Từ khi có đôi chút hiểu biết, tôi đã cảm thấy rằng có một cái gì đó thật sự bí ẩn về sự có mặt của tôi ở ngôi nhà tơ lụa. Tôi không thuộc về nó, tuy vẫn tôi vẫn cảm thấy một sợi dây gắn bó khăng khít giữa tôi với nơi này. Với tôi, nó bao giờ cũng chứa đựng bao điều kỳ diệu; tôi thường có những giấc mộng về tất cả những gì đã xảy ra ở đây và về tất cả những người đã sống ở đây hàng thế kỷ.
Tất nhiên, phần nào đó nó đã thay đổi kể từ những ngày xa xưa ấy. Nó đã thay da đổi thịt kể từ ngày tổ tiên của ngài Francis đã mua nó cách đây hơn một trăm năm. Dòng họ Sallongers đã biến cải nó từ những ngày đầu tiên, và ngài Francis đã đổi tên nó thành “Ngôi nhà Tơ lụa”, một cái tên chẳng thích hợp chút nào mặc dù không phải là không có lý do. Tôi đã từng xem văn tự cũ của ngôi nhà, chính Philip Sallonger đã cho tôi xem vì chúng tôi cùng rất mực quan tâm đến nó. Trong mớ văn tự cũ, nơi này có tên Nhà đi săn của Vua. Nhưng vua nào, tôi thường tự hỏi: Rufus độc ác đi săn qua nơi này chăng? Hay chính là vua William Đệ nhất người được mệnh danh là William – Người chinh phục? Người Norman yêu những cánh rừng của họ và say sưa với các cuộc đi săn. Nhưng có lẽ thời ấy còn chưa có tòa nhà này.
Đây, tòa nhà sừng sững mọc lên đầy tự hào như thể rừng cây cũng vui lòng lùi bước để nhường chỗ cho nó. Có những khu vườn chắc là được hình thành từ thời Tudor. Chính bức tường bao bằng gạch đỏ là bằng chứng thời gian, nó ôm gọn trong lòng những luống cỏ thơm trong quanh hồ với bức tượng thần Hermes sừng sững phía trên như sẵn sàng cho một cuộc giao tranh.
Rừng xanh vây bọc tòa nhà và từ những khung cửa sổ trên cùng, người ta có thể nhìn thấy những thân cây đại thụ – sồi, trắc bá, dái ngựa – tất cả mới mơn mởn làm sao vào mùa xuân, sum suê đầy nhựa sống vào mùa hè và rực rỡ vào mùa thu với những chiếc lá lốm đốm đủ màu chợt lìa cành làm thành tấm thảm tuyết đẹp dưới chân chúng tôi; mà lũ trẻ con thì chỉ thích đạp lên lá vàng rơi để nghe tiếng lá khô vỡ vụng dưới bàn chân. Nhưng rừng cây cũng không kém đẹp vàp màu đông khi thời tiết giá lạnh vặt trụi hết lá trên cành, các cây đại thụ chỉ còn trơ những cánh tay gầy guộc, mốc thếch đâm thẳng lên bầu trời xám xịt bão tố.
Đó là một tòa nhà đồ sộ, vậy mà nó còn được mở mang thêm khi gia đình Sallonger dọn đến đây. họ coi nơi này như một ngôi nhà nghỉ mát. họ cũng có cả một tòa biệt thự ở London và ngài Francis hầu như chỉ ở thành phố, còn khi nào ông không ở đấy thì tức là ông đang rong ruồi khắp đất nước bởi vì ngoài cơ sở chính của ông ở Spitalfields ông còn nhiều nhà máy ở Macclesfields và nhiều vùng nữa trên nước Anh. Ôn nội của ngài Francis đã được nhận tước Hiệp sĩ bởi vì ông là một trong những nhà sản xuất tơ lụa lớn nhất nước Anh và như thế là một vốn quý của quốc gia.
Phái nữ trong nhà không tham dự vào việc làm ăn trong gia đình. Lụa là, gấm vóc là cái gì quan trọng hơn bất cứ điều gì khác trên đời này đối với ngài Francis. Người ta hy vọng là Charles và Philip cũng sẽ như thế khi họ đến tuổi tham gia vào công việc của người cha trong việc tạo ra một thứ sản phẩm đẹp đẽ làm đẹp cho con người. Thế là với lòng yêu mến của cả dòng họ với loại sản phẩm đã làm cho họ đã giàu lại ngày càng giàu thêm và với một sự thờ ơ hoàn toàn đối với lịch sử, cái tên Ngôi nhà Tơ lụa đã được đóng lên trên chiếc cổng ra vào cổ kính với những con chữ màu vàng khổng lồ.
Tôi không hề nhớ là có bất cứ nơi nào khác đã là nhà của tôi Ngoại trừ Nhà Tơ lụa. Tôi phát hiện ra địa vị lạ lùng của mình trong ngôi nhà này và tôi lấy làm ngạc nhiên tại sao tôi không đặt câu hỏi về điều này sớm hơn. Tôi cho là trẻ con lấy mọi vật xung quanh làm vật bảo đảm. Hẳn là thế rồi. Chúng chẳng biết cái gì khác ngoài những vật xung quanh.
Tôi lớn lên ở đây cùng với Charles, Philip, Julia và Cassandra tên thường gọi là Cassie. Tôi chẳng hề biết rằng tôi cũng giống như một con chim cúc cu sống trong tổ bồ câu. Ngài Francis và phu nhân Sallonger là Papa và Mama của họ; với tôi họ là ngài Francis và phu nhân Sallonger. Ở đây còn có Nanny – nhà độc tài ở khu vực dành cho trẻ – người thường lườm nguýt tôi, đôi môi dẩu ra chỉ để xì ra những âm thanh phê phán, chê tôi. Tôi chỉ được gọi cụt lủn là Lenore – không phải là tiểu thư Lenore gì cả, còn những cô gái kia là tiểu thư Julia, tiểu thư Cassie. Điều này cũng thể hiện rõ ràng trong thái độ của Amy, người hầu gái có nhiệm vụ hầu hạ chúng tôi. Chị ta bao giờ cũng dọn đồ ăn cho tôi sau khi phục vụ những người khác. Tôi chỉ được chơi với những món đồ mà Julia và Cassie đã thải ra, mặc dù vào dịp lễ Giáng sinh đó có thể là một con búp bê hoặc một thứ gì thật đặc biệt đối với tôi. Miss Everton là gia sư thỉnh thoảng cũng nhìn tôi với vẻ mặt khinh khi, hợm hĩnh, cô lấy làm bực tức rằng tôi tiếp thu nhanh hơn Julia và Cassie. Và lúc ấy tôi lập tức bị cản lại.
Ông quản gia Clarkson làm như không có tôi, mà thực ra thì ông ta cũng có thèm quan tâm tới bọn trẻ con đâu. Ông ta là một người tối quan trọng, ngự trị ở nhà dưới cùng với bà đầu bếp Dillon. Họ là xếp sòng của đám gia nhân, nơi các nấc thang tôn ti trật tự còn nghiêm ngặt hơn cả trong nhà chủ. Mỗi một người đầy tớ đều có một địa vị cố định không cho phép anh ta hay chị ta ngoi ra khỏi chỗ đó. Clarkson và bà Dillon giữ cho mọi việc theo đúng phép tắc, cũng nghiêm ngặt như tôi có thể hình dung mọi việc xảy ra trog triều đình của Nữ hoàng Victoria. Tất cả mọi gia nhân đều có vị trí bất di bất dịch trên bàn ăn – Clarkson ngồi chủ tọa ở một đầu bàn và bà Dilon ở đầu bà bên kia. Ngồi bên tay phải bà Dilon là Henry – người hầu bàn. Miss Logan, người hầu hạ phu nhân Sallonger ngồi bên tay phải Clarkson nhưng bà ta thường không ăn ở dưới bếp vì bà ta được phép mang đồ ăn về phòng riêng. Grace, người phục vụ ở phòng khách thì ngồi cạnh Henry, tiếp đó là các cô hầu gái May và Jenny, ngoài ra còn có Amy và Carrie. Khi ngài Francis đến ở Nhà Tơ lụa thì người đánh xe tên là Cobb cũng có mặt bên bàn ăn, nhưng chủ yếu ông ta ở London, nơi ấy ông ta có một gian phòng phụ nối với nhà chính của chủ. Ngoài ra, còn một vài người coi ngựa nhưng đại bản doanh của họ là ở chuồng ngựa vốn cách tòa nhà chính khá xa bởi vì ngoài bầy ngựa, ở đấy còn có một cỗ xe độc mã và một chiếc xe chó. Và tất nhiên cỗ xe sang trọng của ngài Francis cũng là nhà khi ngày đến đây vài ngày.
Đó là khu vực nhà dưới, và ở giữa những cấp bậc thấp nhất và nấc thang cao nhất, cứ như thể bay lên trong cái thế có phần khá chông chênh là cô gia sư Everton. Tôi thường hay nghĩ là cô rất cô độc. Cô dùng bữa trong phòng mình – thức ăn do một trong các cô hầu gái miễn cưỡng mang lên. Tất nhiên, Nanny cũng ăn một mình trog phòng riêng nối liền với phòng trẻ. Ở đây, có một bếp lò nhỏ, bà có thể nấu nướng chút đỉnh những khi bà không thích những món người ta nấu trong nhà bếp. Hình như lúc nào cũng có ánh lửa trong lò bởi vì bà Nanny rất khoái các loại trà.
Tôi thường nghĩ đến Miss Everton, nhất là lúc tôi nhận ra là tôi cũng có một địa vị tương tự.
Julia lớn hơn tôi một tuổi; mấy cậu trai kia lớn hơn hẳn chúng tôi và Charles là con trưởng. Họ dường như đã trưởng thành. Philip thường phớt lờ bọn con gái nhưng Charles thì có thể trêu chọc chúng tôi nếu anh ta nổi cơn muốn quậy chơi. Julia là một cô gái hống hách ngạo mạn, tính tình nóng nảy, đôi khi có thể có những trận bộc phát không thể kiềm chế nổi. Hai chúng tôi thường cãi cọ nhau và khi ấy Nanny có thể can thiệp “Tiểu thư Julia, Lenore! Hai người thôi đi! Cãi cọ chí chóe thế này làm cho thần kinh tôi căng thẳng lắm.” Nanny lúc nào cũng tự hào về đầu óc mình. Một bộ óc bao giờ cũng chỉ nghĩ ra những điều hợp lý! Cassie thì khác cô chị. Cô trẻ nhất trong ba đứa con gái. Tôi nghe nói rằng phu nhân Sallonger đã bị hành hạ đến điều khi mang thai cô và sau đó thì không còn khả năng sinh nở nữa. Đó là một trong các lý do dẫn đến khuyết tật của Cassie. Tôi có nghe bọn đầy tớ thì thào cái gì đó về chuyện “giải phẫu” trong lúc chúng nhìn cô chủ nhỏ với cái kiểu cách làm tôi nghĩ đến những cái kìm kẹp ngón tay mà người ta dùng để tra tấn các tội đồ trong các tòa án dị giáo. Chả là bọn chúng nói đến cái chân phải của Cassie, chẳng hiểu làm sao lại không dài bằng chân trái và làm cho cô có kiểu đi “chấm phẩy”. Cassie bé nhỏ, xanh xao, và rõ ràng là rất “mỏng manh” nhưng bên trong là một tâm hồn đằm thắm, đầy tình thương và khuyết tật ấy không hề vùi dập được cô. Hai chúng tôi yêu quý nhau lắm. Chúng tôi thường cùng nhau đọc sách, thêu thùa. Cả hai đứa đều khéo tay trong chuyện may vá. Tôi nghĩ năng khiếu tôi có được là nhờ cả vào Ngoại.
Ngoại là người quan trọng nhất trong đời tôi. Bà là cuả tôi – điều duy nhất ở chốn này mà tôi thuộc về. Hai bà cháu tôi tách khỏi gia đình lớn kia. Bà thích tôi ăn cơm với những đứa trẻ kia trong khi tôi lại chỉ thích dùng bữa với bà. Ngoại cũng muốn tôi tham gia học cưỡi ngựa với các tiểu thư, thực ra thì bà muốn tôi học tập với chúng. Ngoại là một phần của màn bí mật. Chỉ là Ngoại của tôi, không phải là Ngoại của những đứa khác.
Bà sống ở phần cao nhất trong tòa nhà, trong một căn phòng rộng thênh thang được một trong những người của dòng họ Sallonger xây nên. Phòng có những ô cửa sổ thật lớn, thậm chính cả mái cũng được làm bằng kính để cho ánh sáng càng lọt vào bao nhiêu càng tốt. Ngoại cần nhiều ánh sáng. Trong phòng này bà có để máy dệt, máy khâu và đây cũng là nơi bà miệt mài làm việc hết ngày này qua ngày khác. Bên cạnh máy móc còn có các manơcanh tạc y hệt như người thật, ba kiểu phụ nữ với những kích cỡ khác nhau, thường được khóac lên người những tấm áo đắt tiền và đẽp nhất. Tôi đã đặt tên cho chúng: Emmeline là cô nàng bé nhất; phu nhân Ingleby là người vừa phải, tầm thước; còn công nương Malfi là người to cao hơn cả. Vật liệu ở đây được đưa từ Spitalfields đến. Ngoại thường thiết kế các mẫu mã mới rồi đưa ra công thức cắt may. Tôi không bao giờ quên được mùi của những súc vài này. Chúng có những cái tên thật lạ lẫm mà tôi phải học để nhớ. Có bao nhiêu loại lụa quý, gấm thêu kim tuyến, sa tanh… Tất cả đều óng ả, mịn, trơn và mát rượi rất hợp thời trang. Ngoài ra còn có nhung, lụa sọc dày, đũi… Tôi thường ngồi ở đây, nghe tiếng máy may chạy rù rù, quan sát đôi chân nhỏ của Ngoại miệt mài nhấn trên bàn đạp.
“Cầm cho Ngoại cái kéo, ma petite (con bé bỏng của ta),” bà nói, “Xâu cho bà cái kim. Ái chà bà sẽ xoay xở ra sao đây nếu thiếu trợ thủ tí hon này.” Chỉ thế thôi và tôi tràn ngập hạnh phúc. “Ngoại làm việc vất vả quá”, một hôm tôi nói với Ngoại. “Ta là một người đàn bà may mắn, con ạ,” Ngoại đáp bằng một thứ tiếng pha lẫn giữa giọng người Pháp và người Anh, giọng bà sẽ khác hẳn khi bà nói với những người khác. Trong phòng học, chúng tôi phải vật lộn với thứ tiếng Pháp khó khăn để tuyên bố quyền sở hữu của chúng tôi với một cái bút chì, hoặc một con chó, con mèo và hỏi đường đến bưu điện. Julia và Cassie học chật vật hơn tôi bởi vì tôi sống gần Ngoại nên có thể phát âm một cách dễ dàng với một cái giọng khác hẳn giọng Miss Everton, và điều chẳng lấy gì làm thú vị đối với cô giáo.
Ngoại nói tiếp: “Ta được sống trong tòa nhà tuyệt đẹp này với cháu gái yêu quý của ta. Ta hạnh phúc. Cháu gái hạnh phúc. Nó đang lớn lên từng ngày, trở thành một thiếu nữ tài năng. Phải, cháu là thế đấy. Đây là nơi số phận cháu có thể được cải tạo, cho cháu có được một chỗ đứng trong đời. Đó chính là cuộc sống tốt lành, mon amour (tình yêu của ta).”
Tôi thích cái cách Ngoại nói mon amour lắm lắm. Nó nhắc cho tôi biết là Ngoại yêu tôi biết bao – hơn bất cứ người nào trên đời này.
Ngoại không bao giờ sinh hoạt với các thành viên khác trong gia đình. Chỉ khi nào cần phải may quần áo cho mọi người thì bà mới rời phòng may để đến gặp phu nhân, cũng chỉ là vì phu nhân quá ẻo lả, yếu ớt không thể trèo lên các bậc thang.
Chiều chiều, Ngoại đi dạo trong vườn. Thường thì tôi đi với bà thế là chúng tôi có dịp ngồi xuống trong vườn hoa ven hồ trò chuyện. Có bao nhiêu là thứ để nói với Ngoại. Nhiều nhất là chuyện về vải vóc, nó được dệt ra, chất liệu như thế nào thì phù hợp với từng loại. Thường có một cỗ xe có hai ngựa kéo đi từ Spitalfields đến Epping Forest vượt một quãng đường dài 16 dặm mang theo những súc vải đủ loại. Người ta mang vải lên tầng trên cùng, tôi cũng nhập bọn để cùng kiểm tra vải với Ngoại.
Những lúc ấy Ngoại tôi trở nên khác hẳn. Khuôn mặt, tác phong Ngoại thật trẻ trung, thật phấn khích.
Ngoại áp miếng vải vào ngược và thở dài mãn nguyện. Rồi Ngoại khoác vải lên người tôi, vỗ hai tay trong niềm vui sướng mê li, đôi mắt nâu sáng lên long lanh lửa nhiệt tình. Chúng tôi bao giờ cũng trông đợi ngày người ta mang vải đến.
Ngoại là một người thật sự quan trọng trong gia đình. Bà đề ra luật lệ. Tôi cho rằng, bà có thể dùng bữa với mọi người trong nhà nếu bà muốn. Nhưng bà cũng là một nhà chuyên chế theo kiểu của mình giống như Clarkson và bà Dillon vậy.
Bữa ăn của bà được mang lên tầng cao nhất trong nhà mà không một cô hầu gái nào dám bộc lộ một chút xíu khó chịu nào bởi Ngoại toát ra một vẻ cao quý đầy quyền lực. Ồ phải, chắc chắn Ngoại là một người quan trọng rồi. Ngoại chấp nhận những sự phục vụ này với một cung cách khác hẳn Miss Everton, một người bao giờ cũng cảm thấy cần phải biết chắc rằng mình nhận được một sự đối xử tương ứng với tầm vóc của mình. Ngoại của tôi khác, người chỉ cư xử như thể chẳng cần gì phải nhấn mạnh tầm quan trọng của mình vì rằng ai cũng nhận thấy điều đó hết.
Khi tôi bắt đầu khám phá ra rằng thân phận của tôi có khác với những đứa trẻ trong nhà thì củng là lúc tôi cảm thấy có một niềm an ủi lớn khi nhớ rằng bà cháu tôi là của nhau và luôn có nhau. Trong những lần hiếm hoi về chơi nhà, bao giờ ngài Francis cũng đích thân lên thăm Ngoại. Họ nói chuyện về vải vóc, tất nhiên rồi, và ông nói tất cả mọi chuyện có liên quan đến nó với Ngoại tôi.
Đó là bởi vì bà được tất cả mọi người trong gia đình nể phục. Những căn phòng trên cùng trong tòa nhà là của chúng tôi. Tất cả có bốn phòng: phòng làm việc rộng thênh thang tràn ngập ánh sáng, hai phòng ngủ của bà cháu tôi có những ô cửa sổ hẹp và một cửa sổ thông giữa hai phòng cuối cùng là một phòng khách nhỏ ấm cúng. Ba gian phòng nhỏ này thuộc về tòa nhà cũ – phòng may mãi sau này mới được thêm vào.
“Đây là lãnh địa của bà cháu ta,” Ngoại thường nói. “Chúng ta đang ở trong vương quốc của mình. Nó là của cháu, nó là của bà… và chúng ta là vua trong ung điện bé nhỏ trong cung điện bé nhỏ của chúng ta… nhưng đáng lẽ là bà phải nói là Nữ hoàng mới phải.”
Dáng người Ngoại nhỏ nhắn với mái tóc dày và nặng từng đen như mun giờ đây đã lẫn vài sợi bạc. Ngoại bới tóc thành một búi cao, trên đầu có cài một cái trâm Tây Ban Nha sáng lóng lánh. Ngoại rất tự hào về mái tóc của mình.
“Cái răng, cái tóc là gốc con người,” bà nói. “Lụa là, gấm vóc dù có đẹp đến đâu cũng chỉ nâng con lên được chút ít… nếu như đầu tóc không được làm đúng cách thì…” Đôi mắt của Ngoại to, rất biểu cảm, khi sáng lên vì niềm vui, khi quắc lên vì phẫn nộ hoặc có thể lạnh như băng vì khinh bỉ hoặc ấm áp tình thương. Đó là tấm gương phản chiếu tâm trạng của Ngoại. Đó cũng là nét đẹp nhất ở Ngoại, tất nhiên là cùng với mái tóc. Ngoại có đôi bàn tay với những ngón tay thuôn dài, mảnh dẻ. Tôi vẫn nhớ những ngón tay của Ngoại thoăn thoắt cử động trong lúc người cắt áo trên chiếc bàn lơn trong phòng làm việc. Ngoại quá mỏng manh đến nỗi đôi khi tôi lấy làm lo lắng rằng người sẽ bay bổng đi đâu mất. Tôi nói với Ngoại điều đó và nhấn mạnh: “Cháu biết làm gì nếu Ngoại bay đi mất.”
Thường thì Ngoại phì cười trước những tưởng tượng của tôi, nhưng lần ấy Ngoại không cười. Ngoại có vẻ rất nghiêm nghị.
“Mọi việc sẽ tốt đẹp đối với cháu… Bao giờ cũng thế… cũng như nó tốt đẹp với bà. Ngoại của cháu đã đứng trên hai chân… từ ngày bà còn là một thiếu nữ bé nhỏ. Đó là bởi vì bà có thể làm một cái gì đó thật tốt. Phải đúng như thế… Một cái gì… bất cứ cái gì tốt hơn những người khác… Nếu được như thế thì bao giờ cuộc đời này cũng dành cho ta một cài gì đó. Cháu xem đấy, ta nắm được nghệ thuật phù phép cới một súc vải, một cài kéo và một chiếc máy khâu… Ồ còn là một cài gì lớn hơn thế nữa. Ai cũng có thể đạp máy khâu, ai cũng có thể cắt… cắt… cắt. KHông, đó là một cái gì rất nhỏ nhoi… cảm hứng… Phải, cần một chút tài năng thật sự trong công việc này. Đó mới là điều đáng kể. Cháu gái của bà, rồi cháu cũng sẽ tự đứng trên đôi chân của mình. Bà sẽ chỉ đường cho cháu. Và rồi dù có chuyện gì xảy ra cháu cũng không sợ hãi. Bào giờ bà cũng dõi theo từng bước cháu đi.”
Tôi biết Ngoại sẽ làm thế.
Và học hỏi từ bà ngoại cũng không phải là điều khó khăn ghê gớm. Khi vải được mang đến, Ngoại sẽ phác ra vài mẫu, Ngoại sẽ hỏi ý kiến tôi. Lần đầu tiên tôi mày mò tự phác ra một mẫu áo, Ngoại đã mừng khôn xiết. Ngoại vạch rõ tôi hỏng ở điểm nào, chỉ với một vài nét bút sửa đổi, mẫu áo của tôi đã trở thành hoàn chỉnh. “Áo dạ hội của Lenore”, Ngoại đặt tên như vậy. Tôi vẫn còn nhớ về nó bởi vì nó được may bằng một loại lụa in hình những bông hoa oải hương đẹp vô ngần. Sau này Ngoại bảo ngài Francis rất hài lòng vì nó được may bằng một chất liệu dành riêng cho nó.
Khi những chiếc áo đầm đã được ngài Francis và một vài quản lý lớn của ngài xem xét, chúng sẽ được đóng thành kiện gởi đi. Những súc vải mới lại được mang đến. Có một cửa hàng sang trọng ở London bày bán những chiếc áo này. Đó là một chi nhánh làm ăn khác nữa của vương quốc tơ lụa Sallonger.
Tôi vẫn còn nhớ rõ mồn một cái ngày Ngoại nói chuyện với tôi, kể cho tôi biết cớ làm sao chúng tôi lại đến sống ở Ngôi nhà Tơ lụa.
Tôi đã đến bên bà hoàn toàn hoang mang. Chúng tôi đang học cưỡi ngựa, một loại hình học tập mà chúng tôi luyện tập hàng ngày. Một trong những giám mã bao giờ cũng theo sát chúng tôi. Bài học bắt đầu bằng việc cưỡi ngựa vòng quanh sân tập ngựa, sau đó là cho ngựa chạy vượt rào.
Julia là một nữ kỵ sĩ bẩm sinh. Tôi cũng cưỡi ngựa rất giỏi. Cassie thì không được như thế. Tôi nghĩ nó sợ ngựa dù rằng nó đã được giao cho con ngựa thuần nhất đàn. Bao giờ tôi cũng để mắt đến Cassie trong khi chúng tôi chạy nước kiệu hay cho ngựa phi nhanh quanh sân tập và tôi nghĩ nó cảm thấy an tâm nhất là khi bắt gặp ánh mắt của tôi.
Khi chúng tôi kết thúc bài tập ngựa, Julia nói: “Tao ngửi thấy mùi thức ăn ngon lành ở trong bếp.”
Thế là chúng tôi đi về phía nhà bếp.
“Ghệt đi ngựa của các cô có dính bùn không?” bà Dillon hỏi.
“Chưa”, Julia nhấm nhẳn đáp.
“Thế thì tôi mừng lắm bởi vì tôi không muốn sàn bếp dính bùn đất, thưa tiểu thư Julia.”
“Mùi bánh nghe có vẻ thơm ngon quá”, Julia tiếp.
“Dạ thưa, quả có thế… Những điểu tốt lành ở đó mà ra đấy ạ.”
Ba chúng tôi quây quần quanh bàn nhình bà Dillon đon đả mời chào và có một cái gì gần với sự ngưỡng mộ khi chiêm ngưỡng những cái bánh vừa từ trong lò ra.
“Tất cả ổn thôi,” bà Dillon nói không phải không có phần miễn cưỡng. “Miss Everton không thích chuyện này đâu. Cả Nanny cũng vậy… ăn vặt giữa hai bữa ăn mà. Các cô phải đợi đến bữa tiệc trà.”
“Còn lâu lắm,” Julia ra lệnh. “Đưa các kia cho tôi.”
“Ồ, đó là Miss Greedy – Guts, đó là cái dành cho tiểu thư. To nhất đấy ạ.”
“Một lời khen dành cho bà, bà Dillon ạ,” tôi lên tiếng.
“Cảm ơn Lenore, tôi không cần lời khen ngợi. Tôi biết bánh tôi làm ra như thế nào… phải nó cũng được lắm. Đây bánh của tiểu thư Julia. Còn đây là của cô, tiểu thư Cassie. Đây cho Lenore.”
Lúc ấy tôi nhận ra điều đó. Tiểu thư Julia. Tiểu thư Cassie… và Lenore trống không.
Tôi cứ nghĩ hoài về chuyện đó và đợi đến dịp ngồi một mình trong vườn hoa ven hồ với Ngoại để dò cho ra nguồn cơn. Tôi hỏi tại sao tôi chưa bao giờ được gọi là tiểu thư Lenore mà chỉ cộc lốc có cái tên không như là Grace hoặc May hoặc bất cứ người giúp việc nào.
Ngoại im lặng hồi lâu rồi lên tiếng: “Những người giúp việc này thật là… sao lại khô ng nhận ra… Đúng thế, họ chẳng biết được điều gì lớn lao một chút… giống như việc con người ta có thể được gọi như thế này thế khác. Cháu là cháu ngoại của bà. Như thế không giống với việc là con gái ngài Francis và phu nhân Sallonger. Vì thế mà những người như bà Dillon… họ có thể nghĩ… Ồ không cần phải dọi tiểu thư!”
“Ngoại muốn nói con cùng một tầng lớp với Grace hoặc May?”
Bà tôi mím môi, giơ hai tay lên vẫy từ bên này qua bên kia. Bà dùng cả hai tay à đôi vai để diễn tả như thể nó cần đến sự trợ giúp của những phương tiện biểu hiện này.
“Bà cháu mình sẽ không phải lo lắng gì nhiều về bản thân, như cái cung cách của bà Dillon. Chúng ta chỉ cười. Chúng ta nói,” Ồ chuyện đó thì có ý nghĩa gì cơ chứ?” Tốt thôi. Chuyện gì sẽ xảy ra khi tôi không được gọi là tiểu thư. Tiểu thư là cái gì? Chả là cái gì hết. Cháu vẫn tốt đẹp như thường, dù không có chữ tiểu thư đi kèm.”
“Phải, nhưng mà tại sao vậy Ngoại?”
