Hoàng Mạc Như điên cuồng chạy về phía trước, hễ chạy được mấy bước lại gõ lên vách tường mong có thể tìm được một cánh cửa ngầm để hắn chuyển nguy thành an. Tuy hắn đại khái đã nhìn rõ tình hình xung quanh, nhưng vẫn cứ là mò mẫm trong đêm tối, cảm giác sợ hãi chưa hề mất đi. Chân giẫm xuống phát ra những tiếng “bịch bịch” quen thuộc, mắt đất bắt đầu trở nên khô ráo, so với đất ẩm vừa đi qua rõ ràng tốt hơn chút, hắn không hề buông lỏng cảnh giác, chỉ cắm đầu chạy, vì sợ tên sát nhân cầm rìu ban nãy có thể bò dậy tiếp tục đuổi theo, chờ thời cơ lấy mạng hắn. Hắn không nhớ nổi mình làm cách nào thoát khỏi lưỡi rìu của đối phương, chỉ biết khi đó bốn bề đều là màu đen, duy có viền rùi là lóe lên sáng lóa, hắn đã không còn đường thối lui, chỉ hét lên một tiếng, nhào tới ôm chắt lấy eo đối phương. Kẻ đó vì cú lao bất ngờ này mà ngã bổ chửng, hai người cùng lăn ra đất, Hoàng Mạc Như vung cây đèn trong tay ra sức đập vào đối phương, hắn không nhìn rõ mình đánh vào đâu, chỉ biết rấn công tới tấp cơ thể sống đang vùng vẫy dưới thân mình…
Lúc ấy, hắn đã không còn sợ nữa, khắp người trái lại còn tỏa ra sát khí. Thì ra, khi bị bức đến đường cùng, con người ta quả thật sẽ không màng hết thảy để tự bảo vệ bản thân. Dù đã nghe tiếng rìu rơi xuống đất, hắn vẫn không hề nhẹ tay, ý niệm duy nhất trong đầu bấy giờ chính là phải khiến con “quái vật” này bất động, chỉ cần nó còn động đậy thì hắn chưa thể thoát khỏi lòng bàn tay tử thần!
Bên tai chỉ toàn tiếng thủy tinh vỡ, mảnh vụn chao đèn găm vào mu bàn tay hắn, nhưng không thấy đau mảy may, máu trong cơ thể đang chảy dào dạt, nào còn thời gian sờ đên vết thương? Giữa chừng hắn định nhặt một mảnh vỡ to to chút, cắt đứt cổ họng đối phương – nếu tên sát nhân này có cổ họng, đáng tiếc bàn tay chỉ quờ quạng được những mẩu vụn trên mặt đất, cùng chất dịch lỏng nóng hổi. Hắn lo mình chảy máu mà chết, bèn chạy nhanh hơn, gió sượt qua da đầu tê dại của hắn, vết thương trên tay bấy giờ mới đau âm ỉ, chính những cảm giác đau đơn khó chịu này khiến hắn mừng rằng mình còn trên nhân gian. Bước chân hắn càng hăng hơn, người “dẫn đường” vô hình trong đầu dường như đang chỉ rõ phương hướng, những cánh cửa ngầm cùng góc ngoặt khuất nẻo cũng không đến nỗi khó nhận ra, mỗi bước sải đều rất hiệu quả.
Đúng rồi, chính là đây!
Mũi chân hắn chạm vào một vật cứng, hắn liền ngồi thụp xuống lần mò, là một bậc thang, có nghĩa trước mặt có lối đi dẫn lên trên. Lúc này, hắn mới ngửi thấy một thứ gọi là “hy vọng”.
Tô Xảo Mai đang nổi trận lôi đình với thực đơn Hương Bảo trai đưa tới, chê “Bào ngư hoa lan” quá tầm thường, khăng khăng đổi thành “Kim ngọc mãn đường”, rượu Phần đắt tiền cũng bị bà ta lôi ra hàng trăm điểm xấu, bắt Đỗ Lượng đi mua lại ít rượu Mao Đài, dung riêng cho bà của trấn trưởng. Bà ta mồm nói thì rất sướng, chỉ khổ mỗi đại quản gia, đề nghị Hương Bảo trai đổi món gấp không phải chuyện khó, nhưng lúc này kiếm đâu ra rượu hảo hạng. Giữa lúc khổ não, Ngọc Liên cười hì hì đi tới, lén giật giật ống tay áo Đỗ Lương, nói: “Cô Cả bảo cháu dặn ông, không cần để ý đến chỉ thị của bà Hai, giờ đổi cái này thành cái kia, thần tiên cũng không hầu nổi. Vì vậy ông cứ việc làm theo ý ông, kẻo lỡ dở đại sự.”
