– Thưa Đại vương, thần không muốn nói gì cả, thần chỉ nói rằng chúng ta đã để sót một số sự việc, xin Đại vương tự mình phán đoán.
Đúng lúc đó, Nguyệt Thần xuất hiện trước cửa, nhìn thấy Hoàng Thác ở trong phòng của tôi nên chẳng nói gì cả.
Hoàng Thác nhìn tôi nói, thần xin phép trở về phòng mình.
Tối đó, Nguyệt Thần cũng nói cho tôi biết chính câu chuyện đó, nàng nói tối hôm tôi bị mưu sát nàng đi xem xét thi thể của Liêu Tiễn nên không có trong phòng. Nguyệt Thần nói cỏ xung quanh mộ Liêu Tiễn đã khô cả rồi vì cơ thể của Tiễn có độc, còn trên đầu có một cây kim bạc rất nhỏ.
Tôi không nói cho Nguyệt Thần biết chuyện đó Hoàng Thác đã nói cho tôi hay rồi mà chỉ hỏi ai là người đã giết Liêu Tiễn?
Nguyệt Thần không nghi ngờ ai trong chúng tôi cả, chỉ hỏi lại tôi là có nhớ người phụ nữ đầu đầy những cây kim hôm trước không?
– Kim trâm ư? – Tôi hỏi lại.
– Đúng. Thần rất muốn xem xem cây kim mà Liêu Tiễn bị hạ thủ có giống cây trâm trên đầu bà ta hay không?
Khi Nguyệt Thần sắp rời phòng, nàng đột nhiên quay người lại nói với tôi:
“Thưa Đại vương, ngài không thấy chuyện ngài bị ám sát tối qua là kỳ lạ lắm sao?”
– Ngươi nói…
– Người nhìn thấy và phát hiện người mặc đồ đen chạy sang dãy nhà của nhóm Thương Liệt ở phía bắc tối qua đều là Hoàng Thác, tất cả đều do Thác nói ra cả. Còn vết rách trên ngực áo do lưỡi dao rất sắc gây nên, Đại vương có nghĩ đó là do những con dao băng ngài phóng ra không?
Tôi nhìn Nguyệt Thần, bắt đầu cảm thấy sợ hãi và ớn lạnh.
Mũi kim trên đầu Liêu Tiễn đã được Nguyệt Thần lấy ra. Nó màu trắng bạc nhưng không phải bằng bạc, cứng hơn bạc nhiều, dưới ánh đèn, mũi kim phát ra màu xanh rất kỳ dị, rõ ràng là nó có độc. Đầu kim mang màu đỏ sặc sỡ, khi tôi nhìn kỹ cây kim mới phát hiện ra đầu kim được khắc hình đầu phượng hoàng.
– Phượng hoàng! – Tôi kêu lên thất thanh.
Nguyệt Thần nhìn tôi, gật đầu tỏ vẻ đồng tình.
Tôi đang định đưa tay ra cầm thì bị Nguyệt Thần ngăn lại, nàng nói rằng cây kim độc vô cùng, dù không bị thương, chất độc cũng có thể ngấm qua da, tuy không nguy hiểm tới tính mạng nhưng cũng sẽ bị thương không nhẹ.
Tôi nhìn cây kim mà chẳng nói gì. Nhưng tôi đột nhiên nghĩ tới những câu nói của Hoàng Thác và Nguyệt Thần.
Tối đó chẳng có chuyện gì xảy ra cả, tôi ngủ rất ngon lành, nhưng mơ liên tục, hết mơ tới thời gian tôi lưu lạc nơi trần gian đến những việc ở thành Nhẫn Tuyết, tất cả cứ hư hư ảo ảo, thời gian vài trăm năm cứ thế trôi qua. Nhưng những ngày sống cùng với Thích thì lại không hề mơ thấy, mà trong mơ chỉ thi thoảng nhìn thấy Thích rất tuấn tú và tinh nghịch, nhưng khi lạnh lùng thì lại làm cho người ta có cảm giác là mặt đầy sát khí, ngược lại, khi vui vẻ thì nụ cười ngọt ngào đẹp đẽ giống hệt một đứa trẻ, vừa tinh nghịch lại ngang bướng.
Đệ của tôi – Anh Không Thích nay linh hồn đang bay lên trời, không biết những vong linh có sợ lạnh không, liệu đệ có vẫn không cần dùng pháp thuật để che tuyết hay không mà cứ để mặc cho những bông hoa tuyết rơi đầy vai, đầy đầu và rơi cả trên đôi lông mày lưỡi mác sắc nhọn kia? Trong những giấc mơ đó không có tranh giành, không có vua chúa, không phân biệt huyết thống, không có phản bội hay ám sát, chỉ có hai anh em tôi đứng ở nơi cao nhất trên bức tường thành Nhẫn Tuyết, mái tóc dài bay ngược chiều gió, hoa tuyết và hoa anh đào bay qua đầu và áo chúng tôi như những bông sen ngàn tuổi nở rực rỡ, một màu trắng thuần khiết và trong suốt. Hàng ngàn hàng vạn năm, tôi và
Thích cứ đứng như vậy cúi xuống nhìn cả Đế quốc Ảo Tuyết, nhìn thần dân của chúng tôi, nhìn thủy triều lúc lên lúc xuống trong biển băng và nhìn những đóa hoa sen hồng nở rộ như những ngọn lửa ở bờ đối diện của biển băng.
Một con chim tuyết khổng lồ vút lên từ thành Nhẫn Tuyết rồi là là bay tới, sau đó có vô số con chim tuyết bay sát qua đỉnh đầu chúng tôi, tôi còn nghe thấy tiếng vỗ cánh của nó, bóng đàn chim tuyết khổng lồ đang mờ dần ở phía chân trời. Sau đó, trên nền trời xanh lại xuất hiện một khuôn mặt mà tôi không thể nào quên, đó là Lê Lạc với mái tóc điểm xanh; đó là Lam Thường, mộtngười biết yêu biết ghét, rất được mọi người yêu quý, những anh chị của tôi, còn cả những người của bộ tộc Băng đã chết trong cuộc thánh chiến… nụ cười của họ tràn ngập bầu trời, nhưng rồi cũng tan đi như sương sớm.
Cuối cùng, tôi thấy mình đang đứng ở Nhẫn Tuyết trong một mùa đông – một mùa đông mười năm tuyết rơi liên tục, xung quanh chẳng một bóng người, chẳng một tiếng động, chỉ có tiếng gào thét của bão tuyết đập vào tai tôi, và cuối cùng, thành Nhẫn Tuyết lặng lẽ đổ sụp phía sau tôi, chảy mãi cho tới khi kết thúc giấc mộng mới thôi.
Tôi ôm gối ngồi trên giường, đầu tựa vào tường, tôi nghe thấy mình đang thầm nói: “Thích ơi, đệ sống ra sao? Huynh rất nhớ đệ…”
Buổi sáng khi tôi tỉnh dậy, tuyết ngoài cửa sổ đã ngừng rơi, trên lá trúc vẫn còn đọng lại những bông hoa tuyết, thỉnh thoảng lại bay đi theo những cơn gió.
Tôi đi vào giữa sảnh lớn, phát hiện thấy bọn Nguyệt Thần đang ăn. Ngoài cô gái gảy đàn Hoa Hiệu không có mặt ra, còn mọi người đều tề tựu đủ cả.
Điều kỳ lạ là, Nguyệt Thần cùng ngồi một bàn với một người, người đó chính là Trâm – một người đàn bà rất giỏi dùng độc là thủ hạ của Thương Liệt.
Tôi đi tới ngồi cạnh bà Trâm, sau đó người của nhà khách tới hỏi tôi dùng gì, khi tôi đang chuẩn bị gọi đồ ăn thì bà ta nói: “Ca Sách, tối sang chỗ tôi một chút”.
Tôi ngẩng lên nhìn vẻ nghi ngờ, chẳng hiểu bà ta định làm gì.
Bà ta cười với tôi, nụ cười đầy bí ẩn và mơ hồ rồi nói: Thưa Đại vương, tôi biết một người bạn của ngài là Liêu Tiễn chết vì một cây kim, tối nay mời ngài tới, thần sẽ nói cho ngài biết về cây kim nọ.
Tôi nhìn Nguyệt Thần, nàng chẳng nói gì chỉ cúi đầu uống trà, tôi quay đầu lại đáp rằng, tối tôi sẽ tới.
Tối đó, tôi gọi Nguyệt Thần vào phòng tôi nói rằng muốn nàng cùng đi tới chỗ bà Trâm.
Nguyệt Thần đồng ý và dặn tôi phải hết sức cẩn thận.
Chờ ọi người đi ngủ cả, tôi và Nguyệt Thần mới bước ra khỏi cửa, nhưng khi chúng tôi tới phía ngoài gian phòng của bà Trâm thì thấy bên trong không có đèn, cũng chẳng có tiếng gì cả, tất cả tối om om.
Tôi khoanh ngón đeo nhẫn, sau đó gió tuyết bắt đầu bay xung quanh người tôi mỗi lúc một dày thêm, bởi tôi sợ rằng khi mở cửa ra sẽ có vô vàn mũi kimđộc phóng tới. Tôi quay nhìn Nguyệt Thần, nàng cũng giơ tay trái lên qua khỏi đỉnh đầu, sau đó chỉ thấy ánh trăng chụp kín người nàng.
Sau đó, Nguyệt Thần đẩy cửa, khi ánh trăng trên người nàng chiếu vào căn phòng, chúng tôi nhìn thấy bà Trâm, bà ta đang ngồi trên ghế đối diện với chúng tôi và mỉm cười, nhưng nụ cười rất kỳ dị. Khi chúng tôi sắp bước vào thì Nguyệt Thần hét lên một tiếng rồi quay lui rất nhanh, tôi cũng vội vàng lui quay lại, bởi nhìn thấy thứ ánh sáng lạnh lùng trên tay của bà ta. Tất cả kim cài tóc của bà ta đã được nhổ ra hết và đặt trong lòng bàn tay và có thể phóng bất cứ lúc nào.
Nhưng tôi và Nguyệt Thần chờ mãi bên ngoài chẳng thấy bà ta hành động, chúng tôi củng cố thêm tầng bảo vệ rồi lại bước vào. Nụ cười của bà ta vẫn rất kỳ dị và tôi đã phát hiện ra nguyên nhân của nó, đó là do nụ cười của bà ta đã bị đông cứng lại không thể thay đổi được.
Bà ta đã chết, Nguyệt Thần thu về ánh sáng trong tay.
Sáng hôm sau, thi thể của bà ta được chôn cất trên khoảng đất trống sau nhà, mọi người đều tới huyệt bà, đất mới đào lên chất thành đống, tuyết trắng chói chang. Những cái được bà ta dùng trước đây cũng được chôn theo cùng với bà ta. Chúng tôi biết, mộ bà ta không được phủ bằng cỏ, vì chất độc ở các cây kim sẽ lan ra đất, tạo thành một minh chứng cho việc bà ta đã từng là cao thủ ám sát.
Hóa ra bà ta vốn là Phượng Hoàng – Triều Nhai chậm rãi nói, mái tóc bay bay che lấp khuôn mặt, nhưng vẫn không thể che hết nụ cười mệt mỏi của Nhai.
Tôi quay nhìn Hoàng Thác, Thác chẳng biểu lộ gì hết, nhưng ánh mắt vẫn sáng long lanh, tôi không biết Thác đang nghĩ gì, cứ thấy ông ta nhìn chăm chú vào phần mộ của bà Trâm mà chẳng nói gì.
Vài ngày sau khi Phượng Hoàng chết, toàn bộ nhà khách này rất yên ắng, ngày ngày vẫn có người đến người đi, riêng tôi không biết đang đợi gì, có lẽ cũng giống như Thương Liệt, chúng tôi chỉ chờ Tây phương hộ pháp tới mà chẳng phòng bị gì cả. Nguyệt Thần thường biến đâu mất, còn Hoàng Thác lại luôn ngồi trong phòng, Phiến Phong và Triều Nhai lại luôn chơi cầu với con người chủ. Còn tôi chỉ đứng trong rừng trúc, nhìn những bông hoa tuyết nhỏ xíu rơi loạn xạ từ trên lá trúc xuống mỗi khi có gió thổi, có bông rơi lên đầu và vai tôi, rơi cả vào trong mắt tôi rồi tan chảy ra ngay.
Ba ngày sau lại xảy ra một chuyện khiến mọi người rất hoảng sợ, đó là chuyện Phượng Hoàng không hề chết.
Hôm đó, con ông chủ quán khóc lóc chạy tới, nó kẻo tay tôi và nói rằng nó rất thích những bông hoa khô, thằng bé đưa tôi ra sau nhà. Khi tới nơi đó, tôi lặng người chẳng nói được lời nào; lát sau Hoàng Thác và Nguyệt Thần cũng tới, cả hai người cũng cùng có tâm trạng như tôi.
Bởi vì giữa bãi đất trống rất rộng sau nhà, một đám cỏ rất rộng đã chết khô, trông giống như vết sẹo lớn của mặt đất.
Hoàng Thác nói, chắc chắn dưới đó có vấn đề.
Nguyệt Thần bước tới, tụ ánh trăng lại trên tay rồi phóng xuống đám đất đó, lát sau đám đất bỗng nứt ra, tôi nhìn thấy một đống kim độc, vì thế làm cho cỏ phía trên chết hết, chỉ có điều, đầu những cây kim đó lại không giống hình Phượng Hoàng mà thôi.
Hoàng Thác nói, chúng ta hãy xem lại thi thể của bà Trâm.
Mộ bà ta được đào lên, ánh nắng chiếu vào thi thể cứng đỏ của bà. Hoàng Thác chỉ vết máu tụ trên tay bà ta và nói tôi hãy nhìn kỹ xem.
– Vì sao lại có vết tụ máu? – Tôi hỏi Hoàng Thác.
– Vì sao khi bà ta chết, cơ thể đã cứng lại, nhưng vẫn có người động vào, cố sức muốn tách các ngón tay của bà ta ra. – Hoàng Thác nói.
– Bởi khi có người muốn giết bà ta, bà ta đã lấy tất cả những cây trâm nhỏ trên đầu ra cầm trong tay, nhưng chưa kịp bắn đi thì đã bị giết chết. Sau đó, người muốn tách các ngón tay bà ta ra để lấy những cây kim đó và thay vào đấy bằng những cây kim Phượng Hoàng để chúng ta cho rằng bà Trâm chính là Phượng Hoàng. – Nguyệt Thần nói xen vào.
Thương Liệt chẳng nói gì, bộ mặt rất nghiêm nghị.
Hồi lâu sau ông ta mới khẽ nói, hãy chôn cất bà Trâm, đừng đụng tới làm gì.
Sáng hôm sau, khi tôi đang ăn cơm trong đại sảnh, Hoàng Thác đột nhiên bước tới rồi ngồi xuống bên cạnh, sau khi gọi món ăn rồi cứ ngồi nguyên như thế mà chẳng nói câu nào. Thác chỉ xòe bàn tay ra, trong tay có một mảnh giấy, trên đó là một cây kim vừa lấy từ đất lên.
Tôi nhìn kỹ cây kim bởi tôi biết không phải vô cớ mà Thác muốn cho tôi xem nó. Sau khi tôi nhìn cây kim rất lâu dưới ánh đèn, tôi đột nhiên cười, Hoàng Thác cũng cười, chắc là cũng biết tôi đã phát hiện ra bí mật rồi.
Bởi trong đó có một cây kim trên có vết máu, điều đó có nghĩa là kẻ đổi kim trong tay bà Trâm đã bị kim đâm phải, do đó y đã bị trúng độc, Hoàng Thác nói, giải được chất độc đó cần phải vài vị thuốc đặc biệt.
Tôi nhìn mắt Hoàng Thác rất sáng và đột nhiên hiểu ý của ông ta. Tôi nói, chỉ cần chúng ta tìm được người mua thuốc là có thể tìm ra người trúng độc.
Hoàng Thác gật đầu nói, biết người nào trúng độc sẽ biết ai là Phượng Hoàng.
Nhà khách này hàng ngày đều có xe ngựa chở hàng đỗ ngoài cửa, sau đó người trong nhà khách và thủ kho mới ra xem xét những thứ hàng cần, đương nhiên trong đó có thể có cả thuốc men. Nếu là khách đặt hàng mua thuốc sẽ có người đưa đến tận phòng ở của khách.
Chúng tôi phát hiện hàng ngày đều có thuốc ở các cửa hiệu lớn trong phố được chuyển tới nhà khách này, phần lớn đều là loại thuốc bổ do nhà khách sắc dùng, chỉ có một ít thuốc được chuyển trực tiếp đến phòng của Y Trạo.
Khi tôi và Hoàng Thác nói lại chuyện này cho Thương Liệt biết, ông ta lắc đầu quả quyết là không phải Y Trạo.
Thương Liệt nói với chúng tôi, Y Trạo phải uống thuốc luôn, bởi nhiều năm về trước, cô ta bị thương chưa khỏi, ngay khi ở trong phủ Thái tử, vẫn có người hàng ngày mang thuốc tới. Sau khi tới ở đây, phải đưa thuốc tới đây.
Ông ta còn nói rằng, thuốc mà Y Trạo uống đều là thuốc phục hồi linh lực chứ không phải là thuốc giải độc.
Khi tôi và Hoàng Thác rời phòng của Thương Liệt, Hoàng Thác nói với tôi, chúng ta phải đi xem phương thuốc của Y Trạo.
