Tôi tự nguyện đến ngôi nhà trên phố Tradd sớm hơn giờ mà tôi biết những người còn lại sẽ đến. Tôi có việc cần làm và việc ấy có thể được diễn giải là ủy mị là đa cảm, vốn là cái mác tôi đã cố lẩn tránh kể từ khi tôi đủ lớn để hiểu rõ từ ấy nghĩa là gì.
Tôi đậu xe sát lề, rồi cầm cái túi nhỏ đặt trên chiếc ghế bên cạnh. Khi đến cổng, đã thành thói quen, tôi dừng lại để xem mình có nghe tiếng dây thừng quen thuộc hay không. Thỏa mãn vì những âm thanh mà tôi nghe thấy là những âm thanh vốn vẫn thường có trong vườn, tôi đẩy cổng và bước vào đến cửa chính. Sau khi lục tìm chìa khóa và vặn ổ khóa, cửa bật mở, và tôi được chào đón bằng những tiếp bíp bíp chói tai của hệ thống báo trộm mới, báo động rằng có một cánh cửa vừa bị mở ra.
Quay qua bảng số đặt sau cánh cửa, tôi nhập vào mã số có bốn con số, 1221 – rất dễ nhớ vì những con số này tương đương theo thứ tự với những chữ cái ABBA – và rồi tiếng ồn bực mình ấy ngưng ngay. Tôi vẫn chưa hoàn toàn bị thuyết phục rằng việc Jack cứ khăng khăng đòi lắp đặt hệ thống báo trộm càng sớm càng tốt là đã đảm bảo được an ninh cho tôi, nhưng vì đây sẽ là đêm đầu tiên tôi ở một mình trong nhà nên nó cũng giúp tôi cảm thấy yên tâm phần nào. Dĩ nhiên, kinh nghiệm cũng đã cho tôi thấy chẳng phải tất cả các mối nguy đều đến từ những sinh vật đang sống và còn thở.
Tôi đặt cặp da và túi xách bên trong cửa, rồi mang cái túi nhỏ vào phòng ăn. Phòng này được ngăn cách với phòng khách sang trọng bởi những cánh cửa to đùng bằng gỗ gụ đang mắc kẹt ở vị trí mở ra được một nửa, phồng rộp vì nước dột và thời gian. Tôi nghiêng người đi qua khe cửa mở, rồi bước đến chiếc tủ sách đồ sộ chiếm lĩnh cả bức tường và nằm giữa hai ô cửa sổ cao từ sàn lên đến trần nhà. Món đồ gỗ này có vẻ như đang chống chỏi cho giấy dán tường hoa hồng đang gục rũ xuống từ trần nhà. Giống như đôi vai xụi của một ông già, bản thân những bông hồng ấy cũng lấm tấm đầy nấm mốc và keo dán vàng vọt.
Cẩn thận, tôi đặt cái túi lên chiếc bàn ăn bằng gỗ anh đào có khảm họa tiết rồi lôi ra cái đĩa sứ mà ông Vanderhorst đã đưa cho tôi trong lần đầu tôi đến ngôi nhà này, nhớ lại những gì ông đã nói với tôi khi tôi muốn trả lại cái đĩa cho ông. Nó sẽ được về đoàn tụ với những chiếc đĩa còn lại sớm hơn là cô nghĩ đấy. Có phải khi ấy ông đã biết trước là mình sắp chết? Tôi hiểu ra rằng ông ấy đã chọn tôi làm nạn nhân của mình trong việc thừa kế cái gánh nặng cồng kềnh này ngay khi tôi thú nhận là đã nhìn thấy người phụ nữ bên ngoài ngôi nhà. Về việc ông ấy nhận thức rằng ngày cuối đời của mình đang cận kề, tôi đã có đủ kinh nghiệm để chấp nhận sự việc mà chẳng cần biết lý do, mặc dù không thể giải thích nổi vì ông ấy thực sự biết mình sắp chết. Dĩ nhiên, không việc nào trong số này khiến tôi tha thứ cho ông già dễ mến ấy, người đã trói buộc tôi vào cơn ác mộng tồi tệ nhất này.
Tôi trượt chân trên một miếng ván sàn. Có một vết cắt dài và sâu trông giống hệt như gót giày bốt đang túm lấy gót giày cao một tấc của tôi. Tôi tung hứng cái đĩa sứ lên không trung đến cả phút trước khi cuối cùng kịp hứng nó một cách an toàn trên ngực mình. “Tôi xin lỗi vì đã nghĩ xấu cho ngôi nhà của quý vị.” Tôi nói to đề phòng có ai đó đang nghe mình. Tôi chẳng có ý định ngã vào một cái lỗ nào đó trên sàn nhà rồi rơi vào đâu đó mà chẳng ai có thể tìm thấy tôi.
