Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Tempt Me At Twilight

Chương 4

Tác giả: Lisa Kleypas

Jake Valentine đã được sinh ra là một filius nullius, cụm từ tiếng Latin nghĩa là “con trai của kẻ tầm thường”. Mẹ anh ta Edith là người hầu gái cho một luật sư giàu có ở Oxford, và cha anh cũng là một vị luật sư giống thế. m mưu giải thoát cho bản thân khỏi cả người vợ lẫn cậu con trai cùng một lúc, vị luật sư đó đã đút lót cho một tên nông dân thô lỗ để cưới Edith. Ở tuổi lên mười, khi đã chịu đủ sự ngược đãi và đánh đập liên tục của tên nông dân, Jake đã đi khỏi nhà mãi mãi và hướng đến London.

Anh ta đã làm việc trong một tiệm kim hoàn được mười năm, đạt tới được sức lực và cơ bắp đáng kể, cùng với danh tiếng vì làm việc chăm chỉ và sự đáng tin cậy. Chuyện không bao giờ xảy ra với Jake là mong muốn nhiều hơn nữa cho bản thân mình. Anh ta đã được thuê làm việc, bao tử của anh no đủ, và thế giới bên ngoài London chả có chút thu hút nào với anh.

Một ngày, tuy nhiên, một người đàn ông tóc sẫm màu đã đến tiệm kim hoàn, và yêu cầu được nói chuyện với Jake. Bị hăm doạ bởi quý ông trong trang phục sang trọng và phong thái tinh tế, Jake lầm bầm những câu trả lời cho hàng loạt câu hỏi về tiểu sử cá nhân và kinh nghiệm làm việc. Và sau đó, người đàn ông làm Jake ngạc nhiên bằng việc đề nghị anh ta làm người hầu riêng của ông ta, với khoản lương gấp nhiều lần số tiền mà anh đang nhận được.

Một cách hoài nghi, Jake hỏi tại sao người đàn ông lại đi thuê một người thiếu kinh nghiệm, không được giáo dục đầy đủ, thô kệch cả về bản chất lẫn bề ngoài. “Ngài có thể lựa chọn được cho mình một người hầu riêng tốt nhất ở London này,” Jake chỉ ra. “Tại sao lại là người như tôi cơ chứ?”

“Bởi vì những tên hầu đó khét tiếng là kẻ ngồi lê đôi mách, và chúng đã làm quen được với những người hầu trong những gia đình có thế lực trên khắp nước Anh và vùng lục địa. Anh thì lại có danh tiếng trong việc giữ được cho mồm mình đóng, điều mà tôi đánh giá cao hơn nhiều so với kinh nghiệm. Thêm vào đó, nhìn anh có vẻ là người sẽ thể hiện bản thân rất tốt trong một vụ ẩu đả.”

Mắt của Jake mở lớn. “Tại sao một người hầu cận lại cần đánh nhau chứ?”

Người đàn ông đã mỉm cười. “Anh sẽ đi làm những công việc lặt vặt cho tôi. Một số trong chúng thì đơn giản thôi, một vài việc khác thì ít đơn giản hơn. Nào, anh có chấp nhận công việc không?”

Và đó là cách mà Jake đã đến làm việc cho Jay Harry Rutledge, đầu tiên là như một người hầu cận, và sau đó là như một người phụ tá.

Jake chưa bao giờ thấy bất kì ai giống Rutledge – lập dị, quyết tâm, chuyên quyền và đòi hỏi khắt khe. Rutledge đã có khả năng đánh giá về bản chất con người thông minh hơn bất kì ai mà Jake từng gặp qua. Chỉ trong vòng một vài phút gặp gỡ ai đó, anh ấy đã phán đoán được về họ với độ chính xác tuyệt đối. Anh ấy biết cách khiến ai đó làm điều mình muốn, và anh ấy gần như luôn có cách của riêng mình.

Dường như với Jake, trí óc của Rutledge chẳng bao giờ ngừng làm việc, không ngừng dù là để đi ngủ. Anh ấy bận rộn mọi lúc. Jake đã từng nhìn anh giải quyết một số vấn đề trong đầu, trong khi cùng lúc đó lại đang viết một lá thư và vẫn đang tiếp tục một cuộc đối thoại hoàn toàn mạch lạc. Sự khao khát thông tin của anh là mãnh liệt, và anh ấy cũng sở hữu một năng lực độc nhất vô nhị cho khả năng ghi nhớ. Một khi Rutledge đã xem hay đọc qua hay nghe thấy điều gì đó thì nó sẽ ở trong trí óc của anh mãi mãi. Mọi người có thể chẳng bao giờ nói dối anh, nhưng nếu họ đủ dại dột để thử, anh tàn sát họ thẳng tay.

Rutledge không tốt đến mức cư xử theo lòng tốt hay sự chiếu cố đến người khác, và anh ấy hiếm khi mất kiểm soát. Nhưng Jake không bao giờ dám chắc, theo bất kì cách nào, rằng Rutledge quan tâm nhiều thế nào đến những người dưới quyền của mình. Về cơ bản thì anh ta lạnh như một tảng băng vậy. Và bất chấp việc Jake biết nhiều điều như vậy về Harry Rutledge, họ vẫn là người lạ với nhau về căn bản.

