Chưa khi nào tôi thấy bạn tôi vui vẻ, phấn khởi, tràn đầy sinh lực như buổi sáng hôm nay, một buổi sáng của năm 1895. Tên tuổi của anh ngày càng nổi tiếng, công việc làm ăn ngày càng bận bịu. Từ sự tôn trọng, kính nể đối với những bí mật của người khác, tôi không cho phép mình rẻ rúng những cái tên của những con người tuyệt vời, đặc sắc mà có lúc gặp cảnh éo le đã phải tới gõ cửa ngôi nhà tồi tàn của chúng tôi ở hẻm Baker.
Cần nói thêm, Holmes như một nhà họa sỹ lỗi lạc, đã làm việc thì lao vào chỉ vì tình yêu, lòng say mê nghệ thuật không hề biết mệt mỏi. Tôi chưa hề nghe (trừ trường hợp duy nhất đối với ngài công tước xứ Holdernesse) anh yêu cầu món tiền
thưởng cho công lao vô bờ bến của mình. Anh là một người vô tư đến nỗi không ít trường hợp anh đã từ chối giúp đỡ những kẻ giầu sang phú quý: nếu như không thấy trong việc điều tra khám phá những bí mật của họ một cái gì là say mê, lôi cuốn, hấp dẫn. Trong khi đó anh dành thời gian hàng tuần lễ để nghiên cứu công việc cho những người nghèo khổ; nếu như việc ấy trông chừng hắc búa và gay cấn, làm cho anh phải đem hết khả năng nghề nghiệp của mình ra sử dụng.
Trong năm 1895 đáng ghi nhớ ấy, Holmes đã giải quyết một loạt những vụ việc quan trọng, lý thú, muôn hình muôn vẻ khác nhau. Bắt đầu từ chuyện tìm hiểu nguyên nhân cái chết đột ngột của Hồng y Giáo chủ Tosca (theo đề nghị chính thức của tòa thánh Vatican) và kết thúc bằng việc bắt giam tên tội phạm Wilson. Tiếp theo những vụ trọng đại nổi đình, nổi đám kia là sự việc đau lòng xảy ra ở phố Woodman s Lee: Thuyền trưởng Peter Carey bị giết trong một cảnh tượng khủng khiếp nhất và bí hiểm nhất. Tập ghi chép của tôi về hoạt động của Sherlock Holmes sẽ hẫng lớn nếu trong đó thiếu câu chuyện rùng rợn quá sức tưởng tượng này.
Suốt trong tuần đầu của tháng 7 bạn tôi hay đi và đi rất lâu, làm tôi phải hiểu là anh đang bận một chuyện gì đó. Trong những ngày này vài ba người trông dáng cau có, thô thiển đã ba bốn bận tới lui. Họ nói là họ muốn gặp thuyền trưởng Basil. Điều đó làm cho tôi hiểu ra là Holmes đang đóng giả một cái tên để tiến hành một vụ điều tra mới. Ở một số nơi trong London, Holmes có ít ra là năm chỗ ở bí mật, nơi mà anh có thể thay hình đổi dạng, không ai có thể phát hiện ra, Holmes không hề thổ lộ cho tôi những công chuyện mới mẻ kia; còn tôi thì không bao giờ có chuyện thóc mách đi hỏi những điều thầm kín của anh. Lần đầu tiên Holmes, không theo lệ thường, đã báo cho tôi biết hiện giờ anh đang tiến hành công việc theo hướng nào.
Trước bữa ăn sáng, anh ra khỏi nhà; nhưng khi tôi vừa mới ngồi vào bàn, đã thấy anh chạy xộc vào phòng, không kịp bỏ mu xuống, ở nách anh cặp một đồ dùng để xiên cá, trông giống như chiếc dù khá lớn.
– Quỷ tha ma bắt cậu đi Holmes! – Tôi thốt lên, – Không lẽ cậu định dạo chơi ở London với của nợ ấy hay sao?
– Không, tớ vừa ghé lại chỗ người bán thịt.
– Từ chỗ người bán thịt về?
– Không những thế mà còn về nhà với tâm trạng sảng khoái nữa chứ. Cậu biết không, trước bữa ăn nên tập thể dục một tí, có lợi cho sức khỏe lắm. Cậu thử đoán xem bài thể dục buổi sáng của tớ vừa rồi là gì?
– Tớ không hơi đâu mà đi đoán cái chuyện nhảm nhí ấy của cậu.
Holmes bỗng phá lên cười và rót cà phê ra tách.
– Cậu có nhìn thấy căn phòng phía sau của tiệm Allardyce, ở trên trần có treo một con lợn thịt vừa mới mổ xong, còn nguyên vẹn, và một gã đàn ông cởi trần trùng trục, đang toát mồ hôi cầm cái xiên này chọc tấm thịt kia. Gã đàn ông ấy chính là tớ. Nhưng than ôi! Mình tớ với một cú đâm không thể nào chọc thủng nổi tấm thịt ấy đuợc. Cậu có muốn thử sức một tí không?
– Chẳng đuợc tích sự gì. Nhưng cậu làm thế để là ai gì?
– Tớ nghi rằng, chuyện này có dính líu tới việc bí hiểm đã xảy ra ở Woodman’s Lee… A, chào ngài Hopkins, tối hôm qua tôi có nhận đuợc bức điện của ngài, và đang đợi ngài đây. Mời ngài vào, và xin mời ngài dùng bữa sáng, với chúng tôi một thể.
Một người đàn ông gày gò, nhanh nhẹn, trạc ba mươi tuổi bước vào phòng. Anh ta mặc trong người một chiếc áo len giản dị, nhưng trông điệu bộ của anh ta dễ thấy rằng anh ta có thói quen mặc quân phục. Tôi nhận ra ngay anh chàng Stanley Hopkins, viên thanh tra trẻ tuổi của Sở cảnh sát, mà theo lời nhận xét của Holmes, là một người có năng lực hơn cả. Ngược lại, Hopkins tự cho mình là học trò của Holmes – người thám tử lão luyện, dày dạn kinh nghiệm và luôn luôn thán phục những phương pháp đầy tính khoa học của anh.
Bộ mặt của Hopkins trông có vẻ cau có, quàu quạu anh ta ngồi phịch xuống ghế bành, dáng điệu rầu ri thảm hại.
