Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Trâm 3: Tình Lang Hờ

Chương 20: Dấu hồng trên tuyết

Tác giả: Châu Văn Văn

Trời đã tối, bóng tối bao trùm cả phủ Thành Đô. Nhưng Quỳ vương chỉ cần nói một tiếng, lập tức những kẻ liên quan đã tề tựu trước giờ lên đèn. Tuy không hiểu xảy ra chuyện gì, nhưng cả tiết độ sứ Tây Xuyên Phạm Ứng Tích cũng dẫn con trai hối hả đến phủ quận thú.

Vương Uẩn cũng theo đến. Y vận áo lụa tím nhạt, lúc trông thấy Hoàng Tử Hà, gương mặt vẫn lộ vẻ tươi cười ôn hòa, song nhìn kỹ là thấy khí sắc không được tốt lắm.

Quận thú Chu Tường đã bày sẵn ghế trong nhà thủy tạ cạnh hồ nước, rồi cho con gái dùng quạt che mặt, đi vào màn lụa ngồi.

Công Tôn Diên và Ân Lộ Y cùng đến, thấy tất cả những người có mặt ở hiện trường khi Tề Đằng bị sát hại đều tới đông đủ, bèn gật đầu chào Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần rồi bước vào nhà thủy tạ ngồi.

Vũ Tuyên cũng tới, mặc một chiếc áo dài màu thanh thiên, lặng lẽ ngồi xuống một góc, vẫn khiêm nhường như mọi lúc.

Khó hiểu nhất là Mộc Thiện đại sư ở chùa Quảng Độ cũng được mời đến, ngồi trên bồ đoàn đặt sẵn bên ngoài thủy tạ, dù lần trước khi Tề Đằng chết, Mộc Thiện đại sư không hề có mặt.

Tất cả nhạc công, nô bộc, a hoàn có mặt hôm đó, thậm chí cả Thang Thăng, đứa cháu lêu lổng của Thang Châu Nương cũng bị gọi tới.

Đợi cho ai vào chỗ nấy, Lý Thư Bạch nhìn Hoàng Tử Hà gật đầu. Cô bèn đứng dậy cao giọng bảo mọi người: “Hôm nay mời các vị đến đây, là vì vụ án Tề Đằng Tề phán quan của phủ tiết độ sứ bị giết tại phủ quận thú mấy hôm trước.”

Lời này vừa nói ra, tất cả đều lặng phắc. Phạm Ứng Tích vuốt râu trầm ngâm, Chu Tường nhíu mày nghĩ ngợi, Công Tôn Diên ôm lấy vai Ân Lộ Y an ủi, chỉ có Phạm Nguyên Long lên tiếng đầu tiên: “Gì cơ? Vụ Tề Đằng ấy à? Dương công công đã có manh mối rồi ư?”

“Ta đã biết thân phận hung thủ, cách hắn giết chết Tề phán quan ngay trước mặt mọi người và phi tang hung khí ra sao rồi.”

Phạm Ứng Tích nhìn sang thấy Lý Thư Bạch im lặng ngồi sau lưng Hoàng Tử Hà, biết y đã nắm rõ sự tình, lập tức phụ họa theo: “Dương công công, việc này không thể coi thường được! Kẻ muốn đối đầu với phán quan phủ tiết độ, ắt là có thù với ta, hoặc ôm lòng bất mãn với quận thú, với vương gia, hay với triều đình, nhất định phải trừng trị thật nghiêm!”

“Phạm tướng quân có lòng lo cho vương gia và triều đình, thật là hiếm có, song căn nguyên sâu xa của vụ này chẳng liên quan gì tới quốc gia đại sự, mà chỉ ở một chữ ‘tình’ đấy thôi.” Hoàng Tử Hà bình thản đáp.

Phạm Ứng Tích nghe vậy thì ngạc nhiên ra mặt, nhưng Lý Thư Bạch tinh ý nhìn ra, ánh mắt họ Phạm đã nhẹ nhõm đi nhiều. Dù sao, nếu vụ việc không liên quan tới Quỳ vương và triều đình thì Phạm tiết độ sứ chẳng phải gánh vác trách nhiệm. Còn về cái chết của thuộc hạ, Phạm Ứng Tích vốn chẳng mấy để tâm.

“Lúc Tề phán quan qua đời, trừ Mộc Thiện đại sư ra, mọi người ở đây đều có mặt.” Hoàng Tử Hà nhìn lướt qua bọn họ, thấy có kẻ căng thẳng, có người chăm chú, có người kinh ngạc, người lại ngẩn ra. Phớt lờ tất cả, cô chậm rãi trỏ nhà thủy tạ nói tiếp: “Trong vụ này, có hai điểm mấu chốt cản trở chúng ta phá án, bắt giữ hung thủ. Điểm thứ nhất là thời gian.”

Mọi người gật đầu tán đồng.

“Hung thủ ra tay giết Tề phán quan trong khoảng thời gian ngắn ngủi điệu múa diễn ra. Bởi trước khi Công Tôn đại nương biểu diễn, mọi người phân vai vế ngồi vào chỗ, bấy giờ Tề phán quan còn bê ghế tròn đến ngồi cạnh màn lụa trò chuyện với Chu tiểu thư. Thậm chí sau khi điệu múa bắt đầu, phán quan vẫn nói chuyện cùng Chu tiểu thư, mãi tới khi Phạm thiếu gia chạy ra bụi cây nôn mửa mới thôi, từ đó về sau không nói thêm gì nữa.”

Chu Tử Tần gật đầu, “Bởi thế, thời điểm Tề phán quan tử vong là từ sau khi Phạm thiếu gia nôn mửa trở đi, cũng chính là lúc Công Tôn đại nương đi ra sau màn, cánh hoa từ trên lả tả trút xuống, bươm bướm cũng dập dờn bay ra.”

“Nhưng lúc đó tất cả đều không thể ra tay, bởi gần như mỗi người đều có vô vàn ánh mắt nhìn vào, Quỳ vương cho đến Phạm tiết độ, Chu quận thú… Thậm chí a hoàn và người hầu tướng phủ cũng không thể lẻn ra phía sau giết người được. Các chứng cứ ở hiện trường đều cho thấy không có dấu hiệu kẻ gian đột nhập từ bên ngoài, cũng tức là hung thủ ở ngay đó, là một trong số chúng ta ở đây.”

Phạm Nguyên Long là hạng nhỏ mọn, oán hận bằng móng tay cũng chăm chăm tính sổ, bèn lạnh lùng lên tiếng: “Lúc trước ta cho rằng hung thủ là Vũ Tuyên, song giờ lại thấy Chu tiểu thư cũng có khả năng, dù sao bấy giờ hai người họ ngồi tít phía sau đám dông, cô ấy là người duy nhất có thể gây án mà không bị kẻ khác trông thấy.”

Chu Tường tái mặt, trừng mắt nhìn Phạm Nguyên Long, song trước mặt Quỳ vương và Phạm tiết độ, ông ta không tiện tranh cãi, đành cắn răng nén giận.

Chu Tường nhịn nhưng Chu Tử Tần không nhịn, bước lên vặc lại: “Thiếu gia tưởng suy đoán ngớ ngẩn đó chúng ta chưa nghĩ đến sao? Tiếc rằng khả năng này đã được các chứng cứ thực tế bác bỏ rồi! Bấy giờ hung thủ một tay bịt miệng Tề phán quan, một tay cầm hung khí đâm vào ngực, để lại dấu móng tay trên mặt Tề phán quan. Chiếu theo dấu vết đó, nếu em gái ta ra tay thì sẽ ngã ra khỏi màn lụa, không thể giữ thăng bằng được!”

“Nhưng em gái ngươi có thể lẻn ra khỏi màn vòng tới sau lưng Tề phán quan rồi xuống tay mà!”

“Đúng, nhưng thứ nhất là, nếu vợ chưa cưới đi tới sau lưng, lẽ nào Tề phán quan vẫn ngồi yên tại chỗ như thế ư? Thứ hai là, a hoàn hầu cận Tử Yên tuy đã lánh ra xa, nhưng vẫn thường nhìn sang, phòng khi tiểu thư cần sai bảo. Nên chỉ cần có chút trí tuệ, nó sẽ biết không thể ra khỏi màn lụa, vòng tới sau lưng Tề phán quan giết người được.”

Phạm Nguyên Long mới nói mấy câu đã bị Chu Tử Tần lườm và Phạm Ứng Tích mắng át đi, đành tiu nghỉu rụt đầu ngồi yên tại chỗ.

Thấy đám đông kẻ trầm ngâm, người kinh sợ, nhất thời không ai lên tiếng, Lý Thư Bạch bèn hỏi: “Vậy theo ngươi thì kẻ nào có thể tìm được phương pháp giết Tề phán quan ngay trước mắt bấy nhiêu người, còn không bị ai phát giác?”

Hoàng Tử Hà gật đầu thưa: “Vâng, mỗi người ở đây đều nằm trong tầm mắt người khác, nhưng bấy giờ tất cả mọi người đều nhất trí rằng, người ít bị tình nghi nhất, ít khả năng ra tay nhất, chính là Công Tôn đại nương đang múa trên đài, đúng không?”

