Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Những Bí Ẩn Của Sa Mạc

Chương 14

Tác giả: Frederik Forsythe

Câu trả lời cho sự bối rối của vị tướng Anh nằm ở một cái xe đẩy đầy ắp dưới những ánh sáng rực rỡ của nhà máy, tám mươi fít bên dưới sa mạc lraq, nơi nó đã được xây dựng.

Một kỹ sư bước lùi lại chờ cánh cửa dẫn sang căn phòng đang mở. Chỉ có năm người đàn ông trong đó trước hai vệ sĩ có vũ trang từ đội an ninh của tổng thống, đội Amn-al-Khass, đóng cửa lại.

Bốn trong số năm người đang hướng tới người còn lại đứng giữa, ông ta mặc, như thường lệ, bộ quân phục chiến đấu trên một đôi ủng cũ, vũ khí tuỳ thân trong tầm tay, chiếc khăn tay màu xanh bằng vải cotton phủ lên tam giác giữa cái áo và cổ họng.

Một trong số bốn người kia là vệ sĩ cá nhân, người, ngay ở đây, nơi mọi người đều bị khám xét năm lần cho những vũ khí cấm, cũng không rời khỏi ông ta. Giữa Rais và vệ sĩ của mình là con rể ông ta, Hussein Kamil, Bộ trưởng Công nghiệp và công nghiệp hoá Nhà binh, Mimi. Cũng như nhiều chỗ khác, Mimi đã được tách khỏi Bộ Quốc phòng.

Bên kia tổng thống là bộ não của chương trình, tiến sĩ Jaafar Al-Jaafar, thiên tài về nguyên tử của lraq. Bên cạnh ông ta nhưng hơi lùi lại một chút, là tiến sĩ Salah Siddiqui. Nếu Jaafar là nhà vật lý, thì Siddiqui là kỹ sư.

Ánh thép của khẩu súng của họ ánh lên trong ánh sáng trắng. Nó dài 14 fít và chỉ có đường kính 3 fít. Đằng sau, cách bốn fit là cái thiết bị cấm động vào sẽ nảy lên khi bắn ra viên đạn. Phần còn lại của cái hộp 10 fít dài cũng thực tế là một xabốt, một thiết bị chia làm tám phần. Những hộp thuốc nổ nhỏ có thể làm nó nổ tung như đầu đạn bắn ra, để lại một cái lõi đường kính 2 fít ở lại một mình. Xabốt ở đó để lấp đầy đầu đạn 24 inch cho 39 inch cần để đủ cho nòng súng, và để bảo vệ 4 đầu mỏng bên trong. lraq không sở hữu những thiết bị hiện đại để vận hành những đầu di động bằng các thiết bị radio từ mặt đất, nhưng những đầu cứng có thể phục vụ để thiết lập sự cân bằng viên đạn khi bay và ngăn cản nó không bị hỏng.

Phía trước, cái vòng tròn mũi làm bằng thép siêu cứng và rất nhọn. Trên thực tế nó cũng trở nên không cần thiết. Khi một hoả tiễn, được đưa vào không gian bên trong của đường bay của mình, vượt qua được bầu khí quyển trái đất, không khí trở nên đặc hơn khi đường bay xuống tạo nên độ nóng lớn đủ để thiêu cháy đầu đạn nhọn. Chính vì thế mà các phi hành gia có kinh nghiệm cần có tấm lá chắn chống nóng này – để ngăn chặn lõi không bị thiêu huỷ.

Thiết bị mà năm người Iraq đang kiểm tra đêm đó cũng giống như thế. Mũi thép hình chóp có thể làm dễ dàng đường bay lên trên nhưng có thể không còn tồn tại khi quay trở xuống. Nó được giữ lại, thứ kim loại cháy có thể gập xuống và cháy, tạo ra thân rơi xuống để tan ra, tung lên. quay tròn vào trong không khí nóng bỏng, và cháy mất. Mũi thép được thiết kế để loại bỏ nguy cơ này khi bay, được dựng lên ở bên dưới trong chóp bay xuống. ngắn hơn, rắn hơn, bằng sợi cácbon.

Trong những ngày tiến sĩ Gerald Bull còn sống, ông đã mua thiết bị này, nhân danh Baghdad, từ một nhà máy Anh ở Bắc lreland tên là LearFan. Đó là một công ty hàng không đang sắp phá sản. Nó đã cố dựng lên những chiếc máy bay mang tính quyết định với nhiều thành phần làm bằng sợi cácbon. Cái hấp dẫn tiến sĩ Bull và Baghdad không phải các máy bay có ý nghĩa lớn, mà là những máy móc xử lý sợi cácbon ớ LearFan.

Sợi cácbon đặc biệt chống chịu tốt, nhưng nó cũng rất rắn để có thể xử lý. Cácbon được chế từ một dạng của gỗ, từ đó một sợi dây hay thanh được rèn ra. Sợi dây được đặt và uốn nhiều lần trên một cái đe, rồi được quấn lại thành vỏ để tạo ra hình dáng mong muốn.

Bới vì sợi cácbon là cực kỳ cần thiết trong công nghệ hoả tiễn, công nghệ đó được xếp hạng cẩn thận cao độ, được quan tâm trong việc điều hành xuất khẩu những máy móc đó. Khi tình báo Anh biết các thiết bị của LearFan được dành cho và được Washington cảnh báo, cuộc mua bán đã bị huỷ bỏ. Chính vì vậy lraq khi đó đã không thể có được công nghệ làm thanh sợi cácbon.

Các chuyên gia đã sai lầm. Iraq đã thực hiện một cách khác. Một nhà cung cấp điều hoà nhiệt độ và các sản phẩm tốt của Mỹ đã không e ngại gì khi được thuyết phục bán cho một công ty ở biên giới Iraq máy móc để cuộn gỗ tấm. Tại lraq các kỹ sư trong nước đã biến cái máy đó thành máy uốn sợi cácbon.

Từ cái đuôi hấp thụ tác động đến cái mũi chóp nhọn là công việc của tiến sĩ Siddiqui – một người nhỏ bé, cần mẫn. nhưng có hiểu biết hoàn hảo về bom nguyên tử, để có được hiểu biết về nguyên lý súng ống, sử dụng các tác nhân lythium và polonium để tạo ra cái đống những nơ-tron cần thiết để bắt đầu phản ứng dây chuyền.

Trong khi thực hiện tiến sĩ Siddiqui làm một thành công thực sự, một quả bóng hình cầu và một cái lỗ nhỏ, giữa chúng có 35 kg nặng và được sản xuất dưới sự giám sát của tiến sĩ Jaafar. Cả hai đều có chất uranium-235 làm giàu. Một nụ cười nhẹ đắc thắng giữa hàm ria rậm rì. Tổng thống tiến lên và chỉ một ngón tay trỏ vào cái thép bị đốt cháy.

– Nó có hoạt động không đấy? Nó có thực sự hoạt động không? ông ta thì thầm.

– Có, thưa Rais, nhà vật lý đáp.

Đầu ngửa ra trong cái mũ bêre gật đầu chầm chậm nhiều lần.

– Các ông được khen ngợi đấy, những người anh em của tôi.

Dưới viên đạn, trên một cái bệ gỗ, là một khay đơn giản. Nó ghi chữ: Qubth-ut-Allah.

Tariq Aziz đã nghiền ngẫm rất lâu và kỹ càng mình sẽ báo cho tổng thống về sự đe doạ của Mỹ như thế nào, trước khi ông ta từ Genève về.

Hai mươi năm biết nhau, hai mươi năm trong đó vị bộ trưởng Ngoại giao đã phục vụ ông chủ của mình với sự trung thành của chó, luôn luôn đứng ở bên ông ta trong những ngày đầu tiên chiến đấu với cấp bậc của Đảng Ba’ath khi đã từng có những tranh giành quyền lực, luôn theo ông ta với sự đánh giá cá nhân rằng sự cao lớn nhất của con người từ Tikrit có thể chiến thắng, và luôn luôn biểu hiện được quyền lực.

Họ đã leo lên được chỗ cao nhất của một chế độ Trung Đông cùng với nhau, một người luôn là cái bóng của người kia. ông Aziz tóc ghi, nhỏ bé đã biết cách đè nén bất lợi lớn về giáo dục cao hơn của mình và sự thông thạo hai ngôn ngữ châu Âu để nhắm mắt nghe lời.

Tariq Aziz, cũng giống như tất cả những người xung quanh Rais, biết rằng không còn chỗ nào khác cho mình để đi. Nếu có điều gì đó xảy ra với ông chủ của mình, thì ông cũng sẽ hết đời theo luôn.

Không giống như một số người quanh ngai vàng, ông quá thông minh để tin rằng đó là một chế độ nhân dân. Sự sợ hãi lớn nhất của ông không phải là những người nước ngoài mà là sự trả thù tàn khốc của những người Iraq chỉ khi sự bảo vệ của Saddam được vén lên bị chuyển đi khỏi ông ta.