Không quan trọng. Jake vẫn sẽ chết cho người đàn ông đó. Người chủ khách sạn đã nhận được sự trung thành từ tất cả các người hầu của mình, những người bị buộc phải làm việc vất vả nhưng được nhận lại sự đối xử công bằng và mức lương hào phóng. Đổi lại, họ giữ an toàn cho sự riêng tư của anh ấy một cách hăng hái. Rutledge đã làm quen được với khá nhiều người, nhưng những tình bạn đó hiếm khi được bàn đến. Và anh tuyển chọn ở mức yêu cầu cao đối với những người mà anh cho phép được vào nhóm điều hành nội bộ của mình.

Rutledge bị những người phụ nữ vây xung quanh, đó là điều đương nhiên – nguồn năng lượng hoang dã của anh ấy thường tìm thấy lối thoát trong vòng tay của những người đẹp khác nhau. Nhưng ở ngay dấu hiệu đầu tiên cho thấy rằng một người phụ nữ vừa mới cảm thấy một chút sự say mê thoáng qua, Jake đã được phái đến chỗ ở của cô ta để chuyển một bức thư nhằm cắt đứt tất cả sự giao tiếp qua lại trong tương lai. Theo một nghĩa khác thì Jake được cần đến để chịu đựng những giọt nước mắt, sự tức giận, hay những cảm xúc hỗn độn khác mà Rutledge không thể nào chấp nhận được. Và Jake sẽ thấy tiếc cho những người phụ nữ, ngoại trừ việc đi cùng với mỗi lá thư, Rutledge thường gửi kèm theo một vài món trang sức đắt đỏ giúp làm xoa dịu bất kì sự tổn thương nào.

Có một số lĩnh vực cụ thể trong cuộc sống của Rutledge nơi mà những người phụ nữ không bao giờ được cho phép. Anh không bao giờ cho họ ở lại trong dãy phòng riêng của mình, cũng như không cho phép bất kì ai trong số họ vào phòng chứa các vật dụng kì lạ của anh. Căn phòng đó là chỗ Rutledge tới và suy nghĩ về những vấn đề khó khăn nhất của mình. Và trong nhiều đêm khi Rutledge mất ngủ, anh sẽ đến chỗ bàn phác thảo để làm bản thân bận rộn với các máy tự động, làm việc với các cấu trúc đồng hồ và vài mẩu giấy và dây kẽm cho đến khi nào anh ấy có thể khiến cho đầu óc quá ư bận rộn của mình thư giãn. Bởi vậy mà khi Jake được kín đáo thông báo bởi một cô hầu gái rằng một người phụ nữ đang ở cùng Rutledge trong căn phòng chứa các vật dụng kì lạ, anh biết rằng có điều gì đó quan trọng đã xảy ra. Jake khẩn trương kết thúc bữa ăn sáng ở khu bếp của khách sạn, bỏ chạy qua một đĩa trứng đánh với kem được giải bên trên các cuộn thịt lợn xông khói giòn. Thông thường thì Jake sẽ dành thời gian để nhấm nháp món ăn ngon tuyệt đó. Mặc dù vậy, anh không thể đến muộn trong cuộc họp buổi sáng với Rutledge được.

“Không quá nhanh,” Andre Broussard, người bếp trưởng mà Rutledge đã thuyết phục rời xa ngài đại sứ Pháp hai năm trước, nói. Broussard là người nhân viên duy nhất ở khách sạn có khả năng ngủ ít hơn Rutledge. Vị bếp trưởng trẻ tuổi được biết đến là thức dậy từ 3h sáng để chuẩn bị cho công việc của một ngày, đi đến các chợ sáng để tự mình chọn những thực phẩm tươi nhất. Anh ta có mái tóc nhạt màu và vóc dáng mảnh khảnh nhưng anh ta sở hữu khả năng tự chủ và ý chí của một người chỉ huy trong quân đội. Tạm ngưng hành động trộn một loại nước sốt, Broussard nhìn Jake với vẻ ngạc nhiên. “Anh nên thử nhai đi, Valentine.”

“Tôi chẳng có thời gian để mà nhai nữa,” Jake đáp lại, đặt cái khăn ăn của mình sang một bên. “Tôi sắp nhận danh sách buổi sáng từ Mr Rutledge chỉ trong -” anh ta dừng lại để kiểm tra cái đồng hồ bỏ túi của mình, “- hai phút rưỡi nữa.”

“Ah, phải rồi, danh sách buổi sáng.” Người bếp trưởng tiếp tục làm theo người nhân viên của mình. “Valentine này, tôi muốn anh sắp xếp cho một bữa tiệc buổi tối sang trọng, nhằm thể hiện sự kính trọng với ngài đại sứ Bồ Đào Nha, sẽ được tổ chức ở đây vào Thứ ba và có màn trình diễn pháo hoa vào lúc kết thúc. Sau đó, hãy chạy đến văn phòng cấp bằng sáng chế mang theo những bản vẽ về phát minh mới nhất của tôi. Và trên đường về, dừng ở Regent Street, mua sáu chiếc khăn tay vải lanh mịn của Pháp, loại trơn thôi, không thêu trang trí, và Chúa giúp tôi, không có riềm đăng ten nhé -”

“Đủ rồi, Broussard,” Jake đáp ngay, cố không bật cười.

