám tin, người đàn ông râu rậm thô lỗ mà hào sảng ấy, con người cứng rắn tưởng như được rèn từ sắt thép, con người đã bao lần kéo họ về từ lằn ranh của cái chết ấy, con người mà đến cả núi tuyết cũng không đè nổi, giờ đây lại lặng lẽ ra đi như thế.
Lúc này, Tước Mẫu vương mới hớt hơ hớt hải chạy đến, vừa ngó nghiêng đánh giá bọn Trác Mộc Cường Ba, vừa cất tiếng hỏi: “Nghe nói đã mời được Qua Ba Đại Địch ô đến rồi? Vị nào là Qua Ba Đại Địch ô vậy?” Ánh mắt ông ta đảo một vòng, lập tức khóa chặt trên người pháp sư Tháp Tây trong bộ y phục đen tuyền.
Trác Mộc Cường Ba vươn tay nhấc Tước Mẫu vương lên trước ngực mình, chỉ vào di thể của đội trưởng Hồ Dương gằn giọng quát: “Đây là minh ước thần thánh của các người đó hả? Chuyện này là như thế nào? Rốt cuộc là như thế nào đây hả?”
Tước Mẫu vương bấy giờ mới phát hiện trên mặt đất có một người đã nằm xuống, ông ta há hốc miệng hồi lâu, không thốt lên được tiếng nào. Đám hộ vệ xung quanh thấy đại vương bị bắt giữ, liền nhao nhao rút khí giới ra, nhưng gặp phải ánh mắt lạnh lùng của Ba Tang, đồng thời lại thấy bọn Lữ Cánh Nam, Nhạc Dương đều cầm vũ khí trên tay, bọn chúng cũng không dám vọng động, chỉ đứng tại chỗ quát tháo ầm ĩ:
“Mau thả đại vương ra!”
“To gan!”
“Vô lễ!”
“Mau thả người!”
Trác Mộc Cường Ba cố gắng ghìm ngọn lửa giận đang hừng hực bốc cao trong lòng, nhưng bắp thịt trên hai cánh tay lại không chịu sự khống chế của gã, cứ run lên bần bật. Tước Mẫu vương bị gã nhấc bổng khỏi mặt đất, thân thể cũng bắt đầu run rẩy theo đôi cánh tay ấy, tới khi được Trác Mộc Cường Ba thả xuống đất, hai chân vẫn còn hơi run run. Chỉ nghe Tước Mẫu vương lập cập nói: “Yên tĩnh! Tất cả yên tĩnh cho ta! Bản vương không sao!”
Ông ta nhìn thi thể của đội trưởng Hồ Dương, cũng không biết phải nói sao cho phải, một hồi lâu sau mới cất tiếng: “Ta không biết chuyện này, là do Quách Nhật Niệm Thanh làm, tất cả đều do Quách Nhật Niệm Thanh làm cả.” Kế đó, Tước Mẫu vương lại quát lớn: “Quách Nhật Niệm Thanh đâu rồi? Mau gọi hắn đến gặp ta!”
“Khởi bẩm đại vương, Quách Nhật Niệm Thanh đại nhân vừa rời khỏi Tước Mẫu, không biết đã đi đâu.” Một tên hộ vệ lập tức hồi báo.
“Quách Nhật Niệm Thanh! Tại sao? Tại sao hắn ta phải làm vậy?” Hai tay Trác Mộc Cường Ba nắm chặt đến nỗi kêu lên răng rắc, tựa hồ muốn bóp nát xương cốt của tên Quách Nhật Niệm Thanh kia thành bột phấn vậy. Nhưng câu trả lời gã nhận được, chỉ là cái lắc đầu ngây ngốc của Tước Mẫu vương mà thôi.
Không ai biết tại sao Quách Nhật Niệm Thanh lại làm như vậy, đến cả Nhạc Dương cũng lấy làm nghi hoặc khó hiểu. Nếu nói mục tiêu của y là Tước Mẫu vương, vậy thì hà tất phải mạo hiểm phá hoại minh ước thần thánh làm gì? Gần như là đã bất chấp tất cả để giết cho bằng được đội trưởng Hồ Dương vậy, hơn nữa, còn phải đích thân y hạ sát nữa, rốt cuộc chuyện này là như thế nào?
Tước Mẫu vương biết rõ, phá hoại minh ước thần thánh không phải chuyện nhỏ, điều này can hệ đến cả hoàng quyền và uy tín, liền lập tức hạ lệnh: “Tìm! Dù có lật tung cả Langbu này lên cũng phải tìm được hắn về đây!” Đám binh sĩ vội vàng vâng lệnh chạy đi.
Trước mặt Qua Ba Đại Địch ô, Tước Mẫu vương bỗng trở nên cực kỳ cung kính và khách khí, thái độ có thể nói là đã thay đổi một trăm tám mươi độ, bọn Trác Mộc Cường Ba gần như muốn gì được nấy, kể cả việc thực hiện nghi thức thiên táng cho đội trưởng Hồ Dương cũng được đáp ứng ngay và luôn. Xem ra, chỉ cần chữa khỏi đôi mắt cho công chúa, cho dù có bảo lập tức thoái vị nhường ngôi, ông ta cũng không hề tiếc nuối.
Trong vương cung Tước Mẫu, Mẫn Mẫn mơ màng tỉnh dậy sau cơn hôn mê, biết được tin buồn của đội trưởng Hồ Dương, cô gục đầu vào lòng Trác Mộc Cường Ba khóc một hồi lâu. Cô kể với cả bọn, đội trưởng Hồ Dương từng nói với cô một lý do hết sức kỳ quái. Quách Nhật Niệm Thanh cứ một mực cho rằng, đội trưởng Hồ Dương đã cướp đi thứ quý giá nhất của y. Nhưng rốt cuộc thứ ấy là gì, thì mọi người đều không hề có chút đầu mối nào cả.
Theo tập tục thiên táng của Langbu, thi thể đội trưởng Hồ Dương được quấn chặt bằng nhiều lớp vải lụa trắng tinh khiết, tựa như con tằm nhả tơ làm kén. Thân thể anh được cố định ở tư thế giống như thai nhi nằm trong bụng mẹ, hai tay ôm ngực, cằm chạm đến gối. Sau đó, người ta đưa anh vào một gian phòng đá trống không, chẳng có ban thờ, cũng không thắp hương thắp nến hay đốt giấy tiền vàng mã gì cả. Cái vỏ kén trắng tinh khiết ấy cứ nằm trơ trọi ở đó đến tận hết trung ấm kỳ[i] , những người chuyên trách nghi thức mới chọn ngày lành giờ tốt để tiến hành thiên táng.
Về gian phòng rỗng không này, Nhạc Dương thắc mắc, nghi thức tang lễ chỉ quốc vương mới được hưởng mà lại đơn giản có vậy thôi sao? Tước Mẫu vương đáp rằng, đó mới là sự hồi quy luân chuyển. Pháp sư Á La cũng bảo, thiên táng, tương ứng với “không táng” trong bốn phương thức mai táng cơ bản của loài người, bao gồm thổ táng, hỏa táng, thủy táng, và không táng. Ý nghĩa căn bản của nghi thức này là trở về với hư vô, tất cả tuân theo cảnh giới “vô ngã vô vật”, mọi món đồ trang sức của tục thế đều sẽ trở thành chướng ngại đối với sự trở về của linh hồn.
Sau khi Quách Nhật Niệm Thanh bỏ trốn, Tước Mẫu vương dường như không còn chủ kiến, chuyện gì cũng do dự bất quyết, thái độ đối với bọn Trác Mộc Cường Ba lại càng thay đổi một trăm tám mươi độ, trở nên hết sức cung kính, nếu người ngoài không biết, thậm chí có khi còn tưởng rằng ông ta chỉ là một tên hầu cận bưng trà rót nước cũng nên. Thái độ khiêm cung lễ phép này lẽ dĩ nhiên là dành cho Qua Ba Đại Địch ô trước nhất. Mà sự thực, nhân khoảng thời gian di thể của đội trưởng Hồ Dương được quàn trong phòng trống, Tước Mẫu vương cũng đã nhiều lần nhắc đến cô con gái đáng thương của mình. Câu trả lời của pháp sư Tháp Tây lần nào cũng là, phải xem rồi mới biết được. Kỳ thực, trên đường ông đã hỏi han Lữ Cánh Nam rất kỹ về bệnh tình của công chúa Lạp Mẫu, đồng thời, sứ giả Langbu cũng từng mang đến những thông tin tường tận hơn rất nhiều. Đối với căn bệnh này của công chúa, ông cũng có niềm tin chữa khỏi được. Tuy nhiên có trị liệu cho công chúa hay không? Nên chữa bệnh cho công chúa Lạp Mẫu trước, hay là bảo Tước Mẫu vương lấy tằm diên ra giải độc cho Trác Mộc Cường Ba trước, pháp sư Tháp Tây vẫn đợi xem thái độ của Trác Mộc Cường Ba. Bởi xét cho cùng, một thành viên trong nhóm của họ cũng vừa mới mất mạng bởi cái minh ước thần thánh lập với vị Tước Mẫu vương này.
Tước Mẫu vương không phải kẻ mù, ông ta nhanh chóng nhìn ra được đầu mối, vị Qua Ba Đại Địch ô này rõ ràng không chỉ quen biết với bọn Trác Mộc Cường Ba, mà dường như còn rất thân thuộc nữa. Cần vị nào ở đây lên tiếng để cứu chữa cho con gái mình, trong lòng ông ta cũng đã có tính toán. Thế nhưng, điều làm ông ta lo lắng là, người phát ngôn có quyền quyết định kia vẫn đang trong cơn giận dữ vì cái chết của một người khác trong nhóm của anh ta. Tước Mẫu vương vẫn còn chưa quên cảm giác lúc người này nhấc mình lên khỏi mặt đất, khi ấy, sự sống chết của bản thân có lẽ thật sự chỉ cách nhau một đường tơ mỏng mảnh. Mỗi lần nghĩ đến đây, Tước Mẫu vương lại càng không có chủ kiến, cũng bởi bao nhiêu năm nay, ông ta quá ỷ lại và coi trọng ý kiến cũng như cách nhìn của Quách Nhật Niệm Thanh rồi.
Nhìn bộ dạng nơm nớp âu lo, lại suốt ngày ngó trước nhìn sau ấy của Tước Mẫu vương, Nhạc Dương rất muốn bảo với lão quốc vương già hồ đồ này, Quách Nhật Niệm Thanh đã nhìn ngó cái ngai vàng của ông ta từ lâu rồi, một loạt những âm mưu này không phải là không có can hệ gì đến ông ta đâu. Đặc biệt khi thấy vị quốc vương già chỉ chăm chăm lo lắng cho con gái mình, còn những chuyện khác đều nhất loạt không để trong lòng, cuối cùng Nhạc Dương cũng không nhịn được mà lên tiếng: “Mắt của con gái ông, mắt của con gái ông, ông lúc nào cũng chỉ biết có vậy à? Ông có biết Quách Nhật Niệm Thanh muốn tạo phản hay không? Hắn ta muốn cướp vương vị của ông đấy! Đối phó với chúng tôi, chẳng qua chỉ là một mắt xích trong âm mưu liên hoàn của hắn mà thôi, đến lúc vương vị cũng mất luôn rồi, thử hỏi ông còn lại được cái gì nữa chứ?”
Không ngờ câu trả lời của Tước Mẫu vương lại khiến tất cả mọi người đều giật mình kinh ngạc: “Bản vương sớm đã biết rồi.” Ông vua già ấy vẫn giữ vẻ mặt hờ hững như không, bình thản nói: “Chớ nghĩ rằng bản vương già mà hồ đồ thật, kỳ thực, cách đây rất lâu, Đại Địch ô Thứ Kiệt đã nói với ta, Quách Nhật Niệm Thanh đang lén lút làm gì đó. Y đã nắm trong tay toàn bộ quân đội của Langbu, vậy mà vẫn thấy chưa đủ, lại còn ngấm ngầm huấn luyện một đội thân vệ trung thành tuyệt đối, chỉ phục tùng mệnh lệnh của một mình y mà thôi. Kể từ lúc đó, chúng ta đã biết, dường như y không đợi được nữa rồi.”
“Hả?” Nhạc Dương lấy làm ngạc nhiên, xưa nay anh chưa từng nghe nói có vị quân vương nào sau khi biết ngôi báu của mình sắp bị người khác bày mưu đoạt mất mà vẫn giữ được thái độ bình tĩnh như thế cả, tựa hồ đó là chuyện đương nhiên phải thế vậy. Thực sự không sao hiểu nổi, anh bất giác buột miệng lớn tiếng hỏi: “Có nhầm lẫn không vậy? Hắn ta muốn đoạt ngôi báu của ông đấy nhé! Sao ông có thể để âm mưu của hắn tiến hành từng bước từng bước như thế được chứ?”
Tước Mẫu vương điềm đạm nói: “Ngôi báu này vốn là của y mà.” Thấy bọn Trác Mộc Cường Ba có vẻ không hiểu, Tước Mẫu vương bèn giải thích: “Quách Nhật Niệm Thanh là đứa cháu duy nhất của ta, Langbu này cũng không thể có nữ vương, vì vậy, sau khi ta chết, ngôi báu này nhất định sẽ thuộc về y. Bây giờ, các vị đã hiểu tại sao ta lại coi trọng y như vậy rồi chứ. Xưa nay ta vẫn luôn coi y như con trai, cho dù y muốn đoạt lấy ngôi báu này cũng vậy thôi. Huống hồ, uy tín của y trong quân đội vốn đã rất cao, thêm vào đó, ba năm trước y còn lập công dẹp yên được trận chiến tranh kéo dài nhiều năm giữa Langbu và Yaca, đã trở thành thống lĩnh tối cao của quân đội rồi. Bởi thế, ở Langbu này, y chỉ kiêng dè có mình ta và Đại Địch ô Thứ Kiệt mà thôi. Nếu không phải trong tay các vị có hỏa khí lợi hại, y vốn cũng không cần phải bỏ chạy như thế. Kỳ thực, điểm duy nhất làm ta nghi hoặc là, tại sao y phải nôn nóng đến vậy? Trước đây y cũng không phải là kẻ tham lam quyền lực gì, nhưng từ sau lần hòa đàm ba năm trước, y cứ như thể đã biến thành một con người hoàn toàn khác vậy.”
“Vậy thì, kể cả khi hắn dùng cổ độc làm mù mắt công chúa Lạp Mẫu, ông cũng dung thứ được à?” Giác quan nhạy bén của Nhạc Dương nhận ra, có lẽ Tước Mẫu vương biết được chuyện gì đó, nhưng nhất định ông ta không thể có được một cái nhìn toàn diện.
“Cậu nói cái gì?” Quả nhiên, Tước Mẫu vương kinh hãi đứng bật dậy, luôn miệng nói: “Không thể nào! Không thể nào như vậy được! Tại sao y lại hạ thủ với con gái ta?”
Nhạc Dương thở dài nói: “Phải rồi, tại sao chứ? Tại sao phải đối phó với công chúa? Tại sao phải mạo hiểm phá hoại minh ước thần thánh để ra tay với đội trưởng Hồ Dương? Tên Quách Nhật Niệm Thanh rốt cuộc đang nghĩ cái gì trong đầu vậy?” Tất cả mọi người đều chìm vào suy tư.
“Gượm đã…” Nhạc Dương đột nhiên sực nghĩ ra điều gì đó, vội hỏi Tước Mẫu vương: “Ông bảo Quách Nhật Niệm Thanh là cháu ông? Vậy thì hắn ta cũng có thể coi như là vương tử của Langbu rồi đúng không?”
Tước Mẫu vương gật đầu: “Đúng thế, là vương tử duy nhất của Langbu.”
“Nếu muốn thuận lợi kế thừa vương vị, liệu hắn ta có phải có quan hệ gì với công chúa Lạp Mẫu không?”
“À! Có, có đấy, y phải lấy con gái ta thì mới có quyền kế thừa vương vị!” Tước Mẫu vương dường như đã hiểu ra điều gì đó, lẩm bẩm nói: “Cậu, ý cậu là, nó hạ thủ với con gái bản vương, lẽ nào vì…”
Nhạc Dương đột nhiên chỉ tay vào Trương Lập, đứng dậy nói: “Tôi hiểu rồi! Tất cả đều rõ ràng rồi! Ba năm trước, tất cả đều bắt nguồn từ ba năm trước! Tại sao Quách Nhật Niệm Thanh phải làm mù mắt công chúa, tại sao lại muốn giết chết đội trưởng Hồ Dương, tôi đã tìm được nguyên nhân rồi!”
“Rốt cuộc là chuyện gì vậy?”
“Cậu phát hiện được gì thế, Nhạc Dương?”
Bọn Trác Mộc Cường Ba đều nôn nóng gặng hỏi. Cái chết của đội trưởng Hồ Dương quả thực đã mang đến cho họ quá nhiều nghi vấn.
Nhạc Dương chừng như đứng không vững lắm, anh nhìn Trương Lập nói: “Có lẽ, đội trưởng Hồ Dương đã chết oan, người Quách Nhật Niệm Thanh thực sự muốn giết, sợ rằng chính là anh đấy!”
“Cậu… cậu nói cái gì?” Trương Lập cũng đứng lên, đối mặt với Nhạc Dương, ánh mắt đầy kinh ngạc pha lẫn ngờ vực. Nhạc Dương khi ấy liền chậm rãi giải thích: “Còn nhớ câu chuyện cổ tích tôi từng kể với anh không? Vương tử bị thương gặp nàng thiếu nữ xinh đẹp lương thiện, trái tim chàng không thể kháng cự, đã trở thành tù binh của nàng thiếu nữ thuần khiết kia… Địch ô An Cát Mẫu có nói, Mã Cát cũng từng có trải nghiệm tương tự như vậy! Lần Quách Nhật Niệm Thanh bị bắn mù mắt đó, chính Mã Cát đã cứu hắn ta! Trời đất ơi! Là Mã Cát, Mã Cát A Mễ, người Quách Nhật Niệm Thanh yêu chính là Mã Cát A Mễ! Ba năm trước, khi hắn bị thương nặng, chính Mã Cát đã cứu mạng hắn! Để giành được trái tim của Mã Cát A Mễ, hắn mới bất chấp tất cả: hắn chấm dứt chiến tranh, hòa đàm với Yaca; hắn không muốn lấy công chúa, vì vậy mới bày kế khiến nàng mù mắt; hắn muốn giành lấy ngôi báu, bất chấp mọi giá, những thứ này, đều là vì Mã Cát! Chỉ là không hiểu tại sao, hắn ta đã nhầm đội trưởng Hồ Dương là anh, người mà hắn muốn bất chấp mọi giá để giết cho bằng được, là anh đấy! Anh đã cướp đi thứ quý giá nhất của hắn ta, đó chính là trái tim của Mã Cát! Thứ ấy thì vĩnh viễn cũng không bao giờ trả lại được!”
