Gérard Van Bever mặc áo măng tô vải sọc xương cá, quá khổ so với thân hình. Giờ đây tôi lại thấy anh đứng đó, trong quán cà phê trên phố Dante, trước máy pinball. Nhưng Jacqueline mới là người đang chơi. Hai cánh tay và nửa thân trên của nàng chỉ hơi nhúc nhích, còn cỗ máy thì kêu lạch xạch và nháy nháy đèn. Chiếc áo măng tô của Van Bever rộng, phủ dài đến quá đẩu gối. Anh đứng rất thẳng, cổ áo bẻ, hai tay đút túi. Jacqueline mặc áo len cổ lọ màu ghi sợi xoắn và áo vest da mềm màu hạt dẻ.
Lần đầu tiên tôi gặp lại họ trên phố Dante, Jacqueline ngoảnh đầu nhìn về phía tôi, nàng mỉm cười rồi tiếp tục chơi pinball. Tôi ngồi xuống một cái bàn. Với tôi, hai cánh tay và nửa thân trên của nàng thật mảnh dẻ trước cỗ máy to kềnh liên tục rung lắc lúc nào cũng có thể đẩy nàng bật ngửa về đằng sau. Nàng cố đứng vững, giống như chỉ chực ngã nhào khỏi boong tàu. Nàng đi ra bàn, tôi và Van Bever thế chỗ nàng trước máy pinball. Thoạt đầu, tôi ngạc nhiên khi thấy họ chơi trò này lâu đến thế. Thường thì tôi là người cắt ngang giờ chơi của họ, nếu không hẳn nó sẽ cứ tiếp tục mãi không dừng.
Buổi chiều, trong quán gần như không có người, nhưng từ sáu giờ trở đi, khách khứa ngồi chật ních ở quầy và vài cái bàn trong phòng. Tôi không nhận ra Van Bever và Jacqueline ngay, giữa tiếng trò chuyện huyên náo, tiếng máy pinball lạch xạch và giữa những người ngồi sát sạt vào nhau kia. Trước tiên, tôi định vị chiếc mãng tô sọc xương cá của Van Bever, rồi đến lượt Jacqueline. Từng có nhiều lần tôi đến mà không gặp họ, và lần nào tôi cũng ngồi ở một cái bàn mà đợi rất lâu. Tôi nghĩ mình sẽ chẳng bao giờ còn có dịp gặp họ nữa, họ đã biến mất vào đám đông và sự ồn ã. Thế rồi một hôm, đầu buổi chiều, ở góc căn phòng trống hoang, họ ở đó, cạnh nhau, trước cỗ máy pinball.
Tôi chỉ còn nhớ nhập nhòa những chi tiết khác của quãng đời ấy. Tôi đã gần như quên mất khuôn mặt bố mẹ mình. Tôi đã sống thêm một thời gian ở nhà họ, rồi bỏ học và kiếm tiền bằng cách đi bán những quyển sách cổ.
Không lâu sau khi quen biết Jacqueline và Van Bever tôi chuyển đến sống ở khách sạn Lima, cạnh khách sạn họ ở. Tôi chủ tâm tăng thêm cho mình một tuổi bằng cách sửa năm sinh trên hộ chiếu, thế nên tôi đã đủ tuổi thành niên. Cái tuần ngay trước khi tới khách sạn Lima, vì tôi không biết ngủ ở đâu, họ đã giao chìa khóa phòng mình cho tôi rồi lên đường đến một trong những sòng bạc dưới tỉnh mà họ thường lui tới.
Trước khi chúng tôi gặp nhau, họ đã bắt đầu ở sòng bạc Enghien và hai hay ba sòng bạc khác ở các thành phố nhỏ ven biển vùng Normandie. Tiếp đó, họ tập trung vào Dieppe, Forges‒les‒Eaux và Bagnoles‒de‒l’Orne. Họ đi vào thứ Bảy và trở về vào thứ Hai cùng một khoản tiền thắng bạc, không bao giờ quá một nghìn franc. Van Bever đã tìm ra chiến lược đặt cửa “tập trung vào số 5 bình vôi”[1] như anh nói, nhưng ở trò quay số nó chỉ làm ta thắng nếu đặt những món nhỏ.
Tôi chưa từng đi cùng họ đến những chỗ ấy. Tôi đợi họ cho tới thứ Hai, ở yên trong khu phố. Rồi, sau một thời gian, Van Bever đến “Forges”‒ theo cách gọi của anh ‒ bởi vì nơi này không xa bằng Bagnoles‒de‒1’Orne, còn Jacqueline ở lại Paris.
Những đêm tôi ở một mình trong phòng họ, lúc nào cũng bồng bềnh cái mùi ê te đó. Cái lọ xanh lơ để trên giá bồn rửa. Tủ tường thì chứa quần áo: một chiếc vest đàn ông, một cái quần dài, một cái xu chiêng và một trong những chiếc pull‒over màu ghi cổ lọ mà Jacqueline hay mặc.
