Hiên Tịnh Dữu.
Phòng riêng của Lý Thư Bạch.
Hoàng Tử Hà lật xem hoàng lịch. Lý Thư Bạch ngồi bên lạnh lùng quan sát, thấy cô từ 17 tháng Giêng giở đến 21 tháng Hai rồi 19 tháng Ba, sau đó giở đến hôm nay, lật trang rất nhanh, tựa hồ chỉ liếc qua rồi đặt xuống, đoạn nói, “Đêm nay nếu có quan binh đi tuần, phải chú trọng cảnh giới một dải phía Đông Nam thành, đặc biệt là những nhà có phụ nữ mang thai, đó là đối tượng ra tay của hung thủ.”
Lý Thư Bạch nhướng mày, “Ngươi xác định mục tiêu thứ tư của hung thủ là thai nhi sao?”
“Rất có khả năng.” Hoàng Tử Hà đáp.
Lý Thư Bạch ngoảnh đầu ra ngoài, “Cảnh Hữu.”
Một tên hoạn quan bước vào, mày mắt cong cong, trông vô cùng dễ mến, “Vương gia.”
“Đến Đại Lý Tự, mời Thôi Thuần Trạm sang đây.”
“Vâng.” Cảnh Hữu vâng dạ rồi hành lễ toan cáo lui, không hề nhìn đến Hoàng Tử Hà lôi thôi đứng đó lấy nửa con mắt. Lý Thư Bạch lại trỏ Hoàng Tử Hà, “Trước tiên ngươi dẫn hắn xuống, sắp xếp cho một nơi ở đã. Phải nhớ, hắn là một tiểu hoạn quan.”
“Vâng, xin vương gia yên tâm.”
Tội nhân Hoàng Tử Hà bị truy nã khắp nơi, thế là trở thành một tiểu hoạn quan trong Quỳ vương phủ.
Cảnh Hữu chỉ cho Hoàng Tử Hà đường đi lối lại, dặn dò vài điểm cần chú ý, sau cùng dẫn cô đến khu nhà phía Bắc nơi ở của các hoạn quan, chọn cho cô một gian phòng đơn, lại gọi người đưa vật dụng hằng ngày và ba bộ đồ đến, nói, “Tiểu công công, ngươi mới đến đây nên chưa được bố trí chức trách, trước mắt chỉ cần nhớ phải tới chỗ vương gia thỉnh an hằng ngày là được.”
Hoàng Tử Hà tỏ lời cảm tạ rồi chạy sang tìm tên hoạn quan hàng xóm hỏi han những việc ăn ở sinh hoạt, đoạn đến nhà bếp tìm vài món bỏ bụng, cuối cùng xách hai thùng nước đi tắm gội sạch sẽ. Cả ngày bôn ba vất vả, dồn dập biến cố, cô đã mệt mỏi đến kiệt quệ, vừa đặt mình xuống giường là thiếp đi ngay.
Lúc tỉnh dậy, mặt trời đã lên đến ba con sào. Khi ra bờ giếng múc nước, một hoạn quan đang quét sân bảo cô, “Cảnh Hữu công công dặn chúng ta chuyển lời cho ngươi, tỉnh dậy thì đến gác Ngữ Băng.”
Hoàng Tử Hà húp vội húp vàng bát cháo, hỏi han đường sá, thay một bộ đồ hoạn quan rồi chạy đến nơi được bảo. Gác Ngữ Băng là thư phòng của Lý Thư Bạch, bốn phía là cây cối thoáng đãng sáng sủa, cửa sổ buông sa mỏng, có thể nhìn xuyên qua.
Hoàng Tử Hà bước vào, còn cách một lớp song hoa chạm trổ đã thấy Lý Thư Bạch đang ngồi bên trong xem bản đồ kinh thành.
Nghe tiếng chân cô, y ngẩng đầu lên, thản nhiên gọi, “Vào đây.”
Hoàng Tử Hà bước đến gần, Lý Thư Bạch trỏ bản đồ nói, “Đêm qua hung phạm không xuất hiện. Có điều theo cách nghĩ của ngươi, có phải tối nay hắn sẽ xuất hiện ở hướng Tây Bắc không?”
Hoàng Tử Hà thoáng kinh ngạc, ngẩng lên nhìn y, “Vương gia đã biết tôi phán đoán theo cách nào rồi sao?”
“Ngươi biết xem hoàng lịch thì ta cũng biết.” Y bình thản đáp, ngón tay trắng trẻo thon dài lướt qua một dải mười hai phường ở phía Tây Bắc kinh thành. “Sáng nay ta đã sai người đi nghe ngóng, trong mười hai phường này, chỉ riêng những thai phụ bụng đã lùm lùm cũng khá nhiều. Phường Tu Đức có hai người mang thai bảy tháng. Phường Phổ Ninh có người đã mang thai mười tháng sắp sinh. Phường Cư Đức có bốn người, đều từ sáu đến tám tháng.”
“Phường Phổ Ninh.” Cô trỏ vào vị trí một phường, khẳng định.
Lý Thư Bạch xem bản đồ chi tiết của phường Phổ Ninh, rồi nói, “Nhà thai phụ đó nằm bên cạnh nhà cũ của Từ Mậu Công.”
Hoàng Tử Hà sực nghĩ ra một chuyện, lưỡng lự cân nhắc, cuối cùng vẫn quyết định nén lại, đợi phá án xong mới nói. Nào ngờ Lý Thư Bạch đã nghĩ đến, quay ngay sang nhìn cô, “Nhà Trương Hàng Anh cũng ở phường Phổ Ninh.”
“Vâng.” Y đã chủ động nhắc đến, cô đành tiếp tục câu chuyện, “Nếu phá được vụ án này, liệu vương gia có thể xem xét để Trương Hàng Anh quay trở về đội nghi trượng không?”
“Không thể.” Y đáp ngay.
Hoàng Tử Hà phân bua, “Trương Hàng Anh cho tôi cải dạng trà trộn vào đội nghi trượng của vương gia, về lý không đúng, song về tình thì thực tử tế hiếm có. Biết uống nước nhớ nguồn cũng là đức tốt của bậc quân tử. Liệu có thể xin vương gia khoan dung, trước hết để gã theo tôi cùng điều tra vụ án này chăng?”
“Không được.” Y gạt phăng, “Tuy về tình có thể tha, song bên cạnh ta không cần một kẻ hành động theo cảm tính.”
Hoàng Tử Hà cắn môi dưới nói khẽ, “Vương gia khai ân…”
Y ngắt lời cô, “Nếu kẻ phạm lỗi chỉ sau mấy ngày lại có thể bình yên vô sự quay về thì còn đặt ra luật lệ nghiêm hình làm gì nữa? Sau này ta làm sao chỉ huy thuộc hạ?”
Hoàng Tử Hà cúi đầu nín thinh, đành gạt bỏ ý định cầu xin, lại hỏi, “Tiếp theo đây tôi phải làm gì?”
“Đi ngủ tiếp đi, đến tối theo ta tới phường Phổ Ninh.”
Phường Phổ Ninh, phía Tây Bắc kinh thành.
Theo lệ, sau canh hai các phường ở thành Trường An đều đóng cửa, không cho phép bất cứ ai đi lại ngoài đường nữa. Bởi vậy Lý Thư Bạch bèn cải trang thành một thư sinh du ngoạn, còn Hoàng Tử Hà làm thư đồng của y, chập tối cùng đến phường Phổ Ninh, tá túc trong một khách điếm.
Kẻ là công tử hào hoa đẹp đẽ, người là thiếu niên thanh tú thoát tục, dọc đường, cả nam nhân trông thấy cũng phải ngoái đầu nhìn lại. Bà chủ khách điếm họ ở đã viện cớ đưa nước đến bốn bận, ông chủ không yên tâm về bà chủ, cũng đến tận năm lần.