– Mời ngài cứ tự nhiên, cảm ơn ngài, tôi cũng vừa ăn sáng xong. Tôi đã ngủ lại thành phố, vì phải đến đây để trình bày một số vấn đề với ngài.
– Ngài sẽ trình bày những vẫn đề gì?
– Thưa ngài, về chuyện thất bại của tôi.
– Việc của ngài không tiến triển thêm chút nào sao?
– Thưa ngài, không.
– Không lẽ lại như thế? Kiểu này tôi buộc lòng phải nhúng tay vào giải quyết thôi.
– Vì Chúa, tôi mong ngài giúp đỡ! Lần đầu tiên người ta giao cho tôi công việc khá quan trọng, tôi không đủ sức đảm đuong. Xin ngài cố gắng giúp cho!
– Thôi đuợc, tôi cung đã nắm trong tay một số dữ kiện của cuộc điều tra. Ngài có suy nghi gì về túi đựng thuốc tìm thấy nơi xảy ra vụ án? Trong đó liệu có tìm ra chìa khóa để mở và giải đáp những điều bí ẩn hay không?
Hopkins dường như ngạc nhiên:
– Thưa ngài, túi đựng thuốc lá là của người bị giết. Bên trong túi có ghi mấy chữ cái viết tắt và nó đuợc làm bằng loài đa hải cẩu. Người bị giết trước đây nhiều năm đã làm nghề săn bắn hải cẩu.
– Nhưng trong người ông ta không tìm thấy một chiếc tẩu thuốc nào hết!
– Đúng vậy, thưa ngài, chúng tôi không tìm thấy chiếc tẩu thuốc ở đâu cả. – Rõ ràng là ông ta hút rất ít. Cung có thể ông ta giữ thuốc để mời bạn bè.
– Không thể chối cãi điều đó. Tôi muốn đề cập tới vấn đề này cung chỉ vì, nếu tôi là người thân chinh điều tra vụ án, tôi sẽ lấy cái túi đựng thuốc lá làm xuất phát điểm cho việc điều tra, thăm dò tiếp theo. Tuy vậy, bạn tôi, bác sỹ Watson đây chua đuợc nghe kể về chuyện này, và tôi cung không từ chối đuợc nghe lại lần nữa. Ngài hãy kể tóm tắt cho chúng tôi nghe những gì thật quan trọng.
Hopkins lôi từ trong túi ra một tờ giấy nhỏ.
– Tôi có nắm đuợc một đôi điều về cuộc đời của ngài thuyền trưởng Peter Carey đã chết ông ta sinh năm 1845, nghia là đã 50 tuổi. Ông ta đuợc đánh giá là một trong những tay săn hải cẩu, cá voi can đảm nhất và thành đạt nhất. Năm 1883 ông ta đã chỉ huy một chiếc thuyền săn chạy bằng buồm mang tên “Sea Unicorn” ra đi từ Dundee, cung trong năm ấy ông ta thực, hiện một loạt chuyến đi thành công. Năm sau ông ta xin từ chức. Sau đó đi chu du khắp nơi trong vòng vài ba năm. Cuối cùng mua một biệt thự nhỏ “Woodman’s Lee” bên cạnh Forest Row, Sussex. Ông ta đã sống 6 năm ở đây. Và chết cách đây đúng một tuần. Ông ta là một người khác thường. Trong cuộc sống thường lặng lẽ, rầu ri, hay cau có và khó tính vô cùng. Gia đình của ông gồm có vợ và cô con gái 20 tuổi. Công việc trong nhà do hai cô hầu gái trông nom lo liệu. Những người hầu gái kia đuợc thay đổi thường xuyên; có lẽ họ sống trong đó không đuợc dễ chịu cho lắm, họ không thể nào chịu đuợc trong thời gian dài. Carey rất hay uống rượu, mỗi khi cơn nghiện nổi lên, ông ta trở thành một con quỷ dữ tợn. Đã có lần giữa đêm khuya ông ta đuổi vợ con ra khỏi nhà, và đua nắm đất ra dọa họ, rượt họ chạy khắp cả vùng. Và họ la hét ầm i đến nỗi làm cho những người ở làng bên phải thức giấc.
Có lần ông ta bị gọi ra tòa vì tội đã đánh trọng thương một cha cố già, khi ông này định giáo huấn tu tỉnh, hối cải cho lão ta. Tóm lại, thưa ngài Holmes, khó tìm thấy một người nào nguy hiểm hơn lão Peter Carey. Tôi đuợc nghe người ta nói, trong lúc còn chỉ huy con tàu, tính tình của lão ta cung như vậy. Ở giới thủy thủ gọi lão ta là Peter “hắc ám”, không phải chỉ do bộ mặt của lão đen đủi và bộ râu rậm đen, mà còn là do tính cộc cằn, hung dữ, điên rồ của lão; tính ấy đã làm cho mọi người phát sợ. Không có gì là khó hiểu khi mọi người căm ghét và tránh xa lão ta, và tôi không hề nghe một lời xót thương cho cái chết của lão.
Thưa ngài Holmes! Có lẽ ngài đã đuợc đọc bản điều tra ghi trong biên bản nói về ngôi nhà của người ấy, nhưng chắc bạn ngài chưa nghe nói về nó thì phải. Cách ngôi nhà chính không xa, tay thuyền trưởng đã dựng cho mình một căn nhà phụ bằng gỗ; mà ông ta luôn mồm gọi là “cabin”; cứ đêm đến, ông ta lại ra đấy ngủ. Đó là một chiếc lều một phòng nhỏ nhắn, diện tích độ 16×10 feet; ông ta luôn giữ chìa khóa trong người, không muốn cho bất cứ một ai lọt vào đó; ông tự mình dọn dẹp, tự mình trải khăn, trải giường. Trên hai bức tường của ngôi nhà có đục hai cửa sổ nhỏ. Cả hai cửa sổ bao giờ cung đóng kín mít, có một cửa sổ trông ra con đuờng làng. Có lần trong căn nhà này đèn thắp suốt đêm, những người qua đuờng ngạc nhiên tự hỏi: tay Peter đang làm cái gì trong đó? Chính cửa sổ ấy – thưa ngài Holmes đã giúp chúng tôi xác định một vài chi tiết đáng luu ý trong quá trình điều tra.
