Chiếc Mercedes to lớn màu ghi đang gặp tắc đường. Bấm còi như điên, người lái xe đẩy dạt vào hai bên một dòng thác ôtô, xe tải, hàng chợ, và những xe đẩy tạo nên một dòng cuộc sống giữa các phố tên là Khulafa và Rashid.
Đó là Baghdad cổ, nơi những người buôn bán và bán hàng, những người bán quần áo, vàng, hương liệu. những người mua hầu hết các hàng hoá, phải khó khăn đi lại trong suốt mười thế kỷ qua.
Chiếc xe rẽ xuống phố Bank, nơi hai đường đầy xe ôtô đang đỗ, và cuối cùng lao sang phố Shurja. Trước đó, chợ trên phố của những người bán hương liệu là không thể vào được.
Người lái xe quay đầu lại.
– Tôi chỉ có thể đi vào được đến thế này thôi.
Leila Al-Hilla gật đầu và đợi cánh cửa mở ra cho mình. Bên cạnh người lái xe là Kemal, vệ sĩ thân tín của tướng Kadiri. một trung uý sắt thép của các Lực lượng Vũ trang đã trở thành nhân viên của Kadiri trong nhiều năm. Cô ghét anh ta.
Sau một lát dừng lại, viên trung sĩ mở cửa, nhấc thân hình cao lớn của mình lên vỉa hè, và mở cửa sau. Anh ta biết một lần nữa cô lại nhục mạ anh, và nó được thể hiện trong mắt anh ta. Cô nhẹ nhàng bước ra khỏi xe và chẳng buồn liếc nhìn hay một lời cám ơn.
Một lý do khiến cô ghét người vệ sĩ là vì anh ta đi theo cô mọi nơi. Đó là công việc của anh ta, dĩ nhiên do Kadiri giao, nhưng điều đó không làm cô bớt ấn tượng xấu về anh ta. Khi nghiêm túc, Kadiri là một người lính chuyên nghiệp rất nghiêm khắc; trong vấn đề dục tình thì ông ta cũng ghen tuông ở mức độ không thua kém. Từ đó quy tắc của ông ta là cô không bao giờ được một mình trong thành phố hết cả.
Lý do khác khiến cô không ưa người vệ sĩ là rõ ràng anh ta đang ve vãn cô. Một người đàn bà với ham muốn cao độ như cô có thể hiểu rõ mọi người đàn ông đều ham muốn cơ thể cô, và nếu giá chấp nhận được cô sẽ chấp nhận ngay, không quan tâm đến cái trò kỳ quặc đến thế nào. Nhưng Kemal đã phạm vào cái lỗi xấu xa nhất: Là một trung sĩ. anh ta nghèo, làm thế nào mà anh ta lại cả gan có những ý nghĩ đó kia chứ Anh ta rõ ràng là đã dám – một sự pha trộn của chiêm ngưỡng cô và ham muốn nhục dục. Điều đó lộ ra khi anh ta biết tướng Kadiri không có đó.
Về phần mình anh ta biết sự mãnh liệt của cô, và điều đó làm anh ta thích ve vãn cô bằng những cái liếc nhìn trong khi ngôn ngữ vẫn lộ rõ sự chỉn chu.
Cô đã phàn nàn với Kadiri về sự sỗ sàng láo toét của anh ta, nhưng ông chỉ phá lên cười. Ông có thể nghi ngờ bất kỳ người đàn ông nào ham muốn cô, nhưng Kemal được phép có nhiều tự do bởi vì Kemal đã cứu sống ông trong trận Al Fao chống người Iran, và Kemal có thể vì ông mà hy sinh.
Người vệ sĩ sập cửa lại và đứng cạnh cô khi họ tiếp tục đi xuống phố Shurja.
Vùng này là Agid al Nasara, vùng của người Công giáo- Ngoài nhà thờ thánh George bên kia sông, được xây dựng bởi người Anh cho chính mình và niềm tin Tin lành của mình, có ba giáo phái Công giáo ở Iraq, chiếm khoảng 7% dân số nước này. Giáo phái lớn nhất là Assyry hoặc Syriac, mà nhà thờ nằm giữa vùng Công giáo, bên ngoài phố Shurja. Một dặm cách đó là nhà thờ Armenie, gần một cái khác rất gần những phố nhỏ và đường đi mà lịch sử được lùi lại nhiều thế kỷ tên là Campel Arman, khu phố cổ Armeny.
Kề với nhà thờ lớn Syriac là nhà thờ thánh Joseph, của người Công giáo Chaldea, giáo phái nhỏ nhất. Nếu lễ nghi Syriac giống nhà thờ Chính giáo Hy Lạp, thì của Chaldea lại hao hao nhà thờ Thiên chúa giáo. Người Iraq đáng kính nhất trong số các tín đồ công giáo Chaldea khi đó là bộ trưởng ngoại giao Tang Aziz, mặc dù sự trung thành như chó săn của ông ta với Saddam Hussein và những chính sách diệt chủng của mình, ông ta, Aziz, vẫn luôn mồm rao giảng về hoà bình. Leila Al-Hilla cũng đã sinh ra là một tín đồ Chaldea, và giờ đây điều này tỏ ra rất hữu dụng.
Cặp trai gái không ưa gì nhau đi đến cái cổng nẹp thép dẫn vào cái sân to trước mặt một cánh cửa vòng cung của nhà thờ Chaldea. Kemal dừng lại. Là một tín đồ Hồi giáo, anh ta không thể đi thêm một bước nào nữa. Cô gật đầu với anh ta và đi vào trong cổng. Kemal nhìn cô khi cô mua một cây nến nhỏ ở một cửa hàng ngoài cửa. lật chiếc mũ ra đằng sau, và đi vào bên trong tối om.
Người vệ sĩ nhún vai và đi lùi lại vài yard để mua một lon Coke và tìm một chỗ để ngồi và nhìn đường ra. Anh ta tự hói tại sao ông chủ của mình lại cho phép cái trò vô tích sự này. Người đàn bà là một thứ dở hơi; vị tướng có thể một ngày nào đó sẽ bỏ cô ta và anh ta, Kemal, đã được hứa. có thể rất sung sướng trước khi cô ta bị loại đi. Anh ta mỉm cười về triển vọng, và làm tràn nước ngọt ra cằm.
Trong nhà thờ Leila dừng lại để thắp ngọn nến từ một trong những hàng trăm ngọn lửa gần cửa, rồi. cúi lom khom, đi vào những ô xưng tội ở bên kia. Một nhà tu mặc áo chùng đen đi qua nhưng không đoái hoài gì đến cô cả.
Luôn cùng trong một ô xưng tội. Cô đi vào vào giờ chính xác, nối đuôi một người đàn bà vận đồ đen cũng đang tìm một nhà tu để nghe những tôi lỗi cho mình, có khả năng còn tầm thường hơn người đàn bà trẻ đang tiếp đuôi bà ta và ngồi vào chỗ của mình.
Leila đóng cửa sau lưng mình, quay lại, và ngồi vào chỗ của người xưng tội. Bên phải cô là một cái mắc lưới chắc chắn.
Cô nghe thấy có tiếng động nhỏ đằng sau. Anh ta có thể đã ở đó rồi; anh ta luôn ở đó vào giờ đã hẹn.
Anh ta có thể là ai? Cô tự hỏi. Tại sao anh ta lại trả nhiều tiền đến thế cho thông tin mà cô mang đến cho anh ta? Anh ta không phải là người ngoại quốc – tiếng Arập của anh ta quá tốt, tiếng Arập của một người sinh ra và lớn lên ở Baghdad này. Và tiền của anh ta thì tốt, thật là tốt.
– Leila phải không? Giọng nói là một tiếng thì thầm, nhỏ và đều đều. Cô luôn phải đến sau anh ta và rời đi trước anh ta. Anh ta đã báo trước là không được rình mò bên ngoài để nhìn anh ta, nhưng bằng cách nào cô có thể làm vậy, với Kemal luôn kè kè bên cạnh cơ chứ? Thằng cha có thể thấy cái gì đó và báo lại cho ông chủ của hắn. Cuộc đời cô đáng giá hơn thế chứ.