Hoàng Tử Hà búi lại tóc, chuẩn bị ra ngoài, “Để tôi liên hệ với người của bộ Hình cho. Vương gia thì chắc sẽ bị ông chủ bà chủ nhốt trong phòng rồi.”
Lý Thư Bạch lạnh lùng, “Ta đã không được yên mà ngươi nghĩ mình ung dung được sao?”
Hoàng Tử Hà định đáp thì thấy bà chủ lại tha thướt bưng bình trà đến ngoài cửa sổ.
Cô liền ngoảnh nhìn Lý Thư Bạch, thấy Lý Thư Bạch cũng đang nhìn mình, cười nửa miệng, “Cho ngươi một khắc. Đuổi đi.”
Chỉ có một khắc, nếu không mạnh tay, bà chủ sẽ không từ bỏ nhanh chóng đến thế. Mà đối với một nữ nhân đang xao xuyến, biện pháp mạnh tay nhất chính là…
Hoàng Tử Hà đến trước mặt Lý Thư Bạch, kéo tay y đặt hờ lên eo mình, nài nỉ bằng giọng vừa đủ để người ngoài cửa sổ nghe thấy, “Ôi chao, công tử, chúng ta đang ở bên ngoài mà, phải tránh tai mắt người ta chứ! Đừng, đừng sờ chỗ này mà… Ôi, chỗ này càng không được, ghét ghê, đều là đàn ông cả, để người ta trông thấy thì biết ăn nói làm sao…”
Bóng dáng thướt tha của bà chủ quả nhiên cứng đờ.
Bàn tay Lý Thư Bạch bị kéo đặt hờ lên eo cô bất giác cũng cứng đờ. Có điều, chỉ trong chớp mắt, y đã tỉnh bơ gỡ tay cô ra, quay mặt sang uống trà, “Được, tha cho ngươi đấy. Bà chủ khách điếm này phiền phức quá, cứ tới nhìn nhìn ngó ngó, lẽ nào bà ta đã phát hiện ra ta chỉ thích đàn ông?”
Ngoài kia, bà chủ bưng bình trà rảo bước đi thẳng, Hoàng Tử Hà tưởng như nghe thấy tiếng trái tim tan vỡ gieo rắc suốt dọc đường.
Cô lấy làm bất bình, bèn vặn, “Cần gì phải thêm ba chữ ‘phiền phức quá'”?
“Để giúp ngươi chóng hoàn thành nhiệm vụ.” Y thản nhiên đặt ly trà xuống.
Hoàng Tử Hà gài chốt cửa, mở cửa sổ ngó quanh ngó quất, đoạn tung người nhảy ra ngoài, vẫy tay với y, “Đi nào.”
Nhà họ Ngụy là gian thứ sáu trong con hẻm thứ hai cạnh nhà cũ của Từ Mậu Công, trong vườn trồng đầy hoa thạch lựu.
Kinh thành tấc đất tấc vàng, gian nhà này cũng không rộng lắm, gọi là vườn, thực ra chỉ là một khoảnh đất nhỏ chừng một trượng vuông, sau vườn là hai gian phòng trệt, tường bao xung quanh chẳng qua đến ngực Hoàng Tử Hà. Hai người ngồi xổm dưới gầm cầu đối diện, náu mình sau mấy khóm thược dược.
Đã quá canh hai, ngoài phố vắng hoe, đèn lửa đều lặng lẽ tắt cả.
Mây đen che mờ vầng nguyệt, dưới ánh trăng lờ mờ, hai người thoạt tiên ngồi xổm, cuối cùng lâu quá đành ngồi phệt xuống gốc thược dược, cùng ngắm bóng trăng soi mặt nước.
Hoàng Tử Hà hạ giọng hỏi, “Sao vương gia phải đi làm gì? Người của Đại Lý Tự và Hình bộ đâu?”
“Không báo.” Y thong thả đáp, vin một nhành thược dược còn phong nhụy bên cạnh xuống ngắm nghía, trầm ngâm nói, “Năm nay trời ấm, mẫu đơn chưa nở mà thược dược đã đơm nụ rồi.”
Hoàng Tử Hà hiểu ra ngay, mình phải đi bắt tên hung thủ biến thái tàn nhẫn thần bí khó lường kia, mà chiến hữu duy nhất lại là kẻ không hề có tính tự giác này đây. Không khỏi mệt mỏi, cô gặng hỏi, “Tại sao không báo cho Đại Lý Tự và Hình bộ?”
“Thôi Thuần Trạm của Đại Lý Tự đã hết sức khuyên ngăn ta, nói rằng phải phòng thủ thật chặt bên Đông thành, mấu chốt vụ án này nhất định nằm ở chỗ xảy ra tại bốn phương. Ta thấy hắn cố chấp như thế thì nên tôn trọng ý kiến của hắn. Hiện giờ hắn đang giăng thiên la địa võng ở Đông thành.”
“Vậy còn Hình bộ?”
“Người phụ trách vụ án này ở bộ Hình là thượng thư Vương Lân, cha ruột Vương Uẩn vị hôn phu của ngươi, cũng là cha chồng tương lai lúc trước. Ngươi muốn gặp ông ta ư?”
Dòng nước dưới cầu soi bóng trăng trong vắt, phản chiếu lên mặt Hoàng Tử Hà, trong một khoảnh khắc, Lý Thư Bạch thấy vẻ mặt cô thoáng xao động hệt như làn nước dưới cầu, song chỉ nháy mắt đã tan biến, tưởng đâu là ảo ảnh mà bóng trăng lưu lại trên mặt cô thôi. Hết thảy tâm tìmh đều lặng lẽ tan đi trong không khí, cô thản nhiên đáp, “Được thôi, cứ để họ đến Đông thành.”
Trong lúc họ trò chuyện, mặt trăng đã lên đến giữa trời, nhà họ Ngụy bỗng xôn xao, gian phía Đông có người thắp nến, rồi chỉ tích tắc dưới bếp cũng có người chụm lửa đun nước, ai nấy tất bật rối rít cả. Một người đàn ông khoác áo mở cửa lao ra ngoài, đằng sau còn có tiếng gọi với theo, “Bà đỡ họ Lưu ở nhà thứ tư trong ngõ Trù Hoa, đừng tìm nhầm đấy!”
“Mẹ cứ yên tâm!” Người kia tuy bước chân hối hả, song giọng nói lại rất vui mừng.
Hoàng Tử Hà nhìn chằm chằm vào nhà họ Ngụy, bất động. Lý Thư Bạch cũng buông tay thả nhành thược dược kia ra, “Xem chừng sắp sinh rồi.”
“Ừm.” Cô ậm ừ, ánh mắt vẫn dán vào bờ tường. Chỉ thấy trong đêm tối, một cái bóng từ từ bay đến, đậu bên cây thạch lựu, đoạn hướng vào trong nhà kêu lên mấy tiếng, “Cú, cú…”
Giữa đêm khuya, âm thanh đen đủi mà chói tay ấy hòa cùng tiếng rên la của sản phụ, khiến người ta nghe mà dựng cả tóc gáy.
“Chim lợn.” Lý Thư Bạch trầm ngâm, “Đúng là điềm gở.”
Người xưa nói rằng nửa đêm chim lợn kêu ngoài cửa sổ là đang đếm lông mi người, đếm rõ rồi sẽ lấy mạng người. Mà sinh con lại được ví như gần kề cửa mả, bởi vậy nghe thấy tiếng chim lợn người trong nhà đều giật nảy mình, một bà lão tức thì từ trong bếp xộc ra la lớn, “Tôi đi che lông mi của con dâu lại, ông nó mau đun nước đi!”