“Rất đơn giản. Cháu không phải là con gái trong gia đình này, vì vậy mà cháu không được những người như bà Dillon gọi là tiểu thư.”
“Khi bọn con gái nhà Dalliongton đến đây dùng trà và chơi đùa với chúng cháu, người ta vẫn gọi chúng là tiểu thư… Vậy mà chúng đâu phải là con gái trong nhà này. Có phải chúng ta cũng là những người đầy tớ không Ngoại?”
“Chúng ta phục vụ… nếu việc đó gọi là đầy tớ. Có thể là thế. Nhưng bà cháu ta ở đây, bên nhau… bà và cháu… chúng ta sống rất tốt. Cả hai đều thanh thản, yên bình. Vậy thì tại sao lại phải lo lắng về cái chữ tiểu thư nho nhỏ ấy?”
“Bà ơi, cháu chỉ muốn biết rõ mọi chuyện thôi. Tại sao chúng ở trong ngôi nhà mà chúng ta không thuộc về nó?”
Bà do dự một lát, rồi dường như đã đi đến một kết luận. “Bà cháu ta đến đây khi con mới được tám tháng tuổi. Một đứa bé mới đáng yêu làm sao! Bà nghĩ việc cháu đến đây là rất tốt. Ở đây chúng ta được ở bên nhau… bà và cháu. Bà nghĩ chúng ta có thể hạnh phúc ở nơi này và họ hứa là cháu sẽ được học hành… được nuôi dưỡng như một đứa con gái trong gia đình. Nhưng chúng ta còn chưa thảo luận đến chữ “tiểu thư” này. Đó là lý do tại sao người ta không ghép nó vào tên cháu. Ai muốn làm một tiểu thư chứ? Cháu không cần điều đó đâu. Thôi mà cháu yêu của ta. Nó chẳng là gì ngoài một cái tên.”
“Hãy cho cháu biết về việc chúng ta đến đây. Tại sao cháu lại không có cha… không có mẹ?”
Ngoại thở dài. “Thôi thì việc này rồi cũng đến,” bà nói như thể tự trấn an bản thân mình. “Mẹ cháu là một thiếu nữ đẹp nhất, đáng yêu nhất trên đời. Tên mẹ cháu là Marie Louise. Đó là người con duy nhất của bà, mon amour. Mẹ con ta sinh sống trog vùng Villers-Mure. Một nơi phong cảnh tuyệt đẹp. Mặt trời chiếu sáng quanh năm và tiết trời ấm áp. Mùa hè ở Villers-Mure mới đích thực là mùa hè. Cháu thức dậy và biết rằng mặt trời sẽ rực rỡ suốt cả ngày. Không giống như ở đây… nó chỉ ló ra một chốc lát rồi biến mất và không thể biết được điều gì.”
“Vậy bà muốn sống ở Villers-Mure?”
Ngoại tôi lắc đầu kịch liệt. “Bà chỉ muốn ở đây. Nơi này là của bà… và cũng là của cháu, ma petite. Đây là nơi cháu sẽ đón nhận hạnh phúc… và một ngày kia cháu sẽ không còn quan tâm đến việc người ta có gọi cháu là tiểu thư hay không?”
“Bây giờ cháu cũng không quan tâm đâu Ngoại. Cháu chỉ muốn biết mọi việc thôi.”
“Villers-Mure cách đây bao nhiêu là đường đất. Nó ở trong lục địa, ở nước Pháp. Và cháu có biết là nước Pháp là một quốc gia rộng lớn – lớn hơn cái hòn đảo nhỏ bé này? Hẳn là Miss Everton phải cho cháu biết điều đó. Ở đây có nhiều núi non, làng mạc, thành phố nhỏ… bà ở gần biên giới với nước Italia. Villers-Mure là đất trồng dâu và điều đó có ý nghĩa là… vải vóc tơ lụa. Những con tằm bé bé nhả tơ cho chúng ta, tằm khoái lá dâu lắm mà ở đấy thì cây dâu tươi tốt lạ thường, thế là có chuyện tơ lụa.”
“Như vậy, bà bao giờ cũng gắn bó với vải vóc tơ lụa?”
“Villers-Mure là quê hương của dâu tằm… mà lụa là nguồn sống của chúng ta. Không có tơ lụa, thì có Villers-Mure. Dòng họ St.Allengères trải qua nhiều đời ở đây và có thể là nhờ Chúa họ sẽ sống mãi ở đấy. Để bà kể cho cháu nghe. Nhà St.Allengères sống trong một điền trang tuyệt đẹp. Cũng giống như nhà tơ lụa này chỉ có điều không có rừng mà chỉ có núi non trùng điệp. Đó là một tòa nhà đồ sộ… nơi sinh sống của dòng họ này hàng mấy thế kỷ rồi. Quanh nhà là những đồng cỏ, những cánh đồng hoa mọc thành rừng xanh tốt, một dòng sông lờ lững chảy qua đất đai của họ. Ở phía ngoài là những ngôi nhà nhỏ, nơi những người làm công sống với gia đình của họ. Có một nhà máy dệt rất lớn. Đẹp lắm… màu trắng được tô điểm bởi những mảng màu xanh của hàng cây trúc đào và những bụi hoa giấy vốn sinh trưởng rất tốt ở vùng này. Nhưng tươi tốt hơn cả vẫn là loại dâu nuôi tằm và từ đây người ta có loại to tằm tốt nhất thế giới. Máy dệt của họ cũng là loại hảo hạng… tốt hơn bất cứ loại máy nào người ta có ở Ấn Độ và Trung Hoa… những nơi có lẽ cũng là quê lụa. Một số loại tơ lụa, gấm v1c đẹp nhất thế giới có xuất xứ từ Villers-Mure.”
“Thế là bà sống ở đấy và làm việc cho dòng họ St.Allengères?”
“Phải. Mẹ con ta có một nếp nhà nhỏ xinh… ngôi nhà đẹp nhất ở đấy. Hoa bò quanh bốn bức tường nhà ta. Thật là chốn bồng lai và con gái ta, Marie Louise nó hạnh phúc lắm. Nó sinh ra cho niềm vui và vì niềm vui. Nó ở đâu thì ở đấy vang lên tiếng cười giòn tan của nó. Ma con bé quả là một trang tuyệt sắc. Cháu có cặp mắt của mẹ. Đôi mắt nhảy múa. Đôi mắt vui cười, dù vậy đôi mắt ấy chưa hề gợn một chút ưu tư nào như cặp mắt cháu, bé ạ. Đôi mắt màu xanh đậm, long lanh như mắt cháu và mái tóc của mẹ cháu đen tuyền… đen hơn tóc cháu, mềm mại và óng ả… Mẹ cháu đẹp lắm. Nó chẳng thấy có điều gì xấu trên đời hết. Nó chẳng nhận ra…và thế là nó đi mãi.”
“Mẹ cháu đi như thế nào ạ?”
“Chết trong lúc sinh con. Một điều thỉnh thoảng vẫn xảy ra. Đáng lẽ một người như mẹ cháu sẽ không bao giờ chết. Lẽ ra ta phải chăm chút con gái như ta chăm chút cháu ngoại bay giờ. Đúng ra ta phải làm cha cả thế giới này là một chốn hạnh phú cho con ta. Nhưng nó đã chết… nó để lại con cho ta… và điều này đã làm cho ta nguôi ngoai phần nào nỗi đau mất con gái.”
“Thế còn cha cháu?”
Ngoại tôi lại rơi vào im lặng. Một lúc lâu sau bà mới nói: “Đôi khi những chuyện như thế này ẫn xảy ra. Lớn lên cháu sẽ hiểu. Đôi khi trẻ con ra đời… mà chẳng biết các ông bố ở phương trời nào.”
“Bà muốn nói… ông ấy bỏ mẹ cháu?”
Ngoại cầm tay tôi đưa lên môi hôn. “Không ai có vẻ đẹp mê hồn như mẹ cháu. Nhưng dù chuyện gì đã xảy ra thì mẹ cháu cũng đã để cháu lại cho bà và đó là món quà quý hóa nhất mà mẹ cháu có thể trao cho bà trước lúc ra đi. Thay vì có con gái, ta lại có đứa cháu gái, con của nó và tất cả môi niềm vui lớn nhỏ trong đời đều bắt đầu từ nơi cháu bà, Lenore ạ.”
“Ôi Ngoại, chuyện mới buồn thảm làm sao!”
“Mùa hè năm ấy, mẹ cháu thường hay dạo chơi trong một thung lũng ngát hương và xanh tươi gần nhà. Hoàn toàn là một cô bé ngây thơ. Đáng lẽ bà phải ngăn ngừa mẹ cháu từ trước.”
“Và mẹ đã bị cha cháu bỏ rơi?”
“Bà không thể nói rõ ràng được. Bà chỉ quan tâm đến mẹ cháu vì thế mà bà chỉ biết được đôi chút vào ngày cháu sắp ra đời. Rồi đến ngày cháu được sinh ra… còn mẹ cháu thì chết. Bà nhớ đã ngồi bên giường con gái, trống rỗng, bàng hòang, tuyệt vọng… rồi bà đỡ đi vào, đặt một hài nhi vào tay bà. Cháu chính là sự cứu rỗi của bà. Cuối cùng bà đã nhận ra một điều, bà vừa mất đi đứa con gái nhưng lại có con gái của nó. Kể từ đó cháu đã là tất cả đối với bà, trong đời bà.”
“Ước gì cháu biết cha mình là ai.”
Ngoại tôi lắc đầu, nhún vai.
“Và thế là Ngoại đi đến đây?”
“Phải, bà đã sang đây. Dường như đó là điều tốt đẹp nhất. Chuyện xảy ra với mẹ cháu là một chuyện kinh thiên động địa ở một vùng quê yên ả như thế. Cháu biết mọi chuyện xảy ra như thế nào với những người như Clarkson và bà Dillon rồi đấy. Họ thì thào… họ đưa chuyện, bàn tán. Bà không muốn cháu lớn lên trong những điều dị nghị đầy ác ý.”
“Bà muốn nói họ sẽ khinh thường cháu bởi vì ba mẹ cháu không cưới nhau?
Ngoại gật đầu. “St.Allengère là một dòng họ giàu có… và hùng mạnh, rất có thế lực. Họ chính là cả cái Villers-Mure này. Tất cả mọi người đều làm việc cho họ. Tên tuổi họ lừng lẫy trong giới công nghiệp dệt ở Pháp và Italia nữa. Vì thế mà Monsieur St.Allengère là một nhân vật đứng đầu… là cha của tất cả chúng ta… và các gia đình làm nghề dệt tơ lụa trên thế giới… họ… biết nói thế nào cho cháu nghe đây? Phải… họ có mối giao lưu với nhau. Họ biết rõ về nhau. “Lụa của tôi tốt hơn lụa của bác”. Cháu biết đấy, đại loại mọi việc diễn ra như vậy.”
“Dạ”, tôi đáp mà trong đầu vẫn cố hình dung về mẹ tôi., và người đàn ông đã phản bội mẹ tôi cùng vụ xì – căn – đan về việc tôi ra đời ở Villers-Mure.
“Ngài Francis thỉnh thoảng cũng đi du ngoạn đó đây. Có một cái gì như là tình bạn giữa hai dòng họ… nhưng là tình bạn gì cơ chứ? Nhà nào cũng muốn thứ lụa mình làm ra là tốt nhất. Ai cũng có những bí quyết… Họ chỉ trưng ra một chút chút… và là những điều chẳng có gì là quan trọng.”
“Cháu hiểu Ngoại ạ, nhưng cháu muốn biết chuyện xảy ra với mẹ cơ.”
“Từ trên cao xanh kia nhìn xuống đây, mẹ con sẽ sung sướng lắm khi thấy bà chúa ta bên nhau. Mẹ cháu sẽ hiểu chúng ta có ý nghĩa đối với nhau như thế nào. Ngài Francis đến Villers-Mure chơi. Bà vẫn còn nhớ rõ sự kiện đó. Có một mối liên hệ giữa hai gia đình. Người ta nói từ xa xưa về trước, họ là người trong một nhà. Hãy nghe cái tên của hai họ, St.Allengère trong tiếng Anh là Sallonger.”
“Vậy sao?” Tôi kêu lên giọng thích thú. “Sao mà hai gia đình lại là một trong khi ở hai nứơc khác nhau?”
Ngọai lại nhún một bên vai. “Có lẽ cháu có nghe từ bài giảng của Miss Everton về một cái gì gọi là Edict of Nantes.”
“Ồ có, đó là một văn khế được chính vua Henri đệ tứ của Pháp ký, để coi nào… Cháu nghĩ vào năm 1598.”
“Phải, phải, nhưng nó đã gây nên chuyện gì? Cho phép những người Pháp theo đạo Tin Lành được đi theo niềm tin của mình.”
“Cháu nhớ mà. Nhà vua cũng là một người theo đạo Tin Lành, còn người Paris thì không chấp nhận một ông vua Tinh Lành, thế là Ngài phán rằng Paris xứng đáng với buổi lễ Misa và Ngài sẽ trở thành một tính đồ Thiên Chúa Giáo.”
Ngoại mỉm cười vẻ sung sướng. “Ồ, đó là cái gọi là tri thức đấy cháu à! Phải họ đã tahy đôi tất cả.”
“Nó được gọi là đạo luật Hủy Bỏ và nhiều năm sau nó được vua Louis thứ 13 phê chuẩn.”
“Đúng, và nó đã đuổi hàng vạn người Tin Lành ra khỏi Pháp. Có một chi dòng họ St.Allengère định cư ở nước Anh. Họ dựng lên nhiều nhà máy dệt ở những địa điểm khác nhau. Họ mang theo những bí quyết gia truyền về cách thức dệt ra những tấm vải đẹp nhất. Họ lao động chuyên cần và làm ăn phát đạt.”
“Nghe có vẻ thú vị quá à! Vậy là ngài Francis sang thăm người bà con họ xa ở Pháp?”
“Năm thì mười họa thôi. Người ta cũng chẳng nhớ nhiều đến mối quan hệ dây mơ rễ má đâu. Chỉ có mối quan hệ cạnh tranh giữa Sallonger bên Anh và St.Allengère bên Pháp. Khi ngài Francis qua Pháp người ta chỉ để lộ ra một chút đỉnh thông tin gọi là và cố moi xem ông đang làm cái gì. Họ là địch thủ của nhau mà. Cái đó gọi là cạnh tranh chốn thương trường.”
“Thế là bà gặp ngài Francis khi bà đang ở Villers-Mure?”
Ngoại gật đầu. “Ớ đấy, bà cũng làm việc như đang làm ở đây. Bà có một cái máy dệt. Bà có nhiều bí mật nghề nghiệp đáng giá… và bà bao giờ cũng có thêm những bí quyết dệt lụa mới. Bà là một người thợ dệt lụa khéo léo. Tất cả mọi người sống ở đây đều làm nghề này… và bà cũng thế.”
“Cả mẹ cháu nữa chứ?”
“Cả mẹ cháu cũng thế. Monsieur St.Allengère cho mời bà đến hỏi xem bà có thích sang nước Anh không. Đầu tiên bà còn chưa biết quyết định làm sao. Bà còn chưa tin vào điều đó, nhưng khi hiểu ra, bà thấy ngay đó là một cơ hội vàng. Là điều tốt nhất cho cháu mà cái gì tốt nhất cho cháu thì cũng tốt cho bà. Thế là bà chấp nhận lời đề nghị mời bà sang đây… sống trong ngôi nhà này… dệt những loại tơ lụa đặc biệt khi có yêu cầu… may những bộ quần áo thời trang để quảng cáo sản phẩm dệt.”
“Bà muốn nói ngài Francis cho chúng ta một mái nhà ở đây?”
“Điều đó được thỏa thuận giữa ông ấy và Monsieur St.Allengère. Bà có một chiếc máy dệt, một cái máy may và bà sẽ làm việc cho ngài Fracis như bà đã từng làm ở bên Pháp.”
“Quê hương là nơi có người mình yêu thươg sinh sống. Bà đã có cháu gái của bà và chứng nào cháu còn ở bên bà thì bà đã lấy là mãn nguyện lắm rồi. Cuốc sống ở đây thật tốt lành. Cháu được nuôi dạy cùng các cậu ấm, cô chiêu… và bà tin là cháu học hành tiến bộ. Tiểu thư Julia… con bé có đôi chút ghen tị vì cháu thông minh xinh đẹp hơn phải không? Và cháu yêu quý tiểu thư Cassie phải không? Cô bé ấy cũng giống như chị em ruột thịt với cháu. Ngài Francis là người tử tế. Ông ấy biết giữ lời và phu nhân Sallonger… có thể nói là bà ấy hay đòi hỏi một chút nhưng không có tâm địa gì. Chúng ta nhận được nhiều mà chỉ cần đáp lại một chút. Bà sẽ không bao giờ thôi tạ ơn Chúa vì Ngài đã soi đường chỉ lối cho mình.”
Tôi quàg tay quanh cổ Ngoại và áp sát người vào bà. “Chẳng có vấn đề gì phải không ạ? Chừng nào bà cháu ta còn được ở bên nhau.”
Tôi đã biết chút ít về thân phận mình như thế đấy và tôi cảm thấy rằng còn có nhiều điều tôi cần phải tìm hiểu nữa.
*
* *
Ngoại nói đúng. Cuộc sống là niềm vui. Tôi không còn vướng bận về quá khứ nữa và sự đối xử khác biệt nho nhỏ đối với tôi không còn làm tôi bận tâm nhiều nữa. Tôi không phải con ông cháu cha. Được, tôi chấp nhận. Người ta rất tốt với chúng tôi. Người ta đã cho phép chúng tôi rời cái làng quê nho nhỏ nơi ai cũng biết mẹ tôi đã sinh ra tôi mà chưa làm lễ cưới trước bàn thờ Chúa. Tôi đã hiểu được thế nào là dấu ấn ô nhục của cái chuyện “không chồng mà chửa” bởi vì có hơn một cô gái ở các làng lân cận phải đương đầu với cái mà người ta gọi là “hoảng chưa”. Một trong số họ cũng lấy được cái người đã cùng mình làm chuyện ấy, và người thiếu phụ bây giờ đã có sáu mặt con mà cái tiếng ngày xưa vẫn còn ghi nhớ.
Tôi đặt ra rất nhiều câu hỏi về cha mình. Đôi khi tôi nghĩ việc không biết cha mình là ai cũng có một cái gì thật lãng mạn. Người ta có thể tưởng tượng cha mình là người thú vị hơn, đẹp đẽ hơn trong thực tế. Một hôm tôi tự nhủ, nhất định tôi sẽ đi tìm cha. Và quyết định này đánh thức trong tôi một kẻ mộng mơ mới mẻ. Tôi có cả một lô những tưởng tượng đẹp đẽ, phong phú về người cha sau buổi trò chuyện với Ngoại. Dần dần tôi không còn mong đợi được đối xử như tiểu thư Julia và Cassie nữa, bởi cuộc đời họ xem ra khá đơn điệu nếu đem ra so sánh với tôi. Họ không được sinh ra bởi một thiếu nữ đẹp tuyệt trần; họ cũng không có một người cha bí ấn, vô danh.
Tôi nhận ra là ở một phương diện nào đó chúng tôi cũng chỉ là kẻ ăn người ở trong gia đình này. Ngoại là một người giúp việc có một địa vị cao hơn – có thể là cùng một nấc thang với ông quản gia Clarkson hoặc ít ra thì cũng bằng bà Dillon – nhưng vẫn là một người đầy tớ không hơn không kém; sở dĩ Ngoại được trả giá cao là vì tài may cắt của bà và tôi được như thế này là nhờ vào đôi tay tài hoa của bà. Thế là… tôi đành chấp nhận số phận của mình.
Đúng là phu nhân Sallonger hay yêu sách lắm. Người ta chờ đới đến ngày tôi sẽ trở thành người hầu gái thân cận của bà. Phu nhân thật đẹp – hoặc đúng hơn đã có một thời xuân sắc và dấu vết của nó vẫn còn lưu lại đến bây giờ. Ngày ngày, bà nằm dài, ẻo lả trên chiếc sofa trong phòng khách, bao giờ cũng trang phục như đi hội với chiếc áo khóac ngoài tuyệt đẹp và Miss Logan phải bỏ ra khối thời gian để làm tóc và mặc quần áo cho phu nhân. Sau khi sửa soạn xong bà sẽ thực hiện một chuyến di giá chậm rãi từ phòng ngủ sang phòng khách, tì cả người vào cánh tay Clarkson trong khi Henry mang cái túi thiêu của bà và chuẩn bị tiếp sức khi có việc gì cần đến. Bà thường lệnh cho tôi đến để đọc sách cho bà. Dường như bà khoái nghĩ việc ra cho tôi làm. Vậy mà bà lúc nào cũng rất mực ngọt ngào, chí có điều cái giọng mệt mỏi của bà dường như có ý oán trách – số phận – tất nhiên rồi, vì đã làm cho bà khốn khổ trong chuyện sinh Cassie và làm cho cô bé trở thành kẻ tật nguyền.
Thường là thế này, “Lenore, mang cho ta cái gối. Ồ, cái này tốt hơn. Cháu sẽ ngồi xuống đây chứ? Làm ơn trải tấm đắp lên chân ta. Chúng đang lạnh cóng đây này. Bấm chuông đi. Ta cần thêm than vào lò sưởi. Mang đồ thêu đan của ta lại đây. Ồ bé, ta nghĩ chỗ này thêu hỏng mất rồi. Cháu có thể thêu lại. Có lẽ cháu sẽ sửa lại cho đẹp hơn. Ta ghét phải làm lại một chuyện gì lắm. Nhưng hãy để sau đã. Bây giờ thỉ đọc sách cho ta nghe…”
Bà sẽ giữ rịt tôi lại để đọc sách, hàng giờ liền. Nhưng bà thường thiếp đi và khi nghĩ rằng bà đã ngủ tôi bèn ngừng lại., thế là nhận được lời khiển trách ngọt ngào và cái lệnh đọc tiếp. Bà thích các tác phẩm của bà Henry Wood. Tôi vẫn còn nhớ các chuyện như là Kênh đào, Những rắc rối của bà Halliburton và East Lynne. Tôi đã đọc to những cuốn truyện này, cho bà chủ nghe và bà bảo tôi có giọng đọc êm dịu ngọt ngào hơn Miss Logan.
Trong suốt thời gian làm những công viêc này tôi luôn nghĩ đến việc chúng tôi nợ nhà Sallonger bao nhiêu. Người ta đã cho tôi đến đây để trốn tránh nỗi nhục do mẹ tôi gây ra. Có một cái gì đó giông giống với trường hợp của tôi trong những câu chuyện của bà Henry Wood và lẽ tự nhiên tôi bị thu hút vào trung tâm những sự kiện đầy kịch tích ấy.
Có lẽ khi người ta ở vào một địa vị khiêm tốn, người ta dễ cảm thông với người khác hơn. Cassie bao giờ cũng là bạn tốt của tôi, Julia quá đanh đá, quá tự phụ để có thể là một người bạn thật sự. Cassie rất khác chị. Nó trông đợi vào sự giúp đỡ của tôi và một trong những điều tốt đẹp trong tôi nếu có là tôi ưa giúp đỡ người khác. Tôi thích có một chút ảnh hưởng đến người khác. Tôi cũng thích chăm sóc những người xung quanh. Tôi nhận ra là mình làm thế không hòan toàn là vì lòng vị tha. Tôi thích cái cảm giác là mình trở nên quan trọng khi giúp đỡ người khác, thế là tôi hết lòng giúp Cassie, học tập. Khi chúng tôi đi bộ, tôi giữ cho nhịp bước của mình khớp với việc di chuyển khó khăn của Cassie trong khi Julia và Miss Everton cư tơn tơn đi trước. Trong lúc cưỡi ngựa, tôi để mắt đến Cassie. Nó đáp lại sự quan tâm của tôi bằng một sự ngưỡng mộ thầm lặng làm cho tôi cảm thấy vô cùng sung sướng. Có vẻ như là có một sự thỏa thuận rằng tôi cần chăm sóc Cassie cũng như phải hầu hạ phu nhân Sallonger thật chu đáo. Có một người nữa cũng làm dấy lên trong tôi sự cảm thương sâu sắc đó là Willie. Nó là đứa trẻ mà bà Dillon gọi là “của nỡ của Winnie Wardle”. Theo lời đồn trong vùng, Winnie Wardle là “một ả nông nổi”, “không thể khá hơn được”, người đã gặt hái phần thưởng và đồng thời “lãnh đủ sự trừng phạt” với việc cho ra đời Willie.
Thằng bé là kết quả của “tình bạn” giữa cô ta và một tay lái ngựa vẫn lai vãng đến vùng này, cho đến lúc bụng của Winnie đột nhiên lại to ra thì hắn cũng cao chạy xa bay. Winnie tự cho là mình biết cách xử lý trong những trường hợp này cho nên đã tìm đến một bà già không ngoan sống cách biệt trong một túp liều trong rừng, cách Nhà Tơ lụa chừng một hay hai dặm. Nhưng dù vậy lần này cô ta không đủ khôn ngoan và âm mưu của cô ta không thành, thằng bé Willie vẫn ra đời – một lần nữa theo lời của bà Dillon thì nó “không đáng giá một đồng chinh mẻ”. Bà chủ không muốn đuổi người mẹ ra ngoài đường nên cô ta vẫn được phép ở lại cùng với con. Nhưng trước khi nó đầy một năm, tay lái ngựa lại xuất hiện thế là Winnie chạy biến với hắn trút tất cả gánh nặng tội lỗi của mình lên vai người khác. Thằng bé được đem đến chuồng ngựa để bà Carter, vợ của người giám mã trưởng, nuôi nấng. Bà này đã cố đẻ cho bằng được một đứa con nhưng vẫn không có kết quả đành vui lòng nuôi con người khác vậy. Nhưng chẳng bao lâu sau khi nhận Willie về nuôi bà ta lại có bầu và đẻ một mạch sáu đứa con nên chẳng còn hơi sức đâu mà quan tâm đến Willie nhất là nó lại là một đứa “dở người”.
Tội nghiệp Willie – nó chẳng thuộc về ai cả; chả có ai quan tâm đến nó. Tôi thường nghĩ nó không ngu như cái vẻ bên ngoài. Nó không biết đọc biết viết, nhưng mà nhiều người làm ở đây cũng hoàn toàn mù chữ. Willie có một con chó lai thường theo chân nó đi khắp nơi và được mệnh danh theo lời bà Dillon là “một con chó chết tiệt”. Tôi lấy làm mừng là Willie cũng còn có một cái gì yêu thương nó và còn có chỗ để nó bộc lộ tình cảm của mình. Dường như nó trở nên khôn ngoan hơn kể từ khi có con chó. Nó thích ngồi bên con vật trung thành khi thì ở bên hồ để cùng nhìn mặt nước khi thì trong rừng vốn không xa tòa nhà chính bao nhiêu. Rừng gây nên cho ta bao bất ngờ. Những hàng cây nối nhau bất tận rồi đột nhiên hiện lên một hồ nước. Trẻ con bắt cá quanh hồ. Người ta có thể nhìn thấy lũ trẻ nhà quê với những cái giỏ cột sau lưng, nghe thấy tiếng chúng cười ré lên khi bắt được một con nòng nọc. Lau sậy mọc đầy ven hồ với những chùm hoa nở bung như những ngôi sao nhỏ – mà chúng tôi đặt tên là mũ chỏm – rập rờn theo gió. Tôi không bao giờ hết ngạc nhiên trước vẻ đẹp kỳ diệu của rừng cây. Nó bao giờ cũng đầy ắp những điều làm ta ngạc nhiên. Nếu bạn cưỡi ngựa trong rừng, bất chợt bạn có thể ngừng lại trước vài nếp nhà hoặc một cái liều nhỏ hoặc thôn nhỏ. Có một lúc nào đó cây cối bị đốn xuống nhường chỗ cho sự xâm nhập của con người, nhưng việc này xảy ra lâu đến nỗi không còn ai nhớ được là khi nào nữa.
Tháng năm đã thay đổi rừng cây nhưng đó chỉ là sự thay đổi nho nhỏ. Cuộc chinh phục của người Norman đã bao trùm lên hầu hết vùng Essex, nhưng giờ đây vẫn còn vài tòa nhà lớn, những thôn làng cổ xưa, nhà thờ, trường học dành cho nữ sinh và một vài túp liều nhỏ.