Hẳn ngài còn nhớ, người thợ đập đá tên là Slater đã đi qua Forest Row vào khoảng một giờ đêm trước khi xảy ra vụ giết người 2 ngày, đã dừng lại trước cơ ngơi của lão Carey, ông ta nhìn theo vệt sáng xuyên qua những đám cây. Anh ta thề là đã trông thấy bóng dáng người đàn ông hiện lên rất rõ trên nền chiếc trèm che cửa sổ. Nhưng đó không phải là bóng của Peter Carey, vì anh chàng Slater biết khá rõ lão Carey này. Người đàn ông kia cung để râu, nhưng râu người này ngắn hơn, thả xuống chứ không như râu lão Carey. Người thợ đập đá khẳng định như vậy. Cần nói thêm là, trước đó anh ta đã ngồi trong quán rượu suốt 2 giờ đồng hồ, và khoảng cách từ đuờng cái tới cửa sổ cung khá xa. Những điều anh ta nói là vào ngày thứ hai, còn vụ giết người lại xảy ra vào ngày thứ tư.
Thứ ba Peter Carey ở trong tình trạng sợ hãi nhất, lão ta hoàn toàn say mềm, không còn biết gì nữa, lão như một con thú dữ bị thương, thật dữ dằn và nguy hiểm vô cùng. Lão ta đi lang thang quanh nhà; đám đàn bà con gái hễ nghe thấy tiếng của lão là chạy vào nhà đóng nhặt cửa lại. Cho đến tối mịt lão ta mới trở về “cabin” của mình. Cô con gái ngủ trong buồng bao giờ cung mở cửa sổ. Gần hai giờ sáng, từ phía “cabin” bỗng vang lên một tiếng kêu khủng khiếp, cô con gái không lấy đó làm vấn đề quan trọng, vì cho rằng, lão Carey trong lúc say rượu vẫn thường la hét, chửi rủa om sòm. Bảy giờ sáng, sau khi thức dậy người đầy tớ phát hiện ra cánh cửa của ngôi nhà của lão Carey bị mở toang ra, nhưng vì vốn sợ lão cho nên mãi tới trưa vẫn không ai dám bén mảng tới gần chỗ lão ta. Khi nhìn
vào cánh cửa bị mở toang họ trông thấy một cảnh tượng rùng rợn và hoảng sợ đến run người. Họ ba chân bốn cẳng chạy vào làng. Một tiếng đồng hồ sau, tôi có mặt tại hiện trường và bắt tay vào điều tra.
Ngài biết đấy, thần kinh của tôi rất vững, nhưng thú thật tôi cung thấy choáng váng khi nhìn vào căn nhà bé nhỏ đó. Toàn bộ người lão ta bị một đàn ruồi bu đen kịt; nền nhà, mấy bức tường trông như là một lò sát sinh. Tay thuyền trưởng đã gọi căn nhà này là “cabin” cung không ngoa. Khi bước vào đó, ngài có cảm tưởng như đang ở trên con tàu ở cuối phòng kê một chiếc giường gỗ bé nhỏ; bên cạnh là cái rương, trên mấy bức tường treo đầy những tấm bản đồ đuờng biển, bức ảnh chụp con tàu “Sea Unicorn”; một chồng họa báo, ảnh về ngành
đóng tàu chất đầy trên giá sách. Tất cả những thứ ấy giống y như buồng chỉ huy của một thuyền trưởng. Trong mớ hỗn độn đó, nguời thuyền trưởng, khuôn mặt méo xệch, trông như bộ mặt của một tên vi phạm, đang bị hành hạ dưới địa ngục, bộ râu rậm đen láy dựng đứng lên trong cơn vật lộn giãy chết. Bộ ngực nở nang bị chiếc lao bằng thép đâm thủng. Ngọn lao xiên cá đâm suốt cả người và găm sâu vào tường bằng gỗ. Lão Carey bị dính chặt vào bức tường, trông như một con bọ hung bị người ta dùng kim băng găm vào bìa carton. Tất nhiên lão ta bị chết đúng vào giây phút phát ra tiếng gào thét ghê rợn.
Tôi đã làm quen với phương pháp điều tra của ngài, ngay lập tức tôi đem ra ứng dụng. Sau khi ra lệnh cho mọi người giữ nguyên hiện trường, tôi chăm chú xem xét kỹ lưỡng mảnh đất từ bên ngoài cửa, và tấm sàn ở trong phòng. Nhưng không phát hiện đuợc dấu vết gì cả.
– Ngài định nói là ngài không trông thấy dấu vết?
– Thề với ngài, ở đấy không hề có một dấu vết nào hết.
– Anh bạn Hopkins thân mến ơi, tôi đã từng khám phá, điều tra nhiều vụ án; nhưng chưa bao giờ gặp phải tên tội phạm nào có cánh cả. Một khi kẻ tội phạm đi bằng chân, thì hắn ta nhất thiết phải để lại ít nhất một dấu vết nào đó. Và người nắm vững các phương pháp điều tra một cách khoa học nhất định sẽ phát hiện ra sự thay đổi không đáng luu ý nhất trong sự sắp xếp đồ dùng xung quanh. Tôi không thể nào tin vào chuyện trong căn phòng ngập đầy kia lại không để lại những dấu vết có thể giúp chúng ta truy lùng ra chân dung tên tội phạm… Cung
cần nói thêm, từ biên bản điều tra tôi thấy vài ba chỗ thậm chí ngài không chịu chú ý tới.
Tay thanh tra non trẻ cau mặt lại. Lời nhận xét khá sắc bén của Sherlock Holmes đã làm cho anh ta sáng mắt lên.