Vấn đề ngày 11 tháng Giêng của ông, khi ông chờ đợi cuộc gặp cá nhân mà ông xin hội kiến khi từ châu Âu về, là làm cách nào để nói ra lời đe doạ của Mỹ mà không khơi gợi lên sự điên khùng không thể tránh khỏi nhằm vào chính ông. Rais, ông biết quá rõ, có thể chỉ đơn giản nghi ngờ rằng chính ông, bộ trưởng Ngoại giao, đã thực sự đề xuất sự đe doạ cho người Mỹ. Không có lôgíc để mà lo sợ, chỉ là một bản năng nội tại, khi nào đó là đúng và khi nào đó là sai. Nhiều người vô tội đã chết, và gia đình của họ cũng bị thanh toán luôn, dựa trên cơ sở của một cảm hứng nghi ngờ nào đó của Rais.

Hai giờ sau, quay trở lại xe của mình, ông thở phào, mỉm cười và bối rối.

Lý do khiến ông thở phào thật đơn giản; Tổng thống của ông đã tỏ ra thư giãn và dễ tính. Ông ta lắng nghe với sự đồng tình với báo cáo đáng sợ của Tariq Aziz về chuyến công cán Genève của mình, về sự thân thiện rộng lớn ông tỏ ra trong tất cả những gì ông nói về với sự dẫn chiếu đến vị thế của Iraq, và về cảm giác chống Mỹ chung hiện ra đang tăng dần lên ở phương Tây.

Ông đã gật đầu tỏ vẻ hiểu biết khi Tariq phàn nàn về việc những con quỷ chiến tranh Mỹ. và khi đó, cuối cùng kết luận với chính sự phẫn nộ của mình, ông nêu lên những điều James Baker đã thực sự nói với ông, thì sự bùng nổ giận dữ đang được chờ đợi của Rais đã không đến.

Trong khi những người khác quanh bàn nhăn nhó và tức giận, Saddam Hussein vẫn tiếp tục gật đầu và mỉm cười.

Bộ trưởng Ngoại giao mỉm cười khi ông rời đi bởi vì cuối cùng Rais đã chúc mừng ông về công vụ ở châu Âu. Vấn đề là. bằng những tiêu chuẩn ngoại giao, công vụ này thực ra là một thảm hoạ – bị đối đáp ở mọi phía bị coi như là một sự lịch sự băng giá bởi những người khác, không cho phép giải quyết vấn đề Liên quân đang dàn trận chống lại đất nước của ông – đã chẳng tỏ ra hề hấn gì hết cả.

Sự bối rối của ông càng tăng thêm về điều mà Rais nói khi cuộc họp kết thúc. Đó là một nhận xét nhỏ, thì thầm chỉ đến bộ trưởng Ngoại giao khi tổng thống gặp ông ta ở cửa ra vào.

– Rafeek. Đồng chí thân mến, đừng lo sợ. Tôi sẽ sớm có điều bất ngờ dành cho người Mỹ. Chưa đâu. Nhưng nếu bọn Beni el Kalb còn cố vượt qua biên giới, tôi sẽ không trả lời bằng khí độc đâu, mà bằng Cú Đấm của Thượng Đế.

Tariq Aziz đã gật đầu tán thành. dù ông ta chẳng biết tổng thống đang nói về chuyện gì nữa. Cùng với những người khác, ông sẽ tìm ra câu trả lời 24 giờ sau.

Buổi sáng ngày 12 tháng Giêng diễn ra cuộc họp toàn thể cuối cùng của Hội đồng Chỉ huy Cách mạng tại Cung điện Tổng thống góc phố 14 tháng nảy Và phố Kindi. Một tuần sau nó sẽ bị bom phá sập, những con chim bên trong lồng đã bay mất.

Nếu ông vẫn còn sống sau tất cả những cái đó, thì những là vì quan tâm nghiêm túc nhất về sự ám sát, chính bởi vì sự ám ảnh của ông đối với an ninh cá nhân.

Không phải Cục Phản gián cũng như Cảnh sát Mật của Omar Khatib, và chắc chắn cũng không phải Quân đội; cũng không phải đội Vệ binh Cộng hoà được tin cậy giao cho việc này. Nhiệm vụ này thuộc về đội Amn-al-Khass. Họ có thể còn trẻ, nhiều người mới vừa ở tuổi thiếu niên ra, nhưng lòng trung thành của họ thì rất ấn tượng và là tuyệt đối. Chỉ huy của họ chính là con trai của Rais. Kusay.

Không kẻ phản loạn nào có thể dù chỉ biết về con đường nào Rais đã sử dụng để đi khi, khi, hoặc ở đâu xe của ông. Những chuyến thăm của ông đến các căn cứ quân sự hay các cơ sở công nghiệp luôn là những bất ngờ, không chỉ cho người được đến thăm mà cả những người xung quanh ông nữa.

Ngay cả ở Baghdad ông cũng chuyển từ chỗ này sang chỗ khác, đôi khi ở lại vài ngày ở một cung điện. lúc khác lại ngủ ở boong ke của riêng mình bên cạnh và ở dưới khách sạn Rashid.

Mọi thứ được đưa lên phục vụ ông ta đều được nếm trước, và người nếm thức ăn là con cả của sếp. Mọi thứ đồ uống đều được đưa vào trong một cái chai với dấu niêm phong chưa mở.

Sáng hôm đó những lệnh triệu tập cuộc họp ở cung điện đến với từng thành viên của RCC bởi người đưa tin đặc biệt một giờ trước khi cuộc họp diễn ra. Không hề có thời gian để chuẩn bị và để ám sát.

Những chiếc limousin đi qua cổng, đưa những người trên đó đến, và đi mất đến một gara đỗ xe đặc biệt. Mỗi thành viên của RCC đi qua một cửa vòng cung bằng kim loại; không được phép mang vào thứ vũ khí cá nhân nào hết.

Tống cộng có 33 người ngồi quanh cái bàn hình chữ T. Tám người ngồi ở bề ngang chữ T, chỗ chính giữa vẫn trống. Những người còn lại ngồi đối diện nhau dọc theo thân của chữ T. Bảy người trong số những người có mặt có quan hệ huyết thống với Rais và ba người có quan hệ thông gia. Những người nay cộng với tám người nữa đến từ Tikrit hoặc từ những vùng phụ cận. Tất cả những thành viên ngồi theo chiều dọc đều là đảng viên Đảng Ba’ath.

Mười trong số 33 người là các bộ trưởng trong nội các và chín người là các tướng lĩnh quân đội và không quân. Saddi Tumah Abbas, trước đây là chỉ huy Vệ binh Cộng hoà. Đã được thăng chức Bộ trưởng Quốc phòng ngồi ở đầu bàn. Ông ta được thay thế bởi Abd Al-jabber Shenshall. vị sư trưởng người Kurd đã từ lâu tách khỏi và trở thành đồ tể của chính dân tộc mình.

Giữa các tướng lĩnh quân đội có Mustafa Radi từ Bộ binh, Farouk Ridha của Pháo binh. An Musuli của Phản gián, và Omar Khatib của Cảnh sát Mật. Khi Rais bước vào, mọi người đứng lên và vỗ tay. Ông ta mỉm cười, ngồi vào ghế của mình, vẫy tay cho họ ngồi xuống, và bắt đầu phát biểu. Họ ở đây không phải là để thảo luận cái gì hết; họ chỉ có ở đây để nghe một cái gì đó mà thôi.

Chỉ con rể ông, Hussein Kamil, cho thấy không bất ngờ nào khi Rais nói: Khi, sau 40 phút phát biểu đến những loạt thắng lợi không chấm dứt dưới sự lãnh đạo của ông, ông cho họ biết tin mới, phản ứng tức thời là sự im lặng câm nín.

Cái Iraq đã thử làm từ nhiều năm nay, họ đều biết cả. Sự kinh ngạc trong lĩnh vực công nghệ này chỉ riêng nó cũng có vẻ có khả năng tạo ra sự cảm hứng một đống những sợ hãi trên toàn thế giới và ngay cả những người Mỹ hùng mạnh cũng phải ghê người – giờ đây, khi đã cận kề chiến tranh – có vẻ như là thật khó tin. Sự can thiệp của thánh thần. Nhưng Thần thánh không ở trên thiên đường: chính người đang ngồi đây, với họ, trầm tĩnh mỉm cười.

Chính Hussein Kamil, tiến lên trước, đứng lên và lái theo các ánh mắt. Những người khác dõi nhìn theo, ai cũng sợ là người cuối cùng theo sự vỗ tay đột ngột của anh ta. Rồi không ai được chuẩn bị để là người đầu tiên dừng lại.

Khi quay lại văn phòng của mình hai giờ sau đó, Hassan Rahmani, vị chỉ huy lịch thiệp và quảng giao của bộ phận Phản gián. dọn sạch bàn, lệnh không cho ai vào, và ngồi vào bàn với một tách cà phê đen. Anh cần suy nghĩ, và nghĩ thật

Như mọi người khác trong phòng ban nãy, tin tức đã lay động anh. Trong thoáng chốc cán cân quyền lực tại Trung Đông đã thay đổi. thậm chí dù không ai biết đến điều đó. Sau Rais. người với những bàn tay giơ lên kêu gọi một sự đánh giá cao ngưỡng mộ không ngừng, đã kết luận sự thống trị của mình: mọi người trong phòng đều chìm trong im lặng.