– Hây nói con là ai đi.
– Thưa cha, con đã phạm tội trong những vấn đề xác thịt và không đáng được cha tha thứ.
Chính anh ta là người đã sáng tác ra câu nói đó. bởi vì không ai khác có thể nói như thế.
– Thế cô có gì cho tôi?
Cô luồn tay vào giữa hai chân, kéo ra, và xé một gói băng vệ sinh anh ta đã đưa cô nhiều tuần trước. Một đầu rơi ra. Cô kéo ra một cuốn giấy dày hình ống không lớn hơn một cái bút chì. Cô chuyển nó qua tấm mành của cái ô.
– Đợi nhé.
Cô nghe thấy tiếng sột soạt của giấy nến khi người đàn ông đưa con mắt chuyên nghiệp kiểm tra những ghi chép của cô – Một báo cáo về những suy tính và kết luận của hội đồng kế hoạch ngày hôm trước do đích thân Saddam Hussein chủ trì, tại đó tướng Abdullah Kadiri cũng có mặt.
– Tốt, Leila. Tốt lắm.
Hôm nay tiền bằng đồng frăng Thụy Sĩ , những đồng tiền có mệnh giá rất cao, được tuồn qua song từ anh ta đến cô. Cô giấu kín tất cả chúng vào chỗ cô đã để thông tin của mình, một chỗ cô biết hầu hết những tín đồ Hồi giáo nam đều coi là bẩn thỉu trong một khoảng thời gian nào đó. Chỉ bác sĩ hay lũ AMAM chết dẫm mới có thể tìm thấy ở đó.
– Phải tiếp tục bao lâu nữa đây? Cô hỏi chấn song.
– Không lâu nữa đâu. Chiến tranh sẽ sớm xảy ra thôi. Khi nó kết thúc, Rais sẽ sụp đổ. Những người khác sẽ lên nắm quyền. Tôi sẽ có thể là một trong số đó. Khi đó cô sẽ thực sự được thưởng, Leila ạ. Hãy bình tĩnh làm công việc của mình, và kiên nhẫn.
Cô mỉm cười. Thực sự được trả công. Tiền, rất nhiều tiền, đủ để đi xa và sống những ngày cuối đời trong giàu có.
– Giờ thì đi đi.
Cô đứng lên và rời khỏi cái ô. Người đàn bà nhiều tuổi mặc đồ đen đã tìm thấy ai đó khác để xưng tội. Leila lại đi qua khung nhà và đi ra ánh mặt trời. Thằng khốn Kemal đang đứng ở cánh cổng nẹp thép, vung vẩy một lon nước ngọt trên một ngón tay to đùng, phơi mình ra trước cái nóng. Tốt, cứ để hắn ta đổ mồ hôi. Hắn sẽ còn đổ nhiều mồ hôi hơn nữa nếu hắn biết…
Không thèm liếc qua anh ta, cô quay lại phố Shurja, đi qua cái chợ đông nghịt đi đến cái xe đang đợi sẵn. Kemal điên tiết nhưng không biết làm thế nào, lủi thủi đi theo cô ta. Cô không thèm để ý dù chỉ một chút một cái fellagha tồi tệ đây một cái xe đạp với một cái giỏ trần đằng trước, và người này cũng không mảy may quan tâm đến cô. Người đàn ông là người duy nhất trong chợ đi mua đồ ăn, đi mua các thứ quả.
Một mình trong ngăn xưng tội, người đàn ông trong chiếc cassock đen của một thầy tu Chaldea ngồi đợi một lúc lâu để chắc chắn rằng nhân viên của mình đã rời khỏi phố. Cô ta chẳng thể nào nhận ra ông ta, nhưng trong trò chơi này ngay cả những điều vớ vẩn cũng có thể dẫn đến thảm hoạ. Ông ta nghĩ về những điều đã nói với cô. Chiến tranh đang đến gần. Người Mỹ đã mắc vào và không thể rút được nữa. Trừ khi người trong cung điện bên dòng sông ở cầu Tamuz không chịu rút lui đơn phương khỏi Kuwait. May mắn sao, ông ta có vẻ như là đã dính chặt vào chuyện phá huỷ của mình. Người Mỹ có thể chiến thắng trong cuộc chiến, và rồi sau đó họ có thể quay trở lại Baghdad để hoàn thành công việc của mình.
Chắc chắn là họ không thể chỉ chiến thắng ở Kuwait và nghĩ là đó là kết thúc của chuyện đó? Không ai có thể mạnh hơn và ngu ngốc hơn thế.
Khi họ tới, họ có thể phải cần đến một chính quyền khác.
Là người Mỹ, họ có thể ngả mạnh về ai đó có thể nói tiếng Anh lưu loát, người nào đó hiểu các phương cách của họ, các suy nghĩ của họ, và tiếng nói của họ, và người có thể biết phải nói gì để làm vui lòng họ và trở thành lựa chọn của họ.
Với giáo dục tốt, sự tinh thông tài năng giờ đây là những thứ phản lại anh, lại có thể là cái sẽ đem lại mọi thứ. Lúc này, anh ta bị gạt ra khỏi các hội đồng cao nhất và những quyết định tốt mật của Rais – bởi vì anh ta không phải thuộc bộ lạc Al- Tikriki khốn khiếp, hay là một người đệ tử trung thành cả đời của đảng Ba’ath, hay một ông tướng, hay một anh em cùng cha khác mẹ của Saddam.
Nhưng Kadiri thuộc bộ lạc đó – và được tin tưởng. Chỉ một ông tướng xe tăng tầm thường và với những sở thích của một con lạc đà ngớ ngẩn, từng chơi trong cát bụi của những con đường Tikrit với Saddam và tộc người của ông ta, và thế là đã đủ. Kadiri có mặt ở mọi cuộc họp đưa đến quyết định và biết mọi bí mật. Người trong đó cần biết những cái đó dễ mà tự có những chuẩn bị của mình.
Khi nghĩ rằng đã đợi đủ rồi, người đàn ông đứng dậy và đi ra. Thay vì đi ngang qua cửa chính, anh ta lướt qua một cửa bên đi ra hông, gật đầu với một thầy tu chính hiệu đang mặc quần áo cho một nghi lễ, và rời khỏi nhà thờ bằng cửa sau.
Người đàn ông đi xe đạp chỉ cách đó có 20 fít. Rất tình cờ anh ta liếc nhìn lên khi người thầy tu trong bộ cassock màu đen của mình hiện lên trong ánh mặt trời và tiến tới đúng lúc đó.
Người đàn ông mặc cassock cũng liếc nhìn người kia, chỉ trông thấy cái fellagha quấn trên chiếc xe đạp thay cho xích, và đi nhanh xuống cái ngõ đi về hướng một cái xe nhỏ rất bình thường.
Người đi chợ mua thức ăn thấy mồ hôi ròng ròng trên mặt và tim nảy lên. Gần quá, mẹ kiếp, gần quá. Anh đã cố gắng tìm cách tránh mọi chỗ gần đại bản doanh của Mukhabarat ở Mansour tránh trường hợp bị nhìn thấy mặt. Thế quái nào ông ta lại là một thầy tu trong khu phố Công giáo cơ chứ?
Chúa ơi, đã nhiều năm trôi qua – nhiều năm kể từ khi họ cùng chơi với nhau trên sân của ngôi trường Tasisiya của ông Hartley, từ khi anh đấm vào hàm thằng nhóc vì đã nhạo báng đứa em trai yêu quý của anh: kể từ khi họ ngâm thơ trong lớp: luôn bị Abdelkarim Badri vượt mặt. Đã là một khoảng thời gian dài kể từ khi anh nhìn thấy người bạn cũ Hassan Rahmani, giờ đây là chỉ huy Phản gián của Cộng hoà lraq.
Giáng sinh đang đến gần, và trong các sa mạc của miền bắc Arập Xêut, ba trăm nghìn người Mỹ và người Âu hướng suy nghĩ của mình về nhà khi họ chuẩn bị cho buổi lễ trong một vùng đất rất đậm chất Hồi giáo. Nhưng mặc dù buổi lễ ra đời Chúa đang đến gần, đội quân của lực lượng xâm lược lớn nhất từ sau Normandie vẫn tiếp tục.
