Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Những Bí Ẩn Của Sa Mạc

Chương 9

Tác giả: Frederik Forsythe

Chốt kiểm tra chặn xe anh dừng lại ở góc phố Mohammed Ibn Kassem và đường Tiếng chuông Thứ tư. Khi nhìn thấy từ xa, Mike Martin đã có ý định quay xe chạy và quay lại con đường mà mình đến.

Nhưng có những người lính Iraq đang đứng trạm ở đường ở cả hai bên lề ở những chỗ sắp đến điểm kiểm tra, có vẻ như chỉ là cho mục đích đó, và nó có thể thật là điên rồ để thử chạy trốn khỏi làn đạn súng trường của họ ở tốc độ đủ để vòng xe. Anh không có lựa chọn nào khác ngoài việc lái dấn lên, đứng vào cuối hàng xe cộ đang đợi để khám xét.

Như lệ thường, lái xe qua Kuwait City, anh cố tránh những đường lớn nơi những trạm dừng xe có thể được dựng lên, nhưng đi qua bất cứ đường nào trong số 6 đường Ring bao quanh Kuwait City trong một chuỗi những dải tập trung chỉ có thể được thực hiện bằng cách qua một chốt kiểm tra. ..

Anh đã hy vọng như thế, bằng cách lái xe vào giữa buổi sáng, để được hoà vào dòng xe cộ hoặc để tìm những người Iraq từ chỗ nóng. Nhưng giữa tháng Mười thời tiết đã dịu lại và các đội Lực lượng Đặc biệt cẩn thận hơn bọn Quân đội Nhân dân vô dụng. Vì thế anh phải ngồi vào sau vô lăng chiếc Volvo màu trắng có rơ moóc và chờ đợi.

Trời vẫn còn tối và còn là đêm thẳm khi anh lái xe ra khỏi sa mạc đi về phía nam và đến chỗ để những thuốc nổ, súng ống: và thuốc súng của mình, những thiết bị anh đã hứa với Abu Fouad. Đang là trước bình minh khi anh đi qua cái gara đóng kín trong những phố phường tối đen của Firdous từ chiếc xe jeep có kéo toa xe đằng sau.

Giữa việc chuyển từ xe này sang xe khác và thời điểm khi anh cả quyết mặt trời đã lên cao đủ và đủ nóng để khiến lính lraq phải đi kiếm chỗ nghỉ trong bóng râm, anh đã thậm chí phải đắp chiếu xe trong cái gara, rồi anh lái chiếc xe kéo ra và đẩy chiếc xe jeep vào trong gara, lo ngại một chiếc xe đắt tiền như thế sẽ sớm bị tịch thu.

Cuối cùng anh che mặt và thay quần áo, thay chiếc áo dài đi sa mạc của những người bộ lạc Bedou bằng chiếc dish-dash màu trắng của viên bác sĩ Kuwait.

Những chiếc xe ôtô trước mặt anh đang tiến từng chút một về phía quân bộ binh Iraq đang tụ tập xung quanh những doanh trại ngay trước mặt. Trong một số trường hợp lính Iraq chỉ đơn giản ngó qua tấm thẻ căn cước của lái xe và vẫy tay cho đi qua, trong những trường hợp khác chiếc xe bị đưa vào một bên đường để kiểm tra. Thường thì. những chiếc xe kéo theo hàng hoá hay bị yêu cầu dừng lại.

Anh đặc biệt không thích thú gì với hai chiếc xe tải gỗ đằng sau mình, trên bãi để hàng, chúng rất to và sẽ ngăn chặn đường chạy của anh.

Chiếc xe cuối cùng trước mặt anh đã đi qua, và anh lái xe lên chỗ những đội quân. Viên trung sĩ đang làm nhiệm vụ không buồn hỏi giấy tờ chứng minh của người lái xe.. Nhìn thấy những bịch to ở đằng sau chiếc Volvo. người lính vẫy chiếc xe sang bên đường và hét lên lệnh cho các đồng nghiệp của mình đứng đợi tại đó.

Một bộ quân phục màu ôliu xuất hiện ớ cửa sổ lái xe, mà Martin đã hạ xuống. Bộ quân phục cúi xuống. và một khuôn mặt nhàu nát xuất hiện ở cửa sổ.

– Ra ngoài, tên lính nói. Martin đi ra và đi thẳng lên. Anh cười xã giao. Một viên trung úy với một bộ mặt nặng nề, khó tính tiến lại. Viên binh nhì đi vòng quanh chiếc cửa sau và săm soi những gói.

– Giấy tờ, viên trung sĩ nói. Anh ta nghiên cứu chiếc thẻ căn cước mà Martin đưa cho, và liếc nhìn từ khuôn mặt đằng sau tấm plastic sang khuôn mặt đang ở trước mình. Nếu anh ta nhìn thấy bất kỳ sự khác biệt nào giữa viên sĩ quan người Anh đang đứng đó với người nhân viên kho hàng của Công ty thương mại Al-khalifa mà tấm chân dung có trong thẻ, anh ta cũng không để lộ dấu hiệu gì hết cả.

Tấm thẻ căn cước được ghi ngày tháng và đóng dấu một năm trước đây, và trong một năm một người đàn ông có thể quỵết định cạo bộ râu của mình.

– Anh là bác sĩ?

– Phải. thưa ông trung sĩ. Tôi làm việc ở bệnh viện.

– Ở đâu?

– Trên đường đi Jahra.

– Anh đi đâu?

– Đến bệnh viện Amin ở Dasmam.

Viên trung sĩ rõ ràng không có giáo dục nhiều, và trong vãn hoá của anh ta một bác sĩ có nghĩa là người có học vấn và vị thế đáng nể. Anh ta nhăn nhó và bước đến đằng sau chiếc xe hàng.

– Mở ra. anh ta nói.

Martin mở khoá cửa sau, và nó mở ra trên đầu họ. Viên trung sĩ nhìn chằm chằm vào hai gói to.

– Cái gì thế?

– Các mẫu, thưa trung sĩ. Phòng thí nghiệm khoa học ở Amiri cần chúng.

– Mở ra đi.

Martin rút từ túi chiếc dish-dash của mình chùm chìa khoá. Những cái khoá mua từ một kho hàng, và mỗi cái có hai khoá vòng.

– Ông có biết những cái đó đã được làm lạnh rồi không?

Martin nói xã giao, trong khi đang giở chìa khoá ra.

– Làm lạnh? viên trung sĩ bị từ đó mê hoặc.

– Phải, thưa Trung sĩ. Bên trong lạnh. Chúng giữ mầm ở một nhiệt độ thấp ổn định. Nó đảm bảo rằng chúng nằm im. Tôi e rằng nếu tôi mở ra, khí lạnh sẽ thoát ra ngoài hết và nó sẽ có hoạt tính trở lại. Tốt nhất là nên để yên.

Khi nghe đến “nằm im”, viên trung sĩ lùi lại và nâng khẩu cacbin của mình lên, chĩa vào Martin như thể ngờ những cái hộp có chứa loại vũ khí nào đó.

– Anh muốn nói gì? anh ta hoảng hồn. Martin nhún vai xin lỗi.

– Tôi xin lỗi, nhưng tôi không ngăn được nó đâu. Những cái mầm sẽ chỉ thoát ra ngoài không khí xung quanh chúng ta mà thôi.

– Mầm – mầm gì? Viên trung sĩ bối rối và giận dữ, vì sự ngu dại của chính mình cũng ngang bằng với cung cách của viên bác sĩ.

