Báo
DAILY MAIL
Ngày 10 tháng Sáu, 1967
KẾT THÚC 6 NGÀY CHIẾN TRANH: BỌN DO THÁI ĐÃ CÚT
Armstrong đã kiểm tra kỹ càng giờ bay đi New York. Sau đó anh xem lại địa chỉ của bà Sherwood trong danh bạ điện thoại của Manhattan, và thậm chí còn gọi cho Pierre để chắc rằng phòng Presidential đã được đặt sẵn. Đây là cuộc gặp mà anh không được phép tới muộn, và là cuộc gặp anh không thể nhầm ngày hoặc nhầm địa chỉ.
Anh đã ký quỹ sẵn 20 triệu đô la ở ngân hàng Manhattan, xem xét kỹ lưỡng bản tuyên bố về xuất bản phẩm với cố vấn quan hệ xã hội và báo cho Peter Wakeham chuẩn bị một thông báo đặc biệt.
Tối hôm trước, Alexander Sherwood báo cho anh biết ông ta đã gọi điện cho chị dâu từ trước hôm bà ta bước vào chuyến du ngoạn hàng năm. Bà ta đã xác nhận rằng số tiền thỏa thuận là 20 triệu đô la và mong gặp Armstrong lúc 11 giờ tại căn hộ của mình, ngay sau ngày trở về. Armstrong tin chắc trong vòng 24 giờ anh sẽ trở thành chủ bút của tờ báo có phạm vi toàn quốc và con số phát hành chỉ đứng sau tờ Daily Citizen.
Họ đáp xuống Idlewild ít giờ trước khi chiếc Nữ hoàng Elizabeth cập bến ở cầu tàu 90. Sau khi đã kiểm tra qua Pierre, Armstrong đi bộ dọc đại lộ 63 để đảm bảo biết chắc bà Sherwood đang sống ở đâu. Với 10 đô la, người gác cửa xác nhận là mọi người đang mong bà ta trở về vào cuối ngày hôm nay.
Sau bữa tối trong khách sạn là một đêm mà anh và Sharon khó nói chuyện được với nhau. Anh bắt đầu tự hỏi tại sao anh lại tự chuốc lấy rầy rà khi mang cô ta đi theo. Sharon đã vào giường rất lâu, trước khi anh đi tắm, và khi anh tắm xong thì cô đã ngủ. Khi lên giường, anh vẫn suy tính xem còn sự trục trặc nào có thể xảy ra từ giờ đến 11 giờ sáng mai.
oOo
“Em nghĩ bà ta đã biết hết những gì chúng ta muốn từ lâu,” Kate nói khi dõi theo những chiếc Roll Royce của bà Sherwood dần đi khỏi.
“Bà ta không thể,” Townsend nói, “nhưng cho dù biết, bà ta vẫn chấp nhận những điều khoản mà anh muốn.”
“Hoặc đó là những điều khoản bà ta muốn?” Kate khẽ nói.
“Ý em định nói gì?”
“Anh đừng quên bà ta không phải là người mang dòng máu Sherwood. Bà ta chỉ đủ thông minh để cưới một người thuộc dòng họ này.”
“Em đã trở nên quá đa nghi rồi,” Townsend nói. “Đừng quên bà ta không phải là Richard Armstrong.”
“Em sẽ chỉ tin khi anh đã có chữ ký của bà ta trong cả hai bản hợp đồng.”
“Cả hai?”
“Bà ta sẽ không rời bỏ một phần ba số cổ phần của Globe trừ phi đã thực sự tin rằng anh sẽ xuất bản cuốn tiểu thuvết.”
“Anh nghĩ sẽ không khó khăn gì khiến bà ta tin như vậy,” Townsend nói. “Chúng ta đừng quên là bà ta đã nhận được mười lăm lời từ chối trước khi tình cờ gặp anh.”
“Hoặc bà ta đã đợi anh tới?”
Townsend nhìn xuống bãi đất trống cạnh cảng khi một chiếc Limousin đỗ bên cầu tàu. Một người đàn ông cao lớn, chắc nịch với mớ tóc đen ngỗ ngược chui ra khỏi cửa sau xe và nhìn về phía hai hành khách đang đứng trên boong. “Tom Spencer vừa tới,” Townsend nói. Anh quay lại Kate. “Đừng lo. Khi em về tới Sydney, anh sẽ là chủ 33,3% tờ Globe. Và anh đã không thể làm được, nếu không có em. Hãy gọi cho anh khi em xuống sân bay Kingsford-Smith, và anh sẽ cho em biết tin mới nhất.” Townsend hôn nàng trước khi họ chia tay nhau đi xuống phòng.
Anh thu nhặt hành lý và nhanh xuống tàu. Viên luật sư ở New York của anh đang rảo bước quanh xe ô tô – một thói quen còn sót lại từ những ngày là vận động viên chạy việt dã, đã một lần anh ta giải thích cho Townsend như thế.
