Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Những Bí Ẩn Của Sa Mạc

Chương 12

Tác giả: Frederik Forsythe

Sau mười một năm nắm quyền và đã thắng trong ba cuộc bầu cử phổ thông, thủ tướng Anh đã thực sự đổ vào ngày 20 tháng Mười một, dù hai ngày sau bà mới thông báo quyết định từ chức của mình.

Sự đổ khỏi quyền lực của bà được thúc đẩy bởi một quy tắc mờ ám trong nguyên tắc Đảng Bảo thủ đòi sự tái đắc cử danh nghĩa của bà với chức danh Chủ tịch Đảng vào những thời điểm định kỳ. Một định kỳ như thế xảy ra vào tháng Mười một. Sự tái bầu cử của bà có thể chỉ là một thủ tục, cho đến khi một cựu bộ trưởng chọn cách ứng cử chống lại bà. Không lường được mối nguy hiểm, bà đã không coi cuộc cạnh tranh là nghiêm túc, đã dẫn đến lơ là chiến dịch chạy đua và cuối cùng đã đi dự một cuộc họp ở Paris đúng ngày diễn ra cuộc bỏ phiếu.

Sau lưng bà là cả một loạt những đòn đánh, những chống đối, và những sợ hãi khủng hoảng đã khiến bà thậm chí không thể dự cuộc bầu cử sắp đến, một liên minh thù địch đã ngăn cản bà không với được chức lãnh đạo Đảng ngay từ lần bỏ phiếu đầu tiên. Liệu bà có lùi bước quá không, có thể không có lần bỏ phiếu thứ hai, và người đối địch có thể đã biến mất vào trong sự tối tăm. Trong cuộc bỏ phiếu ngày 20 tháng Mười một bà cần có hai phần ba đa số, bà đã chỉ thiếu có bốn phiếu, buộc phải kéo đến cuộc bỏ phiếu thứ hai.

Trong vài giờ, cái đã bắt đầu như một vài viên gạch khó chịu nhỏ bé đã rơi xuống đồi thành một cuộc lở tuyết. Sau khi đã tham khảo Nội các của mình, người ta nói bà giờ đây có thể mất chức, bà bèn từ chức. Người chỉ huy phe đối lập, bộ trưởng Tài chính John Major, xuất hiện và chiến thắng.

Tin tức làm hoảng sợ những người lính ở vùng Vịnh. Mỹ cũng như Anh. Ở Oman, các phi công máy bay chiến đấu người Mỹ giờ đây ngày ngày làm việc với SAS từ căn cứ kề bên hỏi người Anh điều gì đang diễn ra và nhận được những cái nhún vai chẳng nói lên điều gì hết cả.

Mike Martin nghe tin khi người lái xe Iraq đi qua và nói cho anh. Martin nghe tin, tỏ vẻ chẳng biết gì, hỏi:

– Bà ấy là ai?

– Điên à, tay lái xe tức mình. Lãnh đạo của Beni Naji đấy.

Giờ thì chúng ta sẽ thắng. Hắn quay về xe để nghe tin tức từ đài phát thanh Baghdad. Một lúc sau bí thư thứ nhất Kulikov đứng từ nhà hét gọi hắn và được chở đi thẳng về sứ quán của mình.

Đêm đó, Martin gửi một tin dài về Riyadh. chứa cả đống những câu trả lời mới nhất của Jericho và một câu hỏi thêm vào của chính anh để nhận được chỉ thị nhiều hơn. Dựa vào cánh cửa của túp lều anh có thể phát hiện những kẻ đột nhập, vì cái đĩa vệ tinh được đặt ở lối ra hướng về phía nam. Martin đợi trả lời. Một ánh sáng chậm, run run ở màn hình của máy nhận nhỏ nói với anh vào lúc một giờ rưỡi rằng vào buổi sáng anh sẽ có câu trả lời. Anh tháo đĩa, cất nó vào dưới sàn nhà với những cái pin và máy nhận, làm chậm thông điệp, và nghe nó quay lại.

Đó là một danh sách những yêu cầu mới về thông tin từ Jericho và một đồng ý cho đòi hỏi mới nhất của điệp viên về- tiền, đã được chuyển vào tài khoản của ông ta. Trong vòng một tháng thành viên Hội đồng Chỉ huy Cách mạng đã kiếm được hơn một triệu đôla.

Thêm vào danh sách là hai chỉ dẫn cho Martin. Đầu tiên là gửi cho Jericho một thông điệp, không phải ở dạng một câu hỏi, mà là hy vọng ông ta có thể bằng cách nào đó xâm nhập vào suy nghĩ của những người lập kế hoạch ở Baghdad. Đó là tìm hiểu hiệu ứng tin từ London lên Rais.

Liệu thông tin lệch lạch này có đến được các hội đồng cao nhất của Baghdad không, nhưng trong một tuần Saddam Hussein dã tuyên bố rằng sự sụp đổ của Thatcher là do sự phản đối của người Anh.

Chỉ dẫn thứ hai trong cuộn băng của Mike Martin đêm đó là hỏi Jerieho xem liệu ông ta đã từng bao giờ nghe về một vũ khí hay hệ thống vũ khí có liên quan đến Cú đấm của Thượng đế chưa.

Bằng ánh sáng của một ngọn nến, Martin dành gần như cả đêm đó để viết các câu hỏi bằng tiếng Arập vào hai tờ giấy viết thư. Trong hai mươi giờ, các giấy đã được bí mật giấu sau viên gạch rỗng trong tường gần với nhà thờ Imam Aladham ở Aadhamiya.

Mất một tuần để các câu trả lời quay trở lại. Martin đọc bản viết bằng tiếng Arập loằng ngoằng của chữ viết tay của Jericho và dịch mọi thứ sang tiếng Anh. Từ quan điểm một người lính, nó rất hấp dẫn. Ba sư đoàn Vệ binh Cộng hoà dàn trước người Anh và người Mỹ dọc theo biên giới, Tawakkulna và Medina, giờ đây có thêm Hammurabi, được trang bị hỗn hợp T-54/55, T-62 và T-72 những loại xe tăng chiến đấu chính, cả ba đều do Nga sản xuất.

Nhưng trong một lần sau, Jericho tiếp tục, tướng Abdullah Kadiri của Đội lính đã kinh hoàng phát hiện phần lớn các đội bay đã đổi pháo và sử dụng chúng làm quạt, bếp, đài phát thanh và máy quay cassette. Thật đáng nghi ngờ rằng những đội quân đó có thể chiến đấu được. Đã có nhiều cuộc hành quyết tại chỗ, và hai chỉ huy cao cấp đã bị cách chức và đuổi về nhà.