Tất cả đều gật đầu. Phạm Nguyên Long thì sốt ruột giục giã: “Bỏ qua Công Tôn đại nương đi, ngươi mau nói xem những người ngồi bên dưới làm sao tìm được cơ hội ra tay?”

“Không, không thể bỏ qua Công Tôn đại nương được.” Hoàng Tử Hà đưa mắt lạnh nhạt nhìn Công Tôn Diên đang ngồi trên thành lan can, “Chẳng hay các vị biết cái gọi là ‘chân đèn tối’ không?”

Tiếng xì xào bàn tán rộ lên, ai nấy đều nhìn Hoàng Tử Hà, rồi lại nhìn sang Công Tôn Diên, vẻ kinh ngạc.

Công Tôn Diên lặng thinh, chậm rãi đứng dậy.

Hoàng Tử Hà khẽ nói: “Trong vụ án này, người ít khả năng gây án nhất lại có cơ hội sắp xếp mọi thứ thật hoàn mỹ, chỉ cần nắm bắt được thời gian, hoàn toàn có thể nhân lúc mọi người chăm chú xem múa, ung dung lẻn từ trên đài xuống phía dưới giết Tề phán quan, rồi thong thả bỏ đi.”

Giữa tiếng xôn xao, Công Tôn Diên đứng trong nhà thủy tạ, mấy chục ngọn đèn sáng bừng xung quanh, ánh đèn vàng cam phủ lên người giai nhân một vầng hào quang huyền ảo, dáng người dong dỏng ấy cũng thướt tha yểu điệu chẳng khác nào bóng hoa rung rinh dưới đèn, khiến người ta không sao nhìn rõ.

Công Tôn Diên đưa mắt nhìn khắp lượt, vẻ mặt bi ai khôn xiết, nhưng ánh mắt lại trong veo, bằng dáng vẻ thuần khiết nhất, giai nhân quay sang nhìn Hoàng Tử Hà, hạ giọng cực thấp nhưng vừa đủ lọt tai tất cả mọi người: “Nghe Dương công công nói, hình như có ý nghi ngờ ta?”

“Không phải nghi ngờ. Ý ta là, Công Tôn đại nương đã giết Tề Đằng.” Hoàng Tử Hà chậm rãi đáp, giọng nghiêm trang, rất rành rọt. “Chứng cứ rành rành, không thể chối cãi.”

Công Tôn Diên cụp mắt xuống, chưa kịp phản bác thì Ân Lộ Y phía sau đã đứng phắt dậy, hốt hoảng nói: “Dương công công và chúng ta từng là chỗ quen biết, trước đây công công còn nhận lời giúp chúng ta điều tra cái chết của A Nguyễn, sao bây giờ… vì không tìm được hung thủ trong vụ Tề phán quan, lại đổ hết tội lên đầu chúng ta?”

“Đúng vậy. Ta cũng muốn biết, chứng cứ rành rành, là rành rành thế nào? Không thể chối cãi, là vì sao không thể chối cãi?” Công Tôn Diên cũng nhìn thẳng vào cô, ánh mắt sáng rực mà kiên quyết, giọng nói điềm tĩnh, không mảy may dao động: “Dương công công nói Tề phán quan chết vào lúc ta biểu diễn, nhưng lúc ấy ta đứng trên đài, trước con mắt của bấy nhiêu người, không rời nửa bước, làm sao giết được Tề phán quan ở tít phía cuối?”

Chu Tử Tần có thói bênh vực mỹ nhân hết lòng, tuy xưa nay luôn nghe lời Hoàng Tử Hà, nhưng lúc này cũng không cầm lòng được mà hỏi nhỏ: “Sùng Cổ này, không thể nào đâu… Bấy giờ ta cũng dán mắt vào vũ đài mà. Ta dám cam đoan Công Tôn đại nương và Ân tứ nương không rời khỏi đó nửa bước!”

“Đúng, thoạt nhìn thì dường như không rời nửa bước, nhưng giữa chừng chẳng phải có một lúc chỉ thấy thấp thoáng bóng dáng Công Tôn đại nương thôi ư?”

Nghe đến đây, mọi người mới vỡ lẽ. Phạm Nguyên Long la lên đầu tiên: “Ý công công chẳng lẽ là lúc Công Tôn đại nương lui ra sau màn thả bươm bướm ra?”

Chu Tường thấy Hoàng Tử Hà gật đầu, lại thấy Quỳ vương bên cạnh chỉ im lặng uống trà, thì không nhịn nổi đành lên tiếng thắc mắc: “Công công lúc ấy không thấy bóng Công Tôn đại nương sau màn ư? Tấm màn đó tuy rực rỡ, lại thêu vô số hoa lá, nhưng chất vải rất mỏng, tất cả đều trông thấy bóng người in lên màn, quả thật không rời một khắc.”

Chu Tử Tần cũng gật đầu phụ họa: “Chính xác! Bấy giờ tứ nương đang giằng co với Phạm thiếu gia ở ngoài nhà thủy tạ, bên trong không có ai thế chỗ cho Công Tôn đại nương cả. Ta dám đảm bảo, từ đầu đến cuối đại nương chỉ đứng trong nhà thủy tạ thôi!”

“Đây chính là kế ve sầu lột xác đầu tiên trong vụ án này. Tứ nương là bậc thầy về ảo thuật, đương nhiên biết cách khiến một người trên sân khấu biến mất trong nháy mắt. Đạo cụ cần thiết cũng rất đơn giản, chỉ cần một tấm màn sao, một bộ áo gấm mà thôi.”

Nói đến đây, Hoàng Tử Hà nhìn sang Chu Tử Tần: “Chẳng hay Công Tôn đại nương và Ân tứ nương có đem tất cả đạo cụ hôm ấy đến đây như yêu cầu không?”

Ân Lộ Y len lén liếc Công Tôn Diên, thấy Công Tôn Diên vẫn bình thản gật đầu, bước tới mở nắp rương đồ, lấy vũ y, đôi kiếm và bức màn sa ra: “Mời công công kiểm tra.”

Lúc xảy ra án mạng, bàn ghế trong nhà thủy tạ đã phải dọn hết đi, nhường chỗ cho Công Tôn Diên biểu diễn. Chu Tử Tần vội sai người khiêng một chiếc bàn cao đến, đặt tất cả lên đó.

Hoàng Tử Hà ra hiệu cho Chu Tử Tần trải rộng màn ra. Dưới ánh đèn, trên tấm màn mỏng thêu đầy những hoa cỏ rung rinh phấp phới, cành nhánh vấn vít vươn cao như dây leo, cứ cách nửa thước lại đâm ra hai cành cây đối xứng nhau, hơi rủ xuống, nở đầy hoa, đẹp vô ngần.

Hoàng Tử Hà lại bảo Chu Tử Tần thả cho màn buông xuống đất, sau đó tìm một vị trí trên bức màn ngang với vai mình. Dáng cô dong dỏng, cao xấp xỉ Công Tôn Diên, chẳng mất chốc đã tìm thấy hai cành cây ngang bằng vai.

Cô săm soi thật kỹ quanh hai cành cây nọ, quả nhiên tìm thấy bên trái có ba lỗ kim châm sắp thành hàng ngang, rõ ràng từng bị đính cái gì đó vào, sau khi gỡ ra đã dùng móng tay cạo qua, nhưng không xóa được những dấu vết nhỏ.

Hoàng Tử Hà để Chu Tử Tần chìa ba lỗ kim ra cho tất cả cùng xem rồi nhận xét: “Theo vết kim châm mà suy thì trên hai cành cây này từng đính một thứ có dạng dài… như ta đoán, hẳn là giá treo quần áo.”

Chu Tử Tần liền hỏi: “Ý công công là, khi Công Tôn đại nương lùi ra sau, đã lẳng lặng cởi bộ áo gấm khoác ngoài ra, treo lên bức màn, vờ như mình vẫn đang ở đó, rồi… men theo bụi cây ven hồ, lẻn tới giết Tề phán quan ư?”

Trong tiếng xì xào nghi hoặc, Công Tôn Diên chỉ lặng thinh đứng đó, không đáp.

Hoàng Tử Hà trỏ một vật trên bàn: “Muốn dùng cách này, cần ba điều. Thứ nhất là một bộ đồ dày, ánh đèn không rọi qua được.”

Cô đặt lên tay bộ áo gấm dày dặn Công Tôn Diên từng mặc, thong thả tiếp: “Bấy giờ chúng ta từng nói riêng với nhau rằng, bộ đồ này thật không bì được bộ vũ y mỏng nhẹ bên trong, hơn nữa rõ ràng sẽ làm vướng tay vướng chân, thậm chí còn ảnh hưởng đến vài động tác nhỏ, che mất vài chi tiết tinh tế, vậy mà sao Công Tôn đại nương lại chọn mặc múa mở màn, mãi tới khi thả bươm bướm mới chịu thay ra?”