“Chúng ta có 24 tiếng.” Townsend nói khi họ bắt tav nhau.
“Vậv là bà Sherwood đã chấp nhận kế hoạch của ông?” Viên luật sư hỏi trong khi dẫn thân chủ của mình về chiếc Limousin.
“Đúng, nhưng bà ta muốn có hai hợp đồng,” Townsend nói khi chui vào xe, “và chẳng cái nào trong số chúng là bản mà tôi đã đề nghị anh thảo khi tôi gọi từ Sydney.”
Tom lấy trong cặp ra một tập giấy màu vàng và kê chúng lên gối. Từ lâu anh đã biết rằng người khách hàng này không muốn mất một chút thời gian nào vào những cuộc nói chuyện suông. Anh bắt đầu ghi lại những lưu ý khi Townsend cung cấp cho anh chi tiết về những điều kiện của bà Sherwood. Đến khi nghe xong những gì đã diễn ra trong mấy ngày qua, Tom bắt đầu thấy khâm phục bà ta. Sau đó anh nêu ra một loạt câu hỏi, và chẳng có câu hỏi nào được trả lời trước khi xe về tới khách sạn Carlyle.
Townsend ra khỏi xe và đi thẳng qua cửa vào hành lang để tìm hai người bạn của Tom đang đợi họ.
“Sao ông không đăng ký phòng?” Tom gợi ý. “Tôi sẽ nói vắn tắt cho hai cộng sự của tôi biết những gì ông vừa nói với tôi. Khi ông xong, hãy đến chỗ chúng tôi ở phòng Versailles trên tầng ba.”
Sau khi ký vào tờ khai thuê phòng, anh được nhận chìa khóa của căn phòng thường lệ. Anh mở va li trước khi đi thang máy xuống tầng ba. Khi bước vào phòng Versailles anh thấy Tom đang rảo bước quanh chiếc bàn dài, chỉ dẫn tường tận cho hai cộng sự của mình. Townsend ngồi xuống chiếc ghế ở đầu bàn bên kia trong khi Tom tiếp tục đi vòng quanh. Anh chỉ dừng bước mỗi khi cần hỏi thêm chi tiết về những đòi hỏi của bà Sherwood.
Sau khi đã “lòng vòng” tới vài dặm, ngốn hết miếng sandwich này đến miếng sandwich khác và uống đến vài gallon cà phê, họ đã phác thảo được hai bản hợp đồng.
Khi người hầu gái vào để kéo rèm cửa lúc sáu giờ, lần đầu tiên Tom ngồi xuống để đọc kỹ bản dự thảo hợp đồng. Sau khi đọc xong trang cuối cùng, anh nói, “Đây là tất cả những gì chúng ta có thể làm lúc này, Keith. Tốt hơn là chúng tôi nên về văn phòng và chuẩn bị hai tài liệu sẵn sàng về mặt pháp lý. Tôi cho rằng cho đến 9 giờ sáng mai ta sẽ gặp nhau, vì thế ông có thể đọc kỹ lưỡng bản cuối cùng.”
“Tôi còn phải nghĩ đến điều gì từ giờ đến lúc đó không?” Townsend hỏi.
“Có,” Tom đáp. “Ông có hoàn toàn chắc chắn là chúng tôi nên xóa hai điều khoản trong hợp đồng về cuốn sách mà Kate đã cảm thấy rất rõ không?”
“Hoàn toàn chắc. Qua ba ngày tiếp xúc với bà Sherwood, tôi có thể bảo đảm với anh là bà ta không hề biết gì về việc xuất bản sách.”
Tom nhún vai, “Đó không phải là cách Kate hiểu nó.”
“Kate đã quá thận trọng,” Townsend nói. “Chẳng có gì ngăn cản tôi in khoảng 100.000 bản cuốn sách chết tiệt ấy và quẳng tất cả chúng vào một kho chứa sách ở New Jersey.”
“Không,” Tom nói, “nhưng điều gì sẽ xảy ra khi quyển sách không có trong danh mục sách ăn khách của New York Times?”
“Hãy đọc điều khoản liên quan. Trong đó không đề cập gì đến thời hạn. Anh còn lo ngại gì nữa không?”
“Có. Ông cần phải yêu cầu hai khoản tiền riêng biệt cho cuộc gặp lúc mười giờ. Tôi không muốn mạo hiểm bằng những tờ séc với bà Sherwood — chúng sẽ chỉ cho bà ta lý do hợp lý để không ký vào thỏa thuận cuối cùng. Ông có thể chắc một điều: Amtrong đã có sẵn 20 triệu trong tay khi anh ta tới vào lúc 11 giờ. “
Townsend đồng ý. “Tôi đã chuyển tiền từ Sydney tới Ngân hàng Manhattan vào hôm tôi cho anh biết bản hợp đồng ban đầu. Chúng ta có thể nhận được cả hai khoản tiền này vào sáng mai.”
