Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Người Dublin

Chương 11

Tác giả: James Joyce

NHỮNG BẢN SAO

Một hồi chuông vang lên giận dữ và, khi Miss Parker bước lại nhấc máy, một giọng Bắc Ireland the thé bực tức cất lên.

– Cho gọi ngay Farrington lên đây!

Miss Parker quay lại máy chữ của mình, nói với người đàn ông đang ngồi viết ở bàn bên cạnh.

– Ngài Alleyne muốn gặp anh trên gác.

Người đàn ông lẩm bẩm rất khẽ “Gã trời đánh!” và đẩy ghế đứng dậy. Khi đứng anh ta trông khá cao lớn. Mặt anh ta nhão nhoẹt, màu rượu chát, lông mày và ria hoe vàng, mắt hơi lồi và lòng trắng đục ngầu. Anh ta nhấc mặt quầy lên, đi qua đám khách hàng, nặng nề lê bước ra khỏi phòng.

Anh ta bước nặng nhọc lên cầu thang đến tầng hai, chỗ cánh cửa treo tấm biển bằng đồng đề chữ Mr Alleyne. Đến đây anh ta dừng lại, phì phò bực bội, và gõ cửa. Giọng the thé kêu lên.

– Vào đi!

Người đàn ông bước vào căn phòng của Mr Alleyne. Cùng lúc đó Mr Alleyne, một người đàn ông nhỏ thó đeo kính gọng vàng trên một khuôn mặt nhẵn nhụi, ngẩng phắt đầu lên từ đống giấy tờ. Cái đầu trông cũng hồng hào và trơn tru đến nỗi trong như một quả trứng lớn ngự trên đống giấy. Mr Alleyne không bỏ phí một giây.

– Farrington? Thế này nghĩa là sao? Tại sao lúc nào tôi cũng phải than phiền vì anh vậy? tôi có thể hỏi anh tại sao anh chưa chép lại bản hợp đồng vụ Bodley và Kirwan không ? tôi đã bảo anh là phải xong trước bốn giờ kia mà.

– Nhưng ngài Shelly nói là, thưa ngài…

– Ngài Shelly nói là, thưa ngài… Làm ơn lắng nghe những gì tôi nói chứ không phải những gì ngài Shelly nói, thưa ngài. Lúc nào anh cũng có lý do này nọ để trốn việc . Tôi xin được nói với anh rằng nếu hợp đồng đó không được chép lại xuống trước tối nay tôi sẽ mang chuyện này báo cáo lên ngài Crosbie…Anh có nghe tôi nói không đấy?

– Vâng, thưa ngài.

– Anh có nghe tôi nói không đấy? À, còn một vấn đề nhỏ nữa! Nói với anh thế này thà nói với đầu gối còn hơn. Tôi nói cho anh hiểu chỉ một lần này thôi rằng anh có nửa tiếng ăn trưa chứ không phải là một tiếng rưỡi. Anh muốn ăn bao nhiêu món cơ chứ? tôi muốn biết lắm… Anh có nghe tôi nói không đấy?

– Vâng, thưa ngài.

Mr Alleyne lại cúi đầu xuống đống giấy tờ.người đàn ông nhìn chằm chằm vào cái sọ bóng mượt đang hướng xuống hồ sơ vụ Crosbie & Alleyne, đánh giá độ mỏng của nó. Một cơn giận bùng lên thắt nghẹn cổ họng anh ta mấy giây rồi tan dần, để lại một cảm giác khát cháy. Người đàn ông nhận ra cảm giác đó và cảm thấy tối nay nhất định anh ta phải uống đã đời. Đã hết nửa tháng, nếu anh có thể chép xong kịp bản hợp đồng. Mr Alleyne có thể ký giấy cho anh ta lấy lương. Anh ta đứng im, nhìn chằm chằm vào cái đầu ngự trên đống giấy tờ. Đột nhiên, Mr Alleyne lục tung đống giấy, tìm cái gì đó. Rồi, như thể đến giờ ông ta mới nhận ra người đàn ông vẫn ở đó từ nãy, ông ta lại ngẩng phắt đầu lên, nói.

– Sao? Anh định đứng đó cả ngày đấy hử? Thề chứ, Farrington, anh coi thường mọi thứ quá đấy!

– Tôi đang chờ để xem…

– Tốt lắm, anh không cần chờ để xem cái gì cả.xuống làm việc của anh đi.

Người đàn ông bước nặng nhọc về phía cửa và khi ra khỏi căn phòng, anh ta nghe thấy Mr Alleyne quát đàng sau rằng nếu bản hợp đồng không được chép xong trước tối nay thì ngài Crosbie sẽ được báo cáo mọi chuyện .

Anh ta trở lại bàn mình trong căn phòng tầng dưới và đếm số trang còn lại phải chép. Anh ta nhấc bút lên và nhúng nó vào lọ mực, nhưng lại tiếp tục nhìn đờ đẫn vào những dòng chữ vừa viết lúc trước. Trong tất cả trường hợp ngài Bernard Bdley buộc….Buổi tối đang đến gần và trong mấy phút nữa thôi người ta sẽ thắp đèn gas, lúc đó anh ta có thể viết. Anh ta thấy phải làm dịu cơn khát trong cổ họng. Anh ta đứng dậy rời khỏi b`n và lại nhấc mặt quầy lên như lúc trước, đi ra khỏi phòng. Khi ngang qua viên thư ký trưởng, ông ta nhìn anh dò hỏi.

– Không có chuyện gì đâu, ngài Shelly – người đàn ông nói, ra dấu diễn tả mục đích ra ngoài của mình.

Viên thư ký trưởng liếc nhìn giá để mũ, nhưng thấy trên giá vẫn còn đầy, ông ta không nói gì cả. Vừa ra đến hành lang người đàn ông rút khỏi túi áo một chiếc mũ dạ, đội lên đầu và chạy thật nhanh xuống cái cầu thang ọp ẹp. Ra đến phố anh ta đi lén lút sát bên lề đường về phía góc phố và đột nhiên rẽ vào trong một cánh cửa. Giờ anh ta đã an toàn trong căn phòng nhỏ để mở của quán O’Neill, và thò gương mặt đỏ rực của mình, không biết là đỏ màu rượu chát hay màu thịt bò vào ô cửa nhỏ mở vào quầy rượu, gọi to:

– Này Pat, mang cho tớ một choác porter nào, anh bạn.

Người phục vụ mang cho anh ta một ly bia porter. Người đàn ông dốc ừng ực hết một hơi rồi hỏi xin ít hạt thì là . Anh ta đặt đồng xu lên mặt quầy và để mặc người phục vụ dò dẫm tìm nó trong bóng tối, rút lui khỏi quán cũng với vẻ lén lút như lúc đến.

Bóng tối, cùng với làn sương dày đặc, đang bắt đầu phủ lên buổi hoàng hôn tháng hai và đèn đường trên phố Eustace đã bật sáng. Người đàn ông đi men theo những ngôi nhà cho đến khi tới cửa văn phòng, tự hỏi liệu anh ta có thể chép xong kịp giờ không. Trên cầu thang, một mùi nước hoa ẩm ướt hăng hắc sộc vào mũi anh ta, rõ ràng Miss Delacour đã đến khi anh ta đang ở quán O’Neill. Anh ta vò chiếc mũ đút lại vào túi và bước vào văn phòng, nét mặt làm ra vẻ lơ đãng.

– Ngài Alleyne cho gọi anh mãi – viên thư ký trưởng nói nghiêm khắc – Anh vừa đi đâu vậy?

Người đàn ông nhìn nhanh hai khách hàng đang đứng trước quầy như thể muốn ám chỉ sự có mặt của họ làm anh ta không tả lời được. Bởi cả hai người khách đều là đàn ông, viên thư ký trưởng tự cho phép mình cười phá lên.

– Tôi biết tỏng cái trò đấy rồi – ông ta nói – Nhưng năm lần trong một ngày thì cũng hơi..Thôi, anh nên tề chỉnh lại đi rồi mang tập sao thư từ vụ Delacour lên cho ngài Alleyne.

Bài diễn văn ở ngay chốn đông người, rồi chuyện phải chạy hộc tốc lên gác, và chỗ bia anh ta vừa vội vàng nuốt chửng, tất cả làm tâm trí người đàn ông rối bời và khi ngồi xuống bàn mình để tìm cái đang được yêu cầu, anh ta nhận ra chuyện phải chép xong bản hợp đồng trước năm giờ rưỡi sao mà xa vời. Buổi tối ẩm ướt tối tăm đang đến gần và anh ta chỉ muốn sao tối nay được tới quán rượu, uống với bạn bè trong ánh đèn gas rực rỡ và tiếng chạm ly lanh canh. Anh ta lấy tập thư từ vụ Delacour và rời khỏi phòng. Anh a hy vọng Mr Alleyne sẽ không phát hiện ra việc bị thiếu hai lá thư cuối.

Mùi nước hoa ẩm ướt hăng hắc rải suốt đường đi lên phòng Mr Alleyne. Miss Delacour là một phụ nữ trung niên có vẻ bề ngoài của người Do Thái. Mr Alleyne bị đồn là luôn tỏ ra dịu ngọt với bà ta hay tiền của bà ta thì cũng không rõ. Bà ta rất hay đến văn phòng và mỗi lần đến thì đều ở lại rất lâu. Giờ đây bà ta đang ngồi bên bàn của ông ta, sực nức nước hoa, tay vuốt vuốt cán ô và gật gật chiếc lông chim lớn gài trên mũ. Mr Alleyne đã quay ngược ghế của mình lại để ngồi đối diện với bà ta và vui vẻ gác bàn chân phải của ông ta lên đầu gối bên trái. Người đàn ông đặt tập thư từ lên bàn và cúi chào kính cẩn, nhưng cả Mr Alleyne lẫn Miss Delecour đều không thèm liếc mắt nhìn cái cúi chào ấy. Mr Alleyne gõ gõ một ngón tay lên tập thư rồi bật tách tách nó về phía anh ta như để nói được rồi, được rồi, giờ anh có thể đi.

