Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Trâm 3: Tình Lang Hờ

Chương 9: Cây ngọc điêu tàn

Tác giả: Châu Văn Văn

Kẻ bị thương đang dựa vào người Trương Hàng Anh, thoạt nghe tiếng y thì run bắn, mái đầu nãy giờ rũ xuống khó nhọc ngẩng lên gọi khẽ: “Vương…”

“Đúng rồi, chính là Vương Quỳ huynh, ngươi nhận ra ư?” Hoàng Tử Hà đã lẻn đến cạnh Cảnh Dục từ lúc nào, lập tức ngắt lời.

Dưới ánh đèn leo lét, mặt Cảnh Dục tái nhợt, hơi thở đứt quãng, chỉ có cặp mắt sáng rực vẫn không rời Lý Thư Bạch. Biết không thể để lộ thân phận Lý Thư Bạch, nên y cũng không nói thêm nữa.

Lý Thư Bạch bảo Trương Hàng Anh đỡ Cảnh Dục vào phòng mình. Tiểu nhị nhìn hai kẻ máu me bê bết đi vào, mặt nhăn như bị, nhưng không dám ngăn cản.

Hoàng Tử Hà buông một câu: “Ta đi tìm đại phu” rồi mượn tiểu nhị một ngọn đèn lồng rách hối hả chạy ra ngoài.

Cô thông thuộc đường sá nơi này như lòng bàn tay, chẳng mấy chốc đã chạy đến một y quán ở góc phố, ra sức đập cửa.

Đại phu y quán đó rất nhiệt tình, nửa đêm có người mời đi chữa bệnh chưa bao giờ từ chối, nghe Hoàng Tử Hà nói có người bị trọng thương, bèn vội vã thu xếp hòm thuốc, theo cô ra ngoài.

Hai người về đến quán trọ thì Cảnh Dục đã được đặt xuống giường, thay bộ đồ rách nát lấm máu ra, đắp chăn nằm thiêm thiếp.

Đại phu họ Địch bắt mạch xong thì lắc đầu: “Người này bị thương đã lâu, vết thương phần lớn đã thối rửa, cố chịu đựng đến giờ đã là mạo hiểm rồi, hôm nay lại bị thương nữa, vết thương cũ chưa lành lại thêm vết thương mới, e rằng không dễ chữa trị. Ta tạm kê đơn, còn có thuyên giảm được hay không, phải trông vào sức khỏe của y.”

Nói rồi, ông ta cởi quần áo Cảnh Dục ra, phun rượu nóng lên lưỡi dao rồi hơ qua lửa để sát trùng, sau đó khoét những phần thịt thối trên vết thương.

Hoàng Tử Hà ở bên ngoài nghe tiếng Cảnh Dục la hét, bất giác dựa vào tường, cắn chặt môi.

Đám thích khách kia rốt cuộc là kẻ nào sai khiến? Điều động được người của kinh thành thập ty, còn lợi dụng cả Kỳ Lạc quận chúa, hơn nữa lại nắm rõ tất cả đường hướng của cô và Lý Thư Bạch, rốt cuộc là ai?

Trước mắt cô hiện ra gương mặt đầy đặn ôn hòa tươi tắn của hoàng đế, sau đó lại đến cặp mắt nham hiểm như rắn độc của Vương Tông Thực. Nhưng, còn cả những kẻ nấp sau màn như Vương hoàng hậu, Quách thục phi, Bàng Huân, thậm chí cả Tây Xuyên tiết độ sứ Phạm Ứng Tích… Trần thế mênh mông, lòng người là khó đoán nhất, ai biết được kẻ nào miệng nam mô bụng bồ dao găm chứ?

Chợt nghe tiếng cửa phòng hé mở, rồi Trương Hàng Anh bước ra. Gã lúng túng đi đến gần, nhìn cô vẻ ngập ngừng.

Hoàng Tử Hà thấy vậy bèn nói: “Là ta đây.”

“Quả là Sùng Cổ…” Hắn lẩm bẩm, đầu cúi gằm, đứng sừng sững trước mặt cô, dáng vẻ buồn đau khôn xiết.

Hoàng Tử Hà thở dài hỏi: “Huynh làm sao gặp được Cảnh Dục?”

“Ta, ta vốn định lùng sục khắp đất Thục xem có thấy tung tích của A Địch không, nào ngờ hôm qua vừa ra khỏi phủ Thành Đô, đang đi trên đường mòn thì trông thấy một người cưỡi ngựa từ trên núi lao xuống. Đường mòn khá hẹp, ta không tránh kịp, bị tông ngã lăn xuống vách núi…”

Vách núi ở đó khá dốc, may sao Trương Hàng Anh bám vào một gốc cây, mới trụ vững được.

Gã ngẩng đầu nhìn quanh, thấy mình đã ở rất gần đáy vực, bèn leo xuống uống ngụm nước, ngồi bên bờ suối nắn lại cánh tay vừa trật khớp.

Bỗng nghe thấy tiếng gầm của dã thú, Trương Hàng Anh ngoái lại thì thấy một con báo gấm nhào đến. Tay phải bị trật khớp vừa nắn lại, gã thầm biết không thể chống cự, bèn đứng phắt dậy định chạy.

Ngờ đâu con báo rất nhanh, nháy mắt đã sắp vồ được hắn, hàm răng nhọn hoắt nhằm thẳng cổ hắn mà ngoạm. Hắn chuẩn bị nhắm mắt chờ chết thì chợt có một hòn đá bay đến hất văng con báo ra.

Trương Hàng Anh tiếc hùi hụi, giá hòn đá nọ to hơn có phải đã ném vỡ đầu con dã thú rồi không. Quay đầu nhìn lại, hắn mới thấy kẻ ném đá cả người bê bết máu, tựa vào tảng đá lớn bên bờ sông, dường như bị trọng thương. Đã thế còn ném đá cứu mạng hắn, kể cũng là tận sức rồi.