Không dễ gì mà tiếp xúc được với Willie. Nếu có ai muốn thủ nói chuyện với nó, nó sẽ có cái vẻ như một con hươu giật mình cảnh giác; nó sẽ đứng bất động trong tư thế sẵn sàng nghênh chiến. Nó không tin bất cứ ai.
Thật lạ lùng việc con người ta thích bắt nạt kẻ yếu hơn mình. Có phải đó là vì người ta muốn người khác chú ý đến sức mạnh của mình? Bà Dillon là một trong những người như vậy. Bà ta cũng là người thích nhấn mạnh rằng tôi không ở cùng một giai cấp với những người bạn của tôi. Có vẻ như là thay vì cố gắng nâng đỡ Willie, người đàn bà này lại tô đậm thêm cái nét “dở người” của nó.
Lẽ tự nhiên, nó được nuôi ăn để phụ việc trong nhà. Nó múc nước từ dưới giếng mang vào nhà bếp và cọ rửa sân xướng. Tất cả những công vịêc này nó đều thực hiện một cách vui vẻ; cũng như một thói quen. Rồi một hôm bà Dillon sai nó: “Đi vào nhà kho mang cho tao một lọ mứt mận, rồi bảo cho tao biết còn bao nhiêu lọ trong đó, nghe chưa?” Bà ta muốn chứng kiến cảnh Willie quay lại chnẳg có mứt mận gì hết với một vẻ rối trí thật sự, để bà có thể hỏi trời cao đất dày và thắc mắc với các vị thánh thần có thể nghe được tiếng nói của bà là bà đã làm gì mà phải đeo vào cổcái thằng đần như một con lừa điếc này.
Willie không biết đếm. Nó chịu không biết xoay xở thế nào với nhiệm vụ được giao. Điều này tạo cho tôi một cơ hội. Tôi ra hiệu cho nó và đi theo nó đến nhà kho. Tôi lấy ra một lọ và giơ sáu tay lên. Nó chằm chằm nhìn tôi, một lần nữa tôi lại giơ sáu ngón tay lên. Cuối cùng thì gương mặt nó cũng nở ra một nụ cười. Willie quay lại nhà bếp. Tôi nghĩ là bà Dillon sẽ thất vọng khi nó quay về với cái mà bà đòi hỏi. “Được, vậy còn bao nhiêu lọ?” Tôi đang lớ xớ ở gần đó, ngay sau lưng bà Dillon, thế rồi tôi giơ sáu ngón tay lên. Willie cũng làm theo.
“Sáu lọ à?” bà Dillon la lên. “Ít thế thôi à. Trời đất, tôi biết làm gì khi người ta khoác vào cổ tôi cái đồ đần thối ra thế này?”
“Đúng thế đấy bà Dillon ạ”, tôi nói, “Cháu đã vào và kiểm tra. Chỉ còn sáu lọ thôi.”
“À, lại là cô hả Lenore. LẠi dúng mũi vào mọi chuyện hả?”
“Chả là, cháu nghĩ bà muốn biết.”
Tôi bước ra khỏi bếp thầm hy vọng là mình đã làm thế với tất cả phẩm giá. Tôi đi qua con chó nhỏ của Willie đang kiên nhẫn ngồi đợi chủ.
Bất cứ lúc nào có dịp tôi cũng cố giúp đỡ Willie. Tôi thường bắt gặp nó nhìn trộm tôi nhưng lại vội nhìn đi chỗ khác khi biết tôi phát hiện.
Ước gì tôi có thể giúp nó nhiều hơn. Tôi nghĩ rằng mình có thể dạy nó học chữ bởi vì nó không đần độn như mọi người tưởng.
Tôi cũng thường nói chuyện về nó với Cassie và cô cũng dễ dàng động lòng thương, cũng sẵn lòng làm một việc làm gì nho nhỏ cho nó chẳng hạn chỉ cho nó những cây bắp cải ngon nhất trong vườn của bà bếp những khi nó được bà Dillon sai làm việc đó.
Tôi quan tâm đến hành vi của mọi người xung quanh và tự hỏi tại sao một người như bà Dillon vốn có một cuộc sống như nguyện lại khoái làm cho cuộc sống của một kẻ khốn khổ như Willie thêm khôn nạn hơn. Willie có tật hãi người. Có lần tôi bảo Cassie, “Nếu nó có thể thoát khỏi nỗi sợ người khác, nó có thể trở nên thông minh hơn.”
Cassie đồng ý với tôi. Cô ấy bao giờ cũng hiểu đúng ý tôi. Có lẽ đó là lý do khiến tôi thích làm bạn với Cassie đến thế.
Bà Dillon không lùi bước. Bà bảo phải “tống cổ” Willie đi chỗ khác vì không có lý nào một nơi danh giá như Ngôi nhà Tơ lụa này lại chứa chấp một đứa dở người dở ngợm. Khi nào ngài Francis đến đây bà sẽ thưa với ông chuyện này. Nói bất cứ chuyện gì với bà chủ cũng chả được tích sự gì mà Clarkson lại không có quyền đuổi người.
Tôi tin rằng bà nghĩ muốn đánh Willie thì không cách nào tốt hơn việc nhắm vào con chó của nó. Thế là một hôm bà ta tuyên bố con chó đã tha mất một phần đùi cừu để trên bàn. Tôi có mặt ở đó khi bà ta nói thế rồi tuyên bố cái án tử hình cho “phường trộm cắp”.
Clarkson làm ra vẻ quan trọng, ông ta ngồi xuống bàn như một ông quan tòa.
“Bà có thấy con chó ăn cắp miếng thịt đi không bà Dillon?”
“Gần như thế.”
“Như vậy bà không chứng kiến hành động này?”
“À, tôi trông thấy nó lảng vảng quanh đấy… mắt dán vào vật nó có thể lấy trộm, tôi vừa quay lưng đi là nó phóng đến như một tia chớp, ngoạm lấy miếng thịt trên bàn và chạy mất.”
“Cũng có thể là một con chó khác,” Clarkson gợi ý. Nhưng bà Dillon đâu có dễ gì chịu thua. “Úi giời, tôi biết phân biệt chứ. Đừng có mà đùa với tôi. Tôi nhìn thấy nó ở đây bằng chính con mắt này này.”
Tôi không thể nhịn được đành xen vào. “Nhưng bà Dillon, bà đâu có nhìn thấy con chó ăn cắp miếng thịt.”
Bà ta giận dữ quay sang tôi. “Này, cô làm cái giống gì ở đây vậy? Xía mũi vào mọi chuyện phỏng? Bất cứ ai cũng có thể nghĩ cô là một người trong gia đình thay vì…”
Tôi nhìn thẳng vào mặt bà ta. Clarkson tỏ vẻ bối rối. Ông ta nói: “Này, chuyện này đi ra ngoài trọng tâm rồi. Nếu bà không chính mắt trông thấy con chó ngoạm miếng thịt thì bà không thể đoán chắc việc nó làm.”
“Tôi sẽ gọi một người thợ săn đến, bảo anh ta dí cho nó một phát súng. Tôi sẽ không cho phép nó loanh quanh ở đây ăn cắp thức ăn của tôi đâu. Điều này quá sức chịu đựng và tôi không chịu thua đâu.”
Vấn đề không dừng lại ở đấy. Người ta chia làm hai phe. Con chó phải bị trừng phạt. Dù sao nó cũng chỉ là con chó hoang bé nhỏ khốn nạn. Không, phải để cho cậu bé khốn khổ bầu bạn với nó. Cậu ta có được cuộc được này ưu đãi gì nhiều đâu.
Willie tội nghiệp mất hết cả hồn vía, nó bỏ chạy cùng con chó nhỏ. Đang là mùa đông và ai cũng tự hỏi không hiểu thằng bé xoay xở ra sao trong thời tiết này. Bà Carter nằm mơ là nó nằm ở đâu đó trong rừng… lạnh cóng cho đến chết.
May nói cô nghe thấy có những tiếng động lạ trong nhà, cô nghĩ cô nghe thấy có tiếng chó tru từng hồi. Còn Jenny trong lúc đi qua rừng, cô có trông thấy Willie dắt con chó. Cả hai đều chỉ là những cái bóng ẩn hiện rồi đột nhiên chúng biến mất.
Bà Dillon tỏ ra lo âu. Bà ta là người kết án con chó. Bà ta không lấy gì làm chắc về cái đùi cừu. Có thể là một con chó khác đã ăn cắp. Bà ta ước gì mình đừng nói là sẽ cho người đến bắn chết con chó. Bà ta đâu có thực lòng muốn vậy. Cũng không nên trách cứ bà, một người chỉ hết lòng thực thi nghĩa vụ đối với chủ.
Thật là nhẹ cả người khi Willie lại trở về, quần áo tả tơi và suýt chết đói. Bà Dillon lập tức lại nghiệt ngã với nó, bảo nó không được hành động ngu ngốc như vậy nữa… không được bỏ đi như thế… đã ai bắn con chó mà phải sợ, chỉ là một cách nói thôi.
Sau đó, mọi người trở nên tử tế với nó hơn một chút. Rồi sự cố này cũng trôi qua một cách tốt đẹp, cả người lẫn chó đều mau chóng hồi phục.
Cuộc sống lại trôi qua êm ả như trước đây. Đôi khi Julia rất thân thiện nhưng cô có thể đùng một cái trở nên ngang ngược như thể chợt nhớ ra rằng tôi không phải là người bằng vai phải lứa với cô. Julia có thể trở nên mất kiên nhẫn với Cassie vì cô em gái dễ dàng bị mệt, nhưng cô không ngại ngùng trong việc chép bài của tôi ở lớp học và yêu cầu tôi soạn câu trả lời cho các bài tập mà Miss Everton giao cho chúng tôi. Có thể là chúng tôi cũng chịu đựng được nhau và tôi nghĩ nhìn chung cô ta cũng cảm thấy vui mừng là có tôi bên cạnh. Tôi là bạn với Julia nhiều hơn là Cassie. Hai chúng tôi cùng thực hành cho ngựa chạy vượt rào và có một cuộc cạnh tranh thân tình giữa hai đứa chúng tôi.
Với Cassie mọi việc có khác. Cô phải nằm nghỉ vào tất cả các buổi chiều. Tôi thường phải giúp cô tháo giày ra và ngồi bên nhau, chúng tôi cùng trò chuyện, hoặc chơi trò đố vui. Thỉnh thoảng tôi cũng kể cho cô nghe về những rắc rối của bà Halliburton hoặc những thử thách đối với phu nhân Isabel trong tiểu thuyết East Lynne. Cô thích nghe những câu chuyện như vậy và để mặc cho những giọt nước mắt lặng lẽ tuôn rơi vì cảm thương cho nỗi đau khổ của những nhân vật nữ bất hạnh này.
Các chàng trai ở lại trường nội trú. Tất cả chúng tôi đều mong mỏi ngày họ được nghỉ hè, nhưng khi họ ở nhà rồi thì điều đó không bao giờ giống như chúng tôi vẫn hình dung và thường thì tôi cảm thấy mừng khi họ lại ra đi – khi Charles lại ra đi. Mọi việc có khác đối với Philip. Anh giống Cassie hơn, một tâm tính dịu dàng, đôn hậu. Tôi nghĩ anh em họ giống phu nhân Sallonger lúc bà chưa trải qua kinh nghiệm hãi hùng trong thời gian thai nghén và sinh ra Cassie, một chuyện rõ ràng làm cho bà trở nên yếu đuối và ưa đòi hỏi hơn.
Charles là anh cả – có nghĩa là anh lớn hơn tôi sáu tuổi. Anh rất thích thị uy, thường nói về công chuyện trong nhà như thể anh đã là ông chủ – một điều tôi cho rằng sẽ trở thành sự thật một ngày gần đây. Anh ta có vẻ coi thường các em mình và chẳng cần gì phải nghi ngờ anh ta coi tôi là một con số không.
Trong những ngày hè, hai anh em chẳng làm gì ngoài việc cưỡi ngựa và câu cá ở sông Rodiny. Họ có quá nhiều việc thú vị để làm, những việc mà bọn con gái chúng tôi bị gạt ra ngoài. Tôi cảm thấy ghen tỵ với với tự do của bọn họ. Tuy vậy, thỉnh thoảng Philip cũng cùng cưỡi ngựa với chúng tôi. Anh hỏi tôi về công việc của Ngoại tôi. Anh có vẻ rất quan tâm đến điều đó và thỉnh thoảng anh cũng đến thăm bà tôi. Ngoại rất quý Philip, bà bảo tôi rằng anh thực sự là mẫn cảm đối với công việc của gia đình và biết phân biệt được loại lụa nào là tốt nhất.
“Cha cậu sẽ hài lòng lắm khi cậu ấy bắt tay vào công việc cùng gia đình”.
“Cháu thấy Charles chẳng mảy may quan tâm đến công việc”.
“Rồi điều đó sẽ đến. Vào cái lúc cậu ta cảm thấy mình là một ông lớn… cực kỳ quan trọng. Với lại… cậu ta là con trưởng mà. Có lẽ cậu ta có khác với mấy người em phải không? Rồi chúng ta sẽ biết thôi. Nhưng dù sao thì Philip cũng là một đứa con lý tưởng đối với ông chủ”.
Tôi nhận thấy Charles để ý đến Grace, cô hầu gái ở phòng khách, một cô gái xinh xắn, đáng yêu. Thỉnh thoảng tôi bắt gặp họ nói chuyện với nhau. Grace cười khúc khích, khuôn mặt xinh tươi ửng hồng vì e thẹn còn chàng ta thì hài lòng và tỏ vẻ thân thiện của một kẻ bề trên. Như thế, rõ ràng không phải là anh ta khinh miệt tất cả những người mặc váy.
Có một kỳ nghỉ, Charles không về nhà. Anh ta nghỉ hè ở nhà một người bạn. Philip về nhà một mình và đó mới thực sự là một mùa hè tuyệt diệu bởi vì khi không có mặt Charles thì Philip không cảm thấy anh phải tạo ra một khoảng cách rõ ràng với đám con gái chúng tôi. Anh dành nhiều thời gian chơi đùa với các em gái trong đó có tôi. Tôi nhớ những khoảnh khắc ngồi với anh, Julia và Cassie, nghe anh nói chuyện về gia đình và việc tổ tiên nhà Sallonger đã định cư ở Anh nhiều thế kỷ trước như thế nào. Anh còn giải thích lý do của việc di cư này là do niềm tin tôn giáo.
“Tất cả những điều chúng ta có thể làm là dệt loại lụa mang thương hiệu Sallonger. Tổ tiên chúng ta sang đây mà không mang theo cái gì hết, bởi vì chúng ta đã bỏ lại tất cả ở phía sau. Chúng ta bắt đầu xây dựng nền công nghiệp dệt lụa ở đất nước này. Các em có nghĩ đó là một việc làm hết sức tuyệt diệu không?”
Tôi đáp lại một cách sốt sắng là tôi cũng nghĩ thế. Anh cười với tôi và nói tiếp: “Chỉ trong vài năm mà chúng ta đã sản xuất ra những loại lụa tốt không kém sản phẩm tương tự ở Pháp. Đó là một công việc khó khăn nhưng chúng ta cần phải làm việc. Dòng họ của chúng ta đã sống thiếu thốn một thời gian dài, rồi công việc làm ăn bắt đầu phát đạt.”
“Em rất mừng là chúng ta đã trở nên giàu có,” Julia nói. “Em căm thù sự nghèo đói.”
“Đó là một câu chuyện thú vị có phải vậy không hả Lenore?”
“Vâng, em cũng nghĩ thế,” tôi đáp lại rất nhiệt tình.
“Đến một đất nước xa lạ, không mang theo gì ngoài đức tin, niềm hy vọng và một quyết tâm phải chiến thắng.” Khuôn mặt anh sáng lên một niềm tin yêu và tự hào. Thế là tôi thầm nghĩ: Có một cái gì rất đỗi thân thương và đáng yêu trong anh. Tôi sẽ buồn lắm khi anh lại phải quay về trường.
“Nhưng ở đây cũng có những khó khăn vô tận,” anh tiếp tục, “Khi nước Anh bắt đầu nhập khẩu tơ lụa của Pháp thì những người công nhân ở Spitalfields gần như lâm vào cảnh chết đói. Người ta chỉ chuộng lụa của Pháp mặc dù lụa của ta chất lượng cũng không kém. Đó là vì người đời nghĩ đến cái mác hàng tơ lụa của Pháp nghe kêu hơn là tơ lụa Spitalfields. Cha đã kể cho anh nghe về tất cả những khó khăn mà cha ông ta đã phải đối phó. Người ta phản ứng rất dữ dội. Có cả những vụ nổi loạn. Công nhân đổ xuống đường biểu tình. Không còn việc làm cho những chiếc máy dệt của họ nữa mà. Nếu họ trông thấy một người đàn bà mặc áo lụa nhập khẩu họ bèn xông đến xé áo người ấy, hô to: “Lụa !Lụa ! Mọi người ai cũng phải mặc thứ lụa Spitalfields.”
“Làm thế thì khủng khiếp quá,” tôi nói. “Em chẳng muốn áo mình bị xé toạc như thế bất kể là họ có lý do chính đáng thế nào chăng nữa.”
“Họ đã đấu tranh cho nguồn sống của mình. Họ đã trải qua bao nhiêu khó khăn để sang được đến đây, bỏ lại ở cố hương tất cả những gì mà họ đã giành được; họ đã dựng lên nhà máy dệt, đã sản xuất ra những loại tơ lụa đẹp nhất và vừa lúc họ đã có cơ làm ăn được thì chính phủ lại cho phép thứ lụa của Pháp được nhập vào đây mà dân tiêu dùng lại bị định kiến ngu muội đánh lừa cho là nó tốt hơn và tuyên án tử hình cho công việc làm ăn của chúng ta.”
“Nếu quả là lụa của Anh tốt đến thế sao người ta lại chỉ muốn mua lụa của Pháp.”
“Người Anh có thói quen là nghĩ đồ Ngoại tốt hơn đồ nội. Với lại người Pháp được tiếng là người thanh lịch có “gu” thưởng thức. Người ta nghĩ quần áo, vải vóc của người Pháp chắc chắn là hơn hẳn của người Anh. Dù sao thì người ta cũng suýt bóp chết công việc làm ăn của chúng ta.”
“Sao anh vẫn còn xúc động về chuyện này thế?” Tôi hỏi. “Nó đã qua lâu rồi mà.”
“Anh vẫn dành tình cảm cho những con người khốn khổ này bởi vì anh biết những nỗi khổ mà họ phải chịu đựng. Và điều này vẫn có thể diễn ra.”
“Chuyện buồn làm sao,” Cassie cảm thán. “Không gì đáng sợ bằng cái đói. Và còn những đứa trẻ con nữa chứ…”
“Đó là những kẻ đầu tiên chịu hậu quả,” Philip thở dài. “Ồ, đó là một thời kỳ dài đau thương và tăm tối. Mà cũng chỉ mới hơn một thế kỷ lại đây thôi. Chính phủ Anh ký hiệp ước Fontainebleau cho phép tơ lụa Pháp được nhập cảng vào Anh miễn phí hoàn toàn, thế là công nhân ngành dệt lại lâm vào tình thế tuyệt vọng. Khi nhà vua trên đường đến Quốc hội người ta quyết định đệ trình một kiến nghị lên Hạ nghị viện. Người ta nêu ý kiến rằng chính Quận công xứ Bedford đã nhận hối lộ của người Pháp nên mới đồng ý ký hiệp ước Fontainebleau. Sau đó công nhân tập hợp biểu tình trước Hạ nghị viện, khi vấp phải một sự trì hoãn họ bèn kéo đến lâu đài Bedford tấn công. Quân lính được huy động đến, lệnh chống bạo động được công bố. Công nhân chỉ giải tán sau khi nhiều người trong bọn họ bị vó ngựa của quân lính giẫm nát. Nhiều người hi sinh. Họ đã nghĩ họ bước chân vào thiên đường khi rời bỏ quê hương, nhưng trên thực tế họ đã phải đấu tranh, phải đổ máu.”
“Đúng thế,” tôi phụ họa, “và bây giờ tất cả đều tốt đẹp.”
Anh nhún vai. “Em sẽ không biết được khó khăn có thể nảy sinh như thế nào đâu. Cuộc sống là thế đấy em Lenore ạ”.
“Nhưng người ta tìm được cách vượt qua khó khăn.”
“Có một số người thôi.”
Julia ngáp ngắn ngáp dài. “Đã đến lúc quay về rồi,” cô nói.
Mỗi ngày hè trôi qua tôi lại thêm quyến luyến Philip hơn. Tất cả đều khác đi khi không có mặt Charles. Philip thường lên thăm Ngoại tôi. Anh sẽ nâng niu những tấm vải trên tay với một vẻ hiểu biết và trò chuyện về việc dệt ra những tấm vải ấy. Anh rất chú ý đến chiếc máy dệt trong phòng may của bà tôi.
“Bà có thường dùng đến chiếc máy này không ạ?” anh hỏi.
“Khi ngài Francis có một việc gì đó đặc biệt muốn tôi tự tay dệt.”
Bà kể cho anh nghe về Villers-Mure và nhà máy dệt ở đó với những chùm hoa giấy leo lên tường, phòng làm việc rộng thênh thang có những ô cửa sổ lớn đón ánh sáng.
Rõ ràng là Philip bị thu hút vào chủ đề này. Anh háo hức nói về một công nghệ mới trong việc đánh tơ vì cho đến nay đó vẫn khâu lãng phí khi người ta dệt những sản phẩm hảo hạng.
“Chắc chắn là ông Lister ở Bradford sẽ chế ra một loại máy dệt đặc biệt để thực hiện được yêu cầu này. Đó sẽ là một cuộc cách mạng trong ngành bởi vì có cả một lượng lớn lụa bị lãng phí trong nhiều nhà kho ở London.” Anh nói.
Có nhiều điểm trong câu chuyện giữa hai người tôi không hiểu rõ, nhưng tôi thích ngồi giữa hai người và nghe những điều ấy. Hai má Ngoại đỏ lên vì phấn khích còn Philip rừng rực lửa nhiệt tình của tuổi trẻ. Hai người có vẻ quý mên nhau và thật sung sướng khi biết rằng những người mà ta yêu lại quan tâm đến nhau. Ngoại pha trà và chúng tôi rời phòng may sang phòng khách nhỏ của Ngoại vừa uống trà và trò chuyện. Philip cho chúng tôi biết anh sẽ dần dần thâm nhập vào công việc của gia đình như thế nào. Anh cảm thấy sự chờ đợi thật dài và buồn chán. Ngay khi tốt nghiệp đại học, anh sẽ bắt tay vào việc. Ngài Francis đã hứa với anh như thế. Anh sẽ vui lòng bỏ học vào giai đoạn cuối nhưngc ha anh rất cương quyết ở điểm này.
“Thế còn anh cậu thì sao?” Ngoại hỏi.
“Ồ anh ấy còn ham vui lắm. Cháu dám nói là rồi anh ấy sẽ say mê công việc này thôi.”
“Cậu ta không có bầu nhiệt huyết của cậu,” Ngoại nhận xét.
“Rồi nó sẽ đến thôi, Madame Cleremont,” Philip khẳng định. “Sau cùng, một khi anh ấy đã bắt đầu hiểu được tính chất tuyệt diệu của công việc thì nó sẽ không rời bỏ anh ấy, phải không ạ?”
Ngoại mỉm cười với anh. “Tôi lấy làm mừng là ngài Francis có một người con như cậu để tiếp tục sự nghiệp của ông. Chắc đấy là một hạnh phúc lớn lao đối với người làm cha.”
“Anh cháu chắc chắn cũng sẽ có ích ở một khía cạnh khác của công việc này. Với cháu, quá trình sản xuất lụa đặc biệt hấp dẫn… phải cả quy trình ấy. Những con tằm ăn lá dâu… nhả tơ trong những cái kén tạo ra một chất liệu kỳ diệu nhất trên đời…”
Anh cứ thao thao nói về các công đoạn sản xuất mà tôi thực không hiểu được là bao. Tôi ngồi đó, lòng lâng lâng hạnh phúc chứng kiến cảnh Ngọai tôi và Philip càng lúc càng quý mến và hiểu nhau hơn.
Khi anh đi rồi, Ngoại mới bày tỏ sự hài lòng của mình. Khi tôi giúp Ngoại dọn tách chén, tôi nghe Ngoại hát một điệu nhạc êm dịu bằng tiếng Pháp.
“Mỗi lần qua vùng Lorraine
Với đôi guốc của mình
Tôi thấy trên những cánh đồng…”
Bao giờ Ngoại cũng hát khi Ngoại có chuyện gì vui. Một lần tôi hỏi tại sao thì Ngoại đáp bà thường hát bài này khi còn bé và bài hát bao giờ cũng làm cho Ngoại vui bởi vì trong bài hát những người lính nghĩ là cô gái rất xấu có biết đâu là chính hoàng tử con vua đã yêu nàng.
“Vậy cô gái đó có lấy hoàng tử không ạ?”
“Điều đó thì chúng ta không biết được. Đó là điểm làm cho bà thích bài hát này. Chàng đã tặng nàng bounquet de marjolaine (một bó cây kinh giới). Nếu nở hoa thì nàng sẽ trở thành hoàng hậu. Chúng ta không biết chuyện gì xảy ra vì bài hát kết thúc trước khi nói về điều đó.”
Ngoại vẫn nhìn tôi, môi nỏ nụ cười ý vị. “Ở đây có một người yêu thích công việc của mình. Cậu ấy cụng giống cha mình. Ngài Francis thật may mắn là có một người con trai như vậy.”
“Ngoại thích anh ấy lắm phải không, Ngoại?”
Bà nhìn tôi gật gù xem ra trong nụ cười của Ngoại có một cái gì đó và những mơ ước đã bắt đầu sáng lên trong đôi mắt Ngoại.
*
* *
Chúng tôi lớn dần lên. Julia sắp 17. Tôi 15. Julia đang có sự thay đổi, cô nóng lòng muốn chúng tôi biết cô không còn là một cô bé nữa.
Cô sẽ ra mắt xã hội thượng lưu ở London.
Phu nhân luôn miệng nói về điều đó. Một trong những việc đã thành nghi lễ là việc dùng trà với bà trong phòng khách nhỏ. Tôi thường xuyên có mặt ở đấy, đọc sách cho bà nghe, xoa bóp chân tay, cuộn chỉ hoặc làm những việc vặt cho bà. Càng ngày bà càng giữ tôi ở bên cạnh lâu hơn.
Julia và Cassie xuống phòng khách đúng vào lúc bốn giờ chiều và ngồi lại với mẹ một tiếng. Clarkson sẽ đẩy xe đựng đồ uống, còn Grace thì đứng bên cạnh rót trà và phục dịch mọi người, nhưng phu nhân thường coi như không có mặt cô ta và chỉ đón ly trà từ tay của tôi.
“Lenore có thể làm được,” bà phán. “Này Lenore, làm ơn cho ta thêm một chút kem. Thế được rồi, bây giờ thì thêm một cái bánh nướng nữa.”
Bà ngồi đấy, không ăn, chỉ dằm cái bánh trong đĩa ăn. Câu chuyện bao giờ cũng xoay quanh việc ra mắt sắp tới của Julia.
“Thật đáng tiếc, lẽ ra ta phải có mặt ở đó… nhưng không thể được. Lenore, chân của ta làm sao lại tê rần thế này. Hãy bỏ dép ra và xoa bóp hai bàn chân cho ta. Thế… như vậy dễ chịu hơn rồi đó. Thật là nhẹ cả người. Trong tình trạng sức khỏe của ta, trời đất ạ, ta không thể đi cả một đoạn đường dài như vậy. Con sẽ có những bộ váy áo đẹp nhất Julia ạ… Tất nhiên Madame Cleremont sẽ tự tay may cho con. Bà ấy đã có một số mẫu. Có lẽ cha con sẽ đặt hàng ở Paris…”
Julia vỗ tay vào nhau và lắng nghe một cách say sưa. Cô khao khát được “bay thẳng” vào một tương lai tươi đẹp. Cô thường vẽ mộng với Cassie và tôi: Những buổi tiệc tùng, những đêm vũ hội, sự hân hoan, niềm vui… và cả một đội quân các chàng trai tuấn tú vây quanh chỉ mong được lọt mắt xanh của cô được hưởng thừa tự kết xù.