Người đàn ông trở lại căn phòng tầng dưới và ngồi xuống bàn. Anh ta nhìn chăm chú vào dòng chữ dở dang: trong tất cả các trường hợp ngài Bernard Bodley buộc…và nghĩ đúng là kỳ cục khi ba từ cuối cùng lại bắt đầu cùng một phụ âm. Viên thư ký trưởng bắt đầu giục miss Parker, nói cô sẽ không bao giờ đánh máy xong đống thư để kịp gửi bưu điện mất. Người đàn ông lắng nghe tiếng lạch xạch của cái máy một lúc rồi bắt đầu chép nốt. Nhưng đầu óc anh ta cứ rối tung lên và tâm trí anh ta mơ tưởng đến ánh rực rỡ và tiếng lanh canh của quán rượu. Tối nay đúng là một tối sinh ra để dành cho rượu punch nóng. Anh ta tiếp tục đánh vật với tờ giấy, nhưng khi đồng hồ điểm năm giờ anh ta vẫn còn tận mười bốn trang nữa phải chép. Chết tiệt! Anh ta sẽ không xong kịp mất. Anh ta chỉ muốn được chửi rủa thật to, được đấm xuống thứ gì đó thật mạnh. Anh ta tức giận đến nỗi đã viết nhầm Bernard Bodley thành Bernard Bernard và lại phải viết một tờ khác.

Anh ta cảm thấy giận đến nỗi có đủ sức đập tan cái văn phòng này chỉ bằng mấy cái quờ tay. Cơ thể anh ta muốn được làm một cái gì đó ghê gớm, được bùng thoát ra ngoài và đập phá. Tất cả những thứ tầm thường anh ta vẫn phải làm từ trước đến nay làm anh ta giận điên lên. Anh ta có thể hỏi riêng người thủ quỹ nhờ ứng trước chút tiền không? không, người thủ quỹ chẳng được tích sự gì, chẳng được tích sự chết tiệt gì cả, hắn ta sẽ không tạm ứng gì hết…Anh ta biết sẽ gặp được bọn bạn: Leonard, O’Halloran và Nosey, và Flynn ở đâu. Phong vũ biểu cảm xúc của anh ta điểm đến vạch nổi loạn.

Trí tưởng tượng làm anh ta đắmchìm đến nỗi tên mình vang lên tận hai lần anh ta mới đáp lại. Mr Alleyne và Miss Delacour đang đứng bên ngoài quầy và tất cả đám thư ký đều đã quay hết lại chờ xem điều gì sắp xảy ra. Người đàn ông đứng dậy khỏi bàn. Mr Alleyne bắt đầu một tràng chửi rủa, bảo có hai lá thư bị thiếu. Người đàn ông trả lời anh ta không biết gì về chuyện đó, rằng anh ta đã chép lại tất cả đống thư từ y như bản gốc. Tràng chửi rủa tiếp tục, nó nghe thật mỉa mai và độc địa đến nỗi người đàn ông phải cố gắng lắm mới kìm giữ được nắm đấm của anh ta không hạ trên cái đầu của gã lùn đang ở trước mặt.

– Tôi không biết gì về hai lá thư khác hết – anh ta nói ngây độn.

– Anh-không-biết-gì-hết . Tất nhiên là anh không biết gì hết – Mr Alleyne nói – Nói xem nào – ông ta tiếp sau khi đã liếc nhìn chờ sự hưởng ứng từ quý bà bên cạnh – anh cho tôi là thẳng ngu hả? Anh cho tôi là thẳng đại ngu hả?

Người đàn ông nhìn nhanh từ khuôn mặt của quý bà sang cái đầu hình quả trứng bé xíu rồi ngược lại, và, gần như trước khi anh kịp nhận ra, lưỡi anh ta đã tìm được một khoảnh khắc thuận lợi:

– Tôi không nghĩ rằng, thưa ngài – anh ta nói – Câu đấy mà hỏi tôi thì phù hợp cho lắm.

Tất cả đám thư ký ngừng thở. Ai nấy đều kinh ngạc (ngay cả tác giả của câu mỉa mai cũng không kém kinh ngạc) và Miss Delacour, một người mạnh mẽ dễ gần, nở một nụ cười lớn. Mr Alleyne đỏ rần đến tận chân tóc và miệng của ông ta méo xệch trong cơn giận dữ của một anh lùn. Ông ta giơ nắm đấm lên mặt người đàn ông cho đến khi nó rung lên bần bật như tay nắm máy chạy điện:

– Đồ lưu manh hỗn láo! Đồ lưu manh hỗn láo! Tôi sẽ không tha cho anh đâu! Cứ chờ đấy! Anh sẽf xin lỗi tôi vì sự hỗn láo của anh hoặc anh sẽ bị đuổi việc ngay lập tức. Anh sẽ bị đuổi việc, tôi nói cho mà biết , hoặc anh phải xin lỗi tôi!

Anh ta đứng khuất dưới cánh cửa đối diện văn phòng, chờ xem người thủ quỹ có đi ra một mình không. Tất cả đám thư ký đã ra hết và cuối cùng người thủ quỹ bước ra cùng viên thư ký trưởng. Bây giờ có mà nói lời nào với hắn ta cũng chẳng ích gì vì có viên thư ký trưởng ở đó. Người đàn ông cảm thấy tình thế của mình thật không gì thảm hại hơn. Anh ta đã buộc phải hèn hạ xin lỗi Mr Alleyne vì1 sự hỗn láo của mình nhưng anh ta hoàn toàn từ bây giờ văn phòng này sẽ trở thành tổ kiến lửa với anh ta. Anh ta vẫn còn nhớ cái cách Mr Alleyne đã buộc Peake bé nhỏ phải rời khỏi văn phòng như thế nào để nhường chỗ cho cháu ông ta. Anh ta cảm thấy giận dữ và thèm khát trả thù, tức giận với chính mình và với những người khác. Mr Alleyne se~ không bao giờ cho anh ta một tiếng đồng hồ nghỉ giữa giờ nữa, cuộc sống của anh ta sẽ trở thành địa ngục. Lần này anh ta đã tự biến mình thành một gã ngốc chính cống. Giá như anh ta có thể giữ mồm giữ miệng? nhưng trước đây họ, anh ta và Mr Alleyne, cũng đã bao giờ thân thiện được với nhau, nhất là từ ngày Mr Alleyne tình cờ nghe thấy anh ta đang nhại giọng Bắc Ireland của ông ta để mua vui cho Higgins và Miss Parker, đó chính là khởi đầu mọi chuyện. Đáng lẽ anh ta có thể thử hỏi vay Higgins tiền, nhưng Higgins lo bản thân mình cũng chẳng đủ. Một người đàn ông phải gánh miệng ăn cho cả hai gia đình, tất nhiên anh ta không thể…

Anh ta lại cảm thấy cơ thể to lớn của mình đòi hỏi được cảm thấy dễ chịu nơi quán rượu. Sương đêm bắt đầu làm anh ta lạnh cóng và anh ta tự hỏi liệu có thể giật tạm Pat ở quán O’Neill. Anh ta sẽ không thể vay Pat hơn một shilling – mà một shilling thì chẳng ích gì. Nhưng thế nào đi nữa anh ta nhất quyết cũng phải giật tạm từ mối nào đấy : anh ta đã dùng đồng xu cuối cùng cho ly bia lúc nãy và chẳng mấy chốc tìm mối vay thì sẽ quá muộn. Đột nhiên, khi đang xoay xoay cái dây xích đồng hồ, anh ta nghĩ đến hiệu cầm đồ Terry Kelly trên phố Fleet. Đấy chính là lối thoát! Làm sao mà anh ta không nghĩ ra sớm hơn kia chứ!

Anh ta rảo bước xuyên qua phố Temple Bar hẹp, miệng lẩm bẩm cả lũ chúng nó cứ xuống địa ngục hết đi, bởi anh ta sẽ xả láng ở đây cả đêm luôn. Người trông hàng tiệm Terry Kelly phán Một curron ! Nhưng nhân viên ký gửi lại cho giá sáu shilling, và cuối cùng thì sáu shilling đã được giao cho anh ta. Anh ta vui sướng ra khỏi tiệm cầm đồ, chồng đám xua giữa ngón cái và ngón trỏ. Phố Westmorreland chật cứng đàn ông và phụ nữ trẻ mới tan sở, và những thằng nhóc rách rưới chạy náo loạn miệng rao báo buổi tối. Người đàn ông đi xuyên qua đám đông, bao quát cảnh tượng trước mắt với một vẻ hài lòng kiêu ngạo và hách dịch nih`n ngắm đám con gái công sở. Đầu anh ta ngập tràn tiếng còi xe điện và tiếng xe kéo cọt kẹt và mũi anh ta chưa gì đã ngửi thấy những làn khói tỏa lên từ ly rượu punch. Trong lúc bước đi anh ta định trước trong đầu những từ sẽ dùng để kể lại sự việc hôm nay với lũ bạn.

– Thế là, tớ chỉ nhìn lão ta – thờ ơ, các cậu biết đấy, rồi nhìn sang mụ ta. Rồi tớ quay lại nhìn lão ta để kéo dài thời gian các cậu biết đấy. Tôi không nghĩ rằng câu đấy mà hỏi tôi thì phù hợp cho lắm , tớ nói.

Nosey Flynn đang ngồi trong góc ưa thích của mình trong quán Davy Byrne, và khi nghe xong câu chuyện, anh ta mua cho Farrington ly nhỏ whisky bảo đó là câu trả lời thông minh nhất mà anh ta từng nghe. Farrington mời lại bạn một ly nhỏ. Một lúc sau O’Halloran và Paddy Leonard bước vào và câu chuyện lại được kể lại cho bọn họ. O’Halloran mua cho cả bọn mỗi người một ly nhỏ rượu malt nóng và kể lại chuyện anh ta đã đối đáp trả đũa viên thư ký trưởng hồi còn làm ở hãng Callan trên phố Fownes ra sao, nhưng bởi câu trả đũa của anh ta là theo kiểu mục đồng chân chất trong các bài thơ cổ, anh ta phải thừa nhận rằng nó không thông minh bằng câu trả đũa của Farrington. Đến đây Farrington bảo đám bạn hãy cùng trăm phần trăm và gọi tiếp chầu nữa.