Một cách cẩn trọng, tôi giật mạnh cánh cửa tủ làm bằng gỗ và kính của chiếc tủ sách, và lại giật mạnh và mạnh hơn nữa cho đến khi đám chén đĩa sứ và pha lê bên trong bắt đầu kêu lanh canh phản đối. Với một cái giật mạnh cuối cùng, cánh cửa tủ cũng mở ra, và tôi hắt hơi vì đám bụi bay vào mặt, mang theo nó hương hoa hồng quen thuộc. Tôi phớt lờ cảm giác của tóc gáy đang dựng lên trong khi lướt nhìn trên các ngăn kệ, tìm nơi cất cái đĩa ăn tráng miệng cho đúng vị trí của nó. Tôi nhẹ nhàng đóng sập cửa tủ lại rồi đứng đấy một hồi lâu, nhìn vào tất cả những món đồ sứ và pha lê, và nhớ lại một điều khác nữa mà ông Vanderhorst đã nói với tôi về mẹ ông ta và những bông hoa hồng – một điều gì đấy về việc những bộ đồ sứ này đã được thiết kế theo những bông hồng vốn được đặt tên theo tên bà ấy như thế nào. Hoa hồng Louisa, tôi nhớ lại. Và rồi tôi chợt nhớ ra rằng mình chẳng phải loại người đa tình đa cảm và do đó bắt đầu tính toán xem giá trị của những món đồ này là bao nhiêu tiền. Tôi tự ghi vào trí mình là sẽ hỏi bà Trenholm về việc này khi nào bà ấy ghé chơi.
Có tiếng chuông trước nhà, và tôi bước ra mở cửa, để ý rằng hương hoa hồng cũng bắt đầu tan đi. Bà Houlihan đang đứng ngoài hiên nhà, mặc một chiếc váy hoa Hawaii và đang cầm một cái đĩa to đựng đồ ăn bằng hai bàn tay vẫn còn mang găng làm bếp.
“Xin lỗi tui đến hơi trễ tại vì tui phải chờ nướng cho xong món nui đút lò này.”
“Nui đút lò?” Tôi hỏi và mở rộng cửa để bà đi vào nhà.
“Ừ, nui đút lò.” Bà nhìn tôi từ đầu đến chân. “Cô chỉ còn da bọc xương thôi, vậy thì từ giờ tui muốn vừa lau chùi dọn dẹp nhà cửa cho cô, vừa nấu ăn cho cô nữa nghen.”
Tôi đóng cửa lại nhưng không khóa vì biết rằng chẳng mấy chốc thì Jack, Sophie và Chad sẽ đến nhà. Tôi đi theo người giúp việc đi qua phòng chơi nhạc nơi có chiếc đại dương cầm đã được đóng nắp lại còn các nốt nhạc thì đã rệu rã, rồi vòng ra nhà bếp. “Nhưng mà, bà Houlihan này, chẳng phải vì thiếu ăn…”
“Tôi hổng muốn cãi cọ gì với cô. Cô cần ăn uống cho đủ chất, và tôi muốn nấu cho cô. Nhất là bây giờ cô sẽ cần rất nhiều năng lượng để làm cái việc trùng tu ngôi nhà này.” Bà chỉ tay vào gian bếp màu hoàng kim và xanh màu trái bơ vốn vẫn chưa được tân trang kể từ thời Tổng thống Ford còn đương nhiệm.
“A, nhưng thật ra thì cháu đâu có dự định làm việc này một mình…”
Bà Houlihan cười khìn khịt rồi đặt món nui đút lò lên mặt bếp bằng ván ép nhựa. “Cái đó ai cũng nói được hết. Rồi khi nào họ béng việc thì họ lại ghiền như mấy đứa nhỏ ghiền xì ke mà ngày nay cô thường nghe đó.”
“Dì Houlihan à, tin cháu đi. Sẽ không có chuyện đó với cháu đâu. Cháu thậm chí còn chẳng thích nhà cổ nữa mà. Chưa bao giờ. Cháu chỉ muốn thực hiện nghĩa vụ của mình và sửa chữa ngôi nhà cho đàng hoàng lại rồi làm những việc khác thôi.”
Dì nhìn tôi với một bên mày nhướn lên theo cái kiểu khiến Scarlett O’Hara phải tự hào rồi quay lại với món nui đút lò, nhẹ nhàng gỡ lớp giấy bạc bọc bên trên khiến cho mùi nước xốt thịt và cà chua hầm rau thơm xộc vào mũi tôi. “À thì, để rồi coi. Bây giờ thì tui phải cho cô ăn, đừng có mà cãi tui nữa nghen cô Melanie.”