Ông chồng lật đật chạy đến nhà bếp, còn bà lão vừa che lông mi của con dâu xong, lại nghe chim lợn ngoài cửa sổ kêu lên mấy tiếng. Bà ta vơ ngay cây sào phơi áo bên cạnh, chạy ra sân đập bừa vào cây thạch lựu, hòng đuổi con chim đi.
Bà ta vừa ra khỏi cửa, kẻ kia đã lẻn vào phòng.
Hoàng Tử Hà bật dậy, nhưng Lý Thư Bạch còn nhanh hơn, vừa kéo tay cô vừa phi thân nhảy qua bụi thược dược. Hoàng Tử Hà chỉ thấy tiếng gió ù ù bên tai, nhô lên hụp xuống mấy bận đã đến phía sau nhà, trong khi đó, bóng đen kia đã vào được phòng bằng cửa sau.
Lý Thư Bạch đá tung cửa, xô Hoàng Tử Hà vào, còn y đương nhiên đứng ngoài.
Hoàng Tử Hà trông thấy hung thủ đang giơ cao cây chủy thủ toan đâm xuống bụng sản phụ. Đương lúc thất kinh lại bị Lý Thư Bạch đẩy một cái, cô mất đà ngã nhào, vai đập vào mạng sườn hung thủ, xô hắn ngã lăn sang một bên.
Hung thủ thấy hành tung đã bại lộ, liền nắm chặt chủy thủ, toan cướp đường bỏ chạy. Hoàng Tử Hà nằm dưới đất không cách nào ngăn được bèn giật lấy giá hoa bên cạnh hòng ngáng chân hung thủ.
Chậu hoa trên giá rơi xuống đất vỡ choang. Cùng lúc đó hung thủ kia vấp chân ngã sấp mặt. Hắn chưa kịp bò dậy, Hoàng Tử Hà đã chồm lên đá mạnh vào cổ tay hắn, hung thủ bị đau, cây chủy thủ trong tay cũng không cầm nổi nữa, Hoàng Tử Hà đoạt lấy hung khí, đoạn đè lên lưng hắn, “Không được cử động!”
Lý Thư Bạch nãy giờ vẫn đứng ở ngoài ung dung nhìn cô, đợi cô chế ngự được hung thủ mới lên tiếng, “Không tệ, tay chân nhanh nhẹn lắm, chỉ hiềm chẳng có quy tắc gì cả.”
Hoàng Tử Hà muốn câm nín, “Gia không vào giúp tôi một tay ư?” Cô thì ở bên trong ngàn cân treo sợi tóc, còn y vẫn khoanh tay đứng ngoài, toàn thân tắm dưới ánh trăng sáng rỡ, không động lấy một cọng tóc, tiêu sái như tiên.
“Bên trong có sản phụ sắp sinh, nam nhân như ta làm sao vào được?” Buông một câu khiến cô cứng họng, y nhàn nhã ngẩng lên nhìn vầng trăng trên trời, “Tình hình sản phụ thế nào rồi?”
Hoàng Tử Hà chưa kịp đáp thì tiếng trẻ sơ sinh khóc đã vang khắp phòng, bà lão ngoài sân nghe náo động, rốt cuộc cũng run rẩy chạy đến, thấy căn phòng vốn dĩ chỉ có mình con dâu nay lại thêm một tiểu thư đồng, rồi một tên áo đen bị thư đồng chĩa dao vào người, cô con dâu mệt lả, đứa nhỏ ngọ nguậy khóc oa oa, nơi cửa sau còn lù lù một nam tử đứng ngắm trăng, chưa kể chậu hoa vỡ dưới đất và chiếc giá kê đã gãy tan tành, bà ta tức thì trố mắt hãi hùng, “Ôi trời ơi… thế này… thế này là thế nào đây?”
Hàng xóm xung quanh nghe tiếng trẻ con khóc lũ lượt chạy sang hỏi thăm, ông lão cũng bưng chậu nước nóng đến cửa. Giữa tiếng ồn ào, Hoàng Tử Hà bất đắc dĩ ngẩng lên rặn ra một nụ cười với họ, “Xin lỗi, chúng ta tới bắt hung phạm…”
Hai ông bà già thấy thanh chủy thủ trong tay cô liền đưa mắt nhìn nhau, rồi quay ra ngoài la lớn, “Người đâu, cứu với cứu với, có kẻ đến giết người…”
May sao binh lính đi tuần trên phố nghe tiếng lập tức ập vào, sau khi tham kiến Lý Thư Bạch, liền trói gô hung thủ lại.
Bà đỡ vừa tới cũng kinh ngạc nói, “Sản phụ hoảng sợ rặn mạnh một cái, khiến đứa bé tọt ra ngay. May mà sản phụ khỏe mạnh nên hai mẹ con mới bình yên vô sự. Tôi sẽ tắm rửa cho đứa nhỏ ngay đây.”
Cha đứa bé nắm tay vợ, âu yếm, “Nương tử vất vả quá, ta quyết định rồi, đứa nhỏ này chúng ta sẽ đặt tên là ‘Kinh Sinh’, thế nào?”
Sản phụ yếu ớt tựa vào thành giường hỏi, “‘Kinh Sinh’ ư? Sao chàng không đặt là ‘Hách Sinh'(*)?”
(*) Kinh và Hách đều có nghĩa là sợ hãi. Kinh Sinh cũng như Hách Sinh, đều là “vì sợ hãi mà sinh ra”.
“Ý hay đấy, quyết định vậy đi, Ngụy Hách Sinh, rất hay rất hay…”
Hoàng Tử Hà thấy, lạnh lùng như Lý Thư Bạch, nghe vậy cũng không khỏi nhếch mép.
Khi Thôi Thuần Trạm và Vương Lân hớt hải chạy đến Quỳ vương phủ thì trời đã gần sáng.
Thấy mắt cả hai đỏ ngầu vì thức khuya, Lý Thư Bạch cũng chẳng khiển trách, chỉ sai người dâng trà lên cho họ trấn tĩnh, rồi nói, “Hung thủ vụ án Bốn phương đã sa lưới, sáng mai khai đường thẩm vấn đi.”
Vương Lân gật đầu lia lịa vâng dạ, song Thôi Thuần Trạm vẫn do dự hỏi, “Vương gia, vụ án Bốn phương này cho đến giờ còn chưa có manh mối về nguyên nhân gây án hay vật chứng gì cả, vương gia khẳng định kẻ bắt được tối nay chính là hung thủ ư?”
“Phải hay không, ngày mai thẩm vấn chẳng phải sẽ biết sao?” Lý Thư Bạch bưng trà tiễn khách, “Kinh thành giới nghiêm, đến đêm các phường đều phải đóng cửa, không ai được qua lại trên phố. Chắc chắn trước đó hắn đã phải trọ lại khách điếm trong phường Phổ Ninh, các ngươi có thể đi điều tra nơi hắn trọ xem.”
Hôm sau, Hình bộ và Đại Lý Tự cùng thẩm vấn, đối chiếu hung khí, xác định rõ là thứ được dùng sát hại mấy người trong các vụ trước. Lại soát được trong khách điếm mà hung thủ trọ lại có kinh văn do hung thủ chép, so sánh với nét chữ để lại ở hiện trường, thấy thói quen cất bút hạ bút đều hoàn toàn phù hợp.
Hung phạm tự biết không thể chối cãi, đành thú nhận tất cả, cũng khai hết những tình tiết và nguyên do gây ra mấy vụ án kia. Từ đây, vụ án Bốn phương làm náo động cả kinh thành đã được phá giải.
Trong điện Tứ Thần cung Đại Minh, hoàng đế Lý Thôi gần đây khó ở liên miên, nghe được tin này cũng phấn chấn tinh thần, bèn sai người triệu các vương gia cùng Đại Lý Tự thiếu khanh Thôi Thuần Trạm, Hình bộ thị lang Vương Lân vào gặp mặt.
“Thay quần áo, theo ta vào cung.”