Vừa lúc họ đang lần lượt gọi các loại nước cay tiếp theo, thì xem ai bước vào nếu không phải là Higgins! Tất nhiên anh ta phải nhập bọn với bọn họ. Cả bọn đòi anh này kể lại câu chuyện như anh ta chứng kiến, và anh ta làm vậy bằng một giọng cực kỳ sôi nổi, bởi hình ảnh năm ly rượu whisky trước mặt thật đáng hồ hởi. Cả bọn cười phá lên ầm ĩ khi anh ta diễn lại cảnh Mr Alleyne run run giơ nắm đấm trước mặt Farrington. Rồi anh ta nhại lại giọng Farrington, nói Và đây, chiến hữu của tôi, luôn phớt đời như các quý cô bằng tưởng tượng, trong khi Farrington nhìn xuống các bạn từ đôi mắt hùm hụp đục ngầu của anh ta, mỉm cười và chốc chốc lại dùng môi dưới liếm những giọt rượu đọng trên ria mép.

Khi chầu đó kết thúc, cả hội ngừng lại. O’Halloran có tiền, nhưng cả hai người kia chẳng ai có vẻ có đồng nào, thế là cả bọn rời khỏi quán có phần luyến tiếc. Tại góc phố Duke, Higgins và Nosey Flynn rẽ trái, trong khi ba người kia quay lại đi về phía thành phố. Mưa phùn đổ lên những con phố lạnh lẽo, và khi đến Ballast Office, Farrington đề nghị họ vào quán Scotch House. Quán rượu rất đông và ầm ĩ tiếng nói cười chạm ly. Ba người đàn ông di qua đám nhóc bán diêm đang lải nhải mời chào ở cửa và đứng chụm với nhau ở góc quầy. Họ bắt đầu tán chuyện. Leonard giới thiệu hai người kia với một chàng trẻ tuổi tên Weathers, nghệ sĩ nhào lộn kiêm hát và đọc thơ đang biểu diễn tại Tivoli. Farrington gọi rượu cho cả bọn. Weathers nói anh ta sẽ uống một ly Ireland nhỏ pha Apollinaris. Farrington,tỏ ra sành sỏi, hỏi hai người kia họ có muốn uống Apollinaris không, nhưng họ bảo Tim mang cho họ whisky nóng. Câu chuyện trở nên hoành tráng. O’Halloran mời một chầu và rồi Farrington mời chầu tiếp theo, trong khi Weathers phản đối rằng sự hiếu khách này Ireland quá. Anh ta hứa sẽ mời họ vào hậu trường và giới thiệu cho họ mấy em đáng yêu. O’Halloran nói anh ta và Leonard nhất định sẽ tới, nhưng Farrington thì không bởi anh ta đã có vợ, và đôi mắt hùm hụp đục ngàu của Farrington liếc về phía bạn tỏ ý anh ta biết anh ta đang bị trêu. Weathers mời cả bọn nhấp miệng thêm một chầu nữa, lần này anh ta trả và hẹn gặp lại cả bọn lúc sau tại quán Mulligan trên phố Poolbeg.

Khi Scotch House đóng cửa họ vòng sang quán Mulligan . Họ đi vào căn phòng nhỏ phía trong và O’Halloran gọi cho cả bọn loại nhỏ nóng đặc biệt . Cả bọn ai cũng bắt đầu chếch choáng. Khi Weathers quay lại Farrington mới đang chuẩn bị gọi tiếp chầu nữa cho cả bọn. Farrington nhẹ cả người vì lần này anh ta chỉ gọi một ly bitter . Ngân khố đang cạn dần nhưng vẫn còn đủ để họ tiếp tục. Giờ có hai phụ nữ trẻ đội mũ rộng vành và một người đàn ông mặc comlê kẻ ca rô bước vào và ngồi ở bàn bên cạnh. Weathers chào họ và bảo cả bọn rằng những người này làm cùng đoàn ở Tivoli. Mắt Farrington nhìn chằm chằm về phía một trong hai người phụ nữ. Có một cái gì đó thật ấn tượng ở vẻ bề ngoài của cô ta. Chiếc khăn mutxơlin vĩ đại màu xanh cổ vịt phủ quanh mũ và được thắt lại thành một cái nơ lớn dưới cằm cô ta, và cô ta đeo găng tay màu vàng tươi, dài đến khuỷu. Farrington đắm đuối nhìn cánh tay mũm mĩm cử động liên tục với một vẻ điệu đà, và khi, sau một lúc, cô ta nhìn đáp lại, anh ta lại càng đắm đuối nhìn đôi mắt to đen của cô ta. Vẻ kiêu kỳ của chúng làm anh ta mê đắm. Cô ta liếc lại một hai lần gì đó và, khi cả bọn rời phòng, cô ta quệt sát vào ghế anh ta và nói, Ôi xin lỗi, bằng giọng London. Anh ta nhìn theo, hy vọng cô ta sẽ quay đầu nhìn lại, nhưng anh ta bị thất vọng. Anh ta nguyền rủa cảnh thiếu thốn tiền nong của mình và nguyền rủa tất cả chỗ rượu mà anh ta đã trả tiền, nhất là chỗ whisky với Apollinaris anh ta phải trả cho Weathers. Nếu trên đời này anh ta ghét nhất điều gì thì đó chính là bọn ăn chực. Anh ta giận dữ đến nỗi không theo được hội bạn đang nói gì.

Khi Paddy Leonard gọi anh ta mới nhận ra họ đang nói về chuyện thi thố sức mạnh. Weathers đang khoe bắp tay trước cả bọn và huênh hoang đến nỗi hai người kia phải cầu cứu Farrington hãy cứu lấy thể diện quốc gia . Thế là Farrington kéo ống tay áo lên và chìa cho cả bọn xem bắp tay của anh ta. Hai cánh tay được xem xét và so sánh và cuối cùng cả bọn thỏa thuận tổ chức một cuộc đọ tay xem sao. Ly được dọn đi và hai người đàn ông chống khuỷu tay lên bàn, đan tay vào nhau. Khi Paddy Leonard hô bắt đầu! Mỗi người phải cố gắng hạ tay người kia xuống bàn. Farrington trông rất nghiêm túc và quyết tâm.

Cuộc tỉ thí bắt đầu. Sau khoảng ba mươi giây Weathers từ từ hạ tay đối thủ xuống mặt bàn. Khuôn mặt màu rượu chát của Farrington trở nên thẫm và đanh lại đầy tức giận và nhục nhã vì bị thua bởi một thằng nhóc con như vậy.

– Cậu không được tì người lên. Chơi đúng luật đi – anh ta nói.

– Ai không chơi đúng luật ở đây chứ? – người kia nói.

– Bắt đầu lại. Ai được hai trên ba lần sẽ thắng luôn.

Cuộc tỉ thí bắt đầu lại. Gân trên trán Farrington nổi chằng chịt, còn nước da xanh xao của Weathers chuyển sang màu tía. Bàn tay và cánh tay của họ rung bần bật vì gắng sức. Sau một hồi lâu vật lộn Weathers lại từ từ hạ tay địch thủ xuống bàn. Từ phía khán giả vang lên tiếng rì rầm tán thưởng. Người phục vụ, đang đứng cạnh bàn, gật gật cái đầu tóc đỏ của anh ta về phía người chiến thắng và nói với giọng bỗ bã quê mùa:

– A, bác này khá quá!

– Mày thì biết cái quái gì chứ? – Farrington nói một cách dữ tợn, quay sang chàng trai – Chỉ giỏi lẻo mép.

– Xuỵt, xuỵt! – O’Halloran nói, nhìn thấy vẻ giận dữ trên nét mặt Farrington – Chuẩn bị chuồn thôi, các cậu. Mình uống thêm tí đỉnh nữa rồi ngược nhé.

Một người đàn ông nét mặt cực lỳ sung sỉa đứng ở góc cầu O’Connell chờ chuyến xe điện Sandymount về nhà. Lòng anh ta nung nấu đầy giận dữ và trả thù. Anh ta cảm thấy nhục nhã và bất mãn, thậm chí anh ta không còn cảm thấy say nữa, và anh ta chỉ còn hai xu trong túi. Anh ta nguyền rủa mọi thứ. Anh ta đã tự làm hại mình ở văn phòng, đi cầm đồng hồ, tiêu sạch tiền và thậm chí đến say cũng không cảm thấy. Anh ta lại cảm thấy khát và anh ta lại muốn trở lại quán rượu nóng bức sặc mùi. Anh ta đã đánh mất danh tiếng là người đàn ông khỏe nhất, bị đánh bại hai lần chỉ bởi một gã oắt con. Lòng anh ta quặn lên giận dữ và khi nhớ lại người phụ nữ đội mũ rộng vành đã quệt qua anh ta và nói Xin lỗi, cơn giận dâng lên suýt nữa làm nghẹt cổ anh ta.

Xe điện thả anh ta xuống đường Shelbourne và anh ta lê cơ thể kềnh càng của mình dọc theo bóng bức tường của khu doanh trại. Anh thấy chán ghét phải về nhà. Khi bước vào qua cửa phụ anh ta thấy phòng bếp trống trơn và lò sưởi đã gần tàn. Anh ta gọi vọng lên gác.

– Ada! Ada!

Vợ anh ta là một người phụ nữ nhỏ bé nét mặt sắc sảo hành hạ chồng khi anh ta tỉnh và bị anh ta hành hạ lúc anh ta say. Họ có năm đứa con. Một thằng bé chạy xuống gác.

– Ai đấy? – người đàn ông hỏi, căng mắt trong bóng tối.

– Con, bố ạ.

– Mày là đứa nào? charlie à?

– Không, bố ạ. Tom.

– Mẹ mày đi đâu rồi?

– Mẹ đi lễ ạ.

– Ừ phải… Mẹ mày có nhớ phần tao tí bữa tối nào không?