Người em trai cùng cha khác mẹ của Saddam, Al Hassan Majid, giờ là tổng quản Kuwait, đã báo cáo rằng sự chiếm đóng đã bắt đầu trở thành một cơn ác mộng, với những cuộc tấn công vào lính Iraq vẫn không thể dò ra và những mất mát tăng lên. Quân kháng chiến không xuất đầu lộ diện, mặc dù những cuộc tra khảo thảm khốc và nhiều cuộc hành hình bởi đại tá Sabaawi của AMAM và hai lần đến thăm của đích thân ông chủ của nó, Omar Khatib.

Tệ hơn nữa, quân kháng chiến giờ đây đã không biết bằng cách nào có được chất nổ dẻo tên là Semtex, cái mạnh hơn nhiều so với thuốc nổ công nghiệp.

Jericho đã chỉ ra hai địa điểm chỉ huy quân sự quan trọng nữa, cả hai đều được xây dưng trong các hầm ngầm và từ trên không trung không thể nào nhìn thấy được.

Rồi đến tin rằng những người thân cận với Saddam Hussein thực sự nghĩ rằng sự sụp đổ của Margaret Thatcher có phần ảnh hưởng của ông ta. Ông ta đã hai lần đưa ra lời từ chối thẳng thừng của mình để xem xét việc rút khỏi Kuwait.

Cuối cùng, Jericho chưa từng bao giờ nhìn thấy bất cứ gì có mật danh Cú đấm của Thượng đế nhưng có thể đã từng nghe đến câu đó. Cá nhân, ông ta nghi ngờ có tồn tại một thứ vũ khí hay một hệ thống vũ khí mà Liên quân còn chưa biết.

Martin đọc cả bức thông điệp vào băng, quay nhanh nó lên. và chuyển nó đi. Ớ Riyadh nó được tiếp nhận nhanh chóng Và các kỹ thuật viên phát thanh ghi giờ đến của nó: 23.55 giờ, ngày 30 tháng Mười một 1990.

Leila Al-Hilla từ từ ra khỏi phòng tắm, dừng lại ở cửa với cái đèn sau cô để giơ tay lên khung cửa ở cả hai bên và nghỉ một lúc. Ánh đèn của phòng tắm, chiếu sáng qua tấm kính mờ, cho thấy nếp nhăn và cái dáng đứng gợi tình của cô ta một cách rõ ràng nhất. Cần phải thế, trời tối, rất tối, và đã đáng giá một gia tài nhỏ, một đồ nhập từ Paris mua được từ một cửa hiệu ở Beirut.

Người đàn ông to béo trên giường hau háu nhìn, thè cả lưỡi ra khỏi một làn môi dưới dày, và cười nhăn nhở. Leila thích đằm mình trong phòng tắm trước khi làm tình. Có những chỗ cần được rửa sạch và tẩm thơm, mắt cần được bôi mascara, môi cần được tô đỏ, và nước hoa được sử dụng, những hương vị khác nhau cho những phần khác nhau của cơ thể cô.

Đó là một cơ thể đẹp chừng ba mươi xuân xanh, những khách hàng tàu nhanh thích: không béo, nhưng đầy đặn nơi cần thiết, đẫy đà và ngực to, với gân săn chắc. Cô hạ thấp cánh tay và tiến về cái giường tối om, cởi áo, đôi giày cao gót tăng thêm bốn inch cho chiều cao của cô ta.

Nhưng người đàn ông trên giường, ở trên tấm lưng trần của ông ta, phủ như một con gấu từ cằm đến mắt cá, đã nhắm mắt lại.

Đừng có đến ngủ với tao lúc này, đồ ngốc, cô nghĩ, không phải đêm nay khi tôi cần anh. Leila ngồi lên mép giường và luồn những ngón tay nhuộm đỏ lên đến tóc của ông béo cho đến ngực, cựa vào, rồi cho tay xuống nữa, đến bụng và bụng dưới. Cô nhổm lên và hôn người đàn ông vào môi, lưỡi cô hé mở. Nhưng môi người đàn ông chỉ ngập ngừng đáp lại cô, và cô nhận thấy mùi arak rất nặng.

Lại nốc đầy rượu rồi. Cô nghĩ – tại sau lão ngố này không thể bỏ được nhỉ. Dù sao nó cũng có những lợi thế, một chai arak mỗi tối. Ồ tốt thôi, làm việc nào.

Leila Al-Hilla là một kỹ nữ giỏi, và cô ta biết điều đó. Trình độ cao nhất ở Trung Đông, ai đó đã nói, và nhất định là một trong những cô nàng đắt đỏ nhất.

Cô ta đã được đào tạo nhiều năm trước, khi còn là một đứa bé gái, trong một học viện tư ở Li băng nơi những trò làm tình và những thủ thuật của ouled-nails của Maroc, của những cô gái Ấn nautch. và những kỹ nghệ gia tinh tế của Fukutomi-cho đã được thực hành bởi những cô gái khác trong khi những đứa trẻ nhìn và học theo.

Tài năng của cô ta là phỉnh nịnh, tâng bốc, tán dương, và dỗ dành, nhưng giỏi nhất là kích thích được nhưng gã mít ướt nhất và khiến đối tượng của mình lúc nào cũng cảm thấy thèm muốn.

Cô đã đưa tay xuống bụng dưới và cảm thấy của quý của gã đàn ông. Không thấy gì. Ngắn một mẩu. Tướng Abdullah Kadiri, chỉ huy đội lính của Quân đội Cộng hoà Iraq, đêm nay cần một chút kích thích.

Cô lấy từ gầm giường lên một cái túi mềm và đổ chất lỏng bên trong ra một mẩu giấy bên cạnh. Bôi một thứ chất lỏng nhờn vào tay, một thứ chất như kem, cô luồn một cái dương vật giả cỡ trung bình rung rung vào giữa háng ông tướng.

Tướng Kadiri nhăn mặt, mở mắt, liếc nhìn xuống ả đàn bà đang nằm bên cạnh của mình, và lại cười nhăn nhở, hàm răng loé lên giữa chòm ria đen dầy.

Leila bóp chặt máy: và bắt đầu làm đầy phần dưới của vị tướng. Cô đã nhận ra trong tay mình cơ quan đó đã bắt đầu nổi lên. Cô ngậm một thứ chất dầu không mùi không vị vào miệng rồi chồm lên ấn của quý của người đàn ông vào mồm mình. Chất dầu mềm mại và cử động nhanh của cái lưỡi thành thục của cô đã bắt đầu có hiệu quả. Mười phút sau, cho đến khi đau nhức cả hàm, cô ta vuốt ve và mút đến lúc sự cương cứng của vị tướng đã tốt như chưa bao giờ được như thế.

