Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Những Bí Ẩn Của Sa Mạc

Chương 16

Tác giả: Frederik Forsythe

Krim đến ăn tối với Edith Hardenberg ở căn hộ của cô tại Grinzing tối hôm đó. Anh ta tìm thấy đường đến khu ngoại ô bằng phương tiện giao thông công cộng, và mang theo quà: một đôi nến tẩm hương liệu rất thơm tho, mà anh đặt lên trên một cái bàn nhỏ trong phòng ăn; và hai chai rượu vang đắt tiền.

Edith để anh vào, má hồng lên và bối rối hơn bất kỳ lúc nào, rồi quay trở lại về những thứ thành Vienna mà cô đã chuẩn bị trong cái bếp nhỏ của mình. Đã 20 năm kể từ ngày cô chuẩn bị bữa ăn cho một người đàn ông; cô tìm kiếm sự trầm tĩnh thường ngày, nhưng kinh ngạc thấy mình rất bồn chồn.

Karim đón chào cô với một nụ hôn nhẹ vào má ở cửa ra vào, làm cho cô càng trở nên bối rối hơn, rồi tìm thấy bản Nabucco của Verdi trên giá sách của cô và cho vào máy. Ngay lập tức hương thơm của những cây nến, êm dịu và mê đắm, thêm vào nhịp điệu cao quý của “Hợp xướng Xlavơ” lan toả khắp căn hộ.

Điều này giống hệt như đội neviot đã miêu tả: rất ấm áp, rất nhỏ bé, rất sạch sẽ. Căn hộ này là của một người phụ nữ khô cứng sống một thân một mình.

Khi đồ ăn đã xong, Edith giới thiệu với những lời xin lỗi bối rối. Karim thử món thịt và tuyên bố đó là thứ ngon nhất anh từng được dùng, làm cho cô càng bối rối hơn nữa, nhưng rất dễ chịu.

Họ nói chuyện trong khi ăn, về văn hoá; về chuyến thăm đã được dự định đến Cung điện Schonbrunn và để xem những con ngựa Lippizzaner lừng danh, trường đua ngựa Tây Ban Nha bên trong Hofburg tại Josefplatz.

Edith ăn cũng như khi cô làm bất cứ chuyện gì khác – nói một cách chính xác, giống như một con chim đang mổ xác chết. Cô buộc tóc ra đằng sau như mọi khi, thành một búi to

sau đầu.

Trong ánh sáng của những ngọn nến, vì anh đã tắt đèn điện trên bàn, Karim trở nên đẹp trai một cách hắc ám và lịch thiệp như chưa bao giờ thế. Anh rót đầy cốc rượu của cô ngay lập tức, nên cô uống nhiều hơn số rượu cô tự cho phép mình trong thường thường.

Hiệu ứng của thức ăn, rượu vang, nến, âm nhạc, và sự có mặt của một người bạn trẻ tuổi dần dần làm giảm đi sự đề kháng của cô.

Trên những cái đĩa rỗng Karim ngả người về phía trước và nhìn vào mắt cô.

– Edith?

– Vâng.

– Tôi có được phép hỏi cô một điều không?

– Nếu anh muốn.

– Tại sao cô lại để tóc như thế

Đó là một câu hỏi bất ngờ, rất riêng tư. Cô thở rất sâu ra.

– Tôi… tôi vẫn luôn như thế mà.

Không, điều đó không đúng. Đã có thời, cô nhớ lại, với Horst, khi nó đã dài xuống đến vai cô, dầy và nâu, trong cái mùa hè năm 1970. Đó là thời khi nó đã nâu trong gió của hồ ở Schlosspark ở Laxenburg.

Karim nhổm lên không nói lời nào và đi vòng ra sau lưng cô Cô cảm thấy nỗi sợ tăng lên. Điều này thật kích thích.