Tôi nghe Miss Logan, một người rất rành những chuyện đó nói chuyện với Miss Everton như thế này: “Phải, tất nhiên đó là một vụ trao đổi khi mà tất cả đều được nói và làm dựa trên… mà vụ đó sẽ làm cho vụ này kém vinh quang đi. Chị biết đấy… tiền và chỉ tiền là có tiếng nói quyết định.”
Thế là Julia sẽ ra mắt thị trường hôn nhân để trưng bày tài sản của cô. Julia trẻ trung, đôi khi khá xinh đẹp khi cô ở trong một tâm trạng vui vẻ, nóng lòng muốn kiếm một tấm chồng nhưng bị cản trở bởi cái nhãn “trao đổi” – được tôn lên bởi một cái nhãn khác: “đồng tiền”.
Phu nhân Sallonger nói: “Ta nghe đâu nữ bá tước Ballader là người hướng đạo tốt. Tội nghiệp, bà ấy cần tiền vì bây giờ ông bá tước đã khuất núi. Ông ấy đã làm cho vợ lâm vào cảnh khánh kiệt… Người ta nói là do bà bạc và rượu chè nữa… Phải, cờ bạc, rượu chè đã nuốt chửng toàn bộ gia tài rồi cái chết chờ sẵn. Tội nghiệp bá tước phu nhân quá. Tất nhiên bà ấy… khó mà làm lại. Bà ấy vốn là một nghệ sĩ hay sĩ sĩ gì đó. Là người vợ thứ ba của bá tước mà, lúc cưới bà ấy, ông bá tước cũng lụ khụ lắm rồi. Phải, bây giờ thì bà ấy phải nhặt nhạnh kiếm sống theo cách này. Hơi vất vả một chút nhưng bà ấy đã thành công trong trường hợp Maria Crantley. Một cô gái bé nhỏ, tầm thường nhưng đã kiếm được một đám khá… Chỉ có tiền chứ có phải có dòng máu xanh máu trắng gì đâu.”
Tôi không cưỡng lại được bèn mạo phạm nói rằng có lẽ đồng tiền có ý nghĩa quyết định hơn huyết thống quý tộc.
“Điều đó là đúng đấy, Lenore ạ. Cháu vui lòng chèn một cái gối sau lưng ta nào. Thế, dễ chịu hơn rồi đó. Ta lại mệt rồi. Ta đánh rơi mất cái quạt rồi. Kìa nó kia. Một ly trà nữa Lenore. Mang cái bánh nướng này đi. Ôi trời, xem kìa hình như nó rơi hết xuống dưới sàn rồi. Đó có phải loại bánh Madeira không? Ta sẽ làm một miềng vậy… Ồ không. Ta nghĩ ta sẽ ăn trái cây thôi. Một chút kem nữa nghe cưng. À phải, bá tước phu nhân được coi là lý tưởng đấy. Bà ấy biết mọi đường đi nước bước trong xã hội thượng lưu, nguồn gốc cũng là một sự thúc đẩy… và rất thực tế nữa. Dường như ai cũng đã quên hết mọi chuyện và cái tên Ballader là chủ đề cho nhiều câu chuyện lắm đấy. Đó là một bi kịch thật sự và ta với tư cách là Mama của con, Julia ạ, ta không có khả năng làm được gì nhiều cho con.”
Tiếp đó phu nhân bắt đầu bàn về chuyện áo xống.
“Ta sẽ yêu cầu Madame Cleremont đến đây gặp ta. Có rất nhiều việc phải làm. Không biết ta có cố gắng nổi không.”
Tôi không thể nén được một nụ cười vì biết rằng bà chủ không cần phải cố gắng làm một cái gì cả, đã có người khác lo liệu hết cho bà.
Rồi câu chuyện lại tiếp tục không ra ngoài đề tài sự ra mắt của Julia. Ngoại rất phấn khích với những mẫu váy áo mà bà sẽ may cho Julia. Bà phác ra nhiều kiểu. Tôi cũng cố công vẽ một kiểu. Ngoại nói nó sẽ được đưa ra để xem xét nhưng bà sẽ không nói nó là của tôi cho đến khi người ta tuyển lựa xong.
Hầu như chiều nào chúng tôi cũng cưỡi ngựa với nhau. Ba chúng tôi được phép ra ngoài không có tên giám mã đi kèm nếu chúng tôi không đi qua cái lều nhỏ có tên “Cỏ rậm” ở đầu này cánh rừng và “Cánh tay Đức Vua” ở đầu bên kia.
Khu vực trải rộng có bán kính năm dặm tính từ nhà chúng tôi. Mọi ngóc ngách trong rừng chúng tôi đều biết nhưng nếu để mất dấu ngoài khu vực này thì khá nguy hiểm, đó là một nơi người ta dễ đánh mất phương hướng.
Tôi sẽ không bao giờ quên nỗi hãi hùng trong ngày hôm ấy. Chúng tôi cưỡi ngựa qua cánh rừng và cuộc đời mới êm ả thanh bình làm sao. Mặt trời rực rỡ gọi ánh nắng qua các tán lá, tạo nên những cái bóng chập chờn trên mặt đất và đâu đây thoảng lên mùi đất ẩm của rừng sâu. Julia đang mải chuyện – một điều mà cô thường tập trung hết sức mình – về chuyến ra mắt lần đầu. Cassie có vẻ suy tư – có thể là tự hỏi với một chút lo lắng không biết chuyện tương tự có xảy ra với cô không. Với tôi, không có những chuyện như vậy để mà băn khoăn. Tôi cũng không chắc tôi lấy làm vui hay buồn về điều đó. Tôi nghĩ có lẽ Ngoại tôi cũng hy vọng người ta sẽ yêu cầu tôi chia sẻ… không phải trong trường hợp của Julia mà là với Cassie, nhưng cả điều này nữa tôi cũng không dám chắc sẽ diễn ra đâu.
Chúng tôi đi đến bên hồ nước và trong khi tiến lại gần tôi nghe thấy tiếng la hét và cười nói khuấy động sự yên tĩnh trầm mặc của cánh rừng.
“Mấy thằng bé trong làng đến đây chơi đùa,” Julia nói. “Chả là đây là một nơi ưa thích mà.”
Khi chúng tôi đến gần, chúng đã nhìn thấy chúng tôi. Có mấy thằng con trai ở độ tuổi choai choai chừng 14, 15 gì đó. Vụt một cái chúng ngừng la hét và chúng tôi phóng ngựa lại gần. Tôi không thể tin vào mắt mình. Wille bị trói chặt vào một thân cây.
Tôi hét lên: “Wille, có chuyện gì thế này?”
Bọn con trai, vào khoảng sáu, bảy đứa, chằm chằm nhìn chúng tôi vài giây. Có một cái gì thật độc ác trên vẻ mặt chúng. Tôi cảm thấy điều đó trước khi tôi nhận ra việc chúng làm.
Một đứa gào lên: “Chúng đến từ nhà lớn đấy.”
Thế là cả bọn co giò chạy mất.
Tôi nhảy xuống ngựa chạy lại chỗ Wille. Nó ú ớ, cố nói một điều gì đó nhưng không tìm ra được lời để nói. Cả khuôn mặt nó là một sự bàng hoàng, hãi hùng và đau đớn. Julia và Cassie bước lại gần.
“Nhìn kìa!” Julia giơ tay chỉ.
Lúc ấy tôi mới nhìn thấy. Đó là con chó lai. Nó bị trói vào gốc cây khác. Máu ướt đẫm bộ lông và nó nằm dáng ngay đơ.
Tôi cởi trói cho Willie. “Có chuyện gì vậy?” Tôi kêu lên. Willie không trả lời. Nó chạy đến bên con chó, bế con vật lên tay. Con vật không có một cử động hay tỏ ra nhận ra chủ vì thế mà tôi biết là nó đã chết. Mấy thằng nhóc kia đã giết con chó. Sao chúng có thể làm một việc vô nghĩa và độc ác đến thế?
“Kể cho chúng tôi nghe mọi chuyện đi!” Julia nói.
Nhưng Willie vẫn một mực im lặng. Nó chỉ đứng đấy ôm chặt con chó vào lòng. Tôi nhận thấy một chân con chó bị gãy.
“Willie”, Cassie dịu dàng gọi, “em có thể kể cho chúng tôi biết chuyện gì đã xảy ra không?
Willie lắc đầu trong nỗi đau câm lặng.
“Chắc là mấy thằng kia thôi”, Julia nói. “Chúng thật độc ác. Willie, sao chúng lại làm thế?”
Nhưng không ai cạy răng nó được nửa câu. Nó chỉ nghĩ đến mỗi một điều: con chó thân yêu của nó đã chết.
Không có một người nào để Willie dồn tình yêu thương như cái cách nó yêu con chó này, và cũng không có ai yêu thương nó như con chó này đã yêu quý chủ. Chúng tìm thấy nhau, nương tựa vào nhau, an ủi nhau và sống vì nhau. Bây giờ con chó bị giết một cách vô nghĩa lý bởi bàn tay của những thằng con trai nhẫn tâm chỉ có mục đích làm tổn hại những con vật đáng thương vô phương tự vệ và một thằng bé khốn khổ mà chúng coi là thấp kém hơn chúng.
Tôi cũng không biết cần phải làm gì để an ủi nó nữa. Cassie sụt sịt khóc. Tôi nghĩ đìu đó khiến nó nhận ra sự quan tâm của chúng tôi.
“Willie”, tôi năn nỉ, “nếu em cố bảo cho chúng tôi biết chuyện gì đã xảy ra…”
Đột nhiên nó bật ra, “Chúng tôi đến bên hồ… ngồi xuống… nhìn ngắm chung quanh. Bọn chúng đến cười giễu chúng tôi. Tôi không nhìn chúng. Thế rồi một đứa nói: “Mày thích nước lắm hả?” Rôi chúng tóm lấy tôi và cố quẳng tôi xuống hồ”.
Willie cúi nhìn con chó trong lòng, nghẹn ngào nói tiếp, “Nó cắn thằng đó… khi thằng đó đặt tay lên người tôi… Nó cắn.”
“Chị hy vọng là rất đau,” tôi nói.
“Thế là chúng vòng dây thừng quanh người tôi, rồi thả thòng lọng bắt con chó, trói nó vào gốc cây và ném đá vào người nó.”
“Chị sẽ mách Carter chuyện này,” tôi nói, “Bọn chúng sẽ bị trừng trị.”
“Cũng chẳng trả lại cuộc sống cho con vật đáng thương này,” Julia lên tiếng.
“Nhưng sẽ dạy cho chúng nó biết điều gì sẽ xảy ra với những hành động côn đồ.”
Nhưng tôi biết Carter không làm gì được bởi bọn con trai không thuộc về chuồng ngựa của chúng tôi.
“Chúng ta sẽ phải chôn nó, Willie à,” tôi nói.
Thằng bé bỏ đi trên tay vẫn ôm chặt con chó.
Chúng tôi trèo lên lưng ngựa và phóng về chuồng ngựa nơi chúng tôi tìm thấy ông giám mã trưởng và kể cho ông ta nghe chuyện đã xảy ra.
“Các cô có nhìn rõ mặt bọn chúng không?”
“Chúng tôi không biết bọn chúng vì chúng bỏ chạy khi chúng tôi đến gần”.
“Thằng bé nghĩ con chó là cả cuộc đời của nó”.
“Đó là lý do bọn độc ác đã làm thế”, tôi nói. “Tôi mong ta có thể tìm ra bọn chúng. Tôi nghĩ chúng phải bị trừng phạt đích đáng.”
“Nếu đấy là một trong những đứa làm việc ở chuồng ngựa thì nó sẽ biết tay tôi. Nhưng tôi hy vọng bọn con trai dưới quyền tôi không có đứa nào dám làm thế”.
“Willie cần được đối xử một cách nhẹ nhàng”.
“Các cô sẽ biết điều đó thôi. Chúng tôi cần phải đem con chó đi. Tôi cho rằng nó sẽ muốn giữ mãi con chó. Thằng bé suy nghĩ đơn giản lắm”.
Chúng tôi rời chuồng ngựa và buồn bã đi về nhà. Tất cả vẫn còn bị chấn động và Julia không đã động đến việc ra mắt của cô trong suốt ngày hôm ấy
*
* *
Tôi cũng biết đôi chút về Willie, đủ để hiểu rằng không muốn xa rời con chó yêu. Nó thà có con chó dù đã chết còn hơn là không có gì.
Chắc là phải ép buộc nó từ giã con chó thôi, và tôi quyết định xem có thể làm được gì. Tôi tìm được một chiếc hộp bằng bìa cạc tông cứng và mấy sợi dây rồi đi tìm Willie. Tôi không nghĩ là nó lại ra ngồi bên hồ nhưng quả là nó đang ở đó. Nó ngồi tựa lưng vào cái cây mà bọn độc ác đã trói con chó, trên tay vẫn ôm khư khư xác con vật.
“Willie, chúng ta hãy làm cho nó một ngôi mộ nhé. Nó sẽ không vui đâu nếu em cứ bế nó thế này.”
“Chúng ta sẽ lấy xác con chó của em”.
“Phải. Vậy thì chúng ta hãy làm cho nó một ngôi mộ tử tế để bọn xấu không làm gì được”. Tôi đưa cái hộp giấy cho Willie. “ Nó cần được yên nghỉ. Nó đã mệt nhọc lắm rồi. Nó cần được ngủ một giấc dài trong yên tĩnh.”
Tôi hết sức ngạc nhiên khi thấy Willie đặt con chó và trong hộp giấy. “Chúng ta sẽ chôn nó và chị sẽ làm cho nó một cây thánh giá nhỏ. Ở đây có những cái que phải không? Nếu chị đặt hai que như thế này rồi cột lại, nó sẽ thành một một cây thánh giá và nó sẽ làm cho ngôi mộ của con chó thành một ngôi mộ của Chúa”. Willie lặng lẽ nhìn tôi và tôi nghĩ bất cứ lúc nào nó cũng có thể cướp lại cái hộp.
Tôi dịu dàng nói: “Ai cũng phải chết vào một lúc nào đó. Và khi người ta về với Chúa, người ta phải được đối xử một cách trân trọng. Cần phải có một ngôi mộ xứng đáng. Có thể người ta mới an giấc nghìn năm.”
Willie lặng lẽ lắng nghe tôi nói với đôi chút ngạc nhiên.
“Chị biết chúng ta sẽ phải làm gì. Có một khu hầm mộ ở đây.”
Willie nhìn tôi, có vẻ như không hiểu tôi nói gì.
“Đó là một ngôi nhà dành cho những người đã chết. Em cũng biết chỗ này đấy. Đó là nơi người nhà Sallonger sẽ chết khi họ về với Chúa. Chỗ ấy thật đẹp. Em có thể nhìn thấy nhiều thiên thần ở đấy. Họ canh giữ nơi này. Chúng ta sẽ mang con chó của em đến chôn ở đấy, thế có được không?”
Willie tiếp tục nhìn tôi vẻ ngạc nhiên, tôi quàng tay ôm nó sát vào người, cảm thấy một luồng run rẩy chạy khắp người thằng bé. “Như thế là tốt nhất đấy em ạ. Nó sẽ được yên tĩnh còn em vẫn có thể đến thăm nó. Em sẽ biết chỗ nó nằm trong lòng đất. Em có thể ngồi cạnh ngôi mộ mà trò chuyện với nó. Em sẽ có cảm tưởng dường như nó vẫn ở bên em. Chỉ khác có một điều là em không thể nhìn thấy nó mà thôi.”
Nó vẫn tiếp tục nhìn tôi một cách thăm dò. Có vẻ như kế hoạch của tôi đang tiến triển. Con chó sẽ được chôn cất tử tế mà tôi thì không muốn phải dùng vũ lực giằng con chó từ tay nó. Chúng tôi có thể đào một cái hố cạnh hầm mộ, đó là một chỗ xứng đáng.
Willie ôm chặt cái hộp giấy vào lòng.
Tôi đứng dậy, “Đi thôi, Wilie. Chúng ta sẽ chôn nó ngay bây giờ. Rồi em có thể ở lại, trò chuyện với nó và em sẽ biết là nó đang được nghỉ ngơi. Nó sẽ vui hơn nếu được ở trong cái hộp này. Đó là nơi nó muốn ở vào lúc này em ạ”.
Tôi dợm bước đi trước, nửa ngờ rằng nó sẽ không đi theo tôi, nhưng nó lại đi thật. Thế là tôi đi trước dẫn đường đến khu hầm mộ của gia đình Sallonger.
Chỗ này bao giờ cũng mê hoặc tôi kể từ lần đầu tiên tôi trông thấy và Ngoại giải thích cho tôi hiểu nó là cái gì.
“Khi một thành viên trong gia đình này qua đời ông ta hay bà ta sẽ được đưa vào nhà mồ. Trong những cỗ quan tài ở đây là nắm xương của những ông bà ông vải của họ Sallonger,” Ngoại giảng giải. “Họ đã bên nhau lúc sống thì cũng quây quần với nhau lúc chết. Những dòng họ gia thế hiển hách bao giờ cũng có lăng mộ riêng.”
Tôi thường lang thang ra đây ngắm nghía – bao giờ cũng cố thuyết phục Julia hoặc Cassie đi theo. Tôi bị mê hoặc bởi hai thiên thần với những thanh gươm sáng quắc – giống như hình ảnh về khu vườn Eden trong cuốn Kinh thán của tôi – họ có nhiệm vụ canh gác chốn này không cho những kẻ xâm phạm đặt chân vào.
Cánh cổng sắt được đúc thật đẹp, trên bức tường đá bao quanh, người ta còn tạc nhiều hình người. Khi còn bé tôi hình dung những khuôn mặt này thay đổi khi tôi nhìn chúng. Thỉnh thoảng tôi có nằm mơ về nơi này… rằng tôi bị nhốt trong đó, không có cách gì thoát ra được rồi các cỗ quan tài mở ra và những người nhà Sallonger chết từ đời nảo đời nào bước ra dòm tận mặt tôi.
“Chúng ta sẽ đào một ngôi mộ ở đây Willie ạ, ở cạnh bức tường quanh hầm mộ và con chó nhỏ của em sẽ nằm gần những người thuộc dòng họ Sallonger. Nó sẽ thích ở chỗ này bởi vì đây sẽ là một ngôi mộ thật sự. Chúng ta sẽ cắm cây thập tự lên trên để em dễ dàng tìm ra nó. Có thể chúng ta sẽ trồng một ít hoa lên mộ thế là ai cũng sẽ biết nó đang ở đâu và chúng ta quan tâm nó như thế nào.”
Willie chậm rãi gật gù.
Tôi có mang theo một cái xẻng, đến nơi tôi đưa cho nó và bảo: “Em đào đất đi Willie. Nó muốn chính tay em chôn nó cơ. Em mới là người nó yêu thương nhất”.
Chúng tôi đã chôn con chó của Willie như thế đấy.
Tôi biết Willie thường ra thăm con chó. Nó ngồi bên cạnh dường như đang trò chuyện.
Bầy chó ở chuồng ngựa thường đẻ con, tôi nhờ Julia hỏi xin một con chó mới đẻ và cho Julia biết tôi có ý tặng chó cho Willie. Thế là Julia cũng sẵn sàng giúp một tay.
Tôi biết chúng tôi sẽ tìm thấy Willie ở đâu.
“Này Willie. Đây là một chú cún con. Nó đến ở với em đấy… nếu em cũng thích nó.”
Cassie vuốt ve con chó con và nói : “Mày cũng thích ở với Willie phải không?” Cô ghé sát mặt mình vào con chó và bất ngờ hít vào một hơi. Rồi cô lại làm thế một lần nữa.
“Một lần là ước hai lần là hôn”, Julia vừa lắc đầu vừa nói đùa. “Vậy thì đây là một cái hôn của tao”, Cassie nói và hít vào một cái nữa. “Mày giống một hạt tiêu, cún con ạ. Mày làm tao hắt hơi rồi. Tao sẽ gọi mày là Hạt tiêu”.
“Có vẻ như đó là một cái tên hay đối với một con chó”, Julia nhận xét.
Tôi bế con cún lên đưa nó cho Wilie. “Nhìn này Hạt tiêu, tao nghĩ mày và Willie sẽ yêu quý nhau đấy”.
Willie đưa tay đón lấy con chó. Nó oẳng lên một tiếng rồi liềm tay thằng bé. Tôi chứng kiến một niềm vui bất ngờ bừng lên trên khuôn mặt Willie và tôi biết, chúng tôi đã làm được một việc tốt.
“Nó là của em đấy, Willie. Nó cần một mái nhà. Và em sẽ chăm nom nó”.
Tôi chắc là Willie sẽ không còn buồn bã nhiều nữa.
*
* *
Ngài Francis quay về Nhà Tơ Lụa. Bao giờ cũng có không khí hội hè mỗi lần ông về nhà. Khi cỗ xe sang trọng của ông đỗ trong sân nhà thì cỗ xe độc mã và xe chó bèn chìm nghỉm đi ngay lập tức. Cobb đóng ngay trụ sở của mình tại chuồng ngựa. Tôi nghĩ ông ta có ảnh hưởng đối với bọn giữ ngựa cũng tương tự như ảnh hưởng của ngài Francis đối với gia đình. Cobb là người thủ đô nên coi mình là kẻ thuộc đẳng cấp khác so với mấy anh chàng lớ ngớ nhà quê. Bữa ăn nào cũng trở thành một bữa đại tiệc. Phu nhân Sallonger chú ý đến dung nhan của mình hơn bao giờ hết và dường như trông bà lại càng có vẻ bệnh hoạn hơn, ẻo lả một cách quý tộc hơn trong mớ quần áo toàn những dải voan và đăng ten thướt tha. Ngài Francis ngồi cạnh vợ, gọi bà là “mình”, vôc lên cánh tay bà và kiên nhẫn lắng nghe bà miêu tả tỉ mỉ từng chi tiết về tình trạng ngọc thể bất an của bà. Clarkson trịnh trọng hơn bao giờ hết con bà Dillon thì vô cùng bắng nhắng trong lãnh địa của mình, ra cái lệnh này vào phút trước rồi lại huỷ bỏ vài phút sau, cứ thế cho đến lúc Grance nhận xét bà ta cũng không biết là mình đang đứng trên đôi chân hay cái đầu của mình nữa.
Ông chủ hay ngồi bàn bạc công chuyện với bà tôi.
Ông không ở lại lâu, chỉ đôi ba ngày… nhưng tôi dám nói là như vậy cũng đủ lâu với những người có liên quan. Thật là nhẹ nhõm khi lại thấy Cobb ngồi chỉnh chện trên chiếc ghế xà ích ra roi quất ngựa đưa ngài Francis quay lại thủ đô.
Ngoại kể cho tôi nghe chuyện của ông lúc ông đi khỏi.
“Ông ấy có chuyện gì đó trong đầu. bà đoán rằng có điều gì không ổn.”
“Hay là ông ấy giận dữ chuyện gì?”
“Ồ không, bà nghĩ ông ấy lo lắng thì đúng hơn . Ông ấy nói chuyện buôn bán rất trì trệ và chúng ta cần có một cái gì đó làm bàn đạp. Ông ấy nói thế này: “Chúng ta cần một cái gì mới mẻ và nó phải hoàn hảo. Vải vóc cũ cũng là tốt rồi nhưng người ta lại thèm khát mọt cái gì mới lạ. Cái chúng ta cần tìm ra, bà Cleremont ạ, là một phương pháp dệt lụa mới… một cái gì sẽ công bố với toàn thế giới… một cái gì không ai có.” Quả thật hiếm khi nào bà thấy ông ấy ở trong tâm trạng như thế.”
“Bà nghĩ ông ấy lo lắng về lần ra mắt của Julia không? Hẳn là chuyện đó rất tốn kém.”
Ngoại tôi bật cười: “Bà không nghĩ thế, ma chérie*(cưng). Bà nghĩ đó chỉ là chuyện vặt và ông chủ chỉ nghĩ đến công việc mà thôi. Không, chỉ đơn thuần là vì ông chủ không kiếm được nhiều tiền trong năm nay. Ông ấy nghĩ đến những con số lớn kia. Ồ, ông ấy sẽ ổn thôi. Chẳng qua là ông ấy ao ước những cái gì mới lạ. Một cái gì mà tất cả đều muốn. Có một sáng kiến có thể đưa ông ấy lên dẫn đầu trong cuộc chạy đua.”
“Chắc là có nhiều chuyện xung quanh những cuộc cạnh tranh này lắm.”
Ngoại ngước mắt nhìn lên nhìn trần nhà. “Ma chérie, chuyện này diễn ra suốt trong lịch sử… có một cuộc cạnh tranh lớn giữa hai gia đình St. Allengère và Sallonger. họ là địch thủ của nhau từ hồi nào đến giờ. Nhà này phải vượt trội hơn nhà kia. St Allengère Thiên Chúa giáo và Sallonger Tin Lành. Con không thể hình dung được những cuộc giao đấu trong nội bộ một dòng họ khi có một nhánh tách ra để đi theo mọt niềm tin tôn giáo mới đâu. Tôn giáo là nguyên nhân gây ra của nhiều nỗi bất hạnh lớn, ma petile.”
“Nhưng vẫn còn mối giao hảo giữa hai nhà. Họ vẫn đến thăm hỏi nhau đấy thôi.”
Ngoại tôi cắn môi nghĩ ngợi. “Đó là cái… con có thể nói như thế nào nhỉ… là tình trạng trung lập có vũ trang. Cả hai nhà này đều có một ao ước cháy bỏng nuốt chửng đối phương. Người này phải vượt lên trước người kia. Chuyện này đã xảy ra bao nhiêu năm rồi mà.”
“Ngoại đã ở đó. Ngài Francis có thường đến Villers-Mure không ạ?”
“Ít lắm.”
“Thế mà Ngoại lại đến đây với ông ấy. Con thực không biết phải hiểu thế nào.”
“Ồ… đây là một cơ hội mà… và kể từ ngày bà đến đây thì nơi này trở thành nhà. Bà làm việc cho nhà Sallonger… không làm cho St. Allengére nữa. “
“Có nhiều cái cháu không sao hiểu nổi.”
“Có nhiều cái mà hầu hết chúng ta không hiểu được, chérie .”
Dù vậy, mọi việc trong nhà vẫn diễn ra bình thường và trong suốt mùa hè chủ đề về cuộc ra mắt xã hội thượng lưu của Julia vẫn lấn át tất cả những chuyện khác. Mùa lễ hội thường kéo dài từ lễ Phục Sinh cho đến tháng Tám vì thế mà Julia phải chuẩn bị sẵn sàng vào mùa xuân. Bá tước phu nhân Ballader đến Nhà Tơ Lụa ở một tuần để tận mắt thẩm tra xem Julia có xứng đáng với công lao khó nhọc của bà không, phải, tôi cho là như thế.
Đó là một người đàn bà cao lớn, đường bệ và ngay lập tức bạn có ấn tượng về sự năng động của bà. Tôi thu thập được thông tin là ngài bá tước lớn hơn bà tới 30 tuổi, chất sau đám cưới năm năm – chẳng để lại cho bà được bao nhiêu tiền của ngoài cái tước Bá. Mái tóc màu nâu đỏ của bà hơi tươi một chút so với màu tóc tự nhiên, đôi mắt long lanh đầy sức sống có một màu xanh đậm. Mặc dầu bà được nhà Sallonger trả tiền công cho bà để mở đường cho Julia bước vào xã hội thượng lưu, bà có ý rằng chính bà mới là người gia ân cho họ.
Miss Logan nói rằng bà có thái độ lập lờ khi nói về mối quan tâm của bà đối với một gia đình buôn bán nhưng chẳng có gì phải nghi ngờ bà cần tiền muốn chết, và bởi vì ngài Francis rất giàu có cho nên cũng chẳng cần đặt câu hỏi là liệu bà có nhận lời dìu dắt Julia hay không. Bỗng nhiên Miss Logan có một tầm quan trọng mới. Bà đã từng là người hầu gái của một nữ công tước đấy và bà nói với cô hầu gái Grace cứ như thể bà là một loại nữ thần. Tôi thường nghe cuộc bàn luận của bà với Miss Everton và tôi tò mò lắng nghe mỗi khi không bị phát hiện.