“Ổn rồi. Vậy chúng tôi đi đây.”
Khi Townsend quay về phòng, anh đổ vật xuống giường và lập tức thiếp đi cho đến tận 5 giờ sáng hôm sau mới tỉnh dậy và ngạc nhiên thấy mình vẫn mặc nguvên quần áo. Ý nghĩ đầu tiên của anh hướng về Kate, không biết giờ này nàng đang ở đâu.
Anh cởi quần áo và đứng rất lâu dưới vòi tắm nước nóng trước khi yêu cầu dọn bữa sáng, hay nên gọi nó là một bữa tối muộn? Anh nghiên cứu thực đơn và đặt món ăn.
Trong lúc đợi được phục vụ tại phòng, Townsend xem bản tin buổi sớm. Hầu hết tin tức đều đưa về chiến thắng của Israel trong cuộc chiến tranh sáu ngày, mặc dù hình như chẳng ai biết người Do thái ở đâu. Người phát ngôn của NASA được phỏng vấn trong mục Today về cơ hội người Mỹ đưa phi hành gia lên mặt trăng trước người Nga. Mục dự báo thời tiết hứa hẹn trời sẽ lạnh ở New York. Vừa ăn sáng anh vừa đọc tờ New York Times, tiếp theo là tờ Star, và anh dường như nhìn rõ những thay đổi mà anh có thể tạo ra cho hai tờ báo này, nếu anh là chủ bút. Anh cố quên rằng FCC vẵn tiếp tục quấy rầy anh với những câu hỏi về độ lớn của đế chế xuất bản của anh tại Mỹ, và nhắc anh về mối quan hệ của quyền sở hữu chéo được áp dụng cho người nước ngoài.
“Có một giải pháp đơn giản cho vấn đề đó,” một đôi lần Tom đã nói với anh.
“Không bao giờ,” anh thường kiên quyết nhắc lại. Nhưng anh sẽ làm gì nếu đó là cách duy nhất để anh có thể tiếp quản tờ New York Stars? “Không bao giờ,” anh nhắc lại, nhưng không tin chắc lắm.
Trong giờ tiếp theo anh xem các bản tin và đọc lại mấy tờ báo đó. Đến 7 giờ 30 phút anh đã biết tất cả mọi điều đang diễn ra trên khắp thế giới, từ Cairo đến Nữ hoàng, thậm chí cả trên vũ trụ. Lúc 7 giờ 50 phút anh đi thang máy xuống tầng trệt và thấy hai viên luật sư trẻ đang chờ anh. Họ mặc nguyên những bộ complé, sơ mi và cà vạt hôm trước, mặc dù không biết họ làm thế nào để tìm được thời gian cạo râu. Anh không hỏi Tom đâu, anh biết anh ta đang chạy quanh hành lang và sẽ tới gặp họ ngay khi thực hiện xong vòng chạy của mình.
“Chào Keith.” Tom nói, bắt tay Keith. “Tôi đã đặt một bàn yên tĩnh cho chúng ta ở góc phòng uống cà phê.”
Sau khi ba tách cà phê đen và một tách nâu được dọn ra, Tom mở cặp, lấy ra hai tài liệu và đưa chúng cho thân chủ của mình. “Nếu bà ta đồng ý ký vào đây,” anh ta nói, “33,3 phần trăm tờ Globe sẽ là của ông – cũng như bản quyền xuất bản cuốn tiểu thuyết Cô nhân tình của ngài Thượng nghị sĩ.”
Townsend chậm rãi giở qua từng trang tài liệu, đọc từng điều khoản một, và bắt đầu nhận ra tại sao ba người bọn họ đã thức trắng suốt đêm. “Vậy tiếp theo là gì?” Anh hỏi khi đưa trả lại bản hợp đồng cho viên luật sư.
“Ông phải có sẵn hai khoản tiền ở ngân hàng Manhattan, và phải đảm bảo chúng ta sẽ ở trước cửa nhà bà Sherwood lúc mười giờ kém năm, vì ta sẽ cần từng phút của giờ đó nếu những bản hợp đồng này được ký trước khi Armstrong tới.”
oOo
Armstrong cũng bắt đầu đọc những tờ báo buổi sáng ngay sau khi chúng được đặt ở cửa phòng khách sạn của anh. Khi lật các trang của tờ New York Times, anh cũng nhìn thấy những thay đổi sẽ được tạo ra nếu anh có chân trong một tờ nhật báo của New York. Khi đọc xong tờ Times anh chuyển sang tờ Star, nhưng nó không giữ được lâu sự chú ý của anh. Anh bỏ tờ báo qua một bên, bật ti vi và bắt đầu dò các kênh để giết thời gian. Một bộ phim đen trắng cũ có Alan Ladd đóng vai chính được đặt lên trên cuộc phỏng vấn một phi công vũ trụ.