Ân Lộ Y tái mặt, từ từ giơ tay khoác tay Công Tôn Diên. Cảm giác được bàn tay Ân Lộ Y lạnh ngắt, nhưng Công Tôn Diên chỉ đặt nhẹ tay lên mu bàn tay họ Ân, ánh mắt vẫn không rời Hoàng Tử Hà.

Hoàng Tử Hà lại đặt tay lên cổ áo gấm: “Thứ hai là một tấm vải đen cắt thành hình đầu của đại nương, giấu trong áo, khi cần thì rút ra. Hẳn vật này dã bị các vị gỡ khỏi cổ áo rồi, nhưng đợi lát nữa chúng ta tìm kỹ, ắt sẽ thấy dấu vết để lại thôi.”

Đoạn cô đặt bộ đồ xuống, nói tiếp: “Thứ ba là ánh đèn, sau khi Công Tôn đại nương lui ra sau màn, ánh đèn đột nhiên tối hẳn. Mà người điều chỉnh ánh sáng, chính là Ân tứ nương. Tứ nương đã dành khoảng thời gian này để Công Tôn đại nương cởi áo, treo lên giá, gắn chiếc đầu giả lên cổ áo, rồi rời khỏi vũ đài. Đồng thời, tứ nương cũng rải hoa để đánh lạc hướng mọi người, thu hút tất cả ánh mắt hướng lên vũ đài, không ai chú ý đến động tĩnh sau bụi cây nữa. Đúng lúc này, Phạm thiếu gia lại vô tình giúp họ một tay, thiếu gia thấy Ân tứ nương xinh đẹp, bèn cợt nhả, khiến mọi người chỉ mải theo dõi vụ giằng co, Công Tôn đại nương hết sức an toàn.”

Nghe tới đây, Công Tôn Diên nhếch môi mỉm cười như tự giễu: “Nếu đúng như công công nói, thì ta mạn phép được hỏi, thời gian ta lui ra sau màn đứng bất động có lâu không? Chẳng qua chỉ đủ rải hết mấy lồng cánh hoa mà thôi, khoảng thời gian ngắn như thế, lẽ nào có thể đi rồi lại về, còn lẻn ra được sau lưng giết chết Tề phán quan ư?”

“Đúng vậy, thời gian ngắn như thế, dù Công Tôn đại nương có chạy hết tốc lực, cũng không kịp cả đi lẫn về đâu…” Phạm Nguyên Long chất vấn.

“Phải phải, sai khi rắc hết cánh hoa, Công Tôn đại nương lại tiếp tục biểu diễn, lần lượt thả từng cánh bướm trong tay áo, bướm bay ra càng lúc càng nhanh, đến cuối cùng mới bay ra hết. Nếu bấy giờ đại nương không ở đó, thì bầy bướm đã tán loạn ùa ra rồi, sao có thể khống chế để chúng lần lượt bay ra từ từ như thế sao được?” Đến đây Chu Tử Tần bắt đầu suy tưởng hão huyền, “Lẽ nào Công Tôn đại nương có cách tức tốc quay về ngay trước khi rắc hết cánh hoa? Là phép rút đất, hay là một bước sải mười trượng?”

“Đương nhiên không phải. Phép rút đất hay một bước sải mười trượng, đều là truyền thuyết thôi. Công tử không thử nghĩ theo cách khác xem? Thật ra Công Tôn đại nương không thể trở lại nhanh như vậy, lúc đàn bướm bay ra, đại nương cũng chẳng cần quay lại, bởi có một thứ có thể thao túng bầy bướm, khiến chúng không thể ùa ra cùng lúc, mà chỉ từng con một dập dờn bay ra, thậm chí dần dần càng lúc càng nhanh, càng lúc càng nhiều…”

Chu Tử Tần chớp chớp cặp mắt long lanh nước, nghi hoặc nhìn cô, “Lẽ nào… có máy móc gì đó kéo dài thời gian? Sau khi đại nương đi khỏi, mới từ từ khởi động?”

“Không phải, bấy giờ trên đài chỉ có một tấm màn lụa, một chiếc áo gấm, làm sao đặt loại máy đó được, mà cũng chẳng cần phiền phức như thế. Thứ được họ dùng lúc đó, chính công tử còn giúp một tay phi tang đấy.”

Chu Tử Tần há hốc miệng: “Thật… thật à? Không thể nào, ta có giúp họ lúc nào đâu… Ta đâu có tiếp xúc nhiều với Công Tôn đại nương, cũng chẳng làm gì cả?”

“Từ đầu chí cuối công tử sơ sót không nghĩ đến đấy thôi.” Nói rồi, Hoàng Tử Hà rút ra một túi mạch nha nhỏ, giơ lên cho mọi người xem. “Theo ta biết, Ân tứ nương mắc chứng thiếu máu, nên thường đem theo một túi kẹo. Tứ nương không dùng loại kẹo cứng như kẹo gừng hay kẹo tuyết mà dùng loại mạch nha dẻo.”

Lúc này Ân Lộ Y buộc lòng phải lên tiếng ngắt lời cô, giọng nói đầy sợ sệt, song vẫn ngầm giấu vẻ đanh thép: “Ta thích ăn mạch nha, lẽ nào… cũng là sai ư?”

“Dĩ nhiên là không, có người thích kẹo cứng thì cũng có kẻ thích kẹo dẻo. Nhưng ta chưa thấy ai mua cả phên mạch nha như tứ nương cả.” Hoàng Tử Hà lần lượt chia mạch nha cho mọi người ở đó, rồi tiếp tục giải thích, “Huống hồ, sau khi mua cả phên mạch nha về, tứ nương không cắt ra, mà chỉ véo từng mẩu để nặn các con giống, đó cũng là ý thích của tứ nương, người khác không tiện bình luận. Nhưng ta có một việc muốn hỏi, tờ giấy hồ chủ tiệm dùng để bọc cả hai mặt trên dưới của phên mạch nha đề phòng mạch nha chảy hoặc dính vào nhau, giờ đâu rồi?”

Những miếng mạch nha trong tay mọi người đều được lót giấy hồ, loại giấy này rất mỏng, xé nhẹ là rách, vốn dùng hồ quấy thành, là thứ giấy không thể thiếu để gói mạch nha.

Công Tôn Diên và Ân Lộ Y giờ mới tái mặt, đôi mắt kiên quyết trong veo của Công Tôn Diên cũng lóe lên.

Hoàng Tử Hà rời mắt khỏi bà ta, nói tiếp: “Lồng nhốt bướm đã chuẩn bị sẵn, sau khi mở ra cho bướm vào thì phết giấy hồ lên, đặt sau màn. Lúc đại nương cởi đồ, chỉ cần dấp chút nước bọt bôi lên, giấy hồ gặp nước sẽ rã ra, cuối cùng thành một lỗ hổng đủ cho bướm bay lọt. Bầy bướm bên trong sẽ bay ra lần lượt từng con một, bất kể đại nương có ở đó hay không thì lỗ thủng trên mặt giấy cũng sẽ từ từ lan rộng ra, đám bướm cũng sẽ càng lúc càng bay ra nhanh hơn…”

Nói tới đây, cô giơ tay trỏ khoảng cách từ nhà thủy tạ đến bến thuyền hỏi: “Khoảng thời gian từ khi cánh hoa bắt đầu rơi xuống, đến khi bầy bướm bay ra hết, có đủ để đại nương đi về và giết người không?”

Tất cả mọi người ở đó đều sững sờ kinh ngạc trước phương pháp không sao tưởng tượng nổi và cách nắm bắt thời gian chuẩn xác đến từng khắc ấy, nhất thời cả nhà thủy tạ lặng phắc, không một ai lên tiếng.

Rốt cuộc Công Tôn Diên thong thả cất tiếng, giọng điệu vẫn bình thản ung dung: “Dương công công bày ra cho ta bấy nhiêu phương pháp phức tạp như thế, không thể nói là không xảo diệu, cũng không thể chê là không dốc lòng. Chỉ là ta thật không ngờ, có mỗi việc tứ muội ta thiếu máu phải ăn mạch nha, công công cũng suy luận xa như thế; bộ vũ y của ta hơi dày, cũng thành công cụ gây án; thậm chí ta tuổi tác đã lớn, giữa màn phải nghỉ một lát, cũng bị cho là thừa cơ lẻn đi giết người…”

Nói đến đây, khóe môi Công Tôn Diên cong lên, quyến rũ bội phần: “Vậy xin hỏi công công, có chứng cứ gì không? Ta có thời gian trống, tức là ta giết người à? Không có động cơ không có hung khí, chỉ bằng vào lời nói của công công mà chứng minh được ta giết người ư?”

“Thứ nhất, trong tất cả mọi người ở đây hôm ấy, chỉ mình đại nương có thời gian gây án.” Hoàng Tử Hà chẳng buồn đếm xỉa đến nụ cười giễu cợt của Công Tôn Diên, còn lạnh lùng bình tĩnh hơn cả bà ta: “Thứ hai, dĩ nhiên ta đã tìm thấy hung khí, hơn nữa hung khí càng khẳng định đại nương là hung thủ.”

Chu Tử Tần không dằn lòng được hỏi ngay: “Nhưng các bổ khoái ở nha môn đã lùng sục tìm kiếm mà có thấy gì đâu? Rốt cuộc hung khí bị giấu ở đâu vậy?”