Vị bếp trưởng đưa sự chú ý của mình trở lại với món nước sốt. “Nhân tiện thì Valentine này… khi nào cậu tìm ra được cô gái đó là ai, quay lại đây và nói cho tôi nhé. Để đổi lại, tôi sẽ để cậu được chọn khay bánh nướng trước khi tôi gửi nó lên phòng ăn tối.”

Jake bắn cho anh ta một cái nhìn sắc bén, đôi mắt nâu của anh mở rộng. “Cô gái nào cơ?”

“Cậu biết quá rõ là cô gái nào mà. Là người mà Mr. Rutledge bị nhìn thấy là đang ở cùng sáng nay ấy.”

Jake nhăn nhó. “Ai nói với anh điều đó thế?”

“Ít nhất 3 người đã nhắc đến điều đó với tôi từ nửa giờ trước đấy. Mọi người đều đang bàn tán về nó.”

“Các nhân viên ở Rutledge bị cấm buôn chuyện kia mà,” Jake nghiêm nghị nói. Broussard đảo tròn mắt. “Với người ngoài thì đúng. Nhưng Mr Rutledge chưa từng nói rằng chúng ta không được buôn chuyện về chính chúng ta.” (Lách luật :>)

“Tôi chả biết tại sao mà sự có mặt của cô gái ở phòng chứa vật dụng kì lạ lại quá thú vị đến thế.”

“Hmmm… có thể là bởi vì ngài Rutledge chưa bao giờ cho phép bất kì ai vào đó chăng? Có thể là bởi vì mọi người làm việc ở đây đều cầu nguyện rằng Rutledge sẽ sớm tìm thấy được một người vợ làm ngài ấy bị xao nhãng khỏi việc can thiệp không ngớt vào việc của người khác? “

Jake lắc đầu buồn bã. “Tôi nghi ngờ việc ngài ấy sẽ kết hôn đấy. Khách sạn là nhân tình của ngài ấy rồi.”

Vị bếp trưởng trao cho anh ta một cái liếc mắt trịnh thượng. “Đó là bấy nhiêu mà cậu biết thôi. Mr Rutledge sẽ kết hôn, ngay khi ngài ấy tìm được người phụ nữ thích hợp. Như những người đồng hương của tôi nói, “Một người vợ và một quả dưa đều khó chọn.”

Anh ta quan sát Jake cài nút áo khoác và làm thẳng cravat. “Mang thông tin trở lại nhé, monami[9] .”

“Anh biết là tôi sẽ không bao giờ đi tiết lộ một chi tiết nào về những vấn đề riêng tư của Rutledge mà.”

Broussard thở dài. “Trung thành quá thể. Tôi cho rằng nếu như Rutledge có bảo anh đi giết ai đó thì anh cũng sẽ làm hả?”

Mặc dù câu hỏi đó được đặt ra một cách nhẹ nhàng thôi nhưng cặp mắt màu khói của vị bếp trưởng vẫn cảnh giác. Bởi vì không ai, thậm chí cả Jake, có thể hoàn toàn chắc chắn về những gì mà Harry Rutledge có khả năng làm, hay là lòng trung thành của Jake có thể đi xa đến chừng nào.

“Ngài ấy đã không bảo tôi làm điều đó,” Jake đáp trả, ngưng lại để thêm vào một tia hài hước, “vẫn chưa đâu.”

Khi Jake vội vã đến dãy phòng riêng gồm các phòng không được đánh số ở tầng ba, anh đã đi qua rất nhiều người làm ở các cầu thang phía sau. Những cầu thang này, và các lối vào ở đằng sau khách sạn, được sử dụng chỉ bởi người hầu và những người giao hàng khi họ tiến hành công việc hằng ngày của mình. Có vài người cố cản Jake lại với những câu hỏi hay những mối bận tâm, nhưng anh chỉ lắc đầu và sải bước nhanh hơn. Jake đã rất cẩn thận để không bao giờ bị muộn trong những cuộc họp buổi sáng với Mr Rutledge. Những buổi bàn bạc đó thường ngắn thôi, không lâu hơn 15 phút, nhưng Rutledge đòi hỏi sự đúng giờ.

Jake dừng lại trước lối vào dãy phòng được ẩn đằng sau một hành lang cá nhân nhỏ lát đá cẩm thạch và trưng bày đầy các tác phẩm nghệ thuật vô giá. Một lối hành lang an toàn bên trong dẫn đến một cầu thang kín đáo và cửa bên hông của khách sạn, để mà Rutledge không bao giờ phải sử dụng lối đi ngoài sảnh chính cho những lần đến và đi của mình. Rutledge, người luôn thích có được thông tin về mọi người khác, lại không cho phép bất kì ai khác làm giống mình. Anh ấy ăn phần lớn các bữa trong riêng tư, và đến và đi như anh muốn, đôi khi cũng chẳng có dấu hiệu nào cho biết là khi nào anh sẽ trở lại nữa.