– Có bố ạ. Con…

– Thắp đèn lên. Mày làm gì mà để nhà cửa tối tăm thế này? Mấy đứa khác đã đi ngủ chưa?

Người đàn ông ngồi phịch xuống một chiếc ghế trong khi thằng bé thắp đèn. Anh ta bắt đầu nhai lại giọng đều đều của thằng con, mà cũng như nói với chính mình: đi lễ, đi lễ, đi lễ ạ! Khi đèn đã được thắp anh ta đấm tay xuống bàn và hét lên:

– Bữa tối của tao đâu ?

– Con chuẩn bị.. Nấu đây, bố – thằng bé nói.

Người đàn ông nhảy dựng lên giận dữ và chỉ vào lò:

– Nấu trong cái lò thế kia hả? mày để tắt à? Thề có Chúa tao sẽ dạy mày xem có dám làm thế nữa không!

Anh ta nhảy một phát đến sau cửa và tóm lấy cây can dựng trong góc.

– Tao sẽ dạy mày thế nào là để lò tắt! – anh ta nói, xắn ống tay áo để đánh dễ hơn.

Thằng bé kêu lên, Ôi bố ơi! Và vừa khóc thút thít vừa chạy quanh bàn, nhưng người đàn ông đuổi theo và túm được áo nó. Thằng bé nhớn nhác nhìn lên mặt bố, nhưng thấy không còn cơ thoát được, nó quỳ xuống.

– Nào, xem mày có dám để lò tắt nữa không!

Người đàn ông nói, đánh liên tục vào thằng bé bằng cây can

– Cho mày chết này, đồ oắt con!

Thằng bé ré lên đau đớn mỗi khi cái gậy đập xuống đùi. Nó chắp hai tay lại và giọng lạc đi hoảng sợ.

– Ôi bố ơi! – nó khóc – Đừng đánh con, bố ơi! Con sẽ… con sẽ đọc một bài kinh Kính mừng cho bố. Con sẽ đọc một bài kinh Kính mừng cho bố. Bố ơi, bố đừng đánh con..con sẽ đọc một bài kinh Kính mừng….

Đất sét

Người quản lý đã cho phép bà được đi ngay sau khi bữa tiệc trà của đám phụ nữ kết thúc, và Maria nôn nóng chờ đợi buổi tối của bà. Bếp đã sáng bóng, người đầu bếp bảo chỗ nồi giờ đã có thể soi gương được. Lửa trong lò cháy đều và trên chiếc bàn kê sát tường đã bày sẵ bốn cái bánh barmbrack rất lớn. Bánh trông như chưa được cắt, nhưng nếu đến gần sẽ thấy chúng đã thành những lát dày đều tăm tắp, sẵn sàng cho bữa trà. Maria đã tự tay cắt bánh.

Maria đúng là một người rất, rất nhỏ bé, nhưng bà có một cái mũi vô cùng dài và một cái cằm vô cùng dài. Giọng bà hơi nghèn nghẹt, bao giờ cũng nhỏ nhẹ “đúng rồi, em” và “Không đâu, em”. Bà luôn được cử đến dàn xếp mỗi khi đám phụ nữ cãi cọ ganh bì chuyện chậu giặt và luôn hòa giải thành công. Một hôm người quản lý bảo:

– Maria, bà đúng là một nhà hòa giải!

Người phó quản lý và hai quý bà trong Ủy ban cũng đã nghe được lời khen đó. Còn Ginger Mooney thì luôn miệng nói nếu không nể Maria thì cô ta đã cho cái con bé ngu đần trong tổ là ủi một trận. Ai cũng vô cùng yêu quý Maria.

Đám phụ nữ có bữa trà lúc sáu giờ vậy là bà sẽ có thể rời tiệm trước bảy giờ. Từ Ballsbridge đến Pillar, hai mươi phút; từ Pillar đến Drumcondra, hai mươi phút; và hai mươi phút mua đồ. Bà sẽ có mặt tại đó trước tám giờ. Bà lôi chiếc ví có khóa bạc ra, đọc lại dòng chữ “Kỷ niệm Belfast “. Bà rất thích chiếc ví này bởi Joe đã mua cho bà năm năm trước, khi nó và Alphy tới Belfast trong dịp Ngày thứ hai lễ hạ trần . Trong ví có hai nửa đồng curon và mấy xu lẻ. Bà sẽ còn lại tận năm shilling sau khi trả tiền vé xe điện. Họ sẽ có một buổi tối tuyệt vời, bọn trẻ sẽ hát hò say sưa! Chỉ có điều bà hy vọng Joe sẽ không về nhà trong bộ dạng say xỉn. Nó trở nên khác hẳn mỗi khi uống rượu.

Nó vẫn luôn muốn bà đến ở cùng gia đình nó, nhưng khi đó bà sẽ cảm thấy mình chỉ gây phiền (mặc dù vợ Joe đối xử rất tốt với bà) vả lại bà đã quen với cuộc sống ở tiệm giặt là. Joe là một người tốt. Bà đã nuôi nấng nó và Alphy nữa, và Joe vẫn thường nói:

– Mẹ thì vẫn là mẹ, nhưng Maria mới đúng là mẹ tôi.

Sau khi gia đình tan rã bọn con trai đã tìm cho bà một chân trong tiệm giặt là Dublin dưới Ánh đèn đêm, và bà thích công việc ở đây. Bà từng có ấn tượng không mấy tốt đẹp về những người theo đạo Tin Lành nhưng giờ bà nghĩ họ là những người rất tốt, tuy hơi ít nói và nghiêm trang, nhưng vẫn là những người rất tốt. Rồi bà có được những cây riêng của mình trong nhà kính và bà rất thích chăm sóc chúng. Bà có mấy cây dương xỉ và lan tai cáo rất xinh và, mỗi lần có ai đến thăm, bà luôn biếu họ một hai cành về giâm. Có một điều bà không thấy thích lắm, đó là những bài răn hiếu lễ trên tường, nhưng người quản lý là một người rất dễ chịu, rất lịch thiệp.

Khi người đầu bếp bảo bà mọi thứ đã sẵn sàng bà đi vào phòng dành cho người làm nữ và bắt đầu rung cái chuông lớn. Chẳng mấy chốc đám phụ nữ đã túm tụm hai ba người đi vào, vừa đi vừa chùi hai bàn tay còn đầy hơi nước của họ vào váy lót rồi kéo ống tay áo xuống phủ hai cánh tay đỏ lựng. Họ lục tục ngồi xuống trước những cái ca rất lớn người đầu bếp và con bé giúp việc vừa đổ đầy trà nóng đã có sẵn sữa và đường đổ từ những bình thiếc to đùng. Maria chăm sóc việc chia bánh barmbrack sao cho mỗi người đều nhận được bốn lát. Tiếng cười nói pha trò râm ran suốt bữa trà. Lizzie Fleming nói thế nào rồi Maria cũng sẽ bắt được nhẫn và mặc dù Fleming đã nói thế bao nhiêu đêm Halloween, Maria vẫn phải cười phá lên và nói bà không muốn nhẫn cũng không muốn ông chồng nào hết, và khi bà cười đôi mắt xanh xám của bà thoáng chút ngượng ngùng thất vọng và đầu mũi bà gần chạm chỏm cằm . Rồi Ginger Mooney nâng ca trà của mình lên chúc sức khỏe Maria, trong lúc tất cả những người khác gõ ca lách cách xuống mặt bàn, và Ginger Mooney nói chán quá, giá mà cô có chút bia đen để uống mừng sự kiện này. Và Maria lại phá lên cười cho đến khi đầu mũi bà gần chạm chỏm cằm và cho đến khi thân hình nhỏ xíu của bà gần như tách đôi ra, bởi bà biết Mooney thật sự có ý tốt, mặc dù tất nhiên cô ta cũng chỉ là một người đầu óc đơn giản.

Nhưng quả thật Maria thấy nhẹ cả người khi đám phụ nữ kết thúc bữa trà và người đầu bếp cùng con bé giúp việc bắt đầu thu dọn. Bà đi vào căn phòng nhỏ của mình và nhớ ra sáng mai là sáng đi lễ , bà vặn kim đồng hồ từ bảy giờ lên sáu giờ. Rồi bà cởi bỏ chiếc váy và đôi ủng mặc khi làm việc, đặt chiếc váy đẹp nhất lên giường và đôi giày đi chơi nhỏ xíu của mình cạnh chân giường. Bà thay cả áo nữa và lúc đứng trước gương, bà nghĩ lại hồi xưa khi còn thiếu nữ mỗi lần đi lễ sáng Chủ nhật bà từng ăn mặc như thế nào, và bà ngắm nhìn cơ thể nhỏ xíu của mình với một vẻ trìu mến lạ lẫm, cơ thể bấy lâu nay bà vẫn chăm chút. Dù đã bao nhiêu năm trôi qua bà stil thấy nó thật xinh xắn gọn ghẽ.

Khi bà ra đến ngoài, đuờng phố lấp lánh dưới làn mưa và bà mừng vì đã mang theo cái áo mưa cũ màu nâu của mình. Xe điện chật cứng và bà phải ngồi trên chiếc ghế đẩu nhỏ phía cuối, đối diện với mọi người, chân chỉ hơi chạm sàn. Bà sắp xếp trong đầu những việc mình sắp làm, và nghĩ rằng được tự do, có một chút tiền trong túi thế này quả là tốt hơn. Bà hy vọng họ sẽ có một buổi tối vui vẻ. Bà chắc chắn sẽ như vậy, nhưng bà không khỏi chạnh lòng khi nghĩ đến chuyện giờ Alply và Joe không còn nói chuyện với nhau nữa. Hai đứa giờ đây luôn xung đột nhưng khi còn nhỏ chúng đã từng là bạn thân nhất của nhau, cuộc đời là thế mà.