Lời này của Nhạc Dương tựa như một tiếng sấm vang lên trong lòng tất cả những người có mặt tại đó. Tước Mẫu vương, Trương Lập, đều đứng ngẩn người ra tại chỗ. Tất cả đều đã được móc nối với nhau, không ngờ lại là như vậy, thậm chí cả bản thân Nhạc Dương cũng không dám tin đây lại là sự thực. Sở dĩ trước nay anh không bao giờ nghĩ đến khả năng này, là bởi thực tình anh không tài nào có thể liên tưởng hình tượng của Quách Nhật Niệm Thanh với vị vương tử trong câu chuyện cổ tích ấy. Trương Lập bần thần ra một lúc lâu, rồi đột nhiên hét lên: “Đội trưởng Hồ Dương! Đội trưởng Hồ Dương…” Vừa hét, anh vừa lao về phía gian phòng quàn đội trưởng Hồ Dương.
“Trương Lập!” Nhạc Dương cuống quýt gọi, nhưng Trác Mộc Cường Ba đã ngăn lại: “Đừng đuổi theo, để cậu ấy yên tĩnh một lúc.”
Nhạc Dương nói với Trác Mộc Cường Ba: “Cường Ba thiếu gia, việc Quách Nhật Niệm Thanh giết chết đội trưởng Hồ Dương, sợ rằng còn có một tầng ý nghĩa nữa. Hắn ta muốn kích cho chúng ta nổi giận. Nếu chúng ta vì phẫn nộ mà không chữa mắt cho công chúa Lạp Mẫu, thì vừa khéo đúng với ý đồ của hắn. Hắn ta muốn đẩy quan hệ giữa chúng ta và Tước Mẫu vương nằm mấp mé bên bờ sụp đổ, hừ… đây mới thực sự là sách lược của một nhà âm mưu, giống như đánh cờ vậy, mỗi bước đều đã tính toán hết sức tỉ mỉ kỹ lưỡng rồi.”
Trác Mộc Cường Ba ngẩn người ra nhìn Nhạc Dương, nếu không có anh chàng này, e là không ai có thể nghĩ xa đến vậy. Lúc này, Tước Mẫu vương vội vàng lên tiếng: “Đại Địch ô, vậy ngài xem, bao giờ thì đi xem…”
Trác Mộc Cường Ba thầm thở dài một tiếng, suy nghĩ đầu tiên hiện lên trong đầu gã là, không thể để âm mưu của Quách Nhật Niệm Thanh thành công được, gã bèn nói với pháp sư Tháp Tây: “Pháp sư.”
Pháp sư Tháp Tây gật đầu: “Đi thôi, đưa tôi đến gặp công chúa.”
Trong căn phòng đá đèn đuốc sáng trưng, công chúa Lạp Mẫu ngồi bên mép giường, pháp sư Tháp Tây đang kiểm tra cho nàng, Đại Địch ô Thứ Kiệt cũng ở bên cạnh. “Bệnh mù sông.” Trên đường quay về Tước Mẫu, pháp sư Tháp Tây đã nghe Lữ Cánh Nam kể về bệnh tình của công chúa, giờ chẳng qua là khẳng định thêm một lần nữa mà thôi. Ông cũng sử dụng máy siêu âm ba chiều.
Đại Địch ô Thứ Kiệt nói: “Có cách gì không?”
Pháp sư Tháp Tây hỏi: “Nghe nói chỗ các vị còn giữ được các công cụ của bộ tộc Qua Ba để lại?”
Đại Địch ô Thứ Kiệt gật đầu: “Đúng thế.”
Pháp sư Tháp Tây liền nói: “Đưa tôi đi xem.”
Khi Đại Địch ô Thứ Kiệt mở gói công cụ ấy ra, hai mắt pháp sư Tháp Tây sáng bừng lên. Ông cẩn thận đưa tay vuốt nhẹ lên từng món một, hạ giọng thì thầm: “Hơn một nghìn năm rồi, vậy mà vẫn còn giữ được hoàn hảo thế này. Đây là một bộ Đại diễn man khí, tổng cộng có ba trăm mười ba món, giờ đây trên thế gian chỉ sợ không còn bộ dụng cụ nào hoàn chỉnh được như vậy nữa đâu. Tốt quá, bệnh của công chúa có thể chữa khỏi rồi!”
“Pháp sư, ngài nói đây là dụng cụ phẫu thuật ạ? Dùng những thứ này để làm phẫu thuật cho công chúa Lạp Mẫu sao ạ?” Đường Mẫn vẫn không dám tin những thứ đáng sợ trước mắt này lại là dụng cụ để phẫu thuật.
Pháp sư Tháp Tây mỉm cười nói: “Đúng vậy, đây là bộ dụng cụ phẫu thuật hoàn chỉnh nhất mà tôi biết, đừng nhìn hình dạng cổ quái kỳ dị của chúng, kỳ thực mỗi loại tạo hình đều có công dụng riêng. Có thể nói, chúng còn đầy đủ hơn các bộ dụng cụ phẫu thuật thường thấy trong y học hiện đại nhiều. Người nào thực sự biết cách sử dụng, cầm những thứ này, sẽ thấy tiện lợi hơn hẳn các loại dụng cụ phẫu thuật hiện đại. Các loại dụng cụ hiện đại bây giờ đại để chia thành từng nhóm như dao, kéo, kìm, nhíp, kẹp, móc, kim, cưa và loại hỗn tạp, còn dụng cụ của nền y học Tây Tạng cổ xưa lại phân loại dựa trên ba nguyên tố lớn của cơ thể người. Nói theo lý luận của y học ngày nay thì đại để chia làm các loại: chọc, mổ và thăm dò. Thứ Kiệt đại nhân, ngài còn nhớ danh xưng của chúng chứ?”
Đại Địch ô Thứ Kiệt gật đầu, nói: “Tuy không biết cách dùng, nhưng tên gọi thì vẫn nhớ được.”
Pháp sư Tháp Tây nói: “Tốt quá rồi, tôi đang cần một trợ thủ như ngài đây. Cánh Nam và Mẫn Mẫn, hai người có thể đứng một bên quan sát.”
Lữ Cánh Nam hỏi: “Làm phẫu thuật ngay bây giờ ạ?”
Pháp sư Tháp Tây gật đầu: “Ừm, hình ảnh siêu âm ba chiều lúc nãy cho thấy, khối u không chỉ đè lên thần kinh thị giác, mà còn có nguy cơ bị vỡ ra, chậm một phút, cũng có khả năng khiến công chúa mãi mãi mất đi ánh sáng, bại liệt hoặc thậm chí là tử vong.”
“Đợi chút đã!” Lúc này, Nhạc Dương chợt lên tiếng: “Tằm diên ở đâu?”
Đại Địch ô Thứ Kiệt đưa mắt nhìn Tước Mẫu vương. Tước Mẫu vương vội nói: “Ở trong kho của bản vương.”
Nhạc Dương hỏi: “Việc bảo quản tằm diên có cần điều kiện đặc thù gì không?”
Đại Địch ô Thứ Kiệt lắc đầu đáp: “Không, chúng đã được đóng trong vại kín, không cần điều kiện đặc thù gì.”
“Vậy thì tốt, lấy tằm diên ra đây đã. Tôi mong rằng sau khi phẫu thuật cho công chúa xong, Cường Ba thiếu gia cũng có thể được trị liệu ngay lập tức.” Nhạc Dương nói.
Tước Mẫu vương lại rốt rít gật đầu: “Phải, phải, nên như thế, nên như thế, để ta lập tức bảo người đi lấy.”
“Tôi cũng đi.” Nhạc Dương lại nói.
Thấy Trác Mộc Cường Ba nhìn mình với ánh mắt kỳ quái, Nhạc Dương liền nhún vai nói: “Chúng ta phải đi trước đối phương một bước, đề phòng bất trắc.” Trác Mộc Cường Ba bấy giờ mới hiểu, liền gật đầu.
Pháp sư Tháp Tây nói: “Mọi người lập tức chuẩn bị phòng ốc, mấy loại thuốc này, cũng phải mau mau phối chế…”
Đại Địch ô Thứ Kiệt vừa nghe liền hiểu ra ngay: “Tôi biết rồi, người hầu sẽ xử lý.”
Pháp sư Tháp Tây lại nói: “Nhớ rõ, bảo với người hầu, phòng ốc phải hun đốt trước.” Nói đoạn, ông quay sang Tước Mẫu vương: “Ngài bảo công chúa chuẩn bị một chút, mấy thứ thuốc này phải sắc ngay để công chúa sử dụng.” Dứt lời, pháp sư lại dặn Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn: “Ba lô của chúng ta cũng phải chuyển vào trong phòng, hai người đi với họ một chút.” Kế đó, ông bảo bọn Trác Mộc Cường Ba: “Giúp họ một tay, lấy dụng cụ ra.”
Nhạc Dương đi theo mấy tên hộ vệ xuống kho ngầm, liền gặp ba bốn binh sĩ đang vác một cái vại lớn bước lên. Nhạc Dương liền hỏi: “Cái gì thế?”
Tên hộ vệ bước lên hỏi mấy gã binh sĩ, một gã trả lời: “Vừa nhận được lệnh của đội trưởng, quốc vương cần dùng tằm diên, bảo chúng tôi đến lấy.”
Tên hộ vệ ấy còn định nói gì đó nữa, nhưng Nhạc Dương đã ngăn lại: “Khỏi phải tranh chấp, cứ bảo với họ, quốc vương sai chúng ta đến lấy, bọn họ có thể trở về vị trí của mình được rồi.”
Mấy tên hộ vệ gánh lấy cái vại, Nhạc Dương lại hỏi: “Bên trong là tằm diên à? Các ngươi chắc chắn chứ?” Cả mấy người đều tỏ vẻ khẳng định. Nhạc Dương kiểm tra niêm phong trên miệng vại, thấy hết sức chắc chắn, thời gian cũng đã lâu, mà đám hộ vệ có vẻ cũng phải rất gắng sức mới gánh được, bấy giờ anh mới thở phào nhẹ nhõm, nói: “Khiêng đi tìm Đại Địch ô Thứ Kiệt.” Nói đoạn, trong lòng thầm nhủ: “Nguy hiểm quá, sém chút nữa thì bị đối phương giành trước rồi.”
“Dao cắt mạch…”
“Dùi xương…”
“Kìm mỏ vịt…”
“Kìm mỏ âu…”
“Tước vĩ đao…”
Từng cái tên xưa nay chưa từng được nghe nói đến bao giờ thốt ra khỏi miệng pháp sư Tháp Tây, Đại Địch ô Thứ Kiệt lập tức đưa ra một món công cụ hình dáng kỳ quái. Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam chưa bao giờ thấy thủ thuật như vậy, mỗi món công cụ đều thật kỳ dị, nhưng trong tay pháp sư Tháp Tây, chúng lại trở nên linh hoạt vô cùng. Hai người kinh ngạc phát hiện, thì ra những hình dáng kỳ quái ấy lại có công dụng đặc biệt như thế, mở hộp sọ, thăm dò tổ chức não, chia nhỏ, lấy khối u ra. Bàn tay pháp sư Tháp Tây tựa như đầu bếp mổ trâu[ii] , có thêm những món công cụ này lại càng chẳng khác nào hổ mọc thêm cánh.
Ban đầu, thảo dược dùng để ngâm dụng cụ, sau đó dùng lửa đốt, gian phòng được xông hơi cũng đạt đến một mức độ diệt khuẩn nhất định, còn công chúa uống thuốc vào xong, liền rơi vào trạng thái ngủ sâu. Pháp sư Tháp Tây dùng kim châm định huyệt, kế đó bắt đầu tiến hành phẫu thuật. Dưới sự trợ giúp định vị của máy siêu âm ba chiều, gần như không tốn mấy thời gian, pháp sư Tháp Tây đã lấy ra được mấy khối u hạch trong hộp sọ công chúa, rồi khâu lại và băng bó, còn các khối u ở những phần khác trên cơ thể, ông có thể dùng thuốc để làm tiêu đi.
Khi pháp sư Tháp Tây báo với Tước Mẫu vương, con gái ông ta sau mấy ngày nữa sẽ có thể dần dần hồi phục thị lực, vị quốc vương già ấy mừng đến nỗi suýt chút nữa thì ngất xỉu tại chỗ. Tiếp sau đây, sẽ đến lượt Trác Mộc Cường Ba giải độc Đại thanh liên cổ. Để khỏi đêm dài lắm mộng, bọn Nhạc Dương đều khăng khăng đòi lập tức tiến hành trị liệu ngay cho gã.
Lữ Cánh Nam lo lắng nói: “Có cần nghỉ ngơi một lát không? Đại Địch ô Thứ Kiệt có vẻ hơi mệt rồi.” Cô biết, trong một cuộc phẫu thuật mở hộp sọ thế này, tinh thần của cả người thực hiện phẫu thuật và trợ thủ đều căng thẳng cực độ, cường độ hoạt động của họ tuyệt đối không kém gì tiến hành một cuộc đấu đối kháng tay đôi trong cùng một khoảng thời gian như thế cả.
Đại Địch ô Thứ Kiệt nói: “Ừm, không sao, thực ra giải độc Đại thanh liên cổ không hề phức tạp, quan trọng nhất là phải dùng tằm diên để tẩy huyết, không có tằm diên thì không thể làm gì được.” Ông gọi một người hầu đến, dặn dò mấy câu. Đám người hầu lại chạy đi chuẩn bị. Trong lúc đó, Đại Địch ô Thứ Kiệt nói với Trác Mộc Cường Ba: “Mời đi theo ta, Cường Ba thiếu gia.”
Cả bọn đi theo Đại Địch ô Thứ Kiệt đến một gian phòng bằng đá khác, chỉ thấy mấy người hầu đã ở trong đó bận rộn sửa soạn các thứ. Họ mang những thùng gỗ chứa đầy thảo dược đi đun nóng để xông hơi, chuẩn bị tiêu độc diệt khuẩn. Nhưng bọn Trác Mộc Cường Ba thì lập tức chú ý đến vật thể hình chữ nhật khổng lồ màu trắng đặt chính giữa gian phòng. “Huyết trì!” Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc thốt lên.
Trước mắt, đích thực là một cái huyết trì, nhưng lại hơi khác với những huyết trì trước đây bọn Trác Mộc Cường Ba từng trông thấy. Chính giữa cái huyết trì đó, là một rãnh lõm hình chữ “đại”[iii] , vừa khéo đủ cho một người nằm, bên cạnh có mấy nhánh rẽ, trông như rãnh dẫn lưu. Những rãnh dẫn lưu này đều tụ lại ở một cái hốc hình vuông tương đối lớn, đầu bên kia lại có một máng chảy ra ngoài. Khoảng giữa những máng những rãnh này khá giống với các huyết trì khác, có nơi khoét lỗ, lại có chỗ cầu bắc ngang, khiến người ta không khỏi nghĩ đến những khu nhà vườn đẹp đẽ tinh xảo ở vùng Giang Nam, song lại cũng toát lên một thứ cảm quan thần bí.
“Đúng thế, giải độc vốn là một trong ba công năng chủ yếu của huyết trì.” Pháp sư Tháp Tây nói.
“Ba công năng chủ yếu của huyết trì?” Nhạc Dương lấy làm thắc mắc.
Pháp sư Tháp Tây nói: “Sau khi hệ thống huyết trì dần dần hoàn thiện, đã hình thành nên ba loại công năng lớn, lần lượt là phối chế chất độc, giải độc và mở khóa. Dựa trên những công năng khác nhau, tạo hình của huyết trì cũng khác nhau, loại có rãnh hình chữ “đại” ở giữa này, chính là mẫu huyết trì giải độc điển hình. Những huyết trì mà trước đây mọi người gặp phải, có lẽ đều thuộc hai loại mở khóa và phối chế độc được.”
Đại Địch ô Thứ Kiệt kiểm tra cái vại to ấy, rồi nói: “Ừm, đây là số tằm diên cuối cùng còn lại trong kho, dấu niêm phong trên này là do đích thân sư phụ của ta dán vào, thật không ngờ, sau sáu mươi năm, ta lại đích thân mở nó ra.” Nói đoạn, ông lại kiểm tra hết một lượt các thứ, rồi cất tiếng: “Được rồi, Cường Ba thiếu gia, mời nằm lên trên.”
“Hả!” Trác Mộc Cường Ba kinh hãi nói: “Cứ, cứ vậy mà nằm lên sao?”
Đại Địch ô Thứ Kiệt nói: “Ừm, dĩ nhiên, nếu cậu muốn tắm rửa thay quần áo trước cũng được, chẳng qua sẽ phải tốn thêm chút thời gian thôi.”
Trác Mộc Cường Ba lại đưa mắt nhìn huyết trì, mỗi lần trông thấy thứ này, họ đều không khỏi liên hệ nó với những gì tanh máu, tàn nhẫn và khủng bố, giờ đây lại bảo mình phải nằm lên trên đó, trong lòng cũng hơi có chút thấp thỏm không yên. Có điều, một chút lo lắng ấy cũng không đáng gì, gã chỉ thoáng do dự rồi để nguyên cả quần áo nằm lên trên đó. Cái rãnh hình chữ “đại” ấy cơ hồ như được thiết kế dựa trên tỷ lệ cơ thể người, chỗ hõm ở phần lưng hoàn toàn khớp với xương sống người, nằm lên không hề có chút cảm giác khó chịu nào. Nhưng liền sau đó, Đại Địch ô Thứ Kiệt lại mang ra một món vũ khí hạng nặng, bề ngoài thoạt trông như một khẩu đại liên hoặc súng phun nước cỡ lớn. Ở một đầu thứ ấy, rõ ràng chính là thứ đao rút máu đã từng ghim vào cơ thể đội trưởng Hồ Dương. Trác Mộc Cường Ba kinh hãi nhảy bật lên khỏi huyết trì, hỏi: “Ngài, ngài định làm gì?”
Đại Địch ô Thứ Kiệt dường như đã biết trước Trác Mộc Cường Ba sẽ có phản ứng như vậy, chỉ bình tĩnh nói: “Ta phải rút máu cho cậu. Máu không rút ra, thì làm sao rửa được đây?” Như để Trác Mộc Cường Ba yên tâm hơn, ông lại giải thích tỉ mỉ: “Yên tâm, biết được hôm nay các vị sẽ trở lại, ta sớm đã có chuẩn bị rồi. Thứ này đã được đun trong nước thuốc Ba la sôi già suốt mười hai canh giờ, sẽ không gây ra bất cứ ảnh hưởng xấu nào đến cơ thể cậu đâu.”
Nhạc Dương lẩm bẩm nói: “Cái trò rửa máu với chẳng giặt máu này rốt cuộc là như thế nào vậy?” Không ai trả lời, thoáng sau đó, anh lại khẽ nói: “Chẳng lẽ giống như giặt quần áo vậy à?”
Lữ Cánh Nam thấp giọng hỏi pháp sư Tháp Tây: “Pháp sư Tháp Tây, ngài không tự tay rửa máu cho Cường Ba thiếu gia sao?”
“Không, ta cũng chỉ mới đọc trong thư tịch cách xử lý Đại thanh liên cổ, dù sao cũng không thể bằng Đại Địch ô Thứ Kiệt đích thân thao tác. Có điều, ta nhìn ra được, Đại Địch ô Thứ Kiệt cầm chắc có thể thay máu cho Cường Ba thiếu gia. Nhìn bộ lưới đao liên hoàn mà ông ấy đang cầm kia kìa, công nghệ ngày nay sợ rằng cũng khó mà phục chế nổi đấy.”