Điều đó thì Rahmani có thể hiểu được. Mặc dù sự rào đón mập mờ của ông ta, anh cũng hiểu được những vấn đề chính. Không một thiết bị nào dạng đó có giá trị trừ khi những người bạn của bạn – và quan trong hơn. những kẻ thù của bạn – biết rằng bạn có nó. Một số quốc gia đã phát triển thứ vũ khí này chỉ đơn giản thông báo về sự kiện với một lần thử nghiệm chính và để cho phần còn lại của thế giới làm rõ các hậu quả. Những nước khác. như Israel và Nam Phi. đã chỉ đơn giản là che giấu những gì họ có nhưng không bao giờ khẳng định, để cả thế giới và nhất là những nước xung quanh phải đoán già đoán non. Một đôi khi nó còn làm tốt hơn; những tưởng tượng dẫn đến bất ổn.

Nhưng điều đó, Rahmani từng nghĩ, chỉ đơn giản là không đến với Iraq được. Nếu cái mà anh được nói là đúng – và anh không được thuyết phục rằng toàn bộ công trình đó không phải là một chuyện thêu dệt khác, tính đến sự thua kém thực thế để có được một sự thực hiện khác – thì không ai ở bên ngoài Iraq có thể tin điều đó.

Cách duy nhất với Iraq để ngăn chặn nó là chứng tỏ nó. Có vẻ như Rais hiện giờ đang từ chối làm điều đó. Dĩ nhiên, có những vấn đề quan trọng khi để lộ ra những cái đó. Thủ nghiệm trên lãnh thổ của mình thì chẳng có vấn đề gì cả cực kỳ điên rồ. Gửi một con tàu sâu xuống nam Ấn Độ Dương, rời bỏ nó, và để cho cuộc thử nghiệm diễn ra ở đó có thể từng là có thể, nhưng giờ thì không. Tất cả các cảng đều bị phong toả hoàn toàn. Nhưng một đội từ Cơ quan Năng Lượng hạt nhân Quốc tế của Liên Hợp Quốc ở Vienna có thể được mời đến để kiểm tra và chứng nhận đó không phải là một lời nói dối. Dù sao, IAEA đã từng được mời gần như hàng năm trong một thập niên gần đây và gần như thường xuyên phải khẳng định cái họ thấy chỉ là một sự điên rồ. Với bằng chứng hiển hiện, họ có thể phải tin vào chính mắt mình và khẳng định sự thật.

Thế còn anh, Rahmani, liệu anh đã nghe nói đến con đường đó đã chính thức bị cấm. Tại sao? Bởi vì đó hoàn toàn là một lời nói dối ư? Bởi vì Rais đã có cái gì đó khác trong đầu ư? Và quan trọng hơn nữa, cái gì trong đó dành cho anh, Rahmani?

Trong nhiều tháng anh đã tính đến chuyện Saddam Hussein khoác lác để tung hỏa mù lên cuộc chiến tranh mà ông có thể không chiến thắng được; giờ đây ông ta đã làm điều đó. Rahmani đã tính đến sự thất bại cuối cùng của Rais dưới bàn tay người Mỹ, và chính anh sẽ được đánh giá cao trong chế độ tiếp theo do Mỹ hậu thuẫn. Giờ đây mọi việc đã thay đổi. Anh cần, anh nhận ra, thời gian để suy nghĩ, để tìm ra cách tốt nhất để chơi quân bài mới đầy huyền bí này..

Tối hôm đó, khi màn đêm đã buông, một dấu phấn xuất hiện trên bức tường sau Nhà thờ Chaldea của Thánh Joseph tại Lãnh địa của người Công giáo.

Đêm đó cư dân của Baghdad run lên. Dù tiếng ồn ào của tuyên truyền vẫn không ngớt tại đài phát thanh lraq và niềm tin mù quáng của nhiều người rằng điều đó tất cả đều đúng. thì vẫn có những người khác bí mật nghe đài BBC World Service bằng tiếng Arập. chuẩn bị ở London nhưng được phát ở đảo Síp, và biết rằng Beni Naji đang nói đúng. Chiến tranh đang đến gần.

Trong thành phố lan truyền tin đồn rằng người Mỹ có thể bắt đầu bằng ném bom rải thảm ở Baghdad, một tin đồn đến cả Cung điện Tổng thống. Sẽ có những thiệt hại về người. Chế độ biết nhưng chẳng thèm quan tâm. Những người lãnh đạo cao cấp tính toán điều này sẽ gây ra hiệu ứng toàn cầu trước sự tiêu diệt hàng loạt dân thường trong nhà họ và có thể tạo nên một sự phản đối quy mô thế giới chống Mỹ: buộc nước này phải ngừng tay và bỏ cuộc. Vì vậy khá đông báo chí nước ngoài vẫn được phép ở lại và trên thực tế được khuyến khích ở khách sạn Rashid. Có cả những trợ giúp và chỉ dẫn các camera các đài nước ngoài đến những cảnh tượng nồi da nấu thịt không chóng thì chày sẽ bắt đầu.

Tính tế nhị của luận điểm này bằng cách nào đó đã đến được những người còn ở trong nhà ở Baghdad. Nhiều người thực tế đã đi, những người không phải Iraq trực chỉ hướng biên giới với Jordan để ở trong dòng thác suốt năm tháng trời người tị nạn từ Kuwait, những người Iraq tìm kiếm chỗ trú ngụ ở nông thôn.

Hàng triệu người dán mắt lên màn hình vô tuyến ở Mỹ và châu Âu không biết đến mức độ thật sự tinh vi của các thiết bị giờ đây đã trong tầm của Chuck Horner u buồn ở Riyadh.

Không ai khi đó có thể cho rằng phần lớn các mục tiêu có thể được lựa chọn từ một bảng do các camera vệ tinh chuẩn bị trong không trung và bị phá huỷ bởi những quả bom do laser hướng lối hiếm khi bắn trúng cái mà chúng không hướng đến.

Điều mà các cư dân Baghdad không biết. cũng như sự thật do BBC rò rỉ qua những cửa hàng và những chợ, rằng là bốn ngày từ 12 tháng Giêng. hạn cuối để rút khỏi Kuwait có thể hết và các máy bay chiến đấu Mỹ có thể sẽ tới. Vì thế thành phố vẫn khá yên tâm trong nhận định.

Mike Martin đạp chiếc xe đạp của mình chầm chậm khỏi phố Shurja và quanh phía sau nhà thờ. Anh nhìn thấy dấu phấn trên tường khi anh đạp xe ngang qua, và đi qua. Cuối đường anh dừng lại, xuống xe, và dừng một lúc để sửa xích trong khi nhìn ngoái lại sau con đường để xem có cái gì đó chuyển động sau lưng mình không.

Không hề có. Không có dấu của cá chìm ở đằng sau, không có những cái đầu ló ra từ những mái nhà. Anh đạp xe trở lại, đi đến chỗ đó, xoá vết phấn, và bỏ đi.

Số tám có nghĩa là một thông điệp đang đợi anh dưới cán cờ trong cái sân bỏ hoang ngoài phố Abu Nawas, cách bờ sông chỉ nửa dặm.

Khi còn là một đứa trẻ anh từng chơi đùa ở đó, chạy dọc theo các bến nước với Hassan Rahmani và Abdelkarim Badri, nơi những người bán hàng chở những masgouf ngon tuyệt trên những chiếc giường bướu lạc đà. bán những mẩu nhỏ của cá chép sông Tigris cho khách qua đường.

Bây giờ các cửa hiệu đều đã đóng cửa, các hàng trà im lìm; một vài người đang đi dạo dọc theo các bến nước theo thói quen. Sự tĩnh lặng giúp ích anh rất nhiều. Ớ đầu phố Abu Nawas anh nhìn thấy một nhóm vệ binh thường phục AMAM, nhưng chúng không để ý đến người fellagha đang đạp xe đi mua đồ. Anh hơi hoảng khi nhìn thấy họ; người của AMAM không bao giờ khôn ngoan lắm. Nếu họ đi đến để bóc một hòm thư chết, họ có thể đưa đi một nhóm người rất rõ rệt ở đầu đường. Cách làm việc của họ rất tinh vi, nhưng không thật kín đáo.

Thông điệp có ở đó. Viên gạch được đưa về chỗ sau một giây, mẩu giấy gấp chui tọt vào túi anh. Mấy phút sau, khi anh đang đi qua cầu Ahrar bắc ngang sông Tigris, từ Risafa đi Karch, và đi về ngôi nhà của nhà ngoại giao Xô viết ở Mansour.

Trong chín tuần cuộc sống của anh được thiết lập bên trong ngôi biệt thự kín cổng cao tường. Người Nga nấu ăn và chồng bà ta đối xử với anh rất thân ái, và anh đã học được một ít ngôn ngữ của họ. Ngày nào anh cũng đi chợ để mua thức ăn tươi, điều đó cho anh lý do tốt để đảo qua tất cả các hòm thư chết của mình. Anh đã chuyển 14 thông điệp cho Jericho giấu mặt và đã nhận về 13 trả lời từ ông ta.