Tôi cảm thấy hơi có lỗi, nhưng tôi đã cố từ chối mà. Ðó chẳng phải lỗi của tôi khi bà ta thậm chí còn hách dịch hơn tôi nữa. “Thôi được, nhưng đó là do dì nài ép đấy nhé.”
“Tôi muốn nài ép. Ðó là điều tối thiểu tui có thể làm để cám ơn cô vì đã cho tui giữ công việc này sau khi Mít-tờ Vanderhorst tội nghiệp qua đời.”
Bà rướn người lên và hít hà hương thơm tuyệt vời đang len lỏi vòng quanh lớp giấy bạc. Tôi đang có những tình cảm ấm áp và yêu quý với người phụ nữ to bè này và còn định tăng lương cho bà nữa thì bà lại nói, “Và bởi vì tui nấu hơi nhiều nên tui có mời ba cô đến cùng ăn tối. Ổng nói ổng sẽ tới khoảng năm rưỡi.”
Sau cú sốc ban đầu, tôi mở miệng định nói với bà ấy rằng khả năng ba tôi thật sự có thể lê thân từ quán rượu để có mặt nơi đâu đó cho đúng giờ cũng giống như khả năng tôi bỗng trở nên thật sự yêu thích công việc phục chế đống gỗ xây đầy mối mọt này. Tiếng chuông cửa đã cứu vãn cho cả hai dì cháu tôi. Tôi cảm thấy bực mình khi bước ra mở cửa vì ai đó vừa nhấn chuông đã chẳng cứ đi thẳng vào nhà như tôi đã bảo. Sophie đang mặc một chiếc áo to quá khổ có in hình những cánh hoa xanh đỏ mắc trên người bằng một sợi dây treo đung đưa. Nó đã cố hết sức để trông không quá tệ về gu thẩm mỹ bằng cách mặc thêm vào chiếc quần tây đen rộng thùng thình, giống y như loại quần tôi đã mặc từ thời những năm tám mươi nhưng thậm chí tôi đã mang cho từ thiện thật lâu ngay trước khi nó trở nên lỗi mốt. Chân cô nàng mang đôi giày xăng đan loại ta có thể nhìn thấy nhan nhản khắp nơi và, vòng quanh đầu nó theo kiểu khăn cột tóc, là một chiếc khăn trắng đỏ mà trông rõ ràng là cùng tông màu với đôi mắt của nó.
Sophie hắt hơi thật to khiến con chó nhỏ giật bắn mình và nhảy ra khỏi vòng tay của nó rồi chạy đến đứng cạnh tôi. Nó ngước lên nhìn tôi bằng đôi mắt thật có hồn mà tôi biết là luôn có khả năng khiến con người mất cảnh giác. Tôi nhìn nó đầy ngờ vực rồi quay lại nhìn Sophie. “Sao thế? Cậu bị cảm à?”
Nó lắc đầu và lại hắt hơi một lần nữa, khiến con chó càng ép chặt vào chân tôi hơn. “Mình nghĩ có lẽ mình dị ứng với lông chó rồi.” Vì nó bị nghẹt mũi nên hầu hết các nguyên âm của nó nghe cứ lè nhè, còn phụ âm thì hoàn toàn biến mất khiến tôi phải mất một hồi mới nhận ra là nó đang nói gì.
Tôi nhìn xuống con chó nhỏ đầy kinh hoàng. Tôi không thể nào tự ép mình trở thành chủ nhân của con chó này được vì tất cả mọi thứ khác đã quá đủ tệ rồi. “Có lẽ cậu cần phải cho nó thêm một ít thời gian nữa thì mới biết chắc được.”
“Tin mình đi,” nó nói, nghe giống như “Thin mình đi”. “Mình biết dị ứng là gì mà, với lại thêm vụ mắt đỏ khiến Stephen King[4] cũng phải bái phục này thì chắc chắn là nó rồi.”
[4] Nhà văn chuyên viết truyện kinh dị nổi tiếng của Mỹ.
“Hay là cậu chỉ vừa bắt đầu dị ứng với thảm trong nhà hay thứ gì khác,” tôi gợi ý đầy hy vọng.