Đường Mẫn lo lắng hỏi han: “Rốt cuộc là rửa máu như thế nào vậy?”
Pháp sư Tháp Tây nói: “Theo như sách vở ghi chép lại, một đầu đao trích máu kia nối liền với ống mềm bằng kim loại, đến khi tiến hành thủ thuật thì sẽ đâm mũi đao vào tĩnh mạch hoặc động mạch của Cường Ba thiếu gia… ít nhất thì trong sách tôi đọc không phân biệt tĩnh mạch hay động mạch; sau đó máu sẽ theo ống mềm bằng kim loại kia chảy vào cái hốc nhỏ này, rồi dùng đến loại sinh vật đặc biệt là tằm diên để rửa máu; ở phía bên kia cái hốc ấy cũng có một ống mềm bằng kim loại khác, cũng nối với đao rút máu. Đầu lưỡi đao ấy sẽ cắm vào một mạch máu khác của Cường Ba thiếu gia. Cả quá trình này khá giống với quá trình thẩm tách trong hóa học, nhưng xét về nguyên lý và thủ pháp lợi dụng sinh vật của nó thì sợ rằng phức tạp gấp bội phần.” Thấy Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn về phía mình, pháp sư Tháp Tây gật đầu nói: “Quá trình là như vậy đấy.”
Trác Mộc Cường Ba nghe pháp sư Tháp Tây giải thích cũng thấy yên tâm hơn nhiều, liền lại nằm xuống, phối hợp với Đại Địch ô Thứ Kiệt đặt chân tay vào cái rãnh hình chữ “đại” giữa huyết trì, lộ ra cả cánh tay trái, cảm thấy bên trái hơi cao, bên phải thấp hơn một chút. Chỉ nghe Đại Địch ô Thứ Kiệt nói: “Ta sẽ đâm đao trích máu vào mạch máu của cậu, hơi đau một chút, hãy cố chịu đựng.” Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu, liền ngay sau đó, gã cảm thấy chỗ khuỷu tay mình có thứ gì đấy đâm vào, có thứ gì đó bị đâm toạc ra, rồi thứ ấy vẫn tiếp tục luồn sâu, men theo cánh tay vươn đến tận vai mới dừng lại. Đại Địch ô Thứ Kiệt khẽ nói: “Thư giãn đi, coi như ngủ một giấc là xong!”
Trác Mộc Cường Ba thở dài một hơi, nhắm mắt lại. Mấy ngày nay gã thực sự rất mệt mỏi, nên chỉ thoáng chốc sau đã ngủ thiếp đi. Nhưng những người xung quanh đều không ngủ, trợn tròn hết cả mắt lên mà quan sát, chỉ thấy đầu lưỡi đao trích máu tựa như đầu kim từ tĩnh mạch cùi chỏ tay Trác Mộc Cường Ba vươn dài lên đến tận vai. Trên cánh tay Trác Mộc Cường Ba như thể có thêm một con giun lớn bò thẳng tắp. Đại Địch ô Thứ Kiệt chầm chậm rút đầu kia của lưỡi đao trích máu ra khỏi vật thể to đùng bằng kim loại ấy, quả nhiên đúng như pháp sư Tháp Tây nói, đầu bên kia của lưỡi đao trích máu nối liền với một ống mềm bằng kim loại màu vàng, nhỏ như đầu đũa. Ống mềm này do vô số sợi tơ mảnh đan xen móc vào nhau tạo nên, có vô số mắt lưới nhỏ li ti. Máu của Trác Mộc Cường Ba tựa như một con côn trùng nhuyễn thể màu đỏ sậm bò men theo từng ô lưới ra ngoài. Đại Địch ô Thứ Kiệt vừa cẩn thận kéo ống lưới kim loại ấy ra, vừa nhẹ nhàng ấn nó vào trong một cái rãnh đá nhỏ.
Nhạc Dương nói: “Thế này không sợ bị nhiễm bẩn sao?”
“Dĩ nhiên là không.” Pháp sư Tháp Tây đáp: “Máu sẽ không thấm ra khỏi ống kim loại ấy, điều này quyết định bởi độ kết dính và sức căng bề mặt chất lỏng. Thoạt nhìn những mắt lưới ấy có vẻ lớn, nhưng thực tế trong những mắt lưới đó lại có những sợi tơ kim loại mảnh hơn, mắt thường không thể phân biệt. Chúng giống như cái sàng, sàng lọc từng tế bào hồng cầu một, những tế bào hỏng hay đã chết đều sẽ bị phân giải một cách triệt để.”
Lúc này, ống kim loại đã được kéo đến gần cái hốc nhỏ bên trên huyết trì, Đại Địch ô Thứ Kiệt tiếp tục kéo thêm ống ra, chỉ có điều, đột nhiên ống kim loại trở nên to hơn, không còn là ống nữa mà là một tấm lưới kim loại. Đại Địch ô trải phẳng tấm lưới ấy ra phủ khắp cả cái hốc nhỏ, kế đó lại kéo thêm dây, tấm lưới lại biến thành ống mềm nhỏ dần, vòng vèo sang đến cánh tay bên kia của Trác Mộc Cường Ba. Đại Địch ô Thứ Kiệt không vội cắm một lưỡi đao trích huyết khác vào tay Trác Mộc Cường Ba, mà ra lệnh cho đám binh sĩ cạnh đó: “Nhấc vại lên!”
Cái vại to tướng được khiêng lên, Đại Địch ô Thứ Kiệt đập vỡ niêm phong, các binh sĩ nghiêng vại xuống, vô số hạt nhỏ màu đen đổ vào trong cái hốc ấy, đè lên lưới kim loại. Sau khi đổ hết một vại hạt đen đó, mấy người bọn Nhạc Dương mới phát hiện, những hạt đen này cỡ bằng hạt gạo, có từng vòng từng vòng vân ngang, phỏng chừng đây chính là nhộng của tằm diên rồi. Đại Địch ô Thứ Kiệt lấy ra một cái nắp lớn, có vẻ như định đậy lên phía trên cái hốc. Ông quay sang hỏi đám người bọn Nhạc Dương: “Có muốn xem không?”
Mấy người đều lắc đầu, thứ nhộng ấy, nhìn thế nào cũng dễ khiến người ta liên tưởng đến nhộng trứng của loài ruồi nhặng, chỉ là nhỏ hơn một chút mà thôi, có trời mới biết sắp sửa sẽ xảy ra chuyện ghê rợn gì nữa. Đại Địch ô Thứ Kiệt gật đầu: “Ừm, đậy nắp lên cũng tốt cho người được giải độc.” Nói đoạn, ông đặt cái nắp lên trên, máu của Trác Mộc Cường Ba chầm chậm chảy bên dưới cái nắp ấy.
Khi máu thấm đến gần mép hốc đá, chỉ nghe bên dưới nắp vang lên những tiếng “tách tách tách tách” không ngừng, tựa hồ có thứ gì đang nứt toác ra, liền ngay sau đó, tốc độ chảy của dòng máu cũng tăng lên. m thanh “tách tách” ấy cũng mỗi lúc một mau hơn. Chẳng mấy chốc, máu của Trác Mộc Cường Ba đã chạy theo ống mềm kim loại chảy ra từ phía bên kia của hốc đá. Điều khiến người ta kinh ngạc là, máu tĩnh mạch vốn màu đen sậm, sau khi chảy qua cái hốc ấy, liền trở nên đỏ tươi như máu trong động mạch vậy.
Không lâu sau, tiếng “tách tách” bên dưới cái nắp nhỏ dần, thay vào đó là âm thanh như thể có vô số con cá nhỏ đang quẫy trong làn nước, hoặc giả nói, giống âm thanh phát ra khi có vô số con cá trạch bỏ vào một cái thùng nhỏ thì đúng hơn. Tuy đã đậy nắp lên, nhưng qua chỗ khe hở trên mép vẫn có thể nhìn thấy vỏ nhộng màu đen bên dưới không còn nữa, tất cả đã biến thành những con sâu nhỏ trắng như ngọc. Bọn chúng vừa mới thức dậy sau giấc ngủ dài, tựa như cảm nhận được sức hấp dẫn từ máu của Trác Mộc Cường Ba, tranh nhau chui xuống bên dưới hốc đá, không con nào chịu nhường con nào.
Thiên táng
Đường Mẫn nhìn thấy cảnh tượng đó, không nhịn được cắn chặt môi dưới. Nhạc Dương thấp giọng hỏi: “Làm thế này, liệu Cường Ba thiếu gia có chết không nhỉ?”
“Suỵt…” pháp sư Tháp Tây nói: “Sắp thay máu rồi.”
Chỉ thấy một dòng máu đỏ tươi đã chạy qua ống kim loại mềm, Đại Địch ô Thứ Kiệt cầm lưỡi đao trích huyết còn lại đâm vào cánh tay bên kia của Trác Mộc Cường Ba. Máu tươi lập tức chảy theo đường ống, dòng máu đỏ sậm và dòng máu đỏ tươi cùng đổ về một chỗ. Khi ấy, dòng máu đỏ tươi kia tựa hồ biến thành một sinh vật có linh tính, liền thuận theo dòng máu đỏ sậm kia bò lên, từ từ chảy vào huyết quản của Trác Mộc Cường Ba.
“Hả?” Mấy người bọn Nhạc Dương đều thốt lên một tiếng kinh ngạc. Pháp sư Tháp Tây cũng nói: “Sự ảo diệu bên trong như thế nào thì tôi cũng không biết rõ, đại để là một loại hoạt tính sinh vật, có lẽ các tế bào hồng cầu sau khi rửa máu mang một loại điện tích khác với điện tích của tế bào hồng cầu trong tĩnh mạch chảy ra.”
Đại Địch ô Thứ Kiệt nhìn dòng máu đỏ tươi chảy vào cơ thể Trác Mộc Cường Ba, thở phào một hơi nói: “Được rồi, thanh tẩy khoảng một canh giờ là được. Đại thanh liên cổ sẽ bị giải trừ hoàn toàn.”
Trên thực tế, quá trình thanh tẩy ấy kéo dài gần hai canh giờ, người nào cũng hết sức mệt mỏi, nhưng ai nấy đều mở to mắt nhìn chằm chằm vào huyết trì. Ngược lại, kẻ đang phải rửa máu là Trác Mộc Cường Ba thì cứ ngủ say thiêm thiếp.
Cho đến lúc máu từ cánh tay bên phải của Trác Mộc Cường Ba chảy ra cũng biến thành màu đỏ tươi, Đại Địch ô Thứ Kiệt mới nói: “Được rồi, mọi người quay về nghỉ ngơi đi, ngày mai cậu ấy tỉnh lại, sẽ hoàn toàn như người bình thường. Sự thực là, cũng chưa hề xảy ra bất cứ thay đổi gì, đúng vậy không?” Ông rút hai lưỡi đao trích huyết ra, bôi chút thảo dược lên vết thương, máu liền nhanh chóng ngừng chảy. Trác Mộc Cường Ba vẫn nằm yên lặng, không có phản ứng gì.
Những người còn lại đưa mắt nhìn nhau nghi hoặc. Tới khi pháp sư Tháp Tây cất tiếng: “Mọi người về nghỉ ngơi đi, để tôi trông chừng Cường Ba thiếu gia,” tất cả mới tản ra đi theo các hộ vệ về phòng nghỉ ngơi. Đường Mẫn thì vẫn ở lại.
Nhìn Trác Mộc Cường Ba đang say ngủ, trong lòng Đường Mẫn chợt dâng lên một cảm giác ấm áp lạ thường. Có lúc, gã giống như là cha cô vậy, thân thể khôi vĩ cao lớn ấy cho cô cảm giác an toàn để dựa dẫm; đồng thời, gã cũng là một người chồng và một người tình tốt, sự ngọt ngào và ấm áp đó, chỉ có hai người yêu nhau mới cảm nhận được; còn bây giờ, gã lại giống như con trai cô vậy, đang say ngủ, cần cô chuyên tâm săn sóc và bảo vệ. Cảm giác ấy, thật là kỳ diệu xiết bao.
“Anh ấy sẽ khỏe lên, đúng không ạ?”
“Ừm.” Pháp sư Tháp Tây đáp: “Đương nhiên, đương nhiên cậu ấy sẽ khỏe lại.” Ông coi câu hỏi này chỉ như sự quan tâm của Đường Mẫn dành cho Trác Mộc Cường Ba, song không hề lưu ý đến sự chua chát ẩn giấu đằng sau nụ cười của cô. Nụ cười ấy, là nụ cười thê lương thường nở trên môi những người sắp phải ly biệt.
“Nhưng mà, đội trưởng Hồ Dương lại không thể quay về nữa rồi.” Vừa nghĩ đến đội trưởng Hồ Dương, vành mắt Đường Mẫn lại đỏ lựng lên.
Pháp sư Tháp Tây nói: “Đừng nên quá thương tâm, thân thể con người chẳng qua chỉ là cái vỏ da thịt, vô vi vô tướng, linh hồn cậu ấy sẽ đến được miền cực lạc tịnh thổ. Cậu ấy hẳn đã nhìn thấu được sân, si, vọng của đời người, nên mới có thể ra đi không hề đau đớn như thế.”
Đêm hôm ấy trôi qua một cách bình lặng. Không ai nhận ra, trong một góc nhỏ không hề nổi bật ở bình đài Tước Mẫu, có một thiết bị phát xạ laser không lớn hơn cái đinh mũ bao nhiêu, đang lóe lên những tia sáng đỏ, chớp chớp, tắt tắt.
Trong rừng, Max bị một tràng âm thanh “tít tít” làm giật mình thức giấc, y cúi nhìn chiếc nhẫn đặc biệt trên ngón tay mình, mừng rỡ thầm nhủ: “Tốt quá, thiết bị phát xạ tia laser thứ hai đã được khởi động. Mấy người bọn ông chủ sẽ xuống đây ngay thôi. Hừ, Trác Mộc Cường Ba, các người cứ chờ đấy xem.”
Trạm biên phòng nước N.
Merkin đột nhiên kêu lớn: “Soares! Có tín hiệu rồi!”
“Gì hả?” Soares ở trong phòng lao ra, thấy trên màn hình xuất hiện một điểm sáng, liền kích động cầm tay Merkin nói: “Cuối cùng cũng đợi được rồi!”
Merkin cũng không giấu nổi niềm vui trong lòng, mừng rỡ ra mặt: “Mau đi chuẩn bị, chúng ta chỉ có hai mươi bốn tiếng đồng hồ thôi.”
Trác Mộc Cường Ba tỉnh dậy, phát hiện ra Đường Mẫn đã ngủ thiếp đi trên ngực mình. Gã vừa tỉnh giấc, Đường Mẫn cũng lập tức giật mình tỉnh theo, vẻ mặt mệt mỏi nhưng vẫn gượng nở một nụ cười. Hai người cứ thế nhìn nhau một lúc thật lâu. Khoảnh khắc ấy, thời gian như dừng lại, trời đất cũng không còn tồn tại, phảng phất như cả thế gian này chỉ còn có nhau. Ánh mắt ấy, đã chất chứa tất thảy mọi tình cảm họ dành cho nhau, cả hai đều sẵn lòng cứ nhìn nhau mãi thế này, cho đến vĩnh hằng vĩnh viễn.
“Anh ngủ bao lâu rồi?” Trác Mộc Cường Ba vuốt tay qua làn tóc mềm mại của Đường Mẫn.
“Một đêm rồi.” Đường Mẫn cúi người xuống, lắng nghe nhịp tim của Trác Mộc Cường Ba, nũng nịu hỏi: “Cảm giác bây giờ có khác gì không?”
“Ừm, cảm giác à…” Trác Mộc Cường Ba vừa luồn tay qua tóc Đường Mẫn, vừa ngước nhìn lên trần nhà: “Cảm giác rất lạ, anh cảm thấy mọi thứ quanh mình đều thay đổi, nhưng lại không thể nói ra rốt cuộc là có gì khác biệt so với trước đây.”
“Đáng ghét!” Đường Mẫn khẽ đập tay lên lồng ngực Trác Mộc Cường Ba.
Nghe Đường Mẫn nhắc nhở, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên phát hiện ra, đúng vậy, đúng là có gì đó khác biệt, cảm giác đó như thế nào nhỉ? Trong không khí có gió đang cuộn chảy, hơi thở phả ra từ mũi Mẫn Mẫn làm dòng chảy ấy rối loạn, thậm chí gã còn cảm giác được dòng không khí đó đang chảy qua trên bề mặt da mình nữa? Vết tích. Bàn tay cô đang đung đưa trên ngực gã, gã thậm chí còn nắm được một cách rõ ràng quỹ tích của bàn tay nhỏ nhắn ấy mỗi lần nhấc lên hạ xuống. Nhịp tim của gã chầm chậm, mà có quy luật, dường như ngầm theo một tiết tấu nào đó, mỗi lần đều hết sức quy chuẩn, nhịp đập tự nhiên mà mạnh mẽ. Mẫn Mẫn khẽ áp má vào ngực gã, làm lồng ngực ấy sao mà ấm áp, nhưng trong sự ấm áp ấy lại có một tia lành lạnh, gì vậy nhỉ? Hình như là nước.
“Em lại khóc à?” Trác Mộc Cường Ba hơi ngẩng đầu lên, vạt áo trước ngực quả nhiên đã bị nước mắt thấm đầy một mảng lớn, cảm giác này thật hết sức kỳ quái, trước đây gã tuyệt đối không thể nào nắm bắt được mọi thứ rõ ràng như vậy được.
“Chẳng phải tại anh hết à!” Đường Mẫn lấy móng tay vạch vạch trên ngực Trác Mộc Cường Ba qua lần áo, hai mắt đột nhiên lại đỏ lựng lên, thì thào khẽ hỏi: “Nếu như, em chỉ nói nếu như thôi nhé, có một ngày, chúng ta không thể ở bên nhau…”
“Ngốc ạ, sao lại thế được?” Trác Mộc Cường Ba ngắt lời cô, đột nhiên, gã có cảm giác nét mặt Đường Mẫn không được ổn lắm, một dự cảm không lành bất giác hiện ra trong tâm trí.
“Bốp bốp!” dường như cảm nhận được Trác Mộc Cường Ba đã phát giác ra gì đó, Đường Mẫn đập mạnh hai cái lên ngực gã, giận dỗi nói: “Mau dậy đi, để mọi người còn biết anh không sao rồi.” Cô ngập ngừng giây lát, rồi lại nói: “Hôm nay, cử hành nghi thức thiên táng cho đội trưởng Hồ Dương.”
Trác Mộc Cường Ba ngồi dậy, nghiêm nghị gật đầu: “Anh biết rồi.”
“Vậy chúng ta đi thôi, cậu có đi được không?” pháp sư Tháp Tây chợt lên tiếng.
“Pháp sư Tháp Tây, sao ngài lại ở đây?” Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc thốt lên.
Pháp sư Tháp Tây mỉm cười: “Từ nãy giờ tôi vẫn ở đây mà.”