Phần sa mạc trong đó các lực lượng Liên quân đóng quân vẫn ngả về phía nam của Kuwait. Không hề có gì che giấu cuối cùng một nửa lực lượng này sẽ được đưa đi xa hơn về phía tây.
Ở các cửa ngõ ven biển các sư đoàn mới vẫn tiếp tục đổ vào Lữ đoàn số bốn của Anh đã gia nhập Những con chuột Sa mạc, đội thứ Bảy, để tạo nên Sư đoàn thứ nhất. Người Pháp cũng đã có đóng góp của mình lên tới 10.000 người, trong có có cả đội lính Lê dương.
Người Mỹ đã nhập khẩu, hay gần như thế, Sư đoàn Kỵ binh số Một, số Hai và Số Ba, Sư đoàn Bộ binh tiên tiến số Một và Ba, hai sư đoàn Hải quân. và Đội không quân 82 và 101.
Ngay trên đường biên giới, nơi họ muốn ở, là lính thường trực Xêut và các lực lượng đặc biệt, với các sư đoàn Ai Cập và Syrie hỗ trợ và những đơn vị khác được rút đến từ nhiều quốc gia Arập nhỏ hơn.
Các nguồn nước phía bắc của Vịnh Arập phần lớn đã được đậu bởi những tàu chiến từ các hải quân Liên quân. Trong Vịnh hay trên Biển Đỏ bên kia của Arập Xêut, Mỹ đã đặt năm đội tiếp tế do các tàu Eisenhower, Independence, John F. Kennedy, Middway, và Saratoga chỉ huy, với những chiếc America. Ranger, và Theodore Roóevelt vẫn đang trên đường tới.
Chỉ riêng lực lượng không quân của những chiến hạm này, những chiếc Tomcat, Hornet, Intruder, Prowler, Avenger, và Hawkeye đã gây ấn tượng lắm rồi.
Trong vịnh, chiến hạm Wisconsin của Mỹ đang ở trạm, đi cùng với chiếc Missouri vào tháng Giêng.
Tại các nước vùng Vịnh và Arập Xêut, mọi sân bay có giá trị đều có máy bay chiến đấu, máy bay thả bom, máy bay tiếp nhiên liệu, máy bay chở hàng, và máy bay do thám, tất cả trong số đó đều sẵn sàng bay vào mọi lúc, mặc dù vẫn chưa xâm phạm không phận Iraq, với ngoại lệ là những chiếc máy bay do thám bay tít ở trên không bị phát hiện.
Trong nhiều trường hợp Không lực Mỹ chia sẻ sân bay với các đội bay của Không lực Hoàng gia Anh. Vì các đội bay cùng ngôn ngữ, liên lạc dễ dàng, thoải mái, và thân thiện. Đôi lúc, tuy nhiên, cũng có những hiểu lầm.
Một trong số đó liên quan đến một địa điểm bí mật của Anh được biết đến đơn giản là MMFD.
Vào một công vụ tập sớm, một chiếc Tornado của Anh đã bị người kiểm soát không lưu hỏi có phải đang đi đến một địa điểm nào đó không. Phi công trả lời là không, anh ta vẫn ở trên MMFD.
Vào lúc đó, nhiều phi công Mỹ nghe về địa điểm này và giở bản đồ để tìm. Đó là một sự rắc rối vì hai lẽ: người Anh có vẻ đã bỏ quá nhiều thời gian vào đó, và nó không ở trên một bản đồ hàng không nào của Mỹ. Lý thuyết được đặt ra rằng nó có thể là môt sự nghe nhầm của KKMC, cái được đặt cho Khu quân sự Vua Khaled, một căn cứ lớn của Xêut. Điều này được tranh luận, và sự tìm kiếm tiếp tục. Cuối cùng những người Mỹ đành bỏ. Mọi nơi MMFD được đặt, đó chỉ đơn giản được tìm thấy trên các bản đồ hàng không do các đội USAF cung cấp bởi các nhà hoạch định chiến lược ở Riyadh.
Cuối cùng các phi công Tornado chấp nhận sự bí mật của MMFD. Nó nằm ở “hàng dặm hàng dặm trong cái sa mạc chó chết”.
Trên mặt đất, lính tráng đang ở trong MMFD. Với nhiều người, ngủ dưới xe tăng, lau súng, và ôtô, cuộc sống thật nặng nhọc, và còn tệ hơn, thật nhàm chán.
Tuy vậy cũng có những trò giải trí, và một trong số đó là đi thăm các đơn vị lân cận vào thời gian cho phép. Người Mỹ được trang bị với những chiếc túi tốt. mà người Anh rất thèm muốn. Do tình cờ, người Mỹ cũng có cùng những món ăn được chuẩn bị, một nhân viên phục vụ của Lầu Năm Góc thà chết cònhơn phải ăn nó ba ngày một lần.
Chúng được gọi là MRE, có nghĩa là Món-ăn-sẵn. Lính Mỹ từ chối vì chất lượng tồi của nó và cả quyết rằng MRE thực sự là những món đồ ăn do người Ethiopy vứt di. Ngược lại, người Anh lại chén rất ngon lành. đến nỗi một vụ chuyển nhượng chớp nhoáng được thiết lập giữa các giường Mỹ và đội Anh.
Một mẩu tin khác từ bên các đội Anh làm người Mỹ há hốc mồm là Bộ Quốc phòng Anh đặt nửa triệu bao cao su cho lính vùng Vịnh. Trong các sa mạc hoang vu của Arập một vụ mua bán như thế hẳn nhiên ngu ý người Anh phải biết gì đó mà lính Mỹ không biết.
Điều bí ẩn đã được làm sáng tỏ cái ngày trước khi trận chiến trên bộ mở màn. Người Mỹ đã tiêu tốn hàng trăm ngày lau chùi súng và còn mất nhiều hơn để tránh chúng khỏi cát bụi. Người Anh biến bao cao su của mình thành những cái túi đựng dầu lau súng tuyệt vời.
Ngay trước Giáng sinh đánh dấu bằng sự kiện Pháp gia nhập trở lại trái tim của cơ quan lập kế hoạch của Liên quân. Trong những ngày đầu tiên, Pháp đã có một thảm hoạ do Bộ trưởng Quốc phòng tên là Jean-pierre Chevenement gây ra, người tỏ ra rất thân thiện với Iraq và ra lệnh người chỉ huy Pháp chuyển mọi quyết định về kế hoạch của Liên quân về Paris. Khi tướng Schwarzkopf biết điều đó, ông và ngài Peter de la Billière gần như phá lên cười. Ông Chevenement vào thời điểm đó cũng là ngọn đèn dẫn lối cho Hội Hữu nghị Pháp – lraq.
Mặc dù đội của Pháp do một người lính tốt chỉ huy trong quân phục tướng Michel Roquejoffre, nước Pháp vẫn bị loại khỏi các cuộc họp lên kế hoạch.
Cuối năm đó, Pierre Joxe lên nắm quyền Bộ trưởng Quốc phòng Pháp và ngay lập tức đã ngừng lệnh đó lại. Từ lúc đó, tướng Roquejoffre có thể được đưa vào trong vòng tin cậy của người Mỹ và người Anh.
Hai ngày trước Giáng sinh, Mike Martin nhận được từ Jericho câu trả lời cho một câu hỏi được đặt ra một tuần trước đó Jericho biết rất rõ: Trong vài ngày trước một cuộc họp nội các khẩn cấp chỉ gồm bộ sậu của Saddam Hussein, Hội đồng Chỉ huy Cách mạng, và những tướng lĩnh cao cấp nhất đã được tổ chức.
Vấn đề Kuwait được nêu ra theo hướng từ chối đề nghị của Liên Hợp Quốc. Tất cả đều chờ đợi Saddam đưa ra một gợi ý ông ta không chịu làm vậy, như thường lệ ngồi ở đầu bàn như thể chờ đợi con rắn hổ mang, mắt đảo nhìn từ người này sang người khác như thể rình mò một chút gì đó không trung thành ở họ.