Những ngón tay đầy kinh nghiệm ve vuốt làm cái lược cắm vào búi tóc rời ra. Điều này phải chấm dứt. Cô cảm thấy cả người nổi gai, tóc cô trở nên mất trật tự, rơi xuống sau lưng cô. Cô ngồi cứng đơ ở trên ghế. Cùng những ngón tay đó vuốt mái tóc cô và dần đi xuống khuôn mặt cô.

Karim đứng sau cô, và cô nhìn sang. Anh ta rút tay lại và mỉm cười.

– Như thế này đẹp hơn đấy. Cô trông trẻ ra mười tuổi và đẹp hơn nhiều. Hãy ngồi lên ghế sofa đi. Cô bật cái đĩa cô thích nhất còn tôi đi chuẩn bị cà phê, được chứ?

Không đợi được phép, anh ta cầm lấy đôi bàn tay nhỏ nhắn của cô và đỡ cô đứng dậy khỏi ghế. Để một tay buông thõng, anh dẫn cô ra khỏi phòng bếp để đi sang phòng khách.

Rồi anh quay trở lại trong bếp, để tay kia xuống. Ơn Chúa anh ta đã làm thế. Cô cảm thấy run rẩy từ đầu đến chân. Như thế có thể hướng đến một tình bạn trong trắng kiểu Platon. Nhưng khi đó, anh ta không hề chạm vào cô, không thực sự chạm vào cô. Cô có thể, dĩ nhiên, không bao giờ cho phép loại việc như thế.

Cô liếc nhìn dung nhan mình trong một cái gương treo trên tường, đỏ hồng và bối rối, tóc rơi xuống hai vai, trùm lên tai, đổ xuống khuôn mặt cô. Cô nghĩ cô đã có một cái liếc nhìn thiếu nữ cô từng biết hai mươi năm trước.

Cô lên cơn sốt với chính mình và chọn một cái đĩa Strauss yêu thích của cô, những bản valse mà cô biết từng nốt một, “Những bông hồng từ phương Nam”, “Rừng Vienna”, “Những người trượt tuyết”, “Danube”… Cảm ơn Chúa lòng lành anh ta đã ở trong bếp và không nhìn thấy cô suýt ngã khi đứng ở chỗ cái bàn. Anh ta dường như cảm thấy rất thích thú khi đi chuẩn bị cà phê, nước nóng, phin pha, đường.

Cô ngồi vào một đầu xa của ghế sofa khi anh ta quay trở lại đầu gối chụm lại, cà phê trong lòng. Cô muốn nói về buổi hoà nhạc đã được lên kế hoạch cho Musikverein vào tuần sau, những từ ngữ không ra nổi khỏi miệng cô. Thay vào đó cô uống cà phê.

– Edith này, xin đừng sợ hãi tôi, anh thì thầm. Tôi có phải là bạn cô không nào?

– Đừng thế chứ. Dĩ nhiên tôi có sợ đâu.

– Tốt. Bởi vì tôi sẽ không bao giờ làm cô đau khổ, cô cũng biết đấy.

Bạn. Phải, họ từng là bạn, một tình bạn sinh ra từ một tình yêu giống nhau về âm nhạc, nghệ thuật, opera, văn hoá. Không có gì hơn nữa, chắc hẳn rồi. Với một khoảng cách nhỏ như thế, bạn với cả bạn trai. Cô biết rằng các thư ký khác ở ngân hàng có chồng và bạn trai, nhìn họ hồi hộp trước khi đi đến một chỗ hẹn, tràn trề sung sướng ở cơ quan vào buổi sáng hôm sau, thương hại cô cô đơn đến thế.

– Có phải bản Những bông hồng từ phương Nam hay không?

– Phải, đúng rồi.

– Tôi nghĩ đó là bản valse tôi thích nhất.

– Tôi cũng thế. Thật là tốt khi quay trở về âm nhạc.

Anh cầm lấy tách cà phê khỏi lòng cô và để ra sang bên cạnh mình trên một cái bàn để cạnh đó. Rồi anh nhổm đứng lên, cầm lấy tay cô và kéo cô.