Trương Lập từ lúc biết chuyện đến giờ luôn ở trong gian phòng nhỏ quàn di thể của đội trưởng Hồ Dương. Xác đội trưởng Hồ Dương được nắn thành tư thế thai nhi trong bụng mẹ, hai tay ôm trước ngực, cằm chạm đầu gối, bên ngoài bọc một lớp lụa trắng, tựa như một cái kén hình người. Cả gian phòng trống huếch trống hoác, không có cả một gợn gió nhỏ, không thắp hương thắp nến, không đốt giấy tiền vàng mã, một sự trống rỗng u không bao trùm. Nơi này dường như đã hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài, bầu không khí âm ẩm khiến người ta có cảm giác rằng, đây là ranh giới giữa vùng đất của người sống và cõi chết. Trương Lập cứ thế ngồi bên cạnh xác đội trưởng Hồ Dương, từng cảnh tượng, từng câu chuyện nhỏ khi người đàn ông râu rậm này ở bên mọi người, tiếng cười hào sảng thoải mái ấy, giọng nói thô lỗ mạnh mẽ ấy, giờ đây nhớ lại, sao mà thân thiết đến vậy…
Bất giác, bầu trời sáng bạch, ánh sáng qua bốn tấm kính tròn trên đỉnh đầu khúc xạ xuống tụ lại trên lớp vải trắng, tựa như bọc thân xác đội trưởng Hồ Dương trong một quầng sáng trắng mỏng mảnh. Phải chăng, đúng như tất cả những người ở Tước Mẫu này nói, linh hồn đội trưởng Hồ Dương vẫn còn nằm lại bên trong lớp vải trắng ấy?
Gió, lặng lẽ phất qua mặt đất mênh mang, bầu không màu xám xịt thấp thoáng hiện ra vài vạt khói mờ, mưa nhỏ tí tách tí tách từng giọt một, Shangri-la dường như cũng đang đổ lệ.
Một đoàn người khiêng di thể đội trưởng Hồ Dương, bước trên con đường rải đá dăm nện chặt, không có tiếng nhạc ồn ĩ, cũng không có tiếng chim rừng hót vang, thời không lặng lẽ tựa một tấm gương, ngưng đọng, phản xạ ra những cảnh vật khác nhau.
Một kiến trúc nhân tạo khổng lồ lấp ló hiện ra phía đằng xa, càng đến gần, càng thấy nó kỳ vĩ, khiến người ta không khỏi có cảm giác bị đè nén. Nhạc Dương trầm mặc một thoáng, rồi không nén nổi, cất tiếng phá vỡ bầu không khí tĩnh lặng, thấp giọng thì thào: “Đài cô lâu!”
Xuất hiện trước mắt họ, là một đống xương trắng… chính xác hơn, là một vật thể hình dạng như kim tự tháp của người Maya, được xếp bằng xương đầu lâu người, xung quanh dùng đất sét kết dính lại, vuông vắn quy chuẩn, mỗi bậc thang đều do vô số đầu lâu xếp thành hàng thành lối mà nên. Những bộ răng hết sức hoàn chỉnh còn nguyên trên xương hàm trên hàm dưới, hốc mắt trống rỗng im lìm chăm chú nhìn về nơi xa xăm. Mỗi chiếc đầu lâu đều có hình thái khác nhau, có chiếc như đang thì thầm rủ rỉ, có chiếc lại như thể trầm mặc suy tư, nhiều hơn, là những chiếc tựa hồ đang quan sát và dò xét bọn họ, đám người xa lạ.
Đến rồi, Tước Mẫu vương khẽ hạ lệnh, liền có mấy hộ vệ cường tráng chuẩn bị đón lấy di thể của đội trưởng Hồ Dương, nhưng Trương Lập nói gì cũng nhất quyết đòi đưa tiễn đội trưởng Hồ Dương đến tận phút cuối cùng. Tước Mẫu vương quay sang nhìn pháp sư Á La với ánh mắt khó xử, pháp sư bèn nói với Trương Lập, theo quy củ từ thời xưa, khi cử hành nghi thức thiên táng, người ngoài không được phép đứng bên quan sát. Trương Lập không chịu, một mực nhất quyết đòi đích thân đưa di thể đội trưởng Hồ Dương lên đài. Tước Mẫu vương do dự một hồi lâu, cuối cùng miễn cưỡng đồng ý, nhưng cũng không chịu để những người khác lên theo. Pháp sư Á La phải làm công tác tư tưởng với những người còn lại, ông bảo, đây tuyệt đối không phải Tước Mẫu vương có ý làm khó, mà ngược lại, điều này thể hiện cho sự tôn kính với người chết và các vị thần linh trên trời. Vả lại, toàn bộ quá trình thiên táng, không chỉ đơn giản là khiến tâm trạng người ta cảm thấy nặng nề đau đớn, người bình thường thậm chí còn không thể nào chịu đựng nổi việc đứng bên quan sát quá trình ấy.
Mấy tên hộ vệ khỏe mạnh thay thế cho đám người Trác Mộc Cường Ba, đi theo hai người đàn ông cao lớn tay cầm những dụng cụ quái dị, một người mặc áo đen cũng bước đi theo sau. Pháp sư Á La nói, đó là người giải phẫu và Triệu hoán sư, rồi giải thích thêm, Triệu hoán sư là một chức nghiệp tách ra từ Thao thú sư, chỉ có điều, năng lực thấp hơn Thao thú sư nhiều lắm.
Sau khi bóng hình bọn họ biến mất trên đỉnh đài cô lâu, mọi người bèn lặng lẽ chờ đợi bên dưới. Tước Mẫu vương cũng ở đó đợi cùng.
Thời gian chầm chậm trôi đi, không biết bao lâu sau, mới nghe trên bầu không vang lên một tiếng hú, cao vang réo rắt, tiếng kêu ấy nhanh chóng vẳng đi xa tít tắp. Ngẩng đầu nhìn lên, trong đám mây mù trên bầu không ngoằn ngoèo hình rắn, một đàn chim không rõ tên ào ào bay đến. Chúng phát ra những tiếng kêu như thể tiếng đàn không hầu[iv] , trên đầu có lông ngũ sắc, toàn thân trắng như tuyết, thể hình lớn hơn quạ nhưng nhỏ hơn chim ưng. Bọn chúng đảo lượn bên trên bình đài, thoạt trông tựa như một áng mây phiêu dạt. Trong giây lát, chúng đã tụ lại thành hình một cây cột, con chim đầu đàn dẫn cả đàn bay thành hình xoắn ốc, chầm chậm hạ xuống đỉnh kim tự tháp xây toàn bằng đầu lâu ấy, cuối cùng thì đã chiếm lĩnh trọn cả phần đỉnh đài. Bốn bề lại trở nên tĩnh lặng, tựa hồ như một không gian bít kín, không có gió, không có nước chảy, mọi âm thanh đều im bặt, thậm chí cả không khí dường như cũng đông đặc lại.
Thời gian chầm chậm trôi từng giây từng phút, cuối cùng, không biết là người Triệu hoán sư kia hay con chim đầu đàn lại phát ra một tiếng kêu trong vắt. Cả đàn chim liền từ từ bốc lên cao như một áng mây. Đường bay của chúng, phảng phất như hình thành một đóa sen đang từ từ nở rộ, càng bay càng cao, cuối cùng hòa làm một với áng mây mù mịt trên cao, không còn thấy đâu nữa.
Tước Mẫu vương thở dài một tiếng, nói với mọi người, nghi thức đã hoàn thành, đỉnh đài cô lâu kia đã không còn là cấm địa. Chẳng kịp đợi Tước Mẫu vương nói dứt lời, Nhạc Dương đã xông lên trước tiên. Lúc lên đến nơi, chỉ thấy trên đỉnh đài cô lâu trống trơn, mấy người phẫu thuật thi thể và Triệu hoán sư đã rút cả xuống dưới, chỉ còn mình Trương Lập đứng lẻ loi trơ trọi ở đó. Đội trưởng Hồ Dương đã hoàn toàn biến mất, cả tấm lụa trắng bọc thi thể anh cũng không còn nữa. Bề mặt trên đỉnh đài cô lâu này không hiểu lát bằng loại đá gì, màu sắc trắng như sữa bò, sạch sẽ như thể một pho tượng ngọc mỡ dê được kỳ cọ cẩn thận mỗi ngày, không có một giọt máu, không có một chút xương, tất cả như một màn ảo thuật vậy.
Nhạc Dương bước đến bên cạnh Trương Lập sắc mặt đang tái nhợt, khẽ lắc lắc vai anh hỏi: “Đội trưởng Hồ Dương, đi rồi à?”
Không ngờ chỉ chạm khẽ một cái, Trương Lập đã gục vào vai Nhạc Dương như một con rối đứt dây, hướng về phía mép đài cô lâu, há hốc miệng nôn thốc nôn tháo, cùng với bãi nôn là nước mắt tuôn ra ào ào như suối. Nhạc Dương chỉ còn biết đỡ lấy thân hình Trương Lập, không để anh ngã xuống, trong lòng cũng dấy lên cảm giác đau đớn và chua xót khôn cùng.
Một hồi lâu sau, Trương Lập mới ngừng nôn, đưa tay quệt đi vết bẩn dính trên khóe miệng, nghẹn ngào nói: “Đội trưởng Hồ Dương, anh ấy đã hóa thành một đám mây, tôi… tôi tận mắt trông thấy rồi.”
Nhạc Dương không ngừng gật gật đầu. Anh thà tin rằng như vậy còn hơn.
Lúc này, bọn Trác Mộc Cường Ba cũng đã lên đỉnh đài cô lâu, trong mắt chỉ thấy một nơi thuần khiết, thiêng liêng, nghiêm trang, tựa như là nơi gần với trời cao nhất vậy. Sau cơn mưa, trời nắng lên, một dải cầu vồng bắc từ chỗ đài cô lâu này ra phương xa tít tắp, hai ba đóa mây trắng tha thướt ung dung nhẹ lướt dưới chân cầu. Mọi người đều nghiêm trang đứng nhìn nơi cầu vồng bắc tới kia, trong lòng tha thiết nhớ về người đàn ông râu rậm nói năng có phần hơi thô lỗ ấy.
Tròng mắt Nhạc Dương mở to, ở nơi cuối cầu vồng, dường như anh nhìn thấy hai con chim nhỏ, thấp thoáng ẩn hiện rồi nhanh chóng biến mất trong mây.
Max đang trốn chui trốn nhủi trong rừng như một con chuột chũi, cũng thò đầu ra khỏi tán cây, kinh ngạc thốt lên: “Hả? Cầu vồng?” Nhưng rồi chỉ thoáng sau đó, sự chú ý của hắn đã dồn vào hai chấm đỏ nho nhỏ đột nhiên xuất hiện trên màn hình thiết bị thông tín cá nhân. Hắn không sao đè nén nổi cảm giác mừng rỡ trong lòng, cẩn thận lần theo tín hiệu ấy, mỗi bước đi lại nhìn ngó xung quanh mấy lượt.
Trong mây mù, hai người nhảy dù vũ trang đến tận răng từ từ hạ xuống, họ không sử dụng dù dạng nấm, mà là loại dù động lực trông như một tấm ván lướt sóng khổng lồ, toàn thân kín mít, trên đầu đội mũ sắt tròn, thoạt nhìn trông như thể mặc đồ phi hành vũ trụ loại mỏng. Sau một loạt tiếng rẹt rẹt, giọng Merkin vang lên trong thiết bị liên lạc: “Khôi phục liên lạc được rồi, khá thật, tầng ngăn che tín hiệu điện tử này ít nhất cũng phải dày trên nghìn mét.”
Soares nói: “Phạm vi đám mây mù chết tiệt này che phủ còn lớn hơn, giữa ban ngày ban mặt, vậy mà chẳng nhìn thấy gì cả.”
Merkin nói: “Đừng nôn nóng, anh bạn già, cho đến lúc này, chẳng phải chúng ta vẫn khỏe mạnh bình yên đó sao? Chúng ta đã tới Shangri-la rồi, vùng đất thần bí này đã mở rộng cánh cửa đón chúng ta tiến vào trong nó. Ồ, xem kìa, đã bắt được tín hiệu với thiết bị phát sóng gắn trong người thằng Max rồi đây này.”
Soares nói: “Hả? Hình như từ chỗ nó đến điểm rơi chúng ta định trước còn cách một quãng khá xa.”
Merkin nói: “Chậc chậc, xem ra người bạn mới này chọn cho chúng ta một nơi nguy hiểm rồi, đi, đến chỗ thằng Max.” Dứt lời, y liền giật dây thừng một cái, chiếc dù động lực liền thay đổi phương hướng.
Soares bất mãn nói: “Anh cũng to gan thật, không ngờ lại dùng cách này để khảo nghiệm xem kẻ mới gia nhập với chúng ta kia có thể làm được đến đâu, anh không sợ hắn sẽ bán đứng toàn bộ chúng ta hay sao?”
Merkin cười cười nói: “Yên tâm đi, đây chỉ là một cuộc trắc nghiệm nhỏ rất đơn giản thôi mà, huống hồ hắn ta cũng hiểu, cho dù hắn không làm vậy, chúng ta cũng có cách khác đến được nơi này, tôi có chuẩn bị rồi.”
Soares khẽ “hừ” một tiếng, đột nhiên dây dù căng ra: “Chuyện gì vậy?”
Merkin nói: “Dòng khí lưu hỗn loạn! Chết tiệt, tôi ghét nhất là cái thời tiết này!”
Max kinh ngạc nhìn hai chấm nhỏ di động trên màn hình, khoảng cách của chúng và hắn mỗi lúc một xa hơn, trong lòng lấy làm lạ thầm nhủ: “Ông chủ làm sao vậy nhỉ?” Nghĩ đến tính cách đa nghi của Merkin, Max không khỏi giật thót mình, vội vàng đuổi theo phương hướng của hai chấm đỏ ấy.
Liên minh
Trong rừng.
Soares vò chiếc dù động lực thành một đám, bật nút khởi động thiết bị tự hủy, chiếc dù liền bốc lên một ngọn lửa màu xanh nhàn nhạt, rồi nhanh chóng hóa thành đống tro tàn, mắt thường khó có thể nhận ra một làn khói đen mỏng mảnh bốc lên. Kế đó, y ngẩng đầu lên nói: “Có thấy gì không, Ben?”
Dù của Merkin mắc vào cây gỗ lớn, y hạ chiếc ống nhòm xuống, nói: “Xem ra chúng ta cách điểm đáp dự định không xa lắm, tôi thấy một khu vực có dấu hiệu con người hoạt động, có vẻ như là di tích.”
“Có người nào không?”
“… không thấy.”
“Tôi cảm thấy có gì đó đang tiếp cận chúng ta, xuống đây trước đã.”
Merkin giật dây dù, cả người rơi xuống từ độ cao năm chục mét, trước khi chạm đất lộn nhào mấy vòng, rồi an nhiên đứng dậy. Y phủi phủi bụi đất bám trên người, đọc mấy số liệu hiện trên mũ trùm đầu, rồi gỡ cái mũ ấy xuống, hít sâu một hơi: “Xem ra, không khí ở đây tốt hơn chúng ta tưởng tượng nhiều!”
Soares nhếch mép một cái, coi như là cười. Lúc này, chiếc dù động lực trên tán cây cũng tự động bốc lửa, tro bụi màu trắng rơi xuống lả tả. Hai người cởi bỏ bộ quần áo ngoài nặng nề, lộ ra quân phục ngụy trang rằn ri và ba lô, nhanh chóng rời khỏi vị trí vừa đáp xuống.
Mới đi được chưa đến năm trăm mét, Soares đột nhiên dừng phắt lại, nói với Merkin: “Hình như chúng ta bị phát hiện rồi?”
Merkin mỉm cười, cũng không thấy y có động tác gì, trong chớp mắt đã rút từ hai bên ba lô ra hai khẩu Glock 18 có gắn ống giảm thanh, nói: “Hy vọng bọn chúng hữu hảo một chút.” Dứt lời, cổ tay lắc nhẹ, hai khẩu súng lục đã biến mất bên trong tay áo.
Đi được mấy bước, Soares lại nói: “Các bạn đến rồi!” Chỉ thấy, trên cây, trong bụi, đằng sau mấy tảng đá đều lộ ra bóng dáng các binh sĩ Tước Mẫu. Họ để trần thân trên, tay cầm vũ khí, vây Merkin và Soares vào giữa, một người trong bọn lớn tiếng quát lên: “Người Giáp Mễ, các ngươi từ đâu đến?”
Merkin nheo mắt nhìn một lượt, không nén nổi buột miệng kêu lên: “Lao ném, cung tên, rìu? Lẽ nào đây là vũ khí của bọn chúng sao? Không đến nỗi lạc hậu như vậy chứ? Hoàn toàn không tương xứng chút nào với quy mô của di tích lúc nãy tôi vừa trông thấy, lẽ nào là đám dã nhân trong rừng thôi?”
Soares nói: “Nghe xem hắn nói cái gì vậy.”
Người vừa quát lên ấy lại hỏi tiếp: “Các ngươi có phải cùng một bọn với Trác Mộc Cường Ba không?”
Merkin chau mày hỏi: “Ờ, hắn nói… nói là…” Y đột nhiên quát lại gã binh sĩ Tước Mẫu vừa lên tiếng ấy: “Mày có biết tiếng Anh không?”
“Ngươi nói gì? Có phải nói tiếng Lạc Ba[v] không vậy?”
“Tiếng Pháp? Tiếng Đức? Tiếng Hán có biết không?”
“Rốt cuộc ngươi đang nói gì vậy? Lẽ nào cả tiếng Mộc Nhĩ Mễ[vi] các ngươi cũng không biết nói à?”
“Chẳng lẽ chúng mày không có phiên dịch à?”
“Trên lưng các ngươi đeo cái gì đó? Mau bỏ xuống!”
“Lũ dã nhân chết tiệt, cút về, tao không nói chuyện với người không biết tiếng Anh!”
“Chưa bao giờ ta gặp người Giáp Mễ nào lỗ mãng như ngươi, đến cả tiếng Phổ Nhĩ là thứ tiếng cơ bản nhất ngươi cũng không biết! Ê, các ngươi có nghe thấy ta nói gì không vậy? Cái bọc, cái bọc, bỏ xuống!”
Hai người cứ đứng đó dùng các loại ngôn ngữ giao lưu theo kiểu râu ông nọ cắm cằm bà kia như thế một lúc.
Cuối cùng, gã binh sĩ Tước Mẫu cũng không nhẫn nhịn nổi nữa: “Đứng yên ở đó, ta đến đây!”
Merkin nói bằng tiếng phổ thông: “Tốt nhất mày nên giữ khoảng cách với tao thì hơn!” Thấy gã binh sĩ ấy nghe mà làm lơ, y liền quay sang nhoẻn miệng cười với Soares: “Giao lưu thất bại rồi…”
Soares bực tức nói: “Tôi tưởng anh biết tiếng Tạng cổ cơ mà.”
Merkin gượng cười: “Nhưng bọn chúng không nói thứ tiếng mà tôi biết, cũng may, còn một loại ngôn ngữ có thể dùng chung cho toàn thế giới.”