– Tôi đã chẳng nói tôi làm ở đâu rồi à? Anh hỏi thân mật.

– Rồi, ở bệnh viện.

– Đúng. Một bệnh viện hẻo lánh. Ở đó đầy những mẫu đậu mùa và ỉa chảy cần phân tích.

Nói đến đó viên trung sĩ nhảy lùi lại, tận hai fit. Những dấu hiệu trên mặt của anh ta không nghi ngờ gì nữa – như một đứa trẻ gần chết vì đậu mùa.

– Mang mấy thứ chó chết đó đi đi, mẹ mày chứ!

Martin xin lỗi lần nữa, đóng cánh cửa sau lại, luồn vào sau tay lái, và lái xe đi. Một giờ sau, anh được hướng dẫn đến kho chứa cá ở cảng Shuwaikh và chuyển hàng của mình cho Abu Fouad.

Bộ Ngoại giao Hợp chủng quốc Hoa kỳ

Washington D.C 20520

NGÀY I6 THÁNG MƯỜI,1990

Bản thông cáo gửi: James Baker

Từ: Tình báo Chính trị và Nhóm Phân tích

Chủ đề: Phá hoại Cỗ máy chiến tranh của Iraq

Xếp hạng: không sao chụp

Sau mười tuần kể từ khi Iraq xâm chiếm vương quốc Kuwait, sự điều tra kỹ càng nhất đã được thực hiện, bởi cả người của chúng tôi cũng như các bạn đồng minh Anh, những chuẩn bị với độ chính xác cao cổ máy chiến tranh mà Saddam Hussein có khả năng có trong tay.

Những lời phê phán có thể không sai khi cho rằng có thể hoàn thành báo cáo sớm hơn. Nhưng các kết quả của nhiều phân tích giờ đây ở trước chúng ta cho thấy một bức tranh rất nhiều xáo trộn.

Những lực lượng chính quy của riêng Iraq, với quân đội thường trực một triệu người và một đại đoàn, súng ống, xe tăng, tên lửa, và không quân hiện đại, khiến lraq vượt trội và trở thành nước có tiềm lực quân sự lớn nhất Trung Đông.

Hai năm trước đây, có ý kiến cho rằng hiệu ứng của cuộc chiến tranh với Iran đã giảm bớt cỗ máy chiến tranh Iran tới mức nó có thể không còn là mối đe doạ thực tế với các nước xung quanh, những thiệt hại do Iran gây ra cho bộ máy chiến tranh của Iraq cũng có tầm quan trọng tương tự.

Giờ đây đã rõ ràng rằng, trong trường hợp Iran, sự cấm vận thương mại hà khắc được tạo nên một cách có tính toán kỹ càng bởi chúng tôi và các đồng nghiệp Anh đã tạo ra tình trạng như vậy. Tuy nhiên với trường hợp Iraq, hai năm qua đã được củng cố bởi một chương trình tái vũ trang với tốc độ đáng sợ.

Ông có thể nhớ lại, thưa ông bộ trưởng, rằng chính sách phương Tây ở vùng Vịnh và trên thực tế Trung Đông từ lâu đã dựa trên quan niệm về cân bằng: khái niệm về ổn định và do đó sự nguyên trạng chỉ có thể được giữ vững nếu không quốc gia nào trong khu vực được phép đạt đến quyền lực để đe doạ mọi nước xung quanh và qua đó tạo ra sự thống trị.

Trong chiến tranh chính quy trước mắt, giờ đây đã rõ rằng Iraq đã có được quyền lực đó và bây giờ đã có khả năng tạo ra sự thống trị đó.

Nhưng báo cáo này còn liên quan hơn đến một khía cạnh khác của những chuẩn bị của lraq: việc tạo lập một kho vũ khí đáng kể, đi đôi với những kế hoạch liên tục với những hệ thống chuyển dịch thậm chí còn mang tính quốc tế cao hơn và còn có thể xuyên lục địa.

Nói tóm lại, trừ khi sự phá hoại hoàn toàn các vũ khí này, những vũ khí vẫn đang được phát triển, và các hệ thống đang được hoàn thành, tương lai không xa cho thấy một viễn cảnh rất đen tối.

Trong vòng ba năm, theo những nghiên cứu được trình bày tại Hội đồng Medusa và với nó người Anh đã đảm nhiệm hoàn toàn. Iraq sẽ phát triển quả bom nguyên tử của chính mình và khả năng phóng nó bất kỳ nơi đâu trong phạm vi 2000 km tính từ Baghdad.

Trong vòng ba năm, thất bại trong hành động trá dũa: Iraq sẽ có thể thống trị chỉ qua việc đe doạ toàn bộ khu vực từ bờ biển phía bắc của Thổ Nhĩ Kỳ đến vùng vịnh Aden, từ các biển ngoài Haifa đến các núi ở Kandahar. Hiệu ứng của những khám phá đó cần phải thay đổi tận gốc chính sách của phương Tây. Sự phá huỷ cỗ máy chiến tranh của lraq giờ đây cần trở thành hướng chính của chính sách phương Tây. Sự giải phóng Kuwait hiện nay đã trở thành cấp thiết, chỉ phục vụ như một lời minh chứng. Mục tiêu đề ra chỉ được giải quyết bằng sự rút quân đơn phương của Iraq khỏi Kuwait, và mọi cố gắng cần được thực hiện để đảm bảo nó không xảy ra.

Chính sách của nước Mỹ, trong sự liên minh với các bạn đồng minh Anh của chúng ta, do đó nên được chia thành bốn điểm sau:

1. Cần tăng cường khiêu khích và những luận cứ để khiến Saddam Hussein từ chối không chịu rút khỏi Kuwait.

2. Loại bỏ mọi cam kết của ông ta có thể đề xuất để đổi lại việc rời khỏi Kuwait, chuẩn bị đánh và sự phá huỷ bộ máy chiến tranh của ông ta.

3. Thúc đẩy Liên Hợp Quốc không tiếp tục với Nghị quyết số 678 của Hội đồng bảo an đã bị đình lại quá lâu, cho phép Liên quân bắt đầu không chiến ngay khi đã chuẩn bị xong.

4. Tỏ ra chào đón nhưng thực ra không thực hiện mọi kế hoạch hoà bình cái có thể cho phép lraq thoát ra khỏi thế lưỡng nan của họ hiện nay một cách an bình. Rõ ràng Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, Paris, và

Matxcơva là những mối nguy hiểm chính ở đây, bởi sẽ đề xuất vào bất cứ lúc nào một tiến trình ngây thơ nào đó có khả năng ngăn chặn cái cần phải làm. Dư luận, dĩ nhiên, sẽ tiếp tục được đảm bảo đứng ở bên kia.

Kính trọng trình lên, PIAG

– Itzhak, chúng ta thực sự phải đi cùng với họ trong vụ này đấy.

Thủ tướng Israel, vẫn thường xuyên như vậy, đung đưa trong chiếc ghế dựa, khi thứ trưởng Ngoại giao của ông chặn ông ở văn phòng riêng đầu tiên bên cạnh Knesset ở Jerusalem. Hai người đang ở bên ngoài cánh cửa gỗ lim nẹp thép không để lộ tiếng động ra bên ngoài.

Itzhak Shamir nhổm người qua cái bàn, đôi chân ngắn của ông ta ngoe nguẩy tự do phía trên tấm thảm, mặc dù ở đó đã đặc biệt có một chỗ để chân cho ông ta. Khuôn mặt gầy, ốm yếu của ông ta dưới mái tóc màu ghi xám làm ông trông giống như một vị thần phương Bắc.