Anh để ti vi mở khi vào buồng tắm, chẳng buồn nghĩ rằng điều đó có thể làm Sharon thức giấc.
Lúc bảy giờ anh đã mặc xong quần áo và mỗi phút lại càng sốt ruột hơn. Anh chuyển qua chương trình Xin chào nước Mỹ, chú ý xem thị trưởng thành phố giải thích ông ta đã thỏa thuận với công đoàn ngành cứu hỏa như thế nào và đòi hỏi trả tiền dư thừa cao hơn của họ. “Hãy đá vào con vật khi nó cắn!” Ông ta gào lên trên màn hình. Cuối cùng anh tắt ti vi sau khi mục dự báo thời tiết cho biết rằng ở Malibu trời nóng, có mây với nhiệt độ cao nhất là 17°. Armstrong vớ lấy miếng bông thoa phấn của Sharon trên bàn trang điểm và vỗ nhẹ lên trán, sau đó nhét nó vào trong ví. Lúc 7 giờ 30 anh ăn sáng trong phòng, chẳng buồn yêu cầu một cái gì đó cho Sharon. Khi anh rời phòng để đi gặp luật sư, cô vẫn ngủ say như chết.
Russell Critchley đang đợi anh trong nhà ăn, Armstrong gọi bữa sáng thứ hai trước khi ngồi xuống. Viên luật sư của anh rút trong cặp ra một tài liệu dài và đưa anh xem. Trong khi Critchley nhấm nháp cà phê, Armstrong ăn ngấu nghiến ba quả trứng ốp lết, tiếp đó là bốn chiếc bánh quế nhúng xi rô.
“Tôi không thể dự kiến được mọi vấn đề trên thực tế,” Critchley nói. “Nó gần giống hệt văn bản mà em chồng bà ta đã ký ở Geneva – mặc dù tất nhiên bà ta không bao giờ đòi bất kỳ một khoản hoa hồng nào khác.”
“Và bà ta chẳng có cách lựa chọn nào khác là phải chấp nhận 20 triệu đô la cho mọi khoản, nếu bà ta bị trói buộc vào thời hạn của bản di chúc của George Sherwood.”
“Đúng thế.” viên luật sư nói. Anh ta đưa ra một tài liệu khác trước khi nói thêm, “Hình như ba người trong số họ đã ký một thỏa thuận ràng buộc khi họ thừa kế cổ phần, rằng nếu có lúc nào họ bán chúng, nó phải được bán với cái giá đã được sự đồng ý của ít nhất là hai thành viên. Như ông biết đấy, Alexander và Margaret đã đặt giá 20 triệu đô la.”
“Tại sao họ làm vậy?”
“Nếu họ không làm, họ sẽ không được hưởng gì theo thời hạn trong di chúc của George. Rõ ràng ông ta không muốn ba người bọn họ cuối cùng lại cãi vã nhau về giá cả.”
“Và qui tắc hai phần ba ấy vẫn được áp dụng?” Armstrong vừa hỏi vừa rưới xi rô lên một chiếc bánh quế khác.
“Vâng, điều khoản này vẫn rõ ràng,” Critchley nói, giở qua các trang của một tài liệu khác nữa. “Tôi có chúng đây.” Anh bắt đầu đọc:
Nếu bất kỳ cá nhân hoặc công ty nào
sở hữu được ít nhất 66,66% số cổ
phần, cá nhân hoặc công ty đó sẽ có
sự lựa chọn để mua số cổ phần tương
đương ở mức giá trung bình cho mỗi
cổ phần mà cá nhân hoặc công ty đó
đã trả cho những cổ phần hiện có.
“Những luật sư chết tiệt. Nó có nghĩa quỷ quái gì vậy?” Armstrong hỏi.
“Như tôi đã nói với ông qua điện thoại, nếu ông đã có hai phần ba số cổ phần, sở hữu chủ của một phần ba số cổ phần còn lại – trong trường hợp này là Walter Sherwood – không còn sự lựa chọn nào khác là phải bán cho ông số cổ phần của anh ta cũng với giá như vậy.”
“Như vậy tôi có thể sở hữu 100% số cổ phần trước khi Townsend thậm chí được nhìn thấy tờ Globe được rao bán.”
Critchley mỉm cười, thu dọn công sức của nửa tháng trời làm việc và nói. “Thế mới biết cái mà Alexander Sherwood tiết lộ khi gặp ông ở Geneva đã khiến ông chú ý như thế nào.”
“Đừng quên là tôi đã phải chi cho nó một triệu franc,” Armstrong nhắc.