Hoàng Tử Hà vừa mạng xong chiếc chăn, chạy đến gác Ngữ Băng gặp Lý Thư Bạch thì nghe y nói vậy. Cô kinh ngạc hỏi lại, “Vào cung ư?”
“Ta từng nói, nếu trong vòng mười ngày ngươi phá được vụ án mới có tư cách giúp đỡ ta đấy thôi. Bởi thế từ ngày hôm nay, ta có một việc muốn ngươi làm thay ta, hơn nữa để làm việc này, cần phải cho ngươi một thân phận xác định.” Nói đoạn y đứng dậy, phong thái nhàn tản tao nhã, chẳng có vẻ gì là đang đàm phán mặc cả, “Tóm lại, hiện giờ ngươi là một tiểu hoạn quan trong vương phủ này, những ngày quan trọng ta không đem ngươi theo, chẳng phải bớt đi mấy phần náo nhiệt hay sao?”
Cô cúi đầu “dạ” một tiếng.
Lý Thư Bạch ra cửa, bảo người đang đứng đó, “Gọi Cảnh Dục đến đây.”
Chẳng mấy chốc Cảnh Dục đã đến, người này mặt mũi cực kỳ lanh lợi, đưa mắt đánh giá Hoàng Tử Hà mấy lượt rồi hỏi, “Vương gia có gì căn dặn?”
Lý Thư Bạch thong thả hỏi, “Ngươi quản lý nhân sự trong phủ, vậy ta hỏi, hiện giờ theo danh sách, trong phủ có bao nhiêu hoạn quan?”
“Tổng cộng là ba trăm sáu mươi bảy người.”
“Nếu ba trăm sáu mươi bảy người đột nhiên biến thành ba trăm sáu mươi tám người thì sao?”
Cảnh Dục hiểu ý, lại liếc Hoàng Tử Hà, nghĩ ngợi rồi đáp, “Nô tài nhớ rồi, năm ngoái trong cung Cửu Thành gặp mưa bão, thất tán nhiều tiểu hoạn quan. Những hoạn quan ấy phần đông là trẻ mồ côi được đưa vào cung, có những kẻ chẳng tìm thấy xác, đến nay cũng không biết tăm tích.”
Lý Thư Bạch gật đầu, “Nói vậy thì, có thể là một trong những hoạn quan thất lạc ở cung Cửu Thành?”
Cảnh Dục phụ họa, “Nô tài đoán vậy, nhưng cụ thể là ai thì chưa nhớ ra được, xin vương gia cho nô tài đi tra xét xem đã.”
Lý Thư Bạch vẫy tay cho hắn lui ra. Chẳng bao lâu sau hắn bưng tới một cuốn danh sách dày cộp, thưa, “Nô tài đã tra được rồi, trong cung Cửu Thành có một tiểu hoạn quan, tên gọi Dương Sùng Cổ, phụ trách quét dọn gác Yên Lam. Tuổi chừng mười sáu mười bảy, thân hình cao năm thước năm tấc, gầy gò mảnh dẻ. Hắn là trẻ mồ côi được đưa vào cung, ở cung Cửu Thành cũng không có bạn bè, một thân một mình trong gác Yên Lam, bởi thế mọi người đều cho rằng hắn đã chết trong thiên tai năm ngoái, trong cung cũng xóa tên hắn rồi.”
“Ồ, nào ngờ tên Dương Sùng Cổ này gặp nạn lớn không chết, lại lưu lạc đến vương phủ của ta.” Lý Thư Bạch nhìn Hoàng Tử Hà, “Thân phận Cảnh Dục vừa nói, ngươi thấy thế nào?”
Hoàng Tử Hà đứng đó, lòng đầy cảm khái. Cô đã trốn chạy suốt mấy tháng trời, lặn lội trăm sông nghìn núi, ra sức che giấu thân phận, nào ngờ chỉ mấy câu ngắn ngủi của kẻ này đã đem lại cho cô một thân phận khác, trở thành một người khác, từ nay có thể quang minh chính đại xuất hiện trước mặt mọi người, không cần giấu giếm nữa.
Lời Quỳ vương Lý Thư Bạch nói ra, ai có thể nghi ngờ, mà ai dám nghi ngờ chứ?
Cô vội khom người hành lễ, “Nô tài Dương Sùng Cổ, đa tạ vương gia.”
Từ cửa Kiến Phúc cung Đại Minh đi vào, băng qua lớp lớp cửa son và tường cao mới thấy điện Hàm Nguyên sừng sững, trên đài cao là cung sâu cửa khuyết(*), như phượng hoàng xòe cánh ôm lấy mọi người.
(*) Trước cung điện hoặc lăng miếu thời cổ đại thường có loại cổng hai tầng, hai bên là hai bục đá, phía trên là ngôi lầu, ở giữa bỏ trống làm lối đi, gọi là cửa khuyết.
Sau điện Hàm Nguyên là điện Tử Thần trang nghiêm hoa lệ, phía sau điện, mái cong đấu củng(*) vàng son lộng lẫy trải dài liên miên bất tuyệt, nhìn hút tầm mắt.
(*) Một loại kết cấu đặc biệt trong kiến trúc Trung Hoa, gồm những thanh ngang từ trụ cột chìa ra gọi là củng và những trụ kê hình vuông chèn giữa các củng gọi là đấu.
Điện Tử Thần là nội điện, mấy năm nay hoàng đế ít khi triệu kiến quần thần ở điện Hàm Nguyên, đa phần đều chỉ ở điện Tử Thần. Hoàng Tử Hà chờ không lâu đã thấy hoàng đế vận thường phục đen bước ra cùng các hoạn quan theo hầu, thân hình hơi đẫy đà nhưng không béo phị, cằm tròn trịa, mắt dài, dáng vẻ thân thiện.
Hoàng đế Lý Thôi năm nay mới ba mươi lăm tuổi, mười năm trước được bè lũ hoạn quan ủng hộ mà đăng cơ, từ đó chỉ mải mê nữ sắc, không màng triều chính. Nếu nói là một thiên tử thái bình thì hơi gượng ép, song không làm gì ảnh hưởng đến dân chúng, trăm họ cũng được coi như yên ổn.
Hoàng Tử Hà thầm nghĩ, cùng một dòng máu mà trông hoàng đế ôn hòa hơn Lý Thư Bạch nhiều. Lại nhìn sang bọn Lý Nhuế, thầm nhủ, có vẻ tất cả đều dễ đối phó hơn Lý Thư Bạch, tại sao hết lần này đến lần khác người duy nhất có thể giúp mình lại chỉ là y.
Hoàng đế yên vị, đoạn tươi cười khen Lý Thư Bạch, “Tứ đệ xưa nay quả thực không chùn bước trước bất cứ việc gì. Vụ án Bốn phương này, mấy hôm trước trẫm còn nghĩ chẳng biết có nên nhờ Tứ đệ xử lý không, nào ngờ chưa kịp mở miệng thì tối qua đệ đã giải quyết xong, quả là thần tốc.”
Lý Thư Bạch đáp, “Đây không phải công lao của thần đệ, phá án được là nhờ kẻ khác.”
Ánh mắt hoàng đế dừng lại ở Thôi Thuần Trạm, hắn vội khom lưng sợ sệt tâu, “Án này phá được đều là nhờ Quỳ vương. Chúng thần có tội, chỉ lo tuần tra bên Đông thành, không nghe Quỳ vương chỉ thị, để Quỳ vương phải một mình đến hiện trường bắt giữ hung thủ, phá án.”
Bấy giờ ánh mắt hoàng đế mới dừng lại ở Hoàng Tử Hà đang đứng sau lưng Lý Thư Bạch, “Tiểu hoạn quan sau lưng Tứ đệ, hình như trẫm chưa gặp bao giờ?”
