Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Những Bí Ẩn Của Sa Mạc

Chương 11

Tác giả: Frederik Forsythe

Phải mất một chặng đi bộ khá dài vào lúc sáng sớm từ trạm xe buýt phía bắc thành phố đến ngôi nhà của Bí thư thứ nhất Liên Xô ở quận Mansour, nhưng Martin thích điều này.

Thử nhất, anh đã phải đi hai chiếc xe buýt khác nhau, trong vòng 12 tiếng đồng hồ, đi tới 240 dặm từ Al-Rutba đến thủ đô và không phải trên những chiếc ghế bành hảo hạng. Một lý do nữa, cuộc đi bộ cho anh cơ hội một lần nữa có lại được cảm giác về thành phố anh đã không nhìn thấy kể từ khi rời khỏi trên một chuyến máy bay đi London khi còn là một cậu bé học trò 13 tuổi đầu óc luôn sôi sùng sục, và đã là hai mươi tư năm trôi qua rồi.

Rất nhiều thay đổi. Thành phố anh nhớ từng là một thành phố rất Arập, nhỏ hơn nhiều, quây lấy xung quanh các quận trung tâm Shaikh Omar và Saadun ở bờ Tây Bắc của sông Tigris ở Risafa, và quận Aalam đi qua con sông ở Karch. Trong cái thành phố bên trong này nơi phần lớn cuộc sống diễn ra; ở đó là những phố chật hẹp, lối đi, chợ, nhà thờ hồi giáo, và những ngôi nhà nhỏ chiếm lĩnh đường chân trời để nhớ đến những người phục vụ cho thánh Allah.

Hai mươi năm thu nhập từ dầu hoả đã mang đến những đường cao tốc phân luồng đi qua những không gian trước đây rộng mở với những cầu quay. cầu vượt, và những chỗ giao nhau lớn. Xe cộ đông đặc. và những toà nhà chọc trời, Mammon đã vượt đối thủ cũ. Mansour, khi anh đã đến nơi của phố Rabia, rất khó nhận biết. Anh nhớ đến những khoảng không gian rộng mở xung quanh Câu lạc bộ Mansour nơi cha anh từng mang cả nhà đến vào các buổi chiều kỳ nghỉ cuối tuần. Mansour rõ ràng vẫn còn là một ngoại ô nghèo nàn, nhưng những không gian rộng mở đã được lấp đầy với đường phố và các căn nhà cho những người có khả năng chi trả sống có phong cách.

Anh chỉ đi cách vài trăm yard ngôi trường dự bị cũ kỹ của ông Hartley, nơi anh đã học những bài học và đã chơi đùa trong những giờ nghỉ với những người bạn Hassan Rahmani và Abdelkarim Badri, nhưng trong bóng tối anh không nhận ra phố đó.

Anh chỉ biết công việc Hassan hiện giờ đang làm, nhưng hai người con trai của bác sĩ Badri thì anh chẳng hề nghe thấy gì trong suốt một phần tư thế kỷ nay. Liệu đứa nhỏ, Osman, với năng khiếu toán học của mình, cuối cùng đã trở thành một kỹ sư. Anh tự hỏi. Và còn Abdelkarim, người từng đoạt nhiều giải thưởng đọc thơ Anh – liệu anh ta có trở thành nhà thơ hay nhà văn không?

Nếu Martin đi bộ theo cách của SAS, chỉ bằng gót và đầu ngón chân, vai giữ nguyên để trợ sức cho đôi chân, anh có thể đi hết chặng đường chỉ trong một nửa thời gian. Anh cũng có thể nhớ là, cũng giống như hai kỹ sư ở Kuwait, mà “anh có thể ăn mặc kiểu A -rập, nhưng anh vẫn đi theo kiểu người Anh”.

Nhưng đôi giày của anh không buộc dây chặt lắm. Chúng là những chiếc cũ với đế tốt, đồ đi dưới chân của một fellagha nghèo Iraq, cho nên anh vừa huýt sáo vừa gù gù đi, đầu cúi gằm.

Ở Riyadh họ đã cho anh xem một bản đồ mới cập nhật của thành phố Baghdad, và nhiều bức ảnh chụp từ độ cao nhưng khá là đẹp phóng to, người ta có thể nhìn vào những khu vườn sau những bức tường, có thể dựa vào những bể bơi và xe ôtô để biết về sự phong lưu và quyền lực.

Tất cả những cái đó anh đã ghi nhớ. Anh rẽ trái đi vào đường Jordan và đi vừa qua quảng trường Yarmuk anh đi sang phải đến một đại lộ đầy cây nơi nhà ngoại giao Liên Xô sống.

Trong những năm 1960, dưới Kassem và những vị tướng tiếp theo ông ta, Liên Xô đã có được một vị thế được ưu đãi và đầy uy tín tại Baghdad, thu phục được chủ nghĩa dân tộc Arập bởi vì nó được coi là chống phương Tây, trong khi cố đẩy thế giới Arập sang đi theo Chủ nghĩa Cộng sản. Trong những năm đó đại sứ quán Liên Xô đã mua nhiều ngôi nhà rộng rãi ở bên ngoài khu của mình, những ngôi nhà không hoàn toàn chỉ cho nhân viên, và như một sự nhân nhượng những ngôi nhà đó và mặt đất của chúng đã được chuyển sang chế độ lãnh thổ Liên Xô Đó là một đặc quyền mà ngay cả Saddam Hussein cũng không bao giờ dám bỏ đi, nhất là vào những năm 1980 khi những đồ tiếp tế chính yếu ở Matxcơva, và 6000 cố vấn quân sự đang huấn luyện cho Không quân và các đội lính thuỷ của ông với trang thiết bị của Nga.