Lạc Thảo Trai là nhà thuốc lớn nhất nơi này, những người đưa thuốc cho Y Trạo đều là người làm thuê. Chúng tôi tới hiệu thuốc, tìm tới vị thầy thuốc nọ rồi hỏi về phương thuốc của Y Trạo.
Vị đại phu đó cười miễn cưỡng, nhưng qua nụ cười đó, chúng tôi thấy rõ tất cả. Ông ta nói đó là bí mật của người bệnh, thầy thuốc không được tùy tiện nói cho người khác biết.
Hoàng Thác bước tới nói, nếu đại phu đồng ý cho chúng tôi xem đơn thuốc đó, tôi có thể đồng ý thay đại phu chữa trị cho ba người khác.
Vị đại phu cười tỏ ra xem thường rồi nói, ta chính là một thầy thuốc giỏi nhất ở thành này, vì sao lại phải cần người khác chữa bệnh thay!
Hoàng Thác quay lại nhìn tôi, tôi bước tới kéo tay một người làm công đứng cạnh, tay tôi vung lên, một lưỡi kiếm băng đột ngột xuyên thủng ngực anh ta, tôi thấy vị đại phu kia mặt thất sắc, khi máu anh chàng xấu số chảy tràn ra mặt đất, tôi và Thác cười rồi bỏ đi. Khi chúng tôi bước qua cửa, nghe thấy giọng nói run rẩy của vị đại phu nọ, ông ta nói xin mời chúng tôi ở lại.
Hoàng Thác dùng ánh sáng tụ lại trên tay lướt nhẹ trên ngực anh chàng làm thuê, vết thương trên ngực anh ta do kiếm băng đâm thủng dần dần khép miệng, cuối cùng làn da ở đó trở nên nhẵn bóng như chưa từng bị thương vậy.
Vị đại phu nọ ngồi ngay đó, ánh mắt lộ rõ vẻ hoảng sợ và kinh ngạc.
Chúng tôi cầm tờ đơn thuốc trong tay, đó là một tấm giấy màu hồng mỏng nhưng trong suốt, chữ đại phu viết trên đó như rồng bay phượng múa. Ở cuối tờ đơn có ba vị thuốc rất kỳ lạ, đó là cỏ không tuyết, cóc lửa và tơ nhện băng.
– Ba vị thuốc này là loại giải độc tốt nhất – Hoàng Thác nói.
Tôi nhìn Hoàng Thác, mắt ông ta ánh lên vẻ rất đặc biệt nhưng rất hấp dẫn. Tôi hiểu ý tứ của ông ta.
Khi chúng tôi quay lại nhà khách thì nhìn thấy Y Trạo đang ở trong sân nơi có đám cỏ lưa thưa, cô ta mặc chiếc áo dài màu đen điểm vàng, đẹp và đầy bí ẩn, bộ mặt của cô ta cũng lạnh lùng bí ẩn, kỳ lạ như loài hoa man đà la màu đen khi nở. Khi tôi nhìn thấy cô ta, cô đột nhiên mỉm cười, giống như mặt hồ bị gió thổi làm tan lớp băng trên mặt vậy, nụ cười đó cũng giống như loài hoa bé li ti, nhỏ nhưng rất đẹp đang nở, cô ta hỏi, Ca Sách, Người vẫn khỏe chứ?
– Vẫn khỏe. Còn cô, tôi thấy cô ngày nào cũng uống thuốc, vậy sức khỏe ra sao? – Tôi hỏi lại.
Cô vén những sợi tóc xõa ra trán, cười và nói rằng chẳng sao cả, chỉ là thuốc bổ để dưỡng thương thôi, xin cảm ơn sự quan tâm của Đại vương.
Tối đó, Hoàng Thác tới phòng tôi và nói chúng tôi hãy cùng tới phòng ở của Y Trạo xem sao. Tôi hỏi lại.
– Đến đó làm gì?
– Xem thuốc của cô ta có thật là thuốc bổ hay không.
Tôi nói cần phải rủ Nguyệt Thần cùng đi, nhưng Hoàng Thác chần chứ một lúc lâu, mãi rồi mới nói tại sao lại phải gọi Nguyệt Thần.
– Nếu Y Trạo là Phượng Hoàng thì chỉ có Nguyệt Thần mới có thể địch nổi cô ta. Tôi đáp.
– Hoàng Thác nhìn ra ngoài cửa sổ rồi gật đầu.
Tối đó, khi ba chúng tôi tới trước cửa phòng của Y Trạo thì đã thấy cô ngủ rồi, vì trong phòng không có ánh đèn.
Khi đưa tay đẩy cửa, tôi bỗng cảm thấy có một cảm giác rất kỳ quái giống như cảnh tượng từ trước đó đã xuất hiện. Tôi quay đầu nhìn Nguyệt Thần, nàng cũng biểu hiện giống như tôi, hai chúng tôi nhìn nhau giây lát rồi cùng hiểu việc gì sẽ xảy ra. Và thế là chúng tôi cùng đẩy cửa vào, nhưng đã muộn rồi, Y Trạo đã nằm trên sàn, mặt hướng lên trần nhà, lộ vẻ kinh hoàng đến mức khó tin nổi, nơi yết hầu có một vết thương rất nhỏ, một nhát kiếm giết người. Người giết cô ta hẳn phải là người mà cô ta hoàn toàn không ngờ, bởi cô ta hoàn toàn không có khả năng chống trả, nếu không phải là bất ngờ thì chẳng ai có thể làm cho cô ta không kịp chống trả được. Thương Liệt đã từng nói với tôi rằng phép thuật của cô ta hoàn toàn có thể đạt tới mức của một nhà ảo thuật.
Nguyệt Thần vội thắp ngọn đèn dầu trong phòng lên, sau đó chúng tôi nhìn thấy chiếc tủ ở bên cạnh giường của cô ta đã bị mở toang. Trong tủ toàn là thuốc, Hoàng Thác xem và nói, ba vị thuốc giải độc đã hoàn toàn biến mất rồi.
Nguyệt Thần nói, như vậy xem ra Y Trạo không phải là Phượng Hoàng, Phượng Hoàng thật là kẻ giết chết Y Trạo, hắn tới trộm thuốc nhưng bị Y Trạo phát hiện nên đã giết Y Trạo, nhưng do chúng ta đột nhiên tới đây nên bỏ chạy không kịp đóng cửa tủ.
– Vậy Phượng Hoàng là ai? Tôi hỏi Nguyệt Thần.
– Giờ ta hãy xem xét căn phòng đã, Nguyệt Thần đáp.
Trong phòng chẳng có ai, mọi người đã tụ tập ở sảnh lớn chỉ trừ mỗi Triều Nhai.
Thương Liệt ngồi giữa sảnh lớn, Phiến Phong ngồi bên cạnh, Hoa Hiệu ngồi chếch ở một bên nhưng không đánh đàn mà chỉ ngồi yên một chỗ, còn bên kia chính là Nha Chiếu, một thanh niên tuấn tú luôn đeo kiếm bên người.
Cạnh Nha Chiếu là ông già Đồng Nhiếp và Ngư Phá – người đàn ông có cơ bắp rất phát triển. Tôi hỏi Thương Liệt:
– Ban nãy ai không có mặt ở đây?
– Những người ngồi đây đều đến uống rượu từ khi trời sập tối, trong thời gian đó chỉ có Nha Chiếu và Ngư Phá có đi khỏi đây một lúc.
– Khoảng thời gian đó có đủ để giết chết một người không? – Nguyệt Thần hỏi chen vào.
– Không đủ! Tuyệt đối không đủ – Thương Liệt nói rất nghiêm túc.
Nha Chiếu lạnh lùng nhìn Nguyệt Thần rồi nói, đến giết một con gà cũng không đủ, huống hồ là một con người.
– Vậy người chết lần này là ai vậy? – Thương Liệt hỏi nhỏ.
– Là Y Trạo – Tôi đáp.
Sau đó tôi thấy Hoàng Thác hét lên kinh hãi và nói chúng ta đã quên một việc quan trọng nhất. Nói đoạn, Thác xông tới, tôi và Nguyệt Thần cùng xông ra khỏi nhà khách bám theo, tôi mơ hồ nhận ra hướng mà Hoàng Thác định đi.
Khi chúng tôi tới Lạc Thảo Trai thì nơi đây đã ngập trong biển lửa rồi, đứng trước cảnh tượng này, tôi đột nhiên cảm thấy như mình trở lại thành Nhẫn Tuyết, trong ngọn lửa ở Ảo Ảnh Thiên, Thích một mình ngã xuống mặt đất, con người của Thích trắng tinh.
Ánh lửa soi tỏ mặt Hoàng Thác và Nguyệt Thần, tôi thấy cảm xúc của họ luôn thay đổi trên nét mặt.
Tôi hỏi Hoàng Thác vì sao lại biết có chuyện xảy ra ở đây. Hoàng Thác trả lời tôi rằng, bởi chúng ta quên mất một việc quan trọng nhất, đó là ba vị thuốc giải độc.
Theo Thác, ba vị thuốc giải độc đó là thứ mà chỉ ở núi thần Ảo Tuyết và thành Nhẫn Tuyết mới có, một đại phu bình thường ở trần gian làm sao có thể biết được ba vị thuốc này là thứ phải cần linh lực hội tụ mới có thể sinh trưởng được? Tôi hỏi.
– Vậy vị đại phu kia là…
– Đúng vậy, ông ta chính là người ngoài giả dạng.
Nguyệt Thần chậm rãi nói, tốt nhất chúng ta phải đi hỏi Triều Nhai xem đêm nay cô ta ở đâu.
Tối hôm sau, sau khi chúng tôi chôn cất y Trạo xong, tất cả tập trung tại sảnh lớn. Đêm đó, Hoa Hiệu không xuất hiện, Thương Liệt sai người hầu bê thức ăn ra, tuy thức ăn rất nhiều món, nhưng chẳng ai thấy ngon cả, chẳng ai ăn được khi mấy người trong chúng tôi đã liên tiếp ra đi. Sau khi các món ăn bày ra hết, vẫn chẳng thấy Hoa Hiệu xuất hiện, Thương Liệt cho người hầu bàn lui ra, chúng tôi cùng tiếp tục chờ Hoa Hiệu.
Khi chúng tôi nghĩ rằng Hoa Hiệu cũng bị ám sát rồi thì Hoa Hiệu xuất hiện, nàng ăn mặc rất giản di, không một chút phấn son, mặt trắng nhợt.
Thương Liệt và tôi chẳng hỏi gì, mọi người bắt đầu ăn cơm.
Vừa ăn được một lúc, tôi đột nhiên thấy mặt Nguyệt Thần đầy sát khí, điều mà tôi chưa hề thấy ở nàng bao giờ. Sau đó, ánh sáng trăng ở tay nàng đột nhiên xuất hiện, nàng quay người xông ra ngoài. Khi cửa mở, Nguyệt Thần nhìn thấy đứa con của ông chủ đang đi ngoài hành lang, cậu bé đang ôm lấy cây cột tỏ ra rất sợ hãi, há hốc mồm nhìn ra hướng vườn trúc, nỗi sợ hãi bất tận trong mắt cậu bé ảnh hưởng đến mọi người, Nguyệt Thần lao nhanh ra hướng vườn trúc, gió đập vào tà áo dài phát ra tiếng rít như xé vải.
Tôi cảm thấy Phượng Hoàng xuất hiện, tôi không yên tâm lắm cho Nguyệt Thần liền lao ra theo. Nhưng dạ dày tôi đột nhiên đau quặn, mắt đổ hoa cà hoa cải, vô số ảo ảnh từ mặt đất bốc lên, tôi quay đầu lại thấy mọi người đổ gục xuống mặt đất, tôi đột nhiên nghĩ rằng thức ăn đã bị bỏ thuốc độc. Chỉ thấy Hoàng Thác và Triều Nhai đứng yên, gió thổi tung tà áo của hai người, mắt tôi tối sầm lại rồi ngã vật ra đất. Khi tôi hôn mê, hình ảnh cuối cùng trước mắt buộc tôi phải kêu thét lên, bởi Hoàng Thác đang ra tay đối với Triều Nhai, vòng bảo vệ của ông ta đã được triền khai toàn bộ, cây đàn vô âm của Triều
Nhai đã xuất hiện, tôi nhìn thấy vô vàn những con bướm trắng biến hóa ra từ dây đàn màu trắng, tôi biết Triều Nhai đã học được thuật ám sát của Điệp Triệt, chỉ có điều tôi không biết là trong hai người ai sẽ bị đối phương giết chết. Còn tôi chẳng thể làm gì được nữa, một màu đen đổ sập xuống trước mắt, tôi bị chôn vùi ở một nơi sâu thẳm nhất không hề có chút ánh sáng nào.
Khi tôi tỉnh lại, tôi vẫn ở trong sảnh lớn, những người xung quanh cũng dần dần tỉnh lại, Hoàng Thác đang chăm sóc những người bị trúng độc, điều kỳ lạ là, Triều Nhai vẫn đứng cạnh đó, Nguyệt Thần cũng đã trở lại, nàng đang ở một góc mà chẳng nói gì.
Tôi đang định hỏi Hoàng Thác xem đã xảy ra chuyện gì, nhưng Hoàng Thác đã đưa mắt ngầm bảo tôi đừng nói. Tôi nhìn mặt Hoàng Thác mà cảm thấy tất cả đã thay đổi ngày càng không thể lường được.
Nguyệt Thần bước tới quỳ trước mặt tôi và nói: Thưa Đại vương, xin thử lỗi cho thần đã không bảo vệ được Người.
Tôi nói, Nguyệt Thần, ngươi không việc gì là tốt rồi, ngươi có đuổi kịp kẻ đó không?
– Không. Thần cứ thẳng đường đuổi theo, nhưng phát hiện ra rằng càng đuổi theo thì sát khí càng nhạt đi, sau đó thần mới biết đã bị người ta dẫn đi, tới khi thần quay lại thì Đại vương đã hôn mê rồi.
Mấy ngày sau tuyết rơi đầy trời, không khí trong ngôi nhà rất nặng nề vì liên tiếp có người chết, có đêm tôi còn nghe thấy tiếng nói của những người đã chết vang vọng trong không trung, những tiếng kêu tuyệt vọng, hoảng sợ, sự phản bội, ám sát, ấm áp, máu tươi, hoa anh đào… tất cả những ảo giác đó bay lẫn trong những bông tuyết trắng như lông ngỗng tử trên trời rơi xuống phủ kín mặt đất đen.
Tôi đã chán những cảm giác nặng nề đen tối do những cái chết đưa lại, màn đêm đen đặc quánh cũng làm cho người ta sợ hãi tới ngộp thở. Nhưng cái chết vẫn không ngừng xuất hiện trong nhà khách, mà lần này, người chết lại là Phiến Phong.
Phiến Phong chết vào buổi trưa, ánh nắng chiếu qua kẽ lá trúc rọi xuống đất thành những giọt long lanh nhỏ bé. Lúc nghe tiếng kêu thảm khốc của Phiến Phong, Hoàng Thác đang ở trong phòng tôi. Nghe thấy tiếng kêu tôi và Thác xông ra, khi chạy tới cửa phòng của Phiến Phong, Hoa Hiệu cũng chạy tới, tiếng thở của cô rất gấp, cô ta nói, vừa rồi hình như tôi… nghe thấy…
Lúc đó, cô ta chẳng nói gì nữa, bởi cô nhìn thấy ánh mắt nặng nề của Hoàng Thác. Tôi tin rằng, bộ mặt của tôi lúc đó cũng giống như vậy. Nhưng khi chúng tôi đẩy cửa phòng của Thác thì cửa không sao mở được, hiển nhiên nó đã bị khóa trong rồi.
Hoàng Thác nói, kẻ giết chết Phiến Phong vẫn còn ở bên trong.
Hoa Hiệu sợ hãi lùi lại, tôi quay lại nhìn cô ta và nói, cô hãy lui ra đi!
Hoàng Thác đưa tay ra làm phép thuật lập ra một vòng bảo vệ cả tôi và Thác. Khi tôi và Thác phá cửa vào, bên trong chẳng có phản ứng gì. Tôi đã chuẩn bị sẵn để đón bất kỳ đòn tấn công nào, nhưng bên trong lại trống vắngnhư nhà mồ. Phiến Phong đang nằm trên mặt đất, khuôn mặt đầy sợ hãi méo đi, giống hệt như những biểu hiện của Y Trạo khi chết.
Vì phòng ở của Phiến Phong ở góc trong cùng nên chẳng có cửa sổ, chỉ duy nhất một cửa ra vào. Rõ ràng là kẻ ám sát còn ở trong phòng.
Nhưng đột nhiên Thác nói với tôi hãy cùng đi tìm xem sao, sau đó Thác quay lại nói với Hoa Hiệu, hãy ở lại trong phòng, canh chừng cửa ra vào, không để cho sát thủ chạy thoát.
Thác kéo tôi ra khỏi phòng, tôi muốn nói với Thác sao lại để mình cô ta ở lại, nhưng khi Thác lôi tôi đi và làm một thế tay rất kỳ quặc, tôi biết hẳn Thác có ý đồ nào đó liền cùng Thác đi ra. Nhưng khi rẽ ra hành lang, Thác đột nhiên dừng lại và bảo tôi hãy yên lặng nhìn xem.