“Khởi bẩm bệ hạ, đây chính là người phá được vụ án, bởi thế thần không dám tham công, bèn dẫn hắn lên điện diện thánh.”
Nghe vậy, mọi người đều kinh ngạc đổ dồn mắt vào Hoàng Tử Hà, chỉ thấy tiểu hoạn quan này dung mạo hết sức thanh tú, trước sau vẫn cụp mắt nhìn xuống, nét mặt bình thản, một sợi tóc cũng không mảy may rung động.
Hoàng đế cười, “Đây là nội điện, hằng ngày trẫm cùng mọi người tùy tiện đã quen. Ngươi xem, ở đây hôm nay ngoài các tiểu đệ của trẫm cũng chỉ có Thuần Trạm điệt nhi của Thôi thái phi, Vương thượng thư thúc phụ của hoàng hậu, nhà ngươi cũng không cần gò bó quá. Ngươi tên gì?”
“Nô tài Dương Sùng Cổ, khấu kiến bệ hạ.” Cô bước lên quỳ xuống hành lễ.
Khang vương Lý Vấn còn trẻ, thấy cô xấp xỉ tuổi mình, liền bước ra gặng hỏi, “Ngươi đã phá được án đấy ư? Ta đang nghĩ mãi không ra, ngươi mau nói cho ta biết, vụ án này có phải án Bốn phương không? Tại sao ba phía Nam, Tây, Bắc đều xảy ra án mạng, vậy mà vụ án cuối cùng lại không phải ở phía Đông?”
Hoàng Tử Hà ngẩng lên nhìn hoàng đế, thấy người gật đầu mới giải thích, “Đây chỉ là do quán tính tư duy của mọi người, kết hợp với cái gọi là bốn phương bồ đề ‘Thường Lạc Ngã Tịnh’, lại thấy án mạng xảy ra tại ba phía Bắc, Nam, Tây của kinh thành, liền cho rằng quy luật giết người của hung thủ là Đông Tây Nam Bắc. Ngờ đâu hung thủ giết người chỉ mượn tiếng như vậy, chứ không làm theo quy luật đó. Thực ra, người thứ ba bị giết vốn ở phương Thường An phía Tây Nam thành, chứ không phải hướng chính Tây. Bởi vậy nô tài nghĩ, nếu lần theo hướng ‘bốn phương’, có thể sẽ bị chệch hướng.”
Chiêu vương Lý Nhuế liền hỏi, “Ta nghe nói, ngày đầu tiên hai người đã xác định mục tiêu ra tay của hung thủ ở phía Đông Nam kinh thành, sang ngày thứ hai lại xác định ở phường Phổ Ninh phía Tây Bắc kinh thành là vì sao?”
“Vụ án này muôn đầu nghìn mối, đều phải bắt nguồn từ câu pháp ngôn Trang Chân pháp sư đọc nhầm kia.” Hoàng Tử Hà giải thích cặn kẽ, “Hôm ấy trong cung Kiến Bật, nô tài nghe các vị vương gia kể lại tình tiết vụ án, Trang Chân pháp sư giảng kinh trong đại lễ Vu Lan, hẳn là trôi chảy lưu loát, hệt như âm thanh trên trời truyền xuống, vậy mà hung thủ chỉ thoáng nghe đã nhận ra một chữ đọc sai trong cả bài giảng kinh, nếu không phải người trong cửa Phật thì nhất định cũng là Phật tử thông thuộc kinh điển Phật gia. Kinh thành có lệnh giới nghiêm, nên nếu muốn giết người ở các nơi khác nhau thì vào ngày hành sự phải nghỉ trọ tại nơi đó, quanh địa điểm xảy ra ba vụ án đầu lại không có chùa miếu gì cả, nếu một hòa thượng trọ lại nhất định sẽ khiến người ta chú ý, vì thế nhiều khả năng kẻ gây án là Phật tử. Huống hồ kẻ này tàn sát nhiều, nhất định không phải kẻ quy Phật chân chính, hẳn là bị những thứ bàng môn tà đạo trong dân gian mê hoặc mà thôi. Người mê tín, tất có điều tin tưởng. Cứ theo những vụ án trước thì án này không phải dựa theo bốn phương tám hướng như lời đồn, nghĩ vậy, nô tài lại nhớ ra, những người mê tín thường có một thói quen, chính là làm việc gì cũng xem lịch.”
Bởi vậy sau khi xem hoàng lịch, cô phát hiện địa điểm ra tay của hung thủ hoàn toàn trùng khớp với hướng tốt trong ngày đó được ghi trên lịch, vào ngày xảy ra vụ án thứ ba, lịch chép rằng hướng Tây Nam là đại lợi, lại lật đến hai ngày xảy ra hai vụ án trước thấy một ngày có hướng đại lợi là chính Bắc, ngày kia có hướng đại lợi chính Nam, trùng khớp với phương hướng giết người của hung thủ. Bởi thế cô đoán rằng hung thủ giết người nhất định lấy lịch làm chuẩn chứ không phải như mọi người suy đoán là mỗi phương giết một mạng.
Thấy cô lật xem hoàng lịch, Lý Thư Bạch cũng chú ý ngay tới điểm này, bởi thế vào ngày có hướng đại lợi Tây Bắc, hai người mới cùng mai phục trước cửa nhà một thai phụ ở phường Phổ Ninh, ôm cây đợi thỏ.
“Té ra là thế!” Lý Vấn lại hỏi, “Vậy tại sao ngươi biết hung thủ chắc chắn sẽ ra tay với nhà đó? Sao biết được mục tiêu lần này nhất định là thai phụ?”
“Vì ba người bị giết trước kia, một là ông lão canh đêm đã già cả, một là thợ rèn trung niên, hai người này bị giết cũng khỏi bàn, nhưng đứa nhỏ trong nhà từ thiện đã yếu ớt suy kiệt, lại đang hấp hối, dù không giết thì cũng chẳng sống nổi mấy canh giờ, tại sao hung thủ còn giết nó?” Nói đoạn, Hoàng Tử Hà hơi ngập ngừng rồi tiếp, “Sau đó, nô tài chú ý đến một việc, chính là người thợ rèn trung niên kia, ông ta bị giết ở tiệm thuốc, nói cách khác ông ta đang trên đường tới hiệu thuốc khám bệnh thì bị giết.”
Lý Vấn còn đang ngẫm nghĩ, Lý Nhuận ở bên cạnh tay cầm ly rượu đã thở dài, “Bốn nỗi khổ của đời người, sinh lão bệnh tử.”
“Chính là vậy. Một già, một bệnh, một chết. Giờ chỉ còn duy nhất một chữ sinh, mà thai phụ kia chính là người duy nhất ở phía Tây Bắc thành Trường An sắp sửa lâm bồn, nếu hung thủ muốn ra tay trong ngày đó thì chỉ có thể nhắm vào mục tiêu ấy mà thôi. Huống hồ chi lẻn vào giết người, hắn lại vừa khéo gặp lúc sản phụ lâm bồn, mừng rỡ vô cùng, còn ngỡ rằng trời cao đang giúp mình hoàn thành nốt chữ ‘sinh’ này.” Thôi Thuần Trạm than thở, “Đại Lý Tự và Hình bộ cùng thẩm vấn, đương sự đã thú nhận tất cả, thì ra cả nhà hắn gặp nạn, trong một tháng chết sạch chỉ còn mình hắn. Hắn lo sợ đau buồn, rồi đem lòng tin theo một giáo phái từ Tây Vực truyền sang. Ở Tây Vực giáo phái này cũng bị chửi rủa xua đuổi, nào ngờ lại truyền vào Trung nguyên, giáo luật của chúng có một loại tà pháp, nói rằng tai ách có thể truyền sang cho người khác, lửa tà bốc lên, hắn bèn mù quáng tin theo tà pháp này, cho rằng chỉ cần giết được bốn người thì bản thân có thể vượt qua tứ khổ, từ nay về sau tiêu dao tự tại, không bệnh không nạn. Hiện giờ hắn đã bị nhốt vào ngục song vẫn u mê mù quáng, làm loạn cả lên, còn nói mình dùng kinh Phật độ mình độ người. Đúng là đến chết vẫn không hối cải!”