Trương Hàng Anh vội chạy đến chỗ người nọ, cả hai dựa vào phiến đá lớn, liên tục nhặt đá ném vào con báo. Kẻ kia tuy đã kiệt sức, nhưng nhắm rất chuẩn, còn Trương Hàng Anh tay phải bị thương nhưng vẫn còn tay trái, bờ suối chẳng thiếu đá, cả hai tha hồ ném cho con thú gầm lên thảm thiết.

Con báo nọ cũng là đói quá mới phải vồ người, thấy đối thủ hợp sức, tự biết khó chống lại, đành mài móng xuống bãi rồi nhảy tót vào rừng.

Đợi nó đi khuất, Trương Hàng Anh mới quay sang người kia: “Huynh đệ không sao chứ?” Nào ngờ kẻ kia hỏi lại: “Trương Hàng Anh… Sao ngươi lại ở đây?”

Gã ngạc nhiên: “Huynh biết ta?”

“Lại còn không.. Ta… là Cảnh Dục ở phủ Quỳ…”

“Dục công công dọc đường có kể ta nghe vài chuyện… Nghe nói sau khi vương gia gặp phải thích khách, công công bị lạc trong lúc bao vây, còn xui xẻo trúng tên. Cuối cùng chạy vào trong núi, nào ngờ mùi máu tanh lại thu hút dã thú…” Trương Hàng Anh lo lắng nhìn vào trong, hạ giọng, “Khó khăn lắm mới chống chịu được đến giờ, mong rằng công công không sao…”

Hoàng Tử Hà biết, tuy họ chỉ đi cùng nhau một ngày nửa đêm, nhưng từng chung vai chống địch, dọc đường dìu đỡ quay về đây, đã kết thành mối giao tình cùng chung hoạn nạn. Giống như cô và Lý Thư Bạch vậy.

Trương Hàng Anh nhìn cô qua ánh đèn leo lét dọc hành lang, băn khoăn hỏi: “Hoàng… Dương huynh đệ sao lại ở đây?”

“Dọc đường chúng ta bị tập kích, để che giấu tung tích, đành tạm thời trọ lại đây.” Hoàng Tử Hà giải thích ngắn gọn.

Bên trong, tiếng la của Cảnh Dục cũng ngớt dần, Hoàng Tử Hà vội đi lấy một chậu nước nóng, thấy đại phu đã đi ra, bèn xăm xăm bưng vào trong. Trương Hàng Anh thấy vậy liền đón lấy: “Để ta.”

Gã ngồi xuống mép giường lau vết máu trên người Cảnh Dục, thấy khắp người y quấn băng chằng chịt thì chẳng biết phải bắt tay lau từ đâu, đành lau qua tay và mặt cho y, lòng không khỏi đau xót.

Lý Thư Bạch đã nhường phòng cho Cảnh Dục và Trương Hàng Anh, còn mình thuê một phòng khác. Thấy máu me bê bết đầy giường, tiểu nhị chỉ muốn khóc ròng, nhưng hai gian phòng này được thuê dưới danh nghĩa Chu Tử Tần nên hắn cũng không dám cằn nhằn, chỉ dặn: “Khách quan nhớ trả thêm tiền đệm nhé.”

Trời còn chưa sáng Hoàng Tử Hà đã trở dậy, rửa mặt chải đầu thay quần áo xong xuôi bước ra đã thấy Lý Thư Bạch từ phòng Cảnh Dục đi ra, xoay tay khép cửa rồi bảo cô: “Hơi sốt, nhưng đỡ hơn hôm qua nhiều rồi.”

Hoàng Tử Hà gật đầu, thở phào nhẹ nhõm.

Lúc hai người ăn sáng, Hoàng Tử Hà hạ giọng thì thào: “Đêm qua ta sực nhớ một chuyện, phải thỉnh giáo gia.”

Lý Thư Bạch gật đầu, ngẩng lên nhìn cô.

“Người chết vì trẩm độc, ngoại trừ triệu chứng như trúng độc tỳ sương, còn dấu hiệu gì khác không? Ví như đầu ngón tay thâm đen chẳng hạn?” Lý Thư Bạch trầm tư hỏi: “Ý ngươi muốn nói vết đen trên ngón tay Phó Tân Nguyễn ư?”

“Vâng.”

“Có lẽ không có. Ta nghĩ vết đen đó chính là dính phải thứ gì đó thì đúng hơn.”

“Vậy thì quả là đáng ngờ. Phó Tân Nguyễn là nữ tử, dung mạo lại xuất sắc nhường ấy, gia nghĩ xem, một cô nương trước khi tự vẫn, lẽ nào không chăm chút thân thể mình, lại để đôi tay nõn nà như cọng hành non dính vết đen khó coi như thế?”

Lý Thư Bạch gật đầu: “Nhắc tới chuyện này mới nhớ, hôm qua lúc tra xét hộp nữ trang của Phó Tân Nguyễn, ta thấy ngươi lộ vẻ chần chừ, lại phát hiện được gì ư?”

“Chuyện này nam nhân các vị không hiểu được.” Cô nhìn quanh, thấy chỉ có hai người họ ngồi trong góc, mới thì thầm: “Gia nhớ không? Lúc chết Phó Tân Nguyễn vấn tóc vòng quanh, vận áo xám tro, quần xanh, đi hài tơ trắng.”

Y gật đầu xác nhận rồi nhìn cô dò hỏi.

“Ta thấy trong tủ quần áo của Phó cô nương toàn màu xanh nhạt hoặc hồng phấn. Có thể thấy hằng ngày Phó Tân Nguyễn thích quần áo màu sắc tươi sáng. Chiếc áo màu xám tro đó, giống như đồ cũ đã phai màu, để làm quần áo mặc nhà, tùy tiện khoác lên thôi.”

“Ý ngươi là trước lúc lâm chung, nữ tử thông thường đều sẽ thay đồ mới đẹp đẽ, chứ không mặc áo cũ như thế hả?”