Bá tước phu nhân có vài buổi đàm đạo với phu nhân Sallonger. Thỉnh thoảng chúng tôi cũng có mặt – Julia, Cassie và tôi. Đôi mắt to, xanh biếc của bà sắc sảo dò xét từng đứa chúng tôi. Thoạt đầu bà bá tước có vẻ coi thường phu nhân nhưng rồi bà nhanh chóng nhậnn ra là bà có một đối thủ nặng ký ở đây. Phu nhân thích thú đùn đẩy trách nhiệm cho người khác và bây giờ bà nhẹ nhàng đẩy gánh nặng của mình sang vai bá tước phu nhân. Họ nói chuyện về tiệc tùng…danh sách khách mời…rồi quần áo. Julia sẽ phải học cách đi đứng một cách duyên dáng, cô cần phải chú ý hơn nữa trong động tác chào nhún gối. Bà bá tước cần biết chắc rằng việc dìu dắt cô học trò Julia vào xã hội thượng lưu và kiếm cho cô một tấm chồng có những yếu tố đảm bảo thành công.
“Tôi đã thành công với tất cả các cô gái mà tôi dạy dỗ”, bà tuyên bố.
Phu nhân mỉm cười nói rằng bà sẽ may mắn bao nhiêu nếu bà có sức khỏe. Nếu bà khỏe mạnh hơn! Thậm chí bà còn nhờ cả bá tước phu nhân chèn gối vào sau lưng, nhặt quạt…và bà có thói quen đánh rơi quạt theo chu kỳ.
Tất cả những chuyện này đều mới mẻ, thu hút đối với một cô gái trẻ và tôi háo hức theo dõi từng chi tiết.
Tôi bảo Cassie, “Hai hoặc ba năm nữa sẽ đến lượt cậu.”
Cassie rùng mình như thể gặp luồng gió lạnh.
“Tôi cho rằng nó sẽ không xảy ra với mình”, tôi nói tiếp. “Tớ sẽ phải tự kiếm một tấm chồng cho mình nếu muốn.”
“Chị may mắn lắm.”
“Vẫn còn nhiều thời gian cho cậu mà, cậu sẽ học được tất cả những nghệ thuật ấy từ Julia khi đến lượt cậu”, tôi nói một cách dịu dàng hơn nữa.
Trong phòng may mọi việc diễn ra rất nhộn nhịp. Julia thường lên đây để thử áo.
“Bà ơi những kiểu áo bà thiết kế có trở nên lỗi thời vào sang năm không?”
“Bà không chạy theo mốt thời trang. Bà chỉ thiết kế những gì phù hợp, Kulia cần nhiều đường xếp li và ruy băng…như thế là hợp nhất đối với nó. Bà sẽ không tạp cho Julia…những kiểu cầu kỳ theo mốt mới nhất. Để dành những thứ đó …cho cháu gái của bà.”
“Sẽ không đến lượt cháu đâu. Bà nhớ rằng cháu chỉ là Lenore thôi, đâu có phải là tiểu thư…”
Nhưng ngay lúc ấy tôi ước không nói ra điều đó bởi vì bà tôi chợt buồn và dường như còn có vẻ sợ hãi điều gì đó, thế là tôi cảm thấy cần phải an ủi bà. Tôi quàng tay qua vai bà, nép vào người bà.
“Tất cả sẽ tuyệt vời nếu…” bà bắt đầu.
“Nếu cái gì ạ?” tôi hỏi.
Nhưng bà không nói tiếp. tôi hiểu bà, đoán rằng bà lo lắng bởi vì tôi sẽ không có một vụ ra mắt như Julia và bà tự hỏi tôi sẽ làm thế nào để kiếm được một đấng phu quân vừa giàu có vừa đẹp trai đây.
Mùa hè năm ấy, Drake Aldringham đến nghỉ ở Nhà Tơ Lụa. Từ cái phút chàng đặt chân xuống mảnh đất này tất cả dường như đều thay đổi. Chúng tôi đã nghe nói Charles sẽ đưa một người bạn về chơi trong dịp hè. Philip về nhà trước. Anh cũng biết Drake.
“Có một cọng lông chim thật lớn trên mũ Charles báo hiệu anh ấy đưa Drake về nhà”, Philip nói.
“Tại sao?” tất cả bọn con gái đều tò mò muốn biết.
“tại sao à?” Philip kêu lên gần như là phẫn nộ. “Bởi vì đó là Drake Aldringham.”
“Có cái gì đặc biệt về anh ấy vậy?” Julia ré lên đầy phấn khích bởi vì từ ngày rục rịch chuẩn bị cho lần ra mắt, Julia bắt đầu quan tâm đến những chàng trai trẻ và tôi cho rằng sẽ là một việc hết sức bình thường nếu cô muốn chứng tỏ tài quyến rũ của mình trong việc kiếm một người đáng giá làm chồng.
“Đầu tiên anh ta là một Aldringham”, Philip nói.
“Điều đó có nghĩa là gì?” Julia háo hức.
“Em muốn nói em chưa hề nghe đến cái tên Đô đốc Aldringham? Đó là cha của Drake.”
“ông ấy nổi tiếng lắm à?” tôi hỏi.
“Phải…không nhiều hơn khả năng của ông ta”.
Chả có gì rõ ràng cả. thật khó mà moi thêm được điều gì từ Philip.
Chuyến viến thăm của người bạn lại được thảo luận vào bữa tiệc trà chiều hôm ấy. Tôi rót trà và Philip bê tận tay mẹ. “Cảm ơn con yêu. Thêm một chút sữa nữa…mà ta muốn thêm một lát bánh mì phết bơ. Người ta có mang mật ông đến không? Lỏng hay đặc?” Mật ong lại đặc. Thế là : “Này Lenore, mang mật lỏng lại đây…đắp mền lên chân cho ta nhé. Ta biết mặt trời đang chiếu sáng bên ngoài nhưng ở đây lại ớn lạnh đến tận xương.” Khi mật lỏng được mang lại, bà chỉ lơ đãng nghịch nghịch và tôi rót cho bà một ly khác trong lúc bà đề cập đến chuyến viếng thăm.
“Philip, con nghĩ khi nào thì anh con và cậu ta đến đây?”
“Con không biết, thưa mẹ. Họ còn đi du ngoạn ở hồ Distric với một số người, nhưng con nghĩ chẳng bao lâu sau, Charles và khách sẽ có mặt ở đây.”
“Mẹ nóng lòng muốn gặp cậu ấy. Chắc phải là một chàng trai ưu tú nhất. con trai của vị Đô đốc hải quân hoàng gia. Vẫn có người trong họ Aldringham làm trong chính phủ đấy chứ?”
“Thưa mẹ, vâng. Đó là ngài Jame, chú của Drake, một gia đình quyền quý lâu đời.”
“Drake! Thật là một cái tên nghe rất du dương.”
“Nghe giống con vịt quá hà”, tôi nói giọng châm biếm.
“Nhưng nó cũng có thể có nghĩa khác. Thế còn cái tên ngài Francis Drake vĩ đại thì sao? Vấn đề ở chỗ là người ta làm nên tên tuổi của mình.”
“Cứ hình dung một người được đặt tên theo một người anh hùng vĩ đại xưa. Nó sẽ làm cho con cảm thấy sống lại những trang lịch sử hào hùng của quá khứ”.
“Có một điều”, Philip nói, “mẹ sẽ không được phép thật bại trong trận Armada Tây Ban Nha. Ở đây nó còn có một nghĩa khác. Drakon. Tiếng Anh cổ nó là Draca, còn theo tiếng Latin là Draco: Con rồng.”
“Sao anh biết nhiều thế?”
“Thì anh chỉ cần tra từ điển.”
“Chỉ bởi vì Drake của anh thôi ư?”
“Anh nghĩ cái tên này khá thú vị.”
“Em tự hỏi không biết trông anh ấy như thế nào”, Julia nói.
“Một thuyền trưởng vĩ đại…hay một con rồng?” Tôi gợi ý.
“Có thể là anh ấy hòa nhã và hiền lành……không có cái gì giống với ngày Francis Drake hoặc một con rồng. thường thì người ta không phù hợp với cái tên mình lắm.” Cassie nói.
“Em sẽ ngạc nhiên thôi”, Philip cười.
“Lenore, mang cho ta một trong những lọ mứt trái cây.”
Phu nhân Sallonger nhẹ nhàng đề nghị. Tôi lập tức vâng lời.
“Ồ…cái này là mứt phúc bồn tử à. Ta thích mứt nho đen kia. Ta không biết họ có làm mứt loại này không?”
Chuyện này xảy ra như cơm bữa, thế là tôi nhấn chuông và Grace hiện ra. Chẳng bao lâu cô ta trở lại với lọ mứt nho đen trên tay.
Tôi mỉm cười trong lúc phu nhân múc một miếng mà tôi chắc rằng bà chỉ nhấm nháp lấy lệ thôi. Nếu tôi lấy lọ mứt loại này bà sẽ đòi cho bằng được mứt phúc bồn tử. Tôi cho rằng những người trong nhà bếp đã quen với cái tính nhõng nhẽo của bà chủ.
Chúng tôi nói nhiều về việc Drake đến chơi đến nỗi tôi tin là nếu anh xuất hiện sẽ chỉ làm chúng tôi thất vọng. Rồi tôi bắt đầu tự hỏi không biết anh có đến không. Charles không báo rõ ngày về và thế là ít lâu sau chúng tôi thôi không mong đợi họ nữa.
Charles về nhà có một mình. Thật là một điều không may. Chúng tôi đã nghe quá nhiều về Drake Aldringham và mọi người đã kiên nhẫn ngóng chờ anh. Charles nói rằng anh ấy phải ghé thăm người cô già một vài ngày và sẽ đến đây ngay khi có thể.
Charles đã thay đổi rất nhiều. Tôi bao giờ cũng cảm thấy ngạc nhiên khi gặp lại hai anh em họ sau một thời gian xa cách, dường như họ lớn rất nhanh và thay đổi từng ngày – nhất là Charles. Anh ta bây giờ đã thành một người đàn ông thực thụ. Anh ta đi lại với vẻ nghênh ngang vênh váo, giọng nói lại có vẻ lè nhè. Anh ta có dáng điệu của một người đàn ông phóng đãng, chơi bời. Tôi tò mò quan sát anh ta. Tôi thấy đôi mắt của anh ta dán vào Grace có một vẻ gì rất dâm đãng. Tôi nghe lỏm Miss Logan và Miss Everton tán chuyện với nhau rằng họ muốn biết anh ta sẽ đi đến đâu… hoặc có lẽ không nên biết gì thì tốt hơn.
Miss Everton thở dài: “Chúng đã không còn là những cậu bé nữa.” Giọng bà nghe ra có vẻ ngậm ngùi. Tôi hình dung bà đang nghĩ đến chuyện họ có thể không cần sự có mặt của bà ở Nhà Tơ lụa này nữa.
Philip khác xa ông anh – có phần nào quá nghiêm túc so với ông anh. Tôi nghĩ Charles chẳng quan tâm gì đến chuyện làm ăn trong gia đình – hoặc có bao giờ lại có một chuyện như thế? Nhưng quả là anh ta dành hết cả tầm hồn mình cho đám đàn bà con gái.
Một lần, thật hết hồn, tôi bắt gặp đôi mắt anh ta dán lên người tôi như thể đang cân nhắc, dò tìm… cái gì. Tôi không thể hình dung anh ta tìm cái gì. Nhưng tôi không thích ánh mắt ấy và tôi cảm thấy cả người nóng bừng lên dưới cái nhìn ấy.
Hôm ấy tôi đang ngồi một mình trong vườn hoa, nơi tôi vẫn thường ngồi chơi với Ngoại, hy vọng rằng bà có thể xuống với tôi như bà vẫn thường làm vào giờ này. Nghe có tiếng bước chân, tôi ngẩng mặt lên tìm kiếm bà. Nhưng đấy lại là một chàng trai.
Một người cao dong dỏng và rất đẹp trai… một cái vẻ đáng yêu của người Bắc u. Nhìn thấy tôi, chàng nhẻo một nụ cười tươi thắm. “Ồ xin lỗi. Tôi hy vọng tôi đã không khuấy động sự yên tĩnh của cô”.
“Không đâu. À… ông cần gì? Ông đang tìm ai chăng?”
“Vâng chính là tìm Charles Sallonger. Không có thời gian báo trước cho cậu ấy. Tôi vừa để hành lý trong nhà và bởi vì không có ai trong gia đình có mặt nên tôi nói rằng tôi sẽ đi dạo ngoài vườn một vòng. Thật là một chốn thần tiên. Tôi biết nơi này có rừng bao quanh nhưng tôi đã không thể tưởng tượng là nó lại đẹp như thế này.”
“Ông là khách? Có phải ông là…”
“Drake Aldringham.”
“Tôi cũng đoán thế.”
“Con cô là…Julia.”
“Không, tôi la Lenore Cleremont”. Rõ ràng anh không có ý niệm tôi là ai nên tôi giải thích: “Tôi sống ở đây. Tôi không phải là người trong gia đình. Bà tôi làm việc ở đây và nó bao giờ cũng là nhà của tôi.”
Anh gật đầu. “Chỗ này hay thật đấy. Trên đường từ nhà ga về đây tôi đã thấy nó thật tuyệt diệu.”
“Vâng, tôi cũng nghĩ là như thế.”
“Charles bảo tôi đây là nhà nghỉ ở vùng quê. Còn một ngôi nhà nữa ở thủ đô.”
“Vâng, ở quảng trường Grantham. Tôi đã đến đấy một hoặc hai lần gì đó. Ngài Francis… cha của Charles thường ở đó.”
Tôi thấy cảm mến phong cách chân thành, gần gũi của anh và cái sự thật là thái độ của anh đối với tôi không hề thay đổi khi anh khám phá tôi không phải là thành viên trong gia đình.
“Tôi chắc là Charles hoặc Philip sẽ có mặt ở đây ngay thôi.”
“Tôi nghĩ đến chuyện bày tỏ lòng tôn kính của tôi với phu nhân nhưng người ta nói bà đang nghỉ.”
“Ồ phải, phu nhân đang nghỉ ngơi vào giờ này. Bà không được khoẻ.”
Anh gật đầu.
“Tất cả chúng tôi đã nóng lòng chờ ông đến.”
“Mọi người thật chu đáo quá.”
“Chúng tôi nói nhiều chuyện về ông… và về ngài Francis Drake cùng tất cả mọi chuyện…”
Anh cười thoải mái. “Cô có thể hình dung mọi chuyện xảy ra trong đời tôi như thế nào khi mang một cái tên như thế?”
Rất thú vị, tôi nghĩ thế.”
“Một cái gì rất phiền toái. người ta chờ đợi tôi đi ra biển.”
“Mà ông thì không muốn.”
Anh lắc đầu. “Tôi muốn đi vào con đường chính trị.”
“Tôi chắc là như thế thì thú vị lắm. Bao giờ cũng có một cái gì đó chờ ở phía trước… và ông sẽ chia sẻ vinh quang với đất nước.”
Anh cười. “Cô làm cho nó có vẻ là một trọng trách lớn lao quá… nhưng mà có vẻ như thế thật. Bao giờ tôi cũng muốn biết điều gì đang diễn ra và chúng ta thích hợp với nền chính trị ở châu Âu đến mức nào. Chú tôi trao đổi với tôi nhiều việc lắm. Ông hiểu cao vọng của tôi.”
“Thực sung sướng khi biết rõ mình cần làm gì trong cuộc đời này. Nó khích lệ ông cứ thẳng tiến về phía trước. Trong khi đó quá nhiều người bâng khuâng đứng giữa ngã ba đời.”
“Thông thường người ta phải xử lý những vấn đề đối ngược nhau.”
“Nhưng cái gì làm cho sự lựa chọn này đúng đắn hơn sự lựa chọn khác? Làm gì để bắt đầu đi vào con đường chính trị?”
“À, cô phải bắt đầu từ trường Đai Học. Tôi đã tham gia vào những chuyện như thế… những cuộc tranh luận trong xã hội và câu lạc bộ chính trị. Tôi đã học được nhiều điều tư ông chú tôi. Tôi đến Quốc Hội và gặp chú ở đấy. Cái không khí ấy sẽ nhiễm vào trong máu ta. Tôi đọc báo và hình thành những suy luận của mình về những điều đang diễn ra. Tôi thảo luận với chú tôi về những điều đó, còn ông thì khuyến khích toi ở tất cả mọi phương diện. Thật may mắn là có một người chú như ông. Cũng thật thú vị khi học hỏi được những điều như thế. Com người ta thường có xu hướng rút vào cái vỏ ốc của mình. Người ta chỉ biết những gì xảy ra trong cái vòng tròn nhỏ bé của bản thân. Biết cầu Tây bị phá huỷ, biết Gladston đánh bại Beaconsfield và bây giờ ai nắm quyền lực. họ biết Parnell đang cố thực hiện âm mưu đảo chính. Nhưng lại không biết chuyện gì đang diễn ra ở Châu Phi. Điều tôi muốn nói là họ không biết tại sao. Ồ, tôi lắm lời mất rồi. Mong cô thứ lỗi. Tôi phải đi đây.”
“Ồ, tôi cảm thấy rất thú vị. Tôi chắc ông sẽ trở thành một chính trị gia xuất chúng.”
Đúng lúc ấy bà tôi bước vào vườn. Bà đang tìm tôi.
“Ngoại à, đây là ông Drake Aldringham. Ông ấy vừa đến nhưng lại không có ai trong nhà hết.”
Bà đi về phía chúng tôi, dáng điệu uy nghi, cao quý. Ai cũng có thể nghĩ bà là chủ nhân của ngôi nhà này.
“Chúng tôi nghe nói nhiều về cậu. Chắc là Charles đã đi ra ngoài nên không có mặt ở đây để chào đón cậu.”
“Đó là lỗi của cháu. Lẽ ra cháu phải báo trước cho cậu ấy. Nhưng cháu nghĩ đích thân đến còn nhanh hơn.”
“Thế là cậu đã được cháu gái tôi đón tiếp.”
“Vâng, và chúng cháu đã có một cuộc trao đổi rất thú vị. Nhưng cháu e đã nói quá nhiều về mình.”
“Đó là đặc điểm của một nhà chính trị bẩm sinh”, tôi đáp và anh cười vang hồn nhiên.
Chúng tôi ngồi xuống bên hồ, tôi nói tiếp. “Ông Aldringham dnag9 nói cho cháu nghe về khát vọng của ông ấy, Ngoại à.”
Câu chuyện lại được tiếp nối về chủ đề rừng cây và anh n1oi anh rât mong muốn được về thăm Nhà Tơ Lụa. Thật là một cái tên ngộ nghĩnh. Người ta có thể nghĩ nó được làm bằng tơ lụa…nếu nhà có thể được dựng lên bằng tơ lụa nhỏ.
“Tất nhiên cháu cũng rõ là Sallonger là một nhà sản xuất tơ lụa lớn nhất đất nước”, Ngoại nói. Thật ra anh chưa biết nhưng anh rất muốn biết và tôi được dịp kể cho anh nghe câu chuyện lãng mạn, một số người trong nhà St.Allengère theo Tin lành sang Anh và trở thành Sallonger như thế nào. “Họ để lại bên ấy tất cả những gì thuộc quyền sở hữu của họ và những gì có thể mang theo chỉ là bí quyết dệt lụa.”
Anh cũng nghĩ điều đó quả là thú vị và hết sức lãng mạn, anh sẽ cảm thấy những ngày ở lại Nhà Tơ Lụa thú vị hơn nhờ cái lịch sử vẻ vang của họ.
Có thể thấy rõ là Ngoại thích anh lắm. có một cái gì thật đặc biệt trong ánh mắt Ngoại nhìn anh, ngoại cười nói, gật gù nói chuyện thoải mái với cái giọng có chen lẫn những từ tiếng Pháp.
Chúng tôi có một khoảnh khắc thật vui vẻ, thú vị cho đến lúc Charles xuất hiện. Anh ta vừa trở về nhà, nghe người nhà báo là vị đang mong đợi đã đến và đang đi dạo ngoài vườn thế là anh ta vội vã đi tìm bạn. Tôi đoán tiếng cười nói vui vẻ của chúng tôi đã chỉ đường cho anh ta đến đây.
Charles đứng ở lối đi trong vườn kinh ngạc thấy Drake ngồi giữa hai bà cháu tôi, trò chuyện vui vẻ như những người bạn cụ.
“Drake…anh bạn của tôi!”
Drake đứng dậy.
“À, anh đã về rồi đây. Lẽ ra tôi phải báo trước cho anh biết, nhưng đến bất ngờ thế này cũng có cái gì hay hay.”
“Thật vui khi gặp cậu. Xin lỗi, tôi đi ra ngoài và ở nhà không có ai tiếp đón cậu.”
“Không, có tiểu thư Lenore và bà ngoại cô ấy đấy chứ. Chúng tôi có một cuộc nói chuyện rất vui vẻ.”
Charles để bật ra một tràng cười gượng gạo. Anh ta không thèm nhìn chúng tôi, cầm tay Drake và nói: “Chúng ta vào nhà đi.”
Drake ngoái nhìn lại, mỉm cười với chúng tôi. “Gặp lại các vị sau nhé.”
Thế là hai chàng thanh niên đi khuất.
Ngoại nhìn tôi, đôi mắt ánh lên nụ cười.
“Một người mới hào hoa làm sao. Lại vô cùng…quyến rũ…Bà thích cậu ấy lắm. Một chàng thanh niên tuấn tú quá đi mất.”
“Cháu nghĩ anh ấy thật dễ thương”.
“Thật là một điều tốt lành khi có những con người như thế đến đây.”
Bà lại nhìn tôi ánh mắt mơ màng. Tôi nhận ra là bà lại đang bận tâm tính toán cho tương lai của tôi. Khi bà cháu tôi quay về nhà tôi lại nghe bà hát khe khẽ: “Tôi đi qua vùng Lorraine”.
Cả tòa nhà bị sự xuất hiện của Drake làm cho thay đổi. phong thái của anh thật hồn nhiên, một sự nhiệt tình của tuổi trẻ dành cho tất cả mọi thứ trên đời và thế là anh làm cho mọi người như có một luồng sinh khí mới. Cả đến Cassie cũng chui ra khỏi cái vỏ ốc của mình và nói chuyện với anh một cách tự nhiên hơn. Phu nhân Sallonger đặc biệt quý mến anh. Bà để cho anh ngồi cạnh mình và nói chuyện luôn miệng.
“Cậu bé thân mến của ta, cháu phải kể cho ta nghe tất cả mọi chuyện về mình. Điều đó với ta sẽ là thú vị lắm lắm ấy. ở đây, ta như một người tù mà…Trong chiếc ghế bành khốn khổ này, ta trải cả cuộc đời ta trên đó. Còn cháu…cháu có biêt bao nhiêu kế hoạch phơi phới cho tương lai. Hãy kể cho ta nghe về chú cháu…tất nhiên cả cha cháu nữa. Khi nào thì cháu sẽ bước chân vào Quốc hội? Cháu phải là đại diện của chúng ta, phải thế không Julia? Chúng ta sẽ làm việc cho cậu ấy, đúng không?”
“Nhất định là thế rồi”, Julia đáp với sự nhiệt tình trên cả mong đợi.
Julia đã si mê chàng ta đến quá nửa rồi, nhưng tôi nghĩ cô nàng cũng sẽ say mê bất cứ chàng trai nào xuất hiện vào thời điểm ấy.
Vẻ quyến rũ của Drake thì khó có thể miêu tả lại. chàng có thể tung hứng trong câu chuyện nhẹ nhàng vui vẻ với phu nhân Sallonger, cũng có thể trở nên rất mực nghiêm trang trong câu chuyện với Philip. Rồi tôi lại nghe tiếng cười vô tư lự giòn tan của chàng với Charles. Chàng có thể nhanh chóng thân htiện và hòa hợp với bất cứ ai. Bao giờ chàng cũng dành cho tôi một nụ cười thật đặc biệt. tôi thường phát hiện chàng ngồi cạnh tôi khi chúng tôi ở trong phòng khách. Tôi nghĩ cuộc gặp gỡ đầu tiên đã thiết lập một tình bạn đặc biệt giữa chúng tôi.
Julia có vẻ bực mình về chuyện đó. Tôi hiểu. Cô muốn một mình độc chiếm sự chú ý của Drake và không thể tha thứ được cái sự thật là tôi, một kẻ không hơn một đứa ở trong nhà, lại giành được sự chú ý của chàng trai đặc biệt ấy. những lúc cánh thanh niên tụ tập trò chuyện, Cassie cũng gia nhập hội và thật ngạc nhiên, cô đã thắng được sự e thẹn rụt rè khi có mặt anh. Tôi thường cảm thấy ánh mắt của Charles chiếu vào người tôi và lấy làm khó chịu vì anh mắt lạnh lùng ấy. tôi nghĩ anh ta có ý nhắc nhở tôi nên nhớ rõ thân phận của mình.
Mọi người thống nhất với nhau là cần phải tổ chức một cái gì đó thật vui vẻ náo nhiệt để chào mừng vị khách của chúng tôi. Thế là phu nhân Sallonger tổ chức một dạ tiệc. Chúng tôi mời thêm khoảng hai mươi vị khách nữa, cùng với người nhà thế là thành một bữa tiệc xôm ra trò. Sẽ có mục khiêu vũ sau bữa tối, không được trọng thể lắm vì lượng khách không nhiều nhưng thế lại thân mật. ở đây cũng có một phòng khiêu vũ còn chưa sử dụng hết một nửa diện tích nhưng rồi nó sẽ hoạt động hết công suất sau khi Julia ra mắt lần đầu. Phu nhân Sallonger nghĩ rằng một vài người sống trong vùng sẽ được mời đến dự. khách không cần ngủ lại. Nhưng tất nhiên một vài người khách từ London xuống sẽ có phòng riêng dành cho họ. Nhà Tơ Lụa bao giờ cũng đầy đủ tiện nghi. Phu nhân có vẻ hào hứng trong việc lên kế hoạch.
Tôi được lệnh mang giấy bút đến chỗ bà. “Không phải cái này Lenore…Cần một tờ giấy lớn hon, ở trên bàn của ta ấy.” Cuối cùng thì chúng tôi cũng có được đúng loại giấy, bút bà cần dùng và một danh sách bắt đầu được cân nhắc.
Trong nhà tràn ngập một bầu không khí phấn khích tươi vui. Tôi cũng được phép đến dự tiệc. Có những nhiệm vụ nhất định được trao cho tôi.
“Cháu sẽ chăm nom cho gia đình Barker”, phu nhân cắt đặt. “Ta không nghĩ là có người nào muốn nói chuyện với họ…và ta cũng không nghĩ lại có người bằng lòng với việc không có ai để ý đến mình. Những chuyện nhỏ như vậy sẽ làm cho một bữa tiệc thành công như ý. Có lẽ ta không nên mời họ chăng. Họ giàu, rất giàu, tiền tuôn ra từ những công trình xây dựng. người ta có thể quên chuyện đó nhưng Jack Barker thì không để cho người ta quên đâu. Ông ta sẽ luôn miệng nói về sự phát triển thịnh vượng và sự thối nát của các nghành công nghiệp. Ta chỉ nghĩ đến chuyện mời họ khi cần thêm cho đông thôi. Vả lại họ cũng ở gần đây nên có thể về nhà được.”
Ngoại có vẻ không chắc về mọi chuyện. Trước khi bà biết chuyện tôi cũng được mời, bà có vẻ suy nghĩ lung lắm. “Đó là một dấu hiệu. Bà muốn cháu tham dự…Bà rất muốn cháu có mặt ở đấy.”
Vì vậy, khi tôi kể cho bà nghe về Barker, bà có vẻ vui mừng quá đỗi.
“Bà sẽ may cho cháu một cái áo, cháu của bà. Cháu cần có một cái áo để cháu nổi bật trong đám thiếu nữ như con công nổi giữa đàn gà.”
“Julia sẽ không thích thế đâu.”
“Làm sao mà nó biết được. Con bé không có “gu” thẩm mỹ. nó không phân biệt được cái nào là đẹp cho du đưa vào tận mắt nó. Nó chỉ thích phô trương và màu mè…những thứ đó đâu phải là thời trang. Ồ không. Như vậy quỷnh lắm…”
Bà bắt tay vào may áo dạ hội cho tôi. Đó là cái áo đầu tiên đánh dấu tuổi thiếu nữ của tôi. Một chiếc áo lụa màu đỏ rực rỡ hòa hợp với mái tóc đen nhánh của tôi. Chiếc áo khuôn sát lấy thân hình và có đôi cánh phồng lên bay bổng. đẹp nhất là phần thân, nó xòe rộng từ thắt lưng trở xuống và bồng bềnh những dải đăng ten.