Trước khi ông ta mất đi trạng thái đó, cô luồn đầu xuống, phủ lên người ông ta, đưa ông ta vào mình, và bắt đầu. Cô đã từng có trong người những cái to hơn và tốt hơn, nhưng cái này cũng đang làm việc đấy chứ. Leila chồm lên và cọ ngực mình vào mặt ông ta.

– A, con gấu đen khỏe mạnh to béo của em, cô ta rủ rỉ, anh thật là tuyệt, như mọi khi vậy.

Ông ta cười nhìn cô. Cô bắt đầu nhún, không nhanh quá, cho đến khi đã vào đến nơi, chầm chậm cho đến khi được cả. Khi cô chuyển động, cô sử dụng những cơ vận động để nhún lên nhún xuống, nghỉ và lại tiếp.

Cô biết hiệu ứng của sự gợi hứng nhân đôi. Tướng Kadiri bắt đầu rên ư ử và sau đó thì thét lên, những tiếng kêu ngắn ngủn buột ra khỏi mình bởi cảm giác cực khoái nơi vùng người đàn bà nhổm lên nhổm xuống vững vàng với nhịp điệu tăng dần.

– Phải, phải, ôi phải, sướng quá, làm nữa đi, em yêu, cô cọ vào mặt ông ta cho đến khi ông ta ra được. Trong khi ông ta giật lên, Leila bò xuống, quấn quanh người ông ta, liếm láp đống tinh dịch với sự thích thú, rồi cũng oải ra.

Khi ông ta đã ra xong, ông ta đột ngột nảy lên và trong vài giây cô tháo chiếc dương vật giả, lay lay để ông ta khỏi ngủ mất quá nhanh. Cô cũng muốn ngủ lắm rồi sau một công việc nặng nhọc đến vậy. Nhưng vẫn còn có việc cần phải làm.

– Con gấu tội nghiệp của em, cô ta lẩm bẩm, anh có mệt lắm không? Anh đã làm việc nặng nhọc như thế, người tình tuyệt diệu của em. Họ làm cho anh mệt quá nhỉ. Hôm nay ra sao hả? Nhiều vấn đề ở Hội đồng lắm hả, và luôn luôn là anh phải giải quyết chúng à? Mm? Nói cho Leila đi, anh biết anh có thể nói cho Leila bé nhỏ mà.

Thế là trước khi ông ta ngủ, ông ta đã nói.

Sau đó, khi tướng Kadiri đang ngáy do hiệu ứng của arak và tình dục, thì Leila rút ra phòng tắm nơi, với cánh cửa khoá và ngồi xuống bồn cầu với một cái khay trên lòng, cô ta ghi lại một bản tiếng Arập ngắn gọn, nghuệch ngoạc.

Sau đó, vào buổi sáng, những tờ giấy mỏng tang của cô được giấu kín để tránh bị kiểm tra, cô có thể đưa nó cho người đàn ông trả tiền cho cô.

Thật là nguy hiểm, cô biết, nhưng ra tiền lắm chứ, gấp đôi thu nhập cho cùng một công việc, và một ngày nào đó cô có thể trở nên giàu có – đủ giàu để rời khỏi Iraq mãi mãi và tự lập cho mình một lầu xanh, có thể ở Tangier, với một đoàn các thiếu nữ trẻ đẹp để ngủ với những ông lớn Marốc khi cô cảm thấy nhu cầu.

Nếu Gidi Barzilai đã bị bất ngờ bởi các hệ thống an toàn của Ngân hàng Winkler, hai tuần theo dấu Wolfgang Gemuetlich khiến ông thất vọng. Người đàn ông đó không thể tiếp cận được.

Theo sự nhận diện của kẻ chỉ điểm, Gemuetlich đã nhanh chóng bị theo đến nhà của ông ta ở ngoài công viên Prater. Ngày hôm sau, trong khi ông đang làm việc, đội yarid đã theo dõi ngôi nhà cho đến khi bà Gemuetlich đi chợ. Thành viên nữ của đội đi theo bà, có liên lạc với các đồng nghiệp của mình bằng máy điện đàm cá nhân để báo động họ khi bà ta về. Trên thực tế vợ của nhân viên ngân hàng đã đi vắng đến hai tiếng đồng hồ – nhiều thời gian hơn cần thiết.

Cuộc đột nhập bởi các chuyên gia neviot không vấp phải vấn đề gì, và những máy theo dõi đã nhanh chóng được đặt tại phòng khách, phòng ngủ, và máy điện thoại. Sự nghiên cứu – nhanh: có nghề, và không để lại dấu vết – không mang lại được gì cả. Có những giấy tờ thông thường: giấy nhà, hộ chiếu. giấy khai sinh, giấy hôn thú, thậm chí cả một loạt giấy tờ ngân hàng.

Mọi thứ đều được chụp ảnh, nhưng một sự liếc qua ở tài khoản ngân hàng không đưa lại bằng chứng nào về sự gian trá của Ngân hàng Winkler – thậm chí còn có nguy cơ đưa người đàn ông trở thành người hoàn toàn lương thiện.

Tủ quần áo và những đồ phòng ngủ không có gì đáng ngạc nhiên, những quần áo cá nhân – quần áo tầng lớp trung lưu đáng kính – và chỉ huy đội neviot, người đã trông thấy bà Gemuetlich ra khỏi nhà, không bị bất ngờ vì điều này.

Nếu thư ký riêng của người đàn ông là một cô gái nhỏ xíu, thì vợ ông như là một con cua giấy. Người Israel nghĩ ông hiếm khi cảm thấy chán nản như thế này.

Khi cô gái của dội yarid nói vào máy điện đàm báo động vợ người nhân viên ngân hàng đang về, các chuyên gia đột nhập neviot đã kết thúc và đi ra. Cửa trước được khoá lại bởi người trong đồng phục bưu điện sau khi phần còn lại đã ra bằng cửa sau và qua vườn.

Từ đó trở đi, đội neviot có người đàn ông trong các máy thu trong cái xe to đỗ ngoài phố để nghe những gì diễn ra trong ngôi nhà.

Hai tuần sau một chỉ huy thất vọng nói với Barzilai rằng các băng của họ đã chạy hết cả rồi. Tối đầu tiên họ thu được 18 từ Bà ta nói: “Bữa tối của ông đây, Wolfgang” – không có lời đáp lại Bà ta đòi thay rèm cửa mới – từ chối. ông ta nói “Sáng sớm mai tôi sẽ dậy sớm”.