“Huống hồ cô ấy tự vẫn cùng tình nhân, lẽ nào lại bỏ qua cả tủ quần áo rực rỡ, chọn bộ áo cũ ấy mà theo tình lang xuống suối vàng? Ít ra cũng nên chỉnh trang lại một chút chứ?” Nói đoạn Hoàng Tử Hà nghĩ ngợi một thoáng rồi lắc đầu tiếp: “Có điều bây giờ không thể võ đoán được, lúc đã quyết chết thì lòng như tro tàn, có lẽ cũng chẳng màng để ý mình mặc đẹp hay không nữa?”

“Thế nên tiếp theo đây chúng ta phải điều tra xem, chuyện gì đã khiến bọn họ lòng lạnh như tro tàn?”

Hoàng Tử Hà gật đầu rồi cùng y dùng bữa. Lúc cả hai ăn xong rời khỏi quán trọ, cô không kìm nổi quay sang nhìn y, vẻ ngập ngừng.

“Nói đi.” Y lạnh nhạt lên tiếng.

“Ta chỉ thấy hơi lạ… Lẽ nào gia không để tâm vụ hành thích lần trước ư?” Nhìn y thong dong bình thản ngày ngày cùng mình đi khắp nơi điều tra, cô cũng đâm ngờ, chẳng biết có phải mấy hôm trước mình từng bị ám sát, phải bôn ba trốn chạy hay không nữa.

Y liếc cô: “Vội cái gì, chẳng bao lâu nữa lại có vụ sau đấy.”

“Được thôi… đến thủ lĩnh thích khách gia cũng biết, hẳn đã có sắp xếp riêng, là ta lắm lời rồi.” Vừa nói cô vừa lườm trả miếng.

Lần đầu tiên thấy cô tỏ thái độ như vậy, Lý Thư Bạch bất giác mỉm cười nghiêng đầu bảo: “Nói cho ngươi cũng chẳng sao, thật ra tên thủ lĩnh…”

Bỗng y nhác thấy một người phía trước, câu nói đang dang dở ngưng bặt.

Đối diện bên kia đường, áo xanh phơ phất, tiêu sái thoát tục, là Vũ Tuyên.

Mà kẻ đang đứng trước mặt Vũ Tuyên, khiến hai người phải đưa mắt nhìn nhau, chính là em rể tương lai của Chu Tử Tần, Tề Đằng.

Bấy giờ còn sớm, ngoài đường thưa vắng người qua, chẳng rõ hai kẻ này đứng nói chuyện gì. Vẻ mặt Vũ Tuyên rất khó coi, bất luận Tề Đằng nói gì, hắn cũng lắc đầu, thong dong mà kiên quyết.

Hoàng Tử Hà dang do dự thì thấy Lý Thư Bạch vỗ nhẹ vai mình: “Theo ta sang đó.”

Y dẫn cô băng ngang đường, đi về phía hai kẻ kia.

Hoàng Tử Hà cúi đầu lẳng lặng theo sau y, như một tiểu đồng.

Khi đến gần hai kẻ nọ, Lý Thư Bạch dừng chân cạnh một gian hàng, họi: “Cho hai cái bánh hấp.”

Đoạn họ quay lưng về phía hai người kia, vừa nhìn chủ quán vớt bánh vừa dỏng tai nghe ngóng.

Tề Đằng thuyết phục: “Đây là ta tiếc cho tài hoa của Vũ huynh thôi. Thật ra hằng ngày chúng ta ít khi qua lại, nhưng ta rất ngưỡng mộ học vấn của huynh. Hiện giờ cả nhà Hoàng quận thú đã chết, huynh chỉ trông vào mấy đồng tiền phụ cấp mà quận phát cho thì làm sao sống? Phạm tướng quân mộ tài huynh mới mời vào phủ tiết độ sứ, vừa bước vào đã là chưởng thư ký, sang năm đổi thành chi sử, tướng quân chính miệng hứa rồi.”

Giọng Vũ Tuyên lạnh nhạt, tựa hồ hoàn toàn không nghe thấy điểm quan trọng mà Tề Đằng nói tới: “Nhà Hoàng quận thú vẫn còn một cô con gái.”

“Hừ… Hoàng Tử Hà à? Nếu ả dám quay về thì cũng chỉ có đường chết thôi. Kẻ độc ác giết hại cả nhà, còn kể đến làm gì?” Tề Đằng cười nhạt, ngữ điệu không mềm không cứng: “Trước đây chính huynh tố cáo ả với Phạm tướng quân, sao giờ còn nhắc đến?”

Vũ Tuyên im lặng hồi lâu rồi đổi hướng đi thẳng: “Ta có chút việc, xin lỗi.”

Tề Đằng bước xéo qua, chặn hắn lại: “Huynh còn việc gì nữa? Tỉnh lại đi, người chết hơn nửa năm rồi, huynh còn tới mộ quét tước hóa vàng làm gì? Chẳng qua chỉ là con nuôi, mà nói trắng ra ông ta thu nhận huynh là để sắp sẵn trợ thủ trên quan trường sau này thôi.”

Giọng Vũ Tuyên chợt lạnh buốt, như băng va mặt nước: “Ta là kẻ hèn mọn, nào dám thân cận với Phạm tướng quân? Nhờ huynh chuyển lời bẩm lại tướng quân, đời này kiếp này Vũ Tuyên chỉ là một kẻ quét mộ, không dám dẫm bẩn cửa phủ tiết độ sứ!”

“Haha, huynh thanh cao quá nhỉ!” Tề Đằng cười cợt, “Nghe nói lúc vào kinh thành làm học chính, cũng nồng nàn với Đồng Xương công chúa lắm, suýt nữa bám cạp váy trèo lên hoạn lộ thênh thang cơ mà? Tiếc rằng sông có khúc người có lúc, Đồng Xương công chúa đột ngột qua đời, huynh mới lủi thủi quay về Thục chứ gì? Về đầy coi như quên hết mọi chuyện ở Trường An, lại định làm thánh hiền đấy à?”

“Hai vị, bánh hấp xong rồi đây, cẩn thận khéo bỏng.” Chủ quán dùng lá khoai bọc bánh, đưa cho mỗi người một cái.