“Ôi, cháu giống mẹ như đúc. Bà không thể nào tin vào mắt mình…”
Tôi ôm lấy bà nói rằng nó là một món quà kỳ diệu, rằng tôi sẽ giữ nó suốt đời.
Rồi cái đêm hằng mong đợi cũng đến. ngựa xe dập dìu ngoài sân. Phu nhân Sallonger tiếp khách trong khi ngự trên chiếc ghế quen thuộc của bà. Bà có dáng điệu vương giả của một bà hoàng ngồi trên ngai vàng trong lúc khách hứa thi lễ. quanh bà có ba chàng trai đứng tháp tùng.
Tất cả đều tuyệt diệu.
Đây là một bữa tiệc đứng và bàn ghế được mang ra khỏi phòng ăn. Các nhạc công đánh đàn trong phòng kiêu vũ, rồi phu nhân Sallonger xuất hiện, thân hình ẻo lả dựa hẳn vào cánh tay vạm vỡ của cậu con trưởng. bà ngồi quan sát quan khách khiêu vũ.
Tất nhiên, nhiệm vụ của tôi là quanh quẩn bên gia đình Barker. Ông này luôn miệng nói về công việc làm ăn phát đạt của mình. Bà Barker nói rất ít, bà ngồi đó khoanh tay trên cái bụng tròn vo của mình nom giống một bức tượng Phật Trung Hoa. Bà lặng lẽ chiêm ngưỡng đấng phu nhân cứ như thể lời lẽ không ngừng tuôn ra từ miệng ông là những lời sấm truyền thiêng liêng.
Dù vậy, vẫn có đôi điều thú vị trong câu chuyện của ông. Tôi biết được sự khác nhau giữa những ngôi nhà có tường xây bằng gạch với những ngôi nhà có tường bằng đá. Hiểu rằng thật khó mà tìm ra được một người biết rõ công việc của minh, và thường thì người ta không làm cái việc mình phải làm với tất cả tinh thần trách nhiệm. Mọi thứ đều xuống dốc kể từ ngày những anh cu Tí cu Tèo cũng có quyền bầu cử.
Tôi không thực tâm chú ý vào câu chuyện của ông, nhưng tôi bắt chước thái độ của bà vợ quý hóa của ông, làm bộ chú ý nghe với tất cả sự ngưỡng mộ trong lúc suy nghĩ của tôi chạy khắp phòng.
Tôi thấy Drake bên cạnh Julia. Cassie ngồi cạnh mẹ. cô không khiêu vũ bởi tật ở chân. Cassie tội nghiệp, tôi nghĩ, cô sẽ không cảm thấy thoải mái trong phòng khiêu vũ đâu.
Charles nhìn về phía tôi và tôi ngạc nhiên thấy anh ta lững thững đi về phía mình.
“Chào ông bà Barker. Tôi hi vọng ông bà thích không khí này.”
“Tuyệt lắm, tuyệt lắm”, ông Barker hồ hởi đáp. “Căn phòng này được trần thiết rất đẹp. Người ta biết rằng mình đang làm gì khi xây tòa nhà này.”
“Tôi rất lấy làm tiếc rằng”, Charles nói, liếc về phía tôi một cái nhìn đầy âm mưu, “ông Barker đã không sống vào thời đó. Tôi chắc là vào tay ông thì nó sẽ còn tuyệt vời hơn nhiều.”
Ông Barker nom sướng ra mặt. “Ồ, tôi sẽ làm cho nó hiện đại hơn một chút. Cái lò sưởi kia. Nhìn kìa. Chắc là phải dùng đến một tấn than. Đáng lý nó phải nông hơn một chút.
“Tôi chắc là ông nói đúng. Tôi sẽ đi với Lenore một vòng. Cô ấy trong như thể ngứa ngáy tay chân lắm rồi.”
Tôi quay sang bà Barker. Tôi lấy làm lạ là Charles lại quan tâm đến tôi như thế.
Bà Barker nói: “Buổi tối mới dễ thương làm sao. Những người trẻ tuổi thích được vui vẻ với nhau. Gặp cô sau nhé, tiểu thư Cleremont.”
Charles đặt tay lên cánh tay tôi.
“Đây là điệu van-xơ”, anh ta nói khi dìu tôi vào vòng người đang xoay tròn theo điệu vũ. “Anh rất thích nhảy van, em có thích không?” Anh ta quàng ngang eo tôi kéo tôi sát vào người.
Tim tôi đập như trống làng. Tôi nghi ngờ anh ta. Tôi không hiểu tại sao anh ta lại có vẻ thân thiện, hòa nhã với tôi thế sau thái độ thờ ơ – có pha chút khinh bỉ – một điều mà anh ta luôn phô ra với tôi.
“Anh hy vọng em sẽ cảm ơn anh vì đã cứu em thoát khỏi những người nhạt phèo đó.”
“Họ cũng không đến nỗi nào đâu. Ông Barker chắc chắn là một nhà xây dựng cừ khôi.”
“Tại sao mẹ anh lại mời họ nhỉ, anh không thể tưởng tượng nổi, rồi lại còn bắt tội em phải trông nom họ chứ. Thật là một tội ác đối với một người đẹp như em, anh có thể nói như thế. Này Lenore, hôm nay trông em lộng lẫy đến không ngờ đấy.”
“Cảm ơn anh. Đó là nhờ cái áo.”
“Nếu em hỏi anh, anh sẽ nói đó là nhớ cái thứ ở bên trong cái áo.”
Những ngón tay của anh ta riết lên cái cổ để trần của tôi, làm phát ra một luồng điện run rẩy chạy khắp người tôi. Anh cũng nhận ra điều đó.
“Em còn bé quá Lenore, thực ra chỉ là một cô bé con.”
“Em sắp 16 tuổi rồi.”
“Trời đất! Đó là tuổi trăng tròn tuyệt đẹp. Tuổi 16 ngọt ngào và chưa từng được hôn. Hay là em đã thực tập rồi?”
Anh ta xoay tôi mấy vòng liên tiếp. tôi thích khiêu vũ và thường nhảy cùng Julia. Miss Logan đang dạy cô. Tôi hình dung rằng khi mùa giao tế đến gần, Julia sẽ là một vụ công thực sự. Khiêu vũ là một trong những kỹ năng giao tế trong xã hội thượng lưu mà bạn phải làm chủ được nó khi bạn đến tuổi trưởng thành. Tôi tham gia vào môn học để làm bạn nhảy với Julia và bao giờ tôi cũng hào hứng với bộ môn này. Nhưng lúc này tôi không thể thả hồn theo điệu nhạc. Dường như Charles không phải là chàng trai mà tôi biết trước đây. Tôi bao giờ cũng nghĩ là mình không ở trong tầm chú ý của anh ta. Chúng tôi xoay vòng gần ra đến cửa, và đến vòng cuối cùng thì người anh ta áp sát vào người tôi rồi anh xoay một cú nữa cả tôi và anh đã ra khỏi phòng nhảy…đúng bên ngoài hành lang. Tôi thở hổn hển: “Anh làm gì đấy? anh đưa em đi đâu vậy?”
“Hãy kiên nhẫn một chút!”
Anh ta mở một cánh cửa và chúng tôi ở trong một gian phòng nhỏ nơi hàng ngày các cô hầu gái chăm hoa tươi. Trong phòng có bồn nước và vòi nước. ở đây rất lạnh và tối. Bất thình lình tôi thấy môi anh ta áp chặt lên môi tôi và tôi phát hoảng thật sự.
“Để em đi”, tôi hét lên. “Tại sao anh phải làm vậy?”
“Em không biết…”
“Em biết. Không ngờ là em lại xinh đến thế. Em vẫn còn là nhóc con, nhưng mấy nhóc cần phải được dạy dỗ và có nhiều điều anh có thể dạy cho bé.”
“Em…em không nghĩ là em muốn nghe những chuyện như vậy. Em muốn quay lại phòng khiêu vũ. Em phải xem xem ông bà Barker đã ăn thêm chưa.”
“Hai cụ khốt ấy có thể tự chăm chút cho nhau một lát. Thôi mà, Lenore. Có chuyện gì đâu nào? Em cũng biết là anh thích em, đúng không?”
“Em chắc chắn là không. Anh bao giờ cũng coi thường em.”
“Anh không bao giờ khinh rẻ những cô gái đẹp.”
Anh ta nói, định thọc tay vào trong cổ áo tôi.
“Sao anh dám! Tôi…tôi đi khỏi đây.”
Anh ta chặn tôi lại. “Thôi nào. Em không thể đùa giỡn với anh kiểu ấy. anh không thích những cô gái bướng bỉnh đâu.”
“Còn tôi không thích những người ép buộc người khác.”
“Em không bị hoang tưởng đấy chứ?”
“Bao giờ tôi cũng là chính mình và tôi chọn người để kết giao.”
“Cô chỉ là một đứa con hoang.”
Tôi nín thở nghe anh ta cười, chế nhạo. “Sao bị sốc rồi hả? cô là thế đấy. Tại sao chúng tôi phải chứa cô trong nhà thì tôi còn chưa biết đấy. Làm bộ kiêu kỳ bắc bậc lắm…Không chấp nhận một cái hôn bạn bè…sau khi đã nhử tôi ư?”
Tôi chỉ còn biết đứng ngây ra vì căm giận và sững sờ.
Anh ta không thể nhìn rõ mặt tôi vì trong phòng tối quá, bèn nói giọng ngọt nhạt: “Đừng có ngốc thế Lenore. Anh thích em mà. Rồi em sẽ hài lòng về điều đó. Tất niên, em thích lắm mà. Anh sẽ làm cho em sung sướng, bé ạ. Chúng ta sẽ là bạn bè của nhau. Đây chỉ là bước khởi đầu thôi. Đáng tiếc là em lại ngủ cạnh bà em. Em có nghĩ là bà già đó có thể phát hiện nếu anh rón rén đi vào phòng em không?”
Bây giờ thì tôi tìm thấy cái lưỡi của mình: “Tôi không hiểu tại sao anh lại có thể nói với tôi những lời như thế?”
“Bởi vì em đang lớn lên, thành một cô gái vô cùng quyến rũ và đã đến lúc em phải nhận ra những trò vui thú mà những cô gái xinh đẹp như em phải được hưởng.”
Cơn phẫn nộ làm cho toàn thân tôi run rẩy. tôi biết anh ta muốn nói gì. Bởi vì tôi xuất thân hèn kém, Charles nghĩ, hẳn tôi phải sung sướng đón nhận sự hạ cố của cậu chủ. Tôi chưa bao giờ quý mến con người này và bây giờ tôi thực sự căm ghét hắn.
“Vui lòng hiểu cho là tôi muốn đi khỏi đây ngay và tôi không thích bị cư xử như thế này.”
“Ồ, cô ả mới chảnh chưa? Mày tưởng mày là ai vậy? một thức cặn bã của bọn Pháp…Mày là như thế đấy. chỉ vì tao muốn tử tế với mày…cho mày biết một quý ông có thể ban phát gì cho mày…thế là mày vội lên mặt à…Quân gớm nhỉ.”
“Vấn đề là anh không phải là một quý ông lịch lãm.”
Hắn xiết chặt cánh tay tôi đau điếng. “Nghe tao nói đây, con kia. Tất cả những điều tao muốn ở mày là một chút vui vẻ. Đó là cái thứ gái như mày có thể đem đến. Mày chẳng là cái thớ gì trong nhà này. Bà ngoại mày có thể làm việc cho nhà tao nhưng điều đó không có nghĩa là mày có thể đóng vai công nương cao quý nhé… Không, trừ khi mày học được cách biết mình biết ta. Thôi đi Lenore, cô em làm cho anh hứng lên đấy. Hôn cái đi. Có nhiều cái anh có thể bày vẽ cho cô em đấy.”
Tôi ở trong trạng thái hoảng loạn thật sự. Ở một mình với gã đàn ông đểu cáng trong căn phòng nhỏ tối om này! Tôi vung tay đánh thật mạnh vào mặt hắn. Tôi đã làm hắn bất ngờ. Hắn thở hổn hển rồi buông tôi ra. Không bỏ phí một giây, tôi gạt hắn ra, chạy thục mạng ra ngoài hành lang. Tôi không thể dừng lại vì tôi biết hắn đang rượt theo. Tôi chạy một mạch về phòng ngủ. Thoáng liếc thấy bóng mình trong gương: khuôn mặt đỏ bừng, mái tóc xổ tung bơ phờ. Tôi vã nước mát lên mặt, cảm thấy mình bình tâm lại đôi chút khi tháy những vết đỏ trên cánh tay đã bắt đầu mờ đi. Tôi chải lại tóc với những ngón tay run rẩy nhưng rõ ràng là tôi đã cảm thấy bình tĩnh hơn. Có lẽ hắn đã uống quá nhiều rượu. Tôi không tin là hắn lại thích tôi. Hắn đến với tôi như hắn đã đến với những cô hầu gái dễ dãi hay cười ngặt nghẽo mỗi khi hắn đi qua, có vẻ như có chuyện gì úp mở, như thể giữa họ có một mối dây ràng buộc đặc biệt nào đó. Hắn muốn đối xử với tôi như đã đối xử với họ.
Tôi vẫn còn hoảng sợ nhưng biết rằng mình cần phải trở lại phòng khiêu vũ nếu không muốn gây nên một sự chú ý. Phòng nhảy không có nhiều người lắm, vậy nên ai vắng mặt một lúc cũng dễ bị nhận ra. Thế là tôi đành xuống dưới nhà, kín đáo đi vào trong phòng. Không có ai nhìn tôi với dấu hỏi trên mặt. ông bà Barker vẫn ngồi một mình. Tôi đi đến bên họ.
“Nhảy có vui không cô?” Bà Barker hỏi.
Tôi mỉm cười tránh né và hỏi xem họ có muốn ăn thêm chút gì không. Trong lúc đưa họ đến phòng ăn, tôi nhìn thấy Charles đang nói chuyện với Amelia Bartington – một trong các cô con gái của một gia đình láng giềng. Hắn ta nhìn lướt qua tôi như không trong thấy tôi.
“Ồ, căn phòng này đẹp quá!” Ông Barker trầm trồ. “Nhưng hình như có dấu hiệu bị thấm nước. Cần phải kiểm tra lại.”
Philip và Cassie đi lại chỗ chúng tôi. Cassie nom có vẻ mệt mỏi. cô cảm thấy vui mừng khi mọi chuyện đã xong. Chẳng có gì vui khi phải ngồi xem người ta nhảy múa mà mình không tham gia được. Philip nói chuyện với ông Barker hay nói chính xác hơn cho phép ông ta dốc bầu tâm sự và tỏ vẻ quan tâm đến công việc xây dựng hoặc có thể anh chỉ cố tỏ ra lịch sự thôi.
Sau đó anh bảo với tôi là anh có mối đồng cảm với những người say mê công việc. Đó cũng chính là sự say mê mà anh dành cho nghề dệt.
Với tôi, đêm vui với bao mong đợi đầu đời trôi qua như một giấc mơ vô nghĩa. Tôi không sao gạt khỏi đầu sự việc kinh tởm vừa xảy ra với Charles.
Khi tôi đã lên giường, Ngoại còn tìm đến để chuyện vãn. Bà ngồi trên mép giường trong bộ đồ ngủ bằng lụa mà bà tự cắt may, một bộ đồ mang dấu ấn của một “gu” thẩm mỹ bậc cao.
“Có chuyện gì không? Cháu có nhảy không?”
“Chút xíu thôi ạ. Ông Barker không nhảy và cháu có nhiệm vụ chăm sóc họ.”
“Thế cháu không nhảy với cậu Drake à?”
“Không ạ…anh ấy chủ yếu ở bên cạnh Julia.”
Ngoại tôi không giấu được vẻ thất vọng.
“Cháu có nhảy một chút với Philip sau bữa tối, trong khi Cassie tiếp chuyện ông bà Barker.”
Nhưng trên mặt Ngoại vẫn có nét buồn ấy. “Thôi, cháu mệt rồi. Cháu đi ngủ đi.”
Có quá nhiều chuyện khiến tôi không thể dễ dàng tìm được giấc ngủ. Tôi muốn ở một mình suy nghĩ về buổi tối vừa rồi, chủ yếu là nghĩ về sự việc không hay với Charles.
Bà ngoại thất vọng thật sự. Cô gái trẻ sau đêm vũ hội đầu tiên phải trở về nhà rạo rực niềm vui như được cất cánh bay lên và chỉ chờ dịp được thổ lộ về cái sự kiện vô cùng đẹp đẽ ấy. Thế mà tất cả những điều tôi có thể làm là nằm đăm chiêu, suy nghĩ về những khoảnh khắc đầy hãi hùng trong phòng cắm hoa tối om om. Đó không phải là điều tôi muốn. Không đời nào.
*
* *
Ngày hôm sau khi gặp Charles, hắn có vẻ như không nhận ra tôi. Thật nhẹ cả người. Hắn đã quên. Có lẽ đó là cách hắn đối xử với bất cứ người phụ nữ nào mà hắn cho là kẻ bề dưới. Có lẽ tôi đã quá cả nghĩ mất rồi. Hắn đã thử dụ dỗ tôi và đã thất bại, chắc hắn phải tức tối lắm về cái tát tai mà tôi đã tặng hắn. Đó là một nỗi đau thể xác và cũng là một nỗi nhục.
Sáng hôm sau, Julia cảm thấy bực bội vì từ sáng sớm hai ông anh trai đã lôi Drake đi đâu mất và có vẻ như họ sẽ đi suốt cả ngày.
Buổi chiều tôi cưỡi ngựa cùng với hai chị em Julia và Cassie. Cô chị chỉ nói về bữa tiệc.
“Thật thú vị vô cùng. Eo ơi, mình không thể chờ đợi lâu hơn nữa. Sẽ có nhiều đêm hội như thế. Ố la la. Drake cũng sẽ ở London. Chắc là anh ấy được tất cả các phòng khách mở rộng cửa đón chào…hoặc là hầu hết…bởi vì tên tuổi của cha và chú anh ấy. Người ta có vẻ kính trọng những nhà chính trị hơn là quân sự.”
“Cậu sẽ không nghĩ thế khi cậu nhớ đến cái cách mà họ bị bội nhọ trên báo” tôi nói.
“Người ta chú ý đến họ chính vì những điều đó. Ở đây sẽ có một cuộc chiến tranh cần đến những chú lính thủy. Mình hi vọng Drake sẽ đi vào con đường chính trị. Đó mới là điều thú vị nhất..” Cassie hỏi một cách cân nhắc, “Julia chị cho rằng cuộc sống như vậy rất thú vị ư?”, “Phải”, Julia sôi nổi, “bao giờ chị cũng nghĩ là chị sẽ sống một cuộc đời như vậy. Các chị biết đấy, tất cả những vụ bầu cử đầy biến cố hồi hộp… rồi bước chân vào Quốc hội, gặp gỡ những nhân vật như Thượng nghị sĩ Beaconsfield hoặc ông Gladstone. Mary Wyndham Lewis sau này đã trở thành vợ của ngày Beaconsfield. Lãng mạn dễ sợ. Bà ấy có nhiều tiền, đó là lý do mà ông ấy cưới bà ấy.”
“Rất lãng mạn”, tôi nói vẻ mỉa mai. “Cậu cũng đồng ý như thế ư, Cassie?”
“Ồ, thường thì những cuộc hôn nhân môn đăng hộ đối cuối cùng cũng có kết thúc rất hậu,” Julia nói. Quả là với họ, mọi chuyện diễn ra như thế và bà ấy thường kể lại thoạt đầu có lẽ ông ấy cưới bà vì tiền nhưng sau nhiều năm chung sống, tình yêu đã nảy nở. Drake cũng thích chuyện đó lắm lắm. Em cũng sẽ thích đấy Cassie ạ,… và cả cậu nữa, Lenore. Nhưng mà cậu lại phải tiếp ông bà Barker nhạt như nước ốc.”
“Có Philip và Cassie đến giúp nữa. Nhưng cũng không đến nỗi nào.”
“Cuộc hôn nhân của họ rất hạnh phúc”, Cassie nói.
“Bà Barker nghĩ đức lang quân mình là một người tuyệt vời. Thật là thú vị khi nhìn cái cách bà ấy say sưa nghe chồng thao thao bất tuyệt, cứ như một con chiên ngoan đạo uống từng lời cha giảng đạo. Em nghĩ nếu có bất cứ ai dám nói xấu ông ấy một lời, hoặc đối nghịch với ông ấy, bà ta sẽ trừng trị họ không ngần ngại.”
“Đó là một kiểu hôn nhân khi một người trong cuộc hoàn toàn lệ thuộc và thấp kém trước sự thành công của người kia,” tôi nói. “Mình cho rằng đó là điều mà đàn ông thường cố công tìm kiếm.”
“Tôi không nghĩ là Drake thích thế. Anh ấy muốn cậu tranh luận với anh ấy. Mình nhận ra điều đó.”
“Em chưa thấy”, Cassie nhỏ nhẹ nói.
“Cassie thân yêu, em đâu có ở bên anh ấy nhiều như chị,” Julia nói, không giấu vẻ tự đắc. “Anh ấy mới ngọt ngào làm sao. Chị thích câu chuyện về vợ ông thượng nghị sĩ Beaconsfield. Chị nghĩ anh ấy chính al2 một Benjamin Disraeli. Chuyện là thế này. Người vợ lỡ để kẹt tay trong lúc trèo lên cỗ xe đi cùng với ông ấy đến Quốc hội để đọc một bài diễn văn quan trọng. Người vợ không nói gì với chồng về việc này. Dù cái tay hết sức đau đớn, bà vẫn cười nói, trò chuyện cứ như không bởi vì bà sợ sẽ làm ông rối trí mà hỏng bài diễn văn. Lãng mạn chưa?”
“Một câu chuyện thú vị quá!” Cassie kêu lên. “Em thích nghe lắm. còn chị Lenore, chị có thích không?”
“Có. Nhưng mình nghĩ mình sẽ không muốn trở thành cái bóng của ông chồng…như bà Barker chẳng hạn. Mình muốn là chính bản thân mình. Có thể mình cũng muốn làm được một việc gì đó trong đời…ngoài chuyện chồng con.”
“Ồ, thì mình cũng đâu muốn trở thành một cái bóng của ai đâu. Dù vậy, vợ của các chính trị gia cũng có chỗ đứng của họ trong xã hội. Mary Anne, phu nhân của ngài Disrael thường tham gia vào những sự kiện diễn ra trong Quốc hội. Bà thường đi đến đấy, ngồi chờ rồi cùng ông trở về nhà. Bao giờ bà cũng ngồi chờ bên bữa tối đã nguội lạnh dù ông có về muộn đến mấy cũng vậy. Thế là ông chồng kể cho bà nghe những sự kiện diễn ra bên trong nhà Quốc hội. Bà Gladstone thì ai cũng biết tiếng nhé. Bà bao giờ cũng muốn biết chắc là chồng bà có cảm thấy thoải mái, dễ chịu hay không. Drake nói rằng trong nhà thì bà nội tướng. Ghê chưa…Hai người thấy đấy, sống như thế mới gọi là sống chứ.”
“Tại sao bất thình lình chị lại quan tâm đến chính trường nhiều vậy?” Cassie hỏi.
Julia đỏ mặt. “Có lẽ bởi vì chị hay trao đổi với anh Drake về những chuyện như vậy.”
Cassie và tôi liếc nhìn nhau. Rõ ràng là Julia đang yêu. Chuyện ấy cũng không ngoài dự tính. Nàng 17, chàng 21, cả hai đều ở cái tuổi xây những ước mơ về chuyện ấy.
Về gần đến nhà, chúng tôi gặp Charles và Drake. Họ cũng vừa đi cưỡi ngựa về.
“Xin hcòa”, Drake vui vẻ lên tiếng. “Các em vừa đi chơi về đấy à?”
“Chúng em đi tập ngựa buổi chiều”, Julia giải thích.
“Rừng ở đây thật đẹp!” Drake trầm trồ, anh mỉm cười với tất cả chúng tôi, một nụ cười như ngưng đọng những tia nắng vàng. Julia nhìn anh say đắm. Rõ ràng là cô ta sẽ ngạc nhiên lắm nếu tôi cả gan bảo nhỏ cô rằng cũng nên ý tứ một chút.
“Về nhà bây giờ à?” Charles hỏi, giọng chỏng lỏn.
Julia trả lời là đúng. Tôi không nói gì. Hắn không hỏi tôi. Hắn làm như tôi không hề tồn tại. Tôi tự hỏi không biết từ nay về sau hắn có tiếp tục phớt lờ tôi không. Tôi sẽ không phiền lòng về điều đó đâu. Trái lại là đằng khác, tôi sẽ cảm thấy an tâm hơn.
Chúng tôi tiếp tục cưỡi ngựa về nhà. Drake đi giữa tôi và Julia.
Anh nói: “Đêm qua là một đêm vui nhất.”
“Em cũng thấy thế”, Julia đáp.
“Anh thấy là em rất bận rộn”, anh tiếp, quay sang tôi.
“Lenore nhận được lệnh của Mama, vì Mama sợ rằng ông bà Barker sẽ cảm thấy lẻ loi thếl à Lenore có nhiệm vụ tiếp đón họ chu đáo.”
“Em thật là cao thượng.”
“Không phải thế đâu. Em chỉ thực hiện nhiệm vụ được giao.”
“Cũng chẳng hề gì. Bạn cũng đã có mặt trong phòng, đã khiêu vụ với Charles và Philip còn gì. Chúng ta có một buổi tói thật tuyệt vời anh nhỉ?”
“Rất thú vị”, anh đáp.
“Còn anh thì sao, Charles?” Julia hỏi.
“Cũng không đến nỗi nào.”
“Anh chẳng thả sức với các cô gái trẻ là gì!”
“Cực kỳ”, Charles tưng tửng đáp.
Chúng tôi đi đến gần khu hầm mộ.
“Ôi chao, kiến trúc này đẹp quá!” Drake kêu lên.
“Đó là khu nhà mồ”, Julia giải thích.
“Một công trình công phu và hoa mỹ nhất đấy.”
“Nó được xây vào khoảnh 100 năm trước”, Charles giải thích.
“Có vẻ rất lạ, phải không?”
“Phải, mình nghĩ là thế. Có mở cửa không?”
“Lạy Chúa tôi, không. Rất ít khi mở cửa…trừ khi có ai đó được mang đến đây an giấc ngàn thu, chắc thế. Cứ nghĩ là một ngày nào đó tôi cũng sẽ vào đây…cả Philip nữa. Chỉ là một ý nghĩ. Bọn con gái…phải các cô rồi sẽ lấy chồng và không còn thuộc về dòng họ Sallonger nữa…và như vậy không có chỗ ở đây.”
“Tôi bao giờ cũng quan tâm đến những cái lăng như thế này”, Drake nói, nhảy xuống ngựa. “Tôi muốn xem qua một chút. Những tác phẩm điêu khắc trên đá này lạ thật. Tất cả công trình kiến trúc tuyệt vời này là chốn yên nghỉ cuối cùng của người chết sao?”
“Em gọi nó là Nhà Chết”, Cassie nói.
“Cái tên ấy nghe rùng rợn quá!” Julia nói với một cái rùng mình.
“Em không dám đi qua đây vào ban đêm đâu”, Cassie nói tiếp. “Còn chị thì sao, Lenore?”
“Mình nghĩ mình cũng có chút ngài ngại”.
“Em tự hỏi tại sao người ta lại gọi nơi này là lăng”, Julia nói. “Nghe thế có hợp không? Em không thể hình dung ra một buổi tiệc ở đây.”
“Anh nghĩ nếu một từ nào đó có vẻ kỳ lạ là bởi vì thông điệp thầm kín của nó”, Drake gợi ý.
“Em tự hỏi ai là người đầu tiên nghĩ ra cái tên ấy”.
“Anh có thể bảo cho em biết”, Drake nói. “Có thời anh nghĩ, anh sẽ làm ngành kiến trúc. Nếu anh không trở thành một nhà chính trị vậy thì anh sẽ quay lại ngành kiến trúc. Nó được gọi là lăng hay khu hầm mộ bắt đầu từ ngội mộ ở Halivarnassus vùng Mausolus của vua xứ Caria được bà hoàng góa bụa xây vào khoàng năm 353 trước Công Nguyên. Anh được biết rằng nó nguy nga, đồ sộ và được công nhận là một trong bảy kỳ quan thế giới.”
“Em muốn được đến thăm quá!” Tôi kêu lên.