Tám lần anh bị AMAM chặn lại, nhưng lần nào thái độ khúm núm của anh. chiếc xe và cái giỏ đầy rau, quả, cà phê, gia vị và đồ xanh, cộng với bức thư của nhà ngoại giao và vẻ bên ngoài nghèo đói hiển hiện đã khiến họ thả cho anh đi ngay.

Anh có thể không biết rằng các kế hoạch chiến tranh đã được lên ở Riyadh, nhưng anh đã phải viết mọi câu hỏi và trả lời cho Jericho bằng chữ Arập của chính anh sau khi nghe chúng trong nhưng cuộn băng đến, và anh phải đọc trả lời của Jericho để gửi chúng trở lại trong những lần chuyển tin chớp nhoáng cho Simon Paxman.

Là một người lính, anh chỉ có thể đánh giá là thông tin của Jericho, về chính trị và quân sự, hẳn là vô giá với một vị tướng cầm quân đang chuẩn bị tấn công Iraq.

Anh cũng đã yêu cầu một máy sưởi chạy dầu cho túi ngủ của mình và đèn dầu để đốt nó. Những túi ngủ Hessian từ chợ giờ đây đã trở thành rèm che tất cả các cửa sổ, và tấm chùi chân trước cửa báo hiệu cho anh nếu có ai đó đang tiến đến gần cửa.

Đêm đó, anh chầm chậm sưởi ấm trong nhà của mình. đóng kín cửa, chắc chắn là các rèm cửa đã che hết mọi inch vuông của các cửa sổ, thắp đèn của mình lên, và đọc thông điệp mới nhất của Jericho. Nó ngắn hơn thường lệ, nhưng không hề gì Martin đọc nó hai lần để chắc chắn không để lọt một từ nào, lẩm bẩm “Chúa ơi” và chuyển đồ nghề của mình ra để lấy máy ghi âm.

Phải tránh mọi hiểu lầm, anh đọc tấm thông điệp thật chậm và thật rõ cả bằng tiếng Arập và bằng tiếng Anh vào trong cái máy trước khi chuyển cần tốc độ để cho nó chạy nhanh lên và chuyển tin của mình từ 5 phút xuống còn có nửa giây.

Anh chuyển nó đi vào 20 phút sau nửa đêm.

Vì biết sẽ có một lần chuyển tin giữa 15 và 30 phút sau 12 giờ đêm nay. Simon Paxman đã không vào giường. Anh chơi bài với một trong hai người trông coi máy điện đàm khi thông tin đến nơi. Người vận hành máy đưa tin từ phòng thông tin ra.

– Tốt hơn là anh vào đây và nghe luôn đi. Simon ạ, anh ta nói.

Mặc dù đội SIS ở Riyadh có liên quan nhiều hơn bốn người, thì người quản lý Jericho không được coi là bí mật đến thế mà chỉ Paxman, chỉ huy Trạm Julian Gray, và hai người trực đài cũng biết. Ba phòng của họ bề ngoài trông tách biệt hẳn khỏi phần còn lại của toà biệt thự.

Simon Paxman nghe giọng nói trong cái máy to tướng trong bọc đài, cái trên thực tế là một phòng ngủ được sửa lại. Martin nói bằng tiếng Arập trước, đọc chính xác bức thư viết tay của Jericho hai lần, rồi đọc bản dịch tiếng Anh của chính anh. Khi nghe, Paxman cảm thấy một sự lạnh giá ghê gớm đang chuyển sâu vào trong bao tử mình. Một cái gì đó sai, hoàn toàn sai. Điều anh nghe được chỉ đơn giản là không thể. Hai người kia đứng im lặng sau lưng anh.

– Đó có phải là anh ta không? Paxman hỏi gấp ngay khi thông điệp kết thúc. Suy nghĩ đầu tiên của anh ta là Martin đã bị bắt và giọng nói là của một kẻ khác.

– Anh ta đấy – tôi đã kiểm tra cao độ rồi. Không nghi ngờ gì nữa chính anh ta đấy.

Những đặc điểm của giọng nói dao động trong nhiều cao độ và trường độ, cao và thấp, nhịp điệu có thể được ghi lại trong một máy đo âm được rút lại thành một loạt những đường chạy trên một màn hình, giống như một màn hình điện tâm đồ ở bệnh viện. Mọi giọng nói con người đều có khác biệt nhỏ, không thể có chuyện bắt chước được. Trước khi rời Baghdad. giọng của Mike Martin đã được ghi âm vào cái máy đó. Những lần chuyển tin sau đó từ Baghdad đều cùng được kiểm tra, trong trường hợp đọc chậm lại cũng như đọc nhanh, cùng nhau với độ chênh do máy hoặc vệ tinh truyền sai, tạo ra các biến dạng.

Giọng nói từ Baghdad đêm đó đã được kiểm tra so sánh với giọng ghi ở trong máy. Đó chính là tiếng của Martin chứ không phải ai khác.

Lo sợ thứ hai của Paxman là Martin đã bị bắt, đã bị tra tấn và phản bội, và giờ đây anh ta chuyển tin dưới sự ép buộc. Anh vứt bỏ ý nghĩ xấu xa nó ra khỏi đầu ngay.

Có những từ được giao hẹn trước, một sự dừng lại, một sự lưỡng lự, một tiếng ho có thể báo động cho những người nghe ở Riyadh nếu anh không được tự do chuyển tin. Vả lại, lần phát sóng trước của anh chỉ trước đây có ba ngày mà thôi.

Những tay cảnh sát mật ghê gớm của Iraq có thể làm được, nhưng không thể nhanh đến thế. Và Martin rất cứng. Một người dao động và phản bội trong thời gian ngắn như thế có thể bị hành hạ, tra tấn rất kinh khủng, và có thể biểu hiện trong khi chuyển tin.

Điều đó có nghĩa Martin vẫn ổn – thông điệp anh đã đọc là chính xác những gì anh nhận được đêm đó từ Jericho. Điều đó không còn bàn cãi gì nữa. Dù Jericho đúng hay sai, nhầm lẩn, hoặc là nói dối.

– Gọi Julian đi, Paxman nói với một trong hai người gác đài

Trong khi người đó đi mời trưởng Trạm Anh từ giường ngủ của ông ta tầng trên, Paxman gọi số điện thoại riêng cho đối tác người Mỹ của mình, Chip Barber.

– Chip, tốt hơn hết là anh lại đây nhanh lên đi, anh ta nói.

Người của CIA tỉnh rất nhanh. Một điều gì đó trong giọng nói của người Anh khiến ông ta không còn vương vấn ngủ nghê gì nữa cả.

– Có vấn đề rồi hả, anh bạn?

– Có vẻ là thế ở đây đấy, Paxman công nhận.

Barber chạy băng qua thành phố đến ngôi nhà của SIS trong 30 phút, quần áo ngủ lung tung. Đã là một giờ sáng. Khi đó, Paxman đã kịp có băng bằng tiếng Anh và tiếng Arập, cộng với một bản trong cả hai thứ tiếng. Hai người trực đài những người nhiều năm nay làm việc ở Trung Đông. rất thạo tiếng Arập và khẳng định bản dịch của Martin khá chính xác.

– Anh ta đùa chắc, Barber thì thào khi ông ta nghe băng. Paxman cho chạy những cái để kiểm tra giọng Martin là không phải giả mạo.

– Xem nào, Simon- Barber nói- đó chính là điều Jericho báo cáo điều mà anh ta có thể đã nghe từ Saddam sáng hôm nay – xin lỗi nhé, sáng hôm qua. Nhiều khả năng là Saddam nói dối. Hãy đối mặt với cái đó, ông ta nói dối như cuội ấy mà.

Nói dối hay không, thì không vấn đề gì cả với Riyadh cả. Các trạm SIS và CIA có thể cung cấp cho các vị tướng của mình với những thông tin quân sự chiến thuật và thậm chí chiến lược từ Jericho, nhưng cánh chính trị ở London và Washington? Barber nhìn đồng hồ. bảy giờ tối ở Washington.

Chắc là họ đang uống cốc tai đây, ông ta nói. Tốt hơn là phá hỏng của bọn họ đi, các bạn ạ. Tôi sẽ gọi ngay về Langley đây

– Coca và bánh bích quy ở London: Paxman nói. Tôi sẽ báo về Nhà Thế kỷ. Để cho họ mất luôn đi.

Barber đi để gửi bản sao bản tin được mã hoá cao độ đến Bill Stewart, với dấu thượng khẩn, tuyệt mật. Điều đó có nghĩa là dù ông ta đang ở đâu, thì người ta cũng phải tìm cho ra ông ta và bảo ông ta đến một đường dây điện thoại an toàn.

Paxman cũng làm giống như thế với Steve Laing, người có thể bị đánh thức dậy vào giữa đêm và bị bắt phải rời khỏi cái giường ấm áp của mình để chạy trong đêm lạnh giá và quay ngay về London.