Thấy bàn tay giơ ra nhận bánh của Hoàng Tử Hà hơi run, Lý Thư Bạch bèn nhận luôn hộ cô, ghé tai nói khẽ: “Đừng lên tiếng, cứ lặng im xem.”

Vũ Tuyên im lặng, thở dài, một lúc lâu mới thốt: “Đời này, ta chỉ cầu không thẹn với lòng.”

“Haha… Hahahahahahaha…”

Tề Đằng phá lên cười ngặt nghẽo, suýt nữa xô đổ cả gánh đào bên cạnh. Đợi mấy gánh đào cạnh đó tránh đi hết, hắn mới trỏ Vũ Tuyên, cười hụt cả hơi: “Không thẹn với lòng… Hahaha, đương nhiên huynh không thẹn với lòng! Nếu thẹn, huynh đã chết từ lâu rồi!”

Vũ Tuyên không hiểu ý câu này, chỉ lạnh lùng nhìn Tề Đằng.

Tề Đằng vỗ vào gốc đại thụ, vẫn chưa dứt cơn cười. Trong tiếng cười của hắn, Vũ Tuyên cảm thấy một luồng hơi lạnh từ đáy lòng dần dần bốc lên, lan ra tứ chi, cuối cùng đâm vào huyệt thái dương nhoi nhói, đau đớn vô kể.

Vũ Tuyên ôm đầu, mạch máu trên đầu rần rật khiến hắn loạng choạng cơ hồ ngã lăn ra.

Bên tai hắn, giọng Tề Đằng quỷ dị mà trào phúng: “Huynh có nhớ con cá đỏ của ta đâu rồi không?”

Vũ Tuyên ngạc nhiên mở to mắt, đôi mắt trong suốt sáng ngời nay trợn trừng lên, vằn đầy tia máu, kinh hoàng pha lẫn hoang mang, tựa hồ vừa nhác thấy một bí mật mà mình không dám khám phá.

“Ôi chao, huynh xem, ta chỉ bàn với huynh chút chuyện, ngờ đâu huynh lại phản ứng thế này.” Tề Đằng ngồi xuống vỗ vỗ má Vũ Tuyên: “Quay về nghĩ kỹ lại đi, ta đợi tin huynh, dù sao… giao tình giữa chúng ta cũng không vừa đâu.”

Vũ Tuyên nghiến răng, gạt tay hắn ra.

Tề Đằng lại phì cười, nhưng không cười ngặt nghẽo hay chế nhạo như vừa nãy nữa, hắn đã lấy lại nụ cười ôn hòa bình thản mọi khi: “Đa nghi quá, ta đâu phải Ôn Dương, sợ gì chứ.”

Dứt lời hắn phất tay áo đi thẳng về phía phủ tiết độ sứ. Cuộc cãi vã thế là kết thúc, chỉ còn Vũ Tuyên loạng choạng đứng lên, gạt đám người xúm đông xúm đỏ xem náo nhiệt ra, lẳng lặng đi về phía cuối phố.

Có kẻ chỉ trỏ sau lưng hắn bình phẩm: “Chẳng phải Vũ Tuyên đấy ư? Năm xưa cứ nói phủ quận thứ gồm thâu cả nhật nguyệt, một người là thiên kim tiểu thư Hoàng Tử Hà, người còn lại là Vũ Tuyên, con nuôi quận thú. Đôi người ngọc này soi chiếu lẫn nhau, đều là hạng kinh tài tuyệt diễm, ai ai ở Thục cũng đem lòng ngưỡng mộ, nào ngờ mới vỏn vẹn mấy tháng, đã thành ra thế này.”

Hoàng Tử Hà đứng lặng bên đường, thật lâu mới ngoái lại nhìn Lý Thư Bạch. Y đưa một chiếc bánh cho cô: “Đi thôi.”

Bánh hấp ngọt ngào thơm nức, giờ vào miệng lại nhạt như nước. Cô sực nhớ mình đã ăn sáng, nhưng vẫn đờ đẫn cắn thêm miếng nữa.

Lý Thư Bạch dẫn cô bám theo sau Vũ Tuyên.

Vũ Tuyên cứ lầm lũi đi, sắp ra khỏi cổng thành mới cảm thấy đằng sau có người, bèn từ từ ngoái lại.

Lý Thư Bạch buông một câu: “Chào.” Thái độ bình thản như tình cờ gặp.

Vũ Tuyên khẽ gật đầu, đưa mắt nhìn Hoàng Tử Hà.

Hoàng Tử Hà cũng không hiểu tại sao đến lúc này rồi mình vẫn khư khư cầm cái bánh hấp, hơn nữa, đã vô thức ăn quá nửa. Cô bóp chặt chiếc bánh, vứt không vứt, ăn không ăn, chỉ bóp chặt trong tay, ngượng nghịu gật đầu chào hắn.

Vẫn là Vũ Tuyên lên tiếng trước: “Hai vị đi đâu vậy?”

Lý Thư Bạch đáp: “Chúng ta đến Thành Đô mấy ngày mà chưa kịp thưởng lãm phong cảnh quanh đây, hôm nay nhân lúc rảnh rỗi mới ra ngoại ô ngắm danh lam.”

Vũ Tuyên cũng hùa theo: “Đúng đấy, chùa Quảng Độ trên núi Minh Nguyệt là di tích cổ ở Thục, trong khe núi có suối có đá, có cả rừng trúc xanh mướt, cảnh đẹp vô cùng, rất đáng thưởng ngoạn.”

Hoàng Tử Hà gật đầu: “Chúng ta cũng đang định tới bái phỏng Mộc Thiện đại sư.”

“Mộc Thiện đại sư với ta là chỗ quen biết, ta có thể giới thiệu hai vị.” Nói rồi, hắn ra hiệu cho họ cùng đi thẳng ra ngoại ô.

Đất Thục núi  non hiểm trở, núi Minh Nguyệt lại càng cheo leo chót vót.