Không như lệ thường, không có một lời hướng dẫn của Rais, cuộc tranh luận bị đình xuống. Khi Saddam bắt đầu nói thật bình thản, điều đó có nghĩa là khi ông ta đang nguy hiểm nhất.
Bất kỳ ai, ông nói, có trong đầu ý nghĩ chấp nhận sự nhục mạ lớn đến thế với Iraq trước người Mỹ, dù chỉ là một ý nghĩ thoáng qua, đều là một kẻ liếm gót Mỹ cả đời. Một kẻ như thế không thể có chỗ ở cái bàn này được.
Và chỉ có thế. Tất cả những người có mặt đều ngửa ra sau giải thích một ý tưởng như thế không bao giờ, trong trường hợp nào đi nữa, xuất hiện trong đầu họ.
Rồi vị tổng thống Iraq thêm vào một điều nữa: chỉ khi lraq chiến thắng và được coi là chiến thắng mới có thể rút quân khỏi tỉnh thứ mười chín của Iraq.
Mọi người quanh bàn đều gật đầu ngoan ngoãn, mặc dù không ai hiểu ông ta đang nói gì.
Đó là một báo cáo dài, và Mike Martin chuyển nó cho ngôi biệt thự bên ngoài Riyadh cùng trong đêm đó.
Chíp Barber và Simon Paxman chăm chú hàng giờ vào đó Mỗi người đều quyết định rời Arập Xêut về nhà vài ngày, để Julian Gray và Chỉ huy Trạm CIA địa phương người Mỹ lại liên lạc với Mike Martin tiếp tục diều hành Jericho. Chỉ còn có 24 ngày là đến hạn cuối của Liên Hợp Quốc và bắt đầu của cuộc chiến tranh trên không của Chuck Horner chống Iraq. Cả hai người đều muốn có một kỳ nghỉ ở nhà, và báo cáo đầy sức nặng của Jericho cho họ cơ hội đó. Họ có thể cầm nó về nước.
– Anh nghĩ hắn ta muốn nói gì, chiến thắng và được coi là chiến thắng? Barber hỏi.
– Không hiểu được, Paxman nói. Chúng tôi có một số chuyên gia phân tích giỏi hơn chúng ta sẽ xem xét điều này.
– Chúng tôi cũng có. Tôi sẽ đưa nó cho Bill Stewart, và ông ấy có lẽ sẽ có cách nào đó phân tích sâu hơn trước khi nó đi đến tay giám đốc và Bộ Ngoại giao.
– Tôi cũng có một nhân vật để làm việc này, Paxman nói. và họ chia tay tại sân bay để bay về nước của họ.
Vào đêm Giáng sinh, ngồi trong một bar rượu kín đáo ở London vùng tây với Simon Paxman, tiến sĩ Terry Martin được cho xem toàn văn văn bản của thông điệp của Jericho và được hỏi liệu anh có thể cố làm sáng tỏ điều đó, hoặc bất cứ gì, mà Saddam Hussein muốn nói đến bằng cách chiến thắng Mỹ với giá rời khỏi Kuwait.
– Nhân tiện, anh hỏi Paxman, tôi biết điều này phá vỡ các quy tắc cần-biết, nhưng tôi thực sự lo lắng. Tôi làm những điều này cho anh – thì anh hãy làm cho tôi một điều nhé. Anh Mike của tôi đang làm thế nào ở Kuwait? Anh ấy vẫn được an toàn chứ?
Paxman nhìn chằm chằm vào vị tiến sĩ Arập nhiều giây liền.
– Tôi chỉ có thể nói là từ lâu nay anh ấy đã không còn ở Kuwait nữa rồi, anh ta nói. Và còn lại thì công việc của tôi không biết được.
Terry Martin thở phào.
– Đây là Giáng sinh tốt đẹp nhất mà tôi có được. Cám ơn anh, Simon. Anh nhìn lên và vẫy một ngón tay. Chỉ một điều thôi – đừng có nghĩ việc gửi anh ấy đến Baghdad đấy nhé.
Paxman đã trong nghề được 15 năm. Anh giữ khuôn mặt lạnh băng, cách nới năng vẫn nhẹ nhàng như cũ. Nhà học giả rõ ràng là chỉ đang đùa thôi.
– Thật ư?, Tại sao không?
Terry uống cạn ly rượu của mình và không nhìn thấy cái thoáng tinh quái trong mắt viên sĩ quan tình báo.
– Simon thân mến của tôi, Baghdad là thành phố anh ấy không thể đặt chân vào. Anh còn nhớ những cuộn băng mà đài Iraq đã bắt được mà Sean Plummer đã đưa tôi không?
Một số trong những giọng nói đó đã được nhận ra. Tôi nhận ra một trong số những cái tên. Quỷ quái thật, nhưng tôi tin là tôi đúng.
– Thật ư? Paxman hờ hững nói. Nói rõ cho tôi xem nào.
– Đã lâu lắm rồi, dĩ nhiên, nhưng tôi biết đó vẫn là con người ấy. Và tại sao không cơ chứ? Anh ta bây giờ là giám đốc Phản gián Baghdad, tay săn gián điệp số một của Saddam.
Hassan Rahmani, Paxman lẩm bẩm. Paxman không thể bình tĩnh được nữa, dù là đang ngay trước Giáng sinh. Anh ta không thể giữ được nữa. Anh đã buột miệng.
– Chính đó. Họ đã học cùng trường với nhau, anh biết không. Tất cả chúng tôi. Ở cái trường của ông già Hartley ấy. Mike và Hassan là bạn rất thân. Thấy không nào? Thế cho nên anh ấy không bao giờ được để trông- thấy ở Baghdad.
Paxman bỏ ngay quầy rượu và nhìn chằm chằm nhà Arập học đang đi ra phố.
– Ôi mẹ kiếp, anh ta nói, ôi mẹ kiếp, mẹ kiếp thật.
Ai đó vừa mới mất vui trong đêm Giáng sinh, và anh ta cũng đi phá hoại luôn đêm Noel của Steve Laing.
Edith Hardenberg đã tới Salzburg để nghỉ với mẹ mình, một truyền thống gia đình đã có từ nhiều năm nay. Karim, cậu sinh viên Jordan trẻ tuổi, đã có thể đến thăm Gidi Barzilai ở căn hộ an toàn của ông, nơi người điều hành chiến dịch Joshua đang uống rượu giải sầu với các nhân viên đội yarid và neviot làm việc dưới quyền của mình. Chỉ một người không may mắn phải đến Salzburg, theo dõi cô Hardenberg trong trường hợp cô đột ngột quay về thủ đô.
Tên thật của Karim là Avi Herzog, 29 tuổi đã từng phục vụ cho Mossad nhiều năm nay ở Đơn vị 504, một nhánh của Tình báo Quân đội chuyên gia về vượt biên, công việc đã cho anh ta một thứ tiếng Arập thật chuẩn. Vì vẻ ngoài ngon lành của anh ta và vẻ rụt rè ngây thơ và cung cách rất được lòng chị em mà anh ta có thể sử dụng khi cần, Mossad đã hai lần sử dụng anh ta trong hai vụ “nam nhân kế”
– Công việc tiến triển thế nào rồi, chàng trai đang yêu?
Gidid hỏi khi anh ta đi vào chỗ những chai rượu.
– Chậm chạp lắm, Avi nói.
– Đừng để kéo dài quá đấy nhé. Ông già muốn một kết quả, nhớ đấy.
– Đó là một mụ già rất khó chơi đấy, Avi trả lời. Chỉ quan tâm đến những vấn đề trí tuệ thôi.
Trong vỏ bọc là một sinh viên từ Amman, anh ta có một căn hộ nhỏ cùng ở với một sinh viên Arập khác, trên thực tế là một thành viên của đội neviot, một chuyên gia nghe trộm điện thoại cũng nói tốt tiếng Arập. Đó là để đề phòng trường hợp Edith Hardenberg hay ai đó có thể nhúng mũi kiểm tra nơi anh ta ở và người sống cùng anh ta.