Từ chỗ tôi đứng chỉ nhìn thấy nửa thân trên của Hoa Hiệu, còn nửa dưới bị lan can hành lang che khuất, nhưng vẫn thấy rõ cô ta bước tới, mở cánh cửa phòng, trên mặt để lộ nụ cười bí hiểm và kỳ dị. Chẳng thấy ai đi ra, chỉ thấy Hoa Hiệu thò đầu nhìn về phía cuối hành lang, có vẻ như có người đã ra khỏi phòng đi về phía ấy. Tôi quay lại nhìn Thác, Thác vẫn tỏ ra lạnh lùng và cứng rắn. Trong chớp mắt, tôi đột nhiên nghĩ ra rất nhiều chuyện.
Rượu ở đây có tiếng là ngon, Thương Liệt là người rất biết thưởng thức, ông ta uống rất nhiều, đám người hầu rất thích nên khi đưa thức ăn tới luôn nở nụ cười rất tươi trên miệng, chẳng có ai lại không vui vì thu nhập cao.
Tôi, Hoàng Thác và Nguyệt Thần ngồi cùng bàn, còn Nha Chiếu, Ngư Phá và Thương Liệt ngồi cùng với nhau, chỉ Hoa Hiệu là không tới mà thôi.
Hoàng Thác uống hết ly rượu rồi quay sang nói với Thương Liệt rằng, bây giờ ông ta có thể nói Phượng Hoàng là ai rồi.
Sau đó, tôi thấy chiếc ly trong tay Liệt rơi xuống choang một tiếng vỡ vụn ra, rượu đổ đầy mặt đất, Nha Chiếu và Ngư Phá ngồi bên cạnh mặt biến sắc.
– Phượng Hoàng là ai vậy? – Thương Liệt hỏi.
Hoàng Thác đột nhiên triển khai vòng bảo vệ, ánh trăng trong tay Nguyệt Thần bỗng biến thành một thanh kiếm ánh sáng, còn tôi cũng tập trung toàn bộ sức mạnh của mình, xung quanh người có vô số những thỏi băng bay, tiếng đàn của Triều Nhai cũng trở nên sắc nhọn chói tai, vô số những con bướm trắng từ dây đàn bay rợp cả phòng.
Không khí đột nhiên trở nên vô cùng căng thẳng, gió từ mặt đất bốc lên xoáy tròn, tóc và áo của mọi người đều bị thổi tung, ánh đèn trong phòng runrẩy, mặt đất dưới chân cũng rung lên bởi phép thuật của tất cả mọi người đã được hội tụ lại. Bọn người của Thương Liệt hiển nhiên cũng hiểu được rằng một trận đại chiến sắp nổ ra. Thương Liệt và tay chân của ông ta đều khoanh ngón tay đeo nhẫn gọi ra những vũ khí của họ. Vũ khí của Nha Chiếu là một thanh kiếm băng dài mà mảnh màu tím. Còn của Ngư Phá là cây kiếm ba cạnh luôn biến hóa, Đồng Nhiếp thì có trong tay một cây pháp trượng màu trắng xanh,
còn vũ khí của Thương Liệt là một cây cung lửa, những mũi tên có thân màu đỏ, đó là thứ sức mạnh đã bị cấm sử dụng trong truyền thuyết của bộ tộc Băng.
Tên hầu của nhà khách sợ không nói thành lời đang ngồi ngây trên mặt đất, hắn cố bò dậy nhưng nỗi sợ hãi đã làm cho hắn chẳng còn chút sức lực nào, hắn vẫn cố sức lết ra phía cửa, miệng lắp bắp xin đừng giết, đừng giết.
Nhanh như chớp, Hoàng Thác chặn hắn lại và nói, ngươi yên tâm, ta sẽ không dễ dàng giết ngươi đâu, vì ngươi đã giết quá nhiều người rồi, ta không dễ dàng để cho ngươi chết, hỡi Phượng Hoàng!
Sắc mặt hắn trở nên rất bình tĩnh cứ như một người hoàn toàn khác chứ không phải một kẻ vừa sợ chết khiếp ban nãy nữa. Ánh mắt hắn rất kiên định và sắc lạnh, vẻ sát khí đằng đằng. Hắn quay lại nhìn tôi, Nguyệt Thần và Triều Nhai rồi hỏi:
– Làm sao các người biết ta là Phượng Hoàng.
Triều Nhai cười nhạt quay lại nói với Phượng Hoàng hãy mời Hoa Hiệu tới chơi một bản đàn cho chúng tôi nghe.
Sắc mặt của Phượng Hoàng trở nên rất khó coi, cô ta nói vì sao ta là Hoa Hiệu mà ngươi cũng biết?
Thương Liệt tỏ ra vô cùng kinh ngạc, tôi biết chẳng ai nghĩ lại là Hiệu Hoa, quả là một kế hoạch ám sát gần như hoàn mĩ, rất liên hoàn.
Phượng Hoàng quay lại nhìn ra ngoài cửa sổ rồi nói khẽ: “Quạ đen, ngươi có thể ra được rồi đó!”
Cô ta vừa dứt lời, mọi người đều quay lại nhìn ra cửa sổ, bên ngoài chỉ thấy một màn đêm dằng dặc, nhưng tôi chợt nghe thấy tiếng tà áo dài phất trong gió, khi tôi quay lại, Phượng Hoàng đã vọt ra phía cửa sổ, tôi cho rằng thị đang định thoát ra khỏi căn phòng này, bởi chẳng ai có thể đối phó nổi với những người trong phòng.
Khi tới gần cửa sổ bỗng Phượng Hoàng ngã xoài xuống, hắn quay đầu lại nhìn tôi tỏ vẻ vô cùng tức giận.
Tôi bước tới nói với thị rằng, ta đã biết nhà ngươi sẽ tháo chạy nên đã biến bốn bức tường kể cả cửa ra vào và cửa sổ xung quanh thành băng giá kiên cố, nếu ta không hóa giải ảo thuật, người bên trong sẽ chẳng thể ra nổi.
Mặt Phượng Hoàng tối sầm lại trông già đi kinh khủng. Thị hỏi tôi tứ lúc nào đã nghi ngờ mình, tôi nói ngay từ ngày đầu tiên khi có kẻ ám sát tôi xuất hiện trên mái nhà.
– Làm sao ngươi biết đó là ta?
– Bởi ngay từ hôm đó, sau tà áo dài màu xám, bên trong ngươi chẳng mặc thứ gì cả. Hoàng Thác nói kẻ mặc áo đen kia không thể kịp thay quần áo, nhưng để cởi bỏ một bộ quần áo ra thì chẳng mất nhiều thời gian lắm.
– Vì vậy ngươi mới nghi ngờ ta ư?
– Chưa. Lúc đó còn một số việc rất kỳ lạ. Sau đó là việc ngươi giết bà Trâm.
– Ngươi làm sao biết ta giết bà ấy?
– Ngay lúc bấy giờ ta chưa biết ngươi giết bà ta thật, ta chỉ nghi ngờ tên hầu, lúc ấy ta chưa biết ngươi chính là tên hầu kia.
– Vì sao vậy?
– Bởi sáng hôm đó, ta và Nguyệt Thần đã hẹn với bà Trâm tối sẽ gặp nhau, nhưng trước khi đến gặp thì bà ta đã bị giết chết. Lúc ta nói chuyện đó chỉ có tên hầu ở bên cạnh, do đó ta đã bắt đầu nghi ngờ. Sau khi ngươi giết bà Trâm, ngươi đã lấy cây kim Phượng Hoàng mà ngươi sử dụng đặt vào tay bà ta, rồi lấy kim trên đầu bà ta mang đi chôn xuống đất. Ngươi làm vậy để chúng ta nghi bà Trâm chính là Phượng Hoàng. Thực ra, ta cũng tin như vậy, nhưng ngươi lại quên rằng kim có độc, chất độc đó sẽ lan ra làm cỏ trên mặt đất chết hết, vì vậy chúng ta phát hiện bà Trâm không phải là Phượng Hoàng, mà
người giết chết bà ta mới thực sự là Phượng Hoàng. Bởi khi ngươi lấy cây kim độc trên đầu của bà ta nhưng lại quên đeo găng tay, cho nên tay ngươi đã bị nhiễm độc. Nhưng ngươi không muốn để ai biết, cho nên từ đó trở đi ngươi không bao giờ gẩy đàn cả.
Nhưng ngươi buộc phải giải độc, lại không thể đường hoàng đi mua thuốc giải độc được, vì vậy phải bí mật giết chết vị đại phu ở hiệu thuốc sau đó mới giả danh ông ta để tìm các vị thuốc quý kia rồi cho vào số thuốc của hiệu thuốc. Ngươi cố ý làm cho chúng ta chuyển mục tiêu nghi ngờ nên cố ý sửa ba vị thuốc cuối cùng trong đơn thuốc của Y Trạo thành ba vị giải độc, nhưng điều đó càng làm cho chúng ta có lý do để nghi ngờ hơn.
– Vì sao lại như vậy? – Phượng Hoàng hỏi tôi.
– Bởi một đại phu ở trần thế không thể nào biết được tới ba vị thuốc giải độc kia, do đó ta và Hoàng Thác biết rõ vị đại phu nọ không phải là người trần thế và Y Trạo cũng không phải là Phượng Hoàng được.
– Sau rồi sao nữa?
– Sau đấy nhà ngươi đi ăn cắp thuốc, bị Y Trạo phát hiện thế là nhà ngươi giết Y Trạo.
Tôi nghe thấy tiếng cười của Phượng Hoàng, thị nói, nếu tôi giết Y Trạo thì làm sao lại luôn ngồi cùng uống rượu với Thương Liệt được. – Tôi nhìn thấy mắt thị đầy vẻ nhạo báng.
– Lúc đó, ta nhìn thấy ngươi xuất hiện trong sảnh lớn nên không tin lắm vào phán đoán của ta. Lúc ấy Triều Nhai không ở đó nên ta đã nghĩ có thể có hai khả năng, một là nhà ngươi vẫn luôn ở sảnh lớn, còn kẻ ăn cắp thuốc chính là tên hầu của nhà hàng, còn tên hầu kia ta lại nghi hắn là Quạ đen.
Khả năng thứ hai là Triều Nhai, ta không thể thừa nhận nhà ngươi bố trí Triều Nhai không ở hiện trường quả là cao tay, nó làm chúng ta đều nghi ngờ Triều Nhai.
– Vậy vì sao các người lại quay sang tin Triều Nhai và nghi ngờ ta?
– Bởi việc hạ độc hôm đó. Ta có thể nói rằng kế sách của ngươi khá là inh, ngươi cố ý gọi Quạ đen dẫn dụ Nguyệt Thần, bởi nếu Nguyệt Thần ở đó, khi thấy cơm và thức ăn nàng sẽ nhận ra ngay có kẻ hạ độc để ám sát, nên sau khi Nguyệt Thần đi thì mọi người mới bị trúng độc. Lúc đó, ngươi cũng giả vờ bị trúng độc, đó là một chiêu cao thủ nhất của ngươi, nhưng cũng là chiêu đã làm cho ngươi lòi đuôi ra. Vì trước đó Hoàng Thác đã kiểm tra thức ăn rồi, biết thức ăn bị bỏ thuốc độc, nhưng Thác không nói ra, chỉ có điều Thác đã trộn lẫn thuốc giải độc vào, để khi ăn kẻ nào không bị trúng độc sẽ chính là kẻ hạ độc. Nhưng do lúc đó Triều Nhai lại chẳng ăn gì cả nên cũng không bị trúng
độc, còn ngươi lại giả vờ trúng độc, vì vậy mà Hoàng Thác nghĩ ngay Triều Nhai chính là người hạ độc.
– Vậy vì sao Hoàng Thác không nghi ngờ?
– Bởi ngươi đã ăn thuốc giải độc của Hoàng Thác.
– Mọi người đều ăn cả sao không nghi ngờ họ?
– Bởi thuốc giải độc của ta vốn là một thứ thuốc độc – Hoàng Thác chậm rãi nói – người ăn phải sắc mặt sẽ biến thành màu xanh mà bản thân không hề biết. Khi ta chuẩn bị ra tay với Triều Nhai mới phát hiện ra mặt ngươi biến sắc, vậy nên ta biết, kẻ thực sự hạ độc chính là ngươi.
– Cũng chính từ lúc ấy – tôi nói tiếp – ta mới hoàn toàn tin Triều Nhai, mới hỏi cô ta rằng vì sao trong những đêm xảy ra sự việc nàng đều không có trong phòng nhưng lại luôn nói dối là đang ngủ, còn Triều Nhai một mực nói mình không đi đâu cả, vì thế tối đó, ta đã nấp trong phòng của nàng, tới nửa đêm thì ngươi mò vào, sau đó ngươi đã dùng mê hồn hương làm nàng mê đi rồi khiêng xuống gầm giường và đi ra. Chính vì vậy mà ta biết rằng, mấy lần trước khi có việc xảy ra, ta vào phòng Triều Nhai thì chẳng bao giờ thấy nàng ở trong phòng mà nàng đang ở dưới gầm giường. Khi trời gần sáng, nhà ngươi lại lẻn vào bế cô ta lên giương, bởi vậy Triều Nhai nói cô luôn ở trong phòng. Kế hoạch của nhà ngươi quả là rất chu đáo.
– Và vì thế mà từ lúc đó các người bắt đầu nghi ngờ ta ư?
– Đúng vậy, nhưng chưa dám khẳng định. Cho tới khi Phiến Phong bị nạn, ta mới hoàn toàn xác định Phượng Hoàng chính là ngươi.
– Hôm đó các ngươi cố ý giữ ta ở lại đó ư?
– Đúng! Ta đang ở trong góc khuất nhìn thấy ngươi mở cửa thả kẻ ám sát ra, mặc dù chẳng thấy ai ra cả, nhưng ta biết nhất định đã có người từ trong phòng đi ra rồi, cho dù hắn dùng phép ẩn thân hay cách gì khác.
– Vì sao các ngươi nghĩ tiểu nhị cũng là ta?
– Chúng ta đã từng tưởng rằng tiểu nhị là Quạ đen, nhưng sau đó mới phát hiện tiểu nhị chính là ngươi. Trước hết không bao giờ thấy ngươi và tiểu nhị cùng xuất hiện, mỗi khi có hắn thì không có ngươi, khi chúng ta chờ ngươi thì bao giờ cũng là tiểu nhị đi ra rồi thì một lúc sau người mới tới và không bao giờ dùng son phấn cả, mặt luôn trắng bệch, vì ngươi vừa xóa đi lớp hóa trang thành tiểu nhị. Khi chúng ta đi tìm bà Trâm và Y Trạo lại chỉ thấy tiểu nhị ở phía trước và chỉ có y mới nghe được chuyện chúng ta nói. Còn nữa, hôm mà Hoàng Thác nhặt được cây kiếm có cán rất trơn thì về sau ta mới phát hiện ra,
đó chẳng phải là thứ gì khác mà là dầu dùng trong nhà bếp, và cũng chỉ có tiểu nhị tay mới dính nhiều dầu mỡ mà thôi. Sau đó, ta đã nhìn kỹ tay ngươi – tay của một người chơi đàn – chắc chắn không thể có nhiều dầu mỡ đến vậy.
Ngươi có thể nhìn tay Triều Nhai rất sạch sẽ, mềm mại, dày dặn và khô. Đó là điều kiện của người chơi đàn.
Hoàng Thác đi tới bên tôi và nói:
– Khi chúng ta biết tiểu nhị trong quán chính là ngươi thì chúng ta đoán Quạ đen sẽ là người khác, bởi khi giết chết Y Trạo, ngươi đúng là đang uống rượu với Thương Liệt thật, cho nên kẻ giết Y Trạo phải là Quạ đen, còn khi Phiến Phong chết cửa lại bị khóa trong mà lúc đó ta và ngươi lại ở ngoài, nên sát thủ phải là Quạ đen.
Phượng Hoàng nhìn tôi thở dài, nói:
– Ta luôn cho rằng ngươi là tên vua bất tài, một tên hôn quân nhu nhược, hóa ra là ta đã sai. Ngươi không nói ra nhưng đều hiểu rõ mọi việc. Ngươi có còn gì hỏi ta nữa không?
– Còn. Thứ nhất, chúng ta không nhìn thấy Quạ đen từ phòng đó đi xa, vậy liệu có phải hắn ẩn thân? Nhưng trong thế giới này thì thuật ẩn thân và ảo ảnh di hình đều bị phong bế rồi, vì sao Quạ đen lại có thể sử dụng được? Thứ hai, Quạ đen là ai?
Phượng Hoàng nhìn tôi cười một cách kỳ cục rồi nói:
– Ngươi mãi mãi không thể biết được, hóa ra ngươi không phải cái gì cũng biết hết, ta quyết không thể nói ra cho ngươi.
– Ngươi không thể chống lại được đâu.
– Nếu ta nói cho ngươi biết thì dù ngươi không giết ta thì Quạ đen cũng giết ta, ta chẳng có sức mạnh để địch lại Quạ đen. Nhưng nếu ta không nói, có thể Quạ đen sẽ cứu ta, bởi vì…
Phượng Hoàng nói chưa dứt lời, tôi đã nhìn thấy một màu xanh kỳ lạ trên mặt cô ta, nhưng bản thân cô ta lại không hay biết gì, tôi vội nói: “Hoa Hiệu, mặt cô…”
– Mặt ta làm sao? – Thái độ đó cho thấy cô ta chưa biết mình đã trúng độc, xem ra thứ thuốc độc này làm người ta không nhận ra được.
Sau đó, cô ta đột nhiên hét lên, có lẽ đã hiểu ra vấn đề, cô ta chạy tới tấm gương treo ở tường rồi gào lên như điên như dại, không thể, Quạ đen không thế giết ta.