Trong điện im phăng phắc, hoàng đế vẫy tay nói, “Trẫm thấy cũng chẳng cần đợi sang mùa thu(*) đâu. Đã khai nhận tất cả, lại có vật chứng đầy đủ, hạng người tội ác tày trời này còn giữ lại làm gì? Trong mấy ngày nay, các ngươi xem xét xử lý cho xong đi, để cho hắn khỏi kêu gào làm loạn nữa.”
(*) Thời phong kiến, mùa thu và đông thường là mùa thực hiện án tử hình trong năm.
“Vụ này đã được khép vào tội chết, chẳng hay ý bệ hạ thế nào?”
“Chém ngang lưng đi.”
Vụ huyết án náo động kinh thành suốt mấy tháng nay thế là hạ màn. Mọi người điểm lại mấy vụ thảm án, lại nhìn tiểu hoạn quan mảnh khảnh mới mười sáu mười bảy chẳng khác nào nhành liễu đầu xuân đang đứng trước mặt. Nhưng chính thiếu niên yếu ớt này lại khéo léo rút ra được manh mối đầu tiên từ mớ bòng bong rối bời mà tất cả đã bó tay, tỉ mỉ xem xét đến mọi mạch suy nghĩ. Càng nghĩ càng thấy lòng dấy lên một cảm xúc khó tả.
Lý Nhuế đùa, “Tên tiểu hoạn quan này thực là thông minh lanh lợi, hèn chi lần trước đệ xin, Tứ ca lại không nỡ gật đầu.”
Lý Thư Bạch cười đáp, “Cửu đệ nói bừa, bấy giờ ta nào có nói chữ ‘không’ đâu.”
“Đúng vậy, đệ làm chứng cho Tứ ca.” Lý Vấn cũng chen vào.
Hoàng đế rất vui, chỉ cười cười ngồi xem các em đấu khẩu, mãi tới khi nữ quan từ phía sau ghé tai nói nhỏ, hoàng đế mới xen vào, “Tứ đệ gần đây song hỉ lâm môn, nên trẫm sẽ bày tiệc nhà ăn mừng trước. Đợi hôm đại hỉ của đệ, trẫm và hoàng hậu sẽ đích thân đến vương phủ chúc mừng.”
Cả đám nghe nói đều lộ vẻ thích thú, Khang vương Lý Vấn hỏi đầu tiên, “Tứ ca đã chọn được vương phi rồi ư? Là cô nương nhà nào vậy?”
Hoàng đế cười, “Chỉ ít hôm nữa là kim thư ngọc sách ban ra rồi, các đệ gắng đợi thêm mấy ngày được không? Nói chung thì vương phi của Tứ đệ đương nhiên là danh môn khuê tú thuộc hàng nhất nhì trong thiên hạ, sánh với Tứ đệ quả là một đôi người ngọc.”
Yến tiệc giữa ngày xuân, cả đám trong cung chuốc chén đổi bát, mãi đến khi mặt trời ngả về Tây mới lục tục ra về.
Hoàng Tử Hà theo xe ngựa ra khỏi cửa cung, vừa thở phào nhẹ nhõm thì Lý Thư Bạch vén rèm gọi, “Lên đây!”
Cô bất đắc dĩ lên xe, thấy y chỉ liếc mình rồi lại dõi mắt ra ngoài cửa sổ. Nhìn qua song cửa chạm trổ mây trôi phúc lành, cô thấy cảnh đường phố chầm chậm lướt đi không khác chi ngày thường.
Vẫn không quay mặt lại, Lý Thư Bạch nói thẳng vào đề, “Giờ ta muốn nghe thử vụ án của gia đình ngươi.”
Hoàng Tử Hà thoáng sững sờ, hỏi khẽ, “Vương gia chịu can thiệp vào vụ án này thực ư?”
“Lời ta đã nói, lẽ nào ngươi cho rằng ta sẽ nuốt lời?” Y hững hờ đáp, nhưng thái độ rõ ràng là ngươi-có-kể-hay-không-thì-bảo.
Hoàng Tử Hà cắn môi dưới, hồi lâu mới ngồi xuống chiếc ghế đối diện y, chần chừ kể, “Mọi chuyện phải bắt đầu từ một ngày trước khi vụ án xảy ra. Hôm ấy trời quang đãng, hoa mai nở đầy trong vườn nhà, tôi cùng Vũ Tuyên lội tuyết bẻ mai, quả là một ngày đông đẹp hiếm hoi…”
Lý Thư Bạch vẫn nhìn cảnh phố xá đang từ từ trôi qua ngoài cửa, “Vũ Tuyên là ai?”
“Là… một đứa trẻ mồ côi được cha tôi thu nhận sau khi đến Thục quận. Mười tám tuổi đã đỗ tú tài, có nhà riêng trong quận, nhưng vẫn thường tới thăm hỏi cha mẹ tôi.”
Lý Thư Bạch đưa mắt nhìn, thấy nét mặt Hoàng Tử Hà có phần khác lạ, khuôn mặt tái nhợt vì bôn ba và lo nghĩ nhiều ngày lại từ từ ửng lên ánh hồng rất kín đáo, khiến thần thái cả người trở nên khác hẳn.
Vũ Tuyên chắc là thanh mai trúc mã đây.
Y lại đưa mắt nhìn ra ngoài song cửa, vẻ mặt vẫn bình thản, chỉ hờ hững “ừm” một tiếng.
Hoàng Tử Hà thấy y không gặng hỏi, lòng cũng thầm nhẹ nhõm. Cô hít một hơi thật sâu, tiếp tục kể lại cái ngày đã trôi qua được mấy tháng, song vẫn khắc sâu trong lòng cô.
Sáng sớm hôm ấy đổ tuyết nhỏ, sau khi tuyết lạnh trời quang, màu trắng càng tôn lên sắc mai đỏ, cả thế giới như làm bằng pha lê, trong trẻo sáng rỡ.
Hoàng Tử Hà ôm một bó mai lớn vào lòng, cười khanh khách chìa cho Vũ Tuyên xem. Vũ Tuyên nói, “Hôm trước ta thấy một đôi bình mai, sắc xanh trứng sáo như bầu trời sau mưa, cảm thấy nếu đặt trong phòng muội thì quá tuyệt nên đã mua về, thế mà hôm nay lại quên đem qua, để đến chiều sẽ sai người đưa tới.”
Cô tươi cười gật đầu, ngày lành cảnh đẹp, nắm tay nhìn nhau, vậy mà ngày đông đẹp đẽ nhường này lại bị chuyến viếng thăm của hai vị khách phá hỏng.
Phụ thân bước vào, theo sau là tổ mẫu và thúc phụ cô. Hoàng Tử Hà vừa trông thấy đã reo lên, ném cả bó hoa mai cho Vũ Tuyên rồi chạy đến ôm chặt lấy tổ mẫu.
Từ nhỏ cô đã được bà cưng chiều nên tình cảm rất thân thiết. Vũ Tuyên thấy vậy liền cáo từ, bà lão cũng chỉ mỉm cười nhìn gã, đợi gã đi rồi, Hoàng Tử Hà mới nghe thấy bà khẽ thở dài.
Hai bà con dắt tay nhau vào phòng mẹ cô trò chuyện, mẹ cô cười nói, “Lần này tổ mẫu và thúc phụ sang đây là vì hôn sự của con đấy.”