– Đêm quái nào lão ta cũng nói thế cả, cứ như vẫn nói thế từ ba mươi năm nay vậy , người của đội neviot phàn nàn.

– Không có chuyện tình ái gì à?

– Anh đùa đấy à, Gidi. Họ thậm chí còn chẳng nói năng, chỉ có thế thôi.

Mọi điều có thể khắc hoạ tính cách Gemuetlich đều là con số không. Không đánh bạc, không chơi bời, không giao tiếp, không hộp đêm, không tình nhân, không vượt đèn đỏ ngoài phố. Một lần ông ta rời nhà, các thành viên của đội theo dõi lập tức bám theo. Gemuthch trong đồ đen và đội mũ, sau khi trời tối và món súp tối, đi qua ngoại ô mờ tối cho đến khi tới một ngôi nhà cách đó năm khu. ông ta gõ cửa và đợi. Cửa mở ra, ông ta đi vào, và cửa đóng lại. Một ngọn đèn tầng dưới bật lên, sau những tấm rèm dày. Trước khi cửa đóng lại, một trong số những người theo dõi Israel bắt được một cái liếc của một người phụ nữ trông mờ tối mặc bộ áo dài bằng vải nỉ.

Đi tắm chăng? Tắm hơi, xông hơi với hai người chăng?

Một sự kiểm tra vào sáng hôm sau cho thấy người phu nữ vận bộ đồ dài là một điều trị viên nhiều tuổi làm việc ngay tại nhà. Wolfgang Gemuetlich bị bệnh gì đó.

Vào ngày đầu tiên tháng Mười hai, Gidi Barzilai nhận được một thư hoả tốc từ Kobi Dror ở Tel Aviv. Đó không phải là một chiến dịch với thời gian vô tận, ông ta cảnh báo. Liên Hợp Quốc đã cho Iraq thời hạn đến 16 tháng Giêng để rút khỏi Kuwait. Sau đó, có thể là chiến tranh. Mọi thứ đều có thể xảy ra. Khẩn trương lên đi.

– Gidi, chúng ta có thể theo thằng cha này mãi cũng thế thôi, hai chỉ huy đội nói với người tổng chỉ huy. Chẳng có vết tỳ nào trong cuộc đời của hắn cả. Tôi không thể hiểu được thằng cha. Không gì hết – hắn chẳng làm gì để ta có thể sử dụng được cả.

Barzilai đang đứng trước chọn lựa. Họ có thể bắt cóc vợ và doạ người chồng tốt hơn hết là cộng tác với họ nếu không… Vấn đề rắc rối là, có thể sẽ chẳng đi đến dâu. Tệ hơn nữa, ông ta có thể gọi cớm.

Họ cũng có thể tóm Gemutlich và buộc ông ta. Ờ đây vấn đề lại là người đàn ông có thể quay về ngân hàng để thực hiện chuyển khoản đóng tài khoản của Jericho lại. Một khi đã vào trong ngân hàng, thì lão sẽ làm gì có trời biết. Kobi Dror dã nói, không để lỡ và không dấu vết.

– Thế thì chuyển sang cô thư ký nhé, Barzilai nói. Những thư ký tin cậy thường biết đủ moi thứ về ông chủ mình.

Thế là hai đội chuyển sự chú ý sang cô Edith Hardenberg cũng có vẻ ngoài tối tăm như thế.

Thậm chí họ chỉ mất ít thời gian hơn, chỉ có mười ngày. Họ theo đuôi cô về nhà, một căn hộ nhỏ trong một ngôi nhà cũ ngay ngoài Trautenauplatz xa về quận 19, ngoại ô tây bắc của Grinzing.

Cô sống một mình. Không tình nhân, không bạn trai, thậm chí không cả một con chó con mèo gì. Một nghiên cứu giấy tờ riêng của cô ta cho thấy một tài khoản ngân hàng khiêm tốn, một bà mẹ đang nghỉ hưu ở Salzburg. Căn hộ đã từng được bà mẹ thuê, như trong sổ thuê nhà cho biết, nhưng người con gái bảy năm trước mới chuyển đến khi bà mẹ lui về sống ở thành phố quê hương Salzburg của mình.

Edith lái một chiếc Seat nhỏ, mà cô ta đỗ ở ngoài phố ngoài ngôi nhà, nhưng chủ yếu cô ta đi làm bằng phương tiện giao thông công cộng, không nghi ngờ gì là do đậu xe khó khăn ở trung tâm thành phố.

Cô ta được trả lương thấp đến thảm hại – “dã man”, một người của đội neviot kêu lên khi nhìn thấy con số – và giấy chứng sinh của cô ta cho thấy cô ta mới 39 tuổi – “và trông như đã 50 rồi ấy, người kia nhận xét.

Không có ảnh người đàn ông nào trong căn hộ, chỉ có ảnh mẹ cô ta, một trong cuộc đi nghỉ ở cái hồ nào đó. và một cái có vẻ như là người bố đã quá cố của cô ta trong bộ đồng phục nhân viên hải quan.

Nếu có người đàn ông nào đó trong cuộc đời cô ta. thì đó chỉ có thể là Mozart.

– Cô ta mê nhạc opera lắm, và đó là tất cả. Chỉ huy đội neviot báo cáo với Barzilai, sau khi căn hộ đã được để lại nguyên trạng như họ đã trông thấy. Có một sưu tập lớn đĩa hát – cô ta chưa có đĩa CD – và toàn là đĩa opera thôi. Có thể là phải tiêu phần lớn tiền dành dụm của cô ta vào đó. Sách về opera, về các tác giả ca sĩ, và chỉ huy dàn nhạc. Tranh ảnh của lịch diễn mùa đông Nhà hát Vienna, dù cô ta chẳng bao giờ đủ tiền mua một cái vé hết cả.

– Không người đàn ông nào trong cuộc đời cô ta cả ư?

Barzilai mơ màng.

– Có lẽ cô ta mê Pavarotti, nếu ông có thể tóm được ông ta. Ngoài đó ra, thì quên tất cả đi.

Nhưng Barzilai không quên nó. Ông nhớ lại một trường hợp ở London, lâu rồi. Một viên chức ở Bộ Quốc phòng, thực sự là khó nhằn; rồi người Liên Xô đã đưa vào cô gái Nam Tư trẻ xinh đẹp đó… ngay cả thẩm phán cũng phải mê đắm.

Tối đó Barzilai gửi một bức điện đã mã hoá dài cho Tel Aviv.

Vào giữa tháng Mười hai, lực lượng Liên quân ở miền Nam biên giới Kuwait đã trở nên rất lớn, hàng làn sóng người và sắt thép.