“Tôi nghĩ nó đáng với số tiền ấy. Chừng nào ông có thể tiêu được 20 triệu đô la với sự đồng ý của bà Sherwood…”
“Tôi đã thu xếp rút khoản tiền đó từ ngân hàng New Armsterdam lúc mười giờ.”
“Và vì ông đã có số cổ phần của Alexander, ông sẽ được quyền mua một phần ba cổ phần còn lại của ngài Walter cũng với mức giá đó, và ông ta sẽ không thể làm gì hơn được.”
Critchley xem đồng hồ, và khi Armstrong phết xi rô lên những chiếc bánh quế mới gọi, anh ta yêu cầu người phục vụ đang ở gần đó rót cho ly cà phê thứ hai.
oOo
Vào đúng 9 giờ 55 phút, chiếc Limousine của Townsend dừng lại bên ngoài bức tường đá nâu ở đại lộ 63. Anh bước lên vỉa hè và tiến thẳng tới cổng, ba viên luật sư theo sát gót anh. Ngưòi gác cửa rõ ràng đang đợi một số vị khách của bà Sherwood. Tất cả những gì anh ta nói khi anh xưng tên là “Tầng trên cùng”, và chỉ cho anh chỗ thang máy.
Khi cửa thang máv tầng trên cùng mở ra, một người hầu gái chào đón họ. Chiếc đồng hồ treo trên tường điểm 10 giờ khi bà Sherwood hiện ra ở hành lang. Bà ta mặc bộ quần áo mà mẹ Townsend sẽ mô tả là một mớ hổ lốn, và dường như không mấy ngạc nhiên khi chạm trán với 4 người đàn ông. Townsend giới thiệu mấy viên luật sư, và bà Sherwood đề nghị họ đi theo mình sang phòng ăn.
Khi họ đi qua dưới ngọn đèn chùm lộng lẫy, xuống một hành lang dài pha trộn giữa những đồ đạc từ thời vua Louis XIV và tranh trường phái ấn tượng. Townsend có thể nhìn thấy một số lợi nhuận của tờ Globe đã được vung phí như thế nào trong nhiều năm qua. Khi họ vào phòng ăn, một người đàn ông cao tuổi, có mớ tóc hoa râm dày, đeo kính gọng sừng và mặc bộ comple cài khuy chéo đứng lên khỏi chỗ ngồi ở phía đầu bàn bên kia.
Tom lập tức nhận ra người hội viên cao cấp của Burlingham, Healy & Yablon và lần đầu tiên ngờ rằng công việc của anh có lẽ không dễ dàng. Hai người đàn ông bắt tay nhau thân mật. Sau đó Tom giới thiệu Yablon với thân chủ và hai cộng sự của mình.
Khi tất cả đã yên vị và người hầu gái đã rót mời trà, Tom mở cặp và đưa hai bản hợp đồng cho Yablon. Nhận ra thời gian của họ không có nhiều, anh đề nghị luật sư của bà Sherwood thông qua các văn bản nhanh hết mức có thể. Vì vậy, người đàn ông có tuổi đã hỏi anh một số điều. Townsend cảm thấy luật sư của mình đã đối phó với tất cả những câu hỏi ấy một cách đáng hài lòng vì thấy khi họ đã giở đến trang cuối cùng, Yablon quay sang thân chủ của mình và nói, “Tôi cho rằng bà có thể ký vào hai văn bản này, thưa bà Sherwood, mọi điều khoản đều theo đúng yêu cầu.”
Townsend nhìn đồng hồ. Đã 10 giờ 43. Anh mỉm cười khi Tom mở cặp lấy ra hai lệnh chuyển tiền. Trước khi anh kịp đưa chúng, bà Sherwood quay sang luật sư của mình và hỏi, “Có phải bản hợp đồng về cuốn sách qui định rằng nếu Công ty Schumann không in 100 000 bản cuốn tiểu thuyết của tôi trong vòng một năm kể từ khi thỏa thuận này được ký, họ sẽ phải chịu một khoản tiền phạt là 1 triệu đô la?”
“Đúng thế,” Yablon nói.
“Và nếu cuốn sách không lọt vào danh mục sách bán chạy nhất của New York Times, họ sẽ phải chịu thêm một khoản tiền bồi thường là 1 triệu đô la nữa?”
Townsend mỉm cười, biết rằng trong hợp đồng không có điều khoản nào về phát hành, và cũng không có điều khoản nào qui định giới hạn thời gian cuốn tiểu thuyết phải có mặt trong danh mục sách bán chạy. Nếu anh in 100 000 bản sách, mà việc đó anh có thể làm ở bất kỳ nhà in nào của anh ở nước Mỹ, anh chỉ mất khoảng 40.000 đô la.
“Tất cả những điều này đều được đề cập ở hợp đồng thứ hai,” Yablon xác nhận.