Căn hộ chia nhau có thể không bị kiểm tra – nó chất đầy các sách về cơ khí và vài tờ báo và tạp chí Jordan. Cả hai người đều ghi tên theo học ở Đại học Kỹ thuật trong trường hợp một sự kiểm tra cũng được thực hiện ở đó. Chính người cùng ở với Herzog trong căn hộ đó lên tiếng.
– Trí thức Hãy phân tích xem nào.
– Đó là vấn đề, Avi nói. Tớ không thể.
Khi tiếng cười đã lắng xuống, anh ta nói thêm:
– Nhân tiện, tôi đang sắp gặp nguy hiểm đây.
– Tại sao hả? Gidi hỏi. Nghĩ cô ta sẽ cắn vỡ nó khi cậu cởi cái quần jean của cậu à?
– Đâu có Đó là các phòng trưng bày nghệ thuật, các buổi hoà nhạc, opera, độc tấu. Tôi không thể chết vì buồn chán trước khi nó đi quá xa đấy nhé.
– Cậu chỉ cần làm cái cậu có thể biết thôi, cậu bé xinh xẻo ạ Cậu chỉ ở đây bởi vì Văn phòng nói cậu có cái mà chúng tôi không thể.
– Đúng vậy, cô gái thành viên của đội yarid theo dõi nói. Khoảng 9 inch.
– Đủ rồi đấy Yael trẻ tuổi ạ. Cô có thể phải về vì nhiệm vụ thường ngày ở phố Hayarkon bất kỳ lúc nào cô muốn mà.
Uống, tiếng cười, và những lời đùa cợt bằng tiếng Do Thái tới tấp bay ra. Đêm đó. Yael phát hiện mình đã đúng. Đó là một đêm Giáng sinh tốt đẹp cho đội Mossad ở Vienna.
– Thế anh đang nghĩ gì vậy, Terry?
Steve Laing và Simon Paxman đã mời Terry Martin đến gặp họ ở một trong số các căn hộ của Hãng ở Kensington. Họ cần nhiều riêng tư hơn có thể có được ở một quán ăn. Hai ngày nữa thì sang năm mới.
– Thật tuyệt. Martin nói. Thật là rất tuyệt. Có thật không hả? Saddam đã nói tất cả những thứ đó hả?
– Tại sao anh lại hỏi thế?
– Nào, nếu các anh thứ lỗi nếu tôi hỏi thế, đó quả là một cú nghe trộm điện thoại kỳ lạ đó. Người nói có vẻ như đang báo cáo đến ai đó trong một cuộc họp mà ông ta tham dự… Người kia ở bên đầu dây không thấy nói gì.
Dù chỉ đơn giản là cách Hãng sẽ nói với Terry Martin bằng cách nào họ có bản báo cáo.
– Những can thiệp của người kia là rất đúng, Laing nhẹ nhàng nói. Chỉ là những tiếng khùng khục và những câu tỏ ý quan tâm.
– Nhưng đó đúng là ngôn ngữ Saddam đã dùng chứ?
– Thì chúng tôi tin thế mà.
– Thật là tuyệt vời. Lần đầu tiên tôi nghe được điều gì đó ông ta nói không phải để xuất bản hay cho một công chúng rộng rãi đấy.
Martin có trong tay không phải báo cáo viết tay của Jericho, cái đã bị huỷ bởi chính anh trai anh ở Baghdad ngay khi đọc xong nó, từng từ một, vào máy thu thanh. Mà là một bản đánh máy bằng tiếng Arập của văn bản đã đến Riyadh trong chuyến chuyển sớm trước Giáng sinh. Anh ta cũng có bản dịch tiếng Anh của văn bản này.
– Câu cuối cùng này, Paxman nới, người có thể phải quay về Riyadh ngay trong tối hôm đó, ông ta nói chiến thắng và được coi là chiến thắng – điều này có gợi cho anh điều gì không?
– Tất nhiên rồi. Nhưng các anh cũng biết đấy, các anh vẫn sử dụng từ chiến thắng trong nghĩa của châu Âu hay là của Bắc Mỹ. Tôi có thể sử dụng từ thắng trong tiếng Anh.
– Tốt thôi, Terry ạ. thế ông ta nghĩ thế nào mà có thể giành thắng lợi trước người Mỹ và Liên quân? Laing nói.
– Bởi sự nhục nhã. Tôi nói với các anh rồi cơ mà, ông ta bị Mỹ coi là một kẻ điên hoàn toàn.
– Nhưng ông ta sẽ không chịu rút khỏi Kuwait trong hai mươi ngày nữa ư? Chúng tôi thực sự cần biết diều đó, Terry ạ.
– Nhìn này, Saddam đâ vào đó bởi vì những đòi hỏi của ông ta không được đáp ứng, Martin nói. ông ta đòi hỏi bốn điều: – chiếm các đảo Warba và Bubiyan để có đường ra biển,- bồi thường cho những mất mát về dầu mà ông ta cho rằng Kuwait đã lấy mất bằng cách chia sẻ các vùng dầu, và chấm dứt sự sản xuất quá nhiều của Kuwait, – và một bồi thường chiến tranh 15 tỷ đôla. Nếu ông ta có được những cái đó, ông ta có thể rút lui trong danh dự, rời khỏi gọng kìm của người Mỹ một cách thoải mái. Đó là chiến thắng đấy.
– Không có gợi ý nào rằng ông ta nghĩ có thể có được chúng à? Martin nhún vai.
– Ông ta nghĩ những người mong mỏi hoà bình ở Liên Hợp Quốc có thể trải thảm. Ông ta đánh cuộc rằng thời gian này đứng về phía ông ta, rằng nếu ông ta có thể giải quyết được chuyện này, thì giải pháp của Liên Hợp Quốc có thể là có khả năng. Có lẽ ông ta có lý đấy.
– Nhưng ông ta có nói thế đâu, Laing xen vào. Ông ta đã có hạn cuối cùng. Ngày 15 tháng Giêng, không phải hai mươi ngày nữa. Ông ta đang đi đến chổ bị quét sạch.
– Trừ phi, Paxman đề xuất, một trong các thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an có thể có được một kế hoạch hoà bình ở phút cuối cùng để đẩy lùi thời hạn này lại.
Laing trông có vẻ tức tối.
– Paris hoặc Matxcơva, hoặc là cả hai, ông dự báo.
– Nếu chiến tranh xảy ra, Terry Martin nói. Nhưng quay trở lại cái tôi đã nói với các anh đó – thiệt hại về người của Mỹ. Đừng quên, Saddam từng là một tay súng đường phố. Chính thể của ông ta không phải là những hành lang ngoại giao của Cairo và Riyadh. Đó là tất cả những đường đi lối lại và những cửa hàng người Palestine và những người Arập khác đang căm ghét người Mỹ, kẻ đứng đằng sau Israel. Không một người nào có thể rời khỏi Mỹ an lành.
– Nhưng ông ta không thể làm như thế được, Laing khẳng định.
– Ông ta thì lại nghĩ mình có thể, Martin dáp. Xem này, ông ta cũng đủ thông minh để thấy rõ rằng trong mắt người Mỹ, Mỹ không thể thua, phải không được thua. Đó chỉ là cách duy nhất không chấp nhận được. Hãy nhìn vào Việt Nam, vấn đề cựu chiến binh. Với nước Mỹ, những thiệt hại về người nhìn thấy của một quân đội bị nghiền nát là một dạng của thất bại. Thất bại không thể chấp nhận được. Saddam có thể hy sinh ngay một lúc 50 nghìn người của ông ta. Ông ta chẳng buồn quan tâm. Chú Sam thì không làm thế được. Nếu Mỹ chơi cái kiểu đó, thì nó sẽ bị lung lay đến tận gốc rễ. Đầu sẽ phải rơi, các thứ sẽ bị nát vụn, các chính phủ sẽ bị đổ. Những cái đó có thể dai dẳng suốt một thế hệ.
– Ông ta không thể làm thế được đâu, Laing lặp lại.
– Ông ta nghĩ mình có thể, Martin đáp lại.
– Đó là vũ khí khí độc, Paxman lẩm bẩm.