Anh quay lại nhìn tôi với nụ cười thật hiền. “Em không có dịp ấy rồi. nó sụp đổ vào khoảng thế kỷ 13 hay 14 gì đó. Người ta lấy từng phần của nó làm vật liệu xây dựng.”
“Những ông Barker của thế kỷ 13 và 14”. Tôi nói khẽ.
“Chẳng có gì phải nghi ngờ, họ không coi mình là những kẻ phá hoại những công trình nghệ thuật. Nhưng khi nào em lên London, Lenore ạ, anh sẽ đưa em đến thăm Bảo tàng Quốc gia. Nơi này được khám phá cách đây không lâu vào khoảng năm 1857 và tất cả đều nói lên một lịch sử lâu đời về nước Anh. Ngày nay nó chính là viện bảo tàng.”
“Em thích được đến đấy lắm”.
“Một ngày nào đó em sẽ có dịp”.
“Em cũng muốn đến đấy nữa”, Julia nói.
“Sẽ là một vinh dự lớn đối với anh khi được tháp tùng hai em”.
“Cả tôi nữa chứ?” Charles xen vào.
“Tất nhiên rồi. Tôi thấy mình đã khơi dậy trong quý vị một niềm hứng thú đối với nghệ thuật kiến trúc”, anh quay sang Charles. “Không thể vào bên trong được à?”
“Để coi xem. Có một cái chìa khóa ở đâu đó. Tôi dám chắc là Clarkson biết nó ở đâu.”
“Sao anh không quay về nhà lấy chìa khóa, Charles. Rồi mấy anh em mình cùng vào xem sao?” Julia đề nghị.
“Tôi rất muốn vào trong”, Drake nói thêm.
“Được thôi, để tôi đi về lấy”, Charles nói và sải bước về phía tòa nhà.
“Anh hy vọng anh không làm mọi người phát ngán với nhiệt tình với kiến trúc của mình”.
“Không đâu, nó rất khác với kiến thức xây dựng của ông Barker”, tôi nói.
Anh bật cười còn Julia lanh chanh nói: “Em nghĩ quá khứ là một cái gì rất hấp dẫn. Em chắc là anh khám phá ra được nhiều điều thú vị.”
“Nó thật sự cuốn hút. Anh thích liên quan đến những phát hiện kỳ vĩ này…Chẳng hạn khai quật một thành phố cổ…đền đài hoặc ngôi mộ. Tất nhiên những chuyện như thế chỉ xảy ra một lần trong đời. Phần lớn thì đó la một công việc vô cùng cực nhọc mà không có phần thưởng”.
“Em có thể thấy nhà chính trị trong anh đã thắng”, tôi nói.
Anh cười vẻ hối tiếc. “Anh cũng cho là vậy.”
Chúng tôi nói chuyện một chút về những ngôi mộ cổ và về buổi tiệc đêm qua cho đến lúc Charles quay về vẻ chiến thắng, tay giơ cao chiếc chìa khóa.
“Nào, bây giờ thì sự tò mò quái quỉ của quý vị sẽ được thỏa mãn.”
Tất cả chúng tôi xuống ngựa, theo Charles đi qua những thiên thần canh cửa với thanh gươm sáng quắc. Trong lúc cả đám đi qua, Drake chú ý đến cây thánh giá cắm trên một nấm đất.
“Trông như một ngôi mộ nhỏ”, anh nói.
“Đó là một ngôi mộ chôn một con chó”, Julia giải thích.
“Một torng những con chó của các em à?”
“Không, không phải của chúng em đâu.”
Tôi giải thích: “Con chó ấy là của một trong những thằng bé làm ở chuồng ngựa…cách đây không xa. Cậu bé rất đau đớn. Nó sống đơn giản và yêu thương con chó hết lòng. Sao người ta có thể ra tay độc ác như vậy thì em không sao hiểu nổi”. Giọng nói của tôi run lên tha thiết vì những ký ức lại sống dậy. Tôi vẫn còn xúc động mạnh về sự kiện ấy. Tôi biết rằng Willie thường hay đến viếng ngôi mộ và trò chuyện hàng giờ với con chó. Tôi đã nghe nó nói chuyện như thế. Bây giờ nó đã có con cún Hạt tiêu làm nguồn an ủi lớn nhưng tôi tin, nó vẫn không sao quên được người bạn đã chết.
Tôi lấy làm xấu hổ là đã để rơi giọt nước mắt nghẹn ngào.
“Thật là một việc làm đê hèn”, Drake nói vẻ phẫn nộ. “Chỉ có những thằng ngốc, bỉ ổi mới hành động như thế.”
Anh cầm lấy tay tôi, xiết chặt thông cảm rồi đi sát bên tôi.
“Sẵn sàng chưa?” Charsles hỏi. “Giây phút vĩ đại đã đến”
Hắn cho chìa khoá vào ổ và xoay một cách khó nhọc. “Cứng quá…bởi vì nó ít khi được dùng đến… chỉ khi nào có một người Sallonger khốn khổ về chầu ông bà ông vải.”
“Chắc là không khí trong này không được trong lành đâu,” Drake nói.
“Có một lỗ thông hơi… ở đâu đó. Tôi tin là thế,” Charles trấn an anh.
Cánh cửa mở ra. Chúng tôi đứng trước một chiếc cầu thang dốc đứng dẫn xuống khoảng không tối đen phía dưới. Chúng tôi lần xuống từng người một, Charles dẫn đầu. “Cẩn thận”, hắn kêu vọng lên. “Đừng có để trượt ngã nhé. Quý vị không biết chuyện gì có thể xảy ra ở dưới này đâu.” Chúng tôi càng lúc càng xuống thấp. Có ít nhất là 30 bậc. Rồi cả bọn bước vào một gian dưới lòng đất có cái trần rất cao. Trước mặt chúng tôi là một bức tượng Đức Bà Đồng Trinh rất lớn và tượng Chúa Hài Đồng cùng tượng một người đàn bà nữa và hai thiên thần. Bên cạnh khối những bức tượng này là một hình người có lẽ là tượng trưng cho Quỷ Satan. Quỷ dường như đang tấn công các thiên thần bằng cái quyền trượng trên tay. Chắc chắn họ đang đấu tranh cho linh hồn của người đàn bà đang về nơi chín suối. Không khí trong hầm mộ thật âm u, ghê rợn, bởi vì ở đây chỉ có một chút ánh sáng hắt từ trên cao xuống qua một kẽ hở nhỏ mà tôi cho là sát mặt đất. Dọc hai bên gian hầm là những dãy quan tài.
Không khí lạnh lẽo và tôi bắt đầu run lên. Tôi có cảm giác là mình đang bị mắc kẹt trong quá khứ tăm tối kéo dài hàng trăm năm. “Thật ấn tượng”, Drake khẽ thì thào. “Các vị có biết là nó được xây dựng tựa như lăng ở Mausolus không? Tôi có thấy những bức hoạ vẽ cái lăng ấy trước khi nó bị thời gian phá huỷ.”
“Này, em có thích ngủ lại đây một đêm không?” Charles cất giọng trêu chọc. “Em, Cass… em thấy thế nào?”
“Em nghĩ tóc em sẽ bạc trắng đi chỉ sau một đêm”, Cassie nói. “Tóc người ta sẽ bạc đi khi họ bị một cú sốc nào đó, anh có biết không?”
“Thật buồn cười khi nhìn em với mái tóc bạc trắng”, Charles nói. “Thế nào, có nên bỏ con bé lại đây không?”
“Đừng có đùa kiểu ấy,” Cassie kêu thét lên.
“Tất nhiên là không rồi”, Drake an ủi cô. “Ở đây chỉ có bóng tối và ý nghĩ về người chết. Chính điều đó làm cho nó có vẻ thê lương rùng rợn. Thực ra thì nó cũng chỉ là một ngôi mộ dưới lòng đất.”
“Em tự hỏi cái gì sẽ diễn ra vào ban đêm”, Julia nói. “Mọi người có nghĩ là họ ra khỏi những cỗ quan tài và nhảy múa quanh đây không?”
“Chẳng dễ chịu gì trong bộ đồ liệm đâu. Nhiệt độ ở đây rất thấp”, Charles nói
Drake đi đi lại lại xem xét các bức tường và tuyên bố chúng là những tác phẩm nghệ thuật kỳ diệu.
“Chúng tôi có thể mở cửa cho khách đến tham quan” Charles nói.
“Nhưng không khí dưới đây lạnh muốn chết”, Julia thêm vào.
“Anh nghĩ các em chỉ là kẻ nhát gan”, Charles dè bỉu. “Nhưng còn có thể trông mong gì ở lũ đàn bà con gái?”
Cái lạnh luồn cả vào trong xương. Tôi nhìn vào những cỗ quan tài để dọc bờ tường và nghĩ còn chỗ cho nhiều người nữa.
Chợt tôi giật nảy mình vì có ai chộp vào vai.
“Bắt được rồi nhé”, có một giọng nói thê lương thì thầm vào tai tôi. “Ta là hồn ma trong khu hầm mộ này. Ta sẽ giữ nàng ở dưới đây làm cô dâu của ta.”
Tôi quay phắt lại nhìn vào đôi mắt long lanh của Charles. Khuôn mặt hắn ghé sát vào mặt tôi và toàn thân tôi run bắn.
“Tại sao, cô em sợ à? Hắn cười.
“Ai lại đùa như thế ở một chỗ như thế này”, Drake nói. “Đừng có đùa như thế nữa, Charles.”
“Tôi không nghĩ là cô ấy lại dễ dàng phát hoảng lên như vậy. Em sợ một chút à Lenore, lòng can trường của em sơ tán đi đâu rồi?”
“Đi thôi”, Julia nói. “Em cảm thấy thế là đủ lắm rồi. Chúng ta đã xem hết. Đó là tất cả những điều anh muốn xem đấy, Drake à.”
“Phải, chỗ này là nơi đáng quan tâm nhất. Anh muốn quay lại đây lần nữa. Lần sau chúng ta sẽ mang theo nến.”
“Và áo ấm”, Cassie bổ sung.
Julia bước lên bậc cầu thang đầu tiên.
“Để anh đi trước”, Charles tuyên bố. “Dẫn đường.”
“Còn anh sẽ đi tập hậu”, Drake nói.
“Tôi tự hỏi ai sẽ là người đi cuối”, Charles nói. “Các cô gái đang sợ dúm người lại này sẽ tự hỏi ai sẽ đội mồ đứng dậy để cào vào lưng cậu. Phải, mọi người đã đủ bất lịch sự để bị liệt vào loại những kẻ xâm phạm nhà riêng của người khác.”
“Mình dám chắc là họ không làm như thế với mình. Đi thôi, ở dưới này lạnh lắm.”
Cả bọn thở như kéo bễ sau cuộc leo trèo lên những bậc thang dốc đứng và phải hấp háy mắt một lúc mới quen với ánh sáng bên ngoài.
“Tôi hy vọng quý vị thưởng thức được vẻ đẹp dưới đó”, Charles nói. “Quân số đông đủ và mọi người đều ổn.” Hắn liếc nhìn tôi. “Nom em như là vừa mới gặp ma ấy. Anh chắc là em đã nghĩ như thế.”
“Không”, tôi đáp. “Chẳng qua là bị tấn công bất thình lình thôi.”
Hắn cười nhăn nhở. “Tôi phải trả chìa khoá lại cho Clarkson thôi. Lão ta bướng lắm đấy. Gặp mọi người sau nhé.”
Hắn cưỡi ngựa đi.
“Đó thật sự là một kinh nghiệm nhớ đời”, Drake nói nhìn tôi thông cảm.
*
* *
Buổi chiều hôm sau, Drake ra đi cùng với Charles và Philip cho những hoạt động của cánh đàn ông từ sáng sớm. julia đang ở trong một tâm trạng xấu bởi vì cô nàng chỉ muốn ở bên Drake suốt thời gian anh ở đây.
Tôi lấy một cuốn sách và trên đường ra vườn hoa ven hồ thì gặp thằng nhỏ làm việc ở chuồng ngựa. Nó chạy thẳng về phía tôi thở không ra hơi. Nó nói: “Thưa cô, tôi vừa chạy về nhà xem có thể tìm thấy cô không. Tôi muốn gặp cô.”
“Có chuyện gì không ổn không?” Tôi hỏi.
“Đó là Willie. Nó lại vừa bị lạc mất con chó.”
“Ồ không…”
“Đúng, thưa cô. Nó muốn điên lên vì chuyện đó. Nó ở trong rừng tìm con chó suốt cả ngày. Có thể là tôi biết con chó hiện ở đâu.”
“Vậy Willie ở đâu?”
“Ở chỗ chôn con chó thưa cô. Chỗ mọi người mới tới ngày hôm qua. Có lẽ nó vào trong đó khi mở cửa. Tôi nghĩ tôi nghe thấy tiếng nó ở đấy…. qua một khe hở trên tường. tôi đã ghé tai vào nghe.”
“Vậy em đã bảo Willie như thế à?”
“Không thể tìm thấy nó. Tôi nghĩ bởi vì … cô rất thân thiện với nó… còn tôi lại không dám xuống đấy một mình.”
“Được, vậy ta mau đến đấy xem sao.”
Thằng nhỏ cầm trên tay chiếc chìa khoá
“ Tôi lấy từ ông Clarkson… tôi không thích vào đấy một mình… tôi nghĩ là cô…”
Có thể là con Hạt Tiêu đã lẻn xuống dưới hầm mộ. Có lẽ nó đã làm như thế lúc cửa mở và tất cả chúng tôi ở dưới đó. Tôi có thể mường tượng được cảnh nó quanh quẩn đâu đây. Nó thường đến đây với Willie.
Tôi chẳng có cam đảm đi xuống cái chỗ tối tăm thê lương ấy dưới lòng đất.
Tôi nói với thằng bé: “Lại đây… cả hai chúng ta thử coi xem sao.”
Thằng bé tỏ vẻ ngần ngại.
“Lại đây nào”, tôi nói với vẻ mất kiên nhẫn: “Tôi sẽ đi cùng với em. Em không phải xuống một mình đâu.”
Thằng nhỏ mở khoá, để chìa lại trong ổ và chúng tôi bắt đầu đi xuống. Tôi đi trước dẫn đường. Tôi dò dẫm bước từng bước một và hướng dẫn thằng nhỏ làm theo. Tôi nói: “Bậc thang ẩm ướt và trơn lắm đấy”. Nó không trả lời. Lúc đó tôi mới nhận ra là nó không đi theo tôi. Chợt vang lên tiếng người qua cánh cửa mở. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Còn có một người nào đó bên ngoài.
“Hạt Tiêu”, tôi cất tiếng gọi. “Hạt Tiêu, mày ở đâu?”
Có một bóng người sau lưng tôi.
“Chắc là nó trốn đâu đây thôi. Hẳn là nó rất sợ khi nó biết không có đường ra.” Tôi nói.
Tôi đã chạm chân xuống bậc dưới cùng và quay lại. Toàn thân tôi lạnh cứng vì sợ. Charles đang ở phía sau lưng tôi.
“Charles!” Tôi kêu lên thất thanh.
“Chính hắn!”
“Sao… sao anh có thể xuống đây?”
“Bằng một cách thông thường nhất… bằng đôi chân.”
“Thằng bé kia đâu?”
“Tôi cho nó về rồi. Đừng lo, tôi có chìa khoá đây.”
Hắn giơ cao chiếc chìa khoá lên, cười với tôi.
Tôi thầm nhủ không được cho hắn biết tôi sợ hãi như thế nào. Ở một chỗ như thế này… một mình với Charles. Còn kinh khủng hơn là nỗi sợ nữa. Đó là một cái gì như trong một cơn ác mộng kinh hoàng.
“Hạt Tiêu”, tôi gọi, “Mày ở đâu?”
“Con vật bé nhỏ chắc trốn đâu đó thôi. Ta sẽ tìm nó… nếu như nó có ở đây. Hạt tiêu lại đây nào.”
Không có tiếng trả lời. Giọng chúng tôi ở chỗ xa lạ này vang lên nghe xa lạ quá.
“Thôi, nếu nó không có ở đây thì tốt hơn là ta nên đi thôi”, tôi nói. “Thằng bé kia nghĩ là nó nghe thấy tiếng chó sủa dưới này và có vẻ như là chúng ta để cửa mở ngày hôm qua và nó cùng xuống đây với Willie.”
“Tôi không nghĩ ở đây.” Charles nói, quay lại nhìn tôi. “Cô sợ?”
“Tôi không thích chỗ này.”
“Không lấy gì làm ấm cúng phải không? Và cô lại càng không thích khi cô ở đây một mình với tôi.”
Tôi tự hỏi liệu tôi có thể vượt qua hắn chạy lên phía trên không. Có khả năng lên mặt đất trước hắn không. Tôi biết là không thể bởi vì trong bóng tối người ta không dễ dàng làm chuyện đó.
“Em không cần phải sợ tôi”, hắn nói giọng ngọt nhạt. “Tôi đã chẳng bảo em rằng tôi muốn trở thành bạn em là gì. Nhưng em lại không cho tôi cơ hội ấy.”
“Tôi không cần cái loại tình bạn mà anh gợi ý.”
“À tôi biết cô là một thiếu nữ còn trong trắng. Thật đáng tiếc. Cô sợ cái gì nào?”
“Tôi nghĩ chúng ta nên quay lên. Con chó không có ở dưới này đâu. Nếu có thì nãy giờ nó cũng đã chạy đến chỗ chúng ta.”
“Cô sợ tôi sẽ tấn công cô đúng không? Rằng tôi sẽ cưỡng bức cô phải đáp ứng dục vọng xấu xa của tôi. Có phải thế không? Thú thật đi. Cô nghĩ tôi có khả năng làm như thế lắm, phải không?”
“Đúng, tôi nghĩ như thế.”
“A ha ha. Cô là một cô gái cứng cựa đấy. Để tôi nói cho cô biết tôi không cần phải năn nỉ van xin ân huệ đâu.”
“Tôi chắc là anh không làm thế. Vậy thì tại sao anh không đến với những người… có lẽ là sẵn lòng hiến dâng?”
“Có nhiều người như vậy lắm, tôi đoan chắc với cô em đấy. Vì thế mà tôi sẽ không làm cái điều mà đối với tôi dễ như trở bàn tay, bởi vì cô con hoang bé nhỏ kiêu hãnh của tôi ạ, cô sẽ có được đặc ân của tôi ở đây. Cảnh ở đây cũng mê ly đấy chứ. Giữa những cái xác đã thối rữa.”
“Tôi sẽ đi lên đây.”
“Đừng có vội như thế chứ. Cô đang hồn bay phách lạc, sợ rằng tôi sẽ cướp đi sự trong trắng của cô… Trong trắng, mà cô có còn thực sự trong trắng không? Cái tát nảy lửa mà cô tặng tôi, tôi vẫn còn cảm thấy rát đó. Không! Tôi sẽ không cho đi cái mà một con đĩ không xứng đáng với nó.”
“Tôi có thể hiểu anh muốn nói gì. Cho tôi xin lỗi vì đã đánh anh. Nếu như anh không lăng mạ tôi… Nhưng bây giờ khi chúng ta đã hiểu nhau, có lẽ chúng ta có thể quên đi sự việc đó.”
“Tôi không dễ dàng tha thứ cho sự xúc phạm đâu.”
“Tôi nghĩ tôi mới là kẻ bị xúc phạm chứ.”
“Bởi vì cô đã nuôi những ảo tưởng ra ngoài tầm tay với của mình, thưa tiểu thư Cleremont bé nhỏ.”
“Có lẽ thế, nhưng tôi hy vọng sẽ không bao giờ khiến anh phải phiền toái về những ảo tưởng ấy.”
“Vậy thì chúng ta hãy đi lên.”
Hắn đi trước tôi một bước trên bậc thang. Bất thình lình hắn quay lại, nói: “Nghe đây. Cô có nghe thấy gì không?”
Tôi đứng im nghe nghóng, quay lại nhìm xuống gian hầm mộ tối đen như mực. “Không, tôi chẳng nghe thấy gì.”
Rồi tôi nghe thấy hắn cười sằng sặc. Trong lúc tôi ngơ ngác hắn nhanh nhẹn trèo lên mấy bậc thang. Hắn chạy gấp lên mấy bậc nữa và bây giờ đã bỏ xa tôi một quãng. Tôi nghe cánh cửa đóng sập lại trước mũi mình. Rồi tôi nghe tiếng chìa khoá quay trong ổ.
Một nỗi sợ hãi chưa từng thấy chụp lên người tôi. Tôi còn lại một mình… bị khoá trái trong ngôi nhà của những người chết.
*
* *
Tôi lần đến bên cạnh cửa, nện cả hai nắm đấm thật mạnh.
“Cho tôi ra. Cho tôi ra!” Tôi gào lên điên loạn.
Chắc hắn ở sát bên cạnh cửa vì tôi nghe thấy tiếng cười lạnh lùng đểu cáng của hắn.
“Mày đã bất kính với tao, đồ con hoang”, hắn gào lên hả hê. “Mày phải bị trừng trị vì tội đó. Cứ ở đây một lúc đi, cách biệt với mọi người và nghĩ về cái cách mà mày đối xử với con trai của cái nhà đã làm phúc nuôi báo cô mày bao năm qua. Mày chỉ là một con vật vô ơn bạc nghĩa. Vì vậy mày cần một bài học biết chưa?”
“Không… không… không,” tôi gào lên.
Tiếng cười độc ác của hắn nhỏ dần. Hắn đã bỏ đi để tôi lại một mình.
Tôi ngồi xuống bậc thang bằng đá hai tay ôm lấy mặt. Bên trong tối như hũ nút và không khí như đông đặc quanh tôi. Không, điều này không thể xảy ra. Đó chỉ là một cơn ác mộng. Tôi sẽ mau chóng tỉnh giấc. Nhưng tôi biết đó không phải là một giấc mơ. Tôi biết hắn đã có âm mưu này từ hôm qua và quyết tâm dụ tôi đến đây. Thằng nhỏ kia chắc là làm theo lệnh của hắn. Làm gì có chuyện con Hạt Tiêu bị lạc.
Tôi kêu to: “Cứu tôi với! cứu tôi! Nhưng tiếng gào của tôi lại lọt thỏm xuống gian hầm phía dưới. Có lẽ có một ai đó đứng ở bên ngoài có thể nghe thấy tiếng gọi của tôi. Nhưng ai lại lớ xớ ở đây? Và tôi còn bị nhốt trong hầm mộ này bao lâu nữa?
Tôi sợ không dám bước xuống phía dưới. Tôi không muốn đi xuống gian hầm mộ có chứa những cỗ quan tài. Tốt hơn là cứ ngồi ở đây nơi tôi không nhìn thấy chúng.
Người ta sẽ nhận ra sự vắng mặt của tôi thôi. Ngoại sẽ lo lắng, sẽ yêu cầu mọi người đi tìm tôi. Chuyện này không kéo dài lâu đâu. Nhưng dù chỉ một khoảnh khắc ngắn ngủi ở một chỗ như thế này cũng đủ làm cho mỗi nơron thần kinh của tôi căng lên vì khiếp hãi. Tại sao tôi lại bị lừa gạt một cách ngu xuẩn như vậy được? Đáng lý tôi phải bắt thằng nhỏ kia xuống trước chứ. Thế mà tôi lại quá nóng lòng muốn tìm con chó bị lạc của Willie. Đáng lý tôi phải làm bất cứ chuyện gì để giữ chân nó lại.
Tôi ngồi nhìn chằm chằm vào bóng tối. Sự im lặng ở đây là sự im lặng của cõi chết. Tôi nhận thấy mình đang căng tai ra nghe một tiếng động nào đó của người chết.
Tôi nghĩ đến những chuyện ma mà tôi đã đọc. Nếu như trên đời này có ma thì hẳn đây là một nơi dành cho chúng.
Tôi nghe thấy mình đang cầu nguyện một cách rối rắm “ Lạy Chúa, hãy phái một người đến đây ngay… Nhanh lên… ngay bây giờ.”
Tôi đứng lên, hai chân tê cứng. Một lần nữa tôi nện hai nắm tay lên cánh cửa cho đến lúc hai bàn tay đau điếng. Tôi biết như thế là vô ích nhưng vẫn tiếp tục đấm lên cánh cửa một cách vô vọng. Giả sử không có ai xuất hiện… cho đến khi có một người trong dòng họ Sallonger chết và khi họ mở cửa ra tìm thấy tôi cũng đã… chết.
Không, họ phải tìm tôi chứ. họ sẽ tìm thấy tôi. Nhưng ai là người nghĩ đến chuyện tìm tôi ở đây nào? Thằng nhỏ ở chuồng ngựa phải bảo cho họ biết chứ. Nhưng không. Nó đã bị Charles sai khiến. Lúc này lòng căm ghét Charles lấn át nỗi sợ hãi trong tôi. Sao trên đời lại có những kẻ đáng ghê tởm như vậy. Tại sao họ lại làm những việc độc ác như vậy đối với người khác? Những đứa trẻ con độc ác đã ném đá con chó của Willie cho đến chết… và Charles đã làm cái điều đê tiện ấy với tôi bởi vì tôi không chịu thoã mãn dục vọng thấp hèn của hắn.
Tôi tự hỏi không biết tôi phải ở lại đây bao lâu. 15 phút? 30 phút? Tôi sợ hãi đến tê liệt cả đầu óc không còn biết phải làm gì nữa. Mất cảnh giác nên tôi đã tạo cơ hội cho hắn khủng bố tôi. Đáng lý tôi phải chiến đấu với hắn bằng tất cả sức mạnh của mình nếu hắn… nhưng tôi không hề có ý nghĩ là hắn sẽ trả thù tôi.
Dường như không có ai đi qua đoạn đường này thì phải. Vào lúc chiều buông xuống thì sẽ không có ai xuất hiện nữa đâu. Những người giúp việc không bao giờ muốn đi qua lăng mộ vào lúc trời tối. Thế là tôi phải ngủ lại đây một đêm ư? Khi nào thì tất cả những chuyện này kết thúc và kết thúc theo phương cách nào?
Chắc chắn họ phải đi tìm tôi. Ngoại sẽ làm việcđó. Bà sẽ không phát hiện ra sự vắng mặt của tôi… cho đến lúc chúng tôi lên giường đi ngủ. Lúc ấy, bà sẽ cảm thấy lo lắng.
Tôi lại đến bên cánh cửa, đấm lên đấy trong cơn tuyệt vọng. Tôi gọi người đến cứu. Tôi mới ngu ngốc làm sao, cứ làm như người ta có thể nghe thấy tiếng gào của tôi. Gian hầm mộ vừa tối tăm vừa lạnh ghê người. Chỉ có một chút ánh sáng mảnh như sợi chỉ lọt qua khe cửa của tầng hầm, chỗ tiếp giáp với mặt đất. Khe hở cũng chỉ đủ rộng để cho một ít không khí trong lành lọt vào.
Dường như có một cái gì thôi thúc tôi bước xuống cầu thang đá dốc đứng.
Thế là tôi lại đứng trong gian hầm mộ ở dưới lòng đất… ghê rợn, lạnh buốt… những cỗ quan tài xếp thành hàng, những bức tượng bao nhiêu năm nay vẫn thế nhưng trong trạng thái hoảng loạn của tôi dường như đã trở về với cuộc sống. Cây quyền trượng của quỷ Satan ở tư thế chuẩn bị lao đi mà tôi là mục tiêu mà con quỷ đang nhắm vào.
Tôi quay mặt nhìn đi chỗ khác về phía bức tường có khe hở. Nếu như tôi đến gần và gào thật to thì có lẽ có một ai đó sẽ nghe thấy. Nhưng cũng chỉ phí công vô ích. Làm gì có ai ở quanh đây mà nghe với ngóng.
Tôi không thể ở lâu trong gian hầm mộ, trong không khí tối tăm, ẩm thấp ám mùi Thần Chết và hai cánh tay tôi lạnh dần dưới hơi thở của Thần Chết. Nhưng nếu tôi muốn gào lên, tôi phải ở lại đây thì tiếng gào mới vọng lên được. Tôi nhìn chằm chằm vào khe hở hình như nó đem lại cho tôi hy vọng duy nhất liên lạc với sự sống. Tôi sẽ bị giam trong này bao lâu? Chắc chắn là Charles nhận ra nỗi kinh hoàng của tôi. Hắn sẽ quay lại khi nghĩ trừng phạt tôi như thế là đủ. Tôi nhớ lại điều Charles nói, tóc cô sẽ bạc trắng chỉ sau một đêm. Tôi sợ hãi đưa tay vuốt tóc mình. Tôi không thể ở lại đây suốt đêm nay. Không ai có thể độc ác đến mức ấy được… kể cả Charles.