Jake gõ vào cửa, và đợi đến khi anh nghe thấy một lời cho phép vào không rõ ràng. Anh bước vào dãy phòng, một dãy bốn căn phòng thông nhau, cái mà có thể được mở rộng ra thành một căn hộ rộng như một người mong muốn, lên đến tận mười lăm phòng. “Chào buổi sáng, Mr Rutledge,” anh nói, đi vào căn phòng làm việc.

Người chủ nhân của khách sạn đang ngồi trên một chiếc bàn to làm bằng gỗ dái ngựa, khớp với một cái tủ nhiều ngăn kéo và khoảng không. Như thường lệ, cái bàn chất đầy các cuốn sổ, giấy tờ, các quyển sách, thư từ, danh thiếp, một hộp tem, và một dãy các thứ đô dung để viết. Rutledge đang gấp lại một lá thư, và cẩn thận ấn con dấu lên một cái hồ sáp nóng.

“Chào buổi sáng, Valentine. Buổi họp của nhân viên đã diễn ra thế nào?”

Jake trao cho anh ta một cuộn giấy có các báo cáo của người quản lí. “Mọi thứ diễn ra trôi chảy, trong phần lớn cuộc họp. Có một vài vấn đề với nhóm người ngoại giao từ Nagaraja thôi ạ.”

“Oh?”

Vương quốc bé xíu Nagaraja, nằm xen giữa Burma và Siam, vừa mới trở thành một đồng minh của nước Anh. Sau khi đề nghị giúp đỡ những người Nagaraja ngăn chặn sự xâm lấn của người Siam, nước Anh đã khiến cho đất nước đó trở thành một trong quốc gia dưới quyền bảo hộ của mình. Điều đó cũng tương tự như là bị kìm kẹp dưới móng vuốt của một con sư tử và đồng thời lại được thông báo bởi chính con sư tử đó rằng bạn đang cực kì an toàn vậy. Bởi vì người Anh đang chiến đấu với người Burma và giành quyền kiểm soát các tỉnh ở khắp nơi nên những người Naragaja đã cực kì hi vọng rằng sẽ giữ được chính quyền của họ. Để đến gần hơn với kết cục đó, vương quốc này đã gửi một nhóm 3 đặc phái viên cấp cao trong một sứ mệnh ngoại giao đến Anh, mang theo những tặng vật đắt giá để thể hiện lòng thành kính Nữ hoàng Victoria.

“Viên quản lí bộ phận lễ tân,” Jake nói, “đã phải thay đổi phòng của họ ba lần từ khi họ tới đây vào chiều qua.”

Cặp lông mày của Rutledge nhướn lên. “Có vấn đề với các căn phòng à?”

“Không phải bản thân các căn phòng… mà là các số phòng, theo quan niệm duy tâm của người Naragaja thì không cho thấy dấu hiệu của một tương lai hứa hẹn. Chúng ta cuối cùng đã phải xếp họ ở phòng 218. Mặc dù vậy, không lâu sau đó, người quản lí tầng hai phát hiện có mùi khói toả ra từ dãy phòng này. Dường như là họ đang thực hiện một nghi lễ kỉ niệm việc đi đến một vùng đất mới, bao gồm việc khơi lên một ngọn lửa nhỏ trên một cái đĩa đồng. Thật không may là ngọn lửa vượt ngoài khả năng kiểm soát, và tấm thảm bị cháy sém.”

Một nụ cười làm cong khuôn miệng Rutledge. “Như tôi nhớ thì người Naragaja có các nghi lễ cho gần như mọi điều. Hãy chắc chắn rằng tìm được một địa điểm thích hợp để cho họ khơi lên bao nhiêu ngọn lửa thiêng họ muốn mà không đốt khách sạn ra tro.”

“Vâng, thưa ngài.”

Rutledge lật nhanh qua các bản báo cáo của các vị quản lí. “Tỉ lệ cư ngụ hiện tại của chúng ta là bao nhiêu?” anh hỏi mà không hề nhấc mắt lên.

“95% thưa ngài.”

“Tốt.” Rutledge tiếp tục đọc kĩ các báo cáo.

Trong sự im lặng sau đó, Jake để tia nhìn của mình lang thang qua cái bàn. Anh thấy một lá thư đề địa chỉ gửi đến Miss Poppy Hathaway, từ Quý ngài Michael Bayning.

Anh ta tự hỏi tại sao nó lại nằm trong sự sở hữu của Rutledge được nhỉ. Poppy Hathaway… một trong các chị em gái của một gia đình cư ngụ ở khách sạn Rutledge trong suốt cả mùa lễ hội London. Giống như các gia đình quý tộc không có dinh thự ở thành phố, họ bắt buộc phải hoặc là thuê một ngôi nhà có sẵn đồ đặc hoặc là ở lại trong một khách sạn tư nhân. Gia đình Hathaway đã là những người khách trung thành của khách sạn Rutledge được ba năm rồi. Có thể nào Poppy là cô gái mà Rutledge đã bị nhìn thấy là đang ở cùng sáng nay không nhỉ?