– Có thể. Cuối cùng, liệu các ông có thể tìm thấy ý nghĩa trong băng không nào?
Laing liếc nhìn Paxman. Lại là Jericho. Không thể nêu tên Jericho được.
– Không. Không ai chúng tôi hỏi nghe ra nổi. Không ai có thể làm sáng tỏ được.
– Nó có lẽ là quan trọng lắm đấy, Steve ạ. Một cái gì khác cơ – không phải là khí độc.
– Terry. Laing kiên nhẫn nói. Trong vòng dưới hai mươi ngày người Mỹ, cùng với chúng ta, người Pháp, người Italia, người Xêut, và những người khác, sẽ tiến lên lật đổ Saddam Hussein với những chiến lược trên không lớn nhất mà thế giới chưa từng trông thấy bao giờ. Đã đủ hoả lực để kéo dài được trong vòng hai mươi ngày nữa trước cả một cơn sấm chớp rơi xuống đầu trong Thế chiến 2. Các tướng lĩnh ở Riyadh rất bận rộn.
Chúng ta thực sự không thể đi đến đó và nói “Mọi việc thế nào, các bạn. Chúng ta có một câu nói trong cuộn băng nghe trộm mà chúng ta không thể làm rõ được”. Hãy nhìn thẳng vào đó, đó có thể chỉ là một kẻ loạn óc trên một đường dây điện thoại gợi ý Chúa đang ở bên họ mà thôi. Không có gì lạ trong đó đâu, Terry ạ, Paxman nói. Mọi người đi đến chiến tranh đều đã tuyên bố có sự trợ giúp của Chúa từ khi thời gian bắt đầu kia mà. Chỉ thế thôi.
– Người khác đã nói với người kia im mồm đi và rời khỏi máy nói, Martin nhắc lại cho họ.
– Chỉ vì hắn ta đang bận và đang tức thôi. Hắn ta gọi người kia là đồ chó.
– Có lẽ hắn ta không thích anh ta cho lắm.
– Cũng có thể.
– Terry, xin anh đấy, bỏ nó đi. Đó chỉ là một câu nói thôi mà. Đó chỉ là khí độc thôi. Đó là cái ông ta đang tính đến. Mọi cái còn lại của phân tích của anh chúng tôi đều nhất trí cả.
Martin là người đi đầu tiên, còn hai sĩ quan tình báo hai mươi phút sau. Xỏ tay vào áo mưa, dựng cổ lên, họ đi ra bên đường tìm taxi.
– Anh cũng biết đấy, Laing nói, anh ta thật là thông minh như quỷ, và tôi khá là thích anh ta. Nhưng anh ta thực sự khủng khiếp quá. Anh có nghe nói gì về đời tư của anh ta không ‘
Một chiếc xe trờ tới. Chưa có khách, đèn trên nóc chưa bật. Thời gian nghỉ uống trà. Laing chửi thề.
– Phải, dĩ nhiên rồi, Hộp đang kiểm tra mà.
Chiếc Box, hay Box 500, là một tiếng lóng trong ngành An ninh, MI-5. Một lần, đã lâu rồi, địa chỉ của MI-5 thực sự là P.O. Box 500, London.
– Tốt, đó là nơi anh đã ở hồi đó mà. Laing nói.
– Steve, tôi thực sự không nghĩ rằng có cái gì đó phải làm với nó đâu.
Laing dừng lại và quay về người thuộc cấp của mình.
– Simon, tin tôi đi. Anh ta có cái gì đó trong đầu, và anh ta chỉ làm mất thời gian của chúng ta mà thôi. Hãy đi xin chỉ dẫn đi .Bỏ tên giáo sư này đi.
– Đó chính là khí độc, thưa ngài tổng thống.
Ba ngày sau năm mới, những hoạt động ăn mừng ở đó đã có trong Nhà Trắng – và phần lớn trong đó đều không dừng lại -tất cả đều bỏ đi. Cả Cánh Tây, trung tâm của hành chính Bush, đều đầy các hoạt động.
Trong sự tĩnh lặng của phòng Bầu dục, George Bush ngồi sau cái bàn lớn, dựa vào những cửa sổ cao hẹp, 5 inch của tấm kính chống đạn màu xanh, và giữa dấu của Hợp Chủng quốc Hoa kỳ.
Đối diện với ông là trung tướng Brent Scowroft, Cố vấn An ninh Quốc gia.
Tổng thống liếc nhìn xuống người đi sâu vào phân tích vừa có mặt trước ông.
– Tất cả đều nhất trí như thế chứ? ông hỏi .
– Vâng, thưa ngài. .Nhóm vừa từ London đến cho thấy người của họ cũng đều đồng ý hoàn toàn với người của ta. Saddam Hussein sẽ không rút lui khỏi Kuwait chừng nào ông ta không bị tống ra khỏi đó, một sự giáp lá cà, cái mà chúng ta sẽ đảm bảo ông ta không thể có được. Còn lại thì, ông ta sẽ dựa vào những vụ tấn công hàng loạt bằng khí độc vào các lực lượng trên bộ của Liên quân, kể cả trước hay trong cuộc xâm chiếm đi qua biên giới.
George Bush là tổng thống Mỹ đầu tiên từ John F. Kennedy từng tham gia chiến tranh. Ông từng nhìn thấy những xác lính Mỹ bị giết trong khi chiến đấu. Nhưng ở đó có cái gì đó đặc biệt xấu xa, đặc biệt điên khùng, trong suy nghĩ của những lính chiến trẻ đã qua những giờ phút cuối cùng của cuộc đời mình khi chịu khí độc xâm chiếm buồng phổi làm hại đến những hệ thống thần kinh trung ương của họ.
– Thế ông ta sẽ tung khí đó ra thế nào? ông hỏi .
– Chúng tôi nghĩ có bốn khả năng, thưa tổng thống. Khả năng rõ rệt là bằng các hộp nhỏ được thả từ các máy bay chiến đấu và những máy bay thả bom. Colin Powell đã vừa mới nói chuyện với Chuck Homer ở Riyadh.
Tướng Horner nói ông cần 35 ngày không ngừng không kích. Sau ngày thứ 20, không máy bay Iraq nào còn có thể đến được biên giới. Đến ngày thứ 30. không máy bay Iraq nào sẽ có thể cất cánh nổi quá 60 giây. Ông nói ông đảm bảo điều đó, thưa ngài. Ông ta có những ngôi sao của ông ta để đảm bảo mà.
– Thế còn lại?
– Saddam có một số lượng những pháo MLRS. Chúng là khả năng thứ hai.
Các hệ thống bắn tên lửa đa chức năng của Iraq là những cái do người Xô viết xây dựng và dựa vào những chiếc Katyuashka cũ kỹ được sử dụng với hiệu ứng phá huỷ bởi Quân đội Xô viết trong Thế chiến thứ 2. Giờ đây được nâng cấp lên nhiều, những tên lửa đó, được phóng theo từng đợt nhanh từ một “gói” tứ giác trên thùng của một chiếc xe tải hoặc từ một vị trí đa dạng, có một tầm bắn một trăm km.
– Một cách thông thường, thưa ngài tổng thống. nhờ vào tầm bắn của mình, họ có thể phải bắn ở khoảng giữa Kuwait hoặc là sa mạc Iraq để đến được phía tây. Chúng tôi tin rằng các J-STAR sẽ tìm thấy chúng bằng rađa và chúng sẽ bị thả bom san phẳng. Người Iraq có thể nguỵ trang chúng thế nào đi chăng nữa, nhưng tiếng kim loại sẽ làm lộ chúng ra. Còn lại, Iraq có những kho vỏ đạn khí để sử dụng bằng xe tăng và pháo binh. Tầm bắn, dưới 37 km – 19 km. Chúng tôi biết các kho này đã được đưa vào vị trí, nhưng với tầm bắn đó để bắn qua sa mạc thì không thể. Các chàng trai của Không quân tự tin rằng họ có thể tìm thấy và tiêu diệt chúng. Và rồi còn có tên lửa Scud họ sẽ được quan tâm ngay khi chúng ta nói ra.
– Thế còn các biện pháp phòng chống?