“Hay đấy, Melanie ạ, nhưng đã đến lúc cậu phải đối diện với sự thật là Ðại tướng Lee giờ đây là của cậu rồi đấy,” nó vừa nói vừa bước ra sảnh ngoài. “Anh chàng bé nhỏ này rất đáng yêu, một khi cậu thân với nó hơn. Chẳng có vấn đề gì cả – trừ phi cậu bị dị ứng với nó thôi.” Nó lại hắt hơi và ngắt quãng lời đang nói giữa chừng.
Tôi nghía nhìn con chó nhỏ. “Mình nghĩ lúc nào mình cũng có thể mang nó ra trại nuôi chó mèo vô gia cư, thế nào cũng có người đến nhận nuôi nó.”
“Cậu dám à?” Sophie nói, và tôi nghĩ mình vừa nhìn thấy đôi mắt to nâu của con chó mở tròn xoe đầy hãi hùng và căm phẫn. Thậm chí nó còn bước một bước ra xa tôi hơn.
“Mình chỉ đùa thôi mà,” tôi cảm giác mình nói câu ấy với con chó hơn là với Sophie, rồi đóng cửa lại và vặn cái nắm cửa, kiểm tra cái khóa một lần nữa để chắc chắn rằng chốt cửa không khóa lại. “Và tại sao cậu lại nhấn chuông cửa thế? Mình đã bảo cậu là mình sẽ để cửa mở cơ mà.”
“Cửa bị khóa khi mình đến. Có lẽ là cậu quên đấy.”
Tôi nhìn lại cánh cửa, bần thần. “Kỳ lạ thật. Mình nhớ rành rành đã mở khóa cơ mà. Và khi nãy mình cũng chẳng cần phải mở khóa cho cậu vào nữa.”
Trước khi nó kịp trả lời thì chuông cửa lại réo. Ðại tướng Lee phát ra một tiếng sủa để cho tôi biết có người đang đứng trước cửa, đề phòng tôi không nghe tiếng chuông. Bực mình, tôi nắm lấy cái nắm cửa và giật phăng để mở cửa rồi chuẩn bị mắng nhiếc người mới đến vì lại bấm chuông trong khi tôi đã để cửa không khóa, thì bị chựng vì cánh cửa đã bị khóa lại.
“Cái quỷ gì…?” Tôi lẩm bẩm rồi mở khóa cửa và đẩy mạnh cho nó mở ra thì thấy Jack và Chad đang trò chuyện như thể hai người là bạn cũ vừa gặp lại.
Tóc của Chad được buộc túm lại kiểu đuôi ngựa, và anh chàng đang ôm cái gì trông tựa như nệm tập yoga dưới cánh tay mình. Anh thấy tôi nhìn vào nó thì cười tươi. “Chẳng muốn để cái này trên xe vì sợ bị lấy cắp.”
“Ý kiến hay đấy,” tôi nói rồi đảo mắt nhìn ra vỉa hè trước nhà, tìm xem có cái xe mô tô Harley hay ít ra cũng là xe gì đó có gắn động cơ. Thay vào đấy, tôi lại chỉ thấy một vật thật đáng ngờ vì trông giống như chiếc xe đạp Schwinn, có cái giỏ xe ở phía trước và không có thắng tay.
“Xe đẹp đấy anh bạn,” Jack nói, chợt hiểu ra tiếng lóng của bên bờ Tây. Tôi lắc đầu rồi bước lùi lại để cho hai người đàn ông vào nhà.
Chad nhìn lên trần nhà và đánh rơi tấm nệm. “Chu choa, Melanie, ngôi nhà này của chị đấy à? Nhà này, kiểu như là, tuyệt cú mèo.”
Tôi tự nhắc mình trong tâm trí là sẽ giới thiệu vài lớp học về giao tiếp cho anh chàng trong kỳ nghỉ đông năm nay.
Chad tiếp tục xoay lòng vòng để nhìn ngắm mọi thứ. “Tuyệt quá. Giống như được học lớp kiến trúc mà chỉ cần đứng tại đây ấy. Cách đây vài năm tôi có giúp một người bạn ở San Francisco phục chế ngôi nhà cổ của anh ta ở khu Marina để được ở trọ miễn phí. Việc khó nhọc chứ chẳng chơi, nhưng đúng là từ thuở cha sanh mẹ đẻ tôi chưa bao giờ được vui đến thế.”
“Thế ra anh cũng có biết nhiều về công việc phục chế nhà cổ à?” Tôi hỏi mà bản thân tôi cũng nghe được sự hớn hở trong giọng nói của mình.
Anh chàng nhún vai. “Tôi chẳng thể nói là mình biết rất nhiều, nhưng tôi có biết cách cạo sơn và trát vữa tường. Và tôi rất giỏi trong việc sử dụng máy đánh bóng sàn gỗ.”