Bà xuống xe điện tại bến Pillar và len lỏi qua đám đông. Bà đi tới tiệm bánh Downes nhưng tiệm đông khách đến nỗi phải một lúc lâu sau mới đến lượt bà. Bà mua một chục bánh ngọt nhỏ đủ các loại, và cuối cùng cũng ra khỏi tiệm với một túi lớn nặng trĩu. Rồi bà nghĩ sẽ mua thêm, bà muốn mua thứ gì đó thật ngon. Nhà họ chắc hẳn đã có đầy táo và hạt óc chó. Thật khó biết nên mua thêm thứ gì, tất cả những gì bà có thể nghĩ ra bây giờ là mua bánh. Bà quyết định mua một ít bánh nhân mận, nhưng bánh mận tiệm Downes phủ quá ít đường hạnh nhân, thế là bà rẽ vào một tiệm khác trên phố Henry. ở đây bà ngắm nghía các loại thật lâu và quý cô ăn vận thời trang đàng sau quầy, rõ ràng hơi bực mình vì bà, hỏi có phải bà muốn mua bánh cưới không. Điều này làm Maria đỏ mặt và mỉm cười với quý cô trẻ tuổi, nhưng cô gái trông hoàn toàn nghiêm nghị và cuối cùng cắt một lát dày bánh nhân mận, bọc lại và nói:

– Hai shilling bốn xu, thưa bà.

Bà tưởng sẽ phải đứng trên xe điện từ Drumcondra bởi đám trai trẻ dường như không ai để ý thấy bà nhưng một quý ông đứng tuổi đã nhường chỗ cho bà. Đó là một quý ông người chắc mập, đội mũ quả dưa màu nâu, ông có một gương mặt chữ điền hồng hào và bộ ria xám nhạt. Maria nghĩ trông ông hơi giống một vị tướng và nhớ lại ông đã lịch thiệp với bà bao nhiêu so với đám thanh niên chỉ biết giương mắt nhìn họ. Quý ông bắt chuyện với bà. Ông nói về lễ Halloween và về thời tiết mưa gió. Ông nói chắc hẳn chiếc túi kia của bà đang đựng toàn món ngon lành cho lũ trẻ và nói cũng phải thôi đúng là bọn trẻ có quyền vui chơi khiđang còn là trẻ con. Maria bày tỏ sự tán thành của mình bằng những cái gật đầu và hắng giọng kín đáo. Ông tỏ ra rất tốt với bà, và khi sắp xuống bến Canal Bridge, bà cảm ơn và cúi chào ông, và ông cúi chào bà và nâng mũ và mỉm cười lịch sự, và khi đã đi dọc dãy nhà, cúi mái đầu nhỏ tránh mưa, bà vẫn nghĩ được làm quen với một quý ông như vậy thật dễ chịu ngay cả sau khi ông ấy vừa uống tí chút .

Ai cũng kêu lên, Ôi dì Maria đây rồi! Khi bà bước vào nhà. Joe đang ở đó, vừa từ sở làm về, và tất cả bọn trẻ đều mặc những bộ quần áo đi lễ Chủ nhật. Có hai cô bé con nhà hàng xóm cũng ở đó và cả nhà đang chơi trò chơi. Maria đưa túi bánh cho cậu lớn nhất, Alphy, để chia, và Mrs Donnelly nói bà thật tốt vì đã nhọc công mang đến túi bánh to như vậy và ra lệnh cho bọn trẻ đồng thanh:

– Cảm ơn dì Maria.

Nhưng Maria nói bà còn mang một thứ đặc biệt cho bố nó và mẹ nó, một thứ chắc chắn họ sẽ thích, và bà bắt đầu lục tìm gói bánh nhân mận của mình. Bà thử tìm trong túi bánh tiệm Downes và tìm trong túi áo mưa của mình và rồi tì mtrên mặt tủ treo áo khoác, nhưng không thấy đâu cả. Rồi bà hỏi bọn trẻ liệu có đứa nào đã ăn mất rồi không – lỡ ăn, tất nhiên – nhưng lũ trẻ đều nói không và có vẻ chúng nó sẽ từ chối không còn muốn ăn bánh nữa nếu như bị buộc tội ăn trộm. Mỗi người đều đưa ra phỏng đoán về điều bí ẩn này và Mrs Donnelly nói đơn giản là Maria đã quên bánh trên xe điện. Maria, nhớ lại chuyện quý ông với bộ ria xám nhạt đã làm bà bối rối như thế nào, đỏ bừng mặt xấu hổ xen lẫn bực dọc và thất vọng. Nghĩ đến chuyện điều ngạc nhiên nho nhỏ của mình thế là tan thành mây khói rồi còn món tiền hai shilling bốn xu cũng đi tong bà suýt nữa thì òa khóc.

Nhưng Joe nói không sao cả và dẫn bà lại ngồi cạnh lò sưởi. Nó thật tốt với bà. Nó kể cho bà nghe chuyện ở sở làm, nhắc lại cho bà câu trả lời thông minh nó đã đáp lại viên quản lý ra sao. Maria không hoàn toàn tại sao Joe lại cười về chuyện câu trả lời kia nhiều thế nhưng bà vẫn nói chắc hẳn viên quản lý phải là một người khó chịu hết sức. joe nói thực ra ông ta cũng không đến nỗi khó ưa lắm nếu biết cách, rằng ông ta cũng tử tế miễn là đừng có trêu ngươi ông ta. Mrs Donnelly chơi piano cho lũ trẻ và chúng nhảy và hát. Rồi hai cô bé nhà bên chia óc chó cho mọi người. Không ai tìm thấy cái đập óc chó đâu cả, và Joe sút nữa thì cáu nhặng lên vì chuyện này và hỏi làm sao mà chúng có thể ngồi chờ Maria đập óc chó nếu như không có cái đập óc chó. Nhưng Maria nói bà không thích óc chó và họ không phải bận tâm về bà. Rồi Joe hỏi bà có muốn uống một chai bia stout không, và Mrs Donnelly nói trong nhà cũng có cả rượu porto nữa nếu bà thích uống. Maria nói họ không cần phải mời bà gì đâu, nhưng Joe cứ cố nài.

Thế là Maria phải để nó làm thế và họ ngồi bên lò sưởi nói về những năm tháng xa xưa và Maria nghĩ bà sẽ lựa lúc thuận tiện để nói giúp cho Alphy. Nhưng Joe kêu lên trời đánh thánh vật nó nếu phải nói dù một lời với thằng em và Maria nói bà rất tiếc đã gợi lại mọi chuyện. Mrs Donnelly bảo chồng nói thế về người em máu mủ của mình thì thật đáng xấu hổ, nhưng Joe nói không có anh em gì với Aphy hết và rồi mọi chuyện suýt nữa biến thành trận đấu khẩu. Nhưng Joe nói vì đêm nay là đêm lễ nên nó sẽ không nổi khùng và bảo vợ mở thêm một ít bia stout. Hai cô bé nhà bên đã chuẩn bị sẵn mấy trò Halloween và mọi thứ nhanh chóng lại trở nên vui vẻ. Maria sung sướng khi thấy bọn trẻ vui vẻ và Joe và vợ nó cũng vậy. Hai cô bé nhà hàng xóm đặt mấy cái đĩa lên bàn và dẫn bọn trẻ tới gần bàn, bịt mắt lại . Một đứa sờ được quyển kinh, còn ba đứa kia sờ phải nước, và khi một trong hai cô bé hàng xóm được cái nhẫn thì Mrs Donnelly huơ huơ ngón tay trước mặt cô bé đang đỏ bừng mặt như thể muốn nói: A, ta biết hết rồi nhé! Bọn họ nhất định muốn Maria phải bị bịt mắt và dẫn bà đến chiếc bàn xem bà sẽ chọn được gì, và trong khi họ bịt mắt bà, Maria phá lên cười cho đến khi đầu mũi gần chạm chỏm cằm.

Họ dẫn bà đến bên bàn giữa tiếng cười nói pha trò, và bà đưa tay ra phía trước theo lời chỉ dẫn. Bà huơ huơ tay trong không khí và chạm phải một trong những chiếc đĩa. Bà cảm thấy một chất mềm mềm ẩm ướt chạm vào ngón tay và thấy thật ngạc nhiên bởi không ai nói gì cũng không bỏ dải băng che mắt ra cho bà. Một khoảng im lặng mấy giây, và rồi sau đó là rất nhiều xáo trộn và thầm thì. Ai đó nói gì đó về khu vườn và cuối cùng Mrs Donnelly nói gì đó với một trong hai cô bé hàng xóm bằng giọng rất giận dữ và bảo cô vứt nó đi ngay lập tức, đây không phải trò chơi. Maria hoàn toàn rằng lần này đã không thành và vì vậy bà phải làm lại từ đầu, và lần này bà chọn được một quyển kinh cầu nguyện.

Sau đó Mrs Donnelly chơi bản Miss McCloud’s Reel cho bọn trẻ và Joe rót cho Maria một ly rượu. Họ nhanh chóng vui vẻ trở lại và Mrs Donnelly nói chắc năm nay Maria sẽ vào tu viện bởi vì bà đã bắt được quyển kinh. Maria chưa bao giờ thấy Joe tốt với bà như đêm đó, chỉ toàn là những câu chuyện thú vị và những kỷ niệm xưa. Bà nói cả nhà đã thật tốt với bà.

Cuối cùng bọn trẻ mệt nhoài và buồn ngủ và Joe hỏi liệu Maria có thể hát mấy bài ngăn ngắn trước khi về, một trong những bài hồi xưa ấy. Mrs Donnelly nói xin dì hát đi, dì Maria! Và thế là Maria phải đứng bên cạnh chiếc piano. Mrs Donnelly ra hiệu cho bọn trẻ trật tự và lắng nghe bài hát của Maria, rồi chơi khúc dạo đầu và nói Nào, dì Maria! Và Maria, mặt đỏ bừng, bắt đầu hát bằng một giọng mảnh, run run. Bà hat bài Em mơ thấy em có một tòa nhà , và khi đáng lẽ sang đến doạn hai thì bà lại hát lại:

Em mơ thấy em có một tòa nhà

Bằng cẩm thạch và người hầu vây quanh

Đối với những người bên trong đó

Em chính là ước vọng, là tự hào

Cơ man của cải giàu sang em có

Và địa vị cao quý danh quyền

Nhưng em vẫn mơ, điều sung sướng nhất

Là chàng vẫn sẽ mãi yêu em

nhưng không ai cố chỉ cho bà thấy sự nhầm lẫn và khi bà đã hát xong Joe tỏ ra cảm động vô cùng. Nó nói không gì sánh được với những ngày xa xưa và không gì hay hơn những bài hát của Balfe, cho dù những người khác có nói gì chăng nữa, và mắt nó đẫm lệ đến nỗi nó không tìm được thứ nó đang tìm và cuối cùng nó phải nhờ vợ nó chỉ cho cái mở chai đang nằm ở đâu.