Soares trừng mắt lên nhìn y một cái. Nụ cười trên gương mặt Merkin biến mất, giọng nói trở nên lạnh lùng: “Ngôn ngữ cơ thể!” Dứt lời, hai tay đã vung mạnh một cái, hai khẩu súng lục lập tức xuất hiện như có ma thuật, kế đó, hai tay y giơ ngang, giao nhau trước ngực, tia lửa của những viên đạn vẽ trên không trung một đường cong cánh quạt hoàn mỹ.
Đám binh sĩ Tước Mẫu đâu ngờ đối phương lại đột nhiên ra tay như thế, vũ khí trong tay vẫn còn chưa kịp phát huy công dụng thì đã lần lượt trúng đạn, chỉ thấy tia lửa lướt qua đến đâu là có người ngã xuống tới đó, hoặc bị đạn bắn xuyên bả vai, hoặc đùi non tóe máu. Hai tay Merkin một trước một sau, thoắt trái thoắt phải, phạm vi di động cực lớn, phối hợp cùng với bước chân nhẹ nhàng khinh khoái, lúc thì như Tô Tần đeo kiếm, thoắt cái lại như đại bàng sải cánh, lúc lại đứng một chân xoay tròn như diễn viên ba lê. Chớp mắt một cái, khẩu súng trên tay trái đã biến mất, kế đó lại thò ra dưới nách bên phải, giở ra một chiêu “ngoảnh đầu ngắm trăng”, tức thì có người ngã xuống theo tiếng súng.
Cặp mắt y dường như không để ý đến xung quanh, vậy mà đạn từ hai họng súng lại như có mắt bay đến các binh sĩ Tước Mẫu, cho dù nấp trên tán cây, trong lùm trong bụi hoặc đằng sau những tảng đá, nhất loạt đều ngã xuống. Nếu bọn Ba Tang mà nhìn thấy cảnh này, nhất định sẽ phải kinh ngạc trước thân thủ của Merkin, không chỉ là cách di động kỳ dị ấy, mà càng khó tin hơn nữa là, động tác của y thực sự rất giống với động tác của Trác Mộc Cường Ba thể hiện ở di tích trên vách đá. Tốc độ nổ súng nhanh đến khó bề tưởng tượng, góc độ nòng súng kỳ dị mà xảo diệu, chỉ khác một điều, Trác Mộc Cường Ba vẫn còn hơi trúc trắc, còn động tác của Merkin thì tự nhiên lưu loát như nước chảy mây trôi, hoàn toàn không có kẽ hở nào.
Sau khi tiếng súng ngừng hẳn, trong rừng chỉ còn lại một đám binh sĩ Tước Mẫu rên rỉ đau đớn. Merkin thổi thổi lên ống giảm thanh của hai khẩu súng, bàn tay xòe ra gập vào, súng đã biến đâu mất. Y nhìn đám binh sĩ đang lăn lộn xung quanh mình, dường như lấy làm vừa ý. Soares lại bất mãn nói: “Sao không giết bọn chúng đi cho rồi.”
Merkin nói: “Như vậy sẽ giữ được vận may của tôi.”
Soares giở giọng châm biếm: “Đã thấy anh may mắn bao giờ đâu.”
Merkin chau mày nói: “Vẫn còn sót à?” Tay phải liền vung lên, một họng súng đã chĩa ra.
“Đừng… đừng nổ súng…” Merkin lấy làm kinh ngạc, kẻ ở trong lùm cây kia không ngờ lại nói tiếng Anh, tuy không được lưu loát cho lắm, nhưng tròn vành rõ chữ, phát âm đúng tiêu chuẩn. Merkin và Soares còn đang ngạc nhiên trước khả năng phát âm của đối phương, chỉ thấy bên dưới lùm cây, một người thấp lùn đầu tròn ung ủng nhảy ra.
“Đa Cát!” Mới thoạt nhìn, Merkin cũng hơi giật mình, nhưng y nhanh chóng phát hiện ra mình nhận lầm người. Kẻ này dường như cường tráng hơn Đa Cát một chút, nụ cười dồn lên gương mặt khiến y lại nghĩ ngay đến Max.
Người trọc đầu thấp lùn có tướng mạo hao hao giống Đa Cát này không lập tức lại gần Merkin, mà bước đến gần một binh sĩ Tước Mẫu nằm dưới đất, không nói một lời, nhanh chóng vung đao cắt đứt cổ họng, rồi cọ cọ lưỡi đao lên thi thể y cho sạch, đút trở lại vào vỏ, bấy giờ mới nở một nụ cười thoải mái đứng lên, gật gật đầu với những binh sĩ ở xung quanh.
Merkin và Soares nhìn hành vi của gã lùn này với ánh mắt kỳ quái, chỉ thấy y bước đến, trên mặt nở một nụ cười hơi có chút xun xoe, khiến người ta cảm thấy có thể thả lỏng mình ra được, không sai không lệch, vừa khéo dừng lại đúng bên ngoài phạm vi mà Merkin nắm chắc có thể hạ sát y bằng một phát súng. Gã lùn này vẫn dùng kiểu cách phát âm chậm rãi, có nhịp điệu, nhưng hết sức rõ ràng ấy nói: “Các vị khách tôn kính, ta, Quách Nhật Niệm Thanh, ở đây xin được dâng lên các vị một tấm lòng thành vô hạn.” Nói đoạn, y ôm vai cúi người xuống, không ngờ lại rất hợp với chuẩn mực của nghi lễ cung đình châu u. Liền sau đó, lại nghe thấy y nói tiếp: “Những kẻ nằm dưới đất này, đều là binh sĩ của ta, hoặc có thể nói, đều từng là binh sĩ của ta. Chúng là đội quân tinh nhuệ nhất của vương quốc Langbu này, xin ngài hãy thứ tội mạo phạm của chúng, xin ngài hãy tha cho tính mạng nhỏ bé của bọn chúng.” Lần này, y lại dùng ánh mắt khiến người ta phải tan nát cõi lòng sở trường của mình nhìn chằm chằm vào Merkin.
Cho dù lão luyện như Merkin, cũng cảm thấy không chịu nổi tên Quách Nhật Niệm Thanh đổi nét mặt còn nhanh hơn tắc kè đổi màu này, chỉ hờ hững đáp một câu: “Ta vốn không có ý giết chúng, chỉ là chúng muốn uy hiếp ta, ta chỉ xóa bỏ sự uy hiếp ấy đi mà thôi. Còn ngươi, tại sao phải giết tên đồng bọn ấy? Không phải là quân lính của ngươi sao?”
“À không…” Quách Nhật Niệm Thanh tỏ ra hết sức hoảng hốt, nói: “Tên đó, là do lão quốc vương ác độc ấy phái đến giám thị bọn họ, hiển nhiên bậc anh minh như ngài đây đã sớm nhìn ra được, những binh sĩ ấy vốn không muốn dùng vũ khí đối phó với các ngài, họ bị ép buộc phải làm thế, không thể tự chủ được.”
Merkin nói: “Rốt cuộc là chuyện gì? Đây là nơi nào? Ngươi nói rõ cho ta xem.”
“Sẵn lòng được ra sức vì ngài.” Quách Nhật Niệm Thanh cúi người thật sâu.
Soares đột nhiên lên tiếng: “Làm cái trò gì vậy?” Đột nhiên y thò tay vào ba lô, lấy ra một nắm không rõ là thứ gì.
Quách Nhật Niệm Thanh tuy không hiểu ngôn ngữ của đối phương, nhưng từ động tác và nét mặt của Soares, y cũng đã nhìn ra được chút manh mối, liền vội nói: “Xin chớ, chớ có hiểu lầm! Đó chỉ là một loại hương liệu làm hưng phấn tinh thần, đồng thời có tác dụng xua tan mùi máu tanh. Trong rừng này có rất nhiều loài dã thú hung mãnh, chỉ trong chốc lát là bọn chúng nó sẽ bị mùi máu thu hút đến đây, chúng ta chỉ muốn che giấu mùi vị này đi, chứ không hề có ác ý gì hết. Ta xin được xin lỗi các ngài vì sự sơ suất này. Ra đi, Khước Ba.”
Khước Ba Ca Nhiệt mặc bộ đồ đen thùng thình bước ra sau một lùm cây. Hai mắt Soares sáng bừng lên, nhìn chằm chằm vào kẻ vừa mới xuất hiện này, trên người đối phương, ít nhất y cũng cảm nhận được có ba loại chất thông tin của sinh vật. Khước Ba cũng nhìn Soares với ánh mắt kinh ngạc, rõ ràng lão ta cũng phát hiện ra được điều gì đó.
Quách Nhật Niệm Thanh và Merkin đều chú ý thấy điểm này, Quách Nhật Niệm Thanh vội giải thích: “Xin các ngài để vu sư Khước Ba của ta trị thương cho những binh sĩ này, ông ta cũng biết một vài trò vặt vãnh đấy.”
Soares thấp giọng nói với Merkin: “Để tôi xem thử.”
Merkin nói: “Cẩn thận đấy.” Sau đó, y liền bảo Quách Nhật Niệm Thanh: “Qua đây, chúng ta nói chuyện.” Y vừa vẫy tay với Quách Nhật Niệm Thanh như thể gọi một đứa trẻ, vừa quan sát phản ứng của đối phương. Gương mặt Quách Nhật Niệm Thanh từ đầu chí cuối vẫn nở một nụ cười vô cùng thành khẩn. “Mặt nạ!” Khóe mắt Merkin giật giật, y hiểu rõ, phàm là kẻ nào có bộ mặt đeo mặt nạ kiểu này, đều là hạng không dễ dây dưa một chút nào.
Theo yêu cầu của Merkin, Quách Nhật Niệm Thanh giảng giải một cách tường tận tỉ mỉ về lịch sử, phân bố dân cư, phong tục và cả các mặt như nông nghiệp, khoa học kỹ thuật của hai vương quốc Langbu và Yaca cho y nghe. Trong lúc nói chuyện, thi thoảng y lại xen vào những lời tâng bốc, ca ngợi Merkin thân thủ bất phàm. Đối với những lời tán tụng khách sáo ấy, Merkin nhất loạt đều coi như không nghe, kế đó, y lại hỏi về tình hình đám người bọn Trác Mộc Cường Ba. Trước ánh mắt du di bất định của Merkin, Quách Nhật Niệm Thanh kể hết những gì mình biết, chỉ có điều, câu chuyện qua miệng của y, đã trở thành một phiên bản hoàn toàn khác…
Tước Mẫu vương là kẻ tà ác xấu xa tàn bạo chỉ biết bóc lột nhân dân. Quách Nhật Niệm Thanh tuy là cháu ruột duy nhất của quốc vương, đã nhiều lần cất lời can gián song đều bị trách phạt. Y không hề ham hố phú quý quyền thế gì, chỉ mong nhân dân Langbu được sống tốt hơn một chút. Đồng thời, y đã yêu một cô gái bình dân, đương nhiên, cô gái ấy đẹp như tiên trên trời, tâm địa lương thiện như Bồ Tát, hai người mới gặp đã yêu, rơi vào biển ái, và đã ước định chung thân. Thế nhưng, Tước Mẫu vương xấu xa kia không chịu buông tha cho Quách Nhật Niệm Thanh, vì theo quy chế của tổ tiên, lão quốc vương không có con trai ruột ấy sẽ phải truyền ngôi báu lại cho Quách Nhật Niệm Thanh, và Quách Nhật Niệm Thanh phải kết hôn với con gái duy nhất của lão. Để giữ lấy quyền lực cho họ nhà mình, lão quốc vương xấu xa ấy không ngờ đã hạ cổ độc lên người con gái ruột của mình. Sau khi trúng độc, hai mắt công chúa sẽ không nhìn thấy gì, nhưng trong đêm tân hôn, thứ cổ độc này sẽ từ người nữ chuyển dịch sang người nam. Như thế, sau khi Quách Nhật Niệm Thanh mù mắt, quyền lực sẽ lại rơi vào tay công chúa. Tất cả những điều này, Quách Nhật Niệm Thanh lương thiện đều lặng lẽ ẩn nhẫn chịu đựng, thậm chí y còn bày tỏ muốn từ bỏ ngôi báu, chỉ mong được cùng người trong lòng sống những ngày vui vẻ bên nhau là được. Thế nhưng, đúng vào lúc ấy, đám hung đồ Trác Mộc Cường Ba kia đột nhiên xông vào mảnh đất hòa bình này. Trong đó, tên xấu xa tàn bạo ghê gớm hung ác nhất chính là tên mặt người dạ thú, bệnh hoạn điên cuồng Trương Lập. Kẻ ấy đã tàn nhẫn cưỡng hiếp cô gái mà Quách Nhật Niệm Thanh yêu tha thiết, lại còn xàm ngôn vu khống với Tước Mẫu vương, muốn đuổi tận giết tuyệt, dồn Quách Nhật Niệm Thanh đến bước đường cùng. Những điều Quách Nhật Niệm Thanh đang làm, chính là để bắt lũ ác đồ không có lương tâm ấy phải nợ máu trả máu, giành lại những thứ đáng lẽ là của y. Vì Quách Nhật Niệm Thanh là hóa thân của cái thiện và chính nghĩa, nên nhân dân và binh sĩ ủng hộ cũng như bảo vệ y nhiều vô số kể, chẳng qua bị Tước Mẫu vương ép buộc, họ mới không dám công khai ủng hộ mà thôi. Chỉ cần trừ đi mấy tên tâm phúc do Tước Mẫu vương phái xuống thống lĩnh binh lính, thì quân đội sẽ lại trở về dưới tay y. Chính vì vậy, y rất mong muốn có được sự giúp sức của Merkin.
Sau một tràng những lời xun xoe nịnh bợ thao thao bất tuyệt không ngừng, Quách Nhật Niệm Thanh bày tỏ, chỉ cần Merkin chịu giúp mình, y sẽ có được rất nhiều lợi ích lớn, bao gồm cả việc tấn công vào nhóm kẻ thù chung là bọn Trác Mộc Cường Ba. Quách Nhật Niệm Thanh có thể điều động bất cứ nguồn lực nào của vương quốc Langbu, thậm chí là có thể chia đôi đất đai và tài sản của cả vương quốc này với Merkin cũng được.
Merkin cười mà như thể không cười, có điều y rất ngạc nhiên khi Quách Nhật Niệm Thanh nhắc đến bọn Trác Mộc Cường Ba như là kẻ thù chung của y và đối phương. Y lấy làm tò mò hỏi: “Sao ngươi biết ta và Trác Mộc Cường Ba là kẻ thù chứ không phải bạn bè?”
Quách Nhật Niệm Thanh nói: “Khi ta nhắc đến sự tàn ác xấu xa của chúng, ngài đã lộ ra nét mặt của tri âm.”
Merkin cười lên ha hả, nói: “Đúng thế, đúng thế, loại xấu xa tàn ác như vậy, sức mạnh đại diện cho chính nghĩa như chúng ta cần phải diệt trừ chúng đi. Ta có thể giúp ngươi đối phó với Trác Mộc Cường Ba mà không cần bất cứ báo đáp gì, nhưng việc của cái vương quốc Langbu khỉ gió gì đấy, tự ngươi phải nghĩ cách giải quyết đi.” Lúc này y liền để ý thấy, lão vu sư áo đen kia không biết đã dùng cách gì mà tiếng kêu của đám binh sĩ bị trúng đạn đã nhỏ đi nhiều, thậm chí một số người còn có thể đứng dậy nữa.
Soares từ đầu chí cuối vẫn không nói một lời, nhìn chằm chằm vào Khước Ba Ca Nhiệt. Khước Ba cũng làm mặt lạnh, không nói một lời, lẳng lặng thi triển thủ thuật với đám binh sĩ, sử dụng cổ trùng giảm đau, thi thoảng ánh mắt hai người lại gặp nhau, nhưng tựa như kẻ thù truyền kiếp, chất chứa đầy sự cảnh giác, dọa dẫm, uy hiếp.
Quách Nhật Niệm Thanh nhanh chóng ngẫm nghĩ về ý tứ của Merkin, rồi nhoẻn miệng cười thật tươi nói: “Đúng vậy đúng vậy, theo lý nên là thế, có điều, chúng ta vẫn là đồng minh phải không? Ta nhớ người ở bên ngoài các vị có một câu tục ngữ, kẻ địch của kẻ địch của ta, chính là bạn ta.”
Merkin mỉm cười, thầm nhủ: “Thằng lùn, đừng có tưởng bở, đa phần, kẻ địch của kẻ địch của ta, cũng là kẻ địch của ta! Hả? Tục ngữ ở bên ngoài?” Nghĩ tới đây, Merkin liền hỏi: “Ngươi biết gì về thế giới bên ngoài kia?”
Quách Nhật Niệm Thanh lộ ra một nụ cười bí hiểm: “Nơi này thường hay có vinh dự được đón tiếp người từ bên ngoài vào như các vị, những năm gần đây có vẻ mỗi lúc một nhiều hơn, ngôn ngữ này của ta chính là học được của bọn họ, vì vậy, ta cũng nắm được đôi phần về thế giới bên ngoài. Chỉ có điều… những người đến đây, xưa nay đều chưa bao giờ sống sót rời khỏi nơi này cả.”
“Nói cụ thể hơn xem nào, những người đó đã đi đâu rồi?” Cuối cùng, Merkin cũng thu nụ cười tự tin thường trực trên khóe miệng lại.
Thấy nét mặt Merkin thay đổi, Quách Nhật Niệm Thanh lại cười cười nói: “Vị khách tôn quý của ta, ngài xem đấy, chúng ta còn rất nhiều không gian hợp tác…”
Khoảng nửa tiếng đồng hồ sau, Quách Nhật Niệm Thanh dẫn theo đám binh sĩ bị thương biến mất trong khu rừng, không gian xung quanh lại trở nên hoang tịch cô liêu. Thấy Soares nhìn theo hướng đi của những binh sĩ ấy một hồi lâu, Merkin hỏi: “Sao vậy, Kahn? Hiếm khi nào lại thấy anh chú ý đến một người như vậy đấy.”
Soares trầm ngâm: “Nếu anh là Thao thú sư, anh cũng sẽ cảm thấy hứng thú với con người đó thôi.”
Merkin thu nụ cười trên môi lại, cảnh giác nói: “Hắn cũng là Thao thú sư à?”
“Không,” Soares lắc đầu: “Năng lực Thao thú của hắn không mạnh lắm. Có thể nhận ra được. Hắn cũng thiếu một hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh, nhưng khả năng thao tác trên thực tiễn của hắn lại rõ ràng đã vượt qua Thao thú sư, cũng có một số năng lực nhất định của Thao trùng sư[vii] , thậm chí có một vài phương diện còn đạt đến tiêu chuẩn của Cổ sư[viii] rồi.”
“Ồ…” Merkin cũng không khỏi biến sắc mặt: “Không có năng lực của Thao thú sư, nhưng lại trực tiếp vượt qua Thao trùng sư, đạt đến năng lực điều khiển của Cổ sư, thế há chẳng phải là cao hơn anh hai bậc ư? Nói như vậy, chúng ta phải hết sức cẩn thận với cái tên mặc đồ đen ấy mới được!”