– Cái gì

Cô thấy tay phải mình đã ở trong tay trái của anh, một cánh tay khoẻ khoắn đầy tin cậy, và cô quay nhẹ nhàng trên nền nhà của căn phòng nhỏ giữa đồ đac, nhảy một điệu valse.

Gidi Barzilai có thể đã nói, đi làm điều đó đi, cậu bé, đừng có mất thời gian thêm nữa. Anh đã biết được gì rồi nào? Không có gì hết cả. Đầu tiên của sự thật, rồi rơi. Karim để tay phải của mình sau lưng của Edith.

Khi họ quay, nhiều inch không gian ngăn cách họ, Karim giữ đôi tay dính chặt vào vai anh, và với cánh tay phải anh kéo Edith lại gần mình. Điều này là không thể chống lại được. Edith thấy mặt mình đã ở trong ngực anh và cố quay đi. Đôi vú nhỏ của cô đã tựa vào người anh, và có thể lại cảm thấy mùi đàn ông một lần nữa.

Cô đẩy ra. Anh để cô làm, nới tay phải cô, và dùng tay trái nâng cầm cô lên. Rồi anh hôn cô, trong khi họ vẫn đang nhảy. Đó không phải là một nụ hôn nhẹ nhàng. Anh giữ môi cô, không để cô đẩy ra. Trí óc cô lộn tùng phèo đủ mọi cảm giác, một chiếc máy bay không còn kiểm soát được nữa, xoay tròn, rơi xuống, những ý muốn phản kháng nổi lên nhưng thất bại. Ngân hàng, Gemuetlich, tiếng tăm của cô, tuổi trẻ của cô, sự xa lạ của cô, tuổi tác của cô, sự ấm áp, rượu, hương thơm, sức mạnh, đôi môi. âm nhạc ngừng lại. Nếu anh làm thêm điều gì đó nữa, cô sẽ đuổi anh đi.

Anh rời môi khỏi môi cô và nâng đầu cô lên cho đến khi dựa vào ngực anh. Họ đứng đó như thế trong căn hộ im lặng trong nhiều giây liên.

Cô là người tách ra. Cô quay về ghế sofa và ngồi xuống, nhìn lên trước. Cô thấy anh quỳ gối trước mặt mình. Anh cầm cả hai tay cô nói.

– Cô có giận tôi không, Edith?

– Lẽ ra anh không nên làm thế, cô nói.

– Tôi không muốn thế đâu. Tôi thề mà. Tôi không thể.

– Tôi nghĩ anh nên đi đi.

– Edith, nếu cô giận và muốn trừng phạt tôi, thì chỉ có một cách cô có thể. Nhưng hãy cho phép tôi gặp lại cô nữa nhé.

– Tôi không chắc đâu.

– Hãy nói cô sẽ để tôi gặp cô nữa.

– Tôi cũng cho là thế.

– Nếu cô nói là không, tôi sẽ bỏ học để về nhà. Tôi không thể sống ở Vienna nếu cô không chịu gặp tôi nữa.

– Đừng điên thế. Anh phải học chứ.

– Thế cô sẽ gặp tôi nữa chứ?

– Thôi được rồi.

Năm phút sau anh đi. Cô tắt đèn, thay bộ đồ ngủ, xoá mặt và chải răng, rồi lên giường ngủ. Trong bóng tối cô ngồi bó gối. Sau hai giờ cô làm điều chưa từng làm trong suốt nhiều năm: mỉm cười trong bóng tối. Một ý nghĩ điên rồ vừa lướt qua tâm trí cô đi đi lại lại, và cô không chú ý Mình đã có một bạn trai. Anh ta trẻ hơn đến mười tuổi, là một sinh viên, một người ngoại quốc, một người Arập, và một người Hồi giáo. Thế mà mình cũng không thèm để ý.