– Tôi đã làm một chuyện ngu ngốc, thưa ngài Holmes, là đã không mời ngài tham gia ngay từ đầu vụ án. – Anh ta thú nhận. – Thế nhưng, đến bây giờ vẫn còn khả năng cứu vãn đuợc tình thế. Vâng, trong phòng còn một vài vật đáng chú ý. Bắt
đầu có lẽ từ ngọn lao xiên cá đuợc dùng để giết tên thuyền trưởng. Có người nào đó đã lấy ngọn lao xuống khỏi bức tường. Hai ngọn lao treo trên hai cái móc, còn móc sắt thứ ba bỏ không. Trên cán ngọn lao cá có khắc dòng chữ “SS. Sea Unicorn, Dundee.”. Điều đó chứng tỏ, vụ án mạng đã xẩy ra trong một cơn tức giận và kẻ giết người đã vơ lấy thứ vu khí đầu tiên mà hắn với đuợc. Còn về việc lão Carey ăn mặc nghiêm chỉnh, đàng hoàng khi mà vụ giết người đuợc thực hiện vào lúc hai giờ sáng, thì chứng tỏ lão Carey đã hẹn gặp gỡ với tên sát nhân. Một chai rượu Rum và hai chiếc ly bẩn còn nằm trên bàn đã chứng minh cho điều đó.
– Đúng. – Homl đáp, – Hai nhận xét trên của ngài có thể chấp nhận đuợc. Thế ở trong phòng ngoài rượu Rum ra còn loại rượu nào khác không?
– Vâng, có ạ. Trên rương có một chiếc khay, trên đó có hai chai ruợu brandy và whisky. Những thứ ấy không có ý nghia gì. Cả hai chai còn đầy rượu. Nghia là họ chưa đụng đến.
– Dẫu sao, sự có mặt của hai thứ rượu kia cung có một ý nghia nhất định nào đó. – Holmes phản lại. Theo ý ngài, còn vật nào ngài thấy có dính líu đến vụ án này?
– Trên bàn còn một túi đựng thuốc lá.
– Chính xác, nằm ở đâu?
– Ở ngay chính giữa bàn. Nó đuợc làm bằng loại da hải cẩu thô và cứng. Bên trong có đề hai chữ cái “P.C”. Trong túi còn độ một nửa ounce[1] thuốc lá loại nặng mà các thủy thủ thường dùng.
– Rất tuyệt. Còn gì nữa không?
Stanley Hopkins lôi trong túi ra một quyển sổ ghi chép bìa vàng xám. Tấm bìa đã bị rách nham nhở, còn những trang giấy ghi chép bên trong đã bị vàng ố và bạc màu. Ngay trên trang đầu đề có mấy chữ viết tắt “J. H. N.” và năm “1883”.
Holmes đặt quyển sổ xuống bàn và bắt đầu quan sát tỉ mỉ. Trong lúc đó tôi và Hopkins nhìn qua vai anh. Trên trang thứ hai chúng tôi trông thấy mấy chữ cái “C. P. R.,”; tiếp theo trang 2, ba trang sau toàn là những con số chằng chịt. Ở những trang khác ghi mấy chữ “Argentine,”, “Costa Rica,”, “Sau Paulo” và tiếp theo là những cột chữ số và những dấu hiệu nào đó.
– Ngài có suy nghi gì về những dòng ghi chép này? Holmes hỏi.
– Dường như đó là ghi chép của công ty giao dịch. Tôi cho chữ “J.H.N” là chữ viết tắt của người giao dịch viên, còn “C.P.R” có lẽ là tên của người bạn hàng anh ta.
– Hoặc chữ “C.P.R” có nghia thế này “Canadian Pacific Railway,” – Holmes có ý kiến khác.
Stanley Hopkins lẩm bẩm và tự vỗ vào trán mình.
– Tôi mới ngốc nghếch làm sao! – Anh ta thốt lên. – Tất nhiên ngài nói đúng. Bây giờ chúng ta chỉ còn nhiệm vụ giải mã mấy chữ “J.H.N”. Tôi đã xem xét tất cả những giấy tờ lưu trữ của công ty trong năm 1883. Tôi không tìm thấy một người giao dịch nào có tên với những chữ cái như thế kia. Dẫu sao tôi cung đã chọn đúng huớng. Thật ra thưa ngài, hoàn toàn có khả năng đó là chữ viết tắt của người đã đến thăm lão Carey trong đêm khuya hôm ấy. Nói cách khác, đó là tên của kẻ giết người chăng? Còn quyển sổ tay này, trong đó liệt kê nhiều giấy tờ giá
trị như vậy có thể giúp chúng ta tìm ra những nguyên nhân, động cơ dẫn tới vụ án mạng.
Dựa theo nét mặt của Sherlock, tôi thấy rõ một điều là anh hoàn toàn bị bất ngờ với sự phát hiện mới mẻ này.
– Tôi sẵn sàng thừa nhận những nhận xét của ngài có giá trị, – Anh nói. – Cuốn sổ ghi chép này trong biên bản điều tra không thấy nói đến, nên phần nào đã làm thay đổi nhận định ban đầu của tôi. Trong giả thuyết về vụ án của tôi không có chỗ cho nó. Còn ngài định đi tìm kiếm những chủ nhân của mấy tờ giấy giá trị này phải không?
Holmes tiếp tục xem xét tấm bìa của cuốn sổ dưới chiếc kính lúp phóng đại.
– Ở đây có một vết bẩn, – anh lên tiếng.
– Vâng, thưa ngài đó là vết máu. Tôi đã nói với ngài là cuốn sổ đuợc nhặt từ dưới sàn nhà.
– Vết máu dính ở mặt trên hay mặt dưới?
– Ở mặt dưới nằm dí dưới sàn nhà.
– Nghia là, quyển sổ này rơi xuống nền nhà sau khi xảy ra vụ giết người.
– Đúng vậy, thưa ngài Holmes. Tôi nghĩ kẻ giết người trong lúc vội vội vàng vàng đã đánh roi nó. Cuốn sổ nằm ngay chỗ cửa ra vào.
– Có khả năng… Ngài có tìm thấy một tờ nào trong số những giấy tờ giá trị kia trong đống tài sản của kẻ bị chết hay không?
– Không thấy, thưa ngài.
– Ngài có đủ cơ sở để nghi rằng đây là một vụ cướp bóc hay không?
– Thưa ngài không, dường như không có vật gì bị cướp đi.
– Có trời mới biết đuợc! Trường hợp này thú vị thật ở đấy có con dao hả?