Có điều cuối cùng mà Paxman phải làm, mà anh ta đã làm. Martin đã có một lần chuyển tin chỉ để nghe, và mới là một giờ sáng. Paxman chờ đợi và gửi cho người của mình ở Baghdad một thông điệp cực ngắn nhưng cực kỳ rõ ràng. Nó nói Martin không được có cử động gì trước khi có chỉ thị để tiếp cận bất kỳ cái nào trong số sáu hòm thư chết. Khẩn cấp.

Karim, chàng sinh viên Jordan, đang thực hiện được những tiến triển chậm chạp nhưng vững chắc trong công cuộc theo đuối cô Edith Hardenberg. Cô đã cho phép anh ta cầm tay khi hai người đi dạo những phố của thành Vienna cổ, những vệ đường với băng giá giữa chân họ. Cô thậm chí còn thú nhận với anh rằng cầm tay thế này cô thấy thật thú vị.

Vào tuần thứ hai của tháng Giêng cô có được vé đến Burgtheater – do Karim trả tiền. Buổi biểu diễn là một vở kịch của Grillparzer, vở “Gygus và chiếc nhẫn”. Cô nồng nhiệt giải thích trước khi họ đi vào đó rằng vở kịch là về một ông vua già với nhiều đứa con trai, và người sẽ nối ngôi sẽ nhận được chiếc nhẫn của ông. Karim ngồi xem hết vở kịch và hỏi nhiều điều về lời thoại, mà anh luôn lưu ý.

Giờ nghỉ Edith rết hạnh phúc được trả lời chúng. Sau đó. Avi Herzog có thể nới với Barzilai rằng tất cả đều rất hay ho như là xem tranh khô vậy.

– Cậu đúng là con bò, người của Mossad nói. Cậu chẳng có tí ti văn hoá nào hết cả.

– Thì tôi ở đây để học đấy thôi. Avi nói.

– Thế thì học đi: cậu bé.

Vào chủ nhật, Edith. một tín đồ Công giáo ngoan đạo, đi đến buổi lễ mixa sáng ở nhà thờ Votiv. Karim giải thích rằng vì mình là tín dồ Hồi giáo nên không thể đi theo cô nhưng anh sẽ đợi cô ở một quán cà phê gần quảng trường.

Sau đó, khi uống cà phê mà anh ta đã lén cho vào một ít rượu mạnh khiến má cô ửng hồng, anh giải thích những khác biệt và tương đồng giữa Công giáo và Hồi giáo – đều chung lòng tin vào Đức chúa thực sự, những người anh em và tiên tri, việc rao giảng những cuốn kinh và những đạo luật đạo đức. Edith tỏ ra sợ hãi nhưng bị cuốn hút. Cô tự hỏi liệu nghe mọi thứ đó có làm hỏng đi tâm hồn mình không, nhưng cô đã rất hào hứng biết được rằng cô đã sai lầm khi nghĩ những tín dồ Hồi giáo đã lật đổ các thần tượng.

– Tôi muốn đi ăn tối quá, Karim nói ba ngày sau.

– Tốt thôi, nhưng mà anh tiêu tốn nhiều tiền vì tôi quá đấỵ Edith nói. Cô thấy rằng cô có thể nhìn thẳng vào khuôn mặt trẻ trung của anh và đôi mắt nâu với sự thích thú, trong khi luôn tự cảnh báo mình rằng khoảng cách 10 tuối giữa họ khiến họ chỉ có thể có được một tình yêu kiểu Platon khá là nực cười.

– Không phải ở một quán ăn đâu.

– Thế thì ở đâu?

– Cô có thể nấu cho tôi ăn không, Edith? Cô có nấu không? Thức ăn thành Vienna nhé?

Cô đỏ ửng mặt và suy nghĩ. Mỗi tối, trừ khi đi một mình tới một buổi hoà nhạc, cô thường tự chuẩn bị cho mình một cái bánh tồi tàn trong một cái bếp nhỏ trong căn hộ của mình dành cho phòng ăn tối. Nhưng có, cô nghĩ, cô có thể nấu ăn. Đã lâu quá rồi.

Ngoài ra, cô tự biện luận với chính mình, anh ta đã cho cônhững bữa ăn sang trọng như thế ở các quán ăn… và anh là một người đàn ông trẻ tuổi rất có học thức và lịch thiệp. Chắc là chẳng có gì hại ở đó đâu.

Khỏi phải nói báo cáo của Jericho đêm ngày 12-13 tháng Giêng đã tạo ra những rối loạn tại những vòng London và Washington như thế nào. Sự hoảng hốt gần lên đến đỉnh điểm.

Một trong các vấn đề là nhóm nhỏ những người biết về sự tồn tại của Jericho, tin ngay những chi tiết đó. Nguyên tắc cần- biết có thể rất khó nghe hay thậm chí vẫn ám ảnh. nhưng nó cần bởi một lý do. Mọi tổ chức tình báo đều cảm thấy một sự bắt buộc đối với một cá chìm làm việc cho họ trong tình hình nguy hiểm cao độ, không vấn đề gì khác thật là quá bất nhẫn rằng người đó có thể bị coi như đối xử như một người bình thường.

Jericho là một kẻ tầm thường và không có đầu óc xuất chúng không phải là vấn đề. Vấn đề là ông ta đã phản bội một cách kỳ cục đất nước của mình và chính phủ của mình thật khó hiểu. Chính phủ Iraq có tiếng về trấn áp đến thế, cho nên thật nguy hiểm khi mạo hiểm.

Vấn đề là, ngoài giá trị rõ ràng và sự thực những thông tin của ông ta có thể giúp Liên quân khỏi thiệt hại rất nhiều người người trên chiến trường, Jericho còn là một của chìm giá trị cao, và cả hai cơ quan đang điều hành ông ta đã chỉ để cho một nhóm rất ít người quan trọng biết đến sự tồn tại của ông ta. Không bộ trưởng nào, không chính khách nào, không công chức nào, và không người lính nào được chính thức nói là Jericho đang tồn tại. Sản phẩm của anh ta vì lẽ đó được nguỵ trang theo nhiều cách. Một loạt những câu chuyện nguỵ tạo đã được làm ra để giải thích từ đâu dòng thác thông tin này tới.

Các vị trí quân sự được giả thiết được có từ một loạt những phản bội của những người lính lraq ở trên sân khấu Kuwait, bao gồm cả một loạt những thứ không tồn tại có ở một cơ sở tình báo bí mật ở Trung Đông nhưng không phải ở Arập Xêut.

Các thông tin khoa học và kỹ thuật xem xét về các vũ khí huỷ diệt hàng loạt đã được nói là đã có được từ một nhà khoa học Iraq phản bội, về Anh sau khi học ở Trường Hoàng gia London, và yêu một cô gái người Anh, và một loạt những nhà kỹ thuật khác của châu Âu đã làm việc ớ lraq giữa 1985 và 1990.

Tình báo chính trị được đến một hổn hợp các người tị nạn chạy khỏi Iraq, các thông tin giả qua phát thanh từ nước Kuwait đang bị chiếm đóng, và tình báo về các dấu hiệu rõ ràng và tình báo điện tử , nghe trộm, và giám sát trên không.

Nhưng bằng cách nào để giải thích một báo cáo trực tiếp về lời lẽ của chính Saddam, dù câu hỏi đó có vẻ thật là lạ lùng, được thực hiện trong một cuộc họp kín trong chính lâu đài của ông ta, mà không để lộ một điệp viên trong những giới chức cao cấp nhất tại Baghdad?

Những nguy hiểm khi đưa ra lời chấp nhận đó là rất lớn. Thứ nhất, có những rò rỉ. Thời nào cũng có rò rỉ. Về tài liệu của Chính phủ.,về thông tin trao đổi của công chức, và những thông tin nội bộ các cơ quan.

Các chính khách, cho đến nay những người giả danh đang liên quan, là những người tồi tệ nhất. Để tin vào những cơn ác mộng của những bậc thầy, họ nói với vợ, bạn gái, bạn trai, thợ cắt tóc, lái xe, và người bán rượu. Họ thậm chí còn tỉ tê tâm sự với nhau ngay cả khi một người hầu bàn ăn đứng ngay bên cạnh.

Thêm vào đó là vấn đề Washington và London đã có áp lực và các cơ quan truyền thông lớn mà tài năng do thám của họ: FBI và Scotland Yard còn lâu mới theo kịp, và còn có vấn đề là giải thích thế nào về sản phẩm của Jericho, mà không chấp nhận là có một Jericho.

Cuối cùng,London cũng còn có hàng trăm sinh viên Iraq – một số trong đó chắc chắn là điệp viên của tình báo Nước ngoài của tiến sĩ lsmail Ubaidi của Mukhabarat – đã chuẩn bị sẵn sàng để báo cáo về mọi thứ họ nghe và nhìn thấy được.

Không thể có chuyện ai đó khai ra tên Jericho, điều đó không thể xảy ra. Nhưng nếu ngụ ý rằng thông tin đã đến từ Baghdad, thì mạng lưới phản gián Rahmani có thể sẽ nhanh chóng tiến hành điều tra và cô lập được đầu mối. Tốt nhất, thì điều đó có thể làm Jericho im tiếng trong tương lai như ông ta đã doạ để tự bảo vệ mình; trường hợp xấu nhất là ông ta sẽ bị bắt.