Hôn sự. Hoàng Tử Hà lặng lẽ buông tay tổ mẫu ra, ngồi xuống làm thinh. Bà lão bất đắc dĩ vỗ nhẹ lên tay cô, cười nói, “Nhà họ Vương là danh gia vọng tộc. Vương Uẩn lại là cháu đích tôn ngành trưởng, huống hồ cha con đã từng gặp qua, luôn miệng ca ngợi Vương Uẩn tướng mạo nhân phẩm đều tuyệt hảo, con gả sang đó, nhất định sẽ suôn sẻ như ý.”
Mẹ rầu rĩ nhìn cô, đoạn khẽ thưa với bà, “Mẹ không biết đâu, con bé này chẳng biết tâm ý thế nào, hễ nghe nhắc đến nhà họ Vương là tỏ ý không vui.”
“Nó thẹn đấy mà.” Bà lão cười.
Hoàng Tử Hà nén giận, đang định lên tiếng phân bua thì a hoàn lại tới mời đi dùng cơm tối. Mọi người liền đứng dậy ra gian ngoài dùng cơm, Hoàng Tuấn thúc phụ cô vừa thấy bèn cười nói, “Tử Hà, sau này thành con dâu nhà người ta rồi, đến giờ cơm không được lề mề tới trễ thế này đâu, phải dọn sẵn cơm đợi cha mẹ chồng đó.”
Cha cô cũng cười theo, “Vương Uẩn một mình ở trong kinh, lấy đâu ra cha mẹ chồng mà hầu hạ? Sang xuân Tử Hà xuất giá, cũng như ở nhà thế này thôi.”
Hoàng Tử Hà sững người, đặt bát xuống hỏi, “Sang xuân ư?”
Mẹ cô tức thì đưa mắt ra hiệu cho cha, rồi bảo cô, “Đúng thế, tổ mẫu và thúc thúc con tới thăm lần này chính là để bàn bạc xem có phải sang xuân sẽ cho con xuất giá hay không, vừa khéo nhà họ Vương cũng có ý này…”
“Thực ra mọi người đã quyết định rồi, đúng không?” Hoàng Tử Hà đứng bật dậy, giận đến run người, “Cha, mẹ, con đã xin thoái thác đám này, nhưng hai người… giờ lại ép gả con đến nhà họ Vương!”
“Con bé này rõ là vô lý.” Hoàng Tuấn đã bàn bạc với nhà họ Vương, giờ lại thấy cô nói như vậy, không nén được cơn giận, buông đũa xuống sầm mặt mắng, “Họ Vương Lang Gia là vọng tộc từ mấy trăm năm nay, hai vị hoàng hậu họ Vương tiền nhiệm và đương nhiệm của bệ hạ đều xuất thân từ nhà họ, con tưởng cuộc hôn nhân này nói hủy là hủy được sao? Con vào được nhà họ Vương là phúc đức tổ tiên đấy, còn không mau chuẩn bị của hồi môn đi!”
Cha cô cũng thở dài, “Tử Hà, cuộc hôn nhân này được tổ phụ con ước định lúc còn làm tể tướng đương triều, giờ tuy nhà ta đã suy vi, song nhà họ Vương cũng chưa từng chê bỏ, có thể thấy họ quả thực ưng con. Con theo Vương Uẩn là tốt đấy, ta đã gặp rồi, nhân phẩm tướng mạo đều thuộc hạng nhất, không thua kém ai đâu.”
“Nhưng con thích người khác, không thích Vương Uẩn!”
Hoàng Ngạn đại ca cô từ nãy vẫn cắm cúi ăn, giờ mới ngẩng đầu lên, đổ thêm dầu vào lửa, “Hay lắm, không ưng nhà họ Vương à, đợi muội hại chết cả nhà thì tha hồ hủy hôn.”
Hoàng Tử Hà thấy đầu lạnh buốt đi, cô dằn mạnh bát xuống, tay run lên bần bật, không cầm nổi bát đũa nữa, chén canh tức thì chao nghiêng, rơi từ trên bàn xuống đất vỡ tan.
Nước canh bắn hết lên gấu quần Hoàng tổ mẫu, khiến bà bất đắc dĩ phải đứng lên gọi a hoàn lại lau, than rằng, “Con bé này, càng lớn tính tình càng khó chịu.”
Hoàng Tử Hà chỉ thấy mắt cay sè, nước mắt sắp tràn ra tới nơi, đành bưng mặt quay lưng chạy thẳng vào phòng òa khóc. Chẳng rõ đã khóc bao lâu, chỉ thấy một đôi tay mềm mại đặt lên vai, rồi giọng dịu dàng của mẹ vang lên bên tai, “Tử Hà, đừng vùng vằng khóc lóc như thế, chuyện này… ta và cha con cũng đang thương lượng. Nếu con cương quyết phản đối thì chúng ta cũng đành chịu, dù đắc tội với nhà họ Vương cũng quyết không để con khổ sở dằn vặt đâu.”
Cô rưng rưng nước mắt nhìn mẹ, qua màn lệ chỉ trông thấy nụ cười bất lực của bà. Mẹ cô lại dỗ dành, “Trở ra xin lỗi tổ mẫu và thúc thúc con đi, người một nhà có chuyện gì mà không thương lượng được chứ?”
“Nhưng… con mà quay lại… mất mặt lắm.” Cô nghẹn ngào nói.
“Con xuống bếp bưng đĩa thức ăn lên, hôm nay chẳng phải nấu món canh móng dê mà bà thích nhất đó sao, đi đi, trở ra múc cho mỗi người một chén, nhận sai xin lỗi, mọi người sẽ nghĩ cách giúp con mà.”
Hoàng Tử Hà gật đầu, lau khô nước mắt đi xuống bếp, đích thân bưng một bát canh móng dê lên bàn ăn, rồi tự tay múc cho mỗi người một chén. Riêng cô, vì vừa khóc lóc, cổ họng khản đặc, canh móng dê lại tanh, cô không thích ăn nên quay sang uống nửa bát chè hạnh nhân.
Tối hôm ấy, cả nhà đều trúng độc mà chết, nguyên nhân là tại tỳ sương bỏ lẫn trong món canh móng dê mà cô đích thân múc cho mỗi người một chén.
Sắc chiều dần buông, đi suốt cả chặng đường, đã đến lúc kinh thành lên đèn.
Lý Thư Bạch lẳng lặng lắng nghe, không nói một lời, đến khi cô kể hết, y mới thong thả hỏi, “Nhưng chỉ dựa vào chuyện đó cũng không thể chứng minh ngươi hạ độc cả nhà. Lẽ nào kẻ khác không có cơ hội chạm vào bát canh móng dê kia ư?”
“Không có.” Hoàng Tử Hà đáp khẽ, nhưng rành rọt, “Dê do Tào tham sự sai người đưa đến từ hôm trước, chiều hôm ấy vì tổ mẫu và thúc phụ tôi đến nên nhà bếp mới thịt dê, nấu món dê hầm, canh thịt dê và canh móng dê.”
Các món ăn khác không vấn đề gì, thậm chí canh móng dê vì nấu quá nhiều nên sau khi Hoàng Tử Hà bưng đi một bát to, đám người dưới bèn chia nhau chỗ canh thừa lại, đều không gặp sự cố gì. Chỉ riêng bát canh Hoàng Tử Hà tự tay múc, tự tay bưng ra đại sảnh, tự tay chan cho mọi người uống, sau bữa cơm còn sót lại một ít. Mấy bà nấu bếp sau khi bưng xuống cũng lười, cứ thế đặt vào tủ bếp khóa lại, tinh mơ lại phát hiện thảm án nên tủ bếp trước sau vẫn khóa chặt. Đợi sáng ra đầu bếp là Lỗ thẩm đến, dưới sự giám sát của các nha dịch, mở tủ bưng bát canh móng dê tối qua ra, vừa kiểm tra đã thấy, tỳ sương được bỏ vào chính bát canh này.