Ba trăm nghìn đàn ông và phụ nữ từ ba mươi nước ở dọc theo sa mạc Xêut từ bờ biển đi về phía Tây một trăm dặm. Tại các cảng của Jubail, Dammam, Bahrain, Doha, Abu Dhabi, và Dubai các chuyến tàu chở hàng từ biển đến không ngớt đổ xuống súng ống và xe tăng, dầu và hàng hoá, thực phẩm và đồ ăn, nhu yếu phẩm và đồ đạc. Từ những chuyến hàng đi về phía tây theo Tapline Road để thiết lập những cơ sở hậu cần rộng lớn mà một ngày nào đó sẽ cung cấp cho quân đội tiến công.

Một phi công Tornado từ Tabuq, bay về phía nam một cuộc tấn công nhỏ vào biên giới Iraq, nói với những đồng nghiệp của mình anh ta đã bay ngay trước mũi một đoàn xe tải và sau đó bay ngược đến hết đoàn. Với vận tốc 500 dặm một giờ, mất sáu phút anh ta mới đi hết đươc đoàn xe 50 dặm.

Ở Căn cứ Hậu cần Alpha một khu nhà đã có những cái thùng dầu chồng lên nhau, trên những khay 6 fít vuông, với những đường xe tải ở giữa. Khu này rộng 40 km vuông. Và đó mới chỉ là dầu. Những khu khác ở Log Alpha chứa đạn dược, tên lửa, súng, những cỗ pháo chống tãng, và lựu đạn. Nhưng nơi khác có thực phẩm và nước, máy móc, nòng pháo tàng và những đội người di động.

Vào thời gian đó các lưc lượng Liên quân được chỉ huy bởi tướng Schwarzkopf đến phần sa mạc nam Kuwait. Điều mà Baghdad không biết là trước khi tấn công, vị tướng Mỹ đã chủ đích gửi nhiều đội dọc theo Wadi và Batin và một trăm dặm nữa xa hơn về hướng tây đến sa mạc, để xâm nhập vào Iraq, đẩy về phía bắc và sau đó sang đông dể đánh thọc sườn Đội Vệ binh Cộng hoà và tiêu diệt.

Ngày 13 tháng Chạp những đội phóng tên lửa, Đội 336 của Chỉ huy chiến thuật không quân USAF, rời khỏi căn cứ của mình ở Thumrait ở Oman và chuyển đến Al Kharz ở Arập Xêut. Đó là một quyết định đã được thưc hiện vào ngày đầu tiên của tháng Chạp.

Al Kharz là một sân bay lộ liễu, được xây dựng với những đường băng và lối đi cho taxi nhưng ngoài ra không có gì nữa cả Không có tháp chỉ huy, không có hăng ga, không kho tàng, không có gì thích hợp với bất kỳ ai

– chỉ là một mảnh trơn trong sa mạc với những chuyến bay cụ thể.

Nhưng đó là một sân bay. Với vẻ ngoài thật kỳ lạ, chính phủ Xêut đã ra lệnh xây dựng đủ số căn cứ không quân để có được một lực lượng không quân đạt mức tổng cộng nhiều hơn năm lần -Không lực Hoàng gia Xêut.

Sau ngày Một tháng Chạp các đội xây dựng người Mỹ chuyển vào đó. Chỉ trong 30 ngày một thành phố lớn khả năng đón được 5000 người và 500 đội bay chiến đấu đã được xây dựng xong.

Chủ chốt trong số những người xây dựng là những kỹ sư giỏi những đội Ngựa Đỏ, được hậu thuẫn bởi 40 máy phát điện khổng lồ từ Không quân. Một số thiết bị được chuyển đến bằng đường bộ bằng xe tải, nhưng phần lớn bằng đường không. Họ dựng lên những hăng-ga kín, những công trường, kho chứa dầu, các phòng chiến dịch, các tháp chỉ huy, lều chứa, và gara ôtô.

Cho đội bay và đội dưới đất họ dựng lên những phố lều với đường lớn giữa đó, với phòng tắm, hấp, sảnh lớn, và một tháp nước được làm đầy bởi những đoàn xe tải từ nguồn nước gần nhất. Al Kharz nằm 50 dặm về đông nam Riyadh, nơi giờ đây đã

chỉ còn cách tầm bắn tối đa 3 dặm của những tên lửa Scud của Iraq. Nó sẽ là nơi ở trong ba tháng cho năm đội bay: hai trong số những Con đại bàng F-15E – đội ném tên lửa 336 và những chỉ huy, đội 335 ngoài Seymour Johnson, cũng đến nhập vào đây; và hai đội máy bay chiến đấu Falcon F-16.

Có một phố đặc biệt dành cho đội ngũ 250 phụ nữ trong đội; nơi này có luật sư, các chỉ huy đội dưới đất, lái xe tải, nhân viên, y tá, và hai sĩ quan tình báo đội. Đội bay cũng bay đến từ Thumrait; đội mặt đất và các nhân viên khác tới trên máy bay chở hàng. Việc vận chuyển mất hai ngày, và khi họ đến, các kỹ sư vẫn còn làm việc và có thể còn phải tiếp tục cho đến Giáng Sinh.

Don Walker đầu tiên tới Thumrait. Các điều kiện sống thật hiện đại và thật tuyệt, và trong không khí thư giãn của Oman, những đồ uống có cồn được cho phép trong căn cứ. Lần đầu tiên, anh gặp những người của SAS. Những người có một căn cứ huấn luyện thường xuyên ở đây, và các “sĩ quan hợp đồng” khác phục vụ các lực lượng Oman của Sultan Qaboos.

Lái những chiếc Đại bàng trong những phi vụ nhỏ ở biên giới Iraq thật là tuyệt.

Về những người SAS, sau một chuyến đi đến sa mạc với họ trong những chiếc xe nhẹ, Walker nhận xét với chỉ huy đội vừa được bổ nhiệm, trung tá Steve Turner:

– Những thằng cha đó đúng là mất trí.

Al Kharz hoàn toàn khác so với Thumrait. Là nơi có cả hai vùng đất thánh, Mecca và Medina, Arập Xêut buộc phải thắt chặt, cũng như bắt phụ nữ ăn mặc kín đáo, chỉ để lộ bàn tay và chân. Trong công lệnh Số một, tướng Schwarzkopf đã cấm mọi thứ rượu cồn đối với toàn thể Liên quân dưới quyền chỉ huy của ông. Tất cả các đơn vị Mỹ đều bị đặt dưới lệnh đó, và nó được thực hiện nghiêm ngặt ở Al Kharz.