“Thay ta cảm ơn ý tốt của cô Cả.” Đỗ Lượng cười nói, “Nhưng cô và ta đều biết tính khí bà Ha rồi đấy, đến chút bùn trong kẽ móng tay còn phải gẩy ra bằng sạch, huống hồ chuyện lớn thế này, vẫn phải theo ý bà ấy thôi, bằng không cáo chức quản gia này của ta e cũng khó giữ.”
Ngọc Liên lại nói: “Đại quản gia lo nghĩ nhiều rồi, nhà này còn thiếu ai cũng không thiếu nổi ông. Giờ bánh xe phong thủy xoay vòng, không biết vòng tiếp theo xoay đến chỗ ai, nhưng ít nhất cũng không phải bà Hai.”
Đỗ Lượng bấy giờ mới quay lại nhìn kỹ Ngọc Liên từ trên xuống dưới, nghi hoặc nói: “Lẽ nào những lời này cũng là cô Cả bảo ngươi nói?”
Ngọc Liên cười đáp: “Sao có thể chứ? Đương nhiên là tự cháu nghĩ ra mới nói với ông rồi.”
Đỗ Lượng không khỏi thầm cảm khái, thì ra người hầu kẻ ở nhà này lòng đều như gương sáng, chỉ là ngày thường vẫn hay giả ngốc, duy có ông ta tâm cơ kém nhất, năng lực bày hết ra ngoài, lại phải chịu chèn ép. Ông ta chợt nảy ý thôi việc, nhưng nghĩ lại, vẫn quyết định đợi đến sau ngày tế tổ, giờ trong lúc cấp bách này mà bỏ đi thì có hơi thiếu đạo đức.
Đang nghĩ ngợi thì thấy Đường Huy từ xa vẫy tay gọi, ông bèn đi tới hỏi xem có chuyện gì, thì ra bà Hai nghĩ ra trò mới, muốn bày một bức hình phong gỗ tử đàn trong sảnh tiệc, nói rằng để cho sang trọng. Đỗ Lương vừa nghe liền biết ngay đây là mưu đồ bà Hai nhắm vào bà Ba,bởi chỉ có bà Ba lúc về nhà này mới được lão gia đặc biệt tặng cho món đồ cổ quý giá ấy, hòng xây dựng uy tín cho bà ta trong nhà họ Hoàng. Vì vậy món đồ này đương nhiên chướng mắt Tô Xảo Mai, bà ta bèn nhân cơ hội này mượn nó, dung xong đến lúc nào mới trả thì rất khó nói.
“Cũng không biết bà Ba có chịu không?” Đỗ Lượng miễn cưỡng nặn ra một câu, “Hơn nữa món đồ này bảo ai đi mượn được đây?”
Đường Huy tâm tính phổi bò, nói: “Chuyện tốt đẹp này đương nhiên phải là Đỗ quản gia xuất mã rồi, những người khác không ai đi được.”
Đỗ Lượng đành bấm bụng dẫn theo hai đứa ở tới phòng Trương Diễm Bình. Đứng ngoài cửa gọi mãi vẫn không ai đoái hoài, họ đành phải bước vào, thấy A Phụng đang nằm bò ra bàn say giấc nồng, nước dãi chảy đầm đìa. Ông ta khóc dở mếu dở, thầm nghĩ quả thật thói đời nóng lạnh, chủ nhân mất hồn, kẻ ở cũng mất tinh thần theo. Đưa tay đập bộp vào gáy ả ta, ả chỉ chép chép miệng, hơi thở vẫn đều đều như cũ, không hề tỉnh dậy.
“A Phụng!” Đỗ Lượng bắt đầu bực, túm lấy vai A Phụng lật ả dậy, cầm nước trà nguội trên bàn rót thẳng vào mặt ả, tiện thể cho ả hai cái bạt tai, bấy giờ ả mới mơ mơ màng màng mở mắt.
“Con ranh gan cũng to quá nhỉ, chủ nhân đang bệnh mà còn ngủ say như chết!”
A Phụng bị dọa sợ, cuống cuồng quỳ xuống nức nở: “Bình thường con đều hầu hạ bà chu đáo, tuyệt đối không dám ngủ vụng, hôm nay không hiểu sao lại ngủ đến tận giờ!”