Vị thứ trưởng của ông ta khác thủ tướng ở một khía cạnh: cao, trong khi vị chỉ huy đất nước thấp, ăn mặc chải chuốt trong khi Shamir búi xúi, thành thị trong khi ông ta quê mùa. Tuy vậy họ rất hợp nhau, chia sẻ cùng cách nhìn nhận có thoả hiệp của đất nước mình và về người Palestine, cho nên vị thủ tướng gốc Nga không e dè gì khi thăng cấp cho nhà ngoại giao có quan điểm thế giới này.

Benjamin Netanyauhu đã thực hiện rất tốt sứ mạng của mình. Israel cần có Mỹ: sự hào phóng của họ, đồi Capitol và ở các phương tiện truyền thông Mỹ; những món quà, vũ khí, quyền phủ quyết trong Hội đồng Bảo an. Đó là một phương cách đáng sợ để giả đò đối với một nhân viên Iraq nóng ruột do Kobi Dror điều hành từ khi đến đó ở Tel Aviv.

– Để họ có được Jericho đi, dù hắn ta là ai đi chăng nữa.

Netanyahu thúc bách. Nếu hắn giúp họ diệt được Saddam Hussein. thì lại càng tốt cho chúng ta chứ sao.

Vị Thủ tướng càu nhàu, gật đầu và gọi vào máy điện thoại nội bộ.

– Gọi tướng Kobi Dror, và nói với ông ấy tôi cần gặp tại văn phòng của tôi, ông nói với thư ký riêng của mình. Không, không phải bao giờ ông ấy rỗi. Ngay bây giờ.

Bốn giờ sau đó, Kobi Dror rời khởi vãn phòng thủ tướng, ông ta đã ngộp thở. Trên thực tế, ông tự nhủ khi chiếc ôtô thả dốc cái đồi bên ngoài Jerusalem và đi vào đường cao tốc lớn trở về Tel Aviv, ông không nhớ nổi mình đã từng tức giận đến thế bao giờ chưa.

Bị một thủ tướng trẻ măng nói thẳng vào mặt rằng ông đã sai thật quả là tồi tệ quá mức. Bị nói rằng ông là một thằng già ngu ngốc là cái gì đó mà ông không thể nào hình dung được. Thường thì ông khoan khoái nhìn những cánh rừng gai nơi, trong cuộc bao vây Jerusalem khi đường cao tốc ngày hôm nay từng chỉ là một con đường mòn nhỏ bé, cha ông và những người khác đã chiến đấu để đẩy lui cả một đống người Palestine và chiếm được thành phố. Nhưng đó không phải là chuyện ngày hôm nay.

Quay trở về văn phòng của mình, ông gọi Sami Gershon và nói với ông ta tin mới.

– Làm thế quái nào mà người Anh lại biết được? ông kêu lên. Ai để lộ tin đó

– Một người bên Văn phòng, Gershon nói kết luận. Về gã giáo sư thì sao? Tôi thấy lão ta vừa từ London trở về đấy.

Thằng phản bội chó chết, Dror gầm lên. Tôi sẽ xé xác hắn ra.

– Bọn Anh có thể đã chuốc rượu cho lão, Gershon đưa ra giả thuyết. Say sưa rồi nói linh tinh. Thôi bỏ đi, Kobi. Điều tồi tệ đã xảy ra rồi. Nhưng chúng ta phải làm gì đây?

– Nói cho họ mọi điều về Jericho, Dror mệt mỏi. Tôi không thể làm được đâu. Hãy gửi Sharon đi. Để anh ta làm việc đó.

– Cuộc gặp sẽ ở London, nơi nguồn tin đã bị buột ra.

Gershon suy nghĩ và nhe răng cười.

– Có cái gì buồn cười lắm sao?

– Chỉ có thế thôi. Chúng ta không thể liên lạc với Jericho được nữa rồi. Thì cứ để họ thử đi. Chúng ta cũng không biết thằng cha đó ở đâu nữa mà. Cứ để bọn họ tìm. Nếu may mắn. họ sẽ có được con át chủ bài.

Dror nghĩ, và cuối cùng một nụ cười mỉm rạng rỡ cũng hiện ra trên mặt ông. “Hãy gửi Sharon đi vào tối nay”: ông nói. ” Rồi chúng ta tung ra một kế hoạch mới. Tôi đã có nó trong đầu ít lâu nay rồi. Chúng ta sẽ gọi đó là Chiến dịch Joshua.”

– Tại sao? Gershon hỏi, bối rối.

– Thế anh không nhớ điều mà Joshua đã làm với Jericho à?

Cuộc gặp ở London đã là quá đủ quan trọng đối với Bill Stewart, phó giám đốc Langley (phụ trách các chiến dịch) để mà tự mình phải đích thân đi qua Đại Tây Dương, đi cùng với Chíp Barber của phân ban Trung Đông. Họ ở lại những ngôi nhà an toàn của công ty, một căn hộ không xa Đại sứ quán ở quảng trường Grosvenor, ăn tối với phó giám đốc SIS và Steve Laing. Phó giám đốc ở đây chỉ thuần tuý là vì vấn đề nghi thức, để có người ngang hàng với Stewart; nhẽ ra người thay ông ngồi nghe David Sharon báo cáo phải là Simon Paxman, người chịu trách nhiệm về lraq.

David Sharon bay từ Tel Aviv tới dưới một cái tên giả và được một katsa đón tiếp từ Đại sứ quán Israel ở cung điện Green.

Cơ quan phản gián Anh MI-5 – không thích các nhân viên nước ngoài, kể cả các bạn bè – đã được SIS báo trước và chỉ có người katsa từ đại sứ quán đang chờ. Ngay khi anh được đón tiếp, “ngài Eliyahu “, ở bên ngoài chuyến bay từ Tel Aviv, nhóm MI-5 đi vào, nồng nhiệt đón chào ngài Sharon ở London, và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để chuyến công cán được dễ chịu nhất.

Hai người Israel tức giận bị dẫn ra xe ôtô, bị vẫy đi từ lối vào, và sau đó bị đi theo nhằng nhẵng vào trung tâm London.

Các đám đông của Sư đoàn Vệ binh cũng không thể làm việc được tốt hơn thế.

Sáng hôm sau David Sharon bắt đầu, và việc này mất trọn một ngày và một nửa đêm. SIS đã đòi sử dụng chính những ngôi nhà an toàn của họ, một căn hộ được bảo vệ tốt và “nối mạng” hiệu quả ở nam Kensington.

Nó là (và vẫn là) một địa điểm rộng rãi, có phòng ăn phục vụ các cuộc họp. Một trong số các phòng ngủ được trang bị ghế băng có gắn máy ghi âm, và hai kỹ thuật viên ghi lại từng lời thốt ra. Một người phụ nữ trẻ vận đồ đen đến từ Nhà Thế kỷ để trông coi bếp và quản lý một tập đoàn khay cà phê và bánh xăng uých cho sáu người ngồi xung quanh cái bàn ăn.

Hai người đàn ông ăn vận tề chỉnh trong hành lang dẫn xuống tầng dưới mất cả ngày để sửa chữa cái thang máy vẫn hoạt động hoàn hảo, mà nhiệm vụ thật sự là đảm bảo không một ai ngoài những người ở trong toà nhà có thể đi ra đến hè ngoài.

Tại bàn ăn là David Sharon và người katsạ từ đại sứ quán tại London, người cũng là một điệp viên; hai người Mỹ, Stewart và Barber.từ Langley; và hai người kia SIS? Laing và Paxman.