– Đã hoàn thành rồi, thưa tổng thống. Trong trường hợp có tấn công bệnh than, mỗi người đều đã được miễn dịch. Người Anh cũng đã làm điều đó. Chúng tôi đang tăng cường sản xuất các vacxin chống bệnh than trong từng giờ. Và mỗi người đàn ông cũng như phụ nữ đều có mặt nạ phòng độc và một bình khí.
Nếu ông ta định dùng cách đó…
Tổng thống đứng lên, quay đi, và nhìn chằm chằm vào huy hiệu. Con đại bàng sói đầu, đang mang vòng của mình. cũng nhìn lại.
Hai mươi năm trước, đã từng có những gói bọc xác người khủng khiếp đó được đưa từ Việt Nam về, và ông biết rằng một sự cung cấp thậm chí giờ đây có thể được chứa trong những chiếc container không mác bí ẩn dưới bầu trời Xêut. Ngay cả với những biện pháp phòng ngừa, vẫn có khả năng có những vết sạm da, những mặt nạ không thể với tới được và được đưa ra đúng lúc.
Năm tới là kỳ bầu cử lại. Nhưng đó không phải vấn đề quan trọng. Thắng hay thua, ông cũng không có ý định đi vào lịch sử như một vị tổng thống Mỹ buộc hàng chục nghìn người lính phải chết, không phải như ở Việt Nam trong chín năm, mà chỉ là trong vài tuần hay thậm chí vài ngày.
– Brent này…
– Thưa tổng thống.
– James Baker phải đến gặp Tariq Aziz ngay.
– Trong sáu ngày ở Genève.
– Yêu cầu ông ta đến gặp tôi nhé.
Trong tuần đầu tiên của tháng Giêng, Edith Hardenberg bắt đầu thoả mãn với mình một cách thật sự, lần đầu tiên trong nhiều năm. Thật sung sướng khi được khám phá và giải thích người bạn trẻ tuổi nồng nhiệt những thắc mắc về văn hoá thành phố của cô.
Ngân hàng Winkler đã cho phép nhân viên của mình nghỉ bốn ngày nhân dịp năm mới; sau đó. họ sẽ phải lùi những hoạt động vãn hoá của mình về buổi tối, đã được hứa hẹn dành cho sân khấu, hoà nhạc, độc tấu, và kỳ nghỉ cuối tuần, khi các bảo tàng và phòng tranh vẫn còn mở.
Họ đã trải qua nửa ngày ở Jegendstil, ngưỡng mộ Nghệ thuật Mới, và một nửa ngày khác ở Sezession, nơi luôn có triển lãm thường kỳ và các phòng tranh về tác phẩm của Klimt. Chàng thanh niên Jordan rất thích thú và sung sướng. hàng loạt những câu hỏi được chàng ồ ạt tung ra, và Edith Hardenberg đầy sự hứng khởi, đôi mắt cô sáng bừng khi cô giải thích rằng có một triển lãm khác ở Kunstlerhaus mà nhất định sẽ diễn ra vào cuối tuần tới.
Sau khi đến nhìn Klimt, Karim đưa cô đi ăn tối ở Rotisserie Sirk. Cô phản đối vì ở đó đắt quá, nhưng người bạn mới của cô giải thích rằng cha anh ta là một nhà phẫu thuật khá giả ở Amman và tiền chu cấp cho anh ta rất rộng rãi.
Hồi hộp, cô cho phép anh rót cho cô một ly rượu vang và không nhận ra khi nào anh ta rót đầy nó lần nữa. Cuộc trò chuyện của cô trở nên sống động hơn, và có một màu phớt hồng hiện ra trên gò má tái nhợt của cô.
Khi uống cà phê, Karim nhổm về phía trước và đặt tay lên tay cô. Cô trông thật bối rối và liếc nhìn nhanh xung quanh để xem có ai nhìn thấy không, nhưng không ai bận tâm hết cả. Cô rút tay ra. nhưng rất chậm rãi.
Cuối tuần đó, họ đã đến thăm bốn trong số các kho tàng văn hoá cô có trong đầu, và khi họ đi bộ về qua bóng tối lạnh giá về xe ôtô của cô sau một buổi tối ở Musikverein, anh cầm bàn tay đeo găng của cô trong tay mình và giữ chặt nó. Cô không rút tay về, cảm thấy sức nóng truyền qua cái găng tay bằng vải cotton.
– Cô thật tốt đã làm mọi thứ đó cho tôi, anh nói nghiêm trang. Tôi chắc rằng cô thấy nhàm chán lắm nhỉ.
– Ồ! không đâu, hoàn toàn không, cô nói sôi nổi. Tôi rất thích được xem và nghe những điều đẹp đẽ đó. Tôi rất vui vì anh cũng vậy. Sẽ sớm thôi, anh sẽ trở thành chuyên gia về nghệ thuật và vãn hoá châu Âu.
Khi họ đi đến chỗ chiếc xe, anh mỉm cười với cô, lấy tay nâng khuôn mặt đang tím lại vì lạnh của cô giữa đôi bàn tay để trần nhưng lại nóng đến ngạc nhiên của mình, và hôn thoáng qua môi cô.
– Danke, Edith.
Rồi anh đi. Cô lái xe về nhà như thường lệ, nhưng tay cô run lên và cô suýt đâm phải một cái xe điện.
Bộ trưởng Ngoại giao James Baker gặp Bộ trưởng Ngoại giao Iraq Tariq Aziz ở Genève vào ngày 9 tháng Giêng. Đó không phải là một cuộc gặp kéo dài, và không phải là một cuộc họp thân thiện. Nó không được chủ định như thế. Có một phiên dịch Anh- Arập có mặt. dù tiếng Anh của Tariq Aziz là hoàn hảo để có thể hoàn thành công việc gặp mặt người Mỹ, người nói chậm và rất rõ ràng. Thông điệp của ông ta khá là đơn giản.
Nếu, trong cuộc chạy đua của mọi đối lực có thể xảy ra giữa hai nước chúng ta, nếu chính phủ chúng tôi bắt gặp vũ khí bị cấm trên quốc tế là khí độc, tôi được phép thông báo với ông và tổng thống Hussein rằng đất nước của chúng tôi sẽ sử dụng vũ khí nguyên tử. Chúng tôi sẽ, nói tóm lại, phá tan hoang Baghdad ra.
Người Iraq gầy gò, tóc màu ghi hiểu ý nghĩa của thông điệp ngay lập tức nhưng không tin vào điều đó. Trong suy nghĩ của mình ông ta không nghĩ ai đó lại dám doạ nạt Rais của ông trắng trợn như thế.
Một lý do khác, ông không chắc ngay lập tức rằng người Mỹ nghiêm túc. Thiệt hại kinh người. khủng khiếp của một quả bom nguyên tử. có thể không xảy đến với Baghdad. chắc thế chứ? Nó sẽ phá huỷ phân nửa Trung Đông, liệu có thể không nào?
Tariq Aziz, khi quay trở về nhà ở Baghdad trở thành một người bối rối cực điểm, không biết đến ba điều.
Thứ nhất là cái gọi là những quả bom nguyên tử “sân khấu” của khoa học hiện đại là một tiếng vọng xa vời của quả bom Hiroshima năm 1945. Những quả bom mới, “sạch sẽ” với độ tàn phá hạn chế được đưa vào, độ phóng xạ để lại sau đó rất ngắn.
Điều thứ hai là trong chiến hạm Wisconsin, khi đó đang neo ở Vịnh và được chiếc Missouri đến gia nhập, là ba kho thép hợp kim cực kỳ đặc biệt, đủ mạnh, nếu tàu đắm, không để lộ ra trong 10.000 năm nữa. Trong đó có ba tên lửa hành trình Tomahawk mà nước Mỹ hy vọng không bao giờ phải sử dụng đến cả. Thứ ba là vị Ngoại trưởng không hề đùa cợt một chút nào.