Men theo bậc đá dưới chân núi, Hoàng Tử Hà đi sau Vũ Tuyên, từng bước leo lên, lại chạnh nhớ cũng tầm này năm ngoái, trời quang nắng ấm, họ từng lên núi Minh Nguyệt chơi.

Bấy giờ hai người sánh vai cười nói, thoăn thoắt đi lên. Đến chỗ hiểm trở, cô hơi tụt lại sau, hắn bèn chìa tay ra.

Có lúc cô không cần nhờ, buông một câu “Muội tự đi được” rồi vùng vằng trèo lên, toan vượt qua hắn; có lúc cô lại nắm lấy tay hắn, mượn lực nhảy qua hai ba bậc; có lúc cô ngắt một đóa hoa dại bên đường đặt vào tay Vũ Tuyên, vờ như không hiểu ý hắn.

Loài hoa cô hái năm đó, nay vẫn nở đầy ven đường.

Lúc ngang qua, cô vô thức ngắt một đóa, cầm trong tay, ngước nhìn hai người đi trước.

Vũ Tuyên như trúc, Lý Thư Bạch như ngọc.

Một kẻ là mối tình đầu ghi tâm khắc cốt, là rung động ban sơ thời thiếu nữ ngây thơ.

Một người là chỗ dựa vững chắc, là sức mạnh nắm tay cô sánh vai chung bước.

Một kẻ dường như đã trở thành quá khứ, một người tựa hồ còn chưa bắt đầu.

Hoàng Tử Hà cúi đầu nhìn đóa hoa vàng mong manh rồi giơ tay ra để gió núi cuốn nó bay đến chân trời xa tắp.

Cô thở hắt ra, như muốn gạt bỏ hết thảy tạp niệm, để những tâm sự rối ren của minh theo gió bay đi như đóa hoa kia.

Còn chưa hoàn thành việc quan trọng nhất trong đời, sao có thể để những tình cảm vụn vặt ấy xâm lấn tâm tư.

Cửa chùa Quảng Độ nằm ở lưng chừng núi, dọc theo thế núi đi lên lần lượt là các đại điện, cho đến tận đỉnh. Thế núi cheo leo, quy mô chùa lại quá lớn, từ lưng chừng núi đã chỉ thấy chùa không thấy núi, trùng trùng điệp điệp những tường vách phòng ốc, choán cả một vùng núi non.

Mộc Thiện đại sư hiện là trụ trì trong chùa, ngụ trong thiền phòng hoa cỏ thâm u. Phía sau có một khe suối từ kẽ đá chảy ra, róc rách bao quanh thiền phòng.

“Đây chính là mạch nước chỉ trong một đêm biến thành con suối ư?” Hoàng Tử Hà đến gần, cúi xuống quan sát nguồn suối. Vết đá nứt vẫn còn nguyên, rêu xanh xung quanh tróc mất một mảng, nước chảy róc rách.

Lý Thư Bạch cũng khom người ngắm nghía, không khỏi phì cười. Hoàng Tử Hà ngoái lại nhìn y, nói khẽ: “Quả nhiên là con người làm ra.”

Lý Thư Bạch ghé tai cô hỏi: “Cách làm vụng về thế này, sao hầu như ai ai ở Thục cũng tin vậy? Ngay cả Vũ Tuyên cũng tin răm rắp, chẳng phải lạ lắm ư?”

Hoàng Tử Hà liếc Vũ Tuyên đứng dưới gốc quế cách đó không xa, rồi lại nhìn kẽ đá, gật đầu: “Đúng thế, kẽ đá này vẫn còn rìa nhọn lởm chởm kìa.”

Hai người còn đang xem xét thì tiểu sa di đón khách đã bước ra: “Hai vị lần đầu đến ư? Hẳn là định gặp Mộc Thiện đại sư? Mời các vị xem, con suối này chính là chứng tích pháp lực vô biên của đại sư đấy.”

Hoàng Tử Hà quay lại hỏi: “Nghe nói đây vốn là một mạch nước, chỉ trong một đêm đã biến thành con suối ư?”

“Đúng thế! Hôm trước Mộc Thiện đại sư còn phàn nàn rằng mạch nước này nhỏ quá, đến sáng hôm sau ta đang ngủ chợt nghe tiếng ào ào, vội trở dậy xem thì thấy nước đã tràn cả ra mặt đất! Nhìn mà xem, nước suối chảy mạnh thế cơ mà!”

“Đột nhiên xuất hiện trong đêm à? Quả là thần tích!”

Tiểu sa di càng thêm hãnh diện, ưỡn ngực đáp: “Phải đấy! Các vị biết không, trước đây ở Thành Đô có Trần tham quân nổi tiếng sợ vợ, vợ ông ta rất dữ, dân chúng Thành Đô đều nghe danh, ngày nào ông ấy cũng bị vợ phạt quỳ, còn bắt đội bô…”

Hoàng Tử Hà lúc trước từng nghe chuyện Trần tham quân, bèn thích thú phụ họa: “Chuyện này ta cũng nghe nói.”

Tiểu sa di tự đắc kể: “Nhưng giờ ông ta rũ bùn đứng dậy rồi! Giờ vợ ông ta lại sợ chồng như cọp, ngày ngày bưng mâm ngang mày, quỳ xuống hầu chồng dùng bữa!” Hoàng Tử Hà vốn không tin mấy thứ huyên thuyên, nhưng vẫn làm bộ hào hứng: “Đại sư làm cách nào mà khiến bà ta đổi tính thế?”

“Đại sư rất lợi hại, không đánh không mắng, chỉ gọi hai vợ chồng vào thiền phòng, múc một chén nước suối pha một bình trà, nhân lúc uống trà thì giảng cho họ vài đạo lý trong kinh Phật, nói có tình có lý, kết quả cọp cái thoắt chốc đã thành mèo con!”

“Ồ! Mộc Thiện đại sư quả là pháp lực cao cường!” Hoàng Tử Hà lộ vẻ thành tín cùng kính phục: “Chẳng hay còn thần tích nào nữa không?”