Theo lời những người Mỹ, Sharon bắt đầu câu chuyện và nói điều gì đã xảy ra.

– Một kẻ hám tiền? Một kẻ hám tiền tự nguyện? Stewart hỏi. Ông không giỡn tôi đấy chứ?

– Những lời nói của tôi là hoàn toàn chân thực, Sharon nói.

Đó là cách câu chuyện đã diễn ra.

Những người Mỹ không có gì chống lại những kẻ hám tiền hết cả. Thực tế, đó là một ưu điểm. Giữa mọi động lực để phản bội đất nước , thì tiền là đơn giản và dễ dàng nhất cho cơ quan thuê người. Với một người hám tiền thì ai biết đâu vào với đâu Chẳng hề có dằn vặt vì những cảm giác hối tiếc, không giận dữ vì chán ghét, không phải ngu ngốc để có thể bị sai khiến và phỉnh nịnh, không quá nhát để mà bị hù. Một kẻ hám tiền trong thế giới điệp viên cũng giống như mỏ vàng. Không cần đến những bữa tối có nến thắp hay những điều dịu ngọt nào đó. Một núi đôla trên bàn có thể đã là làm được nhiều lắm rồi.

Sharon miêu tả sự tìm tòi khó nhọc một ai đó có thể sống tại Baghdad dưới cái vỏ bọc ngoại giao và được ở lại lâu, và sự lựa chọn tối hậu là Alfonso Benz Moncada, với chuyến huấn luyện căng thẳng anh ta ở Santiago, và chuyện anh ta điều hành Jericho trong vòng hai năm.

– Ngừng đã nào, Stewart nới. Cái người nghiệp dư điều hành Jericho trong hai năm ? Làm được bảy mươi lần lấy tin từ các hòm thư và gửi về?

– Phải. Tôi thề đấy. Sharon nói.

– Anh thấy thế nào, Steve?

Laing nhún vai. “Cái may mắn của kẻ bắt đầu. Không thể nào may thế ở Đông Đức hay Matxcơva đâu.”

– Đúng đấy. Stewart nói. Và anh ta không bao giờ bị theo đuôi khi đến một hòm thư ư? Không bao giờ rắc rối gì à?

– Không, Sharon nói. Có vài lần anh ta bị bám, nhưng luôn chỉ là tình cờ và định kỳ thôi. Đi theo từ nhà anh ta đến toà nhà Hội đồng Kinh tế hoặc đi về, và một lần khi anh ta đang đi đến một hòm thư. Nhưng anh ta thấy họ và rẽ lối khác.

– Chỉ là giả thuyết thôi nhé, Laing nới, anh ta thực sự đã bị theo đuôi đến một hòm thư bởi một đội mật thám thực sự. Các nhân viên phản gián của Rahmani đến được hòm thư và xử lý Jericho. Do bị thúc ép, Jericho phải đồng ý hợp tác…

– Thế thì sản phẩm phải kém chất lượng đi chứ, Sharon nói. Nhưng Jericho đã thực sự gây ra thiệt hại lớn đấy.

Rahmani không thể nào cho phép điều đó tiếp tục đâu. Nếu thế đã có một cuộc khám xét và bắt giữ Jericho, và Moncada đã có lẽ bị trục xuất, nếu nói là may mắn đấy.

– Có vẻ như những kẻ của AMAM, thậm chí những người nước ngoài đều làm cho Rahmani. Dù sao, thì họ cũng ngớ ngẩn như lệ thường thôi. Moncada qua mặt họ mà chẳng gặp rắc rối gì cả. Ông biết AMAM thường xuyên cố gắng làm việc phản gián không.

Những người nghe gật đầu. Sự đối nghịch chẳng có gì mới mẻ – nó diễn ra ngay trong nước của chính họ.

Khi Sharon kể đến lúc Moncada đã đột ngột bị rút khỏi Iraq, Bill Stewart bật lên.

– Anh muốn nói anh ta bỏ đi, không liên lạc gì nữa? Anh có nói cho chúng tôi là một người đang không có người kiểm soát không đấy?

– Chính thế đấy, Sharon kiên nhẫn nới. Anh quay sang Chip Barber. Khi tướng Dror nói ông ấy không điều hành ai ở Baghdad cả thì có nghĩa là ông ta nói thật đấy. Mossad đã bị mất Jericho. như một chiến dịch đã hết, đã chấm dứt.

Barber nhìn bắn vào người katsa trẻ tuổi cái nhìn muốn nới, “Hãy thả cái chân kia ra, cậu bé. Nó sẽ kêu đấy.”

– Chúng tôi muốn thiết lập lại liên lạc. Laing nói mềm mỏng. Làm thế nào?

Sharon đưa ra cả sáu địa điểm những hòm thư chết.

Trong hai năm của mình Moncada đã thay đổi hai trong số đó; một vì một địa điểm đã bị ủi đất để xây dựng, còn cái kia là vì một cửa hàng nghèo đói được trang bị lại và bán trở lại. Nhưng sáu hòm thư vận hành và sáu địa điểm nơi phấn đánh dấu đã được đặt là những cái mới kể từ những vụ cuối cùng anh ta làm trước khi bị trục xuất.

Địa điểm chính xác của các hòm thư đó và chỗ đánh phấn dấu được ghi lại chi tiết.

– Có thể chúng ta có thể có được một nhà ngoại giao thân thiện để tiếp cận anh ta trong một phi vụ, nói với anh ta cần trở lại hoạt động và tiền sẽ cao hơn. Barber đề xuất. Hãy để lại các dấu hiệu dưới mọi viên gạch và cán cờ.

– Không, Sharon nói. Qua các hòm thư, hoặc là các ông không thể liên lạc với ông ta dâu.

– Tại sao? Stewart hỏi.

– Các ông sẽ thấy thật khó là tin, nhưng tôi thề là đúng đấy. Chúng tôi không thể tìm ra ông ta là ai hết.

Bốn điệp viên phương Tây nhìn chằm chằm vào Sharon hàng phút.

– Các anh không tìm ra được ông ta là ai à? Stewart hỏi chậm rãi.

– Chưa bao giờ. Chúng tôi đã thử. Chúng tôi yêu cầu ông ta nói thật ra để có thể được bảo vệ. Ông ta từ chối, doạ sẽ im tiếng nếu chúng tôi cứ nằn nì. Chúng tôi có những phân tích chữ viết, chân dung tâm lý.

Chúng tôi đã phân tích rất kỹ các thông tin ông ta có thể cung cấp và những cái ông ta không xâm nhập được. Chúng tôi gút được một danh sách gồm 30, có thể là 40 người, tất cả đều ở xung quanh Saddam Hussein. tất cả đều trong Hội đồng Chỉ huy Cách mạng, trong lãnh đạo cao cấp của quân đội, hoặc những nhân vật cao cấp của đảng Ba’ath. Không thể có hơn thế. Hai lần chúng tôi đã đưa vào hai thuật ngữ tiếng Anh vào lời yêu cầu của chúng tôi. Lần nào chúng cũng quay trở về với lời đề nghị giải thích. Có vẻ như là ông ta không nói được hoặc là rất ít tiếng Anh. Nhưng cũng có thể là giả đò. Có thể ông ta nói rất thạo, nhưng nếu chúng tôi biết được điều đó, chúng tôi có thể thu hẹp danh sách còn hai hoặc ba người. Do đó anh ta luôn viết bằng tiếng Arập mà thôi.