“Điểm này vẫn phải nhờ công tử hỗ trợ.” Nói rồi cô ghé tai hắn thì thào mấy câu, Chu tử Tần lập tức đứng bật dậy vỗ trán kêu lên: “Sao ta không nghĩ ra nhỉ? Đúng là đồ ngốc!” Đoạn hắn quay mình vụt chạy đi, nhìn hướng thì là chạy về nha môn.

Chu Tường ngượng ngập cáo lỗi với Lý Thư Bạch: “Thằng nghịch tử ấy chẳng ấy có phép tắc gì cả, chạy đi cũng không cáo từ một câu…”

Lý Thư Bạch đặt chén trà xuống mỉm cười đáp: “Bản vương thích nhất tính khí hồn nhiên vô tư, không câu nệ phép tắc của Tử Tần đấy.”

Chu Tường lộ vẻ kinh hãi, ấp a ấp úng mãi chỉ nói được mấy câu đâu dám, đâu dám.

Phạm Ứng Tích đưa mắt nhìn sang con trai, tuy ngoài mặt thản nhiên, nhưng rõ ràng ông ta đã hơi quay nghiêng mặt đi nửa tấc, để hình ảnh đứa con lọt khỏi mắt mình.

Lát sau Chu Tử Tần quay lại, dắt theo một con chó cỏ gầy nhm xấu xí, tay còn ôm một bộ đồ, chính là bộ Phạm Nguyên Long mặc hôm ấy, về sau bị vấy máu, lại lấm vết rượu, họ Phạm đã cởi ra vứt đi, ai ngờ nha môn còn giữ lại.

Chu Tử Tần ngồi xuống, gí vết máu khô trên áo vào mũi con chó, xoa đầu nó bảo: “Phú Quý ngửi đi, rồi tìm thử xem! Tìm được sẽ cho mày ăn sườn.”

Con chó khịt khịt mũi đánh hơi, song không hiểu Chu Tử Tần nói gì, còn tưởng hắn định cho nó ăn, bèn há miệng ngoạm ngay miếng vải nhay nhay.

“Đồ ngu ngốc này…” Chu Tử Tần giật phắt tấm áo lại, tức tối nhìn hai vết răng to tướng trên đó.

“Công tử để ta.” Hoàng Tử Hà ngán ngẩm bước đến, cầm sợi dây buộc chó từ tay hắn, xoa đầu Phú Quý rồi dắt nó đi dọc theo bụi cỏ, về phía đặt bức màn lụa khi trước.

Đi đến một chỗ, cô chợt dừng bước, Phú Quý quẩn quanh chân cô mấy vòng, thấy cô vẫn đứng yên thì cắm mặt xuống đánh hơi, cào chỗ này ủi chỗ kia, cuối cùng phấn khởi nhằm vào kẽ hở giữa hai phiến đá sủa ầm lên.

Hoàng Tử Hà ghì chặt nó rồi quay lại bảo: “Bẩy tảng đá này lên đi.”

Chu Tử Tần ngớ ra: “Sùng Cổ nghĩ gì lạ thế? Phiến đá nặng thế, hung thủ giết người xong lấy đâu ra thời gian vần nó lên để giấu hung khí xuống? Huống hồ hung thủ cũng chẳng có sức làm thế.”

Hoàng Tử Hà lắc đầu: “Hung thủ đâu phải ở dưới phiến đá.”

“Thế thì bẩy nó lên làm gì?”

“Nếu không bẩy nó lên thì không tìm được chỗ giấu hung khí đâu.”

Nghe vậy, Chu Tử Tần nhanh nhảu gọi ngay hai bổ khoái đem xẻng và xà beng đến, đoạn ngồi thụp xuống săm soi hai phiến đá, hỏi Hoàng Tử Hà: “Bẩy phiến nào lên?”

“Tuỳ, chọn phiến nhỏ hơn ấy.”

“Tuỳ à…” Khoé môi Chu Tử Tần giần giật, song cũng trỏ bên nhỏ hơn, ra hiệu cho hai bổ khoái ra tay.

Bên này bẩy, bên bên kia mọi người ngồi xem.

Công Tôn Diên và Ân Lộ Y mặt tái xanh, ngồi bất động tại chỗ. Trái lại, không khó đằng Lý Thư Bạch khá vui vẻ, Phạm Ứng Tích đang kéo cả Mộc Thiện đại sư đến trò chuyện cùng Quỳ vương. Lần trước đến chùa Quảng Độ, Lý Thư Bạch đã cải trang, nên coi như đây mới là lần đầu gặp Mộc Thiện đại sư. Mặc cho Phạm Ứng Tích ca tụng Mộc Thiện đại se lên chín tầng mây, y chỉ thản nhiên nói lúc ở kinh từng nghe tiếng Mộc Thiện đại sư, hôm nay vốn không cần mời đại sư tới, nhưng nghe nói sớm mai đại sư lại lên đường vân du, sợ không kịp gặp mặt, nên mới vin vào mối giao hảo giữa đại sư và Tề lhans quan, mạo muội mời tới, quả là pháp tướng trang nghiêm, không giống người thường.

Phạm Ứng Tích và Mộc Thiện đại sư mừng khôn xiết, bấy giờ mới buông được tảng đá lớn vẫn đè nặng trong lòng xuống, đôi bên trò chuyện vui vẻ hết sức.

Chu Tường thì hỏi han Vương Uẩn về mấy người quen cũ trong kinh, rồi lan man hỏi sang cả chú, bác, anh em họ hàng của y, tổng cộng đến mười mấy người, đủ để giết thời gian một hai canh giờ.

Phạm Nguyên Long đến bên cạnh Chu Tử Tần, vừa xem bẩy đá, vừa than vãn với họ Chu, nếu hai mỹ nhân kia là hung thủ thì thật đáng tiếc, giá nào cũng phải tìm cơ hội chiếm đoạt trong nhà lao rồi tính – bèn bị Chu Tử Tần trừng mắt lườm cho phải chạy về chỗ. Tuy Chu Tử Tần đem lòng ngưỡng mộ giai nhân, song rất khinh bỉ hạng háo sắc như Phạm Nguyên Long. Huống hồ cùng xuất thân nhà quan, tính quen lêu lổng, nhưng Chu Tử Tần chỉ mê mẩn thi thể, khác hẳn Phạm Nguyên Long, nên chẳng buồn đếm xỉa đến hắn.

Bẩy phiến đá nhỏ quả nhiên đỡ tốn sức hơn nhiều, chẳng mấy chốc họ đã nạy được nó lên, để lộ ra một vết lõm, chỉ thấy vết bùn đất từ kẽ đá rơi ra.

Chu Tử Tần gọi Hoàng Tử Hà lại, trỏ nền đất hỏi: “Có cần đào xuống không?”

“Khỏi cần.” Nói rồi cô mượn Chu Tử Tần đôi găng tay, ngồi xuống lần tìm lớp đất quanh phiến đá, quả nhiên rút ra được một vật, bèn lau vào chiếc áo của Phạm Nguyên Long vứt cạnh đó.

Lớp đất bên ngoài được lau đi, Chu Tử Tần buột miệng kêu lên: “Hung khí đây rồi!” Rộng một tấc, dài bốn tấc, nhìn như một lá sắt dài, song phần lưỡi lại mảnh như giấy, đủ nhét vừa khe hở giữa hai phiến đá. Lá dắt này sắc bén vô cùng, lấp loáng sáng lên dưới đèn, khiến người ta trông mà loá mắt, đúng là thép rèn trăm bận, lưỡi lạnh như sương, nhìn mà lạnh cả gáy.

Hoàng Tử Hà bèn ướm thử vào vết máu trên áo Phạm Nguyên Long, quả nhiên trùng khớp.

Cô bèn cầm lấy nó bằng bàn tay đeo găng, trình lên cho mọi người xem: “Năm xưa Thái Tông hoàng đế từng ban cho Võ tài nhân ba vũ khí để thuần phục con Sư Tử Thông là roi sắt, búa sắt và đoản kiếm. Thanh đoản kiếm nọ vốn là vật tuỳ thân của Thái Tông, bấy giờ hải ngoại tiến cống sắt tốt, đúc thành 24 thanh, thanh này là tốt nhất nên được Thái Tông chọn mang bên người. Tương truyền sắt của hải ngoại không bao giờ han gỉ, dù trải trăm năm vẫn sắc bén như ban đầu, không thể nhìn gần.”

Đợi mọi người xem xong, cô mới đặt nó xuống chiếc bàn trong nhà thuỷ tạ, thản nhiên đáp: “Về sau, vào năm Khai Nguyên, thanh đoản kiếm này trở thành vật tuỳ thân của Công Tôn đại nương. Bấy giờ mỗi khi biểu diễn, Công Tôn đại nương đều cầm hai thanh kiếm một dài một ngắn, trường kiếm là Thừa Ảnh, nay đã thất lạc, còn đoản kiếm chính là thanh này. Về Thừa Ảnh cũng có một truyền thuyết, chẳng rõ mọi người có nhớ không?”