– Quạ đen là, là… – Cô ta chưa kịp nói hết câu thì đã chẳng bao giờ nói được nữa rồi.
Quạ đen không tin bất kỳ ai mà chỉ tin người đã chết rồi, chỉ có người chết mới giữ được bí mật.
Tuyết cứ rơi mãi không ngừng, mới đó mà đã tới năm mới của trần thế.
Còn nhớ những năm lưu lạc nơi trần thế, tôi chưa bao giờ thực sự cảm nhận được cái tết náo nhiệt nhất ở thế gian này. Trước cửa nhà khách treo đầy đèn đỏ, tuyết trên trời cứ rơi mãi, càng gần tết càng rơi nhiều, những bông hoa tuyết cứ bay bay rơi xuống phủ kín mặt đất, những chiếc đèn lồng lắc lư trong gió, ánh sáng đỏ ấm áp tỏa khắp phố phường.
Trên phố, trẻ con chạy nhảy nô đùa trong tuyết, chúng mặc những bộ quần áo chống rét rất nặng nề, nhưng nụ cười rất rạng rỡ, chúng rất vui vẻ, vô tư. Có lúc, Nguyệt Thần và Hoàng Thác đứng trước cửa, thỉnh thoảng có những đứa trẻ chạy qua nhìn họ hiếu kỳ. Bởi họ có mái tóc trắng bạc thuần khiết, chảy dài xuống theo tà áo tới tận đất trông như một dòng suối thủy ngân rất đẹp. Cả hai người có lúc còn ngồi xuống chơi cùng lũ trẻ, chẳng ai có thể ngờ họ lại có vai trò lợi hại nhất trong thành Nhẫn Tuyết được, trong đó, Nguyệt Thần là một cao thủ ám sát bậc nhất. Nhưng khi tôi nhìn thấy nụ cười của
Nguyệt Thần, đột nhiên lại cảm thấy rất ấm áp, tôi chưa bao giờ nhìn thấy nàng cười bởi khi nàng cười giống như một trận gió ấm nhất vậy. par Triều Nhai rất thích cậu bé con ông chủ nhà khách, tôi thấy cậu bé rất giống Thích thủa nhỏ. Trong thời gian chúng tôi lưu lạc, tôi thấy mình giống như người cha của Thích, bởi tôi đã lớn lên và trưởng thành, chững chạc giống như người cha của chúng tôi vậy, còn Thích, bộ mặt và nụ cười vẫn hoàn toàn là một đứa trẻ, đôi mắt to, đẹp trông như con gái vậy. Tôi luôn bế Thích đi hết phố nọ sang phố kia, Thích háo hức nhìn ra xung quanh rất vui mà lòng tôi cũng vui lây. Sau đó, chúng tôi trở về thành Nhẫn Tuyết, cũng là lúc Thích lớn lên và trở thành một Hoàng tử có phần khôi ngô tuấn tú hơn cả tôi thì Thích
nói với tôi rằng, thực ra Thích nhớ nhất nụ cười của tôi nơi trần thế, khi đó mắt tôi mở to rồi nhắm lại tuyết rơi đầy trên đôi lông mày, hàm răng trắng, nụ cười và khóe miệng tôi rất ấm áp mà kiên cường. Thích cúi xuống hôn lên đôi lông mày của tôi, tóc xõa xuống che kín mặt tôi.
Dần dần không còn ai ở nhà khách đó nữa vì các lãng tử đã quay về cả rồi, ngay cả những người không nhà cửa cũng lần lượt bỏ đi tìm nơi khác, bởi nếu không, một mình ở lại đây hằng đêm nghe tuyết rơi ngoài cửa sổ nơi ngõ vắng, chắc chắn sẽ cảm thấy cô đơn và trống trải vô cùng. par Riêng tôi đã sống mấy trăm năm, hàng ngày lê gót trong thành Nhẫn Tuyết hoang vu như ngôi nhà mồ, hàng đêm ngồi trên nóc nhà nhìn những vì sao rạch đêm đen rơi xuống, nghe tiếng hát của nhân ngư nhỏ bên biển băng mà lòng luôn nhớ về mấy trăm năm đã qua, ở đó, mỗi khi hoàng hôn rủ xuống lại nghe thấy tiếng hát của nhân ngư.
Nhà khách có một người hầu mới, đó là một người bình thường rất thật thà, sinh trưởng nơi trần thế luôn ngạc nhiên trước những mái tóc trắng bạc dài quét đất của chúng tôi.
Năm mới sắp tới, nụ cười trên mặt mọi người càng ngày càng ấm áp và yên tâm hơn, tôi nhìn họ mà lòng luôn cảm thấy một niềm vui bình dị. Lúc vui vẻ, mấy người chúng tôi còn đang trong sân rộng trước những lan can tre thi triển ảo thuật của mình, Triều Nhai gảy đàn gọi về vô số những con bướm, bayrợp cả bầu trời khoảng sân rộng; Nguyệt Thần làm cho ánh trăng trong tay mình vỡ vụn ra thành từng mảnh nhỏ sáng lấp lánh rồi treo chúng lên những cành cây trơ trụi khẳng khưu trông cứ nhấp nháy như những vì sao đêm. Riêng tôi luôn dùng ảo thuật cuốn tuyết lên, sau đó mới uốn cong ngón tay đeo nhẫn,
biến những bông hoa tuyết thành những cánh hoa anh đào mang màu phấn hồng. Tên hầu nhìn thấy ngây người ra, có lúc anh ta còn đưa cả vợ con tới xem, trong con mắt họ mấy người tóc dài chúng tôi là những vị thần vĩ đại.
Đây là lần đầu tiên trong đời tôi nhận thấy niềm vui giản đơn mà trong sáng của trần thế, tôi phát hiện ra rằng pháp thuật không chỉ để giết chóc, mang lại cái chết, máu, mà nó còn đem về hy vọng, chính nghĩa và một tâm hồn cao cả.
Nhưng vào chính cái đêm giao thừa, bóng đen của sự chết chóc lại bao phủ khắp nơi, nỗi thảm khốc và tan nát đã bị lãng quên nay lại ùa về như một thứ ác mộng.
Tối đó, khì chúng tôi đang ngồi bên những chiếc bàn kê trong sảnh lớn bỗng vọng vào tiếng kêu của Nha Chiếu, tôi nhìn thấy mặt của Nguyệt Thần và Hoàng Thác biến sắc, Hoàng Thác kêu lên: “Quạ đen tới!”
Nhưng khi mọi người cùng xông ra ngoài lại chỉ nhìn thấy Nha Chiếu đứng giữa sân tóc tai rũ rượi, ánh mắt rất kỳ dị, thân trên để trần, tay cầm thanh kiếm băng màu tím đặc biệt của mình, nụ cười trên môi phủ một bóng đen kỳ lạ.
– Ngươi đang làm gì vậy? – Thương Liệt bước tới hỏi Nha Chiếu.
Nha Chiếu không nói gì, trong mắt đột nhiên chỉ thấy phủ kín những bông hoa tuyết bất tận, nhưng vẫn không che hết được bóng đen của màu xanh trong mắt mà thôi.
Vào lúc Thương Liệt đang bước tới, bỗng có tiếng của Triều Nhai loáng thoáng từ phía sau, lúc này chỉ còn nàng có thể thao túng giấc mơ, nàng bảo Thương Liệt phải lùi lại bởi vì Nha Chiếu đã bị một giấc mơ khống chế rồi.
Tiếng đàn của Triều Nhai rất hối hả, trong chớp mắt như có vô vàn những sợi tơ màu trắng xuyên vào không gian, vô vàn những con bướm trắng xuất hiện trong không trung. Tôi biết Triều Nhai đang điều khiển giấc mơ, nàng muốn mang giấc mơ đáng sợ của Nha Chiếu chuyển sang giấc mơ do nàng sáng tạo ra.
Tóc Nha Chiếu đột nhiên bay tung lên, xung quanh anh ta như nổi lên trận cuồng phong xoáy tít. Nhưng khi tôi quay lại nhìn Triều Nhai lại thấy máu trắng từ miệng nàng chảy ròng ròng xuống mặt đất đen, biến thành vô sốnhững cánh bướm vỡ vụn. Sau đó Hoàng Thác chạy tới đưa nàng vào trong vòng bảo vệ của mình.
Ánh mắt của Triều Nhai trở nên đờ đẫn, trước khi ngất đi nàng nói với tôi rằng, nàng không thể khống chế nổi giấc mơ đó vì kẻ tạo ra nó quá mạnh.
Cái chết của Nha Chiếu quá thảm khốc, anh ta giơ cao thanh kiếm băng màu tím của mình lên rồi đâm thẳng vào ngực mình, khi thanh kiếm ngập sâu vào ngực, tôi nghe thấy tiếng kêu xé lòng của anh, rồi sau đó bóng đen trong mắt biến mất, con ngươi đột nhiên trở lại màu trắng tinh khôi, tôi biết anh đã ra khỏi giấc mơ, nhưng lại phải đối mặt với cái chết thực sự.
Anh ta ngã ngửa ra sau, khi người anh ta đổ xuống, anh ta nhìn chúng tôi miệng lắp bắp: “Thưa Đại vương, thưa Thái tử, xin hãy cẩn thận với màu xanh của băng…”
Rồi anh ta chẳng nói thêm được lời nào, mắt nhìn lên trời xanh mà chẳng còn chút biểu hiện gì.
Năm mới chậm rãi đến trong không khí chết chóc màu trắng. Tôi cảm thấy tê tái vô cùng.
Tuyết lại bắt đầu rơi nhiều, rơi xuống đầy cả thế giới này.
Ánh đèn dầu trên bàn tỏa ánh mềm mại khắp nhà, ánh sáng vàng của nó làm giảm không khí chết chóc của mùa đông.
Triều Nhai vẫn nằm trên giường, vòng bảo vệ của Hoàng Thác vẫn chụp lên người nàng.
Nguyệt Thần đứng bên cửa sổ, gió từ ngoài thổi vào làm tóc nàng xõa ra.
– Thưa Đại vương, Người nhìn nhận cái chết của Nha Chiếu thế nào? – Hoàng Thác hỏi tôi.
– Có thể là do Quạ đen gây ra – Tôi đáp.
– Chưa chắc – Nguyệt Thần nói – Chưa biết chừng Tây phương hộ pháp đã xuất hiện.
– Vậy thì ai gây ra? – Tôi hỏi lại.
– Có thể là bất kỳ ai – Nguyệt Thần nhìn Triều Nhai rồi nói tiếp – Người có thể ra ngoài một lát được không?
Mùa đông ở trần thế có vẻ còn lạnh hơn ở Nhẫn Tuyết. Mặc dù là năm mới nhưng những đứa trẻ chơi chán, mệt mỏi cũng bỏ về nhà, con đường trông càng lạnh lẽo hơn, những chiếc đèn lồng nhỏ xíu mà lũ trẻ bỏ lại đang nằm chỏng chơ trên mặt đường phủ tuyết lạnh lẽo vô cùng.
Nguyệt Thần đứng trong gió, mái tóc và tà áo của nàng bay phấp phới.
Nàng nói với tôi:
– Thưa Đại vương, thần trịnh trọng nói với người một vài việc. Thứ nhất thần nghi ngờ Triều Nhai, thứ hai nghi ngờ Hoàng Thác, trong hai người có một là Tây phương hộ pháp.
Mắt Nguyệt Thần tràn ngập gió tuyết, tôi đột nhiên cảm thấy như người bị co rút lại và hỏi nàng một cách rất yếu ớt: “Vì sao vậy?”
– Xin hỏi Đai vương, sau khi Triều Nhai đi qua điện thần Phá Thiên của Điệp Triệt, Người cảm thấy khả năng điều khiển giấc mơ của Triều Nhai ra sao?
– Đã đạt tới linh lúc thượng đẳng của nhà chiêm tinh rồi.
– So với thần thì sao?
– Nói thực, còn hơn cả nàng nữa!
– Đúng vậy, mức độ làm ra giấc mơ của Nhai hơn thần, ở một góc độ nào đó, có thể coi cô ta là một nhà chiêm tinh ưu tú. Trong thuật ám sát mà thần đã học có phương pháp điều khiển giấc mơ này, mà Nha Chiếu cũng chết bởi cách này. Nhưng, Đại vương có biết không, giấc mơ bao trùm lấy Nha Chiếu hôm nay thì ngay cả khả năng của thần cũng có thể phá nổi, nhưng vì lúc đó Triều Nhai đã ra tay trước, nên thần cho rằng việc phá nó đối với Triều Nhai là việc rất đơn giản nên đã không ra tay. Nhưng Triều Nhai lại bị giấc mơ đó làm cho bị thương, tới khi thần chuẩn bị ra tay thì Nha Chiếu đã chết rồi.
– Ý của nàng là…
– Ý của thần là – Nguyệt Thần nhìn tôi và chậm rãi nói – Triều Nhai hoàn toàn có thể phá được nó, nhưng cô ta không cứu Triều Nhai, mà cô ta chỉ giả bị thương mà thôi.
– Vậy Hoàng Thác thì sao?
– Nếu Triều Nhai giả bị thương thì Hoàng Thác phải phát hiện nhưng Hoàng Thác lại chẳng nói ra, hai người cùng diễn kịch. Ở Hoàng Thác có rấtnhiều điều mà thần không hiểu nổi, nhưng cụ thể là gì thì thần lại không biết, tóm lại đó chỉ là do trực giác mách bảo.
Gió tử đầu phố thổi tới phía sau lưng Nguyệt Thần, cơn gió như những mảnh băng sắc nhọn lạnh lẽo cắt lên da mặt tôi từng nhát một. Tôi nhìn Nguyệt Thần mà cảm thấy tuyệt vọng hơn bao giờ hết.
Tôi không thể không thừa nhận, Tây phương hộ pháp là một đối thủ lợi hại nhất mà tôi đã gặp, thậm chí ông ta không cần phải hiện diện mà cũng cógiết chết những người ngay cạnh tôi, còn tôi chỉ đứng ở giữa bãi tuyết mà nhìn từng người lần lượt chết đi.
Tối đó, khi tôi trở về nhà khách, đèn trong phòng Triều Nhai đã tắt, cả phòng của Hoàng Thác cũng vậy.
Tôi ngả lưng ra giường, nhưng ác mộng cứ đè nặng lên người tôi, vong linh những người đã chết vẫn bay lượn trên không trung, họ cười, nói ngay bên tai tôi. Những sự việc trước kia ùa về cuốn theo biết bao ký ức của tôi, tất cả những việc đã đổ vỡ tan tành, ầm ầm đổ xuống, còn tôi một mình đang giữa đống đổ nát hoang tan, đứng trước những thi thể mà nước mắt lưng tròng.
Vài con chim tuyết khổng lồ bay ngang trời, những tiếng kêu lanh lảnh của nó tạo ra những vết thương hằn sâu không thể nhạt phai trong mắt tôi.
Trong giấc mơ cuối cùng, mặt đất lại nở ra đầy sen đỏ rực như lửa, những đóa hoa đỏ ùa về như mấy trăm năm trước khi Thích chết, chúng đổ xuống từ những đám mây trên đầu, cuối cùng đã làm tất cả bị ngập chìm.
Ánh lửa rực trời.
Người thứ hai bị giấc mơ làm chết là Ngư Phá. Cũng giống như Nha Chiếu, Ngư Phá đã dùng thanh kiếm ba cạnh tự đâm xuyên qua ngực mình,vẫn là ánh mắt xanh kỳ lạ, nụ cười rất mơ hồ và cuồng phong từ mặt đất ào ào nổi lên.
Khi chúng tôi đến bên Ngư Phá, Phá đã dùng kiếm ba cạnh đâm thủng ngực mình rồi, dù là Nguyệt Thần hay Triều Nhai đều không kịp đến hóa giải phép thuật này.
Rồi đến người thứ ba, đó là Đồng Nhiếp.
Khi Thương Liệt nhìn thấy Đồng Nhiếp ngã trên mặt đất mà chẳng nói câu nào, nhưng mắt vẫn mở trừng trừng nhìn trời xanh, ông ta trầm ngâm hồi lâu mới nói, thế là tất cả người của ta đã chết hết, người tiếp theo có lẽ sẽ là ta.
Năm mới rồi sẽ qua đi, nhưng bầu không khí năm mới lại quá nhiều tử khí. Chúng tôi không báo tin này cho anh người hầu mới của nhà khách, vì anh ta là người rất đơn giản và ngây thơ, vì có lẽ cả đời chưa bao giờ thấy những cái chết ly kì và những vụ ám sát kì quặc như vậy. Anh ta chỉ là một người trần thế đơn giản mà hạnh phúc, thỏa mãn với cuộc sống của mình, chứ không như tôi, một vị vua phải chịu biết bao ràng buộc, có linh lực tuyệt đỉnh mà mãi vẫn cô độc.
Người hầu vẫn làm việc bình thường như mọi ngày, luôn luôn nở nụ cười đón tiếp những chàng lãng tử và khách lữ hành. Đứa con ông chủ vẫn hàng ngày chơi với quả bóng màu xanh, khi nhìn thấy chúng tôi vẫn cười rất tươi vàgọi chúng tôi đến cùng chơi, cả thế gian vẫn vận hành theo quỹ đạo vốn có của nó chứ không có gì khác.
Nhưng bầu không khí chết chóc vẫn trùm, vẫn như những đám mây đen nặng nề không tan nổi, không hề có ánh sáng và chẳng hề sợ gió bão.