Khi tôi đang mường tượng đến việc bổ sung anh chàng vào bản kế hoạch làm việc của mình thì Jack đã chọc vào lưng tôi một cái. Tôi bực mình, trừng mắt nhìn Jack.
Rồi tôi quay sang Chad. “Chad này, tôi muốn giới thiệu anh với người này.”
Nhưng khi tôi quay lại Sophie thì thấy nó đang lắc đầu quầy quậy. Tôi thích cái ý nghĩ rằng đó là vì nó xấu hổ vì bộ đồ đang mặc, nhưng tôi biết đó là một lý do hoàn toàn khác. Tôi phải thú nhận rằng với đôi mắt đỏ ngầu và cái mũi sụt sịt ấy thì trông nó chẳng ưa nhìn chút nào, mặc dù tôi khá chắc rằng tất cả những việc ấy chẳng thành vấn đề gì đối với Chad.
Chad đã bước đến Sophie. “Trông chị hơi quen. Có phải sáng nay chị đã đến lớp yoga của tôi không?”
Sophie hít mũi rột rẹt rồi gật đầu, bộ dạng trông thật thảm hại. “Phải, là tôi đấy.”
“Chị có thích lớp tôi dạy không? Tôi đi dạy cũng chưa được lâu lắm, cho nên, chị biết đấy, thật khó mà biết liệu học viên có thoải mái và thích lớp của mình hay không.”
Nó lại gật đầu nhưng trông vẫn rất khổ sở, rõ ràng là tôi không thể tưởng tượng được nó có thể bị dị ứng nghiêm trọng như thế này. Giờ thì tôi chẳng nghe thấy tiếng ngân vang của chuông nhà thờ cho đám cưới hai người nữa. Thay vào đấy tôi lại tưởng tượng ra tiếng rơi đánh phạch của đôi tay lỗi nhịp trên phím đàn. “Ðó là lớp học tôi thích nhất từ trước đến nay đấy.”
“Thật vui được nghe điều đó.” Anh chàng lục tìm trong túi sau và lôi ra một chiếc khăn tay bằng lanh trắng đã được giặt là cẩn thận. Jack và tôi liếc nhìn nhau trong khi Chad đưa chiếc khăn ấy cho Sophie. Một cách miễn cưỡng, nó nhận lấy chiếc khăn và chậm mắt, rồi nó hỉ mũi rèn rẹt vào chiếc khăn nghe y như tiếng một con ngỗng báo hiệu cho những con cùng đàn trong bầy đang bay theo hình chữ “v”.
Chad ngồi xổm xuống và gãi vào tai của Ðại tướng Lee khiến nó có vẻ rất biết ơn. “Dị ứng lông chó, hử? Hồi còn nhỏ thì tôi cũng bị, nhưng kể từ khi tôi chỉ ăn đồ ăn không có hóa chất phụ gia thì tôi thấy mình không còn bị dị ứng nhiều với những thứ vốn đã từng khiến tôi nhảy mũi trước đây.”
Khi nghe anh chàng vừa nói một câu có dùng từ “không có hóa chất phụ gia” trong ấy, tôi nghĩ rằng Sophie có lẽ sẽ quỳ gối xuống mà cầu hôn anh ta mất. Nhưng không, lúc này trông nó lại càng khổ sở hơn bao giờ hết.
Tôi bước đến. “Sophie à, mình muốn giới thiệu cậu với một khách hàng của mình, Chad Arasi. Anh ấy vừa dọn đến thành phố mình và sẽ dạy môn lịch sử hội họa ở trường cậu. Chad, xin giới thiệu với anh đây là bạn thân của tôi, Tiến sĩ Sophie Warren, là giảng viên môn bảo tồn kiến trúc cổ. Thật là thú vị phải không? Hai người là đồng nghiệp đấy nhé!” Lần này giọng của tôi nghe hồ hởi như các cô gái cổ vũ cho đội bóng nhà trong những giây cuối cùng của hiệp cuối đến nỗi tôi chẳng khó chịu gì khi bị Jack chọc vào lưng một lần nữa.
Chad đưa tay ra để bắt tay nhưng lại thả tay xuống khi Sophie đưa tay lên và vẫy chiếc khăn mùi soa lúc này đã bị vò nhàu nát. “Tuyệt cú mèo. Chị là đồng nghiệp đầu tiên mà tôi gặp đấy. Thế là chị có thể dắt tôi đi xem trường và cho tôi vài lời khuyên và những thứ cần biết khác.”
“Phải, rất sẵn lòng,” nó nói lẩm bẩm với sự hăng hái của một người xung phong đi đổ rác. Khi trời đang mưa.