Những đêm ấy tôi ngủ không ngon. Tôi hay tỉnh dậy, chẳng biết mình đang ở đâu. Phải mất một lúc lâu tôi mới nhận ra căn phòng. Nếu bị hỏi về Van Bever và Jacqueline, hẳn tôi sẽ rất bối rối, khi phải biện minh cho sự hiện diện của mình nơi đây. Họ có quay trở lại không? Rốt cuộc tôi nghi ngờ chuyện đó. Người đàn ông ở lốỉ vào khách sạn, đằng sau cái quầy gỗ tối màu, không mấy để ý đến việc tôi lên phòng và giữ chìa khóa. Ông ta chỉ gật đầu chào tôi.
Đêm cuối cùng, tôi tỉnh dậy vào khoảng năm giờ rồi không sao ngủ tiếp được. Chắc hẳn tôi nằm giưòng của Jacqueline, và tiếng đồng hồ báo thức tích tắc to đến nỗi tôi những muốn nhét nó vào tủ tường hoặc vùi xuống gối. Nhưng tôi sợ sự im lặng. Thế nên tôi nhỏm dậy, ra khỏi khách sạn. Tôi bước đi trên bờ ke sông cho tới đoạn hàng rào lưới sắt của Vườn Bách Thảo, rồi tôi bước vào quán cà phê duy nhất đã mở cửa, đối diện ga Austerlitz.
Tuần trước đó, họ đã đi sòng bạc ở Dieppe và trở về lúc sáng sớm. Hôm nay chắc cũng sẽ như vậy thôi. Thêm một tiếng, hai tiếng chờ đợi nữa… Đám người ngoại ô từ ga Austerlitz đi ra mỗi lúc một thêm đông, uống một tách cà phê ở quầy rồi chui tọt xuống miệng bến tàu điện ngầm. Trời vẫn còn tối. Tôi lại đi dọc hàng rào lưới sắt của Vườn Bách Thảo rồi hàng rào Halle aux vins[2] xưa cũ.
Từ xa, tôi nhận ra bóng hình họ. Chiếc măng tô sọc xương cá của Van Bever tạo thành một đốm sáng trong bóng tối. Họ ngồi trên ghế băng, ở phía bên kia ke, đối diện với những cái hòm khóa chặt của dân bán sách cũ. Họ vừa từ Dieppe về tới nơi. Họ đã gõ cửa phòng nhưng không ai trả lời. Và lúc trước, tôi ra phố mà vẫn để chìa khóa trong túi.
Cửa sổ phòng tôi ở khách sạn Lima nhìn xuống đại lộ Saint‒Germain và đoạn trên phố Bernardins. Nằm trên giường, tôi nhìn thấy trong khung cửa sổ ấy tháp chuông một nhà thờ mà tôi đã quên mất tên. Và ban đêm là tiếng chuông điểm giờ, sau khi xe cộ đã thôi ồn ào. Jacqueline và Van Bever thường đi về cùng tôi. Chúng tôi từng đi ăn tối tại một quán Trung Quốc. Chúng tôi từng đến rạp xem một bộ phim.
Những buổi tối ấy, chẳng gì phân biệt chúng tôi với đám sinh viên mà chúng tôi đi ngang qua trên đại lộ Saint‒Michel. Chiếc măng tô hơi sờn của Van Bever và chiếc áo vest da của Jacqueline lọt thỏm vào khung cảnh u ám của khu La Tinh. Còn tôi, tôi mặc một chiếc áo gió cũ kỹ màu be nhuốm bẩn, cầm trên tay mấy quyển sách. Không, thực sự, tôi không biết điều gì có thể thu hút sự chú ý về phía chúng tôi.
Tôi đã viết lên phiếu đăng ký ở khách sạn Lima rằng tôi là “sinh viên đại học văn khoa”, nhưng đó thuần túy chỉ là thủ tục, vì người đàn ông ở quầy tiếp tân chưa từng hỏi tôi một thông tin nào hết. Chỉ cần tuần nào tôi cũng trả tiền phòng là được. Một hôm, tôi đi ra phố với một túi sách để tìm cách bán lại cho một hiệu sách quen, ông ta hỏi tôi:
‒ Học hành tốt chứ?
Thoạt tiên tôi cứ tưởng mình cảm nhận được chút mỉa mai trong giọng nói của ông ta. Nhưng ông ta hoàn toàn nghiêm túc.
Khách sạn Tournelle cũng yên tĩnh y như khách sạn Lima. Chỉ có Van Bever và Jacqueline là khách ở đây. Họ bảo tôi rằng khách sạn sắp đóng cửa, nó sẽ được sửa lại thành khu căn hộ. Thêm nữa, ban ngày, ta nghe thấy tiếng búa đập trong những căn phòng kề bên.
Họ có điền vào tờ phiếu đăng ký nào không và nghề nghiệp của họ là gì? Van Bever trả lời tôi rằng trên giấy tờ anh viết: “Bán hàng rong”, nhưng tôi chẳng biết có phải anh đang đùa hay không. Jacqueline thì nhún vai. Nàng không có nghề nghiệp. Bán hàng rong: tôi cũng vậy, suy cho cùng, tôi hoàn toàn có thể nhận cái danh hiệu này, bởi thời gian của tôi được dùng để chuyển những quyển sách từ hiệu này sang hiệu khác.
Trời lạnh. Tuyết tan trên vỉa hè và trên các ke sông, sắc đen pha xám của mùa đông còn quay trở về trong ký ức tôi. Và Jacqueline luôn luôn ra phố với chiếc áo vest da quá phong phanh so với mùa này.