– Con dao còn nằm trong vỏ, người ta không kịp rút nó ra. Nó nằm ngay dưới chân kẻ bị giết. Bà vợ người quá cố nói rằng con dao này là của chồng
Holmes trầm ngâm suy nghi:
– Thôi đuợc, – anh đáp, – tôi nghi, có lẽ tôi phải đi đến đó và xem xét tại chỗ.
Stanley Hopkins vui sướng thốt lên:
– Cám ơn ngài! Điều đó sẽ gỡ bớt đuợc gánh nặng trên người tôi.
Holmes dí ngón tay dọa dọa viên thanh tra:
– Mọi việc sẽ đến giản hơn rất nhiều, nếu như được giải quyết cách đây một tuần. – Anh nói. – Nhưng cho đến bây giờ cuộc thăm viếng của tôi vẫn có thể mang lại một ích lợi nào đó cho vụ án. Watson, nếu cậu không bận việc gì, thì tớ thật sung
sướng đuợc ra đi với cậu. Hopkins, ngài đi gọi ngay xe ngựa, chúng ta sẽ cùng đi đến Forest Row trong nửa giờ nữa.
Sau khi xuống một trạm xe nhỏ bé, chúng tôi còn phải đi tiếp vài ba dặm nữa trên một con đuờng xuyên qua cánh rừng rậm rạp. Khu vực khỉ ho cò gáy này, trong một thời gian dài 60 năm là những pháo đài của Anh Quốc. Những khu rừng bát ngát đã bị đốn trụi, bởi ở đây đã mọc lên những nhà máy luyện gang thép đầu tiên trong nước; để nấu quặng thì cần gì tới rừng. Ngày nay, nền công nghiệp đã chuyển về những vùng giàu có của miền Bắc, chỉ có cánh rừng là đã bị thưa đi, và những rãnh, luống đồ sộ còn in dấu nằm lại trên mặt đất, như nhắc nhở chúng ta nhớ về một thời sôi động đã qua. Trong một khoảng trống trên triền dốc xanh rì của ngọn đồi là một dãy nhà dài, xây bằng những tảng đá không đuợc gọt giua, có một con đuờng quanh co uốn khúc dẫn tới ngôi nhà. Con đuờng này hắt lên lấp
lánh giữa những cánh đồng Gần con đuờng, từ ba phía bị những bụi cây sum suê bao kín, một chiếc lều bé nhỏ trơ trọi ở đó, quay cửa sổ và cửa ra vào như tò mò ngắm nhìn những kẻ qua đuờng. Chính ở đây đã xảy ra vụ giết người.
Stanley Hopkins dẫn chúng tôi vào nhà giới thiệu với một người đàn bà tóc bạc trắng đang cau có – bà vợ góa của kẻ quá cố. Một khuôn mặt phờ phạc, những nếp nhăn sâu hoắm và cái nhìn đầy kinh hãi của cặp mắt sưng húp cùng với hàng mi mọng đỏ chứng tỏ bà ta đã phải trải qua những năm tháng đầy tủi nhục và đắng cay uất hận. Cô con gái, một cô gái tóc vàng, vóc dáng xanh xao, hừng hực cặp mắt lấp lánh, tuyên bố cô ta rất sung sướng vì cái chết của người cha; và rất đội ơn đôi bàn tay của ai đó đã đem đến cái chết cho ông ấy. Peter Carey đã gây
nên một không khí ngột ngạt, sợ hãi trong gia đình. Chúng tôi cảm thấy dễ chịu khi đi duới bầu trời tự do trên con đuờng mòn dẫn ngang qua cánh đồng do thuyền trưởng quá cố đã tạo nên. Ngôi nhà đuợc xây dựng quá sơ sài, vật liệu toàn bằng gỗ với hai mái gỗ nhẹ và hai cửa sổ, một cửa sổ nằm ngay bên cạnh
cửa chính, còn cửa sổ kia nằm đối diện. Stanley Hopkins lấy ra chiếc chìa khóa và tra vào ổ khóa. Bỗng nhiên anh ta dừng lại, trên nét mặt lộ rõ sự ngạc nhiên sửng sốt và chăm chú căng thẳng.
– Có ai đó muốn nạy ổ khóa này. – Anh ta nói. – Điều này không còn nghi ngờ gì nữa.
Cánh cửa bị cào xước, những vết xước trắng hiện lên khá rõ trên lớp sơn, dường như có một người nào đó vừa mới cào vào.
Holmes nhìn vào cửa sổ:
– Cánh cửa sổ cung bị ai đó cố tình mở, nhưng rõ ràng là không mở đuợc. Điều này chứng tỏ kẻ cạy cửa không phải là một tay thuộc loại chuyên nghiệp.
– Chuyện này thật kỳ cục. – Viên thanh tra nói. – Tôi có thể khẳng định với ngài, tối hôm kia những vết này chưa hề có.
– Hay là một kẻ ngố nào đó trong làng ra đây vì tò mò cung nên? – Tôi thử đề xuất ý kiến.
– Không thể như thế đâu. Trong truờng hợp vừa xảy ra vụ chết chóc, hiếm có người dám lảng vảng ghé đến sân ngôi nhà, chứ chưa nói chuyện cả gan dám cạy khóa căn phòng “cabin”. Những kẻ gan dạ như vậy khó tìm lắm. Còn ngài, ngài nghi gì về sự việc này thưa ngài Holmes?
– Tôi cho là chúng ta đã gặp may.
– Ngài cho rằng người ấy sẽ quay lại đây lần nữa hay sao?
– Rất có khả năng. Hắn ta đã dùng con dao nhíp nhỏ xíu để cạy cửa, cái đó không giúp gì cho hắn, hắn ta sẽ làm gì bây giờ?
– Tối hôm sau sẽ trở lại vời một dụng cụ thích hợp hơn.
– Ngài nói đúng. Thật là ngốc, nếu chúng ta không ngồi chờ hắn ở đây. Bây giờ ngài cho phép tôi đuợc ngắm nhìn “ca bin” bên trong.
Những vết tích của chuyện tang thương đã đuợc dọn dẹp, nhưng giường, bàn ghế kê trong phòng vẫn để y nguyên chỗ cu; như đêm xảy ra vụ giết người. Trong vòng 2 giờ, Holmes đã xem xét tỉ mỉ từng vật một, nhưng dựa theo nét mặt của anh có thể đoán công cuộc tìm kiếm này không mang lại kết quả gì. Chỉ một lần anh dừng công việc điều tra tỉ mỉ của mình lại.