“Thế thì chưa chắc!” Soares tự tin nói: “Tuy hắn có một phần năng lực điều khiển thao túng của Thao trùng sư và Cổ sư, nhưng năng lực điều khiển thú vật lại quá kém cỏi, gần như là không có. Vả lại, tôi quan sát thủ pháp của hắn, hình như cũng chỉ biết sử dụng cổ trùng với con người, chứ không biết áp dụng với động vật, cũng có nghĩa là, tiêu chuẩn đánh giá của chúng ta hoàn toàn không thích hợp để đánh giá hắn, nếu phải động thủ thật… hừ, cũng không cần phải sợ. Chỉ có điều, có một số thủ pháp của hắn, tôi vẫn chưa nhìn thấu được, hừm, cần phải nghĩ cho kỹ càng đã.”
Merkin bấy giờ mới chuyển từ kinh ngạc sang mừng rỡ, nói: “Tôi đã bảo rồi mà, anh bạn già, nơi này dù sao cũng là đất tổ của đám Thao thú sư các anh. Chắc chắn anh sẽ có thu hoạch mà lại.”
Thực lực của Merkin
Soares thản nhiên nói: “Đừng nói chuyện của tôi nữa, anh và tên lùn đó sao rồi?”
Merkin nói bằng giọng tự giễu: “À, ước định cuối cùng của chúng tôi là, ai làm việc nấy.”
Soares nhe răng cười khùng khục: “Thế chẳng phải là không nói được chuyện gì hay sao?”
Merkin nhướng mày lên: “Đúng thế, kết quả đàm phán tốt nhất giữa hai người đàm phán lợi hại nhất, xưa nay vẫn luôn luôn là coi như không nói gì hết cả.” Trong lúc Soares vẫn đang nghiền ngẫm câu nói đầy triết lý ấy, Merkin đã lại bổ sung thêm: “Có điều, chúng tôi đều trực tiếp hoặc gián tiếp có được rất nhiều thông tin hữu ích từ phía đối phương. Ít nhất thì tôi cũng biết được, cái thần miếu chó chết kia ở tầng trên cùng, chỗ này được gọi là Thánh vực. Shangri-la trong truyền thuyết cũng ở phía trên cùng, nếu nhận được tín hiệu muộn hơn chút nữa, chúng ta sẽ bớt đi cả một quãng đường dài đấy. Tên lùn đó, biết cũng khá là nhiều.”
Soares lại nói: “Trông hắn thật giống với cái tên… tên là cái gì Đa Cát ấy nhỉ.”
Nụ cười vừa hé nở trên môi Merkin lập tức trở nên âm trầm lạnh lẽo, y cảnh cáo Soares: “Tôi không thể không nhắc nhở anh, Kahn, anh nghĩ như vậy là hết sức nguy hiểm. Tên lùn đó và Đa Cát là hai kẻ hoàn toàn khác nhau, so với tên pháp sư áo đen kia, thì hắn còn đáng sợ hơn gấp bội phần đấy.”
“Ừm…” Soares ngờ vực nói: “Có lợi hại vậy không? Tôi vẫn thường nghe bảo anh giỏi nhất chính là lợi dụng tất cả mọi tình thế có thể lợi dụng được, lần này có cơ hội tốt vậy, không ngờ lại bỏ qua mất.”
Merkin đanh mặt lại nói: “Trước khi nghĩ cách lợi dụng người khác, trước tiên phải đảm bảo chắc chắn mình không bị người khác lợi dụng đã. Giờ hợp tác với tên lùn đó, với nhân thủ và thông tin chúng ta đang nắm được, rất khó nói xem là ai đang lợi dụng ai.”
“Vậy thì lợi dụng lẫn nhau đi…” Giọng nói khàn khàn của Soares rít qua cuống họng.
Merkin lạnh lùng lắc đầu, lời cảnh cáo của người ông nội vẫn còn văng vẳng bên tai y: “Ben, cháu phải nhớ kỹ, hai bên hợp tác, điều này có thể, ta tin là vậy; nhưng cháu phải nhớ kỹ, trên đời này vĩnh viễn không thể nào có chuyện lợi dụng lẫn nhau, bao giờ cũng chỉ có người thông minh lợi dụng kẻ ngu xuẩn, cho dù lợi dụng hay phản lợi dụng, đến cuối cùng, chỉ có một kẻ có thể cười mà thôi. Vì vậy, cháu vĩnh viễn đừng bao giờ dễ dàng tin vào những lời hứa ngọt ngào. Thứ không đáng tin cậy nhất trên thế gian này, chính là những lời hứa. Hãy dùng đôi mắt và đôi tai của cháu để thăm dò chân tướng của sự việc, hãy dùng thực lực của bản thân cháu, để nắm lấy toàn cục.”
“Trên đời này, không thể có chuyện lợi dụng lẫn nhau đâu, Kahn ạ. Mấy năm nay anh quá đắm chìm vào nghiên cứu học thuật mất rồi, thành thử không hề phát hiện ra, tên lùn Quách Nhật Niệm Thanh ấy rốt cuộc là người như thế nào.” Merkin gằn giọng nhấn vào từng chữ một: “m hiểm, đa nghi, giỏi đoán biết tâm tư người khác, có khả năng nhẫn nại và năng lực tính toán cực kỳ đáng sợ, chỉ dựa vào những chi tiết rất nhỏ trong hành vi, hắn có thể phán đoán được tính cách và đặc điểm tâm lý của anh, đồng thời, cũng biết ngụy trang một vẻ bề ngoài tuyệt đối vô hại. Lời nói của hắn, mỗi câu mỗi chữ đều có tính kích động xúi giục, có tác dụng ám thị tâm lý rất mạnh. Ngoài ra, kẻ này còn cực kỳ giỏi bịa tạc, mỗi lời hắn nói ra đều khó mà phân biệt được đâu là thật giả đúng sai. Từ những vết sẹo trên người và một vài động tác lộ ra trong lúc vô ý, tôi tin rằng, thân thủ của hắn tuyệt đối không như những gì hắn thể hiện ra đâu. Hắn có thể rà soát toàn cục một cách nhạy bén, cũng có thể tỉ mỉ tính toán từng chi tiết nhỏ của âm mưu, lợi dụng tất cả mọi thứ có thể lợi dụng bên cạnh mình, hoàn toàn không có sơ hở. Đây chính là những gì tôi phát hiện được sau khi tiếp xúc với tên lùn đó đấy.”
“Hả?” Soares ngạc nhiên: “Vậy chẳng phải hắn là đồng loại của anh sao?”
Merkin gật đầu: “Đó chính là điều tôi muốn nói, tên lùn đó, có rất nhiều điểm tương đồng với tôi, không, thậm chí hắn còn giống với kẻ đó…” Yết hầu Merkin khẽ nhấp nhô lên xuống, đoạn nói: “Anh, cũng không muốn bị một kẻ như vậy lợi dụng, phải không?”
“Kẻ đó?” Soares thoáng ngẩn người, đột nhiên hai mắt đờ ra, toàn thân cứng ngắc, y biết kẻ mà Merkin muốn nói đến kia là ai rồi? Là kẻ có thể tính toán mọi khả năng có thể xảy ra của tất cả các biến cố từ trước khi sự việc diễn ra; là kẻ không cần nói nhiều, chỉ cần dùng ánh mắt và động tác tay cũng có thể khống chế toàn cục; gã đàn ông phương Đông thần bí đó, là kẻ vĩnh viễn không bao giờ người ta có thể nhìn thấu được y nghĩ gì trong đầu, vĩnh viễn không thể đoán được bước tiếp theo y sẽ làm gì; kẻ đó, chính là gã đội trưởng có đôi mắt u uất của bọn y, biệt hiệu dùng trong tổ chức là “Chồn”, nhưng vì các thành viên trong đội đều sợ y, cũng vì năng lực tính toán không chút sơ hở của y, đồng bọn đã đặt cho y một biệt hiệu khác ở sau lưng… Kẻ Quyết Sách.
Gần đến nơi rồi, sắp tới rồi, cuối cùng, mục tiêu ở ngay trước mặt, Max vẫn cảnh giác ló ra nửa cái đầu, chỉ để lộ một con mắt, đợi nhìn rõ đúng là Merkin và Soares, hắn mới khóc lóc ròng ròng chạy ra, đồng thời lớn tiếng rống lên: “Ông chủ, tôi nhớ ông đến chết đi được!”
Merkin và Soares đang ngồi dưới một gốc cây lớn nói chuyện gì đó, bộ dạng ấy căn bản không hề giống hai người thám hiểm đang ở giữa chốn rừng nguyên sinh bốn bề nguy cơ trùng trùng, ngược lại, còn giống hai ẩn sĩ ở nơi đào nguyên thế ngoại hơn, chỉ còn thiếu có chiếc bàn Bát tiên với hai chén trà xanh nữa thôi. Thấy Max từ trong rừng lao ra, hai người đều không hề ngạc nhiên. Merkin nói với giọng hơi giận dữ: “Sao nhận được tín hiệu lâu như vậy rồi mày mới đến?”
Max tỏ vẻ cực kỳ thương tâm, khóc lóc như thể sắp đứt hơi đến nơi. Chỉ nghe hắn rống lên: “Ông chủ… hu hu hu… cuối cùng các ngài cũng đến rồi… hu hu… tôi… hu hu…”
Soares nhìn Max, nét mặt như cười mà không phải cười. Merkin bực bội gắt lên: “Đủ rồi, cho mày ba giây, cấm không được khóc, trông mày cứ như lợn nái động đực ấy.”
Tiếng khóc của Max như thể bị kéo cắt, lập tức im bặt. Hiệu quả đặc biệt gần như một màn biểu diễn ấy làm khóe miệng như bị sâu cắn dở của Soares khẽ nhếch lên thêm một chút. Kế đó, Merkin lại nói: “Cho mày mười lăm giây, báo cáo lại tình hình đi.”
Max quẹt nước mắt nước mũi tèm nhèm trên mặt, sau đó nói: “Mười ba người đáp xuống thành công, giờ chỉ còn lại một mình tôi; lần đụng độ cuối cùng với đối phương, bọn chúng còn sáu người; ở tầng bình đài này chúng tôi phát hiện ra năm khu tập trung dân cư, trình độ sản xuất của người ở đây tương đương với châu u cuối thế kỷ mười tám; đích đến của bọn chúng là tầng bình đài trên cùng; trong rừng có rất nhiều cạm bẫy và dã thú, đáng sợ nhất là một loại động vật cao tầm ngang người bình thường, thoạt nhìn… giống như, giống như khủng long vậy. Báo cáo hết!”
“Động vật giống như khủng long à?” Soares hơi nhổm người lên, gặng hỏi thêm: “Mày bảo chúng cao tầm ngang một người bình thường à? Nói cụ thể hơn xem nào, hình dáng ra sao?”
Max lắp ba lắp bắp pha trộn giữa ngoại hình của người Lỗ Mặc và tưởng tượng của bản thân hắn, miêu tả lại một lượt. Soares phát ra tiếng cười khùng khục, còn Merkin thì bực bội ngắt lời: “Nói bậy, làm gì có thứ gì như thế?”
Max cúi gằm mặt xuống, không dám ho he tiếng nào. Bỗng nhiên, Soares lại lên tiếng nói thay: “Có thể hắn nói thật đấy.”
“Hả?”
“Ben, anh có chú ý thấy môi trường ở đây hoàn toàn khác hẳn với thế giới bên ngoài không?” Soares ngẩng đầu lên nhìn cây cối xung quanh, đoạn nói tiếp: “Chắc hẳn anh cũng cảm nhận được rồi, hít thở không khí ở đây, thân thể nhẹ nhàng thoải mái hơn, động tác cũng trở nên nhanh nhẹn hẳn lên. Không phải nghi ngờ gì nữa, hàm lượng ô xy trong không khí ở đây cao hơn bên ngoài kia rất nhiều. Theo quan điểm của sinh vật học, hàm lượng ô xy trong không khí trực tiếp quyết định đến mô thức tuần hoàn máu của sinh vật, đồng thời cũng gián tiếp quyết định thể hình và tướng mạo bên ngoài của chúng. Cho dù ở đây có khủng long thật, thì tôi cũng không hề ngạc nhiên, vả lại… tuy không phải Thực ngữ giả[ix] , nhưng tôi cũng nhìn ra được những loài thực vật này cực kỳ nguyên thủy, dường như đều là những loài từ đại Cổ sinh thì phải.”
Nói đến Thực ngữ giả, Soares đột nhiên hỏi: “Phải rồi, Max, trong sáu người còn lại đó, có tên nào tóc màu bạch kim không?”
“Không ạ.” Max biết rõ người Soares muốn hỏi là ai, hắn cũng rất để ý đến người này.
Soares và Merkin đưa mắt nhìn nhau, Merkin nói: “Lẽ nào đã bị loại trừ rồi?”
Soares lắc đầu: “Không, trong đám người ấy không ai có đủ năng lực làm việc đó. Quá nửa là bị phát hiện, sau khi tính toán tỷ lệ thắng thua và được mất, hắn đã lựa chọn tránh xung đột chính diện, một mình đơn độc hành động.” Soares ngẫm nghĩ giây lát, rồi khẳng định thêm: “Nếu là tôi, tôi cũng sẽ làm vậy.”
Merkin nhổm người đứng lên, nói: “Đi thôi, hy vọng hắn cũng không lựa chọn cách đối đầu với chúng ta.”
Max kinh ngạc hỏi: “Ông chủ, đi… đi đâu ạ?”
Merkin nói: “Đi đến nơi chúng muốn đi chứ còn đâu nữa.”
Max lắp bắp không thốt ra lời: “Chỉ… chỉ ba chúng ta… thôi ạ? Thế phía tướng quân Khafu…
Merkin sầm mặt xuống: “Sao hả, mày cảm thấy ba người chúng ta vẫn chưa đủ để đối phó với bọn Trác Mộc Cường Ba sao? Người của tướng quân Khafu sẽ đến sau.”
Soares ở bên cạnh chỉ còn biết cười khổ. Lần này thuần túy là vì điều kiện thời tiết quá khắc nghiệt, khiến bốn mươi lăm kẻ trong đội tiên phong cùng bọn họ lên đỉnh núi đều gặp nạn, chỉ còn lại y và Merkin sống sót. Nhưng trên người Merkin chắc chắn còn thiết bị phát xạ tín hiệu laser, hai bên chắc chắn cũng đã bàn trước phương án hậu bị. Nghĩ tới đây, Soares chợt lên tiếng thắc mắc: “Sao anh lại tín nhiệm cái tên Khafu đó vậy…”
Thành Tước Mẫu.
Bọn Trác Mộc Cường Ba vừa trở về liền nhận được tin xấu: binh sĩ canh phòng phát hiện có vật thể kỳ quái từ trên trời rơi xuống, Tô Thâm đã phái một nhóm binh sĩ mang theo vũ khí đi kiểm tra, cuối cùng chỉ có một viên phó quan tên là Trạch Ca dẫn theo mười mấy binh sĩ bị thương trở lại, đội trưởng Nha Châu của họ đã bị sát hại, những người khác cũng đều đã thiệt mạng.
Thâm Tô trực tiếp báo cáo chuyện này lên với Tước Mẫu vương. Không có Quách Nhật Niệm Thanh ở bên cạnh, vị quốc vương già hoàn toàn không biết nên xử lý thế nào, vì vậy lại gọi mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba đến bàn bạc. Nghe Thâm Tô kể xong, Trác Mộc Cường Ba liền bảo anh ta dẫn họ đi xem các binh sĩ bị thương. Còn Tước Mẫu vương thì chẳng hề quan tâm đến những kẻ xâm lược đến từ thế giới bên ngoài và cả đám thương binh của mình, chỉ lo lắng cho con gái. Thấy ông ta cứ nằn nì mãi, pháp sư Tháp Tây đành cùng với Mẫn Mẫn đi xem bệnh tình công chúa Lạp Mẫu thế nào, còn những người khác thì cùng Thâm Tô đến chỗ các binh sĩ dưỡng thương.
“Đạn 9 li, được bắn ra từ cùng một loại vũ khí.” Trương Lập trước tiên kiểm tra những viên đạn được gắp ra trong người mấy tên lính bị thương.
Trác Mộc Cường Ba hỏi Trạch Ca: “Bọn chúng có bao nhiêu người? Phát hiện vào lúc nào, ở nơi nào?”
Trạch Ca nói với họ, khi bọn Trác Mộc Cường Ba đi đài thiên táng, lính tuần phòng phát hiện ra có người từ trên trời đáp xuống. Cái nấm của bọn họ không giống những lần trước (vừa nói, anh ta vừa vẽ ra một hình trông như quả chuối), sau đó, Thâm Tô liền phái một nhóm khoảng ba mươi người đi kiểm tra. Bọn họ đuổi theo vật thể trên trời ấy, rồi tìm được đối phương ở một nơi cách Tước Mẫu khoảng một canh giờ đi đường về phía Bắc. Trạch Ca khẳng định, đối phương chỉ có hai người, mà chỉ có một người duy nhất nổ súng tấn công bọn họ, người còn lại không hề nhúc nhích. Thể hình người đó rất cao lớn, như một vị Kim cương hạ phàm, tóc trên đầu vàng óng, mặc y phục đồng màu với rừng xanh, nói thứ tiếng gì mà họ nghe không hiểu. Thậm chí họ còn không nhìn rõ y ra tay như thế nào thì đã bị thương cả rồi. Trước khi ngã xuống chỉ kịp nhìn thấy một tia đỏ như lửa, không biết từ đâu bay vèo tới.
Merkin đã đến rồi… từ trước khi Trạch Ca nói ra đặc điểm của người kia, bọn Trác Mộc Cường Ba đã nghĩ đến rồi. Toàn bộ đội tiền tiêu của Merkin đã bị bọn họ tiêu diệt, bản thân y không thể không đến được; mà trong chớp mắt bắn bị thương hơn ba chục binh sĩ Tước Mẫu, cũng không phải là chuyện người bình thường có thể làm được. Chỉ có điều, bọn Trác Mộc Cường Ba cũng không ngờ Merkin lại chỉ dẫn theo một người đến đây. Lẽ nào y không còn thủ hạ nữa? Đương nhiên, như vậy là tốt nhất, chỉ là… dù thế nào họ cũng không dám tin đó lại là sự thật. Còn nữa, người đi cùng với Merkin kia là ai? Có phải là người tên Soares kia không? Hay là Khafu?
Nhưng hỏi Trạch Ca và những binh sĩ còn lại, bọn họ đều không mô tả được đặc điểm của người còn lại. Lúc bấy giờ, sự chú ý của họ đều dồn cả lên thân hình Merkin và thứ tiếng cổ quái của y. Trác Mộc Cường Ba đảo mắt một vòng quan sát đám lính, chọn ra hai người bị thương nhẹ nhất, bảo họ dẫn đến nơi phát hiện ra hai người kia. Thâm Tô cũng phái thêm một nhóm binh sĩ đi theo.
Trước khi xuất phát, pháp sư Tháp Tây cũng đến nơi, một binh sĩ cường tráng cõng ông trên lưng. Sau đó, ông và Mẫn Mẫn cũng quyết định đi theo.