“Phải chăng có người bôi chất độc vào cái bát?”
“Không thể nào. Bấy giờ tôi còn sợ tay không sạch, nên lấy bát xong còn tiện thể lau qua một lượt mới dùng. Huống hồ, còn một điểm nữa…” Hoàng Tử Hà khó nhọc kể, “Trong phòng tôi, lục soát được một gói tỳ sương đã dùng hết.”
“Ngươi mua tỳ sương à?”
“Phải, tôi mua ở Quy Nhân Đường nổi tiếng nhất Thục quận. Quan sai tới đó xem sổ sách, rõ ràng có ký tên tôi, không sai một mảy.”
“Ngươi mua tỳ sương làm gì?” Lý Thư Bạch hỏi.
“Tôi…” Cô chần chừ, đoạn đáp, “Mấy hôm trước đó cùng Vũ Tuyên đọc sách, thấy trong cuốn Dậu sinh tạp ký có chép một phương thuốc dân gian, nói rằng ba tiền nhựa cỏ đoạn trường có thể giải độc nửa lạng tỳ sương, tôi không tin, nên đánh cược với Vũ Tuyên. Vì tôi từng giúp nha môn xử lý mấy vụ hạ độc giết người nên phải gánh việc mua tỳ sương, còn cỏ đoạn trường do Vũ Tuyên lên núi hái, chuẩn bị thí nghiệm lên mấy con chó dữ chuyên cắn người ở nhà bên.”
“Trước đây các ngươi cũng thường đánh cược thế này ư?”
“Không chỉ một hai lần đâu.”
“Ngươi có kể việc này ra không?”
“Tôi kể rồi, Vũ Tuyên cũng làm chứng, nhưng bị quy là viện cớ.”
Lý Thư Bạch nhướng mày, “Tên Vũ Tuyên kia, giờ ở đâu?”
Hoàng Tử Hà im lặng hồi lâu mới chậm rãi đáp, “Vũ Tuyên không có cơ hội ra tay đâu. Hôm đó sau khi rời nhà tôi, gã lên trường luận đạo với các bạn, tối mịt mới về nhà, sau đó không ra khỏi cửa, mãi tới khi nhận được hung tin về cha mẹ tôi mới chạy đến.”
“Nói vậy thì việc ngươi hành hung giết người đã rõ như ban ngày rồi.” Lý Thư Bạch thong thả kết luận.
“Phải, cơ hội duy nhất để hạ độc chính là trên đường tôi bưng chén canh móng dê từ nhà bếp lên phòng ăn. Huống hồ, tôi đã mua tỳ sương, lại có… cái mà họ gọi là động cơ đó.”
Lý Thư Bạch gật đầu, “Vậy xem ra, kẻ duy nhất có khả năng giết chết cha mẹ ngươi chính là ngươi rồi, muốn lật lại bản án không dễ đâu.”
Cô ngồi đối diện với Lý Thư Bạch, nhìn những hoa văn gấm đoạn tinh tế trong xe, nào thú lành kỳ lân, nào mây vờn năm sắc đều được thêu tỉ mỉ bằng chỉ vàng. Ngồi trên ghế lót tấm đệm gấm vừa mềm vừa dày, trong xe thoang thoảng hương tô hợp giúp người ta tỉnh táo, giữa làn hương ấm áp mà dịu dàng ấy, cô cứ đờ đẫn cả ra, chẳng khác nào vừa trải qua tất cả những việc ấy một lần nữa, người lạnh toát.
Đôi môi cô như đóa hoa trắng muốt đã tàn tạ theo gió, dẫu khoác áo lụa đỏ lên mình cũng chẳng thêm được chút sắc hồng nào. Hoàng Tử Hà nhìn Lý Thư Bạch, cất giọng nghèn nghẹn, “Có phải vương gia cũng nghĩ như bọn họ, cho rằng trên đời có kẻ nỡ giết cả nhà mình chỉ vì lý do ấy chăng?”
Lý Thư Bạch quan sát cô hồi lâu, lại dõi mắt ra phong cảnh bên ngoài, “Ai biết được, lòng người vốn khó đoán nhất mà, đặc biệt là con gái tầm tuổi như ngươi.”
Thấy thái độ hờ hững của y, Hoàng Tử Hà run run hỏi, “Nếu vương gia chịu giúp một tay như đã nói, tôi tin rằng mây không thể che trời được mãi, mối oan của cha mẹ tôi nhất định có thể rửa sạch trước thiên hạ.”
“Đợi hết hè ta sẽ đến Ba Thục một chuyến, tới lúc đó đem ngươi đi cùng, điều tra lại toàn bộ hồ sơ vụ án cha mẹ ngươi. Ta tin rằng người phá án dễ dàng như ngươi không đến nỗi lâm vào cảnh u mê, không thể tự rửa oan cho mình thế này đâu.”
Hoàng Tử Hà cắn môi, thật lâu sau mới hỏi, “Vương gia thực sự tin tôi, chịu giúp tôi ư?”
Ánh mắt y dừng trên mặt cô, khuôn mặt đang có mấy tia nắng nhảy nhót như tơ vàng, làn da tái nhợt cùng đôi mắt trong veo toát lên vẻ thuần khiết rạng ngời, khiến cả ánh mặt trời cũng nhạt mất hào quang, chỉ còn giữ vai trò làm nền cho cô.
Một thiếu nữ thế này, gánh trên vai tội danh và cừu oán đáng sợ nhất trên đời mà vẫn không hề do dự, đặt chân lên con đường gian nan nhất, chôn sâu tất cả những yếu đuối nhu nhược vốn thuộc về nhi nữ, chỉ còn lại sự liều lĩnh bướng bỉnh dấn bước.
Cõi lòng vốn phẳng lặng bấy lâu nay của Lý Thư Bạch bỗng xao động, chẳng khác nào gió xuân thổi qua mặt hồ trong khe núi, lần đầu tiên gợn sóng lăn tăn.
Nhưng cũng chỉ trong một khắc, y lại lần nữa đưa mắt nhìn ra cửa sổ, vì cố hạ giọng nên tiếng nói cũng trầm hẳn, hơi khàn đi, “Phải, ta tin ngươi, cũng sẽ giúp đỡ ngươi. Đổi lại, ngươi phải giao cả cuộc đời về sau này cho ta.”
Hoàng Tử Hà ngẩng lên nhìn y, dưới ánh tịch dương, thấy đường nét thanh tú của gương mặt trông nghiêng chẳng khác nào núi non trập trùng, toát ra vẻ vững vàng, tưởng chừng băng sương vạn năm cũng không ăn mòn nổi.
“Từ nay về sau, chỉ cần ở bên cạnh ta, ngươi sẽ không phải lo lắng sợ sệt nữa.”
Cảm giác chua xót rả rích nhỏ vào cõi lòng cô. Như ảo ảnh, trước mắt cô lướt qua cảnh tượng mặt hồ đầy sen nở mùa hè năm ấy. Bấy giờ, người ấy nắm tay cô, cũng từng nói như vậy.
Đến giờ sự đời đổi thay, cô trôi dạt lênh đênh, may mà liều lĩnh gắng gỏi mới nắm được một tia hy vọng, có thể đến bên người đang ở trước mặt đây.
Xe ngựa dừng lại, đã đến Quỳ vương phủ. Lý Thư Bạch đẩy cửa xe, tự mình bước xuống. Quay lại thấy cô vẫn đang ngẩn ngơ, y thong thả giơ tay ra, đỡ lấy cô.
Mặt trời chỉ còn một mảnh bàng bạc sau dãy núi phía Tây, tà dương rực rỡ như vàng dát. Tay cô đặt trong tay y, thấy gương mặt y dưới ánh hoàng hôn cùng hai bàn tay ấy đều óng ánh như tỏa sáng.