Tuy nhiên tại cảng Dammam, những người Mỹ đổ bộ sửng sốt trước hàng đống nước gội dầu dành cho Không lực Hoàng gia Anh quốc. Từng thùng từng thùng được dỡ xuống, được chất lên những chiếc xe tải hay những máy bay chở hàng Hercule C-130, và được mang đến cho các đội RAF. Họ rất bối rối rằng ở trong không gian rộng lớn không có nước, đội bay Anh lại có thể mất nhiều thời gian thế để gội đầu. Đó là một bí ẩn sẽ tiếp tục làm họ bối rối cho đến cuối cuộc chiến tranh.

Ở bên kia bán đảo, trên căn cứ sa mạc Tabuq, mà các Tornado của Anh chia sẻ với những chiếc Falcon của Mỹ, các phi công USAF còn rối trí hơn nhiều khi thấy người Anh lúc chiều xuống, ngồi gần họ, mở một gói nước gội dầu nhỏ trong một cái cốc và uống nó với nước.

Ờ Al Kharz vấn đề không nảy sinh – vì không có thứ nước đó Hơn nữa các điều kiện ở đây hà khắc hơn ở Thumrait. Ngoài vị chỉ huy bay, người có riêng một túp lều. những người khác từ đại tá trở xuống đều cùng nhau ở hai, bốn.,sáu, tám hay mười hai người một cái lều, tuỳ theo cấp bậc.

Tệ hơn nữa, các nhân viên nữ bị đặt ở ngoài, một vấn đề còn khó chịu hơn nhiều do ở chổ những phụ nữ Mỹ, đúng theo văn hoá của mình, khác hẳn với Mutawa của Xêut – cảnh sát tôn giáo – choàng khăn tắm trên những chiếc bikini sau những hàng rào thấp dựng ngay xung quanh lều của họ.

Ngoài những bó buộc về quân sự như thế, hầu như tất cả còn phải nằm trên những chiếc giường cũi kêu cót két.

Cũng có một tâm trạng mới do một lý do khác. Liên Hợp Quốc đã ban hành hạn cuối vào 15 tháng Giêng cho Saddam Hussein. Baghdad vẫn tiếp tục không nghe lời. Lần đầu tiên rõ ràng rằng họ sẽ đi vào cuộc chiến tranh. Các phi vụ tập dượt được thực hiện với một sự khẩn cấp mới.

Vì một nguyên nhân nào đó, ngày 15 tháng Chạp ở Vienna khá là nóng. Mặt trời chiếu sáng, và nhiệt độ tăng. Vào giờ ăn trưa cô Hardenberg rời khỏi ngân hàng như thường lệ để đi ăn bữa trưa đạm bạc của mình và quyết định bỏ một đồng mua bánh xăng uých và ăn chúng ở Stadtpark cách Ballgasse vài khối nhà.

Đó là thói quen của cô trong mùa hè và thậm chí còn vào cả trong mùa thu, và vì vậy cô thường xuyên mang theo bánh xăng uých. Ngày 15 tháng Chạp đó không phải là mùa hè cũng không phải mùa thu.

Tuy nhiên, nhìn bầu trời xanh trong trên Franziskanerplatz và được bảo vệ bởi chiếc áo khoác của mình, cô quyết định rằng nếu trời hào phóng tặng, dù chỉ trong một ngày, một chút của Altweibersommer – mùa hè của các bà già, theo cách nói của người Vienna – thì cô có thể ra ngồi ăn ở công viên.

Có một lý do đặc biệt khiến cô yêu cái công viên nhỏ dọc theo sông Rhine này. Một đầu là Hubner Kursalon, một nhà hàng tường bằng kính giống như một giàn nhạc lớn. Tại đó vào bữa trưa một giàn nhạc nhỏ đến chơi những giai điệu của Strauss: người mang đậm chất Vienna nhất trong số các nhạc sĩ.

Không đủ tiền để ăn ở đó, những người khác có thể ngồi bên ngoài gần đó và thưởng thức âm nhạc không mất tiền. Hơn thế nữa. Ở trung tâm công viên, được bảo vệ bởi vòm đá của mình, là bức tượng của chính Johann vĩ dại.

Edith Hardenberg mua bánh xăng uých ở cửa hàng bán đồ ăn gần đó, tìm thấy một ghế đá công viên trong ánh mặt trời, và lơ đãng lắng nghe những giai diệu valtz.

– Entschuldigung.

Cô nhảy dựng lên, cảm thấy chấn động bởi cái giọng trầm nói “Xin lỗi”.

Cô Hardenberg không hề trông đợi được một người nước ngoài hướng tới. Cô liếc nhìn về phía đó.

Anh ta còn trẻ, tóc đen, với đôi mắt nâu dịu dàng, và giọng nói của anh có âm sắc của người nước ngoài. Cô đang nhìn thẳng ra trước sau khi nhận ra người đàn ông trẻ đang có một quyển sách nhỏ minh hoạ hình vẽ trong tay và chỉ một từ trong đó Mặt dù cô đã cụp mắt xuống. Quyển sách là chương trình có minh hoạ của “Cây sáo thần”.

– Xin cho hỏi, từ này – không phải là tiếng Đức có phải không?

Ngón tay trỏ của anh ta chỉ vào từ partitura.

Cô có thể bỏ nơi đó, và sau đó, tất nhiên. chỉ việc bỏ đi. Cô bắt đầu gói bánh của mình lại.

– Không, cô nói ngắn.gọn, đó là tiếng Italia.

– A. người đàn ông nói giọng hối lỗi. Tôi đang học tiếng Anh nhưng tôi cũng không hiểu tiếng Italia. Nó có nghĩa là câu chuyện có phải không?

– Không, cô nói. nó có nghĩa là bản nhạc.

– Cám ơn cô. anh ta nói với sự biết ơn trìu mến. Thật là khó để hiểu được những bản opera thành Vienna của các cô, nhưng tôi thật sự rất thích chúng đấy.

Những ngón tay của cô chậm lại trong khi gói lại những cái bánh xăng uých và đi.

– Nó được phổ nhạc ở Ai Cập, cô biết đấy, người đàn ông trẻ tuổi giải thích. Ôi thật là ngớ ngẩn, cô thì biết hết về Cây sáo thần còn gì.

Thật sự là thế, cô nói. Thế là đã đi xa quá rồi, cô tự nhủ. Dù anh ta là ai đi nữa, anh ta cũng là một chàng trai dễ mến. Tại sao. họ lại trò chuyện mới được chứ. Ý tưởng mới kỳ quặc sao.

– Aida cũng thế đấy, anh nhận xét. quay trở lại nghiên cứu tờ chương trình của mình. Tôi yêu nhạc Verdi, nhưng tôi nghĩ tôi thích Mozart hơn.