Chiếc đồng hồ quả lắc trong phòng khách điểm ba giờ, nhắc nhở tôi về lịch làm việc. Tôi vỗ hai tay vào nhau. “Ðược rồi, nào mọi người nghe này. Vì bây giờ tất cả chúng ta đều đã ở đây, để tôi điểm qua lịch làm việc cho chiều nay nhé. Sophie, mình cần cậu hoàn tất việc kiểm kê và cho mình biết cần phải bắt đầu làm việc gì trước. Mình đã gặp một người thầu làm mái nhà, và mình cũng có lịch hẹn gặp một người khác nữa vào trưa mai, nên việc này đã được lo xong. Còn phải làm gì tiếp theo thì mình hoàn toàn không có một ý niệm nào cả. Mình mong là cậu sẽ cho mình danh sách những thứ có thể cần đến để mình đi mua.”
“Yo – tôi có thể giúp Sophie việc ấy.” Chad xoa hai tay vào nhau một cách chờ đợi.
Mắt Sophie mở to. “Tôi tưởng Melanie sẽ đưa anh ra ngoài xem nhà vào trưa nay chứ.”
“Phải, đúng là mình sẽ làm việc ấy.” Tôi liếc nhìn đồng hồ. “Và nếu mình không đi mau thì sẽ lỡ mất cuộc hẹn đầu tiên đấy.”
Chad hết liếc nhìn tôi lại đến Sophie, rồi ngẩng lên lớp giấy dán tường đã bong rộp. “Chẳng biết sao nữa, Melanie ạ. Có vẻ như Sophie thật sự cần tôi giúp hôm nay đấy. Bên cạnh đó, tôi nghĩ chắc là chiều nay tôi cũng không muốn đi xem cái nhà kho như mình đã định, bởi vì nếu phải đạp xe từ nơi ấy đến trường thì xa quá.”
Tôi thở dài, cố giấu vẻ bực bội. Dù sao đi nữa, dường như tôi lại có người giúp thêm một tay, ít ra là cho cả buổi chiều hôm nay. “Ðược thôi,” tôi đành phải nói thế. “Ðể tôi xem có nhà nào vừa túi tiền của anh và lại gần trường rồi tôi sẽ gọi cho anh vào ngày mai nhé.”
Chad giơ hai ngón cái lên với tôi và mỉm cười khoe hàm răng trắng lóa cả mắt. “Kế hoạch vậy đi nhé.” Anh chàng quay qua nhìn Sophie, còn nó thì lại cười thiểu não. Hôm nào tôi phải ngồi lại và nói chuyện với nó mới được. Trong trí tôi, hai người lẽ ra đã cưới nhau lâu rồi, và tôi chẳng hiểu nổi vì sao Sophie lại không nhìn ra được việc ấy nữa.
Có tiếng của một vật nào đó có vẻ nhỏ nhưng nằng nặng rơi xuống sàn gỗ trong phòng khách. Ðại tướng Lee đã ngủ gục dưới chân Chad tự đời nào, tôi vẫn còn nghe tiếng của bà Houlihan trong bếp, và toàn bộ chúng tôi thì vẫn còn ở đại sảnh. Jack chắc đã có cùng suy nghĩ như bọn tôi khi anh ra dấu cho cả bọn đứng sau lưng anh, còn anh thì tiến vào phòng khách. Từ nơi thuận lợi mà anh đang đứng là ở bậc cửa, anh có thể nhìn rõ khắp cả căn phòng. Rồi anh thẳng người và tôi đi theo anh khi anh bước về chiếc đồng hồ quả lắc trước khi cúi người xuống và cầm lên vật gì đó từ dưới sàn.
Ðó là bức hình cũ của ông Vanderhorst chụp chung với mẹ của ông ấy đang nằm trên chiếc ghế chơi đàn piano – cũng là bức hình mà tôi nhớ đã thấy nằm trên bàn cạnh chiếc tràng kỷ. Phía bên kia căn phòng! Tôi di chuyển qua phía Jack đứng để cầm lấy bức hình từ tay anh, và chính lúc đó thì tôi để ý có hương hoa hồng nồng nàn. “Anh có ngửi thấy mùi đó không?” Tôi hỏi.
Jack nhíu mày. “Mùi gì?”
Chad và Sophie đã đi theo chúng tôi vào phòng khách rồi Chad ngửi ngửi dưới nách mình. “Mùi gì mà chị vừa ngửi ra ấy, chẳng phải là tôi đâu.”