Không ai biết Nha Chiếu và Ngư Phá tại sao lại bị giấc mơ thao túng, về mặt linh lực mà nói, rõ ràng họ không dễ gì bị thao túng đến mức bị ám sát chết, trừ khi ngay từ lúc bắt đầu không phòng bị gì, sau khi rơi vào giấc mơ thì không thể ra được nữa. Nhưng sau những cái chết kỳ dị đó, Nha Chiếu và Ngư Phá không thể không cảnh giác, trừ khi kẻ dùng giấc mơ khống chế họ lại là người mà họ không bao giờ nghi ngờ cả. Sau khi xảy ra sự việc Nguyệt Thần nói với tôi, tôi nghe mà không nói gì, Hoàng Thác cũng vậy, bởi chúng tôi đều không biết phải làm thế nào, hoàn toàn mất phương hướng, cứ như là chỉ biết chờ đợi Quạ đen và Tây phương hộ pháp đến tiếp tục giết người vậy.
Hoàng Thác đột nhiên nói, Đại vương, Người còn nhớ giấc mơ thứ ba của Tinh Quỹ hay không?
Nguyệt Thần mắt sáng lên, nàng nói, đương nhiên là nhớ, Tinh Quỹ nói với chúng ta, khi không có manh mối gì, không có phương hướng để tiến lên nữa thì hãy mở nó ra.
Giấc mơ đó rất dài nhưng vô cùng đơn giản, bởi cả giấc mơ chỉ có Anh Không Thích – em tôi. Khuôn mặt khôi ngô tuấn tú của Thích hiện ra trong giấc mơ, Thích đang chạy ra xa, hoa anh đào rơi xuống phủ kín bước chân Thích. Ở một nơi xa nhất, chỗ ranh giới đất trời, Thích trở nên nhỏ bé như hồi còn trẻ con. Nó đứng đó mỉm cười với tôi, tuyết rơi rơi trên tay nó trở thành một quả cầu tuyết trắng tinh, tiếng nói của Thích vọng lại từ rất xa: Đại huynh, Người có vui không? Có vui không?
Tôi không có cách nào hiểu nổi vì sao Tinh Quỹ lại đem giấc mơ này đến cho tôi, phải chăng là để tôi nhớ về Thích hay có dụng ý gì khác? Nếu chỉ để tôi nhớ về Thích thì vì sao lại để chúng tôi tới tận khi không có manh mối gì mới mở ra?
Đột nhiên tôi nghĩ tới giấc mơ mà Tinh Cựu dành cho tôi, đó là giấc mơ mà tôi và Thích thông qua tư cách của nhà ảo thuật ở đồi Lạc Anh, có lẽ nó cũng giống giấc mò đó, chỉ một vài chi tiết mà tôi đã bỏ qua.
Thế là tôi lại bước vào giấc mơ, tôi quan sát rất cẩn thận những sư việc xảy ra và cuối cùng đã phát hiện điều bí mật mà Tinh Quỹ muốn nói cho tôi biết.
Tuyết đã ngừng rơi, chỉ còn lớp tuyết dày đọng lại trên những lá trúc mỗi khi gió thổi lại rơi lả tả.
Triều Nhai đang đánh đàn trong sân, tôi và Hoàng Thác trong phòng, chẳng ai nói với nhau câu nào.
Sau đó, bỗng có tiếng kêu thất thanh của Triều Nhai, tôi nhìn ra cửa sổ, mắt Triều Nhai biến thành màu xanh rất kỳ dị, tóc và áo nàng bỗng bay tung lên, cây đàn bị pháp thuật treo lơ lửng ngay trên đỉnh đầu, vô số những con bướm trắng bay ra từ dây đàn đang vây quanh người cô.
Hoàng Thác nhìn tôi gật gật đầu nói, thật đúng như dự liệu của Đại vương!
Khi tôi và Thác ra sân, tóc Triều Nhai đang bay theo gió, con ngươi càng ngày càng xanh hơn, còn đứa trẻ con ông chủ đứng cạnh sợ hết hồn, nó nói trong sự sợ hãi, chị ơi, chị làm sao thế?
Tôi bước tới quỳ trước mặt đứa trẻ xoa đầu nó rồi nói, chị ấy không sao cả, chỉ bị thuật ám sát trong mộng của em khống chế mà thôi. Chị ấy chẳng sao đâu.
Đứa bé nhìn tôi, không hiểu tôi đang nói gì, nó nói, huynh đang nói gì vậy?
Đột nhiên tôi vung tay lên, một con dao băng ngắn, nhỏ nhưng rất sắc bay ra cắt đứt ngay sợi dây màu đen buộc tóc của đứa bé, sau đó mái tóc rất dài của nó tuột xuống đất, bộ tóc dài hơn bất kỳ bộ tóc nào mà tôi gặp ở nơi này – nơi trần thế do Tây phương hộ pháp biến ra, kể cả Thương Liệt so với nó cũng chẳng là gì.
Còn tóc của Triều Nhai đột nhiên không bay nữa và tuột xuống, chảy dài theo chiếc áo ảo thuật như một dòng thủy ngân.
Mặt nàng thuần một màu trắng, con ngươi sạch sẽ trắng như tuyết. Nàng nói: “Tiểu đệ, ta nói ta không hề gì, ta chỉ bị khống chế bởi giấc mơ của đệ mà thôi”.
Sau đó, mặt đứa bé bỗng trở nên lạnh lùng, ngạo mạn, giống như cơn gió ngược rất sắc bén tử khuôn mặt cậu ta thổi tới.
Cậu ta nhìn tôi, không nói gì, nhưng ánh mắt vẫn sắc lạnh.
Tôi nói, Quạ đen, ngươi có thể dừng lại được rồi đó!
Quạ đen nhìn tôi rồi nói:
– Ngươi không thể biết ta là Quạ đen được! Không thể!
– Đúng! – Tôi đáp – Rõ ràng là không thể, nhưng ta vẫn biết!
Quạ đen lại nhìn tôi rồi nhìn sang Triều Nhai và nói: các ngươi đang đóng kịch, Triều Nhai căn bản không bị khống chế?
– Đúng! – Triều Nhai thừa nhận – Ta đang đóng kịch. Nhưng ta không thể không thừa nhận, ngươi là người điều khiển giấc mơ giỏi nhất mà ta gặp, chỉ chút nữa là ta đã bị sa vào đó mà không tỉnh lại được. Nếu ta không sớm chuẩn bị thì có lẽ ta đã tự dùng cây đàn để giết chết mình rồi.
– Sao các ngươi lại nghi ngờ ta? – Quạ đen nhìn tôi rồi hỏi.
– Khi Y Trạo chết, Phượng Hoàng khẳng định đang cùng uống rượu với Thương Liệt ở trong sảnh lớn, nên người giết Y Trạo tuyệt nhiên không phải là Phượng Hoàng Hoa Hiệu, mà việc này chắc chắn không cần phải Tây phương hộ pháp ra tay, cho nên khẳng định chắc chắn Y Trạo là do Quạ đen giết chết.
– Vậy làm sao các người lại nghi ngờ ta là Quạ đen?
– Bởi chúng ta nhìn vết thương trên cổ họng của Y Trạo, phát hiện vết cắt tứ dưới đưa lên, nói cách khác, kẻ giết Y Trạo phải là người rất thấp hoặc đứng ở chỗ rất thấp để ra tay, sau đó mới lấy kiếm đâm vào cổ họng của nàng, vì vậy, chúng ta đoán rằng người giết phải là người rất thấp và nhỏ, còn là một người mà Y Trạo không bao giờ ngờ tới, vì nàng không kịp trở tay.
– Còn gì nữa?
– Còn chứ! Đó là cái chết của Phiến Phong. Lúc đó Hoàng Thác nói kẻ ám sát vẫn ở trong phòng, nhưng chúng ta lại chẳng nhìn thấy ai ra ngoài, đúng ra là vẫn có người ra ngoài, người đó chính là ngươi, bởi ngươi quá nhỏ, chưa cao tới thắt lưng Hoa Hiệu nên đã bị lan can che khuất, ở chỗ ta đứng lúc đó chẳng thể thấy được.
– Vì vậy các ngươi nghĩ là ta ư?
– Chưa.
Lúc đó mới chỉ cảm thấy rất lạ. Về sau càng nghi ngờ ngươi hơn vì một câu nói của Nguyệt Thần.
– Câu nói gì?
– Ngươi có còn nhớ hôm tất cả mọi người bị trúng độc, nhưng có người đã dẫn Nguyệt Thần đi không? Hôm đó, khi chúng ta mở cửa, ngươi xuất hiện ở hành lang tỏ ra lo lắng nhìn về hướng đó, nhưng khi Nguyệt Thần quay về nói với ta rằng: “Thần càng đuổi theo hướng đó thì sát khí càng nhạt”. Sau đó ta chợt nghĩ ra, thứ sát khí đó là do ngươi tạo ra khi đứng ở ngay cửa, ngươi vốn là một cao thủ có hạng trong ám sát, việc tạo ra sát khí hẳn dễ như trở bàn tay, chờ Nguyệt Thần quay về ngươi lập tức thu lại, làm ọi người không nghi ngờ ngươi được.
Quạ đen nhìn tôi, mắt lộ vẻ rất giận dữ và nham hiểm, oằn giọng, người hãy nói tiếp!
– Sau đó là giấc mơ của Tinh Quỹ, trong giấc mơ của Tinh Quỹ, ta lại thấy Anh Không Thích hồi nhỏ, trong tay nó cũng có một quả cầu giống hệt quả cầu của ngươi nhưng có màu tuyết trắng. Lúc đầu ta không hiểu giấc mơ này có ý nghĩa gì, sau đó mới hiểu ra: Ta còn nhớ đã từng gặp ngươi lúc ta mới vào trần thế do Tây phương hộ pháp biến ra này, nhưng lúc đó quả cầu trong tay ngươi có màu trắng tuyết, nay nó lại biến thành màu xanh băng; ta cũng nhớ lại khi Nha Chiếu chết đã nói với ta: Đại vương, hãy cẩn thận với màu xanh băng…
Lúc đó ta không hiểu phải cẩn thận điều gì, nhưng nay thì đã biết Nha Chiếu nhắc nhở ta phải cẩn thận với quả cầu màu xanh băng của ngươi. Sau đó, ta hỏi Triều Nhai, Triều Nhai nói rằng, những người có bản lãnh cao cường điều khiển được giấc mơ và ngưng tụ nó lại thành một thực thể, đó cũng là quả cầu của ngươi, về sau, người nào vấp phải giấc mơ đó sẽ bị nó nuốt chửng ngay lập tức, cho nên ta mới nói Triều Nhai hãy thử quả cầu của nhà ngươi xem đó có phải là giấc mơ giết người không. Kết quả không ngoài dự kiến của ta, quả cầu đó thực sự là giấc mơ chết người do ngươi điều khiển.
Quạ đen nhìn Triều Nhai rồi nói, hóa ra là ngươi không bị giấc mơ của ta khống chế, ngươi chỉ giả bộ thôi ư?
Triều Nhai gật đầu nói, đúng vậy, Hoàng Thác đã lập ra vòng bảo vệ cho ta rồi, những pháp thuật thông thường không thể tấn công ta được, và cũng chớ quên rằng, ta cũng là người điều khiển được giấc mơ.
Quạ đen đứng giữa chúng tôi, cúi đầu chẳng nói gì. Bộ dạng của y như một đứa trẻ rất ngoan, nhưng có ai ngờ được rằng, hắn là một cao thủ ám sát đứng thứ hai chỉ sau Tây phương hộ pháp mà thôi.
Vòng bảo vệ của Hoàng Thác đã làm không gian đông cứng lại, còn Triều Nhai cũng đem cây đàn ra, Quạ đen vẫn đứng ở giữa, tôi không biết hắn nghĩ gì, chỉ thấy màu mắt của hắn thay đổi liên tục.
Sau đó hắn đột nhiên cười toáng lên, bước tới và nói với tôi: “Huynh hãy ôm đệ có được không?”.
Lúc đó, tôi bỗng thấy không khí xung quanh chao đảo tạo nên một cơn xoáy lốc khổng lồ, trong chớp mắt, tôi bỗng thấy người đang đứng trước mặt tôi chính là Anh Không Thích – đứa em tôi, mái tóc trắng như tuyết rủ xuống, bộ mặt ngoan ngoãn ngây thơ nhìn tôi mỉm cười, giống hệt như Thích – một đứa trẻ đang ngủ ngon trong vòng tay tôi mấy trăm năm trước. Trước mắt tôi bắt đầu xuất hiện những mảng màu lớn rất đẹp, trong óc tôi vang tên tiếng nói của Thích, nó nói rằng, Đại huynh, Người hãy ôm đệ được không? Ôm đệ được không?
Sau đó Thích kiễng chân lên đưa tay ra sờ lên mặt tôi, nhưng khi tay nó vừa chạm mặt tôi thì lập tức xuất hiện ngay vòng bảo vệ của Hoàng Thác, một quả cầu trong suốt như pha lê chụp lấy người tôi làm cho Thích ngã lăn ra đất, nó bò lên trên đất, nước mắt rơi đầy trên mặt tuyết, nó khóc và nói rằng: Đại huynh, sao huynh lại không để ý tới đệ?
Lòng tôi bỗng đau như dao cắt, nỗi đau từ trong đầu lan ra. Tôi đi tới cúi người xuống định bế Thích lên, tôi nói: Thích ơi, đừng sợ, có huynh ở bên đệ rồi!
Trong lúc tôi cúi xuống, Thích đột nhiên biến thành Quạ đen, mọi ảo giác xung quanh đều biến mất, tôi nhìn thấy bộ mặt màu xanh kỳ dị của Quạ đen, một luồng ánh sáng trắng lạnh lùng đột ngột xuất hiện trên tay hắn rồi nhanh như chớp rạch vào yết hầu tôi, tôi không kịp lùi thì người như bị đông cứng lại.
Khi con dao băng trong tay Quạ đen xuất hiện trước cổ tôi, tôi đột nhiên nhìn thấy nụ cười đọng lại của Quạ đen, con dao băng của hắn không tiến lên được nữa bởi tôi thấy một luồng ánh trăng từ ngực hắn chảy ra, sau đó tôi nhìn thấy Nguyệt Thần đang đứng sau hắn, bộ mặt lạnh lùng tỏa sáng lấp lánh, tóc bay phấp phới như những ngọn giáo sắc nhọn.
Sau đó, Quạ đen từ từ ngã xuống trước mặt tôi, khi cơ thể hắn sắp chạm đất, hắn nói với tôi bằng giọng rất thảm thiết: Đại huynh, sao huynh không ôm đệ? Vì sao…?
Những bông hoa anh đào rất lớn đột nhiên xuất hiện trong không gian bỗng biến thành màu máu đỏ tươi của người trần thế. Tôi nghe thấy mặt đất chấn động, nghe như tiếng sấm trầm trầm vang tới từ tít tận nơi chân trời.
Khi tôi ngẩng đầu lên, những giọt nước mắt lặng lẽ rơi xuống, tôi lại nghe thấy tiếng Thích trên không trung, nó nói, Đại huynh xin huynh hãy tự do…
Phía sau nhà lại thêm hai ngôi mộ mới trên phủ đầy hoa anh đào, Phượng hoàng và Quạ đen nằm sóng đôi trong lòng đất lạnh, không biết khi mùa xuân về, trên những nấm mồ này cỏ xanh có thể mọc lên được không? Tôi chỉ biết rằng, cây hoa anh đào bên cạnh mộ họ khi tới mùa hoa sẽ nở rực rỡ mà thôi.
Thực ra anh đào là loài cây rất tàn nhẫn, rễ của nó càng cắm sâu vào nơi nào có người chết nhiều thì hoa nở càng rực rỡ hơn, rực rỡ như buổi bình minh mặt trời mới mọc vậy.
Nguyệt Thần và Hoàng Thác đứng trong gió, họ tỏ ra rất mệt mỏi nhưng vẫn rất kiên nhẫn, chiếc áo ảo thuật bay phần phật trong gió.
Chỉ có Triều Nhai là tỏ ra rất đau khổ. Hôm Quạ đen chết, Nhai nói với tôi: “Thưa Đại vương, có lẽ sau khi giúp làm đệ của Đại vương sống lại, thần sẽ rời xa thế giới nhiễu loạn này!” Tôi hỏi vì sao thì Triều Nhai nói:
– Thế giới này quá nhiều sự chết chóc và máu me, rất nhiều vong linh đang ngự trên tầng mây kia ngày đêm ca hát không ngừng, những bài ca màu đen như xuyên vào ngực thần, làm cho thần thấy khó chịu không thể chống đỡ được. Thưa Đại vương, có lẽ thần phải như Điệp Triệt trở lại nơi trần thế, tìm một người đàn ông yêu mình, người ấy sẽ không biết gì về pháp thuật và ca nhạc, nhưng thần chỉ cần nụ cười trong sáng và bộ ngực vạm vỡ của họ, thần sẽ nguyện tử bỏ tất cả để sống đến già cùng người đó. Đại vương, người biết mẫu hậu của thần không? Chính là người chơi đàn trong cung của phụ hoàng của người, thực ra bà đã chết từ lâu, bà đã xuống trần thế và chết ở nơi đầyánh nắng mặt trời, cỏ cây và chim chóc. Khi bà chết, chồng bà ở cạnh bà, nước mắt rơi lã chã, nay chồng bà đầu đã bạc phơ. Đó là giấc mơ cuối cùng trước khi chết mẫu hậu thần dành cho thần, thần luôn đau lòng vì giấc mơ đó.