Đại tá Dick Beatty của USAF đang đứng trên sân trong đêm đó, rất sâu ở dưới đường sân bay Cũ ở Riyadh. Hố Đen không bao giờ dừng, nó không bao giờ giảm đi, và trong những ngày đầu tiên của cuộc không chiến. nó đã làm việc nhiều hơn và nhanh hơn bất kỳ khi nào.

Bản kế hoạch tài năng của tướng Chuck Horner cho cuộc chiến trên không đã được thử nghiệm bằng sự sai chỗ do bởi sự đa dạng của hàng trăm máy bay đi săn lùng các điểm bắn tên lửa Scud thay vì bắn vào các mục tiêu đã được chỉ định trước.

Bất kỳ vị tướng đánh trận nào cũng sẽ khẳng định rằng một kế hoạch cần được thực hiện đúng từng ly từng tý, nhưng khi quả bóng đã bay lên, thì không bao giờ giống được như thế hết cả. Cuộc khủng hoảng do các hoả tiễn rơi xuống Israel gây ra đã chứng tỏ một vấn đề nghiêm trọng. Tel Aviv đã gào lên với Washington, và Washington đã gào vào Riyadh. Sự đa dạng của tất cả những máy bay đó chỉ đi tìm những máy phóng di động mạnh là cái giá Washington phải trả để giữ Israel không nhảy vào với những hành động trả đua, và các lệnh của Washington cũng không có luận lý gì cả. Mọi người đều có thể thấy rằng Israel đã mất kiên nhẫn và việc họ tham gia cuộc chiến có thể gây ra thảm hoạ đối với Liên quân giờ đây đang họp nhau lại để chống Iraq, nhưng vấn đề còn lớn hơn nữa.

Các mục tiêu thông thường được định ra cho ngày thứ ba đã bị dời lại vì thiếu lực lượng máy bay, và hiệu ứng giống như những. con đôminô. Một vấn đề thêm nữa là điều có thể vẫn không có Giám sát Thiệt hại do bom, hay BDA. Điều này là cốt yếu, và phải được thực hiện. Lựa chọn có thể là như thế.

Các BDA là rất cốt tử bởi vì Hố Đen phải biết được mức độ của thành công, hay nếu không, của làn sóng các máy bay chiến đấu mỗi ngày. Nếu một trung tâm chỉ huy chủ yếu của Iraq, chỗ của rađa, hay một khẩu đội tên lửa có ở Bộ phận Tác chiến Bay, điều đó có thể rất dễ bị tấn công. Nhưng nếu nó đã bị phá huỷ chưa? Nếu đã, thì ở mức độ nào? Mười phần trăm, năm mươi phần trăm, hay chỉ là một cơn gió thoảng?

Chỉ đơn giản là giả dụ rằng căn cứ của Iraq đã bị thổi bay là không ổn. Ngày tiếp sau, các máy bay Liên quân không nghi ngờ gì có thể được gửi đến địa điểm đó trong một nhiệm vụ nữa. Nếu địa điểm đó vẫn còn hoạt động được, các phi công có thể hy sinh.

Vậy mỗi ngày các nhiệm vụ được điều lên, và các phi công mệt mỏi miêu tả một cách chính xác việc mình đã làm và đã tiêu diệt được gì. Hoặc nghĩ họ đã đâm phải gì. Ngày tiếp theo, các máy bay khác bay đến các mục tiêu và chụp ảnh chúng.

Do đó, mỗi ngày khi Cơ quan Nhiệm vụ Bay bắt đầu chuyến bay ba ngày để chuẩn bị, danh mục nguyên gốc của các mục tiêu được chỉ định phải bao gồm cả các nhiệm vụ cần đến thứ hai, để kết thúc công việc chỉ được thực hiện một lần.