“Còn chuyện này nữa, liên quan đến tiết độ sứ Tây Xuyên Phạm tướng quân đó nhé! Chuyện này nổi tiếng Thành Đô, ai ai cũng biết!” Hai mắt tiểu sa di sáng bừng, gương mặt như tỏa hào quang, “Bấy giờ công tử của Phạm tướng quân mê mẩn một ca kỹ, sống chết đòi đưa về nhà. Phạm tướng quân đánh không được mắng không xong, đành bó tay với cậu quý tử, nhưng đại sư chúng ta vừa ra tay, chỉ nói mấy câu đã khiến Phạm công tử hồi tâm chuyển ý, vứt bỏ ả ca kỹ kia. Đủ thấy Phật pháp vô biên, gột rửa tâm linh, đại sư đại trí tuệ đại pháp lực, ngăn cả sóng dữ, khiến lãng tử quay đầu, bể khổ vô bờ, đại sư nhà chúng ta phổ độ chúng sinh…”

Hoàng Tử Hà sốt ruột ngắt lời: “Mộc Thiện đại sư có ở đây không?”

“Đại sư ở trong thiền phòng.” Tiểu sa di không nhận ra cô muốn kế thúc câu chuyện, vẫn chắp hai tay thao thao: “Nếu thí chủ thích nghe, ta sẽ kể tiếp chuyện ả đanh đá ở ngõ Lưu Gia biến thành thục nữ, con bất hiếu trên phố Chân An hối cải…”

Chẳng đợi tiểu sa di nói hết, Vũ Tuyên đã đi đến, dẫn bọn họ tới tham kiến Mộc Thiện đại sư. Hắn cầm một bình nước, gõ nhẹ lên cánh cửa khép hờ: “Pháp thể đại sư thế nào? Xin cho đệ tử Vũ Tuyên gặp mặt.”

Giọng khàn khàn trầm thấp vang lên bên trong: “Vào đi.”

Vũ Tuyên ngập ngừng một thoáng, rồi thưa: “Đệ tử dẫn theo hai người nữa, cũng muốn xin gặp mặt đại sư, là bổ khoái quận Thục… Vương Quỳ và Dương Sùng Cổ.”

“Ồ…” Mộc Thiện đại sư chỉ thốt lên một tiếng, rồi trừ trừ hồi lâu không đáp. Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch cứ ngỡ đại sư từ chối không gặp, nào ngờ ông ta lại mở rộng cửa, chắp tay chào bọn họ: “Khách quý đến chơi, không kịp ra đón từ xa, mời vào mời vào.”

Mấy người ngồi cả xuống. Tiểu sa di múc nước dưới suối ngồi một bên pha trà.

Mộc Thiện đại sư khoác một tấm áo đã cũ, tay cầm chuỗi tràng mười tám hạt đã lần đến sáng bóng, râu bạc phơ, nhưng mặt hơi tái, nhiều nếp nhăn và đồi mồi, không thể coi là đẹp lão.

Ông ta áng chừng bảy tám mươi tuổi, đôi mắt sắc như dao hoàn toàn trái ngược với gương mặt già nua, nheo nheo mắt nhìn xoáy vào mọi người, khiến người ta thấy toàn thân nóng bừng lên.

Hoàng Tử Hà cũng chắp tay hành lễ, thầm nghĩ đôi mắt vị hòa thượng này thâm độc thật, chẳng rõ có phải đã nhìn ra chuyện gì không.

Cả ba được mời vào trong dùng trà.

Mộc Thiện đại sư hiền hòa hỏi: “Hình như hai vị bổ khoái nói giọng phương Bắc?”

“Đúng thế, chúng ta đến từ Trường An.” Hoàng Tử Hà đáp.

“Tình hình trong kinh giờ thế nào? Chẳng hay hai vị đến Thành Đô có việc gì?”

Hoàng Tử Hà thuận miệng đáp bừa: “Nghe nói năm xưa đại sư từng vào kinh, ta nghĩ giờ đây cũng chẳng khác khi ấy là bao.”

“Sự đời thấm thoắt, bãi bể nương dâu… Mười mấy năm trước khi lão nạp vào kinh, hoàng thượng cũng vừa đăng cơ, giờ đã tại vị mười mấy năm. Lão nạp dạo ấy còn khỏe, giờ thì yếu lắm rồi…” Mộc Thiện đại sư rù rỉ kể, vẻ cảm khái.

Hoàng Tử Hà thản nhiên đáp: “Đại sư tinh anh quắc thước, bọn chúng ta vẫn hằng ngưỡng mộ.”

Mọi người uống trà, rồi tán gẫu vài chuyện tầm phào. Mộc Thiện đại sư già nhưng chưa lão, nói chuyện lưu loát, Hoàng Tử Hà đương nhiên càng không tiếc lời tán dương: “Chẳng trách Vũ huynh thường hay tới đây. Ở đây có trà, lại có đại sư, đúng là tuyệt diệu, có thể giúp người ta thanh tâm quả dục.”

Mộc Thiện đại sư cười đáp: “Thí chủ nói sai rồi, thứ tuyệt diệu nhất ở chùa Quảng Độ này, không phải là trà và lão nạp đâu.”

“Ý đại sư muốn nói đến mạch suối ở sau thiền phòng?” Hoàng Tử Hà giơ tay búng nhẹ vào bình nước Vũ Tuyên mang đến: “Chẳng phải Vũ huynh hôm nay đến xin nước ư?”

Thấy hai người nhắc tới, Vũ Tuyên bèn thưa với Mộc Thiện đại sư: “Nước này Vũ Tuyên xin để dâng cúng cha mẹ nuôi, xin đại sư tụng cho một biến kinh, để thành tịnh thủy.”

Mộc Thiện đại sư ngồi khoanh chân trước bình nước, tay lần tràng hạt, lẩm bẩm tụng một biến kinh Pháp Ấn Phật Giảng Cho Hải Long Vương. Đoạn kinh rất ngắn, chỉ có hai ba trăm chữ, chẳng bao lâu đã tụng xong. Trong thiền phòng chỉ nghe tiếng rì rầm tụng niệm, đầy vẻ hiền hòa từ bi.