Tom cố giấu vẻ ngạc nhiên. Làm sao mà một người giàu kinh nghiệm như Yablon lại có thể bỏ qua hai thiếu sót hiển nhiên như vậy? Có vẻ Townsend đã nói đúng – họ dường như muốn làm cho qua chuyện.
“Và ông Townsend có thể trả cho chúng tôi toàn bộ số tiền ?” Bà Sherwood hỏi. Tom đẩy hai khoản tiền cho Yablon. Chẳng buồn liếc qua, ông ta đưa chúng cho thân chủ của mình.
Townsend chờ đợi nụ cười của bà Sherwood, song bà ta cau mày.
“Đây không phải là số tiền chúng ta đã thỏa thuận,” bà ta nói.
“Tôi nghĩ là đúng đấy,” Townsend đáp, anh đã nhận khoản tiền này từ người thủ quỹ chính của Ngân hàng Manhattan sáng sớm hôm nay và đã kiểm tra chúng rất cẩn thận.
“Khoản này,” bà ta nói, cầm khoản tiền 20 triệu đô la “thì đúng. Nhưng khoản này thì không đúng với số tiền mà tôi yêu cầu.”
Townsend bối rối. “Nhưng bà đã đồng ý rằng số tiền trả trước cho cuốn tiểu thuyết là 100 000 đô la,” anh nói, cảm thấy miệng mình khô khốc.
“Đúng thế,” bà Sherwood xác nhận. “Nhưng theo cách hiểu của tôi thì khoản tiền này phải là 2 triệu 100.000 đô la.”
“Nhưng hai triệu đô la đã được trả sau một thời gian, và chỉ trong trường hợp nếu chúng tôi vi phạm các điều khoản liên quan tới việc xuất bản cuốn sách.”
“Đó là một nguy cơ mà rõ ràng tôi không muốn mắc phải, ông Townsend.” bà ta nói và chằm chằm nhìn anh qua chiếc bàn.
“Tôi không hiểu.” anh nói.
“Vậy hãy để tôi giải thích cho ông. Tôi mong ông trao cho ông Yablon đây thêm một khoản tiền là 2 triệu đô la như một khoản thế chấp, ông ấy sẽ là người phán xử xem ai sẽ được nhận khoản tiền đó trong vòng 12 tháng.” Bà ta ngừng lại. “ông biết đấy, ông em chồng của tôi đã có một món lợi tức 1 triệu franc Thụy Sĩ, trong hình dạng một quả trứng của Fabergé, mà chẳng buồn cho tôi biết. Do đó mối quan tâm của tôi là thu được khoản lợi nhuận chừng 2 triệu đô la nhờ cuốn tiểu thuyết mà không bận tâm đến việc báo tin cho anh ta.”
Townsend há hốc miệng. Ông Yablon ngả người ra sau ghế, và Tom nhận ra rằng anh không phải là người duy nhất trong căn nhà này đã làm việc trắng đêm.
“Nếu sự tin tưởng của thân chủ ông về khả năng thực hiện đúng giao kèo được chứng minh.” Yablon nói, “Tôi sẽ rất vui lòng hoàn lại tiền cho ông ấy trong vòng 12 tháng.”
“Mặt khác.” bà Sherwood nói, không nhìn Townsend, “nếu thân chủ của ông chưa bao giờ thật sự quan tâm tới việc phát hành cuốn tiểu thuyết của tôi và làm nó trở thành cuốn sách ăn khách…”
“Nhưng đây không phải cái mà tôi và bà đã thỏa thuận ngày hôm qua,” Townsend nói, nhìn thẳng vào bà Sherwood.
Bà ta duyên dáng nhìn qua bàn, không hề đỏ mặt và nói. “Tôi xin lỗi, thưa ông Townsend, tôi đã nói dối.”
“Nhưng bà chỉ cho thân chủ tôi có 11 phút để gom đủ 2 triệu đô la,” Tom nói, dán mắt vào chiếc đồng hồ treo tường cũ kỹ.
“Tôi cho ông ta 12 phút,” Yablon nói. “’Tôi có cảm giác là đồng hồ treo tường luôn chạy nhanh chút ít. Nhưng đừng để những ý kiến vụn vặt làm tốn thêm phút nào nữa. Tôi chắc là bà Sherwood sẽ cho phép ông dùng một trong những máy điện thoại của bà.”
“Chắc chắn rồi,” bà Sherwood nói. “ Ông thấy đấy, người chồng quá cố của tôi thường nói rằng: Nếu bạn không thể trả ngày hôm nay, làm sao người ta tin được rằng bạn có thể trả vào ngày mai?”
“Nhưng bà đòi tôi 20 triệu đô la,” Townsend nói. “chưa kể khoản tiền 100.000 đô la khác. Chẳng lẽ nó không đủ là một thách thức hay sao?”