“Bà Ba đâu?” Đỗ Lượng nghĩ đến chuyện chính cần làm gấp, cũng không so đo với ả, chỉ ngó đầu vào phòng trong xem xét, định bụng chủ nhân đằng nào cũng điên, có nói gì cũng không hiểu, chi bằng dặn luôn A Phụng rồi khiêng bình phong đi.
A Phụng rụt cổ bước vào phòng, không bao lâu đã lại chạy ra, mặt tái mét nói: “Bà… bà Ba không thấy đâu nữa.”
Trương Diễm Bình mất tích, người đầu tiên Đỗ Lượng đi báo là Hoàng Thiên Minh, ai ngờ ông ta nghe xong chỉ điều hai ba người ở đi tìm một vòng. Đỗ Lượng vốn định hỏi có cần rút mấy người đang bận việc tế tổ ở bên bà Hai về giúp không, nhưng thấy lão gia dửng dưng như vậy cũng đành lui ra ngoài. Hoàng Mộ Vân biết chuyện, ho sặc sụa một trận, rồi khi không đem roi mây ra vụt A Phụng tới tấp, A Phụng cũng không tránh, chỉ lăn ra đất khóc ti tỉ, nói là toàn thân bủn rủn không ngồi dậy nổi.
“Mau đi tìm! Không được để sót chỗ nào!”
Lời Hoàng Mộ Vân vừa rời khỏi miệng, Đỗ Lượng đã nghe ra ý tứ, bèn đáp: “Những chỗ có thể tìm dều đã tìm rồi, kể cả lầu sách cũng trống không.”
Dứt lời, Hoàng Mộ Vân đã xỏ giày da đi ra ngoài, Đỗ Lượng vội đuổi theo sau thì gã trừng mắt quát: “Các người đâu thực lòng đi tìm mẹ ta? Thà để ta tự đi, không phiền đến các vị lo đại sự tế tổ!”
Đỗ Lượng đành đứng lại, mặt thoắt đỏ thoắt trắng, nghĩ tới nghĩ lui vẫn đến tìm Hoàng Mộng Thanh, kể lại sự tình. Hoàng Mộ Vân nghe rồi cũng tỏ vẻ hững hờ, cười nói: “Bà ấy yếu ớt như vậy, còn có thể chạy được tới đâu? Nhất định là vẫn loanh quanh trong nhà này thôi, đợi lát nữa cháu sai Ngọc Liên ra tìm cùng, chú hẵng đi gọi Mộ Vân về, dặn nó đừng làm ầm lên. Bất luận thế nào cũng không được ảnh hưởng đến đại lễ ngày mai, hiểu cả chưa?”
Mấy lời này nói ra đến Đỗ Lượng cũng rung mình, ông bấy giờ mói hiểu món đồ quý lão gia khi xưa nâng niu trong tay giờ đã thực sự thành đống tro gấm, e chẳng bao giờ có thể lấy lại phong quang trước đây nữa. Thế nên ông ta quyết ý, cứ mặc Hoàng Mộ Vân đi, còn mình tới thẳng Phật đường lo tiếp việc tế tổ, gạt chuyện Trương Diễm Bình ra sau. Có một số chuyện, đã lực bất tong tâm thì chi bằng từ bỏ luôn cho thoải mái dứt khoát.
Trương Diễm Bình đáng thương, giờ vẫn không biết bị nhốt trong gian mật thất nào, toàn thân cứng đờ đứng trên ghế đẩu, cổ bị sợi thừng “đoạt mạng” siết chặt, chỉ cần một ngọn gió khẽ thổi qua cũng có thể rơi xuống địa ngục.
Hạ Băng và Đỗ Xuân Hiểu đã là những tay mù đường chính hiệu, không biết vào từ cửa nào, cũng không định sẵn lối ra, những nơi có hút than vạch qua không hiểu vì sao thoắt cái đã bị bùn tro che lấp. May mà chuẩn bị đầy đủ, cũng không đến nỗi cùng đường bít lối, hai người thậm chí còn lấy đó làm vui, bởi đều kiên định tin vào đạo lý “đi tới hết đường ắt có lối quành”, cho rằng tuyệt cảnh này có thể giúp họ phát hiện ra “kho báu” lớn hơn nhiều. Đỗ Xuân Hiểu vừa đi vừa ư ử một giai điệu không biết tên, Hạ Băng nắm một tay cô, thỉnh thoảng còn lấy điếu thuốc trên môi cô rít một hơi, rồi nhét trả, hành động tự nhiên như đôi vợ chồng già.