“Valentine,” vị chủ nhân khách sạn nói một cách thoải mái, “Một trong những cái ghế của tôi ở căn phòng chứa vật dụng kì lạ cần phải được thay vỏ bọc. Đã có một tai nạn nhỏ sáng nay.”

Jake thường không quá ngốc nghếch mà đi đặt ra các câu hỏi, nhưng anh đã không thể kìm chế được. “Loại tai nạn nào vậy ạ, thưa ngài?”

“Đó là môt con chồn sương. Tôi tin là câu chàng đang cố tạo một cái tổ trong những cái đệm.”

Một con chồn sương à?

Gia đình Hathaway rõ ràng là có liên quan.

“Loài động vật đó vẫn chưa bị bắt ạ?” Jake hỏi.

“Không, nó đã được mang đi rồi.”

“Bởi một trong các chị em gái nhà Hathaway phải không ạ?” Jake gợi ý.

Một tia cảnh báo loé lên trong đôi mắt màu xanh lá điềm tĩnh. “Phải, đúng thật là thế đấy.” Đặt những bản báo cáo sang bên cạnh, Rutledge dựa trở lại vào chiếc ghế của mình. Tình trạng thoải mái đi ngược lại với những tiếng gõ nhịp đều đều liên tục của các ngón tay anh khi đặt bàn tay mình trên bàn. “Tôi có vài việc lặt vặt cho anh đây, Valentine. Đầu tiên, đi đến tư dinh của Quý Ngài Andover trên phố Upper Brook. Sắp xếp một cuộc hẹn giữa tôi và Andover trong vòng hai ngày tới, tốt hơn là nên ở tại đây. Làm rõ rằng sẽ không ai biết về nó, và gây ấn tượng với Andover rằng đây là một trong những vấn đề cực kì quan trọng.”

“Vâng, thưa ngài.” Jake không nghĩ có bất kì chút khó khăn nào trong việc thực hiện những sự sắp xếp đó. Bất cứ khi nào Harry Rutledge muốn gặp một ai đó, họ đều tuân theo mà không hề trì hoãn. “Quý Ngài Andover là cha của Mr. Michael Bayning phải không ạ?”

“Là ông ta.”

Cái thứ quỷ quái gì đang diễn ra vậy?

Trước khi Jake có thể đáp lại, Rutledge đã tiếp tục với cái danh sách các việc. “Tiếp theo, mang cái này -” anh trao cho Jake một cuốn bản thảo khổ nhỏ được buộc bằng dây da, “– cho Sir Gerald ở War Office. Đặt nó trực tiếp vào tận tay ông ấy nhé. Sau đó, đi đến tiệm Watherston and Son, và mua một cái vòng cổ hoặc một cái vòng tay bằng tài khoản của tôi. Cái nào tinh tế ấy, Valentine. Và chuyển nó cho Ms Rawlings ở dinh thự nhà cô ả nhé.”

“Với lời ca tụng của ngài chứ ạ?” Jake hỏi đầy hi vọng.

“Không, với lời ghi chú này.” Rutledge trao cho anh ta một lá thư đã được đóng kín. “Tôi đang tống khứ cô ả đi đấy.”

Khuôn mặt Jake xịu xuống. Chúa ơi. Một cảnh khác. “Thưa ngài, tôi thà là đi làm một việc vặt ở khu Đông London và bị đánh túi bụi bởi những tên cướp đường còn hơn.”

Rutledge mỉm cười. “Điều đó có thể xảy ra muộn hơn trong tuần đấy.”

Jake trao cho ông chủ của mình một cái liếc mắt biết nói và rời đi.

Poppy nhận thức chính xác rằng về khả năng kết hôn, nàng có cả những điểm mạnh và những điểm yếu. Lợi thế của nàng là: gia đình giàu có, điều đó nghĩa là nàng sẽ có một khoản hồi môn hấp dẫn. Điều không phải lợi thế của nàng là: Gia đình Hathaway không phải là một gia đình được kính trọng cũng không mang dòng máu xanh[10] , bất chấp tước hiệu mà Leo có.

Lợi thế của nàng là: Nàng hấp dẫn.

Điều không phải lợi thế của nàng là: Nàng nói chuyện suồng sã và làm bản thân xấu hổ, thường là cùng một lúc, và cả khi nàng lo lắng nữa thì cả hai vấn đề cùng trở nên tệ hơn.

Lợi thế của nàng: Giới quý tộc không thể đủ khả năng chi trả cho sự mua sắm tốn kém khác thường như họ đã từng có thể. Trong khi quyền lực của giới quý tộc đang dần mất đi, một tầng lớp các nhà công nghiệp và thương gia đang nhanh chóng nổi lên. Do đó, các cuộc hôn nhân giữa những người thường dân giàu có và những người nghèo ở tầng lớp quý tộc xảy ra với tần suất ngày càng tăng. Ngày càng thường xuyên hơn, các nhà quý tộc phải – nói theo kiểu văn vẻ là – tảng lờ điều đó đi, và kết hợp với những người có nguồn gốc thấp kém.