Thực ra rất nhiều khi thần thấy khó chịu và tự nghĩ rằng, vì sao mình lại là một người bị giam cầm như vậy?
Tôi nói với Triều Nhai, mấy trăm năm về trước, tôi cũng đã từng buồn về chuyện đó, bởi vì tự do của mình mà tôi đã mất Thích.
Triều Nhai quay lại, đám mây lặng lẽ chậm bay qua đầu chúng tôi.
Năm mới đã qua.
Ngày tháng cứ trôi như nước chảy. Có những lúc tôi nằm một mình trên một cành to của cây anh đào, lim dìm cặp mắt nhìn mặt trời ẩm ướt trên cao, cảm giác như đang nằm dưới đáy sông, nhìn những chiếc lá rụng trên mặt nước cứ lặng lẽ trôi, trôi mãi.
Đúng như lời bà nội tôi đã nói, cuối cùng tôi đã trở thành một vị vua cô độc âm thầm chờ đợi cho thời gian trôi qua.
Nhưng Tây phương hộ pháp vẫn chưa xuất hiện, tôi, Nguyệt Thần, Hoàng Thác và Triều Nhai vẫn phải bị trói buộc ở nơi trần thế do pháp thuật của Tây phương hộ pháp biến thành mà chẳng có cách nào di chuyển đi đâu được.
Tôi đã từng dùng ảo thuật ghi chép mọi việc xảy ra ở đây vào một tấm giấy làm bằng da dê rồi dùng con chim chế ngự gió chuyển cho Tình Cựu hỏi xem chúng tôi cần phải làm thế nào.
Nhưng khi chim mang thư của Tinh Cựu về thì trên thư chỉ viết đúng hai chữ: Chờ đợi! Câu trả lời giống hệt như khi tôi hỏi Thương Liệt làm thế nào để gặp được Tây phương hộ pháp vậy.
Thương Liệt đã đi rồi, khi ông ta đi, tuyết ngừng rơi, ông ta đứng trước bốn người chúng tôi rất hiên ngang, cứ như là một con người vĩ đại nhất của cái thế giới trần thế này vậy.
Thương Liệt cười và nói với tôi rằng, thưa Đại vương, cái gì giúp được Người thần đã giúp cả rồi, nhưng thực ra thần lại chẳng giúp gì cho Người cả, Phượng hoàng và Quạ đen đã chết, chỉ còn Tây phương hộ pháp, nhưng thần lại không chống nổi. Xin Đại vương hãy cẩn thận.
Sau đó Thương Liệt tới trước mặt tôi quỳ xuống, khi ông ta ngẩng mặt lên nhìn tôi, nụ cười ấm áp như ánh nắng, ông ta nói, người là vị Đại vương trị vì đế quốc Ảo Tuyết trẻ nhất và vĩ đại nhất mà thần được gặp, nếu sau này có chuyện gì cần đến thần giúp xin hãy thả chim đến gọi thần, kể cả khi thần chết, con cháu của thần cũng không hề do dự trước mặt Người.
Tôi buồn bã gật đầu, nhìn Thương Liệt quay đi, bóng ông ta nhỏ dần rồi khuất hẳn ở đầu con đường, nơi băng tan.
Tôi có thể tưởng tượng ra một Thương Liệt đang hiên ngang đi trên trần thế vô cùng huyên náo. Một người có thể mất đi tất cả nhưng không thể mất đi linh hồn của cuộc đời mình, chính linh hồn làm cho con người trở thành một vị thần bất diệt. Thương Liệt chính là người như vậy.
Tôi quay lại nhìn Nguyệt Thần và Hoàng Thác, nhai người đang đứng với nhau, mái tóc mềm mại phủ lên mặt đất, giống như một bức tranh yên bình nhất, trải qua bao cuộc giết chóc và đấu đá lẫn nhau, linh lực của họ cũng ngày càng mạnh lên, tóc họ đã dài hơn so với tất cả mọi người ở Nhẫn Tuyết, kể cả Tinh Cựu và Tinh Quỹ.
Triều Nhai cúi đầu đứng sau họ, tôi nhìn thấy nước mắt nàng trào ra.
Sau đó tôi nghe thấy một bản nhạc tuyệt mỹ bay vút lên không trung, lên mãi tới trời xanh. Không khí dưới những cánh bướm rập rờn do Triều Nhai tạo ra từ dây đàn bị cuốn lại như những làn sóng trong suốt, tôi nhìn thấy mọi người qua đường ngạc nhiên như gặp được người trời, họ nhìn Triều Nhai, nhìn cô gái đẹp với mái tóc dài trắng muốt mà quên cả nói chuyện. Chỉ có những khúc nhạc bất diệt giống như những linh hồn đang bay trên bầu trời trong xanh, đàn chim chao qua chao lại như đang xé rách những đám mây. Vô vàn những vết thương xuất hiện trên trời rồi dấn dần biến mất.
Ngày thứ ba kể từ sau khi Thương Liệt ra đi, thì thi thể ông ta được phát hiện ở ven con đường đầy bụi ở ngoài cửa thành. Khi chúng tôi tới nơi, tuyết lại rơi, từng bông từng bông phủ kín lấy người ông ta. Thi thể của ông ta đã lạnh cứng, nét mặt bị méo mó rất đáng sợ.
Tôi đứng cạnh thi thể Thương Liệt ngước mắt lên nhìn bầu trời đầy mây màu xám xịt, tôi nghe thấy những âm thanh lạnh lùng buốt xương và còn thấy cả những kẽ nứt của xương, giống như những tia chớp sáng trắng.
Triều Nhai không nói gì, chỉ thấy nước mắt chảy tràn.
Hoàng Thác đang kiểm tra thi thể, Nguyệt Thần đứng cạnh.
Tôi bước tới hỏi Thác vì sao ông ta chết? Thác không trả lời chỉ xé toang miếng áo trước ngực của Thương Liệt, ở đó lộ ra ba lỗ thủng da thịt bị xé rách vô cùng tàn nhẫn. Máu trắng đều đông cả lại. Ánh mắt của Thương Liệt rất mông lung và hoảng hốt nhìn lên bầu trời như quá ngạc nhiên không nói được thành lời. Tôi quay đi không dám nhìn, còn Triều Nhai đã lùi rất xa về phía sau và cúi đầu xuống nôn ọe.
– Thưa Đại vương, Người hãy nhìn tay ông ta – Nguyệt Thần nói.
Khi tôi nhìn vào tay ông ta đột nhiên phát hiện ra một việc rất kỳ quái bởi các ngón tay trái của ông ta vẫn giữ tư thế rất lạ lùng, đó là thế tay mà các nhà ảo thuật dùng trong khi làm ảo thuật.
– Thưa Đại vương, ngài có biết Thương Liệt vốn là một nhà chiêm tinh không?
– Không. Ông ta chưa bao giờ nói điều đó cho ta biết.
Nguyệt Thần nhìn tôi và hỏi lại.
– Vậy vì sao khi ông chết, ông còn xem quẻ? Hay là khi xem quẻ, ông đã phát hiện ra điều gì nên mới bị ám sát mà chết?
Tôi nhìn lên trời mà chẳng làm sao trả lời được câu hỏi này, chỉ thấy bộ mặt của Tây phương hộ pháp đang ẩn hiện trên không trung, nhưng lại không sao nhìn rõ được nó ra sao. Điều duy nhất có thể cảm thấy được là nụ cười khinh bỉ của Tây phương hộ pháp, ánh sáng lạnh lùng toát ra từ đôi mắt ông ta như những mũi dao sắc nhọn đâm vào cơ thể tôi.
Hoa anh đào đang lụi tàn, vầng mặt trời đỏ như máu đang chìm dần nơi chân trời, gió đột nhiên thổi mạnh.
Khách vẫn đến thuê nhà như bình thường, sự huyên náo nơi trần thế vẫn diễn ra không ngừng, mặt trời mọc thì trăng lặn, cây cỏ khô héo đi rồi lại đâm chồi nảy lộc xanh tươi. Những thiếu nữ đẹp nghiêng nước nghiêng thành vẫn đang hát những bài hát du dương trầm bổng, những chàng trai trẻ lưng đeo kiếm cưỡi những con tuấn mã vẫn tung vó trong chốn phong trần trông rất bi tráng, nhưng ai biết được rằng, dưới những tà áo tung bay kia cùng với nhữngthanh kiếm sắc bén đó đã chôn vùi biết bao ánh mắt đợi chờ cùng bao nhiêu
hồi ức. Ai để ý tới những dòng máu chảy trong các cuộc tàn sát và những sự tuyệt vọng trong những tiếng gào thét kia.
Chỉ biết rằng trong rất nhiều đêm, nước mắt tôi cứ ròng ròng chảy.
Tôi luôn thả bộ trong khoảng sân trống trải của một căn nhà nhỏ mà cảm thấy mỗi bước đi đều rất thê lương. Nhiều lần, trên thảm cỏ và khoảng sân rộng tràn ngập tiếng cười của mọi người, bầu không khí vui vẻ bao trùm suốt ngày đêm đã khiến tôi thấy lòng ấm áp lạ lùng. Nhưng bây giờ, người đã ra đi, lầu vắng không, chỉ còn những cây trúc đứng uy nghi trong gió tuyết vẫn xanh rởn, hoa anh đào vẫn nở rộ rồi phai tàn rụng xuống, nhưng chẳng có ai đi bên tôi và gọi tôi bằng “Đại vương”, những con người như làn gió xuân làm tan đi băng giá như Tinh Quỹ, Liêu Tiễn, Phiến Phong, Trâm, Nha Chiếu, Đông Nhiếp, Ngư Phá, Y Trao, Thương Liệt, thậm chí cả Phượng hoàng và Qua đen đều không còn. Chỉ còn đọng lại trong tôi những khuôn mặt mờ ảo, giống như lớp sương mù cuối năm không tan nổi, rất mơ hồ như ở kiếp trước.
Hoa anh đào trong vườn lại đâm chồi non, những mầm xanh chứa chan hy vọng. Triều Nhai vẫn ngồi gảy đàn dưới gốc cây to mà chẳng cần phải dùng tới chút linh lực ảo thuật nào mà những khúc nhạc vẫn vô cùng tinh tế. Khách trọ luôn kinh ngạc bởi tiếng đàn và khuôn mặt của nàng. Triều Nhai vẫn như ngày nào khi còn ở trong thành Nhẫn Tuyết, hai mắt nhắm lại, quên đi tất cả sự ồn ào xung quanh mình. Sau khi trải qua cuộc chiến đấu với Điệp Triệt và Quạ đen, Phượng hoàng, Triều Nhai đã trở thành một pháp sư giỏi nhất, tóc của nàng vừa dài vừa trắng muốt như tóc Hoàng Thác và Nguyệt Thần, nhưng sự lo âu trong mắt nàng luôn làm cho tôi khó nghĩ. Triều Nhai luôn ngồi dưới tán lá của những cây to, ôm cây đàn trong ánh sáng trong trẻo của mùa xuân mà nước mắt cứ rơi hoài, ãi tới khi mặt trời lặn, ánh hoàng hôn nhập nhoạng mới trở về phòng mình.
Tôi đang từ đằng xa nhìn bóng dáng nàng mà lòng đau xót. Tôi ngẩng đầu nhìn vầng mặt trời đang lặn giật mình phát hiện ra rằng mình đã ở nơi trần thế này được mấy tháng rồi.
Tôi bước tới chỗ Triều Nhai, nhưng vừa đi được hai bước đã dừng lại vì thấy Nguyệt Thần xuất hiện ngay sau lưng Triều Nhai, nàng mặc một chiếc áo dài đen trên có vẽ những ngôi sao màu xanh. Tôi biết đó là chiếc áo ảo thuật của nàng, ánh sáng của những ngôi sao trên đó thực ra đều là linh lực tản mát của nàng, có thể giúp cho chủ nhân tăng thêm linh lực ảo thuật.
Nguyệt Thần đứng sau Triều Nhai nói: Hãy đứng yên.
Triều Nhai quay đầu lại bình thản như không. Nàng nhìn Nguyệt Thần mà chẳng nói gì.
– Triều Nhai, giấc mơ giết chết Nha Chiếu quả là một thuật ám sát rất lợi hại phải không? Nguyệt Thần nói.
– Đúng! Linh lực của kẻ tạo ra nó mạnh hơn tôi – Triều Nhai cúi đầu nói.
– Vậy năng lực của ta và nàng ai cao hơn?
– Không biết. Có lẽ ngang nhau thôi.
– Vậy nàng hãy nói cho ta biết, vì sao ta dễ dàng phá được giấc mơ đó?
Nghe đến đây, tôi đã biết Nguyệt Thần muốn làm gì rồi.
Triều Nhai quay đầu lại, ánh nắng chiếu lên tóc nàng trông như một dòng suối trong vắt. Nhưng gió xung quanh nàng bỗng cuộn lên như những con sóng nhỏ trong suốt lan tỏa trong không gian.
Nguyệt Thần vẫn lạnh lùng đứng trước mặt nàng, nhưng trên tay nàng loang loáng sáng, ánh sáng sắc như băng.
Rồi Triều Nhai ngồi xuống bình tĩnh gảy đàn, tiếng đàn du dương uyển chuyển, vô số những con chim quần tụ lại bay lượn trên đầu nàng, tôi cảm thấy không khí xung quanh như rung chuyển lên từng đợt. Tiếng của Triều Nhai mơ hồ như vọng lại từ một nơi rất xa, nàng nói rằng hóa ra là Nguyệt Thần luôn nghi ngờ nàng.
Nguyệt Thần nói bởi chính nàng đáng để nghi ngờ.
Nụ cười của Triều Nhai giống như đóa hoa sen vừa nở, chỉ một lát đã lan tỏa như sương mù khắp nơi, những con bướm trắng ào tới như những bông hoa tuyết bay rợp trời, còn Nguyệt Thần cũng bắt đầu chuyển động, thứ ánh sáng phát ra trên người nàng như những ánh chớp lúc ẩn lúc hiện trong đám bướm màu trắng của Triều Nhai, những con bướm chết rơi lả tả xuống mặt tuyết lạnh rồi tan lẫn trong tuyết trắng. Khi ánh chớp cuối cùng như xé rách bầu trời giáng xuống thì tất cả đều ngừng lại, sau đó tôi nghe thấy âm thanh của những dây đàn vô âm của Triều Nhai đứt ra từng sợi từng sợi một vô số những tia sáng sắc nhọn của ánh trăng tử trong người Triều Nhai ào ạt xuyên ra ngoài, cuối cùng
Triều Nhai đổ vật xuống trước mặt Nguyệt Thần, ánh mắt của nàng mờ dần đi.
Nước mắt tôi bỗng trào ra nhưng cổ họng như tắc nghẽn lại, chẳng nói được thành lời.
Khi Nguyệt Thần quay lại thì nhìn thấy tôi, nàng thoáng tỏ ra lúng túng, sau đó bộ mặt nàng trở lại rất lạnh lùng và nói, thưa Đại vương, Người cũng ở đây ư?
Tôi trả lời đúng vậy rồi chẳng nói được câu nào nữa.
– Thưa Đại vương, nếu tôi đoán không nhầm thì Triều Nhai chính là Tây phương hộ pháp. Nguyệt Thần nói.
– Nếu đoán sai thì sao? Tôi nói giọng yếu ớt.
– Thế giới này vốn luôn tồn tại sai và đúng, một số sai lầm là không thể tránh khỏi. Nếu Người muốn một số việc thành công thì phải hy sinh một số việc khác, có đúng vậy không, thưa Đại vương?
Tôi quay người bỏ đi, chẳng nói gì. Chỉ khi trở về phòng ở, tôi nói với Nguyệt Thần vẫn đang đứng trong sân ở phía sau: Vậy ngươi cảm thấy ngươi có thể dễ dàng giết chết cô ta không?
Nơi trần thế bấy giờ vẫn đang là kỳ giao mùa, thỉnh thoảng vẫn có tuyết rơi, tôi bất giác nhớ lại mùa đông ở thành Nhẫn Tuyết – một mùa đông tuyết rơi trong mười năm liền.
Tôi đứng bên cửa sổ, ánh trăng như nước chảy tràn cây lá và mặt đất, gió thổi làm bóng cây đung đưa như những thế tay của ảo thuật trông rất kỳ lạ, tiếng kêu thảm thiết của Quạ đen vang vọng trong đầu tôi nghe thật sợ hãi.
Tôi đưa tay ra trước ánh trăng, động đậy ngón tay bên trái, sau đó khuôn mặt tiểu đệ của tôi hiện ra trong không trung cùng tiếng gọi “Đại huynh” của nó. Khuôn mặt đệ luôn thay đổi, có lúc cười rạng rỡ như ánh mặt trời, có lúc lại lạnh lùng như băng giá và có cả nỗi tuyệt vọng khi phải chết. Nhưng tất cả chỉ là ảo giác, mấy trăm năm nay, phải dựa vào pháp thuật để nhớ lại những hình ảnh đó để chống đỡ ình những khi cô đơn, giúp ình nhớ lại những năm tháng tuổi trẻ trôi qua như vó câu qua cầu. Còn bây giờ, có ai đáng để tôi hoàn toàn tin tưởng như Thích nữa đây? Ai có thể vì nụ cười của tôi mà vui
sướng trong suốt mấy trăm năm?
Thích ơi, đệ có biết không, chỉ cần đệ gọi một tiếng “đại huynh” đã đủ để nước mắt ta giàn giụa rồi.