“Tôi đang tính, nếu còn tìm không thấy lối ra thì cậu đem bài ra mà bói lấy một đường.” Anh đùa.
Cô cười lớn, buông tay, lấy một lá Chiến xa ra huơ huơ trước mặt anh, nói: “Chỉ còn mỗi lá này thôi.”
“Đống còn lại đâu rồi?”
“Đều để lại chỗ đó làm dấu rồi.” Đỗ Xuân Hiểu lùi lại chừng mười bước, mở một cánh cửa ngầm, bên trong không có đường nhánh nào khác mà bị bít bởi tường gạch, trên tường dính một lá bài tarot.
“Bài tôi mang theo người chỉ đủ xem lá lẻ thôi, vì hiện giờ chỉ có hai mươi hai quân. Trước kia mỗi lần chúng ta để lại dấu đều bị người ta xóa sạch, nên tôi bèn tìm những cửa ngầm bị bịt kín, đính bài lên đấy, rồi đóng cửa lại, như thế người bạn muốn chúng ta lạc đường kia sẽ không biết được.” Cô cười rạng rỡ như hoa xuân, gương mặt phấn chấn hẳn lên dưới ánh lửa.
Hạ Băng chau mày: “Cũng chẳng có thứ tự, thì tác dụng gì chứ?”
“Ai bảo tôi không nhớ thứ tự đặt bài?” Cô hếch cằm, tỏ ra vô cùng kiêu ngạo.
Anh bấy giờ mới thở phào, đang định nói một câu mở lối thoát thì nghe cô bổ sung: “Thực ra tôi không nhớ thật.” Trắng trợn chọc anh tức muốn thổ cả huyết.
Hai người đang định đấu võ mồm, cô lại nhìn về khoảng không tối thui trước mặt, lẩm bẩm đầy âu lo: “Hơn nữa bài trong tay tôi cũng chủ còn một lá thôi…”
Hạ Băng lúc này đã không nhịn nổi nữa, vừa đi lên phía trước, vừa ngoái đầu quát Đỗ Xuân Hiểu: “Trước kia chẳng nói mình còn lợi hại hơn cả ông trời sao? Giờ lại lộ ra là nhát gan thế? Nhỡ mà chúng ta không ra khỏi đây được thật, đến khi lương đạn cạn hết, cậu nhất định phải chết trước, để tôi ăn thịt cậu.”
“Phì! Xương cốt cậu còn yếu hơn tôi, đương nhiên là cậu chết trước, tôi ăn thịt cậu!” Đỗ Xuân Hiểu lập tức phản bác, vứt đầu mẩu thuốc xuống đất, chạy lên trước véo tay Hạ Băng một cái thật đau.
Anh đau đến nhảy dựng lên, vội vén tay áo xem, thấy da thịt chỗ ấy đã đỏ như tôm luộc, bèn nói: “Mụ điên cậu đến lúc nào mới bình thường chút hả? Nói đùa thôi mà cũng động thủ! Còn thế nữa…”
“Ha! Quả nhiên vẫn là tôi khỏe hơn cậu!” Đỗ Xuân Hiểu không đợi anh nói hết đã tự dưng vỗ tay cười lớn. Hạ Băng trố mắt nhìn cô, thầm nghĩ chắc không phải điên thật rồi chứ.
Chỉ thấy cô khoa chân múa tay gập eo, nhặt mẩu thuốc dẹp lép vừa vứt xuống đất, reo lên: “Dấu hiệu này chắc cũng là do tôi dọc đường để lại, đảm bảo không chệch đi đâu được!”
Dứt lời, cả hai nhìn nhau im lặng hồi lâu, đột nhiên cười phá lên.
Hạ Băng cười xong, quay đầu lại định đi tiếp thì loạng choạng bổ nhào về phía trước, nắm bùi nhùi trong tay cũng theo đó văng ra, sượt qua má phải Đỗ Xuân Hiểu, cô lập tức nghe có tiếng “vù” bên tai, da mặt đau rát. Vốn định mắng Hạ Băng mấy câu cho bõ tức, nhưng cảnh tượng trước mắt đã làm cô á khẩu.
Bởi thứ Hạ băng vấp phải chính là một cầu thanh dẫn lên trên, điều này chứng tỏ, họ cuối cùng cũng có thể thoát khỏi mê cung dưới lòng đất, ôm lấy ánh sáng rồi!