Điều không phải lợi thế của nàng: Cha của Michael Bayning, ngài tử tước, là một người đàn ông đòi hỏi tiêu chuẩn cao, đặc biệt là ở những nơi mà con trai ông để tâm.

“Ngài tử tước chắc chắn phải cân nhắc đến cuộc hôn nhân này,” Miss Marks đã nói với nàng. “Ông ấy có thể có dòng dõi cao quý hoàn hảo, nhưng từ tất cả các tài khoản thì gia tài của ông ta đang giảm dần rồi. Con trai ông ta sẽ phải kết hôn với một cô gái từ một gia đình giàu có. Và dường như tốt nhất ở đây là một người nhà Hathaway.”

“Em hi vọng điều đó đúng,” Poppy đáp lại đầy xúc động.

Poppy không có chút nghi ngờ nào rằng cô sẽ hạnh phúc khi là vợ của Michael Bayning. Anh thông minh, trìu mến, hay cười… một quý ông từ lúc mới sinh. Cô yêu anh, không phải là với ngọn lửa đam mê rừng rực, mà là bằng ngọn lửa ấm áp và vững vàng. Cô yêu cách hành xử của anh, sự tự tin của anh, thứ mà đã thay thế cho bất kì dấu hiệu nào của sự ngạo mạn. Và cô yêu vẻ ngoài của anh, thừa nhận rằng nó không hề uỷ mị nữ tính chút nào. Nhưng anh có mái tóc dày màu hạt dẻ và đôi mắt nâu ấm áp, dáng người anh cao và khoẻ mạnh. Khi Poppy gặp Michael, dường như là quá dễ dàng… không cần mất chút thời gian nào, cô đã phải lòng anh rồi.

“Tôi hi vọng rằng em đang không hề bỡn cợt với tôi,” Michael đã nói với nàng như vậy vào một tối khi họ cùng đứng chiêm ngưỡng phòng trưng bày các tác phẩm nghệ thuật của một toà dinh thự ở London trong suốt bữa tiệc tối sang trọng. “Đó là, tôi hi vọng rằng mình đã không nhầm lẫn giữa một vẻ lịch sự đơn thuần về phần em với một điều gì đó có ý nghĩa hơn.” Anh đã dừng lại với nàng trước một bức tranh phong cảnh lớn được vẽ bằng màu dầu. “Sự thật là, Miss Hathaway… Poppy… mỗi phút mà tôi dành ra cho sự bầu bạn của em đều mang lại cho tôi niềm hạnh phúc vô cùng mà tôi hiếm khi chấp nhận khi không ở cùng em.”

Và nàng ngước nhìn lên anh một lúc lâu trong sự kinh ngạc. “Có thể có điều đó ư?” nàng thì thầm.

“Rằng tôi yêu em?” Michael cũng thì thầm đáp lại, một nụ cười chế giễu chạm đến bờ môi anh. “Poppy Hathaway, không thể nào tôi không yêu em.”

Nàng đã thở một hơi không ổn định, cả con người nàng ngập tràn niềm vui. “Miss Marks chưa bao giờ nói với em rằng một người phụ nữ phải nên làm gì trong tình huống này.”

Michael cười toe toét và ngả người vào gần hơn một chút, như thể đang truyền đi một bí mật cực kì thầm kín. “Em đáng lẽ phải trao cho tôi một sự động viên kín đáo.”

“Em cũng yêu anh.”

“Nó không hề kín đáo gì cả.” Đôi mắt nâu của anh sáng lấp lánh. “Nhưng rất vui được nghe điều đó.”

Sự tìm hiểu nhau giữa hai người vượt ra ngoài sự dè dặt thận trọng. Cha của Michael, Tử tước Andover, luôn bảo bọc con trai ông. Một người đàn ông tốt, như Michael nói, nhưng cứng rắn. Michael đã yêu cầu có đủ thời gian để nói chuyện với ngài tử tước và thuyết phục ông về sự đúng đắn của cuộc hôn nhân này. Poppy hoàn toàn sẵn sàng trao cho anh bao nhiêu thời gian mà anh muốn.

Những người còn lại của nhà Hathaway, mặc dù vậy, không thực sự đồng ý. Với họ, Poppy là một người đáng yêu, và nàng xứng đáng được tìm hiểu một cách cởi mở và với sự trân trọng.

“Anh có nên đi gặp và bàn bạc về tình huống này với Andover không?” Cam Rohan đã đề xuất khi cả gia đình đang thư giãn trong căn phòng khách riêng thuộc dãy phòng khách sạn của họ sau bữa tối. Anh đang ngồi uể oải trên chiếc sofa nhỏ cạnh Amelia, người đang bế cậu bé con sáu tháng tuổi của họ. Khi đứa trẻ được lớn lên, tên gadjo – gadjo là từ mà những người Gypsy dùng để chỉ những người không thuộc tộc người của họ – của cậu sẽ là Ronan Cole, nhưng trong gia đình thì cậu được gọi bằng tên Romany của mình là Rye.