Nhạc Dương và Trương Lập tỉ mỉ quan sát khắp xung quanh. Lữ Cánh Nam hỏi một tên lính dẫn đường: “Không phải nói là nơi mấy người còn lại trong đội các ngươi thiệt mạng sao? Thi thể đâu rồi?”
Binh sĩ đó cũng hết sức hoảng hốt, lắc đầu nói: “Lúc ấy mọi người đều bị thương, chỉ muốn chạy trốn, bọn họ không theo kịp, chắc là không chạy thoát rồi, thi thể… thi thể… tôi không biết nữa…”
Ba Tang đảo mắt nhìn quanh, cất giọng khàn khàn nói: “Nơi này không giống như vừa xảy ra chiến đấu.”
Nhạc Dương quay lại nói: “Không, nơi này đã xảy ra chiến đấu, nhưng được dọn dẹp sạch sẽ rồi.”
Ba Tang lạnh lùng nhìn tên lính dẫn đường, nói: “Tại sao không thấy dấu hiệu phản kháng, cũng không có dấu vết đạn bắn để lại?”
Tên lính đó bị Ba Tang nhìn đến lạnh gai cả người, chỉ biết dùng ánh mắt cực kỳ vô tội nhìn mấy người bọn Đường Mẫn, Trác Mộc Cường Ba. Pháp sư Á La liền dịch lại lời của Ba Tang cho y nghe, bấy giờ y mới vội vàng nói: “Chúng tôi không kịp phản kháng, toàn bộ đều đã trúng thương rồi.”
Ba Tang kinh hãi biến sắc: “Một người, chọi ba mươi người, không hề phản kháng!” Lữ Cánh Nam cũng không khỏi ngấm ngầm kinh ngạc, xem ra phải đánh giá tên Merkin này cao hơn một nấc rồi, dẫu sao thì, ngoại trừ pháp sư Á La, bọn họ cũng chưa bao giờ chính diện đối mặt giao thủ với Merkin cả.
Trương Lập nheo nheo mắt, nhìn chăm chăm vào vết thương trên người tên binh sĩ dẫn đường, trầm giọng nói: “Dường như chỉ có một tình huống để giải thích tại sao không có vết đạn lưu lại ở hiện trường.”
Ba Tang ngạc nhiên, trợn tròn mắt lên nhìn Trương Lập nói: “Ý cậu là, trong chớp mắt hắn ta rút súng bắn trúng ba mươi người, mà không trượt một phát nào ư?” Trác Mộc Cường Ba giờ mới hiểu ra, chỉ có khả năng là mỗi viên đạn đều bắn trúng người thì trên cây cối và đất đá xung quanh mới không để lại vết đạn nào.
Chỉ nghe Lữ Cánh Nam lại cất tiếng hỏi tên binh sĩ ấy: “Lúc đó vị trí của các ngươi như thế nào?”
Tên binh sĩ đó liền chỉ ra một phạm vi đại khái, không ngờ lúc ấy bọn họ đã hình thành được vòng vây xung quanh đối phương. Như vậy, há chẳng phải càng khiến người ta kinh ngạc hay sao? Thế có nghĩa là, chỉ trong nháy mắt, Merkin đã bắn xoay vòng ba trăm sáu mươi độ, đồng thời không trượt một phát nào. Đây là thủ pháp gì chứ? Tuy rằng, theo như tên binh sĩ kia nói, lúc đó bọn họ đều đã đứng lộ ra ngoài, nhưng nếu muốn bắn gục toàn bộ từng ấy người trước khi tất cả kịp phản ứng… Pháp sư Tháp Tây và pháp sư Á La đều đưa mắt nhìn sang phía Lữ Cánh Nam. Lữ Cánh Nam ảm đạm lắc đầu, tỏ ý mình cũng không thể làm được. Hai vị pháp sư này đều không phải cao thủ dùng súng, Lữ Cánh Nam không làm được, bọn họ tự nhiên lại càng không thể.
Trương Lập suy đoán: “Cần phải hai tay hai súng, đồng thời nhanh nhẹn di chuyển và nổ súng một cách cực kỳ chuẩn xác và tinh tế mới thực hiện được, ngoài ra còn phải luyện được khả năng hai mắt cùng lúc ngắm những mục tiêu khác nhau nữa, tôi nhớ hồi trước giáo quan từng đề cập đến môn này, hình như gọi là kỹ thuật phân tâm của bộ đội đặc chủng thì phải?”
Lữ Cánh Nam gật đầu nói: “Đó là một thứ kỹ thuật ứng dụng trong hoàn cảnh chiến trường phức tạp, nhất tâm đa dụng, yêu cầu người lính phải in rõ vị trí và tư thế của kẻ địch vào trong đầu, sau khi xác định rồi thì không cần dùng mắt nhìn kẻ địch ấy nữa, mà dựa vào hình ảnh trong óc để nhả đạn về vị trí đã định trước ấy, còn mắt thì lại dùng để ghi nhớ vị trí của kẻ địch tiếp theo. Đấy mới thực sự gọi là kỹ thuật sát nhân trên chiến trường. Nghe nói, muốn thực sự đạt tiêu chuẩn, người thực hiện phải hai tay hai súng, trong vòng một giây bắn gục năm kẻ địch trở lên.”
Sau một thoáng trầm mặc, Mẫn Mẫn chợt hỏi: “Những binh sĩ bị thương kia đã đi đâu mất rồi?”
Nhạc Dương đột nhiên nghĩ ra điều gì đó, thốt lên: “Bọn chúng không biết đường ở đây!”
Trương Lập nói: “Ý cậu là, Merkin bắt những người ấy dẫn đường cho mình? Nhưng hai bên có hiểu nhau nói gì đâu?”
Mẫn Mẫn cũng nói: “Dẫn đường đâu cần nhiều người như vậy chứ?”
Lữ Cánh Nam nói: “Không, Nhạc Dương nói có lý, ngôn ngữ không thông thì có thể dùng tay ra hiệu, trong tình huống không biết những kẻ bị thương ấy kẻ nào có thể cầm cự được lâu hơn, xua tất cả đám tù binh ấy dẫn đường cho mình cũng không phải một lựa chọn tồi, dọc đường hắn có thể bỏ lại những ai không thể hành động được nữa.”
Nhạc Dương gật đầu: “Giáo quan nói không sai, có rất nhiều vết máu hướng về phía Yaca.”
Lữ Cánh Nam nói: “Vấn đề bây giờ là, tại sao Merkin biết phải đi hướng đó? Tại sao hắn lại đáp xuống chỗ này?”
Mẫn Mẫn nhanh miệng nói ngay: “A… có người tiếp ứng bọn hắn! Nhóm người nhảy dù đầu tiên vẫn chưa bị tiêu diệt hết, kẻ chúng ta phải đối mặt không chỉ là một hai tên, mà là nhiều hơn số đó!” Nhạc Dương và Trương Lập cũng đều lần lượt tỏ ý tán đồng.
Trác Mộc Cường Ba chau mày, thầm nhủ: “Không, Mẫn Mẫn, kẻ địch của chúng ta biết nơi này rất gần Tước Mẫu, bây giờ, nhóm người nhảy dù đầu tiên kia không thể không cảnh giác với chúng ta. Bọn chúng sẽ không đặt thiết bị phát tín hiệu laser ở gần Tước Mẫu thế này đâu, huống hồ, tên Merkin kia lại càng không muốn bị chúng ta phát hiện hắn đã đến đây. Có lẽ… có lẽ, một người nào đó trong đội ngũ của chúng ta, đã gắn thiết bị phát tín hiệu ấy!” Ánh mắt gã lướt qua các thành viên trong nhóm, không người nào lộ ra dù chỉ một chút vẻ kinh hoảng. Cuối cùng, gã chạm phải ánh mắt của Lữ Cánh Nam, dường như cô cũng đã nhìn thấu suy nghĩ trong đầu gã, khóe miệng khẽ nở một nụ cười như khích lệ, rồi khẽ gật nhẹ đầu, ý bảo: “Anh có thể nghĩ như vậy là đúng rồi đấy.”
Trác Mộc Cường Ba hỏi bằng ánh mắt: “Rốt cuộc là ai? Rốt cuộc cô nghi ngờ ai?”
Lữ Cánh Nam hướng ánh mắt sang phía Mẫn Mẫn, rồi lập tức nhìn ra xa. Trác Mộc Cường Ba ngây người, ngoảnh đầu lại, thấy Mẫn Mẫn đang mím môi, rõ ràng là vừa nhìn thấy cảnh hai người họ trao đổi bằng ánh mắt. Trác Mộc Cường Ba cũng không giải thích, mà quay sang nói với mọi người: “Đi thôi, nếu suy đoán của chúng ta là chuẩn xác, nói không chừng chặng đường phía trước sẽ phát hiện ra gì đó, có lẽ, chúng ta vẫn còn ở phía trước chúng một bước.”
Pháp sư Tháp Tây nói: “Không sai, bọn chúng vừa mới đặt chân đến đây, thiên thời địa lợi nhân hòa đều không có, nhân lúc chúng còn chưa đứng vững chân hãy tiêu diệt chúng luôn, bằng không, sau này bọn chúng không biết còn bao nhiêu người đến đây nữa.”
Trác Mộc Cường Ba từ chối yêu cầu tiếp tục đi theo họ của đám binh sĩ Tước Mẫu, bảo với họ rằng, cuộc chiến này đã nằm ngoài phạm vi lý giải của họ rồi. Họ có thể bại lộ hành tung mà chẳng hề hay biết, đi theo chỉ tổ thiệt mạng oan. Cuối cùng, theo lệnh của Trác Mộc Cường Ba, đám binh sĩ ấy đành phải mang theo người bị thương trở về Tước Mẫu, còn mấy người bọn gã thì tiếp tục truy đuổi theo hướng vết máu. Chỉ là họ không thể ngờ, sau khi họ đi, đám binh sĩ ấy đều nhìn nhau mỉm cười khó hiểu.
Lần đầu thân mật
Ba Tang, Trương Lập đi phía trước, Nhạc Dương và pháp sư Á La đi sát theo sau, Mẫn Mẫn và Lữ Cánh Nam chia hai bên cảnh giới, còn Trác Mộc Cường Ba cõng pháp sư Tháp Tây đi đoạn hậu. Khoảng nửa giờ sau, họ phát hiện ra thi thể Nha Châu ở một chỗ khuất bên đường. Rất hiển nhiên, sau khi không thể đi lại được nữa, anh ta đã bị kẻ địch bồi thêm một đao, nhát đao ấy rất sâu, vừa chuẩn lại vừa tàn độc.
Mấy người Trương Lập, Nhạc Dương nghiến răng kèn kẹt, sau khi phán đoán được phương hướng của kẻ địch, cả bọn liền tăng tốc đuổi theo. Từ khi đặt chân đến Shangri-la này, đây là lần đầu tiên bọn họ hoán đổi vị trí với kẻ địch. Trước đây, đều là họ bị truy đuổi, bị phục kích, bị hãm hại. Còn giờ đây, mọi sự đổi khác, họ lại ở phía sau đuổi giết không tha những tên địch hung ác cùng cực kia. Cái chết của đội trưởng Hồ Dương, gian kế của Quách Nhật Niệm Thanh đều như một bức tường đá đè nặng lên lồng ngực họ. Lửa giận đang bốc lên bừng bừng mà không tìm đâu ra nơi phát tiết. Giờ đây, trong nhóm đã có thêm hai vị pháp sư Tháp Tây và Á La, họ cảm thấy mình mạnh hơn bao giờ hết, nhất quyết không thể nhân nhượng buông tha cho hai ba tên địch đã bạo lộ hành tung kia được, mặc xác bọn chúng là ai đi chăng nữa!
Truy đuổi khoảng hai tiếng đồng hồ, Ba Tang đột nhiên thả bước chậm lại, đám Nhạc Dương, Trương Lập không hiểu tại sao, cũng đành giảm tốc độ theo. Họ đều tin tưởng, với trực giác nhạy bén như loài dã thú của mình, chắc chắn Ba Tang đã cảm thấy có nguy cơ trong sự bình yên tĩnh lặng đang bao trùm không gian xung quanh.
Pháp sư Tháp Tây cất tiếng: “Chúng ta đã vào sâu trong rừng rồi, nơi này rõ ràng là khu vực dã thú hay xuất hiện, tại sao bọn chúng lại đến đây?”
Nhạc Dương trầm ngâm: “Lẽ nào chúng ta nhầm đường rồi? Những dấu vết rõ ràng này là chúng cố ý để lại nhằm dẫn dụ chúng ta? Nhưng đã đi xa như vậy mà vẫn còn dấu vết, lẽ nào chúng chia làm hai nhóm?”
“Không thể nào!” Trác Mộc Cường Ba nói như chém đinh chặt sắt. Trong môi trường hoàn toàn xa lạ này, chỉ có mấy người mà còn muốn chia làm hai đường thật chẳng khác nào tự đâm đầu vào chỗ chết.
Đột nhiên, bốn phía trong rừng vang lên tiếng rít như tiếng còi hơi. Bọn Trác Mộc Cường Ba biến sắc. Pháp sư Tháp Tây nói: “Không cần hoảng hốt, xem ra gần đây có sào huyệt của bọn người Lỗ Mặc, nhưng chắc chúng không chạy về hướng này đâu.”
Lời ông vừa dứt, liền thấy bóng cây phía trước đung đưa, gương mặt sớm đã quen thuộc mà chưa một lần mặt đối mặt đó, bất thình lình xuất hiện ngay phía trước bọn họ. Có thể nói, đây là lần đầu tiên bọn họ chính diện mặt đối mặt với y trong ánh sáng… kẻ mà ngay từ đầu, họ đã biết là đối thủ cạnh tranh mạnh nhất của mình!
Y đứng ở đó, tựa như một món vũ khí lạnh, cứng rắn, sắc bén. Mái tóc vàng kim giờ không biết đã nhuộm bằng thứ gì, biến thành một màu xanh xanh vàng vàng; bộ đồ ngụy trang rằn ri bao lấy những cơ bắp rắn như đá tảng; một chiếc ba lô hành quân to tướng khiến y trông càng giống một khối đá; trong những đường nét gương mặt sắc cạnh như thể được gọt bằng dao ấy, toát lên một thứ khí phái anh hào khá giống với Trác Mộc Cường Ba, nhưng thêm một nụ cười giả dối mà thiếu đi ánh mắt chân thành. Thiết bị liên lạc gắn trên kính che đi đôi mắt màu xanh lam thăm thẳm, khiến người ta nhìn y mà có cảm giác như đang nhìn một cỗ máy giết người. Y nhích động rồi, rõ ràng y đang bước ra khỏi vạt rừng rậm, vậy mà lại khiến người ta thấy như thể cả khu rừng đang lùi về phía sau. Bước chân y cứng nhắc, tiêu chuẩn, mỗi điểm đặt chân xuống đều như đã được tính toán tinh vi bằng máy móc. Trong khoảnh khắc ấy, Trương Lập liền nghĩ ngay đến một con báo trước khi vồ mồi.
Nụ cười không mang theo ý tốt của Merkin thu hút sự chú ý của hầu hết mọi người, duy chỉ có Nhạc Dương là ngoại lệ. Anh không bỏ qua bất cứ động tĩnh nào xung quanh khu vực họ đang đứng, đặc biệt là hai người đứng bên cạnh Merkin. Người hơi thấp hơn kia không hiểu tại sao lại che kín mặt mũi, chỉ lộ ra đôi mắt vằn lên sắc đỏ, cơ hồ không giống mắt người, mà như mắt của loài dã thú đã cực kỳ đói khát; còn ở phía bên kia, là tên Max đang nem nép nấp sau lưng Merkin. Rõ ràng hắn chỉ thấp hơn Merkin có một chút, vậy mà lại khom lưng uốn gối khúm núm đứng bên cạnh, thoạt trông như là thấp hơn Merkin cả cái đầu vậy. Ngoài ba người trước mắt họ ra, không còn ai khác. Không còn ai khác! Nhạc Dương thầm kinh ngạc, rốt cuộc chuyện này là như thế nào vậy?
Tuy bên mình đã chiếm ưu thế tuyệt đối, nhưng Trác Mộc Cường Ba vẫn cảm thấy hơi căng thẳng, nguyên nhân không gì khác, mà chính là bởi đôi mắt của Merkin. Đôi mắt ấy cứ không ngừng du di bất định, lướt qua lướt lại những chỗ chí mạng trên cơ thể mỗi người. Người nào bị y chiếu tướng, cảm giác thật không khác gì đang bị một con rắn độc nhìn chằm chằm.
Pháp sư Tháp Tây và pháp sư Á La thì gần như cùng lúc bị ánh mắt của Soares trùm khăn che mặt thu hút. Nếu nói cặp mắt của Merkin như mắt rắn, mang đến cho người ta cảm giác băng lạnh, vậy thì ánh mắt của tên Soares này dường như thuộc về một loài dã thú cực kỳ đói khát nào đó, khát máu, tàn bạo, và đang bình tĩnh đè nén khát vọng được giày xéo sinh mạng kẻ khác. Trong mắt hai vị pháp sư, mức độ nguy hiểm của con người này tuyệt đối không hề kém Merkin một chút nào.
Nổ súng? Quát hỏi? Chất vấn? Trác Mộc Cường Ba cảm thấy đôi mắt ấy đang làm nhiễu loạn đầu óc tư duy của mình, khiến gã không thể nào đưa ra phán đoán chính xác. Song phương không ngờ lại rơi vào thế giằng co, chằm chằm nhìn nhau, giữ im lặng, suy nghĩ, phân tích tình hình trước mắt.
“Ông chủ Trác, thật bất ngờ, chúng ta lại gặp nhau ở đây. Tôi đã nói rồi, chúng ta sẽ gặp lại nhau mà.” Rốt cuộc, Merkin là người phá vỡ cục diện bế tắc, cách phát âm tiếng Anh của y hơi giống với Sean, rất có phong cách của một nhà quý tộc, nhưng kiểu cách nhấn nhá thì cao quý hơn: “Thảo nào tôi cứ thắc mắc, sao lại có người theo dõi mình, thì ra là tên lùn ấy giở trò, mưu kế của tên này cũng bỉ ổi thật!”
Ba chọi tám, vậy mà Merkin và Soares dường như không hề sợ hãi, ngược lại có vẻ như đã nắm chắc phần thắng trong tay, chỉ có Max là rúm người né sang một bên, tựa như đang sợ đến toàn thân run lẩy bẩy.
“Ngươi nói cái gì?” Câu cuối cùng Merkin nói rất nhẹ, bọn Trác Mộc Cường Ba đều không nghe rõ. Gã liền hỏi lại một lần nữa.
“Giờ nói gì cũng đều muộn rồi, phải không?” Thanh điệu của Merkin hết sức bình thản, tỏa ra một thứ ám thị tâm lý thôi thúc người ta chìm vào giấc ngủ. Chỉ nghe y chầm chậm tiếp lời: “Cho dù bây giờ tôi lại đưa ra đề nghị hợp tác, sợ rằng ông chủ Trác cũng vẫn không nhận lời đúng không.”