Stewart càu nhàu, bị thuyết phục. “Nghe như là Họng Sâu ấy,”

– Chắc chắn Woodward và Bernstein đã định vị được Họng Sâu không? Paxman hỏi.

Họ nói thế đấy, nhưng tôi ngờ lắm. Stewart nói. Tôi cho rằng thằng cha nằm trong bóng tối rất sâu, cũng giống Jericho ấy.

Bóng tối đã rơi xuống từ lâu vào lúc bốn người trong số họ đã nhả một David Sharon kiệt sức đi về Đại sứ quán của mình. Nếu có cái gì đó anh ta có thể nói cho họ, họ sẽ bắt anh ta phải bật ra.

Nhưng Steve Laing lần này đã chắc rằng Mossad thẳng thắn. Bill Stewart đã nói với ông về mức độ sức ép từ Washington.

Hai sĩ quan tình báo người Anh và hai người Mỹ, mệt mỏi vì bánh xăng uých và cà phê, đi đến một quán ăn cách đó nửa dặm. Bill Stewart, người có cái bao tử đã điên lên vì mười hai giờ chỉ ăn bánh mỳ và căng thẳng, thích thú với một đĩa cá hồi hun khói.

– Đúng là một thằng con hoang, Steve ạ. Đó là một thằng con hoang bốn mắt thật sự. Giống như Mossad ấy, chúng ta phải thử và tìm ra một nhà ngoại giao đáng tin cậy đã được huấn luyện trong mọi trường hợp và đưa anh ta vào làm việc cho chúng ta.

– Trả tiền cho anh ta nếu chúng ta phải thế. Langley sẽ chuẩn bị tung nhiều tiền vào đó lắm đấy. Thông tin của Jericho có thể cứu nhiều mạng người khi đánh nhau bắt đầu đấy.

– Ai bây giờ. Barber nói. Nửa số đại sứ quán tại Baghdad đã bị đóng cửa. Số còn lại hẳn là phải bị giám sát chặt chẽ lắm. Ai len, Thụy Sĩ, Thuỵ Điển, hay Phần Lan đây?

– Bên trung lập không chơi trò này. Laing nói. Và tôi ngờ rằng họ có được một nhân viên được đào tạo đang cắm ớ Baghdad cho chính họ. Quên Thế giới thứ ba đi – có nghĩa là phải bắt đầu một chương trình tuyển chọn và đào tạo toàn bộ thôi.

– Chúng ta làm gì có thời gian, hả Steve. Gấp lắm rồi. chúng ta không thể đi cùng con đường với Israel đâu. Ba tuần đã là điên rồ rồi. Có thể được đấy, nhưng Baghdad đang trên con đường chiến tranh. Phải gấp thêm nữa. Hãy tỉnh táo nào. Tôi thì tôi muốn ba tháng tối thiểu để tạo cho một nhà ngoại giao.

Stewart gật đầu đồng ý.

– Vẫn còn ai đó có thể vào một cách hợp pháp. Một số nhà kinh doanh vẫn ra vào được đấy, nhất là người Đức. Chúng ta có thể lấy một tay người Đức khá, hay người Nhật.

Vấn đề rắc rối là, họ ở lại đó những chuyến ngắn lắm. Lý tưởng nhất là ai đó làm gà mẹ cho Jericho lần sau – cái gì? Bốn tháng. Thế còn nhà báo thì sao? Laing đề xuất.

Paxman lắc đầu. “Tôi đã từng nói chuyện với cả bọn họ khi họ đến; là nhà báo, họ sẽ bị theo dõi chặt lắm. Đi vòng vòng khắp nơi không thể được với một tay nước ngoài – người của AMAM bám theo họ, mọi lúc. Bên cạnh đó, đừng quên rằng nhà ngoại giao ngoại cỡ và đáng tin tưởng này, chúng ta đang nói về một chiến dịch rất bí mật. Ai cũng muốn biết cái gì xảy đến với một điệp viên rơi vào tay của Omar Khatib?

Bốn người đàn ông ở bàn ăn nghe thấy tiếng vọng bạo tàn của Khatib, chỉ huy AMAM. biệt danh là Al-Mu’azib. “Gã đồ tể”.

– Thì cũng phải liều thôi. Barber nhận xét.

– Tôi thấy nên đồng ý là hơn. Paxman nêu ý kiến. Cái mà một doanh nhân hay một phóng viên lúc nào cũng có thể đồng ý, biết rằng nó có thể trong kho nếu lấy được? Tôi thích KGB hơn là AMAM đấy.

Bill Stewart đặt chiếc nĩa của mình xuống vì tức giận và gọi một cốc sữa.

– Rồi. thế nghĩa là – không cần tìm một nhân viên được đào tạo có thể mà có thể là người lraq.

Paxman liếc nhìn vào Steve Laing, người nghĩ ngợi một lúc và chầm chậm gật đầu.

– Chúng tôi có một người làm được đấy, Paxman nói.

– Một tay Arập giả hiệu chứ gì? Thế thì chúng ta đã có Mossad rồi còn gì nữa: Stewart nói- nhưng không phải ở cỡ đó.

Mang thông tin, lấy tin. Đó là liều lĩnh nhiều, lợi nhuận nhiều.

– Không, một người Anh, một thiếu tá của SAS ấy chứ.

Stewart ngừng lại, cốc sữa vẫn còn lơ lửng treo ở mồm.

Barber bỏ chiếc dao ăn và chiếc nĩa và ngừng không nhai miếng bít tết nữa.

– Nói tiếng A rập là một chuyện. Biến thành một người Iraq ở trong đó lại là cả một chuyện khác. Stewart nói.

– Anh ta có nước da sẫm, tóc đen, mắt nâu, nhưng anh ta một trăm phần trăm Anh. Anh ta được sinh ra và lớn lên ở đó. Anh ta có thể biến thành ai đó.

– Và anh ta đã được đào tạo hoàn chỉnh trong những nhiệm vụ giả danh chứ? Barber hỏi. Mẹ kiếp, anh ta là ai thế.

– Hiện giờ, anh ta đang ở Kuwait, Laing nói.

– Mẹ kiếp. Anh muốn nói anh ta đã luồn vào đó, đã chui được vào

– Không. Anh ta có vẻ đi lại tự do lắm.

– Thế nếu anh ta có thể ra, thì anh ta sẽ làm gì?

– Hiện đang giết bọn lính Iraq.

Stewart nghĩ và chậm rãi gật đầu.

– Trò chơi lớn đấy, ông ta lẩm bẩm. Thế các ông có thể lôi anh ta ra khỏi đó không? Chúng tôi muốn mượn anh ta đấy.

– Tôi cũng cho là có thể, thế thì lần sau anh ta gửi điện đàm về nhé. Chúng tôi có thể điều hành anh ta, dù sao đi nữa. Và chia sẻ sản phẩm.

Stewart lại gật đầu.

– Tôi cũng định thế. Các anh mang lại cho chúng tôi Jericho. Đó là một cách. Tôi sẽ trình bày rõ với ông luật gia.

Paxman đứng dậy và lau mồm.

– Tốt hơn hết là tôi đi Riyadh đây.

Mike Martin là người quen tự tạo vận may cho mình, nhưng anh sống sót được qua tháng Mười đó thì quả là phải nhờ đến số mệnh.

Anh đang thực hiện một cuộc điện đàm đến nhà SIS đã định ở ngoại ô Riyadh trong cái đêm ngày 19, cùng đêm mà bốn nhân viên tình báo cao cấp đang ăn tối tại South Kensington.