Vì cuộc tấn công trên không sắp bắt đầu, hai cơ quan đã liên lạc lại với mọi chuyên gia về vật lý nguyên tử và hỏi lại về những thông tin đã được biết một cách nhanh chóng. Liệu ở đó có một khả năng hiện thực nào đó rằng Iraq có thể có phản ứng tách nhanh hơn và lớn hơn như trước đây từng nghĩ không?

Các trung tâm của Mỹ ở Sandia, Lawrence Livermore, và Los Alamos được hỏi lại, ở Anh là Harwell và Aldermaston. Khoa Z ở Livermore, những người đã từng phụ trách về sự nảy nở của Thế giới thứ ba về nguyên tử, là những người bị hỏi nhiều nhất.

Các chuyên gia quay trở lại, rất chắc chắn, tái khẳng định lời nói của mình. Dù đã đặt ra kịch bản xấu nhất. họ nói – đặt giả thuyết không phải một mà hai trung tâm sản xuất khí độc hoạt động không phải trong một mà là hai năm – thì cũng không cách nào Iraq tạo được hơn một nửa số uranium-235 cần thiết cho một thiết bị đơn giản thấp kém nhất.

Điều này đặt các cơ quan tình báo vào lựa chọn một trong nhiều khả năng.

Saddam đã nhầm bởi vì ông ta đã bị lừa dối. Kết luận: không thể được. Những người phụ trách có thể mất mạng với cải kiểu đùa thế với Rais.

Saddam đã nói như vậy, nhưng là nói dối. Kết luận: khá có khả năng – để lên dây cót tinh thần trong số những cận thần của mình. Nhưng tại sao phải nói tin đó ra trong vòng những cận thần thân tín nhất, những người không hề sợ phản trắc?

Tuyên truyền nâng cao tinh thần phải được thực hiện với đám đông và bên ngoài chứ. Không thể giải thích nổi. Saddam đã không nói thế. Kết luận: toàn bộ báo cáo là chuyện bịa đặt. Kết luận thứ hai: Jericho nói dối bởi vì ông ta muốn tiền và nghĩ chiến tranh đang đến và thời gian của ông ta sẽ chóng hết. ông ta đã ra giá một triệu đôla cho thông tin của mình.

Jericho nói dối bởi vì ông ta đã bị phát hiện và đã khai ra tất cả. Kết luận: cũng có khả năng, và lựa chọn này đặt ra mối nguy hiểm cá nhân rất lớn cho người ở Baghdad để giữ đường dây.

Người của CIA lúc lắc sau tay lái. Langley, là người trả tiền chính, đã có quyền tuyệt đối để làm thế.

– Tôi sẽ đưa anh kết luận, Steve ạ, Bill Stewart nói với Steve Laing trong một đường dây an toàn từ CIA đến Nhà Thế kỷ vào tối ngày 14 tháng Giêng. Saddam đã sai hoặc ông ta nói dối. Dù thế nào di nữa, Chú Sam cũng sẽ không trả một triệu tiền xanh vào tài khoản ở Vienna cho cái thể loại giả dối này.

– Không có cách nào khác hả Bill?

– Cách nào mới được chứ?

– Rằng Saddam đã nói và ông ta nói đúng.

– Không có chuyện đó đâu. Đó là một cú lừa kẹp ba. Chúng ta sẽ không nuốt quả đắng này đâu. Xem nào, chín tuần qua Jericho đã tỏ ra thật tuyệt, dù giờ đây chúng ta phải kiểm tra lại những thứ hắn đã cho chúng ta. Một nửa trong đó đã được chứng tỏ, và là tốt. Nhưng ông ta đã chơi đểu ở báo cáo gần nhất. Chúng tôi nghĩ đó là đoạn kết rồi. Chúng tôi không biết tại sao, nhưng đó là điều được nói từ trên cao xuống đấy.

– Thế thì chúng tôi gay rồi. Bill ạ.

– Tôi biết, anh bạn ạ, và chính vì thế mà tôi đã gọi cho anh chỉ sau cuộc họp với giám đốc mấy phút nay. Dù Jericho đã bị bắt và đã nói ra mọi thứ với đội hành quyết, hay ông ta đã chuồn và cao cẳng. Nhưng nếu ông ta biết được rằng chúng ta sẽ không gửi cho ông ta triệu đôla nào nữa, thì tôi chắc ông ta sẽ nổi đoá lên. Dù cách nào đi nữa, thì đó cũng là tin xấu cho anh bạn trẻ của các anh ở đó. Anh ta giỏi đấy chứ, phải không?

– Giỏi nhất đấy. Mẹ kiếp nhà nó chứ.

– Thế thì rút anh ta về đi. Steve ạ. Lẹ lên.

– Tôi nghĩ sẽ phải làm vậy thôi, Bill. Cám ơn đã khuyên. Tội thật – đang tốt thế cơ mà.

– Giỏi nhất. trong khi còn được thế.

Stewart dập máy. Laing đi lên tầng để gặp ngài Colin.

Quyết định được đưa ra trong vòng một giờ đồng hồ.

Vào giờ ăn sáng ngày 15 tháng Giêng ở Arập Xêut, tất cả các thành viên của đội bay, người Mỹ, người Anh, Italia, Xêut, và Kuwait, biết rằng họ sẽ đi vào cuộc chiến tranh. Các chính khách và nhà ngoại giao, họ tin thế, đã thất bại trong việc ngăn cản điều đó. Qua ngày mọi đơn vị.không quân chuyển sang tình trạng chuẩn bị chiến đấu.

Các trung tâm đầu não của chiến dịch đặt ở ba cơ sở tại Riyadh.

Ở ngoại ô Riyadh căn cứ không quân là một tập hợp những lều trại có gắn máy lạnh, được biết đến bởi ánh sáng xanh lan toả trên những tấm vải bạt ở chỗ Barn. Đó là nơi đầu tiên lọc đống ảnh tình báo chụp từ trên không trong nhiều tuần và có thể sẽ gấp đôi, gấp ba trong những tuần tới.

Sản phẩm của Barn – một tổng hợp của những thông tin ảnh quan trọng nhất đổ xuống từ rất nhiều những câu chuyện tình báo – đã đi được một chặng đường để đến được đại bản doanh của Không lực Arập Xêut, một đống những cái đã được chuyển lên cho Không quân Trung ương. CENTAF.

Một toà nhà khổng lồ bằng nhôm kính dược dựng lên trên một khu 50 mét chiều dài, đại bản doanh đang hoạt động hết công suất, và chính ở đó, sâu dưới mặt đất, là trụ sở CENTAF.

Trong toà nhà bộ phận quan trọng nhất là Trung tâm Sản xuất Hình ảnh Hợp tác, một cơ quan hợp tác với nhiều phòng trong đó làm việc qua chiến tranh 250 nhà phân tích. Mỹ và Anh, của cả ba binh chủng, và mọi cấp bậc. Đó là Hố Đen.

Tổng chỉ huy không quân, tướng Chuck Horner, phụ trách về kỹ thuật, nhưng vì ông thường bị gọi lên Bộ Quốc phòng cách đó một dặm đường, nên phó của ông có mặt thường xuyên hơn, tướng Buster Glosson.

Các nhà hoạch định chiến lược cho cuộc chiến trên không tại Hố Đen đọc một đống tài liệu hàng ngày, thậm chí hàng giờ gọi là Sơ đồ Mục tiêu Cơ bản, một danh sách và bản đồ mọi thứ ở lraq đã được nhắm đến để tấn công. Từ đó chúng được chia ra làm tài liệu hàng ngày của mỗi chỉ huy không quân, sĩ quan tình báo không quân, các sĩ quan chiến dịch lên kế hoạch, và đội bay tại vùng Vịnh – Lệnh Bay (ATO).

ATO của mỗi ngày là một tài liệu hết sức chi tiết. lên tới hơn 100 trang đánh máy. Mất đến ba ngày để chuẩn bị. Tiếp đến đầu tiên là Phân chia – quyết định về các tỉ lệ của các dạng mục tiêu ở lraq có thể được xử lý trong vòng một ngày và những đội bay có thể sử dụng cho trận đó.

Ngày thứ hai là Đặt chỗ – thảo luận về tỉ lệ các mục tiêu Iraq thành các số và địa điểm cụ thể. Ngày thứ ba là Phân chia quyết định “ai có ai không”. Chính trong quá trình phân chia này có thể quyết định, chẳng hạn, cái đó là cho những chiếc Tornado của Anh, cái này cho Eagle của Mỹ, cái khác cho Tomcat của Thuỷ quân, rồi thì cho Phantom, và cho Pháo đài bay B52.

Chỉ khi đó mỗi phiên đội bay và người bay cùng mới được lên danh sách trong ngày hôm sau. Sau đó, là thực hiện – tìm mục tiêu, vạch đường, nối với những máy bay tiếp nhiên liệu, kế hoạch hướng đánh, tính toán những mục tiêu thứ yếu trong trường hợp thất bại, và tìm đường trở về nhà.