Ngày 20 tháng Giêng, ngày thứ tư của cuộc chiến trên không, các lực lượng bay của Liên quân đã không chính thức đến được gần để bỏ phí các nhà máy công nghiệp đã được nhắm đến như những cái tạo ra vũ khí tiêu diệt hàng loạt. Chúng vẫn đặt trọng tâm vào SEAD – áp lực của Các lực lượng Phòng không địch.

Đêm đó, đại tá Beatty chuẩn bị danh sách các nhiệm vụ chụp ảnh trộm ngày hôm sau. Vào khoảng nửa đêm, ông đã rất gần, và những lệnh sớm đã được truyền đi theo đường của mình đến các đội bay khác nhau được chỉ định cho nhiệm vụ chụp ảnh từ trên không vào bình minh.

– Được rồi, thưa ngài.

Một sĩ quan cấp cao của Hải quân Mỹ, đứng bên cạnh ông. Viên đại tá liếc nhìn vào mục tiêu.

– Anh muốn nói gì vậy, Tarmiya?

– Tôi đã nói rồi, thưa ngài.

– Thế Tarmiya là cái quái quỷ gì vậy?

– Đây này, thưa ngài.

Viên đại tá liếc nhìn lên bản đồ hàng không. Địa điểm chẳng có nghĩa gì với ông hết cả.

– Rađa à? Tên lửa, căn cứ không quân, điểm chỉ huy?

– Không, thưa ngài. Cơ sở sản xuất công nghiệp.

Đại tá đã mệt. Đã qua một đêm dài, và có thể còn phải tiếp tục đến bình minh.

– Vì chúa, chúng ta chưa nhằm vào các mục tiêu công nghiệp đâu. Nhưng dù sao cũng đưa tôi danh sách nào.

Ông dùng mắt chạy qua danh sách. Nó bao gồm gần như tất cả các cơ sở công nghiệp mà Liên quân biết đến có liên quan đến sản xuất vũ khí; nó có các nhà máy được biết sản xuất vỏ đạn, thuốc nổ, xe cộ, linh kiện súng, và xe tăng.

Trong hàng đầu tiên có tên Al Quam, As-Sharqat, Tuwaitha, Fallujah, Al-Hillah, Al-Atheer, và Al-Furat. Viên đại tá có thể không biết đã thiếu trong danh sách cái tên Rashadia, nơi người Iraq đã lắp đặt tầng máy ly tâm khí thứ hai để sản xuất uranium tinh chế, vấn đề đã được các chuyên gia của Hội đồng Medusa loại bỏ. Nhà máy đó, được phát hiện bởi Liên Hợp Quốc mãi sau này, đã không bị chôn sâu xuống nhưng đã được nguỵ trang như một nhà máy sản xuất nước đóng chai.

Đại tá Beatty cũng không biết rằng Al-Furat là địa điểm chôn sâu dành cho tầng uranium thứ nhất, địa điểm mà người Đức, tiến sĩ Stemmler đã đến thăm, “nơi nào đó gần Tuwaitha”, và vị trí chính xác của nó đã bị Jericho tiết lộ.

– Tôi không thấy đâu là Tarmiya cả, ông cằn nhằn.

– Không đâu, thưa ngài. Nó không có ở đó. Viên sĩ quan nói

– Hãy đưa cho tôi điểm quy chiếu nào.

Không ai có thể đoán trước rằng các nhà phân tích nhớ được hàng trăm cái tên địa danh Arập lằng nhằng, trong một số trường hợp một cái tên lại chỉ đến hàng chục mục tiêu khác nhau, nên tất cả các mục tiêu đều được đưa ra một điểm quy chiếu được thực hiện bởi Hệ thống Định vị Toàn cầu, được chuyển xuống chỉ còn 12 đơn vị, một mảnh vuông 50 yard vuông.

Khi ném bom nhà máy khổng lồ ở Tarmiya, Don Walker đã nhận ra điểm quy chiếu này, đã gắn vào báo cáo ngắn gọn của mình.