Anh đang làm, anh có thể đang ở ngoài không khí, do hai giờ cách biệt, trước khi Simon Paxman có thể quay về Nhà Thế kỷ và thông báo Riyadh rằng anh ta được yêu cầu. Tệ hơn nữa, anh đã có thể gửi lên không trung trong vòng năm đến mười phút, nói chuyện với Riyadh về báo về một loạt vũ khí và đạn dược.

Trên thực tế, anh đang ở trong gara khá kín nơi anh để chiếc jeep của mình ngay trước nửa đêm, chỉ để phát hiện ra rằng chiếc xe đã xịt mất một lốp. Chửi thề, anh đành sửa xe mất một tiếng, vật lộn để tháo được vỏ xe, gần như đã bị đóng xi măng lại do một hỗn hợp những thứ bụi và cát sa mạc. Một giờ kém mười lăm phút anh lăn bánh ra khỏi gara, và mới được nửa dặm anh nhận ra cả chiếc bánh dự phòng cũng bị thủng một lỗ sâu hoắm. Chẳng thể làm gì khác ngoài việc quay trở về gara và bỏ cuộc điện đàm với Riyadh.

Phải mất hai ngày mới sửa xong cả hai chiếc lốp, và chỉ mãi đến đêm ngày 21 anh mới có thể đi sâu vào trong sa mạc, xa về phía nam thành phố, quay chiếc đĩa vệ tinh nhỏ của mình hướng về thủ đô Xeut nhiều dặm xa đó, sử dụng nút gửi để chuyển một loạt những tiếng bíp để báo rằng ai đang gọi và rằng đang chuẩn bị lên trời.

– Núi đá, Râu Đen, đọc năm.

Các mật mã được mật định giữa Riyadh và Martin hợp với nhau với ngày tháng và kênh, ngay trong trường hợp ai đó thù địch cố phá sóng.

Martin ấn nút Gửi và nói nhiều câu.

Ớ ngoại ô Kuwait City về phía bắc, một kỹ thuật viên trẻ người Iraq bị báo động bởi một ánh sáng nhảy nhót trên cái màn hình anh ta đang theo dõi trong căn hộ được yêu cầu trên tầng trên cùng toà nhà ở. Một trong số các trợ lý của anh ta đã bắt được đợt chuyển tin và khoá lại.

– Đại uý, anh ta vội vã gọi. Một sĩ quan từ bộ phận tín hiệu Phản gián của Hassan Rahmani chạy vội đến màn hình. Ánh sáng vẫn nháy, và người kỹ thuật viên đang quay một số điện thoại để báo động.

– Ai đó vừa mới gửi tin vào không trung.

– Ở đâu?

– Trong sa mạc, thưa ngài.

Kỹ thuật viên nghe ngóng các tai phôn theo các người chỉ dẫn hướng định ra theo nguồn chuyển tin.

– Chuyển bằng điện đàm, thưa ngài.

– Hẳn là hắn đấy. Ông chủ nói đúng. Tần số thế nào?

Viên sĩ quan tóm lấy điện thoại để báo động hai đơn vị tuần tra, những chiếc xe tải đỗ ở Jahra và bệnh viện Al Adan gần bờ biển.

– Hai cấp.

Nghĩa là hai mươi hai độ về phía tây ngả sang nam, và tuyệt đối không có gì ở hướng này ngoài sa mạc Kuwait, cái chạy về mọi hướng để nhập vào với sa mạc Xêut ở biên giới.

– Tần số? Viên sĩ quan gào lên khi người theo dõi ở Jahra cầm lấy máy điện thoại.

Người dò sóng nói tần số,một kênh hiếm ở tần số cực thấp.

– Trung uý,anh ta gọi qua vai mình:đến ngay căn cứ không quân Ahmadi. Nói với họ cho máy bay trực thăng. Chúng ta có mục tiêu rồi.

Ở xa trong sa mạc: Martin đã kết thúc những điều anh phải nói và bật sang nút Nhận để có được câu trả lời từ Riyadh. Không phải là cái anh đang chờ đợi. Anh nghe mười lăm giây.

– Núi Đá, Râu Đen, về hang ngay. Tôi nói lại, về hang ngay. Tuyệt đối khẩn cấp. Đi ngay lập tức.

Viên đại uý Iraq đưa tần số cho cả hai trạm khác nữa. Ở Jahra và ở bệnh viện những kỹ thuật viên khác cũng đưa máy dò của mình vào tần số đã định, và trên đầu họ những cái đĩa dường kính bốn fit đang quay về các hướng. Trạm ở bờ biển đang bao phủ khu vực từ biên giới phía bắc với Iraq của Kuwait xuống đến biên giới với A-rập Xêut. Các máy quét của Jahra đi về phía đông sang tây từ biển đến các sa mạc phía đông của Iraq ở phía tây. Giữa ba cái đó, họ có thể khoanh tam giác một địa điểm chính xác trong một trăm yard và đưa ra một chỗ và khoảng cách đến chiếc máy bay trực thăng Hind và mười người lính vũ trang của nó.

– Vẫn còn đấy chứ? Viên đại uý hỏi.

Kỹ thuật viên quét chiếc màn hình tròn trước mặt mình, choãi ra xung quanh lề của nó với những điểm của cái compa. Trung tâm của cái đĩa chính là điểm nơi hắn ta đang đứng. Mấy giây trước đã có một đường nhấp nháy đi qua màn hình, chạy từ trung tâm cái compa đến compa số 202. Giờ đây màn hình đen lại. Nó chỉ có ánh sáng trở lại khi ngườl ở đó lại chuyển tin đi.

– Không, thưa ngài, hắn đã biến rồi. Có khả năng nghe trả lời

– Hắn sẽ trở lại thôi, viên đại uý nói.

Nhưng anh ta đă sai. Râu Đen đã nghe rõ những lời chỉ dẫn bất ngờ từ Riyadh, tắt máy đi, đóng máy phát lại và gấp ăngten.

Những người Iraq đang xem tần số trong suốt đêm đó cho mãi đến sáng, trong khi chiếc Hind ở Al Ahmadi tắt máy và nằm im, những người lính mệt mỏi đi về.

Simon Paxman nằm thiếp đi trên một cái bàn của văn phòng mình khi điện thoại kêu. Đó là một nhân viên bên liên lạc của căn cứ.

– Tôi đến ngay đây. Paxman nói. Đó là một thông điệp hết sức ngắn gọn, mới được giải mã từ Riyadh. Martin đã liên lạc và đã được truyền lệnh.

Từ văn phòng của mình Paxman gọi diện cho Chip Barber ở căn phòng CIA ở quảng trường Grosvenor.

– Anh ta đang về đấy, anh nói. Chúng tôi không biết khi nào thì anh ta vượt qua biên giới. Steve nói anh ta muốn tôi đến đó. Các ông có đến không”

– Được Barber nói. DDO đang quay về Langley trong chuyến bay sáng. Nhưng tôi sẽ đi cùng với anh. Tôi phải gặp anh chàng ấy mới được.

Trong ngày 22 tháng Mười Đại sứ quán Mỹ và Văn phòng Bộ Ngoại giao Anh cả hai đều tiếp cận Đại sứ quán Xêut cho một thông báo ngắn đáng tin về một nhà ngoại giao trẻ mới cho Riyadh. Không vấn đề gì hết. Hai tấm hộ chiếu, đều không mang tên Barber hay Paxman. được cấp thị thực không chần chừ, và hai người đã lên chiếc máy bay vào 8 giờ 45 từ Heathrow, đến sân bay quốc tế King Abdulaziz ở Riyadh ngay trước khi bình minh lên.