Hoàng Tử Hà nghe tụng kinh, đến 4 câu “các hành đều vô thường, tất cả đều là khổ, các pháp không có ngã, tịch diệt an vui nhất” thì không khỏi cúi xuống, lòng ngổn ngang muôn mối, hoang mang khó nói nên lời.

Đến khi Mộc Thiện đại sư ngừng tụng, thiền phòng vẫn lặng ngắt như tờ, chỉ có mùi đàn hương thoang thoảng.

Vũ Tuyên bưng bình nước đứng dậy cảm tạ Mộc Thiện đại sư rồi cáo từ. Trước khi đi, ánh mắt hắn dừng ở Hoàng Tử Hà, do dự hồi lâu, cuối cùng cũng lên tiếng hỏi: “Hai vị có muốn đi cùng không?”

Hoàng Tử Hà chậm rãi lắc đầu: “Ta sẽ đến bái tế cả nhà Hoàng quận thú, nhưng không phải bây giờ.”

Vũ Tuyên lặng lẽ nhìn cô.

Hoàng Tử Hà thong thả nói rành rọt từng chữ: “Nếu không thể rửa sạch mối oan cho họ, ta còn mặt mũi nào tới gặp? Đợi khi nào phá xong vụ án nhà họ Hoàng, ta sẽ tự tới trước mộ, lấy chân tướng cúng tế vong linh họ!”

Vũ Tuyên gật đầu đáp khẽ: “Nên như thế.” Nói rồi, hắn chăm chú nhìn cô hồi lâu, thấy cô không nói thêm gì nữa thì dặn dò: “Ta đi trước, nếu có gì cần cứ đến vườn Tình tìm ta.”

Đợi Vũ Tuyên đi khỏi, Mộc Thiện đại sư nhìn chằm chằm Hoàng Tử Hà thật lâu rồi cười nói: “Thí chủ đến từ Trường An, nhưng có vẻ rất coi trọng vụ án nhà Hoàng quận thú.”

Hoàng Tử Hà gật đầu: “Vợ chồng Hoàng quận thú có ơn với ta.”

Ơn nuôi nấng 17 năm, giờ con muốn báo hiếu mà cha mẹ đã khuất núi, cô nhìn ra cành cây lay động ngoài cửa sổ, buồn đau khôn xiết.

Mộc Thiện đại sư vẫn nhìn xoáy vào cô, giọng trầm trầm mà rộng rãi: “Chẳng hay là… ân tình gì?”

Nghe giọng nói dịu dàng, đầy vẻ ôn hòa bao dung, khiến người ta bất giác buông lỏng hết thảy phòng bị, Hoàng Tử Hà ngoái lại nhìn ông ta.

Trên gương mặt tai tái đầy nếp nhăm và đốm đồi mồi, cặp mắt luôn nheo lại vì tuổi tác lúc này sâu hút như hai miệng hang, khiến cô khó rời mắt, tựa hồ sắp bị hút vào trong.

Cô mơ màng buột miệng: “Là ơn lớn trên đời…”

Mộc Thiện đại sư ngừng một lát rồi hỏi: “Thí chủ đến đây vì cái chết của Hoàng quận thú ư? Ai phái các vị đến vậy?”

Hoàng Tử Hà vẫn chưa hoàn hồn, vô thức đáp: “Ta vì bản thân mình, cũng vì…”

Chưa nói dứt câu, cô bỗng thấy mu bàn tay nóng giãy, buột miệng kêu khẽ, giơ tay nhìn.

Thì ra Lý Thư Bạch rót trà vô ý làm bắn một giọt lên tay cô.

Nước trà nóng giãy, làm tay cô nổi lên một đốm đỏ hồng. Cô vội xoa xoa mu bàn tay, nhớ lại những lời vừa đối đáp với Mộc Thiện đại sư, nhưng chỉ thấy mông lung mơ hồ, chẳng biết là thật hay giả, nhất thời đầu chợt ngâm ngẩm đau.

Lý Thư Bạch nắm lấy cổ tay cô qua lớp áo, nhìn mu bàn tay, thấy chỉ phỏng một đốm nhỏ, bèn nói: “Xin lỗi, lúc nãy ta rót nhanh quá, không để ý.”

“Haha, trà này mới pha, hai vị lúc rót phải cẩn thận.” Mộc Thiện đại sư vẫn thản nhiên như thường, vừa nói vừa rót cho mỗi người một chén: “Mời hai thí chủ.”

Lý Thư Bạch chỉ nhấp môi gọi là rồi đặt xuống.

Hoàng Tử Hà hít sâu một hơi, gắng nén nghi hoặc trong lòng, phụ hoạ: “Quả là trà ngon, hình như không phải trà đất Thục, chẳng hay đại sư từ đâu mà có?”

Mộc Thiện đại sư gật đầu cười đáp, vẻ hãnh diện: “Đây là trà Dương Tiễn, lấy ở chỗ Vương công công đấy.”

“Vương công công ư?” Trong đầu Hoàng Tử Hà bỗng hiện ra hình ảnh viên hoạn quan áo tìm âm hiểm ấy. Gương mặt trắng bệch như tuyết, ánh mắt lạnh buốt như rắn, Vương Tông Thực quyền thế khuynh đảo triều đình.

Mộc Thiện đại sư gật đầu: “Đúng thế, là Vương Tông Thực, đô uý giám quân của quân Thần Sách.”

Giữa ngày hè nóng nực mà Hoàng Tử Hà vã mồ hôi lạnh.

Dường như cô vừa trông thấy vực thẳm tăm tối nhất trên đời, còn bản thân đứng ngay bên mép vực, cúi nhìn xuống bóng tối sẵn sàng nuốt chửng mình bất cứ lúc nào.

“Thì ra đại sư cũng quen biết Vương công công.” Hoàng Tử Hà gắng nén cảm xúc, cười nói.