Martin tìm thấy toà biệt thự và nhận ra nó bởi hàng rào nhỏ báo hiệu ngôi nhà thuộc về Đại sứ quán Liên Xô. Anh bấm chuông ngoài cổng và đứng chờ.

Sau nhiều phút cửa mở ra để lộ một người Nga đồ sộ, tóc cắt cua trong bộ đồ màu trắng của một người quản gia.

– Da? Anh ta nói.

Martin trả lời bằng tiếng Arập, lời của một người thuộc cấp nói với cấp trên của mình. Người Nga gật đầu. Martin cúi xuống trong chiếc áo dài của mình và trình thẻ căn cước. Điều này có ý nghĩa đối với ông quản gia. Ông ta cầm lấy thẻ, nói. “Chờ nhé ” bằng tiếng Arập, và đóng cửa lại.

Năm phút sau ông ta quay lại. báo cho người lraq trong chiếc dish-dash nhầu nhĩ đi qua cửa vào sân trước. Ông ta dẫn Martin đi tới những bậc thang dẫn tới cửa chính của biệt thự.

Khi họ đến dưới thềm một người xuất hiện ở trên cao. .

– Được rồi để tôi, anh ta nói tiếng Nga với người phục vụ. Anh ta nhìn người Arập và đi vào ngôi nhà.

Yuri Kulikov, bí thư thứ nhất của Đại sứ quán Liên Xô, là một nhà ngoại giao rất chuyên nghiệp, người đã thấy lệnh từ Matxcơva thật kỳ quặc nhưng không thể thoái thác. Rõ ràng anh ta đang ăn tối, vì đang quấn một chiếc khăn anh mà anh ta dùng để chùi miệng và đi xuống các bậc thang.

– Thế là ông tới rồi đấy, anh ta nói bằng tiếng Nga. Giờ thì nghe nhé, nếu chúng ta phải làm cái trò này, thì phải làm thôi. Nhưng bản thân tôi thì sẽ không làm gì đâu đấy nhé. Panimayesh?

Martin, không nới được tiếng Nga, nhún vai tuyệt vọng và nói bằng tiếng Arập:

– Xin ngài, bey?

Kulikov thay đổi ngôn ngữ rất chóng. Martin nhận ra với một sự mỉa mai tinh tế rằng nhà ngoại giao Liên Xô thật sự nghĩ nhân viên mới không mời mà tới là một người Nga đồng chí đã gán cho anh ta bởi những chuyện gì đó ở Lubianka ở Matxcơva.

– Ồ tốt lắm, tiếng Arập nếu anh muốn, anh ta nói buồn rầu. Anh ta đã phải cố công học tiếng Arập. thứ tiếng anh ta nói tốt với một âm sắc nặng của Nga. Thật tệ nếu người trước mặt anh ta là một nhân viên của KGB. Thế là anh ta tiếp tục bằng tiếng Arập.

– Đây là thẻ của anh. Còn đây là bức thư tôi được lệnh chuẩn bị cho anh. Bây giờ, anh sẽ sống trong túp lều ở cuối vườn nhé, hãy lo cho đất đai, và đi chợ nếu quản gia ra lệnh. Ngoài đó ra, tôi không muốn biết gì. Nếu anh bị tóm, tôi không biết gì ngoài việc tôi đã nhận anh một cách vui lòng. Giờ thì đi làm việc của anh và quẳng những con gà đáng nguyền rủa đó đi nhé. Tôi sẽ không nhìn thấy gà qué chạy trong vườn đâu đấy.

Cũng là may, anh cay đắng nghĩ khi anh ta quay trở lại để tiếp tục bữa tối bị bỏ dở. Nếu bị tóm đến một chỗ nào đó, AMAM sẽ nhanh chóng biết anh ta là người Nga, và ý tưởng anh là một trong số những nhân viên thân cận của bí thư thứ nhất nhỡ đâu sẽ lại là tốt để bị chui xuống sông Tigris. Yuri Kulikov thực sự rất cú Matxcơva.

Mike Martin tìm thấy chỗ của mình dựa lưng vào bức tường hậu của cái vườn rộng một phần tư acre, một bungalow một buồng có phòng tắm, một cái bàn, hai cái ghế. một hàng chốt trên tường, và một chỗ tắm kín trong một góc. Kiểm tra xa hơn anh thấy một nhà vệ sinh mặt đất gần đó và một vòi nước lạnh trên tường khu vườn. Điều kiện vệ sinh hiển nhiên là khá cơ bản và thức ăn được đưa tới từ cái cửa bếp ở sau ngôi biệt thự. Anh nháy mắt. Ngôi nhà ngoại ô Riyadh có lẽ là xa xôi quá rồi.