Tôi thấy Sophie đang cố giấu một nụ cười. “Ðừng bận tâm,” tôi nói. Tôi nhìn xuống bức chân dung đang cầm trên tay có hình người mẹ và đứa con trai và cảm nhận được hơi thở lành lạnh trên má mình. Tôi nhanh chóng liếc nhìn lên, và bắt gặp ánh mắt của Jack.
“Cái gì thế?” Jack hỏi lặng lẽ, đôi mắt anh có vẻ đang dò xét.
Chúng tôi nhìn nhau một hồi lâu rồi tôi quay mặt đi. “Không có gì,” tôi nói. Tôi mỉm cười với Sophie và Chad. “Dì Houlihan chắc là đã đặt nó trên đỉnh chiếc đồng hồ này hay đâu đó trong khi dì ấy phủi bụi đồ đạc, và quên bẵng nó đi. Có lẽ sự rung động khi chiếc đồng hồ điểm chuông đã làm nó rơi xuống.”
Tôi cảm thấy có ba cặp mắt đang nhìn mình, nhưng chẳng ai nói gì về việc chiếc đồng hồ ấy cao bao nhiêu hoặc thậm chí về việc làm thế nào mà một cú ngã như thế lên mặt sàn gỗ cứng lại không làm vỡ tấm kính của khung hình. Tôi dụi mặt kính vào váy để phủi bụi trên ấy và đặt nó lại vị trí ban đầu cạnh chiếc tràng kỷ.
Khi tôi quay đi, Sophie đang đứng nhón chân và nhìn vào mặt trước chiếc đồng hồ cổ. “Cậu có biết đây là đồng hồ hiệu William Johnstone không hả Melanie?”
Tôi lắc đầu. “Ông ấy là ai?” Tôi chẳng biết nhiều về đồng hồ cổ, và tôi cũng vui vẻ với việc ấy.
Sophie lắc đầu. “Gần như là nhà làm đồng hồ lỗi lạc nhất nước trong khoảng thời nội chiến. Các sản phẩm của ông ấy hiện không còn ở đây bao nhiêu, vốn là việc kỳ lạ vì ông ấy sinh ra ở Charleston này. Nhưng tốc độ làm việc của ông ấy cũng khá chậm, đó cũng có thể là lý do tại sao đồ ông ấy làm ra hiện không còn nhiều nữa.”
Jack nhìn vào phông cảnh thủy quân được sơn trên mặt trước của chiếc đồng hồ. “Tôi cũng có nhớ là ông ấy từng là sĩ quan kỵ binh của phe miền Nam. Và cũng là một người bạn tốt của ông Vanderhorst của cô đấy, Mellie ạ.”
Sophie kéo chiếc tay cầm bằng đồng trên cánh cửa kính bao lấy mặt trước đồng hồ. “Ðúng là lạ thật,” nó nói và căng mắt nhìn cao hơn.
“Gì thế?” tôi hỏi, liếc qua vai nó để nhìn theo.
Nó chỉ vào bức hình bán nguyệt lấp đầy một phần tư góc trên của mặt đồng hồ. “Tất cả những đồng hồ Johnstone mà mình đã thấy hoặc nghiên cứu, thì trên mặt của nó luôn là những phông hình đồng quê. Ðó cũng giống như thương hiệu riêng của ông ấy. Mẹ ông ta người Hòa Lan, và trước thời chiến tranh thì họ luôn nuôi bò sữa trong trang trại của họ ở Asley. Nhưng cái này thì…” Sophie lắc đầu. “Hình của mặt đồng hồ này mô tả một trận đánh đã diễn ra ở hải cảng Charleston, và cái bộ bản đồ nhỏ quay nửa vòng tròn này chỉ thời gian ngày và đêm trông giống như một dãy các lá cờ hiệu đặt thẳng một hàng. Mình không biết là nó có ngụ ý muốn nói gì không.” Rồi nó thả gót xuống và đối diện với mọi người. “Bức hình này quay trọn một vòng mỗi hai mươi bốn tiếng, do đó nếu chúng ta có thể chụp hình cách mỗi ba tiếng thì sẽ xem được tổng thể bức hình.”
Tôi lại cảm nhận ba cặp mắt nhìn vào mình một lần nữa. “Mình đi ngủ lúc chín rưỡi, vào cuối tuần thì là mười giờ – tối đa. Ngoài ra, với hiện trạng của ngôi nhà này, thì việc ấy cần được đặt vào hàng cuối cùng trong danh sách ưu tiên những việc cần làm.”
Jack hắng giọng. “Bởi vì tôi thích những câu chuyện kỳ bí, và tôi cũng là con cú đêm nên tôi tình nguyện ngủ trên ghế tràng kỷ để chụp hình.” Anh cười một cách ngây thơ với tôi. “Thậm chí cô sẽ còn không biết là tôi có mặt ở đây nữa đấy.”