Khoé mắt chảy xệ của Mộc Thiện đại sư hơi giần giật, lộ vẻ đắc ý: “Không dám không dám, chỉ gặp mặt mấy lần mà thôi.”

“Mười mấy năm trước đại sư từng vào kinh diện thánh ư?”

“Phải, giờ tính ra cũng 11 năm rồi.” Ông ta bấm ngón tay tính toán, “Lão nạp vào kinh năm Đại Trung thứ 13, đến tháng 8 cùng năm thì rời kinh.”

Tháng 8 năm Đại Trung thứ 13, là thời điểm tiên đế Tuyên Tông băng hà.

Hoàng Tử Hà thản nhiên hỏi tiếp: “Chẳng hay đại sư vào kinh có việc gì?”

“Bấy giờ long thể tiên đế bất an, nên lão nạp cùng mấy chục cao tăng các nơi được gọi vào kinh để cầu phúc. Lão nạp may mắn lọt mắt Vương công công, mới trở thành tăng nhân duy nhất được vào cung bái kiến thánh thượng.”

Hoàng Tử Hà nghĩ ngay đến cha Trương Hàng Anh. Bấy giờ tiên hoàng bệnh nặng, có bệnh thì vái tứ phương, trong cung chẳng những triệu các danh y mọi nơi vào chẩn trị, còn cho mời nhiều cao tăng nổi tiếng vào kinh cầu phúc. Mộc Thiện đại sư ngày ấy là bậc đại đức lừng danh thiên hạ, nên được Vương Tông Thực mời vào cung.

“Tiếc rằng tuy Phật pháp vô biên, nhưng Phật tính của lão nạp chưa đur kiên định, cuối cùng cũng chẳng thể xoay chuyển trời đất.” Mộc Thiện đại sư thở dài than, “Hôm ấy lão nạp vào cung tụng kinh, tuy cũng giúp tiên hoàng tỉnh lại được một lát, nhưng cuối cùng chỉ là hồi dương, chẳng bao lâu sau đã về trời…”

Hoàng Tử Hà nhíu mày, nhớ rõ bấy giờ là cha Trương Hàng Anh dùng thuốc kết hợp châm cứu, mới khiến tiên hoàng tỉnh lại, nhờ thế mà được ban thưởng ngự bút, giờ đây Mộc Thiện đại sư lại ngang nhiên tranh công, tự dát vàng lên mặt mình.

Bèn làm bộ phân vân hỏi: “Nhưng người trong kinh đều nói là nhờ một đại phu ở Đoan Thuỵ Đường chữa trị, tiên hoàng mới tỉnh lại…”

Mộc Thiện đại sư không ngờ cô lại biết chuyện năm xưa, nhất thời lúng túng, đành hàm hồ giải thích: “Ồ, lão nạp còn nhớ đại phu đó, bấy giờ người đó đã đứng tuổi, cũng là kẻ lớn mật không sợ chết. Bao nhiêu thái y trong Thái Y Viện còn không dám dùng thuốc mạnh, sợ sức thuốc làm hại đến long thể, vậy mà ông ta cả gan nhận định, nếu cứ kéo dài tình trạng hôn mê bất tỉnh thế này, chi bằng cứu chữa để bệ hạ tỉnh lại chốc lát, hòng trù liệu việc xã tắc về sau.”

Lý Thư Bạch liền hỏi: “Long thể tiên hoàng quý giá vô ngần, ông ta chữa trị như thế, sao các thái y không ngăn cản?”

Ánh mắt Mộc Thiện đại sư loé sáng, nhưng vẫn tránh né câu hỏi, “Bấy giờ long thể nguy ngập, tình thế bức bách, là Vương công công đưa ra quyết định.”

Hoàng Tử Hà nhớ Lý Thư Bạch từng kể, trong vũng máu tiên hoàng khạc ra có một con A Già Thập Niết, không khỏi nhíu mày, định gặng tiếp, song lại thấy việc này hết sức quan trọng, không dám hỏi bừa. Lưỡng lự hồi lâu mới hỏi: “Thế nên khi tiên hoàng tỉnh lại, bên cạnh có đại sư, Vương công công và đại phu Trương ở Đoan Thuỵ Đường ư?”

“À, lão nạp cũng nhớ ra rồi, đại phu ấy họ Trương…” Mộc Thiện đại sư gật đầu, “Lúc thánh thượng tỉnh lại, chúng ta đều tránh ở đại sảnh, cũng có hỏi họ tên nhau. Tiếc rằng nhiều năm trôi qua, cũng quên đi mất.”

Hoàng Tử Hà lại hỏi: “Nói vậy thì đại sư và Trương đại phu bấy giờ đều đợi ở sảnh ư?”

Mộc Thiện đại sư ngần ngừ hồi lâu mới đáp: “Phải.”

Lý Thư Bạch yên lặng không nói, cả y và cô đều hiểu Mộc Thiện đại sư nói dối. Bấy giờ Lý Thư Bạch luôn túc trực ở đại sảnh, nếu Mộc Thiện đại sư có ở đó, nhất định sẽ chạm mặt y. Nhưng một người trí nhớ siêu phàm như y lại không hề nhận ra ông ta, chứng tỏ hai người chưa từng gặp mặt. Cũng tức là, khi phụ hoàng y tỉnh lại, Mộc Thiện đại sư có lẽ đã ở ngay bên cạnh.

Có điều hôm nay vội vã đến đây, lại dùng thân phận bổ khoái, hiển nhiên không thể hỏi rõ, nên hai người đều lờ đi không vạch trần.

Thấy Lý Thư Bạch khẽ gật đầu với mình, Hoàng Tử Hà bèn chắp tay hành lễ cáo biệt: “Đa tạ đại sư ban trà ngon. Đã được thấy pháp dung, coi như cũng đạt thành tâm nguyện. Đệ tử không dám quấy rầy đại sư thanh tu nữa. Mấy hôm nữa lại đến xin bái phỏng.”

Mộc Thiện đại sư đảo mắt nhìn lướt qua cô rồi tươi cười đứng dậy tiễn hai người ra cửa.

Bình luận