Người chỉ huy phiên đội có thể chọn các nhân viên của mình và đề nghị những người chỉ huy chuyến bay và người đi cùng. Những sĩ quan phụ trách vũ khí – mà Don Walker là một trong số đó, có thể lựa chọn cách thức – bom “thép” hay là “ngu ngốc” , những bom không có định hướng, rồi bom do laser định hướng, hoả tiễn laser dẫn đường, và nhiều thứ nữa.

Cách đường Sân bay cũ một dặm là toà nhà thứ ba. Bộ Quốc phòng Xêut rất mênh mông, gồm năm toà nhà chính nối với nhau bằng xi măng trắng, cao bảy tầng, với những cột nhà cao lênh khênh.

Trên tầng thứ tư toà nhà này tướng Norman Schwarzkopf dược dành cho một dãy phòng mà hiếm khi ông dùng đến. thường xuyên ngả lưng thẳng xuống cái giường nhỏ dưới tầng ngầm, cạnh vị trí chì huy của mình.

Trong tất cả, bộ dài tới 400 mét và hàng chục fít cao, một sự sạch sẽ đã trả các cổ tức trong Chiến tranh vùng Vịnh, khi Riyadh phải đóng vai trò chủ nhà với nhiều người nước ngoài. Dưới đất là hai tầng nữa gồm nhiều phòng chạy dọc theo chiều rộng của toà nhà, và trong số 400 mét. Ban Chỉ huy liên quân đóng trong 60. Chính ở đây các vị tướng lĩnh ngồi trong suốt cuộc chiến, nhìn vào một bản đồ lớn trong khi các sĩ quan tuỳ tùng chỉ ra cái đã được xử lý, cái đã bị trượt. cái đã để lộ ra, cái đã di chuyển, và cái mà sự đáp lại của lraq và những vị trí có.

Được bảo vệ khỏi ánh mặt trời gay gắt ngày tháng Giêng đó, một chỉ huy đội của Anh ngồi trước một tấm bản đồ treo tường chỉ ra 700 mục tiêu được lên danh sách tại lraq. 240 mục tiêu chính và những cái khác còn lại là thứ yếu, nhận xét:

– Tốt, thế là đúng đấy.

Thực ra, không phải là như thế. Những người lập kế hoạch không hề hay biết, cả những vệ tinh và mọi thứ công nghệ, tính tàn bạo của con người được nguỵ trang và maskirovka đã làm họ bị đánh lừa.

Tại hàng trăm địa điểm qua Iraq và Kuwait, các xe tăng Iraq đã đỗ và ở dưới sự nguỵ trang của chúng, hướng bắn rất chuẩn bởi Liên quân nhờ vào chất liệu kim loại của chúng: được phát hiện bởi các rađa tốt nhất. Trong nhiều trường hợp làm bằng gỗ, gỗ ép, và thanh mỏng, những cái trống của thép cứng bên trong tạo ra thứ gần giống như thép với các máy cảm ứng.

Những điểm của xích xe tải cũ giờ đây chất đống những ống cho tên lửa Scud. Những “máy phóng ” di động này cũng có thề bị Liên quân bỏ qua.

Nhưng nghiêm trọng hơn nữa, 70 mục tiêu chính yếu liên quan đến các vũ khí của Iraq đã không được định vị bởi vì chúng được chôn sâu hay được nguỵ trang một cách khéo léo thành một cái gì đó khác. Chỉ sau này các nhà hoạch định mới bối rối về cách người Iraq đã xử lý để dựng lại toàn bộ những sư đoàn bị phá huỷ với tốc độ nhanh đến khó tin; chỉ sau này các điều tra viên của Hoa Kỳ mới phát hiện hàng loạt nhà máy và kho hàng đã bị bỏ sót: và không biết được những căn cứ ngầm dưới dất.

Nhưng vào cái ngày nóng nực năm 1990 đó không ai biết được những điều đó. Cái mà những người đàn ông trẻ tuổi ngoài những đường bay từ Tabuq miền tây đến Bahrain ở phía đông và xuôi xuống vùng Khamis Mushait bí mật cao độ ở phía nam được biết rằng là trong 40 tiếng đồng hồ họ có thể vào cuộc chiến tranh và một số trong đó sẽ không trở về.

Trong toàn bộ ngày cuối cùng trước khi những cái quyết định bắt đầu, phần lớn trong số họ viết thư về nhà. Một số cắn bút chì nghĩ nên viết gì. Những người khác nghĩ đến vợ và con cái mình và khóc khi viết thư; những bàn tay quen điều khiển hàng tấn kim loại chết người tìm cách nghuệch ngoạc những từ chẳng ra sao để nói điều họ đang cảm thấy; những người đang yêu thì cố diễn tả điều họ nên nói trước, những người cha khuyên nhủ -con trai mình chăm lo cho mẹ chúng nếu điều xấu nhất xảy đến.

Đại uý Don Walker nghe tin tức với tất cả các phi công và những người trong đội lái khác của Đội Rocketeers của TFS số 336 trong một thông báo từ đội trưởng ở Al Kharz. Ngay trước 9 giờ sáng: và mặt trời đã bắt đầu thiêu đốt sa mạc giống như một thứ lò nướng.

Không có lệnh cấm nào buộc những người lính không được ra khỏi lều, mỗi người chìm trong suy nghĩ riêng của mình. Với mỗi người, những suy nghĩ đó rất gần với nhau: ý định gần đây nhất để tránh chiến tranh đã được thử và đã thất bại; các chính khách và nhà ngoại giao đã đi như con thoi từ cuộc họp này đến cuộc họp khác, đã đầu hàng và tuyên bố như vậy, đã thúc đẩy, đốt cháy, xin xỏ, doạ nạt, và ve vãn hàng tháng trời trước khi đến ngày hôm nay.

Walker nhìn đội trưởng Steve Turner đang đi khỏi lều của mình để viết điều anh tin tưởng sâu sắc có thể là bức thư cuối cùng của anh cho Betty Jane ở Goldsboro, Carolina Bắc, Randy Roberts có một vài từ ngắn gọn, thân mật với Boomer Henry. rồi họ chia tay và đi.

Chàng trai Oklahoma trẻ tuổi nhìn vào vòm trời xanh nhợt nhạt nơi anh đã muốn lao vào từ khi còn là một chú nhóc ở Tulsa và nơi đó anh đã sớm có thể chết vào độ tuổi ba mươi, và quay buớc chân về cái máy đo. Cũng giống những người khác, anh muốn được một mình.

Không có hàng rào để đi sang căn cứ ở Al Kharz, chỉ có hàng núi cát, và những đồng đất trải dài đến chân trời và trên đó lại tiếp nữa và tiếp nữa. Walker đi ngang qua những túp lều nhỏ bé được tụ lại quanh một nơi cụ thể, nơi các thợ máy đang làm việc với chức trách của mình và các đội trưởng đang đi qua các đội, nói và kiểm tra để chắc rằng khi một cái trong số các baby của mình cuối cùng vào cuộc chiến, thì chúng có thể là những chiếc máy hoàn hảo trong tay những người biết sử dụng chúng.

Walker đỗ chiếc Eagle của mình giữa chúng và vẫn thấy thật ngưỡng mộ khi chiêm ngưỡng chúng từ xa theo cái dáng điệu đe doạ câm lặng của chúng. Nó baỵ chậm qua đoàn đàn ông và phụ nữ, thầm yêu mến hoặc thích thú, căm ghét hoặc sợ hãi, kiên nhẫn đợi đến lúc khi nó cuối cùng có thể làm cái đã được thiết kế để làm hàng năm trước trên khoang lái – mang lửa và cái chết đến cho những kẻ được đưa vào tầm ngắm bởi vị tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.

Walker ghen tị với chiếc Eagle của mình; với mọi sự phức tạp kinh người, nó có thể không cảm thấy gì hết cả, nó có thể không bao giờ phải e ngại. Anh rời khỏi thành phố của lều trại đằng sau mình và rảo bộ trên dường. đôi mắt anh ánh lên bởi độ cao của cái gậy bóng chày và những đôi kính bay, hiếm khi cảm thấy sức nóng của mặt trời trên vai mình.

Tám năm nay anh đã bay trên chiếc máy bay của Tổ quốc mình, làm điều đó và thích thú nó. Nhưng chưa từng bao giờ anh thật sự, thành thật ngắm nhìn triển vọng mình có thể chết trong trận chiến. Một phần trong số mọi phi công chiến đấu thường đùa cợt với khái niệm thử nghiệm kỹ năng, thần kinh của anh, và sự hoàn hảo của chiếc máy bay chống lại một người đàn ông khác trong thực tế chứ không phải một bài kiểm tra vớ vẫn nào đó. Nhưng một phần khác vẫn luôn giải thích rằng sẽ không bao giờ xảy ra như thế. Nó sẽ không bao giờ thực sự biết đến việc giết những đứa con của những bà mẹ khác, hay bị họ giết chết.