Nhưng người đời tàn nhẫn. Tôi sẽ không bao giờ quên được những đứa trẻ chẳng có lý do gì mà lại ném đá vào con chó của Willie cho đến chết. Sự độc ác vô nghĩa lý như thế là sản phẩm của một đầu óc xấu xa, tăm tối bởi vì chúng chẳng có gì để quan tâm. Nhưng Charles không đến nỗi như thế. Hắn ta có học. Đây không phải là một sự độc ác vô nguyên cớ. Đây là một cuộc trả thù.
Tôi đã khước từ hắn, và bởi vì nguồn gốc xuất thân thấp kém của tôi hắn cảm thấy sự khước từ ấy là một nỗi nhục được nhân lên nhiều lần, thế là hắn muốn dạy cho tôi một bài học.
Tôi thành tâm cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ Đồng Trinh và Chúa Hài Đồng. Tôi ngồi bệt xuống bậc cửa thang thấp nhất có cưỡng lại ý muốn chạy lên phía trên, thoát khỏi cái hầm tối với những bức tượng và những xác chết.
Tôi nhận ra bức tường trước mặt đang vã mồ hôi và nhìn thấy hai giọt nước chảy song song dường như đang chạy đua. Làm sao con người ta trong những hoàn cảnh nhứ thế này lại chú tâm đến những chuyện ấy?
Tôi rùng mình với ý nghĩ tôi sẽ chết ở đây. Có lẽ họ sẽ không tìm thấy tôi. Nhớ lại chuyện một cô dâu trong ngày cưới đã trốn vào trong tủ, khoá lại và không thể trốn thoát. Người ta bổ nhào đi tìm cô… nhưng không thấy… nhiều năm sau có một người mở cái tủ đó tìm thấy những gì còn lại của cô trong chiếc áo cưới.
Câu chuyện này bao giờ cũng làm tôi xúc động. Chao ôi, cô dâu mới tội nghiệp làm sao. Cô ấy cảm thấy như thế nào khi không thể mở cánh cửa tủ để thoát ra? Ít nhất thì trong trường hợp của tôi cũng không phải là mất hết hy vọng. Hắn sẽ quay lại, tôi tự trấn an mình. Chỉ là đùa với tôi một chút thôi mà. Hắn sẽ giam tôi ở đây chừng một tiếng đồng hồ rồi sẽ quay lại, mở khoá và cười vào mặt tôi.
Bao giờ khắc đã trôi qua rôi? Tôi không còn cách nào biết được. Ở một nơi như thế này người ta mất đi thói quen cảm nhận về thời gian.
Im lặng… nột sự im lặng khủng khiếp của địa ngục. Tôi lắng nghe, căng tất cả các giác quan ra để nghe… dò tìm một âm thanh… báo hiệu có một ai đó đang ở gần đây. Tôi cầu nguyện để nghe được một tiếng động, bất kể là tiếng động gì.
Nhưng không có, tuyệt nhiên không có.
Tôi lại quay lại chỗ cầu thang. Tôi cảm thấy mình đang bị quan sát bởi một sự hiện diện vô hình ma quái. Vẫn còn tia sáng yếu ớt chiếu qua khe hở. Chắc là bên ngoài vẫn đang còn sáng. Đêm chưa xuống.
Khi trời tối sẽ có một cái gì đó xảy ra.
Tôi ngồi ở bậc thang thấp nhất tuyệt vọng đến hoá đá.
*
* *
Đó là ảo một ảo giác hay tôi thực sự nghe có tiếng chó sủa? Tôi dỏng hết cả hai tai lên. Phải… chính nó nhưng nghe rất yếu ớt… như đang ở xa lắm, vọng từ bên ngoài vào. Tôi đi ngang qua gian hầm, đứng như phỗng dưới cái lỗ thông hơi.
“Cứu tôi! Cứu tôi với! Tôi đang ở trong hầm mộ… bị khoá trái.”
Chỉ có sự im lặng đáp lại tiếng kêu cứu.
Rồi bất chợt có tiếng chó sủa gâu gâu. Lần này thì nghe rõ hơn và tôi lấy hết sức bình sinh gào lên đến vỡ cả họng. Hình như có một cái bóng cúi xuống che mất khe hở.
“Cứu, cứu! Mang tôi ra khỏi đây.”
Cái bóng biến mất.
Tôi lại đứng im căng tai ra nghe. Lần này thì không ngh thấy gì hết.
Tôi cảm thấy toàn thân bủn rủn dường như không còn chút sức lực nào. Có ai quanh đây không hay chỉ là do tôi tưởng tượng? Có lẽ trong trạng thái bấn loạn tôi đã nghe thấy cái mà tôi khao khát muốn nghe.
Sự im lặng chết chóc lại bao trùm lên tất cả, dập tắt cả đến tia hy vọng mong manh cuối cùng. Tôi run lẩy bẩy không biết vì lạnh hay vì sợ, hoặc cả hai.
Chẳng có ai đi qua lối này đâu, tôi tự nhủ. Mà nếu có đi qua thì họ cũng chẳng nghe thấy tiếng kêu của tôi. Tôi phải ở lại đây suốt đêm trừ khi Charles quay lại. Hắn phải quay lại.
Thời gian trôi qua. Tôi lả dần. Hai chân tê cứng, rồi đến hai tay. Tôi cảm thấy cái lạnh luồn trong xương thấm ra ngoài quần áo.
Ngoại vẫn chưa biết gì đâu. Bà còn đang bận rộn trong phòng may mà. Công việc bao giờ cũng thu hút toàn bộ tâm trí bà. Khi bà biết tôi mất tích chắc bà phát điên lên mất. Bà sẽ kêu gọi mọi người đi tìm tôi ở tất cả mọi ngóc ngách. Nhưng ai mà lại nghĩ tối có thể bị chôn sống trong cái hầm mộ này chứ?
Rồi bất thình lình tôi nghe có tiếng động. Cầu thang dường như bớt tối hơn. Nghe như có tiếng chìa khoá quay trong ổ. Ánh sáng ùa vào và cánh cửa mở tung ra.
Rồi một giọng nói vang lên: “Lenore, em ở đây à?”
Lại có tiếng chó sủa. Tôi ngã sụp xuống bậc thang. Nhưng tôi lại ngã vào cánh tay một người nào đó.
“Drake…,” tôi rên lên. “Anh Drake…”
“Bây giờ thì ổn rồi. Lạy chúa tôi, em lạnh cóng hết rồi.”
Tiếng chó lại sủa rộ lên và tôi được bế lên mặt đất. Không khí trong lành bên ngoài nhưng dường như bị nhiễm độc. Tôi choáng váng, xa xẩm mặt mày. Tôi nghĩ mình đang ngất đi.
“Bây giờ thì ổn rồi, bây giờ thì ổn rồi…”. Đó là giọng Drake thân yêu. Tôi nhìn thấy Willie… rồi tôi lại nghe tiếng chó sủa.
“Anh sẽ đưa em về nhà”, Drake nói.
Nhưng hình như tôi lại ngã xoài ra đất.
Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình ngồi bên bậc thềm ngoài cổng. Còn Drake đang đặt đầu tôi lên hai đầu gối của anh.
“Như vậy tốt hơn rồi đấy. Tội nghiệp em tôi. Chuyện này xảy ra như thế nào? Không sao, tất cả đã qua rồi.”
“Anh Drake ơi!”
“Anh đây.”
“Anh đã cứu sống em.”
“Được rồi. Anh sẽ đưa em quay về nhà ngay. Em cần một cái giường ấm và một cái gì làm dịu thần kinh. Em có thể đứng lên đuợc không?”
Tôi lảo đảo đứng dậy, nhận thấy Willie đứng nhìn tôi vẻ kinh ngạc.
“Không được vững lắm”, Drake nói rồi ẵm tôi lên.
“Anh không thể…”
“Được mà. Em nhẹ như bông hồng ấy. Thôi mà. Đừng để mất thời gian.”
Chúng tôi đi về nhà.
“Charles… anh ta bảo anh…”
“Charles cái gì?”
“Charles đã nhốt em.”
Drake không nói gì, chỉ im lặng bước đi. Khi chúng tôi đi vào trong sảnh, anh nói. “Thế tốt rồi, Willie. Em đã làm được một việc tốt lắm. Cảm ơn em. Tiểu thư Cleremont sẽ cảm ơn em khi cô ấy khoẻ lại.”
“Vậy là Willie à?”
“Nó nghe thấy tiếng kêu của em và rất khôn ngoan đã chạy ngay về nhà. Nó gặp anh, kể chuyện lại cho anh thế là anh lấy chài khoá chạy đến chỗ em ngay lập tức.”
Một cái gì dâng lên nghẹn ngào trong cổ khiến tôi không nói lên lời.
Tôi gặp bà Dillons và Clarkson.
“Chúa phù hộ cho con”, bà Dillon rên rỉ. “Không biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp đây?”
Sau đó là bà Ngoại.
Bà lập tức vào việc và tôi được mang về phòng ngủ.
Vài phút sau tôi đã nằm yên trên giường, đắp kín chăn, có một túi nước nóng chườm dưới chân.
Ngoại ngồi xuống bên cạnh giường tôi.
Tôi ngủ một giấc chập chờn đầy mộng mị. Chốc chốc lại tỉnh giấc nghĩ về cái khoảnh khắc tôi đang ở dưới hầm mộ. Tôi kêu lên hãi hùng. Ngoại ở bên tôi suốt đêm, cho tôi uống loại thuốc an thần bằng thảo dược. Cuối cùng, tôi cũng có một giấc ngủ êm đềm hơn, biết rằng bà lúc nào cũng ở bên tôi, nếu tôi có giật mình thức dậy trong sợ hãi đã có người bà hiền từ an ủi vỗ về tôi.
*
* *
Sáng hôm sau, tôi thấy trong người khá hơn nhưng Ngoại vẫn khăng khăng là tôi cần nằm yên trên giường. Bà nói tôi đã lạnh đến thấu xương và được một phen kinh hồn. Tôi kể cho bà nghe mọi chuyện, bắt đầu từ cái cảnh trong bữa tiệc. “Hắn trả thù cháu, bà ngoại ơi!” Tôi mếu máo. “Mom Dieu*”(Trời ơi!), ngoại lẩm bẩm, “Cứ nghĩ đến chuyện hắn có thể làm những việc đồi bại đến thế! Cần phải thận trọng với một người như hắn. Nhưng ít nhất thì bây giờ ta cũng biết được bản chất con người ấy. Ước gì bà có thể mang cháu đi ngay khỏi đây. Philip là một cậu trai nhân hậu, tốt bụng… thật khác xa hắn. Con người này hiểm ác, tàn nhẫn… hắn là thế đấy. Ma chérie, mọi chuyện thậm chí có thể xấu hơn. Cứ nghĩ đến chuyện cháu bị nhốt ở trong ấy một mình và đến việc hắn có thể làm … Trời ơi, bao giờ bà cũng muốn bảo trước cháu về những nỗi nguy hiểm. Cháu không còn là một bé gái nữa… Sẽ có những cặp mắt hướng vào cháu… như cái việc đã xảy ra với Charles. Tạ ơn Chúa lòng lành là mọi việc đã không diễn ra tệ hơn. Ồ… bà hiểu cháu vừa trải qua một thử thách khốc liệt… nỗi kinh hoàng ghê gớm. Làm sao cháu không sợ hết hồn hết vía khi bị nhốt trong một nơi như vậy? Nhưng chuyện đó đã qua rồi. Chỉ là một giấc mơ hãi hùng… Nhưng khi bà nghĩ đến con người với bản chất xấu xa đó… việc hắn có thể làm… Đó sẽ là một tổn thương vô phương cứu vãn. Nếu chuyện đó xảy ra, ta sẽ giết hắn… Nhưng vì việc ấy ta thà… mà thôi…”
Tôi hiểu điều bà muốn nói và tôi biết có một cái gì đó tôi còn cần phải tạ ơn Chúa.
“Thôi, không nói thêm gì về hắn nữa”. Ngoại nói tiếp: “Chẳng bao lâu hắn sẽ biến khỏi đây và chúng ta được giải thoát khỏi hắn. Bà không thể yên tâm được khi hắn còn ở lại đây.”
“Hắn căm thù cháu.”
“Vì đã làm tổn thương đến lòng tự hào của hắn, vì đã từ chối hắn. Phải, hắn là một kẻ đểu giả, đầy ảo tưởng. Hắn nghĩ mình đẹp trai, có một sức hấp dẫn không thể nào cưỡng nổi. Phải dè chừng với con người này. May thay, ta cũng biết rõ con người hắn. Một khi cháu đã hồi phục lại, cháu sẽ quên hết mọi chuyện. Rồi nó cũng sẽ phai nhạt dần. Giống như một cơn ác mộng xảy ra trong cuộc đời thực. Đôi khi hiểu bản chất của một người sống gần ta cũng là một điều tốt… Nghĩa là cũng có những điều tốt đẹp, thoát thai ra từ cái xấu. Bây giờ ta biết được phải đối phó với cái thằng Charles này như thế nào.”
“Bao giờ bà cháu ta cũng có nhau, Ngoại nhé!”
“Khi bà còn cần cho cháu thì bao giờ bà cũng bên cạnh cháu. Nhưng lớn lên một chút cháu sẽ có chồng có con… va lúc ấy bà ngoại sẽ không còn là người quan trọng đến thế nữa. Không sao, đó là một điều phải xảy ra và là điều hết sức tự nhiên. Còn bây giờ… chỉ có hai bà cháu ta, bà sẽ trông nom cháu… rồi cháu sẽ bảo bà cái gì làm cho cháu sợ hãi. Bà biết, đến đúng thời điểm, hạnh phúc sẽ đến với cháu gái của bà. Mong sao cháu có tất cả những gì mà người mẹ đáng thương của cháu không có. Mẹ cháu vô tư, hồn nhiên đến mức ngây thơ… quá tin tưởng vào người khác. Phải, đó là chuyện trong quá khứ còn bây giờ là hiện tại và chúng ta sống cho hiện tại.”
Cảm giác đầu tiên của tôi lúc thức dậy là nỗi khiếp sợ không thể hình dung nỗi, hình như tôi đang ở trong hầm mộ. Rồi những đồ vật quen thuộc trong phòng tôi bắt đầu rõ dần. Bà ngoại đến bên cạnh giường.
“Cháu đã ngủ rất ngon.”
“Bà ở đây cả đêm à?”
“Bà ngủ rất thoải mái trên cái ghế này. Bây giờ bà đi kiếm cho cháu một cái gì để ăn và làm dịu thần kinh. Xúp chăng, hay là bánh mì và bơ. Bà Dillon nói xúp là tốt nhất. Dễ tiêu mà. Mọi người đều nóng lòng muốn giúp đỡ cháu. Clarkson cảm thấy khó chịu vì Charles lấy chìa khoá mà không hỏi ông ta.”
Tôi ăn sáng và muốn trở dậy nhưng bà ngoại muốn tôi nằm nghỉ thêm.
“Cháu đã bị lạnh đến tận xương tuỷ. Bà không muốn cháu bị cảm lạnh.”
Trong người vẫn còn mệt và mọi việc đều mông lung nửa hư nửa thực nên tôi không muốn cưỡng lại ý bà. Ngoại đưa cho tôi cuốn Jane Eyre. Tôi đã đọc nó một lần nhưng tôi vẫn muốn đọc lại và bao giờ cũng cảm thương cho Jane để thấm thía rằng mình đã may mắn như thế nào.
Tôi bảo bà ngoại không nên ngồi với tôi cả ngày như thế. Làm như vậy tôi sẽ có cảm giác mình là người bệnh và nếu bà ở phòng làm việc, tôi sẽ cảm thấy yên tâm là bà ở rất gần mình.
“Cháu vừa trải qua một cú sốc thực sự. Bà cảm thấy có một cái gì còn đáng sợ hơn là cái lạnh mà cháu phải chịu đựng ở chỗ ấy. Cháu bị nhốt trong đó ba tiếng đồng hồ. Đủ để cái lạnh thấm vào tận ruột bất cứ ai… nhưng cái việc cháu ở đấy có lẽ là điều tồi tệ nhất, sẽ không bao giờ có một việc tương tự xảy ra với cháu nữa. Cháu nghỉ nhé.”
Cassie đến thăm tôi. Cô đứng bên cạnh giường nhìn tôi với một vẻ vừa khâm phục vừa xót thương.
“Ổn rồi mà Cassie. Bây giờ mình đâu còn ở đó nữa.”
“Em không thể nói với chị em cảm thấy thế nào khi em nghe nói rằng chị đã ở đó suốt ba tiếng đồng hồ. Nếu là em chắc em đã chết rồi.”
“Mình cũng nghĩ là mình sẽ chết ở đó.”
“Tóc chị không hề thay đổi.” Cô nhìn tôi chăm chú. “Không có một sợi tóc bạc nào… một điều có thể xảy ra… trong lúc chị ở cái chỗ kinh khủng đó.”
“Mình nghĩ bây giờ thì tất cả đã qua rồi… mặc dù mình vẫn nằm mơ về nó và khi thức dậy mình đã có cảm giác kinh khủng là mình vẫn còn đang ở đó.”
“Em không thể tưởng tượng ra có một cái gì khủng khiếp hơn.”
“Còn có những cái đáng sợ hơn.”
“Chị thật là can trường, Lenore ạ.”
“Cậu phải chứng kiến cảnh mình run như cầy sấy… tưởng tượng ra tất cả những gì hãi hùng nhất… khiếp đảm nghĩ đến những con ma… Ôi còn lâu mình mới được gọi là can đảm.”
“Vẫn còn nhiều chuyện rắc rối lắm. Tất cả mới dễ sợ làm sao. Mama là người buồn bực nhất. Bà ở trong phòng kéo rèm kín mít không có ai ra ngoài Miss Logan được bước đến gần.”
“Vậy chuyện gì đã xảy ra?”
“Drake và… Charles… hai người đã đánh nhau. Tất cả là vì chị. Drake đè Charles bẹp dí xuống đất và buộc Charles phải kể lại chuyện đã nhốt chị ở dưới hầm mộ. Charles đáp đó là việc của anh ấy và anh ấy chỉ muốn dạy cho chị một bài học. Rằng cần phải làm cho chị bớt vênh váo đi bởi vì chị tự ảo tưởng về mình quá nhiều so với thân phận một người hầu gái.
Drake hét vào mặt Charles bảo anh ấy là đồ vô lại… và còn tồi tệ hơn cả một tên đểu cáng vì đã bảo một thằng nhỏ đến đánh lừa chị để có thể nhốt chị dưới hầm. Charles không phủ nhận, nói rằng đó không phải là việc của Drake. Thế là anh Drake bèn nói đó là một việc làm đê tiện, bẩn thỉu, phi nhân tính và anh ấy vui lòng dạy cho Charles một bài học làm người. Bọn em không thể tin vào mắt mình. Họ không còn là những người mà chúng ta đã biết nữa. Drake to lớn hơn Charles nên có thể nâng bổng Charles lên như nâng một con chó, dần cho Charles một trận nhớ đời. Cuối cùng anh ấy ném Charles xuống hồ. Julia chỉ biết đứng khóc. Em chưa chứng kiến một cảnh tượng nào dữ dội như thế.”
“Thế còn chuyện Charles bị lẳng xuống hồ?”
“Anh ấy lội lên bờ. Chỗ Charles bị ném xuống không sâu lắm nhưng lúc ấy Drake đã quay về nhà. Anh Drake sửa soạn hành lý, đến gặp mẹ và nói anh ấy phải ra đi. Thế rồi anh ấy đi ngay lập tức. Mẹ em ở trong tâm trạng thật tồi tệ nhưng tất nhiên bà cũng chia tay anh Drake. Một người đánh xe đưa anh ấy ra ga… Thế là anh ấy đi mất rồi.”
“Thật…kinh khủng! còn Charles?”
“Sẽ đi ngay tối nay. Anh ấy… chẳng nói gì nhiều, chỉ bảo sẽ đến ở nhà một người bạn và từ đấy lên thẳng trường đại học.”
“Thế là… cả hai đều ra đi… Mà tất cả là vì mình ư?”
“Anh Drake không thể ở lại một ngôi nhà mà anh ấy đã đánh nhau với chủ nhà. Còn về Charles chắc anh ấy cảm thấy xấu hổ về việc đã xảy ra. Anh Philip rất lo cho chị.”
“Philip bao giờ cũng rất tốt với mình.”
“Em nghĩ rồi anh ấy cũng sớm quay lại trường thôi. Anh Philip muốn gặp chị tối hôm qua nhưng Madame bảo tốt nhất là đừng quấy rầy chị.”
“Thật là một kết cục tồi tệ cho một kỳ nghỉ hè.”
“Em không nghĩ có bất cứ một cái gì xấu như thế xảy ra đâu, còn chị?”
“Mình nghĩ những chuyện như thế này thật chả ra sao cả.”
Khi Cassie đi rồi tôi nằm xuống nghĩ ngợi miên man về chuyện Drake đến hầm mộ, giải phóng cho tôi và bế tôi về nhà. Có lẽ tôi sẽ không bao giờ gặp anh nữa. Chắc chắn anh sẽ không đến Nhà Tơ lụa với tư cách bạn của Charles. Chắc họ căm ghét nhau lắm. Tôi cảm thấy dấy lên một cảm xúc lẫn lộn. Tôi sung sướng là anh đã bảo vệ tôi giống như trong một cuộc đấu giữa các kỵ sĩ hay một cuộc quyết đấu danh dự. Nó làm cho tôi cảm thấy mình quan trọng và sau nỗi nhục nhã mà Charles nhấn tôi xuống, tôi cần sự khẳng định đó biết bao. Tuy vậy, tôi lại lấy làm buồn rầu là tôi sẽ không còn dịp gặp anh nữa.
Philip đến gặp tôi.
“Lenore thân yêu, thật là một chuyện đau lòng ghê gớm. Em đã phải trải qua những giờ phút hãi hùng nhất.”
“Anh đến thăm em như thế này thật tốt quá. Anh có thể cảm thấy không còn thiết gì nữa sau tất cả những hệ lụy của nó.”
“Vậy là em đã nghe chuyện về Drake?”
“Cassie kể cho em nghe…”
“Anh lấy làm xấu hổ về anh trai mình, em Lenore ạ.”
“Bao giờ em cũng biết là anh rất tốt với em.”
“Anh nghĩ anh ấy thật điên rồ… có lẽ đang ở cái tuổi thích nổi loạn. Nhưng chắc chắn Charles cần nhìn lại bản thân mình. Anh chắc là mọi chuyện rồi sẽ qua. Thực ra anh ấy cũng không phải là loại người xấu xa.”
Tôi mỉm cười với Philip. Anh là một trong những người nhìn cuộc đời với con mắt tuyệt đối trong trẻo và nghĩ ai cũng giống mình.
“Bây giờ em cảm thấy thế nào?”
“Em được bà ngoại chăm chút từng li từng tí, ai cũng có vẻ rất quan tâm. Thậm chí cả bà Dillon cũng bảo em cần ăn xúp.”
Anh cười rồi lại trở nên trang nghiêm. “Chắc là mọi chuyện thật đáng sợ đối với em.”
“Đúng thế. Và bây giờ em cũng vẫn còn ở đó nếu không có Willie và con Hạt Tiêu.”
“Willie thật quý hoá. Anh cho rằng Drake cảm thấy không thể ở lại sau trận cãi nhau dữ dội với Charles.”
“Và Charles cúng ra đi.”
“Tối nay.”
“Em e rằng mình đã làm hỏng mọi chuyện.”
“Chính là Charles, bởi vì anh ấy cư xử như một kẻ bất nhân. Anh không ngạc nhiên gì với cơn phẫn nộ của Drake và việc anh ấy đã phản ứng lại.”
“Anh có thể hình dung em cảm thấy như thế nào khi là trung tâm của mọi việc.”
“Trung tâm của sự việc là cái thói kiêu căng, tự phụ đáng ghét của Charles. Anh ấy đã có một bài học đắt giá.”
“Nhưng Drake đã bỏ đi.”
“Anh ấy không thể ở lại sau những gì đã xảy ra. Làm sao anh ấy có thể ở lại… với tư cách là bạn của Charles? Drake đã tẩn cho Charles một trận lại còn ném anh ấy xuống hồ nữa. Em đừng lo về những chuyên Charles sẽ làm. Chúng ta sẽ không gặp anh ấy một thời gian, anh cho là thế. Tất cả những gì em cần làm là hãy mau chóng bình phục.”
“Em đâu có bị bệnh… Chỉ hoảng sợ.”
“Chuyện này có thể làm bất cứ ai cũng bị chấn động. Em sẽ trở lại bình thường trong một vài ngày. Anh sẽ quan tâm chăn sóc em. Cassie và anh đã quyết định như thế. Cha anh sắp về nhà rồi. Ông muốn trao đổi với bọn anh về công việc một cách nghiêm túc. Tất nhiên ông muốn nói chuyện với Charles cũng như với anh.”
“Nhưng Charles đã đi rồi.”
“Anh không nghĩ anh ấy quan tâm nhiều đến công việc. Anh ấy là con cả, nhưng chính anh mới là người cha anh thật sự muốn trao đổi về công việc. Anh sẽ thuyết phục ông để cho anh kết thúc chuyện học tập ở giai đoạn này. Anh nóng lòng muốn bắt tay vào việc… ngay bây giờ.”
“Anh nghĩ là cha anh có cho phép không?”
“Rất có thể. Ông cảm thấy hài lòng là anh đã quan tâm đến công việc. Charles không được như thế và thường làm cha anh lo lắng. Nhưng ít nhất thì trong nhà cũng còn có anh.”
Thật vui sướng khi được nói chuyện với anh. Tôi quý trọng nhiệt tình, lòng tốt và sự trong sáng ở anh. Có một cái gì thật tự nhiên trong anh. Khi anh ra về rồi, tôi cảm thấy được an ủi nhiều lắm. Thật là một sự giải thoát khi biết Charles sẽ đi khỏi đây và tôi sẽ không phải giáp mặt hắn một thời gian dài.
Tôi còn chưa chuẩn bị sẵn sàng để gặp Julia. Saukhi Philip đi khỏi, Julia bước vào phòng tôi. Trông cô ta như thể đã khóc rất nhiều và vẫn còn rất giận dữ. Cô ta đứng phía cuối giường, gườm gườm nhìn tôi.
“Đó là lỗi của cậu. Suýt nữa thì anh Drake đã giết chết Charles.”
“Mình có nghe chuyện đó. Mình rất tiếc về chuyện đã xảy ra.”
“Cậu là người bắt đầu.”
“Tôi á? Tôi đâu có yêu cầu được nhốt trong hầm mộ.”
“Ai bảo cậu kể mọi chuyện. Cậu mách lẻo với Drake. Tôi đã đi guốc vào trong bụng cậu mà. Bao giờ cậu cũng cố gắng làm anh ấy chú ý đến mình… và cậu nghĩ đó là một cách tốt nhất để anh ấy quan tâm đến mình.”
“Julia, cậu đang nói cái gì vậy? Cậu nghĩ tôi muốn bị nhốt trong cái hầm mộ kinh khủng ấy? Tôi đã sợ đến phát điên lên. Thật rùng rợn… với tất cả những cỗ quan tài ấy.”
“Nhưng Drake đã đến cứu cậu, đúng không? Đó là điều cậu muốn.”
“Anh ấy đến là bởi vì Willie nghe tiếng kêu cứu của tôi và chạy đi tìm một ai đó. Tình cờ mà nó gặp Drake thôi.”
“Anh ấy bỏ đi mất rồi và tôi không còn hy vọng gì được gặp lại anh ấy nữa.” Môi Julia run bắn lên. “Chúng tôi đã hoà hợp với nhau như thế… và cậu đã phá hỏng hết.”
“Julia”, tôi nói một cách cứng cỏi. “Đó không phải là lỗi của mình. Đó là Charles…”
Cô ta chỉ nhìn tôi vẻ mặt nặng nề như đá đeo rồi chạy ra khỏi phòng. Tôi có thể thấy rằng cô ta chạy ra khỏi phòng để không oà khóc trước mặt tôi.
Tất nhiên tôi biết cô ấy đã nặng lòng với Drake rồi và bây giờ cô đổ lỗi cho tôi vì đã mất anh.