Một trường hợp đau lòng

Mr James Duffy sống tại Chapelizod bởi ông muốn cách càng xa càng tốt cái thành phố mà ông là một công dân và bởi ông thấy tất cả các khu ngoại ô khác của Dublin đều bần tiện, tân tiến và hợm hĩnh. Ông sống trong một ngôi nhà cổ ảm đạm và từ cửa sổ ông có thể nhìn vò một nhà máy rượu bỏ hoang hoặc nhìn xa lên phía dòng sông cạn nước chia đôi Dublin. Bốn bức tường cao trong căn phòng không trải thảm của ông không treo bức tranh nào. Ông đã tự mình mua sắm từng món đồ trong phòng, một khung giường sắt màu đen, một chậu rửa bằng sắt, bốn cái ghế mây, một giá treo quần áo, một thùng đựng than sưởi, cái chắn than, bàn là sắt và một cái bàn vuông loại vừa đựng giấy tờ vừa làm bàn viết. Giá sách được làm từ những giá gỗ trắng lợi dụng chỗ hốc tường. Giường được phủ ga nệm trắng, phía dưới phủ một tấm len dạ lớn màu đen đỏ. Một mảnh gương nhỏ treo phía trên bồn rửa và vào ban ngày thì chiếc đèn có chụp màu trắng là vật trang trí duy nhất trên bệ lò sưởi. Những quyển sách trên giá gỗ màu trắng được sắp xếp tuần tự từ dưới lên trên theo độ dày. Một bộ Wordworth toàn tập ngự trên phía này của giá thấp nhất và một quyển Maynooth Catechism, có bìa mềm được khâu từ bìa một cuốn sổ, nằm ở phía bên kia trên giá cao nhất. Trên bàn luôn có giấy tờ đang viết dở. Trong ngăn đựng bên trong có bản thảo bản dịch tiếng Anh vở Michael Kramer của Hautpmann, với những dòng chỉ đạo sân khấu viết bằng mực màu tím đậm, và một tập giấy mỏng ghim với nhau bằng kẹp sắt. Đôi chỗ trên những tờ giấy lại có một dòng viết thêm vào, và vào một giây phút đầy mỉa mai, tiêu đề của một mẩu quảng cáo thuốc Bile Beans đã được dán lên trang trên cùng. Khi nhấc nắp bàn viết ra một mùi thơm nhẹ bay lên – mùi thơm của những chiếc bút chì mới bằng gỗ tuyết tùng hoặc của một lọ hồ dán hoặc của một quả táo gần nẫu có thể đã bị để đó rồi quên mất.

Mr Duffy ghét cay ghét đắng bất cứ thứ gì gây ra lộn xộn về vật chất cũng như tinh thần. Một bác sĩ thời Trung cổ chắc hẳn sẽ kê ông bị chứng sao Thổ chiếu . Mặt ông , mang toàn bộ câu chuyện cuộc đời ông, có màu nâu của những con phố Dublin. Trên cái đầu dài và khá to của ông mọc những đám tóc đen và khô và một bộ ria nâu vàng không đủ để che một cái miệng không được dễ ưa cho lắm. Hai gò má cao cũng làm cho khuôn mặt ông thêm nét khắc nghiệt, nhưng không hề có chút gì tàn nhẫn trong đôi mắt, nhìn thế giới từ phía dưới cặp lông mày nâu vàng, đôi mắt mang lại cảm giác về một người đàn ông luôn sẵn lòng đón nhận những bản chất tốt đẹp từ người khác nhưng lại thường bị thất vọng. Ông sống hơi cách xa thân thể mình, ngắm nhìn những hành động của chính mình một cách hoài nghi. Ông có một thói quen lý sự lạ lùng, thói quen làm ông thỉnh thoảng tạo ra trong đầu một câu ngắn về chính bản thân, sử dụng chủ ngữ ở ngôi thứ ba và động từ ở thì quá khứ. Ông không bao giờ cho tiền ăn mày, và luôn bước đi thẳng tắp, tay gõ một cây can gỗ phỉ.

Bao nhiêu năm nay ông làm nhân viên phụ trách thu ngân tại một nhà băng tư trên phố Baggot. Mỗi sang ông đi xe điện từ Chapelizod vào thành phố . Trưa đến, ông đến tiệm Dan Burke gọi bữa của mình – một chai bia lager và một khay nhỏ bánh quy bột dong. Vào lúc bốn giờ ông được tan sở. Ông ăn tôí tại một hàng ăn trên phố George, nơi ông cảm thấy mình được an toàn, cách xa cái xã hội của bọn trẻ tuổi mạ vàng của Dublin, và nơi có một sự trung thực nhất định trên thực đơn. Những buổi tối của ông hoặc trôi qua trước cây đàn piano của bà chủ nhà hoặc đi lang thang quanh khu ngoại ô thành phố. Sự yêu thích nhạc Mozart đôi khi dẫn ông đến một buổi opera hoặc một buổi hòa nhạc, đây là những tiêu khiển đẹp nhất trong cuộc đời ông.

Ông không sống chung với ai mà cũng không có bạn bè, không đi lễ mà cũng không có đức tin. Ông sống cuộc sống tinh thần của mình mà không chia sẻ với ai, chỉ đi thăm họ hàng mỗi dịp lễ Giáng sinh và tống tiễn họ về nghĩa trang khi họ qua đời. Ông thực hiện hai nghĩa vụ xã hội này chỉ vì tôn trọng lễ giáo mà không nhân nhượng chuyện tham dự sâu hơn nữa vào những nghi thức của cuộc sống công dân. Ông sẽ cho phép mình nghĩ trong một số hoàn cảnh nhất định nào đó ông sẽ cướp ngân hàng nơi ông làm, và bởi vì những hoàn cảnh như thế không bao giờ xuất hiện, cuộc đời ông trôi đi đều đặn – một câu chuyện không hề có phiêu lưu.

Một buổi tối ông thấy mình ngồi cạnh hai quý bà trong nhà hát Rotunda. Nhà hát, lác đác người ngồi và rất im ắng, báo hiệu một thất bại thảm hại. Quý bà ngồi bên ông quay nhìn nhà hát vắng teo một hai lần gì đó và nói:

– Đáng tiếc đêm nay vắng quá! Phải hát cho mấy dãy ghế trống này nghe thì khó thật đấy.

Ông đón câu nhận xét như một lời mời bắt chuyện. Ông thấy ngạc nhiên bởi bà chẳng tỏ ra lúng túng e thẹn. Khi họ trò chuyện ông cố gắng lưu giữ lại hình ảnh bà mãi mãi trong tâm trí. Khi biết cô thiếu nữ ngồi bên cạnh là con gái bà o đoán chừng chắc bà trẻ hơn ông một hai tuổi gì đó. Khuôn mặt bà, một khuôn mặt trước khi chắc hẳn phải rất đẹp, vẫn giữ được những nét thông minh nhanh nhẹn. Đó là một khuôn mặt hình trái xoan sắc nét. Đôi mắt xanh thẳm, tự tin. Chúng phát ra cái nhìn lúc đầu hơi có vẻ thách thức, nhưng sau đó trông lại bối rối bởi cái dãn ra như cố ý của hai đồng tử xanh biếc, để lộ, trong một tích tắc, một tâm tính vô cùng nhạy cảm. Hai đồng tử nhanh chóng bình thường trở lại, tâm tính mới vừa hé lộ kia lại bị chế ngự bởi vẻ dè chừng, và chiếc áo khoác lông cừu strakhan của bà ôm lấy một khuôn ngực khá đầy đặn, như muốn đẩy cao sự thách thức.

Ông gặp lại bà vài tuần sau đó trong một buổi hòa nhạc tại Earlsfort Terrace và tranh thủ lúc cô con gái lơ đãng để làm thân hơn. Bà có ám chỉ một, hai lần gì đó về ông chồng, nhưng giọng bà không có vẻ gì muốn biến sự ám chỉ đó thành lời cảnh báo. Tên là là Mrs Sinico. Ông cụ kỵ bên nhà chồng bà là người Leghorn . Chồng bà là thuyền trưởng một thương thuyền đi về giữa Dublin và Hà Lan, và họ có một con.

Lần thứ ba tình cờ gặp lại bà, ông tìm được đủ can đảm đề nghị một cuộc hò hẹn. Bà đã đến. Đó là cuộc gặp đầu tiên mở đầu các cuộc hẹn tiếp theo, họ luôn gặp nhau vào buổi tối và chọn những khu vắng lặng nhất để cùng đi dạo. Mr Duffy, tuy vậy, ác cảm với những chuyện vụng trộm, nhận ra rằng họ đang buộc phải gặp nhau một cách lén lút, bèn hối bà phải mời ông đến nhà. Thuyền trưởng Sinico luôn niềm nở trước những cuộc viếng thăm của ông, nghĩ chắc nguyên do có liên quan tới việc hôn nhân của cô con gái . Đã lâu nay thuyền trưởng không còn coi vợ nằm trong danh sách những điều đem lại khoái lạc nên ông chẳng mảy may tưởng tượng đến chuyện giờ có ai lại có thể thích bà. Vì ông chồng thường xa nhà và cô con gái đi dạy nhạc, Mr Duffy có rất nhiều cơ hội được hưởng tình bằng hữu của bà. Cả ông và bà đều chưa bao giờ có một cuộc phiêu lưu như vậy và cả hai đều không ý thức được có điều gì trái lễ giáo ở đây. Dần dần ông hòa nhập những suy nghĩ của ông với suy nghĩ của bà. Ông cho bà mượn sách, nói cho bà những ý tưởng, chia sẻ cuộc sống trí thức của ông với bà. Bà lắng nghe tất cả.