Nói đến đây, cô nhìn sang Lý Thư Bạch. Quỳ vương học rộng nhớ lâu, sách vở đọc qua là nhớ như in, bèn tiếp lời: “Trong Liệt Tử Thang Vấn có nói, Khổng Chu có ba thanh kiếm, một là Hàm Quang, nhìn mà không thể thấy, dùng mà không biết có. Chạm vào vật không để lại dấu vết, đâm xuyên người người chẳng hay. Hai là Thừa Ảnh, mỗi khi tờ mờ sáng hay chạng vạng tối, quay về hướng Bắc mà nhìn thì chỉ thấy bóng mờ như khói, không biết được hình dạng.   Chạm vào vật thành tiếng khe khẽ, đâm xuyên vật vật cũng không đau. Nhưng sau đó có lời đồn, Hàm Quang nằm bên trong Thừa Ảnh, là thanh kiếm vô hình vô ảnh, Thừa Ảnh chỉ là bao kiếm thôi.”

Hoàng Tử Hà gật đầu: “Thế nên nô tài đã suy nghĩ rất lâu. Một cô nương như Công Tôn đại nương đi lại trên giang hồ, hiểm nguy trùng trùng, lẽ nào chỉ đem theo một thanh kiếm gỗ? Hơn nữa sau khi điệu múa kết thúc, vì Phạm thiếu gia chỉ trích, Vương đô uý đã ngửi thử chuôi kiếm gỗ, nói rằng có mùi đất.”

Thấy cô nhìn sang, Vương Uẩn tựa vào lưng ghế, mỉm cười với cô rồi gật đầu: “Quả là có chuyện này.”

“Ta cũng đã kiểm tra chuôi kiếm, thấy ở phần đốc kiếm gắn với thân kiếm có dính ít bùn đất. Nếu như lời Công Tôn đại nương nói, chỉ đặt kiếm xuống đất cho rảnh tay, thì bùn đất sẽ chỉ dính vào mặt bên của chuôi kiếm thôi, sao lại dính vào thân kiếm được? Huống hồ sàn vũ đài bấy giờ rất sạch, đến cuối cùng đại nương còn nằm dài ra sàn, vậy mà quần áo vẫn sạch sẽ, sao chuôi kiếm lại dính đất?” Nói rồi Hoàng Tử Hà lại cầm lưỡi kiếm sáng loáng lên, chúc mũi kiếm xuống, rồi trỏ vào mặt cắt của lưỡi: “Mời các vị xem, lưỡi kiếm có rãnh ở đây, lại có lỗ nhỏ thế này, ta nghĩ, hẳn thanh kiếm này cũng giống chiếc trâm của ta đây.”

Đoạn cô đưa tay lên đầu, ấn vào hoa văn cỏ lá cuốn, rồi rút cây trâm ngọc nhỏ hơn bên trong ra, chỉ để lại cây trâm bạc bên ngoài gài trên búi tóc, sau khi cho mọi người xem lại cắm về chỗ cũ, cầm thanh kiếm gỗ của Công Tôn đại nương quan sát một lát, rồi ấn vào một mảng hoa văn có vẻ bóng hơn, quả nhiên, cạch một tiếng, thân kiếm và chuôi kiếm đã rời ra, đúng là bên trong không đặc mà vẫn chừa ra một khe hẹp. Chuôi kiếm lại có mấu, Hoàng Tử Hà đặt lưỡi kiếm trong tay nằm ngay ngắn vào đúng mấu, rồi xoay thân và chuôi kiếm, cuối cùng lắp lại được.

Sắc mặt Công Tôn đại nương xám ngoét như tro. Công Tôn đại nương dựa vào Ân Lộ Y, mềm nhũn người ra, cả hai phải từ từ ngả người dựa vào lan can. Môi bà ta mấp máy, song không thốt nổi lời nào.

“Chẳng hay… trước đây đại nương đã giết người bao giờ chưa? Ta thấy đại nương rất can đảm, cũng rất thông minh đấy. Chọn thời điểm nhốn nháo nhất, đồng thời cũng an toàn nhất, khéo léo lợi dụng vũ đạo, chuẩn bị đầy đủ dụng cụ gây án. Đương nhiên, tứ nương sở trường ảo thuật có thể sắp xếp mọi việc thay đại nương. Nhưng trước bấy nhiêu con mắt ở đó, biết rõ chỉ cần một người ngoái lại là sẽ lộ tẩy, vậy mà đại nương vẫn chấp nhận đánh cược một phen. Huống hồ đại nương ra tay vừa chuẩn vừa hiểm, thời gian gấp gáp như thế mà có thể một kiếm đâm trúng tim Tề phán quan, không để nạn nhân la lên nửa tiếng, cũng không bị kẹt lưỡi kiếm vào xương sườn. Thậm chí, lúc đâm kiếm vào, đại nương còn xoay kiếm xoáy sâu vào tim, khiến Tề phán quan không kịp phản ứng đã chết ngay. Đến nỗi Chu tiểu thư ngồi trong màn lụa bên cạnh cũng không nghe thấy động tĩnh gì.” Giọng Hoàng Tử Hà bình thản chậm rãi, không bộc lộ mảy may cảm xúc, thậm chí có phần lạnh lùng, “Tất nhiên, đại nương cũng rất may mắn. Lúc mở màn, Tề phán quan vốn ngồi phía trên, đại nương không có cơ hội tiếp cận, nhưng bấy giờ đại nương lại nói, điệu múa này có thể cùng thưởng thức với người trong lòng. Tề phán quan muốn lấy lòng Chu tiểu thư, bèn bê ghế chạy đến ngồi tít phía dưới, cạnh Chu tiểu thư. Khi đại nương giết người, Phạm thiếu gia lại đang nôn mửa, mùi rượu nồng nặc theo gió đưa đến, át hết mùi máu tanh, khiến Chu tiểu thư phải bịt mũi quay đi, vừa khéo không trông thấy đại nương.”

Công Tôn Diên đứng dưới đèn, như một nhánh lan hắt hiu trước gió, mảnh mai mà quạnh quẽ vô cùng.

“Sau khi giết người, đáng lẽ đại nương phải lắp ngay lưỡi kiếm vào chuôi, nhưng muốn lắp lại cũng mất chút thời gian, chứ không dễ như tháo ra, hơn nữa trong bóng tối muốn tìm đúng chỗ mà lắp vào thật không dễ, lỡ sơ sảy lại lộ ra là trong thanh kiếm gỗ có máu, nên đại nương đành vứt bỏ lưỡi kiếm. Nhưng nếu cứ thế cắm vào khe giữa hai phiến đá, hẳn sẽ có vết máu dính lên mặt đá hoặc thấm ra nền đất, ắt bị người ta phát hiện. Đúng lúc ấy Phạm thiếu gia nôn xong nằm lăn ra đó. Đại nương đã sẵn ghét Phạm thiếu gia buông tuồng cợt nhả, bèn lau sạch máu vào áo hắn, sau đó nhét lưỡi kiếm vào khe đó, cuối cùng cầm chuôi kiếm lên ráp vào thân gỗ, thế là kín như bưng, đúng không nào?”

Ai nấy đều im phăng phắc. Công Tôn Diên cắn vào môi thật mạnh, ngăn đôi môi run bắn, thật lâu sau mới khó nhọc thốt lên bằng giọng khàn khàn: “Tề phán quan và ta không thù không oán… sao ta phải ra tay giết người?”

“Không thù không oán ư?” Hoàng Tử Hà vừa nói vừa xếp tất cả đồ đạc của Công Tôn đại nương lại, rồi quay sang gật đầu ra hiệu cho Chu Tử Tần.

Họ Chu hiểu ý, lập tức tới bên cạnh lấy ra vài thứ, đặt lên bàn.

Thôi thì đủ thứ hỗn tạp.

Nào là túi tiền màu lam thẫm; nào là một tờ thủ bút Chung Hội; một bức trang gảy đàn dưới gốc thông; một xấp những tờ thơ trăng gió đủ màu đủ kiểu…

Trong ánh mắt ngạc nhiên của mọi người, Hoàng Tử Hà lần lượt bày từng thứ một ra: “Đây là những thứ ta tìm được ở nhà Tề phán quan có liên quan tới vụ án. Thứ nhất là xấp thơ này. Những tờ thơ này được gửi từ ngõ Ngô Đồng, gần như đều từ những cô nương phong trần, tên người nhận là Ôn Dương.”

Phạm Nguyên Long lên tiếng đầu tiên: “Ôn Dương ư? Chẳng phải là kẻ tự vẫn cùng Phó Tân Nguyễn đấy ư? Thư từ của họ Ôn, sao lại ở nhà Tề phán quan?”

“Đúng thế, hơn nữa khi chúng ta tìm đến đường Ngô Đồng, gặp những người viết ra những bài thơ này, họ đều kể rằng có một vị khách tên Ôn Dương, dịu dàng tươi cười, ân cần chu đáo, lại giỏi làm thơ viết nhạc lả lơi. Dường như khác xa Ôn Dương lạnh lùng kia.”