Anh tìm thấy một đống nến và một số bao diêm. Nhờ ánh sáng lim rim , anh kéo rèm che cửa sổ và đi làm việc trên mặt đất cứng của nền nhà với chiếc dao găm của mình. Một giờ lao động mệt nhọc anh đào được bốn hố, và một giờ nữa đào thêm được hố để máy phát điện đàm, pin, máy thu, và đĩa vệ tinh.

Một hỗn hợp bùn và đất bẩn giữa hố là những dấu hiệu còn lại duy nhất của công việc của anh. ‘Ngay trước nửa đêm, anh dùng con dao của mình để cậy cái đáy giả của lồng gà và đưa những thứ trong đó vào đúng chỗ, cho nên không còn dấu vết gì còn lại của cái hố rộng bốn inch. Trong khi anh làm việc lũ gà đi lại trên sàn nhà, hy vọng tìm kiếm những hạt lúa mì không tồn tại nhưng lại tìm được những con sâu.

Martin ăn nốt những quả ôliu và xúc xích của mình và chia những mẩu còn lại của chiếc bánh pita với những người bạn đồng hành của mình, cùng với một cái bát nước lấy từ cái vòi bên ngoài lều.

Bọn gà quay trở lại lồng, và nếu chúng tìm thấy nhà của mình giờ đây sâu hơn trước bốn inch thì chúng cũng chẳng phàn nàn tẹo teo nào. Chúng đã trải qua một ngày thật dài, và chúng muốn ngũ.

Cuối cùng Martin nhìn qua một lượt những cây hoa hồng của Kulikov trước khi thổi tắt nến, cuộn người vào trong chăn và cũng làm giống như bọn gà.

Đồng hồ tay của anh đánh thức anh dậy lúc bốn giờ sáng. Lấy đồ phát sóng từ trong những chiếc túi nhựa ra anh ghi một lời nhắn ngắn cho Riyadh, tua nhanh nó lên hai trăm lần, nối với chiếc máy ghi âm vào máy phát, và dựng đĩa vệ tinh lên, cái chiếm khá nhiều chỗ trong lều hướng về cửa sổ mở rộng.

Vào bốn giờ 45 sáng anh gửi một thông tin một chiều trong kênh của ngày, rồi tháo rời tất cả và cất chúng xuống dưới sàn nhà.

Bầu trời vẫn còn tối đen trên khắp Riyadh khi một chiếc đĩa tương tự trên nóc toà nhà SIS bắt được tín hiệu dài có một giây và giải mã nó ra trong căn phòng thông tin. Thời gian chuyển tin “cửa sổ” là từ bốn giờ rưỡi đến năm giờ sáng, và cái đồng hồ nghe đã báo.

Hai cái băng quay bắt dược tin từ Baghdad, và một ánh sáng báo hiệu loé lên để báo cho các kỹ thuật viên. Họ tua chậm thông tin hai trăm lần cho đến khi âm thanh trong tai nghe trở nên rõ ràng. Một người ghi lại bằng tay, gõ nó vào máy tính, và ra khỏi phòng.

Julien Gray, chỉ huy trạm, được lay dậy vào lúc 5 giờ 15.

– Râu Đen đấy. anh ta đã ở trong rồi.

Gray đọc bức tin với sự xáo động tăng cao và đi đánh thức Simon Paxman dậy. Chỉ huy bàn Iraq giờ đây đang trong nhiệm vụ mở rộng ở Riyadh, nhiệm vụ của anh ta ở London đã được thuộc cấp của anh ta đảm nhiệm. Anh ta ngồi dậy, tỉnh táo, và đọc nó.

– Mẹ nó chứ, cho đến giờ thì tốt quá.

– Vấn đề có thể nảy sinh, Gray nói, khi anh ta thử đánh động Jericho.

Đó là một suy nghĩ thật u tối. Tài sản trước đây của Mossad ở Baghdad đã tắt lịm trong tròn ba tháng trời. Ông ta có thể đã khai hết ra hoặc đã bị bắt, hoặc chỉ đơn giản là thay đổi suy nghĩ. Ông ta có thể đã biến, đặc biệt nếu như ông ta ở vào trong số những người đang chỉ huy các đội quân ở Kuwait.

– Điều gì cũng có thể xảy ra. Paxman đứng lên.

– Tốt hơn là báo cho London. Có uống cà phê không?

– Tôi sẽ bảo Mohammed mang đến cả đây, Gray nói.

Mike Martin tưới những luống hoa vào năm giờ rưỡi, khi ngôi nhà bắt đầu dậy. Người đầu bếp, một phụ nữ Nga kín tiếng, nhìn thấy anh từ cửa sổ của bà và, khi nước nóng, gọi anh qua cửa sổ bếp.

– Kak mazyvaetes? Bà ta hỏi, rồi nghĩ một lúc và nói bằng tiếng Arập: Tên là gì?

– Mahmoud, Martin nói.

– Được có cà phê đây này, Mahmoud.

Martin gật đầu nhiều lần tỏ ý đồng ý, lẩm bẩm “sukran” và cầm lấy chén nước bằng hai tay. Anh không đùa; đó thật là thứ cà phê ngon và là đồ uống nóng đầu tiên của anh ở bên kia biên giới của Xêut.