“Và trong vòng mười phút nữa tôi sẽ có được một khoản tiền tương tự như vậy của ông Armstrong, và tôi đoán rằng ông ta sẽ rất vui sướng được xuất bản cuốn sách của tôi, mặc cho bài báo được dày công chuẩn bị của Claire – hay tôi nên gọi là Kate ?”
Townsend vẫn im lặng, trong khoảng nửa phút. Anh cân nhắc việc gọi tên cho sự bịp bợm của bà ta, nhưng khi nhìn đồng hồ, anh nghĩ đến điều tốt hơn.
Anh đứng dậy khỏi ghế và rảo bước tới máy điện thoại trên chiếc bàn bên cạnh, xem số ở mặt sau cuốn lịch làm việc, quay bảy con số, sau một khoảng thời gian chờ đợi dường như vô tận, anh đề nghị được nối máy vởi người thủ quỹ trưởng. Một tiếng tách nữa, và giọng người thư ký vang lên.
“Keith Townsend đây. Tôi cần nói chuyện gấp với thủ quỹ trưởng.”
“Tôi sợ rằng lúc này ông ấy đang bận họp, thưa ông Townsend, và ông ấy đã có lệnh là không tiếp ai trong một giờ tới.”
“Vậy cô hãy giải quvết việc này cho tôi. Trong vòng 8 phút nữa tôi phải chuyển 2 triệu đô la tới một tài khoản khách hàng, hoặc vụ giao dịch mà tôi và ông ta trao đổi sáng nay sẽ bị hủy bỏ.”
Một lát im lặng trước khi người thư ký nói, “Tôi sẽ gọi ông ấy ra khỏi phòng họp, ông Townsend.”
“Tôi nghĩ cô có thể,” Townsend nghe thấy tiếng tíc tắc của giây thứ hai phát ra từ chiếc đồng hồ cũ kỹ sau lưng anh.
Tom vươn người qua bàn và thì thầm gì đó với Yablon, ông này gật đầu, rút bút và bắt đầu viết. Không khí im lặng đến nỗi Townsend có thể nghe thấy tiếng ngòi bút của vị luật sư già chạy sột soạt trên tờ giấy.
“Andy Harman đây,” một giọng nói vang lên ở đầu máy bên kia. Viên thủ quỹ chăm chú nghe Townsend giải thích về yêu cầu.
“Nhưng thưa ngài Townsend, tôi chỉ được có 6 phút. Song dù sao đi nữa thì tiền cần được chuyển vào đâu?”
Townsend quay nhìn luật sư của mình. Đúng lúc đó Yablon ngừng viết, giật tờ giấy ra khỏi cuốn sổ và đưa nó cho Tom để chuyển tới Keith.
Townsend đọc số tài khoản thế chấp của Yablon cho viên thủ quỹ.
“Tôi không dám hứa chắc, thưa ngài Townsend,” ông ta nói, “nhưng tôi sẽ gọi lại cho ông ngay khi có thể. Số điện thoại của ông là bao nhiêu?”
Townsend đọc số máy ở trước mặt và đặt ống nghe xuống.
Anh từ từ bước lại bàn và thả người xuống ghế, có cảm giác như thể anh đã tiêu đến đồng xu cuối cùng. Anh hy vọng bà Sherwood không bắt anh trả tiền điện thoại.
Không một ai trong số những người ngồi quanh bàn thốt lên lời nào khi tiếng tích tắc vang lên rõ mồn một. Hiếm khi Townsend rời mắt khỏi chiếc đồng hồ cũ kỹ. Cứ mỗi phút trôi qua, anh dần nhận ra tiếng tắc quen thuộc. Mỗi một tiếng đó lại làm anh thêm mất tự tin. Điều anh không nói với Tom là hôm qua anh đã chuyển đúng 20 triệu 100 nghìn đô la từ tài khoản của anh ở Sydney tới ngân hàng Manhattan ở New York. Vì bây giờ ở Sydney mới gần 2 giờ sáng, viên thủ quỹ không có cách nào kiểm tra nếu anh có thêm 2 triệu đô la.
Lại một tiếng tắc nữa. Mỗi tiếng tắc vang dội như một tiếng bom. Đột nhiên tiếng chuông lanh lảnh vang lên làm họ giật mình. Townsend chồm khỏi ghế vồ lấy máy điện thoại.
“Người gác cổng đây, thưa ông, ông có thể báo cho bà Sherwood biết rằng ông Armstrong và một quý ông nữa đã đến, và họ đang lên thang máy.”