Poppy và Miss Marks ngồi trên hai chiếc sofa nhỏ khác, trong khi Beatrix lười nhác nằm trên sàn nhà cạnh lò sưởi, đùa nghịch không có chủ đích với con nhím cưng được đặt tên là Medusa. Dodger thì mải hờn dỗi gần đó trong cái giỏ của nó, học được thông qua kinh nghiệm khó khăn rằng thật không khôn ngoan khi đánh nhau với Medusa và những cái lông to của cô nàng. Nghiêm nghị đầy trầm tư, Poppy nhìn lên từ chỗ đồ thêu của mình. “Em không nghĩ là điều đó sẽ giúp ích được.”

Nàng nói với người anh rể một cách hối tiếc. “Em biết anh có khả năng thuyết phục biết bao… nhưng Michael rất chắc chắn trong việc làm sao để giải quyết vấn đề cha anh ấy.”

Cam có vẻ như đang cân nhắc vấn đề thận trọng. Với mái tóc đen hơi quá dài, nước da màu mật ong sẫm sáng bóng, và một cái khuyên kim cương ở một bên tai, Rohan trông quá giống một vị hoàng tử ngoại giáo hơn là một thương nhân đã kiếm được một gia tài trong các vụ đầu tư vào sản xuất công nghiệp. Từ khi kết hôn với Amelia, Rohan đã, trên thực tế, là người đứng đầu gia đình Hathaway. Không người đàn ông còn sống nào có thể quản lý những con người vô kỉ luật một cách tài tình như anh. Bộ tộc của anh là cách mà anh gọi họ.

“Em gái nhỏ,” anh nói với Poppy, thanh âm thư giãn dù tia nhìn của anh rất chăm chú, “như người Rom nói, ‘một cái cây không có ánh mặt trời sẽ không cho quả.’ Anh không thấy có bất kì lí do nào giải thích tại sao Bayning không hỏi xin sự cho phép được tìm hiểu em, và sau đó bắt đầu việc đó một cách cởi mở như thông thường những người gadjo vẫn làm.”

“Anh Cam,” Poppy nói thận trọng, “em biết những người Rom có một con đường tiến tới sự tìm hiểu… tốt hơn, thẳng thắn hơn.”

Đến đó, Amelia gần như nghẹn thở vì cười. Cam thì tảng lờ cô với vẻ phê phán. Miss Marks trông bối rối khó hiểu, rõ ràng không biết rằng truyền thống tìm hiểu nhau của người Romany thường bao gồm việc bắt cóc một người phụ nữ ngay tại giường của cô ấy.

“Nhưng anh biết như bất kì ai trong chúng ta,” Poppy tiếp tục, “rằng đây là một quá trình còn hơn cả tinh tế đối với những con người tầng lớp quý tộc Anh.”

“Thực ra,” Amelia nói với vẻ hài hước tế nhị, “những người thuộc tầng lớp quý tộc Anh dàn xếp những cuộc hôn nhân với tất cả sự nhạy cảm lãng mạn của một giao dịch ngân hàng.”

Poppy nhìn chị gái mình đầy giận dữ. “Chị Amelia, chị đang ở phía nào thế ạ?”

“Với chị, không có phía nào ngoại trừ phía em.” Đôi mắt xanh dương của Amelia tràn đầy sự quan tâm. “Đó là lí do tại sao chị không quan tâm bất kì kiểu tìm hiểu qua lại kín đáo nào… xuất hiện tách biệt nhau ở các sự kiện xã hội, không bao giờ tới để đưa em và Miss Marks đi trên một chuyến xe ngựa… điều đó mang dấu hiệu của sự tủi nhục. Sự xấu hổ. Cứ như thể là em che giấu một vài bí mật tội lỗi vậy.”

“Chị đang nói là chị nghi ngờ mục đích của Mr Bayning ư?”

“Không hề. Nhưng chị không thích cách thức của anh ta.”

Poppy thở dài một chút. “Em là một sự lựa chọn khác thường cho con trai của một nhà quý tộc. Và do đó, Michael phải tiến đến bằng sự thận trọng.”

“Em là người bình thường nhất trong cả gia đình này đấy,” Amelia phản đối. Poppy trao cho chị gái mình một cái nhìn chằm chằm đầy chán nản. “Là người nhà Hathaway bình thường nhất hiếm khi là một điều đáng để huênh hoang.”

Trông rất giận dữ, Amelia nhìn chằm chằm người gia sư của em gái mình. “Miss Marks, em gái tôi dường như tin rằng gia đình chúng tôi cực kì không bình thường, hoàn toàn vượt ra ngoài những gì thông thường, rằng Michael Bayning phải trải qua rất nhiều nỗ lực – như sự xấu hổ và các thứ khác – thay vì đến chỗ ngài tử tước một cách thẳng thắn, đứng đắn và nói “Thưa cha, con có ý định kết hôn với Poppy Hathaway, con muốn xin sự chúc phúc của cha.” Chị có thể nói cho tôi tại sao lại cần một sự thận trọng quá mức như vậy về phần của Mr. Bayning không?”