“Lẽ nào…” Mọi người không hẹn mà cùng nghĩ đến một khả năng, tức thì cả nhà thuỷ tạ im phăng phắc như tờ.

“Đâu chỉ có vậy. Mời các vị xem, bức gảy đàn dưới gốc thông này, chất giấy, nét vẽ và ý cảnh hoàn toàn khác những bức hoạ ở nhà Tề phán quan. Mà theo chúng ta được biết, trong thư phòng Ôn Dương vốn treo một bức tranh thế này, nhưng sau khi hắn qua đời thì không thấy đâu nữa.”

Đoạn cô lại lấy ra một bức khác: “Bức hồ điệp tú cầu này, chúng ta lấy được từ thư phòng Ôn Dương. Người hầu nhà họ Ôn kể rằng, trước đây trong thư phòng Ôn Dương treo một bức tranh thông, chẳng hiểu đã thay sang bức này từ khi nào. Nhưng chúng ta tìm khắp nhà họ Ôn, không hề thấy bức tranh thông nọ.”

“Nên thật ra, bên nhà Tề phán quan, vốn treo bức tranh tú cầu!” Chu Tử Tần gật đầu tiếp: “Từ chuyện đó, chúng ta đã khẳng định hai bức tranh trong nhà họ Tề và họ Ôn bị tráo đổi!”

Chu Tường liền hỏi: “Tráo đổi hai bức tranh để làm gì vậy?”

“Vấn đề thật ra chỉ nằm trong một bức hoạ thôi.” Nói rồi, Hoàng Tử Hà rút bức thư của Phó Tân Nguyễn tìm được tại nhà họ Ôn ra, đọc cho mọi người nghe.

“… Mưa dầm nhiều ngày, nước ngập phố xá, không thể lặn lội. Nghĩ đến hoa quế trước sân, chỉ còn đôi ba phần, thương tiếc hương ấy nên gom lại, chưng nước quế hoa cho chàng.

Đất Thục nắng ít mây nhiều. Hôm nay mở hộp phấn chàng tặng khi trước, hương thơm thoang thoảng, màu sắc tươi đẹp, chẳng khác bức tranh bướm vờn tú cầu trước án thư của chàng…”

Đọc tới đó, cô đặt bức thư xuống than thở: “Kẻ qua lại với Phó Tân Nguyễn, thường ngày rất cẩn thận, mỗi khi lui tới đường hoa ngõ liễu, đều mạo xưng là người khác. Phó Tân Nguyễn cũng bị hắn gạt, luôn miệng gọi hắn là ‘Ôn lang’, lúc viết thư kể cho các chị em nghe, cũng chỉ nhắc tới ‘Ôn Dương’, nên tên ‘Ôn Dương’ giả mạo này, phải ra sức giấu giếm hành tung của mình, không bao giờ để lại một câu nửa chữ ở kỹ viện, cũng rất hiếm khi thư từ với Phó Tân Nguyễn, bức này có thể là một trong số ít thư từ giữa đôi bên. Bèn bị hắn đem ra làm chứng cứ, để ở chỗ Ôn Dương, nhằm chứng thực quan hệ giữa Phó Tân Nguyễn và Ôn Dương, đồng thời đánh lạc hướng điều tra, khiến chúng ta cho rằng bọn họ trúng độc chết là tự tử vì tình.”

Phạm Nguyên Long nhổm dậy lắp bắp hỏi: “Công công… Ý công công là, Ôn Dương này không phải Ôn Dương thật à… Không, phải nói là Ôn Dương thật không phải Ôn Dương trong bức thư này?”

Tuy Phạm Nguyên Long nói năng lộn xộn, nhưng mọi người ở đó đều hiểu, nhất tề ngẩn cả ra.

Hoàng Tử Hà gật đầu: “Đúng thế, ‘Ôn Dương’ trong thư, cả ‘Ôn Dương’ mà Phó Tân Nguyễn gặp, đều không phải Ôn Dương, Ôn Tịnh Tế thật sự. Nhưng có một người, tên của hắn và Ôn Dương ghép lại thành một cặp đối, nên thường lấy cái tên giả này để lui tới chốn gió trăng. Tất cả những kẻ viết thư cho hắn đều gọi hắn là ‘Ôn Dương’, không một ai hay, tên thật của hắn là Tề Đằng, Tề Hàm Việt, ngoại hiệu Hàn Nguyệt công tử.”

Nhớ đến Tề Đằng ôn hoà ung dung, mọi người thật không sao tưởng tượng nổi dáng điệu buông tuồng lơi lả của hắn lúc chơi bời phóng đãng. Phạm Nguyên Long lại hỏi: “Nếu theo lời công công nói, Tề Đằng ngang nhiên mạo danh Ôn Dương đi tìm kỹ nữ, lẽ nào không sợ có ngày bị người khác phát hiện, hoặc chạm mặt Ôn Dương thật ư?”

Hoàng Tử Hà lắc đầu: “Không, Tề phán quan có một kế sách vẹn toàn. Thật ra hắn mạo danh Ôn Dương, không chỉ vì tên họ hai người vô tình tạo thành một cặp đối, cũng không chỉ vì họ đều mất hết cha mẹ và goá vợ, mà bởi họ Tề nắm chắc, mình sẽ không thể chạm mặt Ôn Dương ở kỹ viện được.”

Chu Tử Tần thì thào: “Nhưng người hầu nhà họ Ôn kể rằng Ôn Dương thỉnh thoảng cũng đi tìm hoa hỏi liễu mà…”

“Chỗ Ôn Dương đến, không giống chỗ Tề phán quan đến.” Hoàng Tử Hà rút trong xấp thơ ra một tờ giấy màu lam có hoa văn kỷ hà, “Đây là tờ đặc biệt nhất trong đống này, bởi nó được gửi tới từ một nam kỹ viện, nơi những người chuộng kỹ nam lui tới.”

Mọi người lúc này mới vỡ lẽ, song đều cảm thấy chuyện này không thể nói ra miệng, đành giương mắt nhìn nhau nín lặng.

“Thế nên Ôn Dương không thể tự tử vì tình cùng Phó Tân Nguyễn được, vì họ Ôn không thích nữ nhân. Sau khi vợ qua đời, Ôn Dương cũng chẳng muốn cưới vợ mới, thường nhân lúc đêm tối lẻn tới kỹ viện nam, gần sáng lại lẳng lặng quay về. Người như thế sao có thể khăng khít yêu đương Phó Tân Nguyễn suốt mấy năm, còn tặng cả hoa quế, phấn son, ân cần chu đáo đến mức Phó nương tử được muôn vàn người ngưỡng mộ phải xiêu lòng?” Hoàng Tử Hà bình tĩnh phân tích từng điểm một, hồ như cô thật sự là một hoạn quan chẳng dính dáng gì tới chuyện này, “Tề phán quan cũng biết, Ôn Dương từng dùng một tờ thủ bút giả của Chung Hội, hòng lấy lòng… một nam tử khác. Kẻ khác có lẽ sẽ không để ý tới, nhưng hạng người thường xuyên lui tới làng chơi như họ Tề, thoạt nhìn là nhận ra ngay. Từ đó, chẳng những Tề phán quan thả sức mạo danh Ôn Dương đi chơi bời, mà khi muốn rũ bỏ Phó Tân Nguyễn, hắn bèn lôi luôn Ôn Dương thật vào làm kẻ thế thân, thay mình kết thúc mối tình ấy. Đương nhiên, họ Tề cũng phải phi tang tất cả các vật chứng có thể tiết lộ bí mật ở chỗ Ôn Dương, kể cả bức thủ bút giả của Chung Hội, cùng bài thơ tình kỹ nam gửi Ôn Dương. Đồng thời hắn còn tìm trăm phương nghìn kế đánh tráo bức hoạ, hòng khiến người khác tin rằng, Ôn Dương quả thật rất thắm thiết với Phó Tân Nguyễn.”

Chu Tường nghe nói không khỏi đau lòng than: “Thay mận đổi đào, giấu trời qua biển, tên Tề phán quan này đúng là lòng dạ hiểm độc! May mà…”

May mà tiểu thư của Chu quận thú chưa gả cho hạng người này. Mọi người thầm nghĩ. Song nghĩ lại thì Tề Đằng qua lại với Phó Tân Nguyễn đã mấy năm, ân tình thắm thiết, lần này họ Tề nhẫn tâm hạ sát Phó Tân Nguyễn, há chẳng phải vì muốn vin vào cành cao phủ quận thú, cưới thiên kim nhà quận thú ư?