Những chiếc bánh của cô đã được gói lại; cô đã sẵn sàng để đi Cô chỉ cần đứng lên và đi. Cô quay sang nhìn anh ta, và anh ta chọn đúng lúc đó để nhìn lên và mỉm cười.

Đó là một nụ cười rất rụt rè. gần như cầu khẩn; đôi mắt nâu sẫm có làn mi mà cô người mẫu nào cũng sẵn sàng giết người để có được.

– Không có so sánh, cô nói. Mozart là bậc thầy của tất cả.

Nụ cười của anh mở rộng ra. cho thấy hàm răng trắng.

– Ông đã từng sống ở đây. Có thể ông đã từng ngồi ở đây, ngay trên cái ghế này, và soạn nhạc của mình.

– Tôi chắc rằng ông ta không làm thế đâu, cô nói. Hồi đó chưa có cái ghế này đâu.

Cô đứng lên và quay đi. Người đàn ông trẻ tuổi cũng đứng lên và cúi chào nhanh kiểu Vienna.

– Tôi xin lỗi đã làm phiền cô, thưa cô. Nhưng cám ơn cô vì đã giúp đỡ

Cô đang đi ra khỏi công viên: quay trở về bàn của mình để ăn xong bữa trưa. tức giận với chính mình. Trò chuyện với những người đàn ông trẻ tuổi ở công viên – còn gì sẽ xảy ra nữa đây? Dù sao, anh ta chỉ là một sinh viên nước ngoài đang cố học về opera thành Vienna. Không có nguy hại gì cả, rõ là thế.

Nhưng đủ là đủ. Cô đi qua một tấm tranh quảng cáo, dĩ nhiên, dàn nhạc Opera Vienna đang diễn vở Cây sáo thần trong ba ngày. Có thể đó là một phần trong kỳ học của chàng trai.

Mặc dù sự say mê của mình. Edith Hardenberg chưa từng hao giờ được vào nghe nhạc ở Staatsoper. Dĩ nhiên, cô đã đi vào trong đó khi nó mở cửa ban ngày, nhưng một vé xem hoà nhạc nằm ngoài tầm với của cô. Chúng đắt quá mức. Những vé opera trong mùa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Muốn đặt dài hạn trong mùa phải thực sự giàu có. Những cái vé khác chỉ có thể mua được nếu có thế lực, mà cô thì chẳng hề có. Ngay cả những cái vé thường cũng nằm ngoài khả năng của cô. Cô thở dài và quay trở lại công việc của mình.

Đã kết thúc đợt ấm. Những đám mây màu ghi lạnh lẽo quay trở lại. Theo thói quen của bữa trưa cô đến quán café quen thuộc và ở cái bàn quen thuộc. Cô là một người rất nguyên tắc, có những thói quen bất di bất dịch.

Vào ngày thứ ba sau chuyện ở công viên cô đến bàn của mình vào giờ thường lệ, đúng đến từng phút. và chợt nhận ra cái bên cạnh đã có người. Có hai quyển sách sinh viên – cô không buồn ngó qua tên – và một chai nước uống dở.

Cô vừa gọi xong món thì người ngồi bàn quay ra từ nhà vệ sinh nam. Chỉ đến khi ngồi xuống rồi anh ta mới nhận ra cô và tỏ ra rất ngạc nhiên.

– Ôi Gruss Gott – lại gặp cô nữa rồi. anh nói.

Môi cô mím lại tức tối. Người phục vụ đi tới và đặt trước cô đĩa thức ăn. Cô không thể đi được. Nhưng chàng trai không chịu lùi bước.

– Tôi đã xem xong tờ chương trình rồi. Tôi nghĩ giờ đây tôi đã hiểu được toàn bộ rồi.

Cô gật đầu và bắt đầu một cách tinh tế để ăn. “Tốt lắm. Cậu học ở đây à?”

Chẳng rõ tại sao cô lại hỏi thế? Cái thứ điên rồ nào đã chạy vào trong người cô vậy? Nhưng những cuộc trò chuyện trong hàng ăn thì luôn có. Thế thì phải lo gì, hả Edith? Rõ ràng đó là một cuộc trò chuyện có văn hoá, ngay cả với một sinh viên nước ngoài, có hại gì đâu nào? Cô tự hỏi ông Gemuetlich có thể nghĩ gì, ông sẽ tức lắm, tất nhiên rồi.

Đôi mắt sẫm màu của chàng trai ánh lên hạnh phúc.

– Phải. Tôi học kỹ sư. Ở Đại học kỹ thuật. Khi tôi có bằng, tôi sẽ về nhà và giúp xây dựng đất nước tôi. Xin lỗi, tên tôi là Karim.

– Cô Hardenberg, cô nói chậm rãi. Thế anh từ đâu đến thế, thưa anh Karim?

– Tôi từ Jordan đến.

Ôi chúa nhân từ ơi, một người Arập. Thì cô cũng cho rằng có nhiều người bọn họ ở đại học Kỹ thuật, cách Karntner hai dãy nhà. Phần lớn trong số đó cô nhìn thấy trên phố, những người kinh tởm bán thảm và báo tại những quán cà phê vỉa hè và không chịu bỏ đi. Chàng trai gần cô thì lại trông thật đáng kính. Có lẽ anh ta đến từ một nhà khá giả. Nhưng dù sao đi nữa… một người Arập. Cô kết thúc bữa ăn và gọi tính tiền. Thời gian đã đến để thoát khỏi chàng trai, dù cô nghĩ rằng thật lịch sự đáng ngạc nhiên. Đối với một người Arập.

– Thế, anh nói vẻ tiếc nuối, tôi không nghĩ tôi có thể đi.

Giấy tính tiền của cô đã tới. Cô đếm mấy đồng tiền.

– Đi đâu?

– Đến rạp opera. Để xem Cây sáo thần. Không phải một mình – tôi chẳng điên đến thế. Nhiều người lắm. Không biết đi đâu cả không biết vỗ tay thế nào.

Cô mỉm cười vẻ khoan dung.

– Ôi tôi không nghĩ anh sẽ đến đấy đâu, chàng trai trẻ ạ, bởi vì anh không có vé.

Anh có vẻ bối rối.

– Ôi không, không phải thế đâu.

Anh với tay vào túi áo và đặt hai vé lên mặt bàn. Bàn của cô. Ngay cạnh giấy tính tiền. Hàng thứ hai từ dàn nhạc. Cách các ca sĩ có mấy fít. Ngồi giữa.

– Tôi có một người bạn ở Liên Hợp Quốc. Họ có vé mà, cô biết đấy. Nhưng anh ta không muốn xem, thế là cho tôi.