Thỉnh thoảng để đáp lại những lý thuyết của ông, bà nói đôi chút về cuộc đời bà. Với một sự quan tâm gần như mang tình mẫu tử, bà vỗ vê khuyến khích ông thổ lộ hết tâm tư: bà trở thành cha giải tội của ông. Ông kể với bà có một hồi ông từng dự các cuộc họp của một Đảng Xã hội Ireland, trên một căn phòng áp mái tù mù đèn dầu, nơi ông tự cảm thấy mình là một nhân vật lạc loài giữa đám công nhân liêm chính. Khi đảng đó tách ra thành ba tổ chức, mỗi tổ chức có người lãnh đạo riêng, phòng áp mái riêng, ông không đến họp nữa. Những cuộc thảo luận của đám công nhân hồi đó, ông nói, quá vặt vãnh, họ tập trung quá mức vào vấn đề tiền lương. Ông cảm thấy họ chỉ là những người theo phái đối lập luận chặt chẽ, một thứ sản phẩm xa hoa ngoài tầm với của họ. Có vẻ như, ông nói với bà, sẽ không có cuộc cách mạng xã hội nào nổ ra ở Dublin ít nhất trong mấy thế kỷ tới.

Bà hỏi ông tại sao ông không viết ra những suy nghĩ của mình. Để làm gì, ông hỏi bà, với một vẻ cao ngạo chừng mực. Để cạnh tranh với dám nhà văn ba xu, cái bọn không bao giờ nghĩ nổi cho đúng logic dù chỉ sáu mươi giây? Để tự nộp mình cho bọn phê bình tiểu tư sản đần độn, bọn phó mặc hoàn toàn chuẩn mức đạo đức cho giới cảnh sát và nghệ thuật thi họa cho các ông bầu?

Ông thường đến ngôi nhà nhỏ của bà ở vùng ngoại ô Dublin, họ thường có những buổi tối bên nhau, chỉ có hai người. Dần dần, khi những suy nghĩ của họ hòa nhập, họ nói về những chủ đề ít xa vời hơn. Sự bầu bạn của bà như lớp đất mềm ấm bao bọc lấy cái cây lạ. Rất nhiều lần bà cho phép bóng tối rơi phủ lên họ, chần chừ không thắp đèn. Căn phòng tôi kín đáo, sự tách biệt của họ, tiếng nhạc vẫn còn vọng bên tai, tất cả khiến họ gần nhau hơn. Sự gần gũi này khiến tâm hồn ông thăng hoa, làm mềm mại những cạnh xù xì trong tính cách ông, làm cuộc sống tinh thần của ông dịu lại. Đôi khi ông bắt gặp mình đang lắng nghe tiếng nói của chính bản thân. Ông nghĩ trong mắt bà ông đã vươn lên tầm một thiên thần, và khi càng gần gũi hơn với bản tính nồng nhiệt của bạn mình, ông nghe thấy một giọng nói lạnh lùng kỳ lạ mà ông nhận ra chính giọng của ông bằng, khẳng định sự tồn tại của sự cô đơn vô phương cứu chữa của tâm hồn. Chúng ta không thể đầu hàng, giọng nói cất lên, chúng ta là của bản thân chúng ta, không ai có thể sở hữu. Hồi kết của những lần trò chuyện này là một buổi tối, sau khi biểu lộ mọi dấu hiệu phấn khích lạ lùng nhất, Mrs Sinico túm lấy tay ông một cách nồng nhiệt và áp nó vào má bà.

Mr Duffy rất đỗi ngạc nhiên. Cách bà đón nhận những lời của ông làm ông vỡ mộng. Ông không đến thăm bà liền trong một tuần, sau đó ông viết thư đề nghị bà gặp ông. Vì ông không muốn cuộc trò chuyện cuối cùng của họ bị ảnh hưởng bởi tác động của ngôi nhà xưng tội giờ đây đã bị phá hỏng, họ gặp nhau tại một tiệm bánh nhỏ gần Parkgate. Khi đó đang là tiết trời mùa thu lạnh lẽo, nhưng mặc không khí lạnh họ vòng đi vòng lại trên những lối đi công viên gần ba tiếng đồng hồ. Họ đồng ý ngừng mối quan hệ này lại, nếu ràng buộcthêm, ông nói, chỉ dẫn đến kết cục đau buồn. Ra khỏi công viên, họ bước trong im lặng về phía xe điện, nhưng ở đây bà bắt đầu run rẩy dữ dội đến mức, sợ một cơn khủng hoảng khác lại đến với bà, ông nhanh chóng chào tạm biệt bà và bước đi. Mấy ngày sau ông nhận được một bưu kiện bên trong có những quyển sách và bản nhạc ông đã tặng bà.

Bốn năm trôi qua. Mr Duffy trở lại cuộc sống đều đều của ông. Căn phòng vẫn ngày ngày chứng kiến sự ngăn nắp trật tự của tâm trí ông. Một vài bản nhạc mới được chồng lên thêm trên ngăn để nhạc phòng dưới và trên giá sách của ông xuất hiện hai quyển sách của Nietzche: Zarathustra đã nói thế và Tri thức hân hoan. Gần như ông không còn viết lên tập giấy vẫn nằm trong ngăn bàn nữa. Một trong những câu được viết hai tháng sau lần nói chuyện cuối cùng với Mrs Sinico, như sau: Tình yêu giữa đàn ông với đàn ông là không thể vì không thể có quan hệ tình dục, và tình bạn giữa đàn ông và đàn bà là không thể vì bắt buộc phải có quan hệ tình dục. Ông tránh xa các buổi hòa nhạc vì sợ rằng có thể gặp lại bà. Cha ông qua đời, nhân viên cấp dưới ở nhà băng cũng đã nghỉ hưu. Và vẫn vậy mỗi sáng ông đi xe điện vào thành phố và mỗi tối đi bộ từ thành phố về nhà sau khi đã ăn tối một cách điều độ tại phố George và đọc báo buổi tối thay món tráng miệng.

Một tối khi đang chuẩn bị cho một mẩu thịt hun muối xay cùng với món cải bắp vào miệng, tay ông dừng lại. Mắt ông dán vào một đoại trên tờ báo buổi tối đang để dựa vào bình nước lọc. Ông để lại mẩu thức ăn lên đĩa và chăm chú đọc đoạn tin. Sau đó ông uống một ly nước, đẩy đĩa ăn sang một bên, gấp tờ báo đặt lên bàn giữa hai khuỷu tay và đọc đi đọc lại mẩu tin. Món cải bắp bắt đầu đóng một lớp váng nguội trên đĩa. Cô phục vụ lại gần hỏi có phải bữa tối hôm nay của ông nấu không ngon không. Ông bảo bữa tối rất ngon và ăn thêm mấy miếng nữa một cách khó khăn. Sau đó ông trả tiền và đi ra.

Ông rảo bước trong ánh chạng vạng của buổi tối tháng mười một, cây can gỗ phỉ gõ lộc cộc trên đường, màu vàng của tờ Thư tín ló ra từ túi chiếc áo choàng kép cài chéo sát người của ông. Trên con đường cô quạnh từ Parkgate đến Chapelizod ông bước chậm lại. Tiếng cây can gõ trên đường cũng bớt mạnh đi, và hơi thở ông, phả ra đứt quãng, gẫn như thoáng tiếng thở bị đông cứng lại trong làn không khí mùa đông ảm đạm. Khi về đến nhà ông đi thằng lên phòng ngủ và, lôi tờ báo ra khỏi túi, ông đọc lại mẩu tin một lần nữa trong ánh sáng lờ mờ từ cửa sổ. Ông không đọc to, nhưng môi ông mấp máy như một linh mục đang đọc bài kinh Secreto (lời nguyện đọc thầm trong lễ Misa). Mẩu tin như sau:

CÁI CHẾT CỦA MỘT QUÝ BÀ TẠI SYDNEY PARADE

MỘT TRƯỜNG HỢP ĐAU LÒNG

Hôm nay tại bệnh viện thành phố Dublin, ngài Phó Chính văn phòng điều tra tử nạn (thay mặt ngài Leverett) đã tiến hành khám nghiệm thi thể Mrs Emily Sinico, bốn mươi ba tuổi, chết tại ga Sydney Parade tối qua. Các bằng chưng cho thấy quý bà quá cố trong lúc đang vượt qua đường rày, đã bị đầu máy chuyến tàu chậm mười giờ từ Kingstown hất ngã, do đó bị thương phía đầu và thân bên phải, là nguyên nhân gây tử vong.

James Lennon, nhân viên lái chuyến tàu, cho biết ông đã làm việc cho hãng xe lửa mười lăn năm nay. Khi nghe thấy tiếng còi của nhân viên nhà ga, ông cho tàu chuyển bánh và chỉ một, hai giây sau đó phải điều khiển cho tàu dừng lại vì nghe thấy những tiếng kêu lớn. Lúc đó con tàu đang chạy tốc độ chậm.

P.Dunne, nhân viên nhà ga, nói khi con tàu chuẩn bị chuyển động ông nhìn thấy một phụ nữ đang cố vượt qua đường ray. Ông chạy về phía bà và hét lên, nhưng trước khi ông kịp đến gần bà, bà đã bị đầu tàu hất lên và ngã xuống đất.

Một vị thẩm phán – Ông đã nhìn thấy quý bà ngã xuống?

Nhân chứng – Đúng vậy.

Hạ sĩ Croly khai rằng khi đến hiện trường ông thấy người quá cố đang nằm trên sân ga có vẻ đã chết. Ông cho mang bà vào phòng chờ trong khi đợi xe cấp cứu.

Cảnh sát 57 xác nhận sự việc.

Bác sĩ Halpin, trợ tá phẫu thuật Bệnh viện thành phố Dublin cho biết người quá cố bị gãy hai xương sườn dưới và có nhiều vết dập nghiêm trọng trên vai phải. Phía đầu bên phải bị thương tổn khi bị hất ngã. Nhưng những thương tổn này không đủ nghiêm trọng để gây tử vong đối với một người bình thường. Nguyên nhân tử vong, theo ý kiến ông có lẽ là do bị chấn động tâm lý và trụy tim.