“Song nếu dùng bức thư của Phó Tân Nguyễn gửi làm vật chứng, lại có một điểm sơ hở, chính là bức tranh ‘bướm vờn tú cầu’ nhắc tới trong thư. Bởi vậy Tề Đằng, chủ nhân thật sự của bức tranh, phải nghĩ cách đem bức tranh này tới nhà Ôn Dương, mượn cớ bạn bè cùng thi xã tới viếng Ôn Dương chẳng hạn. Người nhà họ Ôn lại mù chữ, đương nhiên chẳng hiểu gì về hội hoạ, thế nên khi ta hỏi, họ còn chẳng biết bức tranh này có từ lúc nào nữa. Sau khi đánh tráo hai bức tranh, Tề Đằng mới phát hiện bộ tứ hoạ trong thư phòng mình giờ lại thiếu mất một, thật không cân đối, vừa may bức tranh gảy đàn dưới thông kích thước cũng tương tự, lại cùng chủ đề cây cỏ, bèn treo tạm lên. Ai ngờ, cho tới lúc chết, họ Tề cũng chưa kịp mua bức mới, vô tình để lại dấu vết.” Nói đoạn, Hoàng Tử Hà lại đặt hai xấp kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật lên bàn. “Để nguỵ tạo chứng cứ về mối quan hệ giữa Ôn Dương và Phó Tân Nguyễn, Tề Đằng còn bày ra nhiều trò. Ví dụ lén đánh cắp một phần thủ bút của Ôn Dương, giấu ở nhà Phó Tân Nguyễn, như dăm bức thư trao đổi thường ngày. Nhưng lúc lấy cắp có lẽ quá hoảng hốt, nên cũng cầm nhầm cả những thứ không nên lấy. Ví như nửa bộ kinh Kim Cương bên trái đây, là chúng ta tìm được ở nhà Ôn Dương, còn nửa bộ bên phải là tìm được ở nhà Phó Tân Nguyễn. Tề Đằng làm thế hẳn là muốn chứng minh hai người họ qua lại trao đổi với nhau thường xuyên. Tiếc rằng họ Tề không biết, Ôn Dương chép bộ kinh Kim Cương này nhằm mục đích khác.”

Mọi người còn đang xem xét bộ kinh Kim Cương thì Mộc Thiện đại sư đã lên tiếng: “Mấy trang kinh này, để lề rất rộng, có phần giống cách đóng kiểu bướm thịnh hành gần đây.”

“Đúng thế. Ôn Dương xưa nay rất tự hào về thư pháp bản thân, chép bộ kinh này hẳn là muốn đóng thành sách đem tặng, sao lại chia ra một nửa đưa cho người khác? Rõ là bất thường.”

Chu Tử Tần nhìn Công Tôn Diên và Ân Lộ Y, đang định sai người bắt lại thì sực nhớ ra một chuyện: “Ta còn một điểm thắc mắc, mong Sùng Cổ giải thích cho.”

Hoàng Tử Hà gật đầu với hắn.

“Có khả năng kẻ khác mạo danh Ôn Dương, giết Phó Tân Nguyễn rồi cố ý đổ vạ cho Tề phán quan không?”

“Nếu vậy thì giải thích thế nào về bức tranh tú cầu Phó Tân Nguyễn nhắc đến trong thư, và câu ‘chưng nước quế hoa cho chàng’? Công tử có nhớ trước sảnh đường nhà họ Tề trồng một gốc quế chăng?” Hoàng Tử Hà im lặng giây lát, cuối cùng vẫn nói, “Trước đây khi người của phủ tiết độ được mời tới tiệm cầm đồ chọn hàng, từng có một chiếc vòng ngọc chạm đôi cá, chưa kịp ghi vào sổ đã được tiệm tặng cho ai đó. Bấy giờ Tề Đằng mới nhậm chức phán quan chưa lâu, nhất định cũng tới. Những kẻ dưới quyền họ Tề sao dám vòi chủ tiệm cái vòng ấy ngay trước mặt quan trên, còn nghênh ngang cầm đi? Nên ta cho rằng, người lấy chiếc vòng ấy, nhất định là Tề phán quan.”

Nhắc tới chiếc vòng, cô lại thấy tim mình đau thắt như bị dao cùn cắt xẻ, cơn đau từ từ lan ra khắp người. Bất giác, cô đưa mắt nhìn Vũ Tuyên ngồi tít sau đám đông, thấy hắn cũng đang nhìn về phía mình, ánh mắt thoáng vẻ gì đó, xa xăm u ám.

Cô chậm rãi quay đi, rồi giơ túi tiền màu lam thẫm trên bàn lên nói: “Đây chính là chứng cứ xác thực nhất, chứng minh Tề Đằng là tình nhân của Phó Tân Nguyễn.”

Túi tiền cũ kỹ, trông chẳng có gì đặc biệt, kém xa những tranh vẽ, tờ thơ tinh xảo đẹp đẽ kia.

“Chúng ta tìm được cái túi này trong sọt giấy vụn ở thư phòng Tề Đằng, bên trong không có gì cả.” Nói rồi, cô giơ cái túi lên ra hiệu cho một kẻ đứng cuối đám đông: “Thang Thăng, ngươi có nhớ lúc gặp Thang Châu Nương ở ngõ Song Hỉ, bà ta đã rút túi tiền từ trong tay nải ra không?”

Thang Thăng nãy giờ vẫn đứng tít phía dưới, vì cao lêu đêu, mặt mũi thô lậu nên chẳng ai để ý tới. Lúc này Hoàng Tử Hà lại đột ngột hỏi đến, khiến mọi người đổ dồn mắt nhìn sang, làm hắn cuống cả lên: “Ơ? Túi… túi tiền ư?”

Hoàng Tử Hà gật đầu: “Hôm đó ngươi khai rằng bà cô vốn định móc hầu bao ra cho tiền ngươi, nhưng nghĩ thế nào lại cất trở vào, đúng không?”

“Vâng vâng, bà ấy mới móc ra nửa chừng thì lại nhét vào, còn bảo cái gì mà: ‘Để đem về Hán Châu đánh cho vợ chưa cưới của cháu đôi trâm bạc’, kết quả đi giữa đường bị ngã xuống núi chết, cũng chẳng còn trâm vòng gì sất!” Thang Thăng hậm hực kể, lại nhìn kỹ chiếc túi trong tay cô, ngạc nhiên thốt lên: “Ơ, công công… cái túi trong tay công công… hình như chính là của cô ta!”

Hoàng Tử Hà hỏi lại: “Ngươi có chắc không? Không nhìn lầm đấy chứ?”

“Không lầm đâu, chắc chắn đấy! Bấy giờ ta còn tưởng bà ấy cho mình thứ quý hoá nên cứ nhìn chằm chằm vào nó, ta nhớ rõ mà!”

“Tốt lắm, chúng ta có thể khẳng định cái túi tìm được trong sọt giấy vụn ở nhà Tề phán quan, chính là túi tiền của Thang Châu Nương, đã biến mất sau khi bà ta rơi xuống núi.” Đoạn Hoàng Tử Hà nhìn sang Công Tôn Diên, “Sau khi Phó nương tử qua đời,   Công Tôn đại nương có thể dấm dúi tiền cho Thang Châu Nương, nhờ bà ta lấy trong hộp trang sức của họ Phó một chiếc vòng thì Tề phán quan cũng có thể sai Thang Châu Nương bỏ vài thứ vào nhà họ Phó trước khi quan phủ niêm phong nhà, ví như những thư từ Tề Đằng lấy được từ chỗ Ôn Dương vậy. Đồng thời, Thang Châu Nương là người hầu cận duy nhất của Phó Tân Nguyễn, dẫu Phó nương tử cả ngày đóng cửa ở nhà, dẫu Tề phán quan thận trọng kín kẽ đến đâu chăng nữa, cũng không qua mặt bà ta được. Bởi vậy, muốn giấu giếm hành tung, nguỵ tạo thành vụ án tự vẫn vì tình hòng che tai mắt người khác, Tề Đằng phải mua chuộc Thang Châu Nương trước nhất. Thang Châu Nương sau khi nhận tiền của Tề phán quan, liền gói ghém hành lý về quê sống, nhưng Tề phán quan đương nhiên muốn nhổ cỏ tận gốc, bèn rình lúc bà ta đang trên đường về quê, xô xuống vực!”

Phạm Nguyên Long và Tề Đằng thường ngày khá thân thiết, trước sự thật rành rành không thể chối cãi, vẫn cố chen vào một câu: “Dương công công, có khi nào… Thang Châu Nương sẩy chân ngã không? Hay gặp phải kẻ cướp chẳng hạn?”

“Nếu sẩy chân ngã thì tại sao túi tiền của bà ta lại ở trong sọt giấy vụn nhà họ Tề? Nếu gặp cướp, sao tay nải vẫn còn nguyên vẹn, chỉ thiếu túi tiền? Huống hồ Phạm thiếu gia đừng quên, lúc ấy quân Tây Xuyên đang phong toả núi tìm kiếm Quỳ vương gia, cấm ngựa xe ra vào. Cũng chính hôm ấy, áng chừng vào lúc Thang Châu Nương ngã xuống núi thì Trương nhị ca, thị vệ bên cạnh Quỳ vương bị một kẻ cưỡi ngựa xô xuống vách núi. Bấy giờ quân Tây Xuyên vào núi tìm kiếm đa phần đều phải đi bộ, kẻ có thể cưỡi ngựa ra vào núi, hẳn phải là quan trên, mà có lẽ phán quan phủ tiết độ Tây Xuyên là một trong số đó.”

Tiết độ sứ sa sầm mặt, vội quay sang nhận tội với Quỳ vương, rồi chắp tay xá Trương Hàng Anh đứng phía sau.