Bữa sáng vào lúc bảy giờ, một bát đậu và bánh pita, mà anh ăn rất ngon lành. Có vẻ như là người quản gia anh đã gặp tối qua và vợ ông ta, người đầu bếp, chăm sóc bí thư thứ nhất Kulikov, người có vẻ như không có vợ. Khoảng tám giờ, Martin gặp người tài xế, một người lraq nói bập bẹ tiếng Nga và có thể là người phiên dịch hữu hiệu những thông điệp đơn giản đến nhưng người Nga.

Martin quyết định không quá thân với người tài xế, người có thể là người của Cảnh sát mật AMAM gài vào, hay thậm chí là người của cơ quan phản gián của Rahmani. Việc đó có vẻ như chẳng vấn đề gì hết cả; điệp viên hay không, người tài xế cũng là một kẻ hãnh tiến và đối xử với người làm vườn mới với vẻ khinh khỉnh. Anh ta, tuy nhiên, cũng đồng ý giải thích với người đầu bếp là Martin phải đi khỏi một lúc vì ông chủ của họ đã lệnh cho anh rũ bỏ khỏi lũ gà.

Đi ra phố, Martin hướng về trạm xe buýt, giải phóng hai con gà ra một cái đường có khoảng sân rộng trên đường. Cũng như nhiều thành phố Arập, bến xe buýt ở Baghdad không chỉ đơn giản là nơi để lên các xe cộ rời đi các tỉnh. Đó còn là một nơi nhung nhúc người của giai cấp lao động nơi người ta có đủ thứ để mua và bán. Chạy dọc theo bức tường phía nam là một cái chợ trời rất hữu dụng. Chính ở nơi đó mà Martin, sau khi đã lựa chọn chán chê, mua một chiếc xe đạp củ rích có thể đi được lắc lư nhưng có thể sửa lại khi tra thêm dầu vào.

Anh biết anh không thể đi lại bằng ôtô, và thậm chí một chiếc xe máy cũng là quá đáng với một người làm vườn tầm thường. Anh nhớ đến người làm cũ cho cha mình cong lưng đạp xe qua thành phố từ chợ này đến chợ khác, mua thực phẩm hàng ngày và qua đó anh có thể thấy một cái xe đạp vẫn còn là cách thức thông thường hoàn hảo cho nhưng người lao động để đi lại.

Một công việc nhỏ với cái dao găm lên trên cái lồng gà, biến nó thành một cái lồng xe vuông có nắp ở trên, mà anh có thể đảm bảo chỗ đằng sau xe với hai cái dây, trước đây là dây bảo hiểm trên ôtô mà anh mua được từ một gara ôtô phố sau.

Anh đạp xe quay trở về trung tâm thành phố và mua bốn cây phấn viết màu sắc khác nhau từ một trạm bán ở đường Shurja, ngay bên kia Nhà thờ Thiên chúa giáo thánh Joseph, nơi những người Công giáo Chalde gặp nhau để cẩu nguyện.

Anh nhớ lại khu vực của tuổi thơ mình, Agid al Nasara, hay Khu vực Công giáo, và Shurja và những phố Bờ sông vẫn còn đầy những chiếc ôtô đậu trái phép và những người ngoại quốc đổ vào mua rau cỏ và những thứ hương liệu.

Khi anh còn là một cậu bé, thì chỉ có ba cái cầu bắc qua sông Tigris: cầu Đường sắt ở phía bắc, cầu Mới ở giữa, và cầu Vua Faisal ở phía nam. Giờ thì có chín cái. Bốn ngày sau cuộc không kích lại đến, có thể chẳng còn cái nào, vì cái nào cũng là mục tiêu của Hố Đen ở Riyadh. Nhưng vào tuần đầu tiên của tháng Mười một, cuộc sống của thành phố vẫn nhộn nhịp không ngừng qua lại chúng.

Điều khác mà anh nhận ra là sự có mặt khắp mọi nơi của Cảnh sát mật AMAM, mặc dù phần lớn trong họ không tỏ vẻ gì là mật cả. Họ nhìn ngó các góc phố và từ những chiếc xe đỗ. Hai lần anh nhìn thấy những người nước ngoài bị chặn lại và đòi trình thẻ căn cước, và hai lần anh nhìn thấy chuyện đó xảy đến với người Iraq. Cách đối xử với người nước ngoài là sự tức bực dồn nén, nhưng còn với người Iraq thì đúng là sự đe doạ ra mặt.

Trên bề mặt cuộc sống thành phố vẫn tiếp tục, và người dân Baghdad vẫn còn rất vui vẻ như cũ, nhưng anh biết là dưới vẻ ngoài đó, dòng sông hoảng loạn do bạo chúa áp đặt trong toà cung điện khổng lồ ngay bên bờ sông gần cầu Tammuz là rất mạnh và sâu sắc.

Sáng đó anh đảo cái chợ nơi người Baghdad vẫn đến mua thực phẩm. Anh đang ở chợ hoa quả và rau Kasra, ở bên kia qua sông ngôi nhà mới của anh, mặc cả giá về một loại quả tươi với một người bán hàng già cả. Nếu những người Nga vẫn tiếp tục cho anh ăn đậu và bánh, anh ít nhất có thể hỗ trợ cho cái thực đơn nghèo nàn đó bằng một số hoa quả.