Một chiếc xe của sứ quán Mỹ đến đón Chip Barber và đưa ông ta đi thẳng đến chỗ người Mỹ, nơi chiến dịch CIA mở rộng đóng quân, trong khi một chiếc sedan nhỏ hơn không đeo biển mang Paxman đến ngôi biệt thự nơi chiến dịch SIS Anh đang đóng. Tin đầu tiên Paxmna nhận được là Martin đã có vẻ không vượt qua được biên giới.

Lệnh quay trở về căn cứ từ Riyadh, theo quan điểm của Martin, dễ nói hơn là làm. Anh đã quay về từ sa mạc trước bình minh của ngày 22 tháng Mười và mất cả ngày đóng cửa.

Một thông điệp được để lại dưới tấm bia mộ của Able Seaman Shepton ở nghĩa địa Công giáo để giải thích cho ông Al- Khalifa rằng anh rất tiếc phải rời khỏi Kuwait. Một thông báo khác với Abu Fouad giải thích ở đâu và bằng cách nào có thể lấy được những đồ đạc vũ khí còn lạí và thuốc nổ còn chứa ở hai trong số sáu ngôi biệt thự từng là của anh.

Buổi chiều anh lái chiếc xe tải nhẹ của mình đi về trang trại lạc đà trên Sulaibiya, nơi những trạm canh cuối cùng của Kuwait City chạy đến và sa mạc bắt đầu.

Những con lạc đà của anh vẫn còn ở đó và đang rất khỏe. Con con đã trổ giò và hứa hẹn trở thành một con thú đáng giá, nên anh dùng nó để trả luôn món nợ cho người chủ trang trại đã nuôi nó hộ anh.

Ngay trước khi hoàng hôn anh leo lên con lạc đà cái và theo hướng tây nam, để khi đêm buông xuống và bóng tối lạnh lẽo của sa mạc bao phủ, thì Martin đã ở xa những dấu hiệu cuối cùng của con người.

Anh mất bốn tiếng đồng hồ chứ không phải một như thường lệ để đến được nơi anh đã chôn đài của mình, địa diểm được đánh dấu bởi một cái vỏ săm xe ô tô, trước đây rất lâu đã bị nổ và bị vứt lại đây.

Anh giấu đài vào giữa những cái mà anh đã giấu các giỏ của mình. Ngay cả với những cái đó, con lạc đà vẫn thoải mái mang như là nó đã mang thuốc nổ và vũ khí vào Kuwait chín tuần trước đây.

Nó sẽ không để lộ dấu hiệu gì, chán nản đi vì đã bị mang nặng và bị tách khỏi chỗ sung sướng ở trang trại. Nhưng nó không từ chối và đi hàng dặm trong bóng tối. Tuy nhiên, đó là một chuỵến đi khó nhọc, so với chuyến đi giữa tháng Mười. Trong khi đi về phía nam, Martin nhìn thấy ngày càng nhiều dấu hiệu của quân đội lraq giờ đây đã vào sâu trong khu vực phía nam thành phố, trải dài xa hơn về phía tây biên giới Iraq.

Thường thì anh có thể nhìn thấy dấu những ngọn đèn của các giếng dầu ở đâu đó trong sa mạc, và biết người Iraq có thể đã chiếm chúng, bèn đi sâu vào trong vùng cát để tránh họ. Vào những dịp khác anh đã hít thở khói đốt gỗ từ một đám lửa của người lraq và đã có thể chui vào đâu đó ngủ. Một lần anh suýt rơi vào một trung đội tăng, trốn sau những bức tường cao của cát ngay trước mặt người Mỹ và người Xêut ngang qua biên giới về phía nam. Anh nghe thấy tiếng động của kim loại đúng lúc, để giật cương đột ngột sang phải, và quay lại lủi vào trong những đụn cát.

Khi anh xâm nhập chỉ có hai đội Vệ binh Cộng hoà lraq ở phía nam Kuwait, và xa hơn về phía đông, sang nam của Kuwait City. Giờ đây sư đoàn Hammurabi đã nhập vào hai cái đó, và 11 sư nữa, chủ yếu là quân chủ lực, đã được lệnh đi vào miền nam Kuwait để đánh nhau với người Mỹ và Liên quân ở bên kia. 14 sư đoàn là một nguồn nhân lực lớn, ngay cả khi trải rộng trên sa mạc. May làm sao cho Martin, có vẻ họ canh gác mà không có trạm canh và ngủ rõ say giữa xe cộ của mình. nhưng số lượng người đó đẩy anh đi xa mãi về phía tây.

Không thể vượt qua 15 km ngắn ngủi để đến được ngôi làng Xêut của Hamatiyyat với trang trại lạc đà Kuwait, anh đã bị đẩy lên phía tây đến tận biên giới với Iraq, được đánh dấu bởi vịnh nước sâu của Wadi el Batin, cái mà anh thực sự không hề muốn đi qua.

Bình minh đã lên khi anh ở phía tây của vùng dầu Manageesh và còn ở Bắc của trạm cảnh sát Al Mufrad, cái đánh dấu biên giới ở những điểm nổi lên.

Đất đã dốc lên, và anh thấy một đám đá trong đó có thế qua ngày. Khi mặt trời lên, anh xuống lạc đà, đang thở phì phò và nhìn cát với đá vẻ kinh tởm, chẳng buồn đi kiếm một cọng cỏ để ăn sáng, rồi chui vào chỗ ngủ.

Vừa mới sau buổi trưa, anh bị đánh thức bởi tiếng động của những chiếc xe tăng khá gần và nhận ra anh ở quá gần đường chính dẫn đến Jahra, ở Kuwait, về tây nam để vượt qua Ảrập Xêut ở trạm hải quan Ai Salmi. Sau khi mặt trời xuống anh đợi đến lúc đêm xuống thật tối rồi mới lên dường. Anh biết biên giới không thể xa hơn 12 dặm về phía nam. Sự khởi hành muộn của anh cho phép anh đi về giữa những đội canh lraq vào khoảng ba giờ sáng, cái giờ tâm trí con người đang xuống thấp nhất và chỉ muốn ngày khò khò.

Bằng ánh sáng trăng, anh nhìn thấy trạm cảnh sát Qaimat Subah đang đứng một bên đường, và còn cách đó hai dặm, anh biết mình đã vượt được qua biên giới. Để đến được bên an toàn, anh đã phải bỏ đường cái đông-tây giữa Hamatiyyat và Ar-Rugi. Ở đó anh tháo chiếc đĩa của mình. Vì người Iraq phía bắc đã đi sâu vào hàng dặm bên kia biên giới Kuwait, và vì các lực lượng cho kế hoạch của tướng Schwarzkopf tên là Lá chắn Sa mạc cũng đứng sát đó để đảm bảo sẽ biết, khi bị tấn công. rằng liệu Iraq có thật sự xâm lược Kuwait hay không, nên Martin thấy mình ở giữa một vùng không bóng người. Một ngày nào đó, vùng đất vắng người đó có thể sẽ trở thành một dòng thác khủng khiếp của các dòng suối quân Xêut và Mỹ theo hướng bắc về phía Kuwait. nhưng trong bóng tối trước bình minh của ngày 24 tháng Mười đó anh chỉ có một mình mà thôi.

Simon Paxman bị đánh thức bởi một thành viên cấp thấp của đội Nhà Thế kỷ đang ở trong biệt thự.