Trong một lúc, Miss Marks dường như rơi vào tình trạng đã đánh rơi mất các từ ngữ vậy.

“Đừng đặt chị ấy vào hoàn cảnh đó,” Poppy nói. “Đây là những sự thật cho chị, Amelia: Chị và chị Win đã kết hôn với hai người Gypsy, Leo là một kẻ trác tang khét tiếng, Beatrix thì có nhiều thú cưng hơn cả Cộng đồng Thú nuôi Hoàng Gia, còn em có kiểu giao tiếp khác thường, không thể nào duy trì một cuộc trò chuyện theo đúng quy tắc. Như vậy đã đủ khó khăn để hiểu tại sao Mr. Bayning phải báo tin cho cha anh ấy theo một cách hết sức cẩn thận chưa ạ?”

Amelia trông như thể muốn cãi nhau, nhưng thay vào đó cô chỉ lẩm bẩm, “Những cuộc trò chuyện theo đúng quy tắc rất nhàm chán, theo ý chị là vậy.”

“Ý kiến của em cũng thế.” Poppy ủ dột nói. “Đó chính là vấn đề đấy chị ạ.”

Beatrix nhìn lên từ con nhím đang cuộn tròn trên quả bóng trong tay cô. “Thế Mr. Bayning có tạo ra những cuộc trò chuyện thú vị không hả chị?”

“Em sẽ không cần phải hỏi,” Amelia nói, “nếu mà anh ta dám vác mặt đến đây thăm chúng ta.”

“Tôi đề nghị rằng,” Miss Marks nói nhanh, trước khi Poppy có thể phản bác chị gái mình, “trên tư cách gia đình, chúng ta có thể mời Mr. Bayning đi cùng đến buổi trưng bày bộ sưu tập hoa Chelsea, vào ngày kia. Việc đó sẽ cho phép chúng ta có thể dành cả buổi chiều với Mr. Bayning – và có thể chúng ta sẽ có được sự chắc chắn về những dự định của anh ấy.”

“Em cho rằng đó là một ý rất hay,” Poppy thốt lên. Tham dự buổi trưng bày bộ sưu tập hoa cùng nhau thì hoàn toàn vô hại và kín đáo hơn nhiều so với việc Michael phải đến thăm họ ở khách sạn Rutledge. “Em chắc chắn rằng nói chuyện với Mr. Bayning sẽ làm nhẹ bớt sự lo lắng của chị, Amelia ạ.”

“Chị hy vọng thế,” chị gái nàng đáp lại, nghe có vẻ không bị thuyết phục. Một nếp nhăn nhỏ xíu hằn lên ở khoảng giữa hai hàng lông mày thanh mảnh của chị gái nàng. Cô ấy đưa sự chú ý trở lại với Miss Marks. “Là gia sư của Poppy, hẳn là chị đã thấy nhiều điều về người theo đuổi bí mật này hơn tôi. Ý kiến của chị về anh ta là thế nào?”

“Từ những gì tôi đã quan sát,” người nữ gia sư cẩn thận nói, “Mr. Bayning được đánh giá tốt và đáng được tôn trọng. Anh ta có danh tiếng tuyệt vời, không có tai tiếng về cám dỗ phụ nữ hay chi tiêu vượt khả năng thanh toán, hoặc gây gổ ở các sự kiện xã hội. Tóm lại thì anh ấy là sự trái ngược hoàn toàn với Ngài Ramsay.”

“Đó là nói tốt cho anh ta,” Cam nói. Đôi mắt màu nâu lục nhạt thú vị lấp lánh khi anh nhìn sang vợ mình. Một khoảnh khắc của sự trao đổi trong im lặng trôi qua giữa họ trước khi anh thì thầm nhẹ nhàng,

“Sao em không gửi cho anh ta một lời mời, monisha?”

Một nụ cười trêu chọc nhanh chóng thoảng qua đôi môi mềm của Amelia. “Anh sẽ tình nguyện tham dự một buổi trưng bày bộ sưu tập hoa à?”

“Anh thích những bông hoa,” Cam nói vẻ ngây thơ.

“Phải, chúng rải rác khắp những thảm cỏ và đầm lầy. Nhưng mà anh ghét việc nhìn thấy chúng bị xếp trong những luống đất đã dựng sẵn và trong những cái chậu nhỏ chật hẹp mà.”

“Anh có thể chịu đựng điều đó trong một buổi chiều,” Cam đoan chắc với vợ mình. Một cách vẩn vơ, anh chơi đùa với một lọn tóc đã bị lỏng ra và rơi trên cổ cô. “Anh cho rằng điều đó xứng đáng với nỗ lực để có một người em rể như Bayning.” Anh mỉm cười khi thêm vào, “Chúng ta cần ít nhất là một người đàn ông được xã hội chấp nhận trong gia đình, đúng không nào?”

Bình luận