Cho. Không bán, mà là cho. Ngoại hạng, và người ta cho đi

– Liệu cô, chàng trai hỏi giọng cầu khẩn, có thể đi cùng cô không? Xin cô mà.

Anh ta nói thật dịu dàng, như thể cô có thể mang anh ta đi vậy.

Cô nghĩ đến chuyện được ngồi trong cái thiên đường lớn lao, có vòm. lung linh, diệu kỳ đó, tâm trí cô nhảy dựng lên với âm sắc của những giọng trầm, giọng trung, giọng cao, và giọng buồn trong trần nhà phía trên.

– Chắc là không được rồi, cô nói.

– Ôi tôi xin lỗi, thưa cô. Tôi đã xúc phạm đến cô.

Anh ta chìa tay ra và cầm lấy hai cái vé, mỗi tay cầm một nửa và chuẩn bị xé chúng.

– Đừng. Tay anh hạ xuống ngay trước khi xé những tấm vé vô giá thành đôi. Anh không được làm thế.

Cô đỏ hồng cả má lên.

– Nhưng chúng chẳng có ích gì với tôi cả.

– Thế thì. tôi đề nghị…

Khuôn mặt anh căng lên.

– Thế cô sẽ chỉ cho tôi Nhà hát Opera chứ?

Chỉ cho anh ta rạp Opera. Chắc chắn việc đó thì lại là khác. Không phải là một cuộc hẹn hò. Không phải cái loại hẹn hò mà người ta… chấp nhận các cuộc hẹn. Giống một tua du lịch hơn, rõ là thế. Một sự lịch thiệp thành Vienna, chỉ cho một sinh viên từ nước ngoài đến với những băn khoăn về thủ đô nước Áo.

Không có gì nguy hại trong đó hết cả…

Họ gặp nhau trên bậc tam cấp lúc bảy giờ năm mươi. Cô đã lái xe đến từ Grinzing và đỗ xe không gặp trở ngại nào. Họ hài lòng gặp nhau.

Nếu Edith Hardenberg đã xoay xoả với hai mươi mùa hè không tình yêu, đã rơi vào một thiên đường, thì đó là cái đêm vào năm 1990 đó khi cô ngồi cách sân khấu có vài fít và tự cho phép mình đắm vào âm nhạc. Nếu cô chưa từng bao giờ có cảm giác say rượu, thì tối đó cô đã tự cho phép mình có một chút ít trong cơn thác những giọng ca trầm bổng.

Vào nửa đầu cuộc diễn, khi Papageno hát và biểu diễn trước cô, cô cảm thấy một bàn tay mạnh mẽ đặt lên trên tay cô. Bản năng khiến cô rút phắt tay mình lại. Vào nửa cuối. khi chuyện đó lại diễn ra lần nữa, cô không làm gì hết cả và cảm thấy, với âm nhạc, sự ấm nóng tăng lên trong cô một bầu máu khác.

Khi buổi diễn kết thúc, cô vẫn còn ngất ngây. Mặc dù vậy nhẽ ra cô không nên cho phép anh đưa cô đi bộ qua quảng trường đến ngôi nhà cũ của Freud, quán cà phê Landlmann, giờ đây được dựng lại cho vinh quang năm 1890 của ông. Chính người hầu bàn siêu hạng Robert chỉ bàn cho họ, và họ ăn một bữa tối muộn.

Sau đó, cô đi về xe của mình. Cô đã bình tâm lại. Đã nguôi đi

– Tôi sẽ rất thích nếu cô có thể chỉ cho tôi thành Vienna thật sự, Karim trầm giọng nói. Thành Vienna của cô, thành Vienna của những bảo tàng và những buổi hoà nhạc. Tôi sẽ không bao giờ hiểu được văn hoá nước áo, nếu cô không chỉ cho tôi.

– Anh nói gì thế, Karim?

Họ đứng cạnh chiếc xe. Không, cô sẽ nhất định không để anh dẫn mình đến nhà anh ta, dù ở đâu đi chăng nữa, và sẽ nhất quyết không mời anh ta về nhà cô.

– Tôi rất thích được gặp cô nữa.

– Tại sao?

Nếu anh ta nói mình đẹp, mình sẽ đánh anh ta, cô nghĩ.

– Vì cô dễ mến quá, anh nói.

Cô đỏ hồng má trong bóng tối. Anh không nói một lời nào nữa mà chỉ cúi về phía trước và hôn vào má cô. Rồi anh đi. chạy qua quảng trường. Cô lái xe về nhà một mình.

Tối đó. những giấc mơ của Edith Hardenberg thật lộn xộn.

Cô mơ về trước đó lâu. Cô mơ thấy Horst, người đã yêu cô qua mùa hè năm 1970 khi cô mười chín tuổi và còn trinh trắng. Horst, người đã khêu gợi và làm cô yêu anh. Horst, người đã đi vào mùa đông không một lời để lại hay giải thích hay chỉ là một lời từ biệt.

Đầu tiên cô nghĩ anh ta gặp tai nạn. và cô gọi đến các bệnh viện. Rồi nghĩ rằng công việc bán hàng lưu động của anh ta đã gọi anh ta ra đi và anh ta sẽ gọi lại cho cô.

Sau đó, cô được biết anh ta đã cưới cô gái ở Graz, người anh ta đã yêu khi đi đến đó.

Cô đã kêu khóc cho đến mùa xuân. Rồi cô mang mọi thứ kỷ niệm về anh ta, mọi dấu hiệu về sự hiện hữu của anh ta ở đó. và đốt đi. Cô đốt các món quà và ảnh họ đã chụp khi họ đi trên mặt đất và khi lái tàu đi trên những cái hồ Schlosspark ở Laxemburg, và phần lớn trong đó cô đốt bức ảnh cái cây dưới đó anh yêu cô lần đầu tiên, thật sự yêu cô và làm cho cô thuộc về anh ta.

Cô không có người đàn ông nào nữa cả. Họ chỉ bội bạc con và bỏ rơi con, mẹ cô nói thế, và mẹ cô đã đúng: Không thể bao giờ có người đàn ông nào nữa hết, không bao giờ, cô đã thề.

Đêm đó, một tuần trước lễ Giáng Sinh, những giấc mơ tan biến trước bình minh, và cô ngủ với tờ chương trình Cây sáo thần bên cạnh. Trong khi cô ngủ, một vài nét dễ dàng từ khoé miệng cô và khoé mồm cô lộ ra. Và khi ngủ, cô mỉm cười. Chắc chắn chẳng có gì hại ở đó hết cả.

Bình luận