– Hopkins, ngài có lấy một vật gì để trên giá sách hay không?
– Không, tôi không hề đụng tới một vật gì hết.
– Nếu vậy, ở đây có cái gì đã bị lấy đi, trong góc giá sách ở chỗ kia bụi bám hơi ít hơn một chút. Có lẽ có một quyển sách hay một cái hộp nào đó đã nằm ở đấy… Thôi tạm đủ. Chúng ta hãy đi dạo trong khu rừng tuyệt diệu này, để cùng nhau thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên, ngắm chim, ngắm hoa. Hopkins chúng ta sẽ gặp lại ở đây, không hiểu tối nay chúng ta có đuợc hân hạnh làm quen với anh chàng nạy khóa kia hay không?
Đúng 12 giờ khuya, chúng tôi tổ chức một cuộc phục kích. Hopkins thì muốn để trống cửa không có khóa, nhưng Hollnes lại lo ngại chuyện đó sẽ làm cho kẻ kia đề phòng, bởi ổ khóa không phức tạp cho lắm, chỉ cần một con dao chắc chắn một chút là có thể cạy đuợc. Holmes cung đề nghị chúng tôi không nên ngồi trong nhà phục kích, mà ngồi bên ngoài, dưới những lùm cây mọc cạnh cánh cửa sổ thứ hai. Bằng cách đó chúng tôi có thể theo dõi truy kích kẻ kia. Nếu như hắn thắp đèn lên thì chúng tôi dễ dàng biết đuợc mục đích nào dẫn hắn tới đây. Cuộc chờ đợi quả là căng thẳng và kéo dài hành hạ chúng tôi. Thần kinh run lên bần bật như một người thợ săn run rẩy khi ngồi rình con mãnh thú đang bị cái khát dày vò, tìm đến con suối để uống nước. Con mãnh thú nào sẽ xuất hiện ở đây? Một con hổ dữ với những chiếc răng bén ngọt, hay là một con chó núi nhút nhát, chỉ dám tấn công những con vật yếu đuối và không có khả năng tự vệ?
Chúng tôi ngồi núp trong bụi cây, hoàn toàn im lặng. Lúc đầu tiếng bước chân của những người đi dạo muộn vọng đến chỗ chúng tôi ngồi, nhưng rồi những âm thanh ấy cung im bặt. Cuối cùng cả không gian im ắng đến ghê sợ bao trùm lên chúng tôi. Chỉ còn tiếng gõ của chiếc đồng hồ nhà thờ như nhắc nhở chúng tôi thời gian đang trôi qua. Con mua nhỏ đang nhỏ giọt xuống những cành lá làm mái che mưa cho chúng tôi.
Tiếng chuông báo hiệu đã 2 giờ 30 sáng điểm gióng giả. Cái giờ tối tăm mịt mùng lạnh lùng nhất của buổi bình minh sắp bắt đầu. Bất ngờ chúng tôi giật thót người, toàn thân bỗng lạnh toát khi nghe thấy tiếng kêu răng rắc tuy khẽ, nhưng khá rõ từ cánh cổng bằng gỗ. Có một người nào đó đang đi theo con đuờng mòn. Sự im lặng kéo dài lại bao phủ. Tôi nghi đó là dấu hiệu giả. Thình lình từ sau ngôi nhà vang lên tiếng những bước chân rón rén, thận trọng; lát sau tiếng kêu leng keng của kim khí vang lên. Người này định cạy cửa! Lần này anh ta hành động có vẻ khéo léo hơn, cũng có thể dụng cụ trong tay anh ta tốt hơn. Sau đó vang lên tiếng động và hình như cái khoeo của ổ khóa bị bật ra. Người này bật diêm lên, ánh lửa của ngọn nến chiếu sáng khắp căn phòng. Qua lớp rèm mỏng manh,
chúng tôi trông thấy tất cả những gì xảy ra bên trong.
Người khách ban đêm là một gã đàn ông trẻ tuổi trông gầy gò, ốm yếu. Bộ ria mép đen nhánh làm nổi bật bộ mặt nhợt nhạt chết chóc của anh ta. Anh ta trên dưới 20 tuổi. Tôi chưa thấy người này rơi vào tình trạng thảm thương như thế bao giờ. Anh ta há hốc mồm giơ cả hàm răng ra có lẽ vì quá lo sợ, toàn thân anh ta run lên bần bật. Anh ta ăn bận rất lịch sự, đứng đắn, một chiếc áo bludông túi chéo may bằng loại dạ tốt; chiếc quần thể thao ngắn cun cỡn, đầu đội một chiếc mu nỉ. Chúng tôi thấy anh ta ngơ ngác lo lắng nhìn xung quanh, sau đó, đặt cây
nến xuống bàn, khuất một góc. Từ góc đó, anh ta cầm lên một cuốn sách – đó là tập họa báo đóng tầu. Cúi người xuống sát bàn, anh ta lật nhanh từng tờ cho đến khi nhìn thấy dòng chữ mà anh ta cần tìm. Đến lúc đó anh ta tức giận đấm xuống cuốn tạp chí, rồi đặt nó và chỗ cu và tắt nến.
Anh ta chưa kịp xoay người chạy ra khỏi cổng thì đã bị Hopkins chộp lấy áo. Tôi nghe thấy tiếng kêu dữ dội, đầy sợ hãi, tuyệt vọng. Kẻ bẻ khóa đã hiểu rằng: anh ta đã bị bắt. Chúng tôi thắp đèn lên. Anh ta run rẩy, quằn quại trong gọng kìm của người thám tử.
– Anh bạn yêu quí, – Hopkins lên tiếng, – Ngài là ai và ngài đến đây làm gì?
Chàng thanh niên cố gắng trấn tinh lại.
– Các ngài có phải là những thám tử? – Anh ta hỏi lại. – Các ngài nghi rằng tôi có dính líu tới cái chết của thuyền trưởng Peter Carey? Xin thề với các ngài chuyện này tôi không hề dính líu tới.
– Điều đó sẽ đuợc xác minh sau, – Hopkins đáp. – Truớc hết ngài cho biết quý danh?