– Râu Đen đã gửi tin. Simon. Anh ta đã vượt được qua biên giới.

Paxman nhảy ra khỏi giường và chạy vào phòng điện đàm trong bộ pyjama. Một người điều hành điện đàm trên một chiếc ghế đung đưa ngồi trước một màn hình chạy suốt một bức tường đã từng là một căn phòng ngủ khá thanh lịch. Bởi vì đã là ngày 24, các mật mã đã thay đổi.

– Corpus Christi gửi Texas Ranger, anh là ai? Nói lại đi, định vị địa điểm của anh đi.

Giong nói hơi nhỏ, nhưng hoàn toàn rõ.

– Phía nam Qaimat Subah, trên đường từ Hamatiyyat đến Ar-Rugi.

Người điều khiển máy quay lại liếc nhìn Paxman. Nhân viên SIS ấn nút Gửi và nói:

– Ranger, ở nguyên đó. Có một chiếc taxi đang đến đón anh đấy.

– Hiểu, giọng nói cất lên. Tôi sẽ đợi chiếc xe đen.

Đó thực ra không phải là một chiếc xe buýt màu đen. Đó là một chiếc trực thăng Blackhawk của Mỹ đang bay trên đường từ hai giờ trước, một chiếc chở nặng đang ở cửa dưới người phi công, mắt đeo một đôi kính, đang nhìn xuống dấu vết mờ mịt ở trên đường. Từ hai trăm fít, chiếc máy bay nhìn thấy một người đàn ông đang đứng cạnh một con lạc đà và bay xuống khi người đàn ông vẫy tay.

Chiếc Blackhawk thả xuống một cái thang dây và nhìn người Bedou chằm chằm. Cho đến khi người phi công biết, thì đã quá gần biên giới một cách khó chịu. Còn nữa, địa điểm bản đồ anh đã được đưa bởi sĩ quan tình báo đội bay rất chính xác, vả lại không còn ai trong tầm nhìn nữa cả.

Chính Chip Barber đã thu xếp với quân đội Mỹ ở căn cứ không quân Riyadh cho mượn một chiếc Blackhawk để đi đón một người Anh đã vượt qua biên giới khỏi Kuwait. Chiếc Blackhawk đã lên đường, nhưng không ai nói với viên phi công về một người thổ dân Bedouin với một con lạc đà hết cả.

Khi những phi công quân đội Mỹ nhìn từ hai trăm fít. người đàn ông dưới đất đang đứng giữa một dải đá. Chiếc máy bay to định vị vào tấm gương của mình để nhìn cách bố trí những viên đá. Nó nói rất đơn giản: Chào, ở đây này.

Người lái nói qua chiếc mặt nạ.

– Đúng thằng cha đó rồi. Xuống mang hắn lên đi.

Viên phi công gật đầu, và chiếc Blackhawk bay vòng vòng và đi xuống cho đến khi nó chỉ còn cách mặt đất 20 yard cách người đàn ông và con thú của anh ta.

Martin đã cầm các giỏ và bộ yên lạc đà nặng khỏi con vật và đẩy nó sang bên đường. Bộ điện đàm và vũ khí cá nhân của anh, khẩu Browning 9 ly mười ba phát tự động rất được người của SAS yêu thích, đang nằm trong chiếc túi đeo qua vai.

Khi chiếc trực thăng hạ xuống, con lạc đà sợ hãi và vùng ra chạy. Martin nhìn nó chạy đi. Nó đã phục vụ anh rất tốt, dù cái tính khí dở người của nó. Nó có thể sẽ không gặp nguy hại gì khi đi một mình trong sa mạc.

Hẳn nó sẽ về nhà. Nó có thể đi lang thang tự do, tự tìm thức ăn và nước, cho đến khi một người Bedou nào đó tìm thấy nó, thấy không có dấu và sung sướng chiếm nó thành của riêng luôn.

Martin cúi gò người tránh gió và chạy đến cánh cửa đang mở. Qua tiếng ồn của động cơ, người lái phụ hét lên:

– Tên anh là gì?

– Thiếu tá Martin.

Một bàn tay chìa ra khỏi cửa để kéo Martin vào trong khoang lái.

– Xin chào mừng lên máy bay, thiếu tá.

Vào điểm máy móc ầm ĩ không thể nói chuyện được, người lái phụ trao cho Martin cái che tai rồi ngồi sau, và quay trở về Riyadh.

Lại gần thành phố, người phi công lượn xuống một ngôi biệt thự ngoài ngoại ô thành phố. Gần đó là một khoảng đất trống rộng ai đó đã để đó thành hình chữ H. Khi chiếc Blackhawk lượn xuống, người đàn ông trong bộ áo Arập nhảy từ ba fít xuống đất, quay lại vẫy tay cảm ơn đội bay, và đi về phía ngôi nhà khi chiếc trực thăng bay đi. Hai người phục vụ kéo rèm lại.

Martin đi qua cửa hình vòm vào bức tường ngôi biệt thự và thấy mình trong một cái sân có treo cờ. Hai người đàn ông đi ra từ cánh cửa ngôi nhà. Một người anh nhận ra từng gặp ở đại bản doanh SAS ở tây London nhiều tuần trước.

– Simon Paxman, người trẻ hơn nói, bắt tay anh. Tốt làm sao là anh lại về được. Đây là Chip Barber, một trong những người anh em của chúng ta từ Langley.

Barber bắt chặt tay anh và tiến lên trước mặt anh, một chiếc áo dài màu trắng trùm từ cằm xuống sàn nhà, một chiếc khăn quấn quanh vai, một keffiyeh với hai cái dây màu đen để giữ yên nó, một khuôn mặt xương, nặng nề, tóc đen, mắt đen.

– Rất mừng được gặp anh, thiếu tá. Tôi đã nghe nới nhiều về anh. Mũi ông ta nhảy nhảy. Anh cần nước nóng để tắm chứ?

– Ồ đúng, tôi sẽ chuẩn bị ngay thôi, Paxman nói.

Martin gật đầu nói “Cám ơn “, và đi vào trong ngôi biệt thự mát mẻ. Paxman và Barber vào sau anh. Barber cảm thấy rất hãnh diện với bản thân.

– Mẹ kiếp, ông ta nghĩ. Không thể nghĩ thằng cha này làm thế được.

Mất nhiều lần tắm liên tục trong chiếc bồn tắm bằng đá của biệt thự, do hoàng thân Khaled bin Sultan tặng người Anh. Martin mới bỏ được những bụi bặm và hôi hám của nhiều tuần dồn lại. Anh ngồi khoanh tay trong khi một người thợ cạo được gọi đến cho mục đích cắt tóc cho anh, rồi cạo râu với nước cạo của Simon Paxman.

Chiếc keffiyeh của anh, khăn choàng, rồi áo dài, và dép đã được mang ra ngoài vườn, nơi một người hầu Xêut cho vào lửa đốt Hai giờ sau, trong một đôi giày cô tông nhẹ của Paxman và một chiếc áo phông ngắn, Mike Martin ngồi tại bàn ăn và ngắm nhìn bữa trưa hết sức ngon lành.

– Anh có thể nói cho tôi được không, anh hỏi, tại sao anh lại rút tôi ra?

Chip Barber trả lời.

– Câu hỏi hay đấy, thiếu tá. Mẹ kiếp câu hỏi hay thật. Xứng đáng một câu trả lời thật chuẩn. Đúng không nào? Sự thật là, chúng tôi muốn anh vào Baghdad. Tuần sau. Xalat hay cá nào?

Bình luận