H.B. Patterson Finlay, thay mặt cho hãng xe lửa, bày tỏ sự đau buồn sâu sắc trước tai nạn. Công ty đã và đang thực hiện mọi biện pháp cẩn trọng nhất nhằm ngăn chặn những trường hợp vượt qua đường ray, ngoại trừ bằng càu vượt, bằng cách đặt bảng thông báo tại tất cả các ga và sử dụng thanh chắn tự động tại những chỗ lên xuống. Người quá cố có thói quen vượt qua các đường ray hàng đêm để đi từ sân ga này sang sân ga kia và, xét đến một số hoàn cảnh khác của trường hợp này, ông không cho rằng các nhân viên nhà ga phải chịu trách nhiệm.

Thuyền trưởng Sinico, sống tại Leoville, Sydney Parade, chồng của người quá cố, cũng đưa ra một số dữ kiện. Ông cho biết nó nhớ cố là vợ ông. Ông không có mặt ở Dublin vào thời điểm diễn ra tai nạn bởi ông vừa từ Rotterdam trở về sáng hôm nay. Họ đã lấy nhau được hai mươi hai năm và sống hạnh phúc cho đến khoảng cách đây hai năm, khi vợ ông bắt đầu thể hiện sự quá độ trong những thói quen của bà.

Miss Mary Sinico nói rằng người mẹ quá cố của cô thường có thói quen đi mua rượu mỗi đêm. Cô, nhân chứng, thường phải khuyên giải mẹ và đã thuyết phục bà tham gia một tổ chức cai rượu. Cô không có mặt ở nhà cho đến khi tai nạn đã xảy ra được một tiếng.

Bồi thẩm đoàn đưa ra một phán quyết phù hợp với những chứng cớ y khoa và miễn cho nhân viên lái tàu Lennon mọi trách nhiệm.

Ngài Phó chánh phòng điều tra Tử nạn nói đây là một trường hợp hết sức đau lòng, và bày tỏ lời chia buồn sâu sắc đến thuyền trưởng Sinico và con gái ngài. Ông kêu gọi hãng xe lửa đưa ra nhiều biện pháp mạnh hơn nữa để ngăn chặn khả năng tai nạn tương tự có thể xảy ra trong tương lai, không ai bị truy cứu trách nhiệm.

Mr Duffy rời mắt khỏi tờ báo và hướng ra cửa sổ nhìn cảnh vật buổi tối ảm đạm. Dòng sông nằm lặng lẽ bên nhà máy rượu trống rỗng, thỉnh thoảng có ánh đèn hiện ra phía mấy ngôi nhà trên đường Lucan. Kết cục mới kinh khủng làm sao! Toàn bộ bản miêu tả cái chết của bà làm ông ghê tởm và ông cũng thấy ghê tởm khi nghĩ đã co thời ông từng nói với bà về những thứ ông coi là thiêng liêng. Những lời lẽ sáo mòn, những câu chữ tỏ ra chia sẻ được viết một cách ngu ngốc, những từ ngữ thận trọng của một ký giả bị thuyết phục phải che đi những chi tiết của một cái chết tầm thường, đáng kinh tởm, tất cả co thắt bụng ông đến buồn nôn. Không chỉ bà đã làm hèn hạ chính bà, bà còn làm hèn hạ chính ông. Ông nhìn thấy khía cạnh sa đọa của việc bà rượu chè quá độ, khốn khổ và sặc sụa hơi rượu. Bạn tâm giao của ông! ông nghĩ đến những sinh linh khốn khổ ngật ngưỡng ông từng nhìn thấy trong quán rượu loạng choạng đưa can và chai cho người đứng quầy đổ rượu vào. Chúa ơi, kết cục mới ghê sợ làm sao! Rõ ràng là bà đã không thể tự thích nghi với cuộc sống, bà không có can đảm, cũng không có mục đích, dễ dàng buông thả làm mồi cho những thói quen của chính mình, một trong những mảnh đắm trên đó nền văn minh được dựng nên. Nhưng làm sao bà có thể lún sâu như vậy! Có thể nào ông đã tự đánh lừa tất cả về bà? Ông nhớ lại sự bột phát của bà đêm đó và giải nó theo một nghĩa tàn nhẫn hơn bao giờ hết. Giờ đây ông không còn khó khăn áy náy gì trong việc tán thành những gì ông đã làm.

Khi ánh sáng tắt dần và ký ức bắt đầu trở nên lộn xộn, ông nghĩ tay bà đang chạm vào tay ông. Cơn kinh hoàng lúc trước đã co thắt bụng ông giờ đang tấn công tâm trí ông. Ông mặc vội chiếc áo choàng, đội mũ và ra khỏi nhà. Không khí lạnh lẽo ùa đến khi ông bước ra thềm, nó len vào hai ống tay áo khoác ông. Khi tới quán rượu phía cầu Chapelizod ông bước vào và gọi một ly punch nóng.

Chủ quán phục vụ ông một cách niềm nở nhưng không dám khơi chuyện. Lúc đó trong quán đang có năm sáu người thợ đang bàn tán về giá trị điền sản của một quý ông ở hạt Kildare. Họ uống bia từ vại lớn và hút thuốc, nhổ ra sàn liên tục và chốcchốc lại dùng mũi ủng nặng nề di đống mùn cưa lên phủ bãi nhổ. Mr Duffy ngồi trên ghế đẩu cạnh quầy, mắt hướng về họ mà không nhìn hay nghe thấy họ. Một lúc sau họ đi khỏi và ông gọi một ly punch nữa. Ông ngồi một lúc lâu trước ly rượu. Quán rất vắng lặng. Chủ quán gò lưng trên quầy đọc tờ Truyền tin và ngáp dài, thỉnh thoảng tiếng còi hú của một chiếc xe điện lại vọng tới dọc theo con đường cô quạnh bên ngoài.

Khi ông ngồi đó, sống lại những giây phút từng có với bà và đan xen trong tâm trí hai hình ảnh trái ngược lúc này ông nghĩ về bà, ông bỗng nhận ra rằng bà đã chết, rằng bà đã ngừng tồn tại, rằng bà đã trở thành ký ức. Ông bắt đầu cảm thấy khó ở. Ông tự hỏi ông đã có thể làm được gì khác. Ông không thể tiếp tục một hài kịch lừa dối với bà, ông cũng chẳng thể sống công khai cùng bà. Ông đã làm những gì đối với ông dường như là đúng đắn nhất. Làm sao ông có thể bị buộc tội? giờ đây bà đã đi rồi ông mới hiểu cuộc đời bà chắc hẳn đã cô đơn đến thế nào, ngồi đêm này qua đêm khác một mình trong căn phòng đó. Cuộc đời của ông cũng sẽ cô đơn cho đến khi, chính ông, cũng, chết, ngừng tồn tại, trở thành ký ức – nếu như trên đời này còn có ai nhớ đến ông.

Khi ông rời khỏi quán đã hơn chín giờ tối. Buổi tối gió lạnh lẽo và u ám. Ông đi vào Công viên bằng cổng đầu tiên và đi dọc dưới hàng cây khẳng khiu trụi lá. Ông đi trên những con đường cô quạnh nơi họ từng dạo bước bốn năm về trước. Dường như bà đang ở cạnh ông trong bóng tối. Trong một khoảnh khắc ông như cảm thấy giọng bà vọng vào tai ông, tay bà chạm vào tay ông. Ông đứng im lắng nghe. Tại sao ông lại cướp đi cuộc sống khỏi bà? Tại sao ông đẩy bà đến cái chết? ông cảm thấy conn đạo đức của mình đang vỡ vụn.

Khi lên tới đỉnh đồi Magazine, ông dừng lại và nhìn xuôi theo dòng sông về hướng Dublin, những ánh đèn thành phố tỏa ra rực rỡ và ấm áp trong đêm lạnh. Ông nhìn xuống theo sườn đồi và, dưới chân đồi, trong bóng tối bức tường rào Công viên, ông nhìn thấy những hình người đang nằm. Những cặp tình nhân vụng trộm và vụ lợi đó làm ông tuyệt vọng đến kiệt sức. Ông đã dè sẻn từng chút để giữ sự đúng đắn chính trực của cuộc đời ông, giờ ông cảm thấy mình bị bỏ rơi ngoài bữa tiệc của cuộc sống. Một conn dường như đã đem lòng yêu ông và ông đã từ chối cuộc sống và hạnh phúc của bà, ông đã đẩy bà đến sự đê tiện, một cái chết đáng hổ thẹn. Ông biết những hì1nh hài đang nằm dưới chân tường kia đang quan sát ông và muốn ông đi khỏi. Không ai muốn ông, ông bị đẩy ra ngoài bữa tiệc của cuộc sống. Ông hướng nhìn về phía dòng sông xám lấp lánh, uốn lượn quanh Dublin. Phía xa trên dòng sông ông nhìn thấy một đoàn tàu chở hàng đang lượn vòng khỏi ga Kingbridge, như một con sâu có cái đầu đỏ lửa đang lượn ngoằn ngoèo xuyên bóng tối, bền bỉ và cần mẫn. Nó chầm chậm biến khỏi tầm mắt, nhưng trong tai ông vẫn vẳng lại tiếng động cơ rung rền từng âm tiết của tên bà.

Ông quay lại con đường ông đã đến, nhịp tiếng máy vẫn rền âm trong tai. Ông bắt đầu nghi ngờ sự xác thực của những gì ký ức vừa gợi lại. Ông dừng lại dưới một cái cây chờ cho những âm thanh vang vọng tắt hẳn. Ông không còn cảm thấy bà đang ở cạnh ông trong bóng tối cũng không nghe thấy giọng bà vang bên tai. Ông chờ mấy phút nữa, lắng nghe. Ông không nghe thấy gì hết, màn đêm im lặng tuyệt đối. Ông lắng nghe lần nữa: im lặng tuyệt đối. Ông cảm thấy ông chỉ còn lại một mình.

Bình luận