– John Hopley Neligan.
Tôi nhận thấy Holmes và Hopkins đua mắt nhìn nhau.
– Ngài cần gì ở đây?
– Tôi có thể tin rằng các ngài sẽ không tiết lộ điều bí mật của tôi?
– Nhất định sẽ phải tiết lộ, chứ biết làm sao!
– Vậy lý lẽ nào buộc tôi phải nói?
– Nếu ngài không nói, ngài sẽ gặp khó khăn ở tòa.
Chàng thanh niên giật bắn người.
– Vậy thì tôi sẽ nói, – Anh chàng nhượng bộ. – Tại sao phải giấu giếm nhỉ? Nhưng tôi thấy kinh tởm với ý nghi là câu chuyện ô danh ngày xưa bị đua ra cho thiên hạ chê cười. Có bao giờ các ngài nghe thấy ai nói về Dawson và Neligan chưa?
Dựa trên nét mặt của Hopkins, tôi hiểu là anh ta không hay biết gì về chuyện ấy; còn Holmes sôi nổi hẳn lên và đáp:
– Ngài định ám chỉ những ông chủ của nhà băng miền tây phải không? Họ đã bị phá sản hàng triệu bạc; làm khánh kiệt hết nửa bang Cornwall và ngài Neligan đã biệt tích.
– Đúng nhu vậy. Neligan, đó là cha tôi.
– Cuộc vỡ nợ thực tế chỉ liên quan tới một mình cha tôi. Ông Dawson đã từ bỏ công việc khá lâu. Lúc bấy giờ tôi mới 10 tuổi, nhưng tôi cũng đủ khôn để cảm thấy nỗi tủi nhục và nỗi sợ hãi hùng cho cơ sự đã xảy ra. Mọi người đều cho cha tôi đã vơ vét tất cả giấy tờ quý giá rồi bỏ chạy. Điều đó không đúng sự thật. Cha tôi tin chắc một điều, nếu người ta gia hạn cho ông một khoản thời gian để kịp đổi chứng khoán lấy tiền, thì mọi việc dứt khoát sẽ trôi chảy và ông sẽ thanh toán đầy đủ chu tất cho những người gửi tiền. Cha tôi đã ra đi trên một chiếc thuyền nhỏ để đến Na Uy trước khi đi lệnh bắt ông đuợc ban bố. Tôi vẫn còn nhớ cái đêm cuối cùng khi cha tôi chia tay mẹ tôi, ông có để lại cho chúng tôi một bản thống kê những giấy tờ chứng khoán mà ông đã mang theo. Ông thề rằng nhất định sẽ khôi phục danh dự lại cho mình và sẽ không để cho một ai trong số những người tín nhiệm mình phải chịu cảnh đau khổ, thiệt thòi. Từ đó đến nay chúng tôi không hề đuợc tin tức gì về người cha xấu số nữa. Cả chiếc thuyền và cha tôi đều mất tích một cách bí ẩn. Tôi và mẹ tôi đều tin chắc rằng, cha tôi đã an nghỉ vinh viễn dưới đáy đại dương. Chúng tôi có một người bạn rất trung thành, một người đã có mối liên hệ công việc trước kia với cha tôi. Cách đây không lâu, ông ta đã cho tôi hay, một số giấy chứng khoán do cha tôi giữ ngày trước đã xuất hiện trên thị
trường London. Các ngài có thể tưởng tượng nổi sửng sốt của chúng tôi như thế nào không? Tôi đã mấy tháng trời ròng rã để lần theo các dấu vết các tờ chứng khoán kia và cung đã nếm nhiều mùi thất bại, gặp không ít nỗi gian truân vất vả. Cuối cùng tôi đã xác định đuợc những tờ chứng khoán kia là do thuyền trưởng Peter Carey chủ nhân của ngôi nhà nhỏ này bán ra. Tất nhiên, tôi đã tiến hành tìm hiểu về ông ta. Tôi đuợc biết ông ta đã chỉ huy chiếc tàu săn cá voi trên đuờng quay về đúng vào lúc cha tôi trên đuờng đi Na Uy. Mùa thu năm ấy thời
tiết khá xấu trên biển hay xuất hiện những cơn bão bất ngờ. Có lẽ chiếc thuyền của cha tôi đã bị trôi dạt về phương bắc, ở đó con tàu của thuyền trưởng Peter Carey đã bắt gặp nó. Nếu đúng nhu vậy, thì cha tôi đã bị biến mất đi đâu? Nếu ông Peter Carey có thể làm sáng tỏ cho tôi hiểu đuợc tại sao những tờ chứng khoán kia lại xuất hiện trên thị trường, thì tôi sẽ có đầy đù khả năng để chứng minh là cha tôi đã không hề đem bán những tờ chứng khoán kia, ông đã mang theo nó không nhằm một mục đích tu lợi nào hết.
Tôi đã đi đến Sussex với hy vọng gặp đuợc người thuyền trưởng, nhưng vào đúng thời điểm ấy ông ta đã gặp một cái chết thật khủng khiếp. Trong biên bản điều tra, tôi đã đọc đuợc đoạn mô tả căn phòng “ca bin” của ông ta, ở đấy có nói tới những tờ tạp chí, ảnh cu về ngành hàng hải. Tôi bỗng nảy ra ý nghi, nếu tôi may mắn đọc đuợc những tờ tạp chí kia thì có thể sẽ biết đuợc điều gì đã xảy ra trên chiếc tàu “Sea Unicorn” của tháng 8 năm 1883; qua đó tôi sẽ biết đuợc số phận bí hiểm của cha tôi. Đêm hôm qua, tôi đã định vào nhà để xem những tờ tạp chí, nhưng không tài nào mở đuợc cánh cửa. Hôm nay việc làm của tôi đạt kết quả hơn, nhưng tôi đã phát hiện ra là những trang giấy có hên quan đến tháng ấy đã bị xé mất. Sau đó thì các ngài đã tóm gáy tôi.
– Chỉ có thế thôi ư? – Hopkins hỏi.
– Vâng, mọi việc chỉ có thế. – Cặp mắt của chàng thanh niên lướt nhanh lên nhìn chúng tôi, sau khi trả lời xong câu hỏi.