Sáng hôm đó, cũng giống như các buổi sáng khác, anh cuối cùng cũng nhận ra rằng trong thực tế điều đó đã xảy đến: rằng mọi năm học hành và huấn luyện trước đây đã cuối cùng đi đến ngày này và đến thời điểm này; rằng trong 40 giờ nữa anh có thể lại đưa chiếc Eagle của mình lên không trung, và lần này anh có thể sẽ không quay trở về.

Cũng giống như những người khác, anh nghĩ về ngôi nhà. Khi chỉ còn là một đứa trẻ và một người độc thân, anh nghĩ về bố mẹ mình. Anh nhớ mọi thời gian và mọi địa điểm của tuổi thơ mình ở Tulsa, những việc mà anh và cha mẹ anh đã cùng nhau làm trong cái sân sau nhà, cái ngày anh được tặng cái mitt đầu tiên và đã bắt bố mình chơi cùng cho đến tận khi mặt trời xuống.

Những suy nghĩ của anh quay trở về những kỳ nghỉ mà họ đã ở cùng nhau trước khi anh rời nhà đi học đại học rồi vào Không quân. Người anh nhớ đến nhiều nhất là cái lần bố anh mang anh trên một chiếc tàu đánh cá chỉ toàn đàn ông đến Alaska vào mùa hè năm anh 20 tuổi.

Ray Walker

Giờ đây anh thấy mình đang đi lang thang qua một biển cát trong đất liền xa nhà với nước mắt chảy dài trên gò má, không ngăn được, khô đi trong ánh nắng mặt trời. Nếu anh chết, anh sẽ không bao giờ được cưới vợ và sẽ không bao giờ có con hết cả. Hai lần anh đã suýt cưới vợ; một lần với một cô gái ở trường đại học, nhưng đó là khi anh còn quá trẻ chưa có kinh nghiệm gì, lần thứ hai với một người phụ nữ chín chắn hơn mà anh gặp ngoài căn cứ gần Mc Connell, người đã làm anh hiểu cô sẽ không bao giờ trở thành vợ của một tay lính chiến lái máy bay.

Giờ đây anh muốn, như chưa từng muốn như thế bao giờ trước đây, có con của riêng mình; anh muốn một người đàn bà để trở về vào lúc cuối ngày, và một đứa con gái đùa nghịch với anh và nghe anh đọc chuyện cổ tích khi sắp đi ngủ, và một đứa con trai để dạy cho nó bắt một quả bóng đang xoáy, để chiến đấu và thi đấu, để chơi đùa và câu cá, đúng theo cái cách bố anh đã dạy anh. Còn hơn thế nữa, anh muốn quay trở về Tulsa và ôm hôn mẹ anh lần nữa, người đã lo lắng bao nhiêu về những việc anh đã làm và đã can đảm không chịu…

Chàng phi công trẻ tuổi cuối cùng cũng quay về căn cứ, ngồi xuống cái bàn ăn tại căn lều ở chung với mấy người khác, và tìm cách viết một bức thư về nhà. Anh không phải người viết thư giỏi. Từ ngữ không đến dễ dàng. Anh thường thử miêu tả những điều vừa mới xảy ra trong đội bay, bạn bè anh, tình hình thời tiết. Điều đó thật là khác.

Anh viết cho bố mẹ mình hai trang giấy, cũng giống như nhiều đứa con trai khác trong ngày hôm đó. Anh tìm cách giải thích điều dang diễn ra trong đầu anh, cái chẳng dễ dàng một chút nào.

Anh nói với họ về những tin tức mới vừa được thông báo sáng hôm đó và ý nghĩa của những tin đó, và anh bảo họ đừng có lo lắng cho anh. Anh đã có sự đào tạo tốt nhất thế giới và bay trên chiếc máy bay chiến đấu tốt nhất thế giới trong không lực mạnh nhất thế giới.

Anh viết là anh rất tiếc về thời gian anh còn nhỏ, và cảm ơn họ với mọi điều họ làm cho anh trong những năm qua, từ ngày đầu tiên xa lắc xa lơ cho đến hiện tại khi vị tướng đã có trên ngực những cánh máy bay.

Trong 40 tiếng đồng hồ, anh giải thích, anh có thể sẽ cất cánh chiếc Eagle của mình và lại bay, nhưng lần này có thể sẽ khác nhiều. Lần này, lần đầu tiên, anh có thể sẽ thấy mình phải giết những người khác, và họ cũng sẽ tìm cách để giết anh. Anh có thể không nhìn thấy khuôn mặt của họ hay cảm giác về nỗi sợ hãi của họ, khi họ biết được điều đó, vì không có cách nào khác trong chiến tranh hiện đại. Nhưng nếu họ lùi bước và anh thất bại, thì anh cũng muốn bố mẹ mình biết anh yêu họ thế nào, và anh hy vọng anh đã là một đứa con trai tốt của họ.

Khi anh viết xong, anh dán thư lại. Nhiều bức thư khác cũng được dán trong ngày hôm đó dọc theo chiều dài và chiều rộng của Arập Xêut. Rồi các nhân viên bưu chính quân đội sẽ thu thập chúng, và chúng được chuyển cho Trenton , Tulsa, London , Rouen và Rome.

Đêm đó Mike Martin nhận được một tin khẩn từ những người đang kiểm soát anh ở Riyadh. Khi anh cho máy chạy lại, anh nhận ra giọng Simon Paxman đang nói. Đó không phải là một bản tin dài, nhưng rõ ràng và đi thẳng vào vấn đề ngay. Trong thông điệp trước của mình, Jericho đã sai lầm, hoàn toàn và tuyệt đối sai. Mọi kiểm tra khoa học đều chứng tỏ không có cách nào hắn ta lại đúng được cả.

Hắn ta đã sai dù là cố ý hay vô ý. Trong trường hợp đầu tiên hắn ta có thể đã phản bội, đã bị loá mắt vì tiền, hay đã bị bắt buộc. Trong trường hợp thứ hai hắn ta có thể đã chán ngán bởi vì CIA đã từ chối nhất quyết không trả thêm đôla cho cái loại sản phẩm này nữa.

Điều đó có nghĩa là, không có lựa chọn nào khác ngoài việc tin rằng, sự hợp tác của Jcricho, toàn bộ chiến dịch đã bị Phản gián Iraq phát hiện, giờ đây đang ở trong tay “Hassan Rahmani bạn anh”; hoặc điều đó rồi không chóng thì chày sẽ xảy ra, nếu Jencho tìm cách trả thù bằng cách gửi một thư nặc danh.

Và cũng phải bỏ cả sáu hòm thư chết. Kiểu gì cũng phải làm. Martin có thể tự mình chuẩn bị để thoát khỏi Iraq với cơ hội an toàn đầu tiên, có thể là dưới trường hợp một cuộc hỗn loạn có thể đến trong 24 giờ nữa. Hết thông báo.

Martin nghĩ về nó trong suốt phần còn lại của đêm. Anh không ngạc nhiên rằng phương Tây đã không còn tin Jericho nữa. Rằng các khoản tiền sẽ ngừng chảy nữa. Người đã chỉ báo cáo nội dung của một cuộc họp tại đó Saddam có dự. Thế là Saddam đã nói dối – không có gì mới mẻ cả. Thế thì Jericho sẽ làm gì khác đây – bỏ qua nó ư? Người đàn ông đang đòi đến một triệu đôla đã làm điều đó.

Do đó, lôgic của Paxman thật không chấp nhận được.

Trong bốn ngày, có thể là năm, Jericho sẽ kiểm tra và phát hiện chưa có thêm tiền. Ông ta có thể trở nên giận dữ, cáu bẳn. Nếu không bị rơi vào tay Omar Khatib “Kẻ Tra tấn”, thì ông ta sẽ có thể hoàn toàn trả lời bằng cách bịa ra một kẻ nặc danh nào đó Cũng có thể thật là điên rồ đối với Jericho nếu hắn làm thế. Nếu Martin bị bắt và bị đánh – và anh không chắc sẽ đau đớn thế nào trong tay Khatib và những tên chuyên nghiệp đấm bóp của hắn – thông tin của chính anh có thể chỉ ra Jericho, dù đó là ai đi chăng nữa.

Hơn nữa, con người ta lại hay làm những việc điên rồ. Paxman đúng, các hộp thư cần được giám sát.

Còn với việc rời khỏi Baghdad, điều đó nói dễ hơn là làm. Qua câu chuyện phiếm ở các chợ, Martin đã nghe thấy rằng các con đường ra khỏi thành phố dầy đặc những đội tuần tra của AMAM và Cảnh sát quân sự, tìm kiếm những kẻ lang thang và chó săn. Bức thư của nhà ngoại giao Nga Kulikov chỉ cho phép anh phục vụ ông ta với tư cách người làm vườn ở Baghdad. Thật khó giải thích cho một điểm kiểm tra điều anh muốn làm khi đi về phía tây về sa mạc, nơi chiếc mô tô của anh được chôn ở đó. Suy đi tính lại anh quyết định ở lại trong khu nhà Xô viết một thời gian nữa. Đó lại có thể là chỗ an toàn nhất ở Baghdad này.

Bình luận