Tướng Sir Peter de la Billière đi một mình trong bóng tối của đêm sa mạc, những suy nghĩ rối bời trong đầu ông. Là một lính cả đời chuyên nghiệp và một cựu lính chiến, những sở thích của ông khá là khiêm nhường. Không thể chịu đựng được sự xa hoa của đô thị, ông cảm thấy là ở nhà mình hơn, thoải mái hơn trong những trại lính và trong các lều với sự kề cận của những người lính bạn chiến đấu của mình. Cũng giống như những người khác trước ông, ông coi trọng sa mạc Arập – những đường chân trời mênh mông của nó, sức nóng kinh người của nó, và một sự lạnh lẽo kinh người của nó, và nhiều lần là sự im lìm thê lương của nó.
Đêm đó, trong một chuyến đi thăm các tuyến mặt trận – một trong số các điều mà ông tự cho phép mình làm thường xuyên khi có thể – ông đã đi bộ khỏi trại St. Patrick, rời sau lưng mình những chiếc xe tăng Challenger khủng khiếp giữa những tăng, những con thú trầm tĩnh chờ đến giờ phút của mình, và những người lính đang chuẩn bị bữa tối của mình.
Khi đó với tư cách là một bạn thân của tướng Schwarzkopf và được coi trọng trong mọi cuộc họp hoạch định chiến lược tối mật, vị tướng biết rằng chiến tranh đang đến gần. Chưa đến một tuần trước hạn cuối cùng của Liên Hợp Quốc, vẫn không có dấu hiệu nào cho thấy Saddam Hussein có bất kỳ ý định rút quân khỏi Kuwait.
Cái làm ông lo lắng đêm nay dưới những vì sao của sa mạc Xêut là ông không thể hiểu được cái điều chúa tể của Baghdad đang nghĩ. Là một người lính, vị tướng Anh thích hiểu được kẻ thù của mình, đoán biết được những dự tính của họ, những chuyển biến của họ, chiến thuật của họ, và chiến lược chung của họ.
Cá nhân mà nói, ông chỉ quan sát người đàn ông ở Baghdad. Những đống hồ sơ tài liệu chất đống miêu tả sự giết chóc, tra tấn, và những thứ liên quan đến ông ta. Saddam không phải là một người lính, chưa từng bao giờ, và cái mà tài năng quân sự thực sự ông ta có trong quân đội là ông ta đã tiêu phí hàng đống những tướng lĩnh của mình mà phần lớn những người giỏi nhất đều đã bị xử lý.
Đó có thể không phải là vấn đề; vấn đề là Saddam Hussein đã rõ ràng có sự chỉ huy chung của một thứ – chính trị và quân sự – và với ông ta không cái nào thực sự có ý nghĩa gì hết cả.
Ông ta đã xâm chiếm Kuwait vào thời điểm chẳng ra sao và với những nguyên do sai lầm. Khi đã làm điều đó, ông ta đã tự mình vứt đi những cơ hội cho phép các đồng minh Arập của mình mở ra các cơ hội ngoại giao, và vấn đề có thể được giải quyết trong những thương lượng bên trong thế giới Arập với nhau, ông ta đã không chọn con đường đó.
Đó là sự ngu ngốc của chính vị độc tài đã mang đến cho phương tây, và đã chiếm đóng Kuwait, với sự tàn bạo của mình và chủ đích sử dụng người phương Tây làm lá chắn sống cho mình. đã đảm bảo sự cô lập hoàn toàn của ông ta.
Trong những ngày đầu tiên Saddam Hussein đã có được những vùng dầu lớn nhất của phía đông bắc Arập Xêut trong tay, và ông ta đã bỏ đi. Với quân đội và không quân của mình dưới sự chỉ huy của ông ta, ông ta thậm chí có thể đánh đến tận Riyadh và thiết lập sự chiếm giữ của mình. Ông ta đã thất bại. và Lá chắn Sa mạc đã được dựng lên đúng chỗ trong khi những quan hệ công chúng giỏi giang của ông ta đi xuống ở Baghdad.
Ông ta có thể khôn vặt, nhưng trong một vấn đề khác ông ta là một con bò về chiến lược. Và còn nữa, vị tướng Anh lập luận, bằng cách nào mà một người lại có thể ngu đến thế dược cơ chứ?
Ngay cả ở trước mặt không quân giờ đây đã được sắp đặt để chống lại ông ta, Saddam Hussein đã làm đủ thứ sai lầm, cả về chính trị cũng như quân sự. Ông ta chẳng hề có ý tưởng nào về việc sẽ bị viếng thăm từ bầu trời ư? Liệu ông ta có thực sự không hiểu được mức độ của sức mạnh trên không có khả năng làm tiêu tùng quân đội ông ta xây dựng suốt mười năm trong vòng năm tuần không?
Vị tướng dừng lại và nhìn chằm chằm qua sa mạc về phía bắc. Không có trăng đêm nay, nhưng các vì sao của sa mạc sáng đến mức có thể làm hiện lên những đường nét mờ mờ có thể trông thấy bởi chỉ ánh sáng của chúng. Mặt đất phẳng, chạy về mê cung của các bức tường cát, những đường lửa, vùng mỏ, những chỗ linh tinh, tạo nên đường phản công của Iraq, xuyên qua đó các kỹ sư Mỹ của Đội Một Đỏ có thể làm bay đi để những xe tăng Challenger có thể tiến lên.
Ông độc tài Baghdad lại không có con át chủ bài nào trong số những cái vị tướng biết được và lo sợ: Saddam có thể chỉ đơn giản rút khỏi Kuwait.
Thởi gian không ở bên phía Liên quân; nó thuộc về Iraq. Ngày 15 tháng Ba kỳ Ramadan thiêng liêng sẽ bắt đầu. Trong một tháng không lương thực không nước uống có thể trôi qua những làn môi tín đồ Hồi giáo giữa mãt trời lên và mặt trời lặn. Đêm mới được ăn uống. Không thể tiến hành chiến tranh với một quân đội đang hành lễ Ramadan, gần như là một điều không thể.
Sau ngày 15 tháng Tư, sa mạc có thể trở thành một địa nguc, với nhiệt độ lên đến 130 độ. Sức ép có thể khiến những chàng trai phải lui; trong mùa hè, sự thê thảm của sa mạc có thể trở nên không thể chịu đựng nổi. Liên quân có thể phải rút lui, và, khi đã làm thế, có thể không bao giờ còn quay trở lại như thế được nữa. Liên quân chỉ là một hiện tượng – một lần mà thôi.
Thế thì 15 tháng Ba là giới hạn. Lùi lại: chiến tranh trên bộ có thể kéo dài trong 20 ngày. Nó có thể phải bắt đầu, nếu không là nhất thiết, vào 23 tháng Hai. Nhưng Chuck Horner cần 35 ngày không kích để đè nát các vũ khí của Iraq, các đơn vị và các thứ phòng thủ của đối phương. 17 tháng Giêng – đó là hạn cuối cùng có thể chấp nhận được.
Người đàn ông điên rồ này dựa vào cái gì? Vị tướng tự hỏi mình lần nữa. Liệu ông ta có chờ đợi điều gì đó, một sự can thiệp thần thánh theo tưởng tượng của ông ta: cái có thể đẩy lui kẻ thù và khiến ông ta chiến thắng không?
Có một tiếng động từ trại xe tăng sau ông, ông quay lại. Sĩ quan chỉ huy của Đội Khinh kỵ hoàng gia lreland của Anh, Arthur Denaro, đang gọi ông về ăn súp. Anh chàng Arthur Denaro vui vẻ, nhộn nhĩ, người sẽ được ở trong chiếc xe tăng đầu tiên đi qua khoảng cách đó một ngày nào đó.
Ông mỉm cười và bắt đầu bước về. Thật là tốt được bước đi trong cát với người của mình, tung tẩy hạt đậu đóng lon và cầm cái gì đó nghe những giọng nói sặc lửa, những cái của Lancashire, tiếng gầm gừ của Hampshire, và tiếng nhẹ nhàng Ireland; để cười vào sự lê chân và bông đùa, cái từ vựng ghê người của những người sử dụng thứ tiếng Anh trúc trắc để nói chính xác điều họ muốn nói, và với sự hài hước. Chúa sẽ đưa người đàn ông này lên phía bắc. Cái quái quỷ gì đang đợi ông đây?