Trương Hàng Anh vội đáp lễ, không dám nhận.

“Ta cứ nghĩ mãi không hiểu sao hung thủ sau khi sát hại Thang Châu Nương, lại phải lấy túi tiền đi? Về sau nhớ tới lời khai của Thang Thăng, mới vỡ lẽ.” Hoàng Tử Hà lại hỏi Thang Thăng, “Bấy giờ Thang Châu Nương nhét túi tiền vào tay nải, nói rằng ‘Để ta đem về Hán Châu, đánh cho vợ chưa cưới của cháu một đôi trâm bạc nhé’, đúng không nào?”

Thang Thăng gật đầu: “Không sai một chữ!”

“‘Đem’ về Hán Châu, ‘đánh’ đôi trâm bạc. Tề phán quan cho Thang Châu Nương bạc, chứ không phải tiền.” Hoàng Tử Hà trỏ chiếc túi, “Cái túi bé thế này, không nhét nổi nửa quan tiền, nhưng nếu là bạc thì có thể đựng một hai đĩnh. Tề phán quan mua chuộc Thang Châu Nương, ắt phải tốn kém kha khá. Thường ngày Tề phán quan ko liệu các việc lớn bé trong phủ tiết độ, đương nhiên có thể tiếp xúc với bạc trong kho, dấm dúi đem cho Thang Châu Nương mấy quan tiền cũng bất tiện, họ Tề bèn cho luôn bà ta bạc. Nhưng mỗi đĩnh bạc đều khắc rõ nguồn gốc xuất xứ, nếu không lấy lại, để người ta phát hiện trong người Thang Châu Nương có bạc đóng dấu phủ tiết độ, không chừng lại thành gậy ông đập lưng ông, nên Tề phán quan phải thu về cho bằng được, không thể để nó lọt ra ngoài.”

Thấy chứng cứ rành rành trước mắt, việc Tề Đằng gây án đã không thể phản bác, Phạm Ứng Tích thở hắt ra, giận dữ mắng: “Đáng chết! Đáng giận! Ta nuôi hạng lòng lang dạ sói này trong phủ bấy nhiêu năm, thật không ngờ hắn lại thâm độc âm hiểm đến thế, đã giết người vu vạ không buồn chớp mắt, còn điềm nhiên nhổ cỏ tận gốc!”

Chu Tử Tần nhìn sang bức màn lụa có em gái ngồi trong, thở dài lẩm bẩm: “May mà Tử Yên chưa gả cho hắn.”

Mọi người nhao nhao chửi rủa họ Tề, rồi mừng thay cho Chu quận thú, quên bẵng Công Tôn Diên và Ân Lộ Y. Hoàng Tử Hà quay sang, thấy cả hai mặt mày nhợt nhạt, cắt không ra máu, nhưng sau vẻ kinh hoàng vẫn thấp thoáng nét đắc ý, không khỏi than thầm rồi nói: “Công Tôn đại nương, khi mở tủ quần áo của Phó nương tử, ta đã cảm thấy cô ấy không thể tự vẫn được. Trong tủ có rất nhiều quần áo màu sắc tươi sáng, vậy mà lúc chết, cô ấy lại mặc chiếc áo xám cũ kỹ… Bấy giờ ta nghĩ bất luận là ai, đã quyết cùng tình nhân bước lên con đường không thể quay đầu, hẳn đều phải trang điểm cho mình xinh đẹp nhất rồi mới uống thuốc độc, đâu có lẽ lại qua quýt xuề xoà như thế.”

“Đúng vậy… A Nguyễn thường ngày thích nhất là phục sức hoa lệ lộng lẫy.” Công Tôn Diên chậm rãi lên tiếng, giọng khản đặc nghẹn ngào, thân hình gầy yếu run lên, chẳng thấy đâu vẻ thướt tha thoát tục hằng ngày nữa. Bà ta ôm ngực, khó nhọc hít thở, cuối cùng vẫn gắng gượng thốt ra những điều ấp ủ trong lòng: “A Nguyễn… tính khí như trẻ con vậy, chẳng biết đề phòng hay kiêng nể gì cả… Muội ấy thẳng thừng cự tuyệt một chỗ tử tế hơn ngàn vạn lần, khước từ hết thảy vinh hoa phú quý trong tầm tay, chỉ vì một kẻ chúng ta chưa từng biết mặt, ngay cả muội ấy cũng mới gặp vài lần là Ôn Dương… không, là Tề Đằng. A Nguyễn ngây ngô cứ ngỡ hắn là tơ duyên vấn vít, ngàn dặm không lìa, có ngờ đâu kẻ ấy lại là con rắn độc trên tay, thường ngày mềm dẻo, quấn chặt lấy mình, đợi khi sơ hở, sẽ nhe nanh độc ra…”

Hoàng Tử Hà lặng lẽ nhìn Công Tôn Diên, không đáp. Chu Tử Tần không dằn lòng được lại hỏi: “Dường như đại nương chỉ gặp mặt Tề Đằng mỗi một lần, sao đã nhận ra chân tướng để lên kế hoạch trả thù?”

“A Nguyễn từng kể trong thư rằng, mu bàn tay trái của Ôn Dương có 6 nốt mụn gạo, rất khó coi… Ta bèn mách cho cách vắt cỏ nhọ nồi lấy nước xát lên, làm mấy lần là khỏi, nhưng cỏ nhọ nồi dính vào da sẽ để lại vệt đen, phải vài bữa mới phai.” Công Tôn Diên dựa vào lan can, hít một hơi thật sâu, tuy giọng nói vẫn nghẹn ngào, thân hình chưa thôi run rẩy, song rốt cuộc cũng bình tĩnh lại một chút, “Lúc ở nghĩa trang, ta đã thấy vết đen trên đầu ngón tay A Nguyễn, nhưng khi đọc lén biên bản nghiệm thi, lại không thấy đề cập đến nốt mụn gạo trên tay Ôn Dương. Về sau đến nha môn hỏi han tiến triển vụ án, ta tình cờ phát hiện trên mu bàn tay của Tề phán quan, kẻ sắp cưới thiên kim tiểu thư nhà Chu quận thú, có 6 vết sẹo nhỏ, trông như vết mụn gạo vừa khỏi. Ta âm thầm dò hỏi gia thế Tề Đằng, thấy giống hệt những gì A Nguyễn kể trong thư, hơn nữa, chúng ta cũng là người lưu lạc phong trần, thừa biết có rất nhiều kẻ lấy tên giả đi tìm hoa hỏi liễu, bèn kiếm cớ hỏi thẳng họ Tề…”

Kể đến đây, Công Tôn Diên không ngăn nổi cơn thịnh nộ, lồng ngực phập phồng dữ dội, hồi lâu mới nén giận nghiến răng tiếp: “Chẳng những hắn thừa nhận, còn chế nhạo A Nguyễn ngu xuẩn, hắn ở ngoài quen biết với mười mấy người nữa mà A Nguyễn chẳng hề hay biết, cứ ngỡ hắn đã thề không chơi bời gió trăng gió nữa, nên không có chút nghi ngờ…”

Công Tôn Diên xúc động gục đầu vào cột, nước mắt lã chã: “Tiểu muội A Nguyễn 12 tuổi đã lừng danh thiên hạ, tài soạn nhạc soạn vở không ai bì kịp, đến các nhạc sư già ở giáo phường Trường An cũng phải đến thỉnh giáo, còn phải gọi một tiếng ‘Lục cô nương’ mới mời mọc được! Người thông minh như thế, sao có thể không nhận ra Tề Đằng có chuyện giấu giếm? Chẳng qua A Nguyễn vẫn nhẫn nhịn bấy lâu, lý do thì ai cũng hiểu cả, vậy mà tên khốn đó lại dám chê muội ấy ngu xuẩn… Thật đáng băm vằm thành trăm mảnh…”

Ân Lộ Y ôm lấy tay Công Tôn Diên, áp mặt vào vai bà ta, lặng lẽ nhắm nghiền mắt lại, nước mắt loang ra thấm đẫm một mảng áo Công Tôn.

Hoàng Tử Hà khẽ nói: “Ta hiểu tâm trạng các vị, nhưng dù sao cũng không thể giết người báo thù như thế, quan phủ sẽ giúp các vị rửa sạch oan khuất mà…”

“Hừ, Tề Đằng là người của quan phủ, dù các ngươi điều tra ra sự thật, lẽ nào lại nghiêm trị hắn ư?” Công Tôn Diên hất cằm, mặt tái mét, song vẫn quật cường tiếp, “Giết người đền mạng, thiếu nợ trả tiền, đó là đạo lý! A Nguyễn bị hắn giết, kẻ là tỷ tỷ như ta phải tìm hắn tính sổ! Dẫu có phải đền mạng cho hắn, ta cũng chẳng nề hà, Công Tôn Diên này sống trên đời bấy nhiêu năm chưa từng hổ thẹn với lòng, chết không hối hận!”

Hoàng Tử Hà lặng thinh lùi lại sau lưng Lý Thư Bạch, thì thào: “Ta chỉ vạch rõ sự tình, còn những việc khác, thật không thể can thiệp được!”

Bình luận