Nhà khách vẫn người đến kẻ đi bình thường, nhưng chỉ còn có hai người là Nguyệt Thần và Hoàng Thác còn cùng ăn cơm với tôi.
Khi chúng tôi bắt đầu ăn cơm, Nguyệt Thần đột nhiên dùng tay ngăn tôi lại và nói, xin chớ động vào thức ăn này.
– Vì sao vậy?
– Bởi chúng có độc – Nguyệt Thần nói rồi lạnh lùng nhìn Hoàng Thác – Chẳng phải toàn bộ thức ăn của chúng ta đều do Thác chịu trách nhiệm ư? Làm sao lại có thể có độc?
Thác không ngẩng đầu lên, chỉ nói rất lạnh nhạt:
– Nguyệt Thần, ngươi nghi ngờ ta ư?
– Đúng vậy!
Sau đó ánh trăng từ tay Nguyệt Thần như một lưỡi dao sắc nhọn kề vào yết hầu của Thác, tôi vội ra tay biến thành lưỡi dao băng chặt đứt tia sáng của Nguyệt Thần và nói, Nguyệt Thần, đủ rồi, không cần phải nghi ngờ lẫn nhau nữa.
Nguyệt Thần lao tới trước Thác và nói: Không thể được!
Dưới chiêu thức ảo thuật của Nguyệt Thần, Hoàng Thác càng ngày càng khó di động. Tôi chạy tới dùng gió tuyết làm đông cứng luồng ánh sáng của Nguyệt Thần, trong chớp mắt, Nguyệt Thần đột nhiên kinh ngạc nhìn tôi, hình như không tin là tôi ra tay với nàng, và đó cũng là biểu hiện cuối cùng của nàng mà tôi nhìn thấy. Hoàng Thác đột nhiên dùng tay đánh mạnh vào cổ họng của Nguyệt Thần. Tôi quay lại và nhìn thấy nụ cười kỳ lạ của Hoàng Thác.
Nguyệt Thần đổ vật ra đất, tôi nhìn thấy nỗi ai oán trong ánh mắt nàng, nỗi ai oán chuyển dần thành buồn đau, những giọt nước mắt trào ra bên khóe mắt của nàng.
Nguyệt Thần và Triều Nhai được mai táng phía sau nhà khách cùng chỗ với Liêu Tiễn và Phiến Phong. Phần mộ của Nguyệt Thần và Triều Nhai vẫn là những nắm đất đen, còn mộ của Phiến Phong và Liêu Tiễn cỏ đã non xanh, biểu hiện cái chết và sự sống đan xen vào nhau. Gió lạnh trùm lên những ngôi mộ, tôi và Hoàng Thác đứng trước những ngôi mộ mà chẳng nói gì, gió gào thét, áo của chúng tôi phần phật bay.
– Hoàng Thác, vì sao lại giết Nguyệt Thần? – Tôi hỏi.
– Bởi Nguyệt Thần muốn giết tôi. Thác đáp.
– Nhưng ngươi không thấy ta đã ra tay rồi ư? Cô ta sẽ không có cơ hội giết ngươi.
Thác chẳng nói gì, chỉ có nụ cười bí ẩn đọng lại trên khuôn mặt.
– Thưa Đại vương, chúng ta chia tay ở đây thôi! – Thác nói.
– Chia tay? Ngươi muốn nói…
– Tôi muốn nói hãy trở về thành Nhẫn Tuyết, mặc dù tôi biết Người cảm thấy thành đó như một thứ đồ chơi, nhưng nơi đó người thuộc bộ tộc đang chờ, tôi chính là thần của họ.
– Ngươi nói là ngươi sẽ vất bỏ cuộc hành trình sắp tới sao?
– Thưa Đại vương, ngài cảm thấy còn có cuộc hành trình đó ư? Đó là một con đường không có đoạn cuối, vả lại tôi cũng quá mệt rồi tôi phải đi đây!
Khi Hoàng Thác bước đi, đột nhiên tôi nói:
– Hoàng Thác, ngươi mới đúng là Tây phương hộ pháp phải không?
Hoàng Thác không quay đầu lại nói rằng: Hỡi Ca Sách, không cần phải hỏi chuyện này nữa, ngươi cảm thấy vẫn còn có hy vọng qua lãnh địa của Tây phương hộ pháp ư? Ngay cả Tây phương hộ pháp cũng không qua nổi, vậy ngươi làm sao mà thắng nổi được Uyên Tế đây.
Khi Hoàng Thác sắp biến mất trong đám sương mù thì tôi chạy lên trước mặt ngăn ông ta lại, thanh kiếm của tôi chĩa thẳng vào yết hầu ông ta và nói:
Nếu ngươi là Tây phương hộ pháp, ta quyết không thế để cho ngươi đi được.
Hoàng Thác nhìn tôi vẻ hoảng hốt rồi nói: Nhưng tôi nói tôi không phải thì ngài có tin không? Cuối cùng thì Hoàng Thác vẫn chết dưới lưỡi kiếm của tôi, máu của ông ta đã chảy tràn xuống đất. Tôi nghe như có tiếng nói mơ hồ trong cổ họng ông ta “Đại vương, Người không bị ràng buộc nữa rồi, hãy tự do bay đi…”
Nơi Hoàng Thác bị tôi giết chính là nơi tận cùng của trần thế do Tây phương hộ pháp dùng ảo thuật tạo nên, đó là một ruộng lúa mạch rất rộng, vàng chói như ánh nắng mặt trời, gió đuổi nhau tới tận cùng trần gian. Nơi đó, tuyết lặng lẽ rơi và tôi biết rằng, đâu đấy tôi sẽ trở về thành Nhẫn Tuyết, trở về với cuộc sống thầm lặng có thể nghe tiếng nứt vỡ của thời gian kéo dài vài trăm hoặc vài ngàn năm nữa.
Hoàng Thác ngã trên ruộng mạch, khuôn mặt còn đọng lại nụ cười đau khổ như bộ mặt của Nguyệt Thần lúc chết, mái tóc của ông ta lấp lánh màu trắng thủy ngân trải dài theo sóng lúa vàng nhấp nhô, tấm áo dài dính máu với đất đen trông giống như con cò đã chết giang đôi cánh màu đen.
Tôi ngước nhìn trời xanh, đàn chim trên đầu tôi đang hạ dần độ cao, chúng bay vòng quanh ruộng lúa mạch như luyến tiếc không muốn rời, cũng như tôi, một vị Đại vương trẻ tuyệt vọng vì mình đã mất phương hướng.
Tôi chưa hề nghĩ rằng có lúc tôi lại bị cô độc như vậy, tôi nghĩ tới những người bên cạnh mình, họ đã lần lượt ra đi, đôi con ngươi trắng và những tà áo dài bay bay trong gió biến mất dần trong tử khí. Một lần nữa, tôi lại nghe thấytiếng hát của những vong linh tất cả những người đã chết đều đứng trên trời cao, họ nhìn tôi xuyên qua những đám mây, khi tôi ngẩng đầu lên, lòng tôi đau như dao cắt.
Tôi chưa biết cuối cùng thì Tây phương hộ pháp là ai, nó giống như một giấc mộng làm ta không sao thoát ra được, nhưng cũng không sao nhìn rõ.
Thậm chí tôi không biết Nguyệt Thần, Hoàng Thác và cả Triều Nhai, Phiến Phong và Liêu Tiễn nữa, phải chăng họ đã chết bởi sự bất tài và không tin tưởng của tôi, có lẽ Tây phương hộ pháp thật đang đứng phía sau cười nhạo tôi, cái cười như bông hoa sen trong màn sương vậy.
Tôi từ biệt người hầu của nhà khách và nghĩ rằng, cho dù chỉ còn một mình, tôi vẫn đi tiếp.
Người hầu tiễn tôi mà chẳng nói gì, anh ta chỉ là một người trần thế rất đơn thuần giống như biết bao con dân của tôi, chỉ có điều, anh ta không biết tôi là vị thần vĩ đại tối cao của họ mà thôi.
Khi đi được một đoạn xa, tôi quay nhìn khu nhà đó đang nhỏ dần, tòa nhà với tường trắng, ngói xanh và những hàng liễu rủ. Hoa lê đã bắt đầu nở, những chấm hoa li ti như những bông tuyết mềm mại tràn ngập không trung.
Tôi đi tiếp và không nhìn lại nữa vì nước mắt đã bắt đầu rơi.
Những hình ảnh đã qua bỗng dồn dập đổ về, tôi nhìn thấy Liêu Tiễn đứng trước phụ vương của ông ta và nói “Phụ vương, con sẽ thành một Đông phương hộ pháp giỏi nhất”. Tôi nhìn thấy dáng Nguyệt Thần lặng lùng và kiên cường, thỉnh thoảng nở những nụ cười như một làn gió xuân ấm áp. Tôi nhìn thấy bóng dáng Tinh Quỹ gầy gò bé nhỏ ngã trong vũng máu, nghe tiếng nàng nói với tôi hãy đi tìm hạnh phúc của chính mình; Tôi nhìn thấy Phiến Phong vui vẻ điều khiển làn gió; nhìn thấy đàn bướm trắng đang bay quanh khi Triều Nhai gảy đàn; nhìn thấy Hoàng Thác đang lập ra vòng bảo vệ cho tôi; nhìn
thấy cái chết thê thảm cuối cùng của Thương Liệt…
Tôi bỗng cảm thấy trong ngực mình có vật gì đang dần tan vỡ thành những mảnh nhỏ sắc nhọn…
Tôi đã rời xa nơi thành thị phồn hoa, xung quanh đã không còn người trần thế. Tôi nằm trên bãi cỏ rộng mênh mông, sưởi ánh nắng dịu dàng phủ kín.
Không khí xung quanh tràn ngập hương thơm của mùa xuân nơi trần thế.
Khi tôi ngồi dậy suy nghĩ mình cần phải làm gì, đột nhiên nhìn thấy ở nơi xa nhất của bãi cỏ – tựa như ở đường chân trời vậy – một cơn gió lốc trong suốt xuất hiện. Tôi khẳng định rằng một người có linh lực siêu việt sẽ xuất hiện, tôi cảm thấy mặt đất chấn động, cuối cùng tuyết ào ào rơi xuống. Giống như khi Lê Lạc xuất hiện, ký ức của tôi bắt đầu nhẹ lay giống như hình ảnh đảo ngược.
Sau khi tuyết rơi hết, bỗng xuất hiện một cảnh tượng thật khó tin.
Tinh Quỹ đứng sừng sững cao tít trên không trung, gió ào ào thổi qua dưới chân, tóc và áo nàng bay lên như những dải lụa.
Tinh Quỹ hạ xuống mặt đất rồi từ từ bước lại phía tôi, hình dáng và nụ cười mờ ảo của nàng giống như một thứ ảo giác vậy.
Nàng bước tới trước mặt tôi, ngẩng mặt lên rồi hỏi: “Đại vương, Người vẫn khỏe chứ?” rồi nàng nở nụ cười.
Tôi cảm thấy sức mạnh của mình bỗng nhiên biến mất, ngay cả đứng lên cũng không được. Tôi hỏi:
– Tinh Quỹ, chẳng phải nàng đã chết ở vùng của Bắc phương hộ pháp rồi sao?
Tiếng của Tinh Quỹ ở quanh tôi, nhưng tôi không thấy môi nàng động đậy, trên mặt nàng chỉ thấy một nụ cười kỳ lạ. Nàng nói:
– Người cho rằng ta bị linh lực của Tinh Trú giết chết rồi ư?
– Vậy thì nàng…
– Ta chính là Tây phương hộ pháp mà bấy lâu ngươi tìm kiếm: Tinh Quỹ.
Tôi chẳng nói được gì, chỉ nhìn thấy nụ cười của nàng càng ngày càng trở nên kỳ dị và mơ hồ hơn. Sao Tinh Quỹ lại có thể là Tây phương hộ pháp? Câu hỏi đó cứ luôn xuất hiện trong đầu tôi như một câu thẩm vấn từ trên trời rơi xuống.
– Thưa Đại vương thân yêu của thần, chẳng phải thần đã cho Người giấc mơ cuối cùng là gì? Bảo Người khi gặp Tây phương hộ pháp hãy mở ra, Người quên rồi sao?
Nụ cười của Tinh Quỹ như bùa mê.
Trong giấc mơ của Tinh Quỹ, hình dáng của nàng xuất hiện giống hệt như đang trước mặt tôi, nụ cười rất mơ hồ, tiếng nói rất kỳ lạ. Nàng nói với tôi, thật ra tất cả chỉ là trò chơi của nàng mà thôi. Nàng nói:
– Thưa Đại vương, Đại vương là người mà đại huynh của thần tin tưởng nhất nên thần biết Người thật không đơn giản chút nào, do vậy thần đã mang hết sức lực giúp Người chiến thắng ba hộ pháp trước bởi nếu Người chết trong tay họ thì quả là chẳng ra gì, bọn họ không địch nổi một ngón tay của thần.
Thần muốn Người cùng chơi một trò chơi, trò chơi của một kẻ giết người và một người bị giết, Người đáng là đối thủ của thần, chỉ có điều cuộc đời thần quá nhạt nhẽo, nên thần làm sao mà bỏ qua một việc đầy kịch tính như thế này. Thần muốn xem Người có thể tìm ra một Tây Phương hộ pháp thực sự hay không? Đáng tiếc là đại huynh của thần rất tin Người, suy nghĩ của Người giảnđơn hơn thần nghĩ nhiều. Thưa Đại vương, thần để cho những người bên cạnh Người lần lượt chết đi, đó chính là một cuộc truy đuổi và tàn sát vĩ đại, đến cuối cùng, nếu tất cả những người bên cạnh Người chết hết, lúc đó thần mới
xuất hiện và nói cho Người biết, thần đây mới thực sự là Tây phương hộ pháp, chỉ bởi Người không thể làm gì được thần, xét về linh lực thì Người không thể bằng thần, mặc dù Người đã được em trai có linh lực tuyệt vời cho kế thừa cả linh lực và ảo thuật, nhưng Người vẫn không phải là đối thủ của thần.
Thưa Đại vương, đường đi của ngôi sao đã được ta sắp đặt, xin Người hãy theo ta chơi nốt trò chơi hay nhất này…
Khi tôi cố gắng tỉnh lại qua giấc mơ của Tinh Quỹ, nụ cười của nàng vẫn xuất hiện trước mắt tôi, chỉ có điều cảnh vật xung quanh đã rõ dần, tôi nhìn thấy thảm cỏ xanh và ánh sáng mặt trời, nhưng lòng lại tái tê lạnh giá.
Tinh Quỹ ở trước mặt tôi, trên tay nàng đột nhiên xuất hiện thứ vũ khí tôi chưa từng thấy bao giờ, có một thứ hình như là vô số các dây gấm màu đen lấp lánh đang quấn quanh những ngón tay, nhưng lại giống như một làn gió hữu hình quấn lấy. Không khí xung quanh đông đặc đến nghẹt thở, tôi nghe thấy tiếng nói của Tinh Quỹ vang vọng phía trên đỉnh đầu mình, nàng nói: “Ca Sách, nay Người cô đơn một mình, Người làm sao mà đến được với thần?”
Đột nhiên tôi thấy quá mệt mỏi, tôi chậm rãi và nhỏ nhẹ nói với nàng:
“Thế ư? Vậy nàng hãy quay đầu lại xem”.
Bởi vì tôi đã thấy Triều Nhai, Hoàng Thác và Nguyệt Thần xuất hiện phía sau Tinh Quỹ. Áo dài của họ bay lên như những đám mây huyền ảo. Họ là những người mà tôi tin nhất.
Thần sắc của Tinh Quỹ vẫn nguyên như thế, chỉ khi nàng nhìn tôi mới thấy mắt có thêm tia sáng. Nàng nói: “Hóa ra là họ chưa chết!”
Tôi nói:
– Đúng vậy, họ đều không chết. Ta thà chết chứ không để họ chết bởi họ là những người ưu tú nhất của Nhẫn Tuyết; ngoài ra còn có cả Phiến Phong và hai người Thương Liệt và Liêu Tiễn đã chết trong tay ngươi, họ đều là những người ưu tú nhất.
– Ngay cả Liêu Tiễn bị thần giết mà Người cũng biết ư? Phải chăng từ lúc ấy Người đã nghi ngờ thần?
– Không! Lúc đó ta không nghĩ là ngươi.
– Vậy làm sao Người biết thần là Tây phương hộ pháp?
– Ta biết được từ rất nhiều chuyện, trước tiên là cái chết của Liêu Tiễn. Bởi ta phát hiện ra một cây kim độc trên đầu, nên ta đã bị hút vào vòng do ngươisắp đặt, cho rằng Tiễn bị người khác sát hại bằng cây kim độc, thực sự không phải như vậy. Về sau Hoàng Thác còn phát hiện trên người Liêu Tiễn, đúng ra là một loại thuốc độc ngưng kết ở đỉnh đầu, đó là một chất độc mạn tính của loài hoa Thương yêu chuyển hóa thành, điều đó có nghĩa là trước khi vào đất của Tây phương hộ pháp thì Liêu Tiễn đã bị trúng độc rồi. Lúc đó, Tiễn suốt ngày bế ngươi, vậy ngươi chính là kẻ gần gũi nhất và dễ hạ độc Tiễn nhất.
– Đúng. Liêu Tiễn là do thần giết và đúng là thần dùng độc dược Thương yêu. Nhưng sau đó thì sao? Chẳng lẽ lại từ chuyện đó lại có thể đoán thần là Tây phương hộ pháp một cách đơn giản như vậy ư?