Trác Mộc Cường Ba gằn giọng nói: “Rốt cuộc ngươi muốn làm gì?”
Merkin vẫn vững như núi Thái, mỉm cười nói: “Đây chính là vấn đề của anh đấy, ông chủ Trác, thậm chí cả tôi muốn làm gì anh cũng không rõ, vậy mà cứ một mực cản trở tôi, không cho tôi tham gia vào trò chơi này, đây đâu phải tác phong của một doanh nhân chứ.”
Trác Mộc Cường Ba nhất thời cứng họng, không biết phải đối đáp ra sao, nhưng Nhạc Dương đã nghe ra được manh mối trong lời nói của đối phương. Merkin câu nào câu nấy đều nhắc đến ba chữ “ông chủ Trác”, tựa hồ đang nhắc nhở Trác Mộc Cường Ba rằng gã là một doanh nhân, đồng thời ngầm ám chỉ, mọi thứ đều có thể dùng tiền để định giá. Trương Lập cũng lên tiếng nhắc nhở: “Cường Ba thiếu gia, cẩn thận hắn giở trò, đừng phí lời nữa.” Kế đó, anh lại lớn tiếng chất vấn Merkin: “Ngươi dẫn những binh sĩ Tước Mẫu kia đi đâu rồi?”
Merkin chỉ lừ mắt nhìn Trương Lập một cái, căn bản không buồn trả lời câu hỏi của anh.
Lúc này, trong đầu Trác Mộc Cường Ba đang diễn ra một cuộc đấu tranh tư tưởng kịch liệt. Ánh mắt lúc quyết biệt của Đa Cát, dáng điệu quỳ bái thành kính của Ca Ca, vụ nổ hủy diệt trong Đảo Huyền Không tự, tiếng khóc thất thanh đau đớn đến xé lòng của Mẫn Mẫn khi anh trai cô mất tích… từng cảnh tượng lần lượt hiện lên trước mắt gã, nhưng gã vẫn cảm thấy có gì đó không ổn lắm, cảm giác mơ hồ ấy, khiến gã ý thức rằng, có một số chuyện, cần phải làm cho rõ đã.
Trác Mộc Cường Ba vẫn còn đang do dự, Ba Tang đã không kiềm chế nổi nữa, bàn tay giơ lên chuẩn bị rút súng ra. Nhưng Merkin còn nhanh hơn bọn họ, bởi y không cần rút súng, mà chỉ trực tiếp dùng ngón cái và ngón trỏ tạo thành hình dạng như khẩu súng, chĩa vào bọn Trác Mộc Cường Ba, cất lời uy hiếp: “Bảo ban thuộc hạ của anh cho tốt vào, đừng để chúng làm loạn!”
Trác Mộc Cường Ba thầm kinh hãi, Merkin chỉ lấy tay giả bộ như khẩu súng thôi, mà đã khiến gã cảm thấy như thể có một khẩu súng thật đang chĩa về phía mình. Một thứ cảm giác lạnh lẽo đến độ băng giá, tựa như gã còn trông thấy cả họng súng đen ngòm. Cảm giác kỳ quái này, từ đâu mà có chứ?
Thấy Ba Tang không hề dao động, Merkin lại đưa cánh tay còn lại lên, làm thành hình dạng như khẩu súng chĩa thẳng vào Ba Tang, nhếch mép lên cười cười nói: “Nếu muốn động thủ, hậu quả sợ rằng các vị không gánh nổi đâu!”
Ba Tang cũng cảm thấy mối nguy hiểm như thể bị nòng súng chĩa vào, nhưng tay đối phương rõ ràng không hề cầm súng! Sau đó, ngón tay Merkin chầm chậm di động, người nào bị ngón tay ấy trỏ vào đều nảy sinh cảm ứng tương tự. Lúc y chĩa tay về phía Lữ Cánh Nam, trong đầu cô lóe lên một tia chớp, sực nghĩ ra gì đó, liền chú ý quan sát chỗ ống tay áo màu rằn ri. Quả nhiên, ống tay áo của Merkin không cài cúc, bên dưới gồ lên thứ gì đó không giống như cơ bắp trên tay. Chỉ nghe cô khẽ thốt lên một tiếng: “Sát thủ Tiệp Khắc!”
Hành động này của Merkin đã chọc giận Trác Mộc Cường Ba, giống hệt như trong căn phòng tối của nhiều năm về trước, y vẫn ngạo mạn như thế, vẫn không hề coi người khác ra gì như thế, chỉ để lại trong ấn tượng của người khác một cái bóng sừng sững từ trên cao nhìn xuống, như thể tất cả mọi người trên cõi đời này đều không đủ địa vị, không xứng để đối thoại bình đẳng với y vậy. Trong suốt cả quá trình tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, y và thủ hạ của y luôn bám theo bọn gã như âm hồn bất tán, bao nhiêu nỗi đau cùng bao nhiêu cái chết, đều trở nên hết sức rõ nét trong đầu Trác Mộc Cường Ba. Còn nữa, nếu muốn truy hỏi xem Đường Thọ đang ở đâu, cũng phải chế phục được tên Merkin này trước đã. Nhìn bộ dạng huênh hoang ấy của đối phương, Trác Mộc Cường Ba trầm giọng hạ lệnh: “Ra tay!” Còn Lữ Cánh Nam, cô đang chuẩn bị nhắc nhở Trác Mộc Cường Ba thì lời đã thốt ra khỏi miệng gã rồi. Lữ Cánh Nam chỉ kịp đẩy gã ra khỏi phạm vi ngón tay Merkin chỉ tới.
Quả nhiên, hai chữ “ra tay” vừa cất lên, hai ngón tay trỏ của Merkin đột nhiên rụt trở lại, sau đấy họ liền nhìn thấy tia lửa lóe lên, rồi mới nghe tiếng súng nổ. Tới tận lúc đó, tất cả mới phát hiện ra, trên tay Merkin, có súng!
Trác Mộc Cường Ba bị Lữ Cánh Nam đẩy một cái, mà Merkin dường như cũng không có ý nhắm vào chỗ yếu hại của gã, nên phát súng đó bắn vào khoảng không; khẩu súng thứ hai chĩa về phía Ba Tang, nhưng trước khi súng nổ thì trực giác nhạy bén của anh đã cảm nhận được, thân thể thình lình co rút lại rồi lắc người né tránh, hơn nữa còn đáp lại một phát súng nữa.
Nhưng họng súng của Merkin vốn không chỉ nhằm bắn một hai người, ngón tay móc vào cò súng không hề lơi ra, đạn liên tiếp bắn ra khỏi nòng súng với tốc độ 1.300 mét/giây, đồng thời cổ tay y khẽ rung lên nhè nhẹ để thay đổi phương hướng đạn ra khỏi nòng. Kỹ thuật bắn súng mỗi giây hạ sát năm tên địch đã được Merkin thể hiện đến mức tinh diệu tuyệt luân, chỉ trong một giây đồng hồ ngắn ngủi ấy, y đã bắn ra tám viên đạn về tám hướng khác nhau.
Đạn bay ra có trước có sau, người phản ứng có nhanh có chậm, ngoài Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang, những người khác đều có cơ hội phản ứng để tránh đạn. Nhưng khốn nỗi, Nhạc Dương và Trương Lập lại không tránh được, hai viên đạn lần lượt sướt qua đùi non và cánh tay của họ, cũng không thể không nói là hai anh chàng này quá đen đủi. Nhưng phát đạn của Ba Tang cũng làm Merkin giật mình kinh ngạc, rõ ràng, y không thể ngờ trong tình huống ấy Ba Tang vẫn còn phản kích được. Y biết rất rõ, trước họng súng nhanh như điện chớp của mình, cần phải có dũng khí từ bỏ mạng sống thì mới có cơ hội phản kích. Khả năng ngắm bắn của Ba Tang cũng không phải tầm thường, Merkin không thể không né tránh. Y vừa lách người dịch chuyển, Trương Lập và Nhạc Dương cũng tranh thủ thời cơ rút súng bắn trả. Chỉ thấy thân hình Merkin thoắt ẩn thoắt hiện, bộ đồ rằn ri bó sát người biến mất trong rừng cây, trong chớp mắt đã hóa thành một cái bóng mờ mờ.
Cùng lúc đó, bọn Trác Mộc Cường Ba cũng chia nhau tìm được nơi ẩn nấp. Chỉ trong chớp mắt, khu rừng đã biến thành chiến trường của một trận ám chiến. “Rốt cuộc là chuyện gì vậy?” Trác Mộc Cường Ba, pháp sư Tháp Tây và Lữ Cánh Nam cùng nấp dưới một gốc cây, Lữ Cánh Nam chỉ vào cổ tay mình giải thích: “Có một cái chốt ở đây, nguyên lý cũng giống như dây móc của chúng ta vậy, chỉ cần gảy ngón tay một cái là súng hiện ra trên tay ngay lập tức. Khả năng nắm bắt tốc độ của mắt người có hạn, nó sẽ lưu giữ lại hình ảnh của khoảnh khắc ngay trước đó trong não, vì vậy khi hắn kéo lẫy, chúng ta vẫn không nhìn thấy trên tay hắn có súng. Đây giống như một trò ảo thuật vậy. Thiết bị này do một tên lính trong đơn vị đặc biệt đã giải ngũ của Tiệp Khắc phát minh ra sau Thế chiến II. Sau khi rời khỏi quân đội, y trở thành sát ngủ chuyên nghiệp, vì vậy chúng tôi gọi bộ thiết bị này là Sát thủ Tiệp Khắc.”
Merkin phục trong một lùm cỏ, điều chỉnh lại tần số trên thiết bị liên lạc, thoáng sau đó, từng người trong bọn Trác Mộc Cường Ba đều hiện lên trên tấm kính trước mắt y dưới dạng những chấm đỏ. Còn trên mắt kính của bọn Trác Mộc Cường Ba, lại không hề thấy vị trí của mấy người bên phía bọn y. Nhưng họ đều đã khóa chặt phương vị của Merkin, pháp sư Tháp Tây và pháp sư Á La cũng không hề lơi là với Soares. Chỉ có Max, vì thực lực của hắn quá tệ lậu, xung đột còn chưa bắt đầu đã không biết hắn trốn đi đâu mất. Không ngờ, lại chẳng có ai để ý đến hắn.
Merkin nhìn khoảng cách và vị trí của đám người bọn Trác Mộc Cường Ba, vòng tay ra ba lô phía sau, dường như chuẩn bị đổi một loại vũ khí khác. Soares thình lình không hiểu từ đâu chui ra, đưa tay ngăn y lại: “Để tôi!” Giọng y lúc hạ thấp xuống, nghe như thể tiếng cất ra từ một bóng ma.
Merkin ngạc nhiên nhìn Soares, tựa hồ cảm thấy cực kỳ khó hiểu trước biểu hiện tích cực của người bạn cũ này. Chỉ nghe Soares cười khùng khục nói: “Tôi muốn thử xem, phương pháp mới kia có hữu dụng không.”
Merkin hơi lo lắng: “Có chắc ăn không?”
Soares nhe răng cười: “Thử là biết ngay.”
Trong lùm cỏ đột nhiên vươn ra một cánh tay gầy gò khẳng khiu, không giống như đầu hàng, cũng không giống thị uy, bàn tay ấy chỉ nắm chặt lại. Hai vị pháp sư ngay từ đầu đã chú ý đến Soares, chỉ thấy năm ngón tay y xòe ra, vẫy vẫy về phía chỗ bọn Trác Mộc Cường Ba ẩn nấp. Trác Mộc Cường Ba nhìn theo ánh mắt pháp sư Tháp Tây, trông thấy cánh tay lộ ra giữa lùm cỏ, lấy làm nghi hoặc hỏi: “Vậy là ý gì?”
Trước khi Ba Tang kịp phát hiện và ngắm bắn, cánh tay ấy lại rụt về. Ba Tang cẩn trọng bắn thử một phát, song không thấy phản ứng, liền ngay sau đó, không hiểu có thứ gì di động trong lùm cỏ và tản ra khắp bốn phía. Phút chốc, cả bãi cỏ đung đưa dào dạt, cản trở hết tầm nhìn của họ.
Mười giây sau, tiếng rít như còi tàu khiến người ta rởn hết cả tóc gáy lại vang lên lần nữa. Chỉ là lần này, pháp sư Tháp Tây nhận ra, âm thanh đó đang tiến về phía bọn họ. Nhớ lại hành động cổ quái của Soares vừa rồi, pháp sư Tháp Tây đột nhiên kêu lên: “Không ổn! Mau núp xuống!”
Nhưng rồi ông lại ngay tức thì ý thức được, bây giờ mà nằm rạp xuống ẩn trốn thì e đã quá muộn mất rồi, sau khi áp tai xuống đất nghe ngóng, ông lập tức nói: “Rời khỏi chỗ này, mau lên!” Đồng thời vỗ mạnh lên lưng Trác Mộc Cường Ba: “Lùi lại, mau lùi lại!”
Chưa bao giờ thấy pháp sư Tháp Tây kinh hoảng đến thế, điều này rõ ràng là vì tiếng rít từ xa đang tiến lại gần ấy. Mẫn Mẫn nấp sau một lùm cây khác đánh dấu tay ra hiệu hỏi ý, pháp sư Tháp Tây không còn ngại bị lộ vị trí nữa, hét lên: “Thao thú sư, người đó là một Thao thú sư!”
Pháp sư Á La đột nhiên nhớ lại câu cảnh báo mà các vị tiền bối Mật tu đã phải dùng vô số máu tươi và sinh mạng để đổi lấy: “Không bao giờ được đối đầu với một Thao thú sư trong rừng nguyên sinh đầy rẫy dã thú!”
Ba Tang kinh ngạc phát hiện, sau khi pháp sư Tháp Tây kêu lớn lên như thế, đối phương lại chẳng hề có phản ứng gì cả, bèn quét một loạt đạn ra cả bốn phía xung quanh, rồi mới nhảy từ trên tán cây xuống, lầm bầm chửi: “Bọn chúng chạy từ đời nào rồi!”
Trương Lập và Nhạc Dương cũng ló mình ra sau một gốc cây, lên tiếng hỏi: “Có đuổi hay không?”
Pháp sư Á La lắc đầu: “Nhanh, nhanh chóng trở về Tước Mẫu!”
Pháp sư Tháp Tây ấn tay lên cành cây, giọng nói trầm trầm toát ra vẻ bất lực: “Hình như chúng ta bị bao vây rồi.”
Mẫn Mẫn bối rối hỏi: “Chuyện gì vậy ạ? Đã xảy ra chuyện gì thế?”
Lữ Cánh Nam nói: “Khu rừng này lớn quá, phải phân biệt được phương hướng trước đã.” Cùng lúc ấy, tiếng rít trong rừng mỗi lúc một nhiều hơn, tốc độ cực nhanh.
Trác Mộc Cường Ba đột nhiên gầm lên một tiếng: “Đừng ồn nữa! Đi theo tôi!” Dứt lời gã cõng pháp sư Tháp Tây, xoay người guồng chân chạy, đồng thời nói: “Pháp sư, ngài chỉ hướng cho tôi!”
Pháp sư Tháp Tây “ừm” một tiếng, rồi nói: “Chạy về phía kia!” Cả đoàn người liền bám sát theo sau.
Đi được chừng năm chục bước, con Lỗ Mặc đầu tiên đã từ trong rừng chui ra. Tựa như ăn phải thuốc kích thích, nó kêu lên một tiếng hưng phấn, rồi bổ thẳng vào giữa đội hình của bọn Trác Mộc Cường Ba. Ba Tang, Trương Lập, Nhạc Dương, Lữ Cánh Nam cùng lúc nổ súng, từng đóa hoa máu đỏ tươi nở rộ trên sắc da màu xanh xám, nhưng cái sinh mệnh nguyên thủy ngoan cường ấy dường như không hề bị ảnh hưởng một chút nào, vẫn cứ vung vẩy chi trước như cánh tay bọ ngựa lao vù vù thẳng đến. Cuối cùng, bọn Ba Tang buộc phải lách người né tránh. Con “người” Lỗ Mặc trúng mấy viên đạn, cuối cùng đâm sầm vào một thân cây, móng vuốt găm cả vào đó, vẫn không ngừng vùng vẫy quẫy đạp, không chịu ngã xuống.
Pháp sư Tháp Tây lại chỉ hướng: “Bên này!” Trác Mộc Cường Ba vội vàng lao theo, bọn họ đã được nếm mùi lợi hại của lũ thợ săn khủng khiếp, cả nhóm của Tây Mễ đã có quá nửa đều bị lũ sát thủ này tiêu diệt, giờ đây vòng đời xoay chuyển, không ngờ tai vạ lại rơi đúng xuống đầu bọn họ.
Soares ngồi trên một tán cây, dùng ống nhòm quan sát bọn Trác Mộc Cường Ba luống cuống bỏ chạy, thấy bọn gã đâm đầu vào giữa vòng vây của đám người Lỗ Mặc, liền vui vẻ ghi lại mấy số liệu gì đó, đoạn nói với Merkin: “Có hiệu quả, xem ra từ thời viễn cổ, những loài sinh vật này đã tiến hóa ra một hệ thống tiếp nhận chất thông tin hoàn chỉnh rồi. Bọn thằn lằn to đùng ấy không khác gì các sinh vật thời hiện đại ở thế giới bên ngoài, cũng có hệ thống trao đổi thông tin bằng các kích thích tố sinh vật khá hoàn chỉnh. Tôi còn phải thử mấy loại nữa như xua đuổi, báo hiệu ăn…, còn cả hệ thống trao đổi bằng âm thanh của chúng nữa, cũng phải tiếp tục lần mò tìm hiểu.”
Merkin chẳng hứng thú gì với những sinh vật xấu xí ấy, trong lòng thầm nhủ, cả một khu rừng lớn thế này, giờ bị Soares làm cho đâu đâu cũng toàn là bọn thằn lằn dữ tợn đó, mình làm sao đi ra được đây? Đột nhiên, y sực nghĩ ra điều gì đó, lên tiếng hỏi Soares: “Sao bọn chúng không leo lên cây?”
Soares nói: “Bất cứ là ai, khi đối mặt với biến cố bất ngờ đều sẽ kinh hoảng, bọn chúng chỉ lo chạy tháo mạng, mà ngược lại quên mất phương pháp đơn giản dễ làm nhất.”
Lúc này, Max ở bên cạnh bỗng lắp bắp nói: “Ông… ông chủ, bọn chúng, bọn chúng biết leo cây!”
Merkin trừng mắt lên nhìn hắn, giận dữ quát lên: “Sao mày không nói sớm!” Đột nhiên bên dưới gốc cây bọn y đang ẩn nấp vang lên những tiếng “chắt chắt chắt”, ba con người Lỗ Mặc đã vây quanh bên dưới, rõ ràng đã phát hiện có người ở bên trên. Chỉ thấy một con tung mình nhảy lên, dán người vào cành cây, sau đó bắt đầu bò lên với tốc độ cực nhanh.
Merkin đưa mắt nhìn Soares hỏi: “Chất kích thích xua đuổi chúng đâu?”
Soares nhún vai đầy bất lực: “Tôi vẫn chưa trích rút ra được, dùng vũ khí đi…”