Gần đó, bốn người của AMAM đang khám xét một anh chàng trẻ tuổi rất gắt gao trước khi để anh ta đi. Người bán hoa quả già lắc đầu và phủi bụi, suýt làm vỡ những quả trứng của mình.

– Một ngày nào đó Beni Naja sẽ trở lại và đánh bật lũ bẩn thỉu này đi, ông ta lẩm bẩm.

– Cần thận nào, sao lại nói những lời ngu ngốc thế. Martin thì thào, đang chọn mấy quả lê chín. Người đàn ông nhìn chằm chằm vào anh.

– Anh từ đâu đến, người anh em?

– Từ xa lắm. Một làng ở phía bắc, trên Baji ấy.

– Thế thì quay về nhà đi, nếu anh coi trọng lời khuyên một người già. Tôi đã nhìn thấy nhiều rồi. Bem Naji sẽ quay trở lại từ trên trời, áy dà, và Beni el Kalb.

Ông ta lại phủi tay, và lần này những vỏ trứng không được may mắn như lần trước nữa. Martin trả tiền những gì mình chọn, lê và chanh, và đạp xe đi. Anh về đến nhà của bí thư thứ nhất Liên Xô vào buổi trưa. Kulikov đã đi đến Đại sứ quán từ lâu và lái xe đi với anh ta, thế là dù Martin có bị người đầu bếp đối xử tệ, nói bằng tiếng Nga, thì anh cũng chỉ nhún vai và đi ra vườn.

Nhưng anh bối rối về điều mà người bán rau già đã nói. Một số người, có vẻ thế, có thể nhìn thấy trước sự xâm chiếm của họ và không chống lại. Câu “Đuổi lũ bẩn thỉu này đi” chỉ có thể dẫn đến Cảnh sát mật, và do đó nhất là Saddam Hussein.

Trên các đường phố Baghdad, người Anh được gọi là Beni Naji. Chính xác thì hài cốt Naji đã tan theo thởi gian, nhưng người ta vẫn tin ông là một người thông thái và đáng tôn kính. Cảc sĩ quan trẻ người Anh đóng ở phần đó của vương quốc thường đến thăm ông, ngồi dưới chân ông và nghe những lời thông thái của ông. Ông đối xử với họ như con trai của mình. ngay cả khi họ là người Công giáo và do đó dù phản bội. thì người ta vẫn gọi họ là “Các con trai của Naji”.

Người Mỹ được gọi là Beni el Kalb. Kalb trong tiếng Arập là một con chó, và con chó, thì không phải là tạo vật được đánh giá cao trong văn hoá Arập.

Gideon Barzilai ít nhất cũng có thể rút được vài điều có ích từ báo cáo về Ngân hàng Winkler do viên sayan chuyển về ngân hàng của đại sứ quán cung cấp. Nó cho ông ta thấy được hướng cần theo.

Ưu tiên số một của ông là nhận diện đâu trong ba phó chủ tịch, Kessler, Gemuetlich, hay Blei, là người quản lý tài khoản thuộc về người Iraq bí mật Jericho.

Con đường nhanh nhất có thể là một cú điện thoại, nhưng xem theo báo cáo, Barzilai chắc chắn không ai trong số họ sẽ chấp nhận nó bất cứ điều gì qua một đường dây điện thoại bình thường.

Ông chuyển lời yêu cầu của mình đã được mã hoá cao độ từ trạm Mossad đặt ngầm dưới đất dưới Đại sứ quán tại Vienna và nhận được trả lời từ Tel Aviv nhanh hết mức có thể lo được.

Đó là một bức thư, đươc làm giả từ một trong những ngân hàng Anh lâu đời và uy tín bậc nhất, Coutts of The Strand, London, ngân hàng riêng của Nữ hoàng tôn kính. Chữ ký là một bản làm giả hoàn hảo chữ viết tay của một nhân viên cao cấp của Coutts, tại một chi nhánh nước ngoài.

Không có tên người nhận, trên phong bì của thư chỉ bắt đầu đơn giản bằng lời chào “Ngài kính mến.”

Văn bản của bức thư đơn giản và đi thẳng vào vấn đề. Một khách hàng quan trong của Coutts có thể sắp tới sẽ thực hiện một chuyển khoản lớn vào tài sản được đánh số của Ngân hàng Winkler – và nêu rõ số ra. Khách hàng của Coutts được báo là họ phải dính vào những lý do kỹ thuật và không thể tránh khỏi, đó có thể là bị hoãn nhiều ngày để chuyển số tiền. Liệu khách hàng của Winkler có thể yêu cầu không đến đúng lúc, Coutts có thể vô cùng biết ơn nếu ông Winkler có thể báo cho họ khách hàng của họ rằng cuộc chuyển khoản đang được thực hiện và có thể đến do một sự chậm trễ mà họ không muốn. Cuối cùng: Coutts rất coi trọng một sự hiểu biết của sự đến an toàn của chuyến hàng của mình.

Barzilai tính rằng vì các ngân hàng thích viễn cảnh tiền sắp được chuyển đến, chí ít là Winkler, nên cái ngân hàng cũ kỹ bảo thủ ở Ballgasse sẽ cho các chủ nhà băng của Hoàng gia Windsor sự dễ mến của một lời phúc đáp – bằng thư. Ông đã nghĩ đúng.