– Không. Sau cái chết của Tiễn là đến cái chết của ngươi!
– Cái chết của thần ư?
– Đúng. Ta phải thừa nhận rằng, việc tạo ra cái chết của ngươi là một thủ đoạn tinh vi và lợi hại nhất, chẳng ai lại đi nghi ngờ một người đã chết rồi.
Cũng bởi vòng bảo vệ mà Hoàng Thác tạo ra bao quanh ngươi là một vòng bảo vệ tốt nhất làm bằng chính sinh mệnh của Thác. Nói cách khác, nếu Thác không chết thì những người trong vòng bảo vệ đó cũng không chết; còn như vòng bảo vệ bị công phá, người chết đầu tiên phải là Hoàng Thác. Nhưng nhà ngươi vẫn chết. Lúc đầu ta cho rằng do ngươi sức quá yếu cộng với sự tương khắc kỳ diệu giữa những nhà chiêm tinh mà làm cho ngươi chết nên chỉ thấy buồn bã mà thôi. Buồn vì nhà ngươi đã chết. Nhưng trong bức thư mà đại huynh của ngươi gửi cho ta đã nói, ông ta dự đoán rằng ngươi phải một mình đi vào thế giới mới lạ và nói đừng để cho ngươi đi một mình. Lúc đó, ta nghĩ
Tinh Cựu bói quẻ rằng ngươi sẽ chết, nhưng sau đó mới biết rằng, ngươi đã đi về vùng Tây phương của ngươi và chờ ta vào đó. Chính vì ngươi sợ đại huynh của ngươi nói cho ta biết việc ngươi chưa chết nên ngươi bảo ta đừng báo tin ngươi chết cho ông ấy.
Ánh mắt của Tinh Quỹ ngày càng trở nên lạnh lùng, Quỹ bảo tôi hãy nói tiếp. Tôi nói:
– Sau đó là chuyện của Tinh Trú Bắc phương hộ pháp. Thực ra giết Tinh Trú là chuyện rất dễ dàng đối với ngươi, lúc cô ta chết, cô ta đang định nói Tây phương hộ pháp là ai, bởi cô ta thấy chuyện ngươi ở với chúng ta đúng là chuyện đáng buồn cười, nhưng ngươi đã không cho cô ta có cơ hội nói ra, ngươi đã dùng pháp thuật để giết cô ta một lần nữa. Nhưng, lúc đó ta lại cho rằng nhà ngươi chỉ dùng Huyền băng chú, có điều ta cảm thấy rất kỳ quái là ngươi vốn là một nhà chiêm tinh sao lại biết dùng pháp thuật đen uyên thâm
và phức tạp như vậy, bởi chỉ có những nhà ảo thuật giỏi nhất và những pháp sư chuyên ám sát mới biết thử đó.
Sau đó, ta đi vào vùng Tây phương của ngươi, rồi ngươi và Phượng hoàng cùng Quạ đen tạo ra một loạt cái chết khác, để chúng ta không còn thời gian suy nghĩ tới những việc trước kia của ngươi. Chỉ tới khi Nha Chiếu chết, ta lại bắt đầu nghi ngờ ngươi.
– Vì sao vậy?
– Bởi Nguyệt Thần nghi ngờ Triều Nhai, mà hai người vốn có đủ sức để phá tan giấc mơ đó, có điều kỳ lạ là, năng lực giải tỏa giấc mơ của Triều Nhai mạnh hơn của Nguyệt Thần nhưng lại không phá nổi giấc mơ đó, rõ ràng còn có một người có sức mạnh hơn hẳn ở quanh đấy, mà ngươi chính là một nhà chiêm tinh giỏi nhất. Ngươi đã dùng Triều Nhai để chúng ta chuyển nghi ngờ sang cô ấy, nhưng ngươi quên mất một điểm rằng, không thể có hai Tây phương hộ pháp được. Nếu Triều Nhai giả bị thương thì vì sao Hoàng Thác lại
phải giúp cô ta giấu giếm đi? Cho nên, ta nói với Nguyệt Thần rằng, Triều Nhai và Hoàng Thác đều không phải là Tây phương hộ pháp.
– Cho nên các người giả chết để dụ thần ra ư?
– Chưa phải. Lúc đó mới chỉ nghi ngờ mà thôi, người thực sự làm cho ta quyết tâm dụ ngươi ra chính là Thương Liệt.
– Thương Liệt? Các ngươi làm sao biết ta giết Thương Liệt?
– Bởi thế tay của ông ta. khi chết, thế tay của ông ta chính là thế tay mà các nhà chiêm tinh thường dùng khi chiêm tinh. Lúc đầu, ta cho rằng Thương Liệt là nhà chiêm tinh, nhưng Triều Nhai nói rằng, ở ông ta không hề tồn tại linh lực chiêm tinh và giải mộng, do đó ta biết Thương Liệt muốn bảo ta kẻ giết ông ta chính là một nhà chiêm tinh, hơn nữa, lại là người có phép thuật tuyệt đỉnh, bởi người bình thường không thể có đủ sức mạnh giết chết Thương Liệt được.
– Vì vậy các Người giả tàn sát lẫn nhau để dụ ta ra ư?
– Đúng vậy. Nhưng đây là việc rất mạo hiểm; ta biết rằng, chỉ cần ngươi hành động một lần đối với chúng ta, hẳn ngươi sẽ biết ngay là chúng ta đang đóng kịch. Nhưng ta tin ngươi là kẻ quá ư kiêu ngạo và tự phụ, luôn đánh giá thấp ta. Hơn nữa đây là hành động theo dự tính của ngươi, do vậy, ngươi không hề nghĩ tới những bí mật trong đó cho nên nhà ngươi không đoán ra hành động của ta.
Hoàng Thác đứng đằng sau Tinh Quỹ lên tiếng:
– Ta, Nguyệt Thần và Triều Nhai thực ra luôn bên cạnh Đại vương và luôn chờ sự xuất hiện của nhà ngươi. Bởi chúng ta biết rằng, ngươi là kẻ kiêu ngạo, ngươi xưa nay chẳng coi ai ra gì, nhất định ngươi sẽ xuất hiện trước một Đạivương đơn độc, bởi ngươi cho rằng, Đại vương không phải là đối thủ của ngươi, nên nhất định sẽ xuất hiện trước mặt Đại vương để nhìn khuôn mặt kinh ngạc của người, chỉ đáng tiếc là Đại vương không phải loại bất tài như ngươi nghĩ.
Tinh Quỹ nhìn tôi với nụ cười tự tin và khinh miệt, rồi nói:
– Ca Sách, ngươi có tin là ta không cần động tay cũng có thể giết chết ngươi ngay tại đây không?
Tôi nhìn Tinh Quỹ mà không trả lời. Tinh Quỹ nói tiếp:
– Ta biết Người không tin. Người còn nhớ người bà yêu quý của Người không? Khi bà truyền hết linh lực cho Người, bà cầm chặt lấy tay Người phải không? Người có còn nhớ da của bà ta thô ráp như kim châm khiến người đau đớn không? Lẽ nào đại vương không bao giờ nghi ngờ bà ta dùng kim châm người ư? – Có tiếng Tinh Quỹ cười lớn.
Ký ức của tôi bỗng sống lại, lòng bỗng trống trải và hụt hẫng.
Sau đó, Tinh Quỹ đột ngột ra tay với tôi, những dải lụa như những ánh chớp đâm vào người tôi, nhưng tôi đều tránh được hết.
Tinh Quỹ nhìn tôi căm giận rồi nói:
– Vì sao nghe những chuyện đó, Đại vương không thấy hoảng loạn?
– Bởi ta tin vào nhân tính, vì ta tin rằng trong thế giới này vẫn còn có những thứ đáng để ta tin tưởng, ví dụ như tình yêu của bà đối với ta, ta không có lý do gì để nghi ngờ cả.
Tinh Quỹ không nói gì, chỉ thấy tà áo bay quanh người nàng. Rất lâu sau, nàng mới nói:
– Đại vương, xem ra đại huynh ta không nhìn lầm người, ngươi là một vị Đại vương tài giỏi, nhưng ta bảo đảm rằng, nếu các ngươi cùng ra tay với ta, tuy ta có thể không thắng nổi các ngươi, nhưng ta có thể khẳng định rằng, năng lực của ta đủ để làm máu của các ngươi chảy tràn ra đất trước khi ta chết.
Những dải lụa trong tay Tinh Quỹ bỗng bung ra nhanh như chớp tách riêng tôi và Hoàng Thác ra. Khi tôi tránh những dải lụa đó thì nhìn thấy Nguyệt Thần, Triều Nhai và Hoàng Thác đều đã bị những dải lụa đen tách riêng ra, mỗi người phải tự mình bảo vệ mình. Tinh Quỹ ở giữa chúng tôi, nàng đứng từ trên cao nhìn xuống, nở một nụ cười kỳ lạ tỏa sáng chung quanh.
Nàng nói: cao trào của trò chơi đã tới, xin mời Đại vương – đối thủ xứng đáng của ta – hãy tiếp tục…
Ánh trăng của Nguyệt Thần đã bị những dải lụa quấn chặt và mỗi lúc một nhạt hơn trong cái màu đen dày đặc của đêm tối. Tôi nghe thấy Nguyệt Thầnthở gấp gáp, áo và tóc của nàng bay tung lên cùng với cả người cô. Dây đàn long lanh sáng của Triều Nhai và dải lụa đen của Tinh Quỹ cuốn lấy nhau, mỗi lúc một chặt hơn, như hai con rồng một đen một trắng đang tàn sát cắn xé lẫn nhau, vô số những con bướm trắng vỡ vụn từ trên cao rơi xuống như những bông hoa tuyết. Hoàng Thác cũng lập ra vòng bảo vệ ỗi người; những dải lụa đen của Tinh Quỹ đập choang choang vào vách vòng bảo vệ trong suốt và phát ra những tia chớp sáng lòa.
Tôi đã gọi ra mấy chục thanh kiếm băng treo lơ lửng xung quanh Tinh Quỹ, nhưng không thoát được sự ràng buộc của những dải lụa đen kia, thậm chí có thanh đã bị những dải lụa đó thít chặt lại làm cho vỡ vụn ra.
Nhưng đột nhiên tất cả đều yên ắng trở lại, đàn bướm của Triều Nhai lại bay lên vì phía trên đã không còn bóng đen, ánh trăng của Nguyệt Thần cũng tỏa sáng ra bốn phía, bởi Tinh Quỹ đã đột ngột thu lại những dải lụa.
Tôi nhìn thấy nụ cười đau khổ trên môi Tinh Quỹ, cô ta nhìn tôi, gọi: “Đại huynh!”
Tôi quay lại nhìn thấy Tinh Cựu ở sau lưng, khí thế rất hiên ngang, chiếc áo dài chiêm tinh không vương một hạt bụi, mặt vẫn luôn tỏ ra cao ngạo và nghiêm khắc. Tóc ông ta bay tung, từng sợi từng sợi xõa ra trong gió.
Tinh Quỹ nhìn Tinh Cựu nói nhỏ: “Huynh, sao huynh lại tới đây? “. Lúc ấy, trông Tinh Quỹ giống hệt một đứa trẻ ngoan ngoãn lễ phép, chẳng khác gì một đứa bé gái ốm yếu lúc mới rời thành Ảo Tuyết.
– Muội chẳng cần lo ta tới đây như thế nào, hãy nói cho ta biết, muội đúng là Tây phương hộ pháp ư? – Tinh Cựu nói.
Tinh Quỹ chẳng nót gì, tôi nhìn thấy mắt nàng lóe sáng. Nàng cúi đầu nói:
– Thưa huynh, nếu đúng vậy thì huynh có tha thứ uội không?
– Không.
– Vì sao?
– Ta nói với muội, Ca Sách là một vị Đại vương mà ta kính trọng nhất. Bất cứ ai muốn sát hại Ca Sách ta đều không thể tha thứ. Hơn nữa, muội đã giết bao nhiêu người rồi, chẳng lẽ đêm đêm khi đi ngủ muội không nghe tiếng kêu khóc của các vong linh đó ở trên trời cao kia ư?
– Thưa huynh, muội không để ý tới những người đó, muội chỉ để ý tới huynh, lẽ nào huynh thực sự không tha thứ uội?
– Đúng. Ta không thể tha thứ uội được. Tinh Cựu quay lưng lại phía Tinh Quỹ, nước mắt Cựu rơi lã chã, từng giọt từng giọt lăn xuống thảm cỏ.
– Thưa Đại vương, chúng ta hãy ra tay. – Tinh Cựu nói với tôi.
– Tinh Cựu, nhưng đó là tiểu muội của người… – Tôi nói.
– Ta không có một tiểu muội như vậy. – Tinh Cựu cắt ngang lời tôi.
– Đại huynh, người thực sự muốn ra tay với muội ư? – Tinh Quỹ nói.
– Đúng!
– Muội không phải là tiểu muội của huynh sao?
Tinh Cựu ngẩng đầu lên nhìn trời, tiếng của chàng trầm và như tắc nghẽn:
– Tinh Quỹ, muội của ta là một bé gái thuần nhất và lương thiện, luôn ngủ ngon lành trong vòng tay của ta, luôn chờ ta trở về. Nhưng nó đã chết, chết trong ký ức của ta, nó mãi mãi không bao giờ xuất hiện nữa.
Tôi nhìn thấy nước mắt của Tinh Cựu như luồng ánh sáng vỡ vụn ra.
– Đại huynh – Tiếng Tinh Quỹ vẫn phẳng lặng như mặt nước nhưng đầy vẻ tuyệt vọng bên trong. – Nếu sớm biết huynh không tha thứ uội thì muội chẳng muốn sống thêm mấy trăm năm nữa làm gì; nếu khi muội hai trăm tuổi mà chết ở cung Ảo Tinh thì tốt nhất, như vậy huynh sẽ không bao giờ ghét bỏ muội.
Sau đó tôi nghe thấy tiếng của da thịt bị xé nát, những dải lụa màu đen đâm vào lưng Tinh Quỹ tạo ra một làn sóng màu đen bùng lên ở phía trước ngực. Tinh Quỹ ngã ra bãi cỏ phát ra một âm thanh nặng nề, trước giây phút ngã xuống nàng còn kịp kêu lên một câu: “Đại huynh, sao người không chịu tha thứ uội… Sao không tha thứ cho muội…”
Nơi Tinh Quỹ chết xuất hiện một quả cầu trong suốt, tôi biết đó chính là giấc mơ mà nàng để lại cho anh của mình.
Tinh Cựu đứng ở vách núi đằng xa, Tinh Quỹ nằm trong tay chàng, giống hệt những gì mà tôi lần đầu tiên trông thấy họ, tuyết không ngừng rơi trên tóc và vai họ, Tinh Cựu dùng pháp thuật bảo vệ cho Tinh Quỹ, ánh mắt dịu hiền ấm áp như trước mặt hồ mùa xuân vậy. Tôi hỏi:
– Tinh Cựu, làm sao người biết mà vội từ thành Nhẫn Tuyết tới đây?
– Bởi trong mỗi lần chiêm tinh, ta đều cầu phúc cho em gái ta và Đại Vương. Nhưng sau đó, ta chợt cảm thấy nguy cơ của muội, bởi vì ta cảm thấy có một số người có linh lực rất cao cường đang bao vây tấn công Tinh Quỹ, vì vậy ta phải tới ngay, ta đã vượt qua lãnh địa của Nam phương hộ pháp và Bắc phương hộ pháp mà nay đã bỏ trống để tới nơi trần thế do Tây phương hộ pháp dùng ảo thuật tạo nên. Sau đó ta đã nhìn thấy Đại Vương, Nguyệt Thần, Triều Nhai và Hoàng Thác, còn Tinh Quỹ, muội của ta thì đứng giữa mọingười. Trong nháy mắt, ta đã biết tất cả, hóa ra Tinh Quỹ thực sự là Tây phương hộ pháp.
– Tinh Cựu, chẳng phải ngươi yêu quý em gái nhất là gì? Vì sao…
– Đại Vương, ta có thể nói cho Người biết một điều, ta yêu quý muội của mình cũng giống như Đại vương yêu quý Anh Không Thích của Người vậy, vì mỗi lần nhắc tới là ta buồn muốn chết. Thưa Đại vương, ta phải xa Người bởi muội của ta đã chết, ta không muốn bảo vệ Người nữa. Còn Người, Người đã lớn mạnh và cũng không cần ta bảo vệ nữa. Đại vương, có lẽ ta sẽ ẩn cư ở núi thần Ảo Tuyết, để giữ gìn phần mộ của Tinh Quỹ, ngay cạnh đấy, cho đến khi trên mộ muội của ta phủ kín hoa anh đào, ta nghĩ nước mắt ta sẽ chảy tràn.
Thưa Đại vương, Người là vị vua đầu tiên của thành Ảo Tuyết mà ta kính trọng nhất, ta sẽ mãi mãi chúc phúc cho Người, nhưng bây giờ, hãy để ta xa Người.
Tôi nhìn khuôn mặt của Tinh Cựu mà chẳng nói nên lời.
Cuối cùng, Tinh Cựu và Tinh Quỹ cũng biến mất ở cuối trời mênh mông tuyết trắng. Tôi thoảng nghe thấy tiếng hát thê lương và bi thảm của Tinh Cựu vang vọng giữa trời xanh, đàn chim tụ lại rồi lại tản ra, hoa anh đào cũng đượm sắc buồn tàn nhẫn rơi xuống.