– Ngài còn gì để nói nữa không?
Chàng thanh niên lưỡng lự.
– Xin hết ạ.
– Trước đêm hôm qua ngài đã đến đây lần nào chưa?
– Chưa ạ.
– Thế ngài định giải thích việc này ra sao? – Hopkins quát lên và chìa ra cho chàng thanh niên cuốn sổ tay với những chữ viết tắt tên họ của người thanh niên, và có vết máu dính ở bìa quyển sổ.
Cậu ta hoảng hốt và lấy tay che kín mặt lại.
– Ngài nhặt đuợc cuốn sổ này ở đâu? – Anh ta rền ri. – Thế mà tôi không hay biết… Tôi cứ nghi là đánh mất ở khách sạn.
– Đủ rồi! – Hopkins lạnh lùng đáp. – Nếu ngài còn muốn nói điều gì, thì để ra tòa hẵng nói tiếp. Còn bây giờ hãy cùng tôi đến sở cảnh sát… Ngài Holmes, tôi vô cùng đôi on ngài và bạn của ngài đã quá bước đến đây để giúp đỡ tôi. Có lẽ sẽ không cần sự có mặt của ngài ở tòa án làm gì. Tôi sẽ tự giải quyết công việc cho đến cuối, không cần đến ngài nữa. Những dẫu sao tôi cung đội ơn ngài rất nhiều. Ở Khách sạn Brambletye người ta đã dành cho hai ngài hai phòng, vậy chúng ta có thể cùng nhau đến đó nghỉ đêm nay.
– Watson, cậu nghi như thế nào về tất cả chuyện này? – Holmes hỏi, khi chúng tôi trên đuờng quay về vào sáng hôm sau.
– Tớ trông cậu có vẻ không hài lòng cho lắm thì phải?
– Ồ! Không đâu, Watson thân mến. Tớ hoàn toàn hài lòng, nhưng tớ không thể khen anh chàng Stanley Hopkins đuợc, cách thức của anh ta không thế nào chấp nhận đuợc. Tớ lấy làm buồn lòng cho anh ta. Tớ mong đợi ở anh ta nhiều hơn thế kia. Thông thường bao giờ cung có đáp số thứ hai, và cần phải tìm cho ra cái đáp số ấy. Đó là nguyên tắc đầu tiên của công tác điều tra hình sự.
– Đáp số thứ hai là đáp số nào vậy?
Điều này đang nằm trong nguyên lý phá án của chính bản thân tớ. Có thể nó không mang lại kết quả gì. Tớ không thể nói cho cậu một điều gì đuợc nhưng tớ sẽ tiến hành theo con đuờng đó đến cùng.
Tại hẻm Baker có vài bức thư đang đợi Holmes. Anh chộp lấy một lá thư, bóc ra và hoan hỉ cười lớn tiếng:
– Watson, thật tuyệt! Phương án thứ hai bắt đầu. Chúng mình còn mẫu in sẵn để đánh điện hay không? Cậu hãy ghi cho mình bức điện với nội dung sau đây: “Gởi ngài Sumner – Đại lý hàng hải, đại lộ Ratcliff – Gởi cho tôi ba người, có mặt vào mười giờ sáng ngày mai. – Basil”. Basil là tên của tớ ở ba vùng. Bức điện thứ hai: Thanh tra Stanley Hopkins, 46 phố Lord, Brixton. Hãy đến vào ngày mai,10 giờ 30, dùng bữa cơm sáng. Quan trọng. Nếu không đến đuợc, hãy đánh điện báo ngay. – Sherlock Holmes. “…Watson, đồ quỷ quái này theo đuổi tớ suốt 10 ngày ròng rã, bây giờ tớ muốn bứt ra khỏi vòng tay siết chặt của nó. Ngài mai, tớ hy vọng chúng ta sẽ kết thúc chuyện này – Vinh viễn kết thúc”.
Chính xác đúng giờ hẹn, tay thanh tra Hopkins xuất hiện và cả ba chúng tôi cùng ngồi vào bàn ăn thịnh soạn do bà Hudson dọn lên. Viên thanh tra trai trẻ hoan hỉ trước thắng lợi ban đầu của mình.
– Ngài hoàn toàn tin tưởng vào lời lý giải của mình là đúng phải không? – Holmes nói.
– Còn sao nữa! Trường hợp này rõ như ban ngày.
– Theo tôi, vụ này chưa phải là kết thúc.
– Ngài làm cho tôi ngạc nhiên đấy, thưa ngài Holmes! Ngài còn định đòi hỏi những gì ở tôi nữa?
– Không lẽ lời lý giải của ngài đã bao hàm tất cả các mặt của vẫn đề?
– Không nghi ngờ gì nữa. Tôi đuợc biết là anh bạn trẻ Nhehgan đã đi đến khách sạn Brambletye đúng vào ngày đã xảy ra vụ án. Anh ta đi đến đó giả vờ như là người đi choi golf. Phòng của anh ta nằm ở gác một và anh ta có thể bỏ đi, một khi anh ta muốn. Trong đêm hôm ấy anh ta đã đi đến Woodman’s Lee, và đã gặp lão Peter Carey, sau đó hục hặc với lão kia, rồi dùng ngọn lao để giết chết lão ta. Vì kinh sợ bàn tay nhuốm máu của mình, anh ta bỏ chạy và đã đánh roi quyển sổ tay. Anh ta mang cuốn sổ theo vì muốn đối chiếu những tờ chứng khoán ở nơi tay Peter Carey. Ngài có lẽ đã phát hiện một số dòng ghi trong cuốn sổ đuợc đánh chữ thập? Đó là những chứng khoán đã bị đem bán ra trên thị trường London. Nhưng phần lớn số ấy còn nằm trong tay Carey. Anh chàng Neligan, theo như anh ta thú nhận, đã mơ tưởng muốn chiếm lại những thứ ấy, hy vọng sẽ thanh toán nợ nần cho người cha. Sau khi bỏ chạy một thời gian anh ta không đủ can đảm để quay lại, nhưng cuối cùng đã quyết định nắm thêm một số tin tức cần thiết nên đã quay lại. Đon giản và dễ hiểu, có đúng nhu vậy không?
Holmes cười và lắc đầu.