Phong bì của Coutts từ Tel Aviv đến được trạm và được đóng dấu bằng tem Anh, có vẻ như được gửi di từ bưu điện Quảng trường Trafalgar hai hôm trước. Nó được ghi địa chỉ đơn giản đến “Giám đốc, các tài khoản khách hàng nước ngoài, Ngân hàng Winkler” . Dĩ nhiên không có chức vụ đó ở Winkler kể từ khi công việc được chia cho ba người phó.

Phong bì được gửi đi, vào lúc đêm sắp hết, bằng cách tuồn vào hòm thư của ngân hàng ở Vienna. Đội giám sát yarid đã theo dõi ngân hàng một tuần nay, nhận ra và chụp ảnh lại những thói quen hàng ngày, những giờ mở và đóng, sự đến của thư từ, sự đi của các thông tin tại đó. Sự định vị của người nhận sau bàn của cô ta ở hành lang tầng dưới, và vị trí của gác cửa ở cái bàn nhỏ đối diện với cô ta.

Ngân hàng Winkler không ở một toà nhà mới. Ballgasse – và cả khu Franziskanerplatz – nằm ở khu quận cũ ngay ở Singerstrasse. Toà nhà của ngân hàng chắc từng là nơi cư trú cửa một gia đình thương gia giàu có của Vienna, chắc chắn và thịnh vượng, được đóng sau một cánh cửa gỗ nặng nề có những ô canh.

Để đánh giá từ cách bài trí của một ngôi nhà tương tự trên quảng trường mà đội yarid đã giả làm khách hàng của viên kế toán trong đó để do thám; toà nhà chỉ có năm tầng, mỗi tầng sáu phòng. Theo như quan sát của họ, đội yarid nhận ra rằng mỗi tối có một chuyến đưa thư từ ra, ngay trước giờ đóng cửa, đến một hòm thư ở quảng trường. Đó là một thói quen do một nhân viên hay một viên gác cửa thực hiện, rồi sau đó quay về toà nhà để giữ cánh cửa mở trong khi nhân viên đi ra. Cuối cùng anh ta để lại cho người gác đêm trước khi về nhà. Người gác đêm đóng cửa vào, đóng kín cánh cửa gỗ.

Trước khi cái bì thư từ Coutts London được đưa vào cho cánh cửa ngân hàng, chỉ huy đội neviot về kỹ thuật đã kiểm tra hòm thư trên Franziskanerplatz và khịt mũi vì kinh tởm. Hiếm khi có một sự đối đầu như thế. Một người trong đội của anh là một chuyên gia phá khoá đã mở và đóng lại hòm thư trong vòng ba phút. Anh ta đã làm được một chìa khoá chuẩn. Sau khi chỉnh lại một chút, nó đã hoạt động tốt như chìa khoá của người đưa thư.

Theo dõi thêm cho thấy rằng người gác ngân hàng thường xuyên ra lấy thư của ngân hàng khoảng 12, 13 phút sau chuyến đưa thư 6 giờ sáng thường lệ từ hòm thư bởi một xe chở thư của bưu điện.

Ngày mà thư của Coutts đến vào trong hòm thư, đội yarid và người thợ khoá neviot làm việc cùng nhau. Khi người gác ngân hàng quay trở lại ngân hàng theo lối đi sau khi đã nhét thư vào hòm, người phá khoá mở hòm thư ra, 24 lá thư đi ra từ Ngân hàng Winkler nằm ở trên cùng. Mất 30 giây để nhận ra có một cái chuyển đến ông Coutts ở London, để lại những cái còn lại, và khoá hòm thư lại.

Cả năm người của nhóm yarid đã đứng trong quảng trường đề phòng ai đó định can thiệp “người đưa thư” , có mặc đồng phục, được mua vội tại một cửa hàng đồ cũ, mang một cái mác giả của những bộ đồng phục thật của những người đưa thư của Vienna.

Nhưng những công dân tốt của Vienna không quen với những điệp viên của Trung Đông đến phá vỡ một cái hòm thư. Chỉ có hai người trên quảng trường vào lúc đó, và chẳng ai buồn để ý đến người xuất hiện như là một nhân viên bưu điện đang đi làm công việc hợp pháp của mình. 20 phút sau, người lấy thư thật đến làm việc của mình, nhưng khi đó những người kia dã đi và thay vào đó là những người mới.

Barzilai mở bức trả lời của Winkler cho Coutts và nhận ra rằng đó là một thư ngắn nhưng lịch sự biết ơn, được viết bằng thứ tiếng Anh dễ hiểu, và ký tên Wolfgang Gemuetlich. Vị chỉ huy của đội Mossad giờ đây đã biết chính xác người nào quản lý tài khoản của Jericho. Việc còn lại là bắt chợt hoặc xâm nhập ông ta.

Barzilai không hề biết là những vấn đề của ông mới chỉ bắt đầu.