– Nó không có ở đây, đại tá phản đối. Đó thậm chí không phải là một mục tiêu đáng nguyền rủa. Ai đã chơi vậy?

– Một phi công nào đó của đội 336 ở Al Kharz. Trượt ở hai mục tiêu được chỉ định đầu tiên của mình dù không phải lỗi của cậu ta. Không muốn quay về nhà với đầy súng đạn. Đấy là tôi đoán thế.

– Mẹ, viên đại tá lẩm bẩm. Tốt thôi, dù sao hãy chuyển cho BDA. Nhưng để ưu tiên ít thôi. Đừng có phí phim vào đó đấy nhé.

Trung uý Chỉ huy Darren Cleary ngồi ở chỗ kiểm soát của chiếc Tomcat F-14 của mình. Anh ta là một anh chàng hết sức nồng nhiệt.

Dưới anh ta là con tàu chở hàng to lớn màu ghi USS Ranger đã nhúng mũi vào làn gió nhẹ và đang thực hiện 27 nút qua nước. Biển bắc vùng Vịnh đang lặng tờ trong lúc sắp mặt trời lên, và bầu trời có thể sớm sáng lên và màu xanh. Hẳn sẽ là một ngày rất thoải mái cho một phi công hải quân bay một trong những chiếc máy bay chiến đấu tốt nhất thế giới.

Được đặt biệt danh “Đội Phản công”, chiếc Tomcat chở được hai người đã đến với một số lượng khán giả lớn hơn khi được tái hiện trong phim Top Gun. Khoang lái của nó có khả năng là chiếc ghế được tìm kiếm nhiều nhất trong số các máy bay chiến đấu, chắc chắn là trong đội bay Hải quân, và đang trong tầm kiểm soát của một máy bay chiến đấu như thế trên một ngày đẹp đẽ như thế ngay một tuần trước khi đến trạm ở vùng Vịnh đã có thể làm cho Darren Cleary rất sung sướng.

Nguyên do của sự chán nản của anh là anh đã được chỉ định không phải đi một nhiệm vụ chiến đấu mà là BDA, “đi chụp những hình ảnh cận cảnh may mắn”, như anh đã phàn nàn đêm hôm trước. Anh đã có được từ sĩ quan chiến dịch của độibay để anh đi săn tìm những chiếc MIG, nhưng chẳng ăn thua gì.

“Ai đó phải làm việc này chứ”, đó là câu trả lời của anh ta. Cũng giống như các phi công chiến đấu kiêu căng trong Liên quân ở chiến tranh vùng Vịnh, Cleary sợ rằng các máy bay Iraq có thể rời khỏi bầu trời sau chỉ ít ngày, dẫn đến kết quả họ chẳng còn gì để mà chiến đấu hết nữa cả.

Vậy cho nên anh buồn lắm, anh đã bị “gài” – đã bị ra lệnh – cho một nhiệm vụ TARPS.

Đằng sau anh và sĩ quan bay của anh, hai kỹ sư máy bay của General Electric đang quay cuồng với chiếc móc vào cái máy đẩy hơi nước, dí mũi vào đường trung tâm của chiếc Ranger. Cleary đang đợi, gạt cần lái bằng tay trái, điều khiển cái cột thật vững và trụ được ở bên phải, khi các chuẩn bị cuối cùng đã hoàn thành. Cuối cùng sự đòi hỏi, cái nút, và sự bùng lên mãnh hệt của năng lượng khi chiếc cần đẩy lên trước, sang phải qua một cánh cửa để phụt ra, và chiếc máy phóng đã đẩy anh và 68000 pound trọng lượng chiếc máy bay chiến đấu từ 0 đến 150 nút trong vòng ba giây.

Thép xám của chiếc Ranger biến mất ở đằng sau anh, và mặt biển u tối lùi lại phía dưới. Chiếc Tomcat kêu ù ù không khí xung quanh, và trườn một cách nhẹ nhàng để tiến về đường chân trời.

Sẽ là một