“Nghi lắm,” tôi nói và chau mày nhưng lại cảm thấy có một luồng hứng khởi không lẫn vào đâu được chạy dài lên sống lưng mình. Tôi hoàn toàn chẳng thích thú gì với việc ở đây một mình vào ban đêm, và sự có mặt của anh ta – hay sự có mặt của bất kỳ ai khác – tôi cố tự thuyết phục mình – sẽ luôn luôn được chào đón. “Nhưng cứ việc nếu anh muốn. Và nhớ là tôi sẽ rất khó chịu nếu giấc ngủ của mình bị phá rối đấy.”
Jack nháy mắt. “Và việc ấy thì có gì khác đi nào?”
Sophie cười khìn khịt trong khi Chad thì ho vào bàn tay mình. Tôi quẳng cho cả hai một cái nhìn sắc lạnh.
Sophie bắt đầu đi giật lùi ra khỏi phòng và Chad đi theo nó. “Mình cần phải bắt tay vào việc ngay với cái vụ kiểm kê này. Sẽ mất khá nhiều thời gian đấy.”
Chad vẫy nhẹ chào chúng tôi. “Hẹn gặp sau nhé, bồ tèo,” anh chàng nói rồi biến mất cùng Sophie.
Tôi vừa định phản đối việc bị gọi là “bồ tèo” thì Jack đã kéo sự chú ý của tôi về phía chiếc đồng hồ. Anh đã kéo màn cửa sổ sang bên cạnh nó, để lộ ra những vạch kẻ bằng bút chì mà tôi đã nhìn thấy trong lần viếng thăm đầu tiên và gặp gỡ ông Vanderhorst.
“MBG – đây chắc chắn phải là cái biểu đồ tăng trưởng mà cô đã kể cho tôi nghe.”
Tôi đứng cạnh anh, tận hưởng mùi nước hoa cologne của anh nhưng lại cố hết sức không để lộ ra điều đó. “Phải, thật dễ thương, nhỉ?”
“Cô đã nói chúng là chữ viết tắt cho cái gì?”
Anh đứng rất gần tôi trong không gian rộng lớn này, và tôi cố tập trung nhìn vào cái biểu đồ. “Anh chàng mẹ yêu nhất. Ông Vanderhorst nói rằng mẹ ông đã từng gọi ông như thế.”
Tôi cảm giác anh đang gật đầu. “Chẳng phải là cách mà một người mẹ gọi đứa con mà bà có ý định bỏ rơi.”
“Tôi cũng nghĩ thế.” Tôi vuốt bàn tay vào nơi có những con chữ nhỏ. “Tôi dự định sẽ cho bao phủ toàn bộ phần này của bức tường bằng nhựa trong để bảo quản nó trong thời gian sơn tường.”
Anh không nói gì, nên khi tôi quay mặt lại thì đã quá muộn khi nhận ra rằng chúng tôi hầu như sắp chạm vào mũi của nhau.
“Cẩn thận nào, Mellie,” anh nói nhỏ nhẹ. “Người ta có thể nghĩ rằng cô đang bắt đầu trở nên đa cảm quá đấy.”
Tôi cảm thấy xốn xao đồng thời gần như nghẹt thở. Tôi bước lùi lại một bước. “Tôi không hề trở nên đa sầu đa cảm gì cả – chỉ là thực dụng thôi. Bảo quản phần lịch sử ấy của ngôi nhà có thể làm tăng giá trị của nó.”
Ðôi mắt anh tiếp tục xoáy vào mắt tôi nhưng anh chẳng nói gì. Anh không phải nói gì cả.
Tôi bắt đầu bước ra xa. “Tôi phải quay lại văn phòng để gọi vài cuộc và sẽ quay lại để giúp anh soạn đồ trên gác mái.”
Tôi sắp bước ra khỏi phòng thì anh nói, “Tạm biệt, Mellie.”
Tôi đối diện anh, vui mừng vì có cái gì đó để trút giận vào. “Jack, tôi nhớ mình đã nói với anh, rằng tôi không thích được gọi là Mellie.”
Hất mạnh mớ tóc ra sau, tôi xoay một vòng rồi hướng thẳng ra cửa, hài lòng vì được nói những lời cuối. Tôi suýt đóng cửa lại thì nghe tiếng Jack nói với ra, “tạm biệt, bồ tèo.”
Tôi sập mạnh cánh cửa, rồi đưa tay che miệng để không ai có thể nghe tiếng tôi cười.