Đã khá lâu sau khi bóng tối buông xuống khi Mike Martin rời khỏi toà nhà ở Mansour. Anh thấy không lý do gì để làm phiền những người Nga bởi chuyện đi ra bằng cổng chính; có một cái cổng hậu nhỏ hơn nhiều ở tường sau, với một cái khoá hỏng mà anh có chìa khoá. Anh đi xe đạp ra đến ngõ, khoá cổng lại, và bắt đầu đạp xe đi.

Anh biết có thể đây sẽ là một đêm dài. Nhà ngoại giao người Chile tên Moncada đã miêu tả rất chính xác cho các nhân viên Mossad chỉ huy anh khi anh đặt ba cái hòm thư chết dành cho những tin tức từ anh đến Jericho và nơi viết những phấn đánh dấu để báo hiệu cho tay Jericho vô hình rằng một thông điệp đang đợi ông ta. Martin cảm thấy mình không có lựa chọn nào khác ngoài việc sử dụng cả ba cái đó cùng một lúc, với cùng một thông điệp để lại ở mỗi chỗ.

Anh đã viết những thông điệp đó bằng tiếng Arập trên một tờ giấy viết thư mỏng và gập mỗi cái lại thành một gói nhỏ vuông. Ba cái túi được nhét sâu trong túi anh. Những cục phấn viết nằm ở trong túi.

Hộp thư thứ nhất nằm ở nghĩa trang Alwazia, qua sông ở chỗ Risafa. Anh đã biết chỗ này, nhớ đến đã lâu lắm từng nghiên cứu những bức ảnh phóng to ở Riyadh. Tìm thấy viên gạch hổng trong bóng tối thì lại là chuyện khác. Mất mười phút, dò dẫm với đầu ngón tay trong bóng tối của khu nghĩa địa có tường bao bọc, trước khi anh tìm thấy chỗ.

Nhưng đó đúng là nơi Moncada đã nói. Anh hạ viên gạch xuống, tuồn một cái gói nhỏ vào trong đó, và đặt viên gạch trở lại chỗ cũ.

Hòm thư thứ hai là một bức tường cũ và tồi tàn khác, lần này gần thành đổ nát ở Asdhamiya, nơi một cái hố sâu là tất cả những gì còn lại của ngày xưa. Không xa toà thành là khu tôn giáo Aladham, và giữa chúng là một bức tường, cũng cũ và tồi tệ như chính ngôi thành. Martin tìm thấy bức tường và cái cây duy nhất mọc dựa vào đó. Anh với tay ra sau cái cây và đếm mười lần gạch từ trên nóc xuống. Viên gạch thứ mười lung lay như răng bà lão. Chiếc phong bì thứ hai được nhét vào trong đó, và viên gạch cũng về chỗ cũ. Martin kiểm tra để chắc chắn không ai nhìn thấy, nhưng anh thực sự hoàn toàn đơn độc; không ai đến cái nơi hoang vắng này sau khi trời đã tối cả.

Cái thứ ba và cũng là hòm thư cuối cùng nằm ở một nghĩa địa khác, nhưng lần này là nghĩa trang của người Anh, bị bỏ hoang ở Waziraya. gần Đại sứ quán Thổ Nhĩ Kỳ. Cũng như ở Kuwait, đó là một ngôi mộ, nhưng không có một cái gì ở bên trong tấm bia đá; mà bên trong một cái bình đá trét xi măng, ở cuối của một cái lỗ bị bỏ từ lâu ngày.

– Đừng để ý nhé. Martin lẩm bẩm với ngươi chiến binh chết từ lâu lắm của vương quốc bên dưới. Chỉ một chút thôi, anh sẽ ổn thôi mà.

Vì Moncada ở toà nhà Liên Hợp Quốc, xa hơn nhiều dặm về đường sân bay Matar Sadam, anh ta đã khôn ngoan để những dấu phấn gần với những con đường không gian rộng rãi ở Mansour, nơi chúng có thể dễ dàng nhìn thấy từ trên xe ôtô.

Quy tắc là bất kỳ ai – Moncada hay Jericho – nhìn thấy một dấu phấn, thì anh ta có thể nhận ra nó muốn nói đến hòm thư nào. rồi đến đó với một bộ quần áo sẩm màu. Người đánh dấu, qua một ngày hoặc hơn, có thể nhìn thấy nó biến đi và biết được rằng thông tin của mình đã được nhận và (có thể đoán) rằng hòm thư đó và cái bưu kiện đã được an toàn.

Theo cách đó cả hai điệp viên đã liên lạc với nhau trong suốt hai năm mà không hề gặp nhau.

Martin, không giống với Moncada, không có ôtô, nên anh phải đạp xe suốt chặng hành trình. Dấu hiệu đầu tiên của anh, một chữ thập theo hình chữ X, được viết với phấn xanh lên một tảng đá ở tường của một toà nhà bỏ hoang.

Dấu thứ hai được viết bằng phấn trắng, trên một cánh cửa nẹp sắt màu đỏ sẫm của một gara ôtô ở cuối một ngôi nhà ở Yarmuk. Nó mang hình một dấu thập Lorraine. Cái thứ ba bằng phấn đỏ – một hình lưỡi liềm Hồi giáo với một thành ngang qua giữa – được viết lên trên tường của một khu nhà của Liên đoàn Nhà báo Arập, ở lề của quận Mutanabi. Các nhà báo Iraq không được khuyến khích để trở thành những người thực sự tìm kiếm tin tức, và một dấu phấn trên tường của họ có thể hiếm khi tạo ra chú ý.