Mồ hôi chảy thành giọt trên trán Townsend, khi anh hiểu rằng Armstrong lại đánh bại anh một lần nữa. Anh chậm chạp trở lại bàn khi người hầu gái xuống hành lang để đón cuộc hẹn lúc 11 giờ của bà Sherwood. Chiếc đồng hồ điểm một tiếng, hai tiếng, ba tiếng, và điện thoại lại đổ chuông một lần nữa. Townsend bật dậy và vồ lấy máy, biết rằng đây là cơ hội cuối cùng của anh.
Nhưng người gọi muốn nói chuyện với ông Yablon. Townsend quay lại bàn và đưa điện thoại cho viên luật sư của bà Sherwood. Trong khi Yablon nói chuyện, Townsend đảo mắt quanh phòng. Chắc chắn phải có một lối đi khác ra khỏi căn hộ này? Anh không muốn chạm trán với bộ mặt hả hê của Armstrong.
Yablon đặt ống nghe và quay sang bà Sherwood. “Đó là ngân hàng,” ông ta nói. “Họ xác nhận rằng khoản tiền 2 triệu đô la đã được gửi vào tài khoản thế chấp của tôi. Như thỉnh thoảng tôi vẫn nói, Margaret, tôi cho là chiếc đồng hồ của bà chạy nhanh mất một phút.”
Ngay lập tức bà Sherwood ký vào hai tài liệu trước mặt, sau đó tiết lộ một phần thông tin liên quan trong bản di chúc cuối cùng của George Sherwood làm cho cả Townsend và Tom ngạc nhiên. Tom nhặt nhạnh mớ giấy tờ khi bà ta đứng lên khỏi bàn và nói , “Xin các quí ông hãy đi theo tôi.” Bà ta nhanh chóng dẫn Townsend và những luật sư của anh đi qua bếp rồi xuống nhà bằng lối thoát khi có cháy.
“Tạm biệt, ông Townsend,” bà ta nói khi anh bước qua cửa sổ.
“Tạm biệt, bà Sherwood,” anh hơi cúi đầu chào.
“Tiện thể…” bà ta nói thêm
Townsend quay người lại, lo lắng.
“Sao kia?”
“Ông biết không, thật sự là ông nên cưới cô gái ấy – cho dù tên cô ta là gì đi nữa.”
“Tôi rất lấy làm tiếc,” Yablon đang nói khi bà Sherwood quay lại phòng ăn. “Nhưng thân chủ tôi đã bán số cổ phần của bà ấy trong tờ Globe cho ngài Keith Townsend, một người tôi chắc ông rất quen biết.”
Armstrong không tin nổi vào tai mình. Anh quay sang viên luật sư và thấy anh ta rất giận dữ.
“Với giá 20 triệu đô la?” Russell Critchley khẽ hỏi viên luật sư già.
“Đúng thế,” Yablon trả lời, “đó là con số chính xác mà thân chủ của tôi đã thỏa thuận với ông em chồng của bà ấy hồi đầu tháng.”
“Nhưng chỉ mới tuần trước ông Alexander đảm bảo với tôi là bà Sherwood đã đồng ý bán số cổ phần của bà ấy trong tờ Globe cho tôi,” Armstrong nói. “Tôi đã bay tới New York chỉ để…”
“Chuyến bay của ông tới New York không ảnh hưởng đến tôi, thưa ông Armstrong,” bà Sherwood nói với vẻ kiên quyết, “hơn cái ông đã làm ở Geneva”.
Armstrong dán mắt vào bà ta một lát, sau đó quay lại thang máy mà anh mới từ đó đi ra cách đó ít phút, cửa thang máy vẫn còn mở. Khi cùng viên luật sư đi xuống anh thốt lên một tràng chửi rủa trước khi hỏi, “Nhưng làm thế quái nào mà hắn ta lại sắp xếp được chuyện này?”
“Tôi chỉ có thể đoán là anh ta đã gặp bà Sherwood ở một nơi nào đó trong chuyến đi của bà ta.” “Nhưng làm thế nào hắn có thể biết được tôi là người cầm đầu vụ mua bán tờ Globe.”
“Tôi nghĩ ông không thể tìm được lời đáp cho câu hỏi đó ở bờ bên này Đại Tây Dương.” Critchley nói. “Nhưng chưa phải đã mất tất cả.”
“Ông muốn nói cái quái gì vậy?”
“Ông đã có được một phần ba số cổ phần.”
“Townsend cũng vậy,” Armstrong nói.
“Đúng thế. Nhưng nếu ông nắm được Walter Sherwood, ông sẽ là chủ của 2/3 công ty. Townsend sẽ chẳng còn cách nào khác là phải bán một phần ba cổ phần của ông ta cho ông, và hắn coi như mất trắng.”
Armstrong liếc sang luật sư của mình, và một nụ cười thoáng hiện trên khuôn mặt hồng hào của anh.
“Và với sự hỗ trợ của Alexander Sherwood, canh bạc còn chưa đến hồi kết cục.”