Martin không thể biết liệu Jericho, mặc dù đã có lời báo trước của Moncada là anh ta có thể trở lại, vân tiếp tục đi kiểm tra trong thành phố, từ cửa xe của mình nhìn ra bên ngoài để xem có các dấu hiệu được viết trên các bức tường không. Tất cả những gì Martin biết được bây giờ là ngày nào cũng đi kiểm tra và chờ đợi.

Vào ngày thứ bảy của tháng Mười một anh nhận thấy dấu phấn màu trắng đã không còn. Liệu có phải người chủ của gara đã xoá dấu phấn trên cửa để làm sạch tấm kim loại đó? Martin đi vòng vòng. Phấn xanh trên cổng toà nhà vẫn còn; phấn đỏ trên tường của các nhà báo cũng vậy.

Đêm đó, anh đi kiểm tra ba hòm thư chết được dành cho các thông tin từ Jericho đến người điều hành ông ta.

Một cái ở đằng sau một viên gạch rỗng ở sau một bức tường đóng vào khu chợ rau quả Kasra cuối phố Saadun. Một mảnh giấy vỏ hành. Hòm thư thứ hai, dưới một hòn đá rỗng của một ngôi nhà đổ nát ở một cái ngõ trong đó nhiều con phố ngoằn nghoèo tạo thành một soukh trên bờ bắc con sông gần cầu Shuhada, cũng cho cùng kết quả. Cái thứ ba và cũng là cuối cùng, dưới một cán cờ rỗng của một cái sân bị bỏ quên cuối phố Abu Nawas, có chứa một phần tư một tờ giấy mỏng. Martin giấu nó dưới áo và đạp về nhà ở Mansour.

Nhờ ánh sáng của cây nến mờ tỏ, anh đọc được chúng. Thông tin giống nhau: Jericho vẫn còn sống và vẫn ổn. Ông ta sẳn sàng tiếp tục làm việc cho phương Tây, và ông ta hiểu rằng người Anh và người Mỹ bây giờ là những người cần thông tin của ông. Nhưng những đe doạ đã tăng lên không thể tưởng tượng, và do đó ông ta muốn được trả cao. Ông ta chờ sự đồng ý về điều đó và một chỉ dẫn xem họ đang cần gì.

Martin đốt cả ba bức thông tin và vứt giấy vào trong lò. Anh đã biết câu trả lời cho cả hai câu hỏi. Langley đã chuẩn bị tỏ ra rộng rãi, thực sự rộng rãi, nếu sản phẩm tốt. Cũng như thông tin cần thiết, Martin đã ghi nhớ danh sách những câu hỏi liên quan đến trạng thái tinh thần Saddam, khái niệm về chiến dịch của ông ta. và những địa điểm trung tâm chỉ huy chính và những điểm sản xuất vũ khí.

Ngay trước bình minh, anh cho Riyadh biết rằng Jericho đã quay trở lại cuộc chơi.

Người mà họ gọi là “kẻ chỉ điểm” bay tới Vienna từ Tel Aviv qua London và Frankfurt, không có ai đón, và đi một chiếc ta xi từ sân bay Schwechat đến khách sạn Hilton, nơi anh ta đã đặt chỗ trước.

Kẻ chỉ điểm rất ngộ nghĩnh và vui vẻ, trên giấy tờ là một luật gia Mỹ đến từ New York. Tiếng Anh giọng Mỹ của anh ta thật trơn tru – không nghi ngờ gì nữa. quả là anh ta đã sống nhiều năm ở Mỹ – và tiếng Đức cũng khá.

Vài giờ sau khi tới Vienna, anh ta đã sử dụng các dịch vụ thư ký của khách sạn Hilton để thảo một bức thư lịch thiệp trên giấy viết thư in sẵn của hãng luật của mình đến một ông Wolfgang Gemuetlich, phó chủ tịch Ngân hàng Winkler.

Trạm cẩn thận kiểm tra bằng điện thoại, thì rõ ràng anh ta là một đối tác uy tín của hầu hết cả hãng luật uy tín của New York. mặc dù anh ta đang đi vắng (điều Mossad đã kiểm tra ở New York) và chắc hẳn không cùng là người khách đến Vienna. Bức thư vừa tán dương vừa tự miêu tả, như cần phải thế. Người viết đại diện một khách hàng rất giàu có và vững vàng đang muốn có những chỗ cất giấu tốt cho tài sản của ông ở châu Âu.

Người khách hàng tự nhấn mạnh, rõ ràng sau khi nghe lời khuyên từ một người bạn, rằng Ngân hàng Winkler đáng đồng tiền bát gạo, và nhất là ngài Gemutlich kính mến. Người viết nhẽ ra đã hẹn gặp từ trước, nhưng cả khách hàng của anh ta cũng như hãng luật đã đặt lên rất cao tầm quan trọng phải tuyệt đối kín đáo, tránh các đường điện thoại mở và fax để tránh giao thiệp về công việc của khách hàng, cho nên người viết đã chọn cách sang thăm châu Âu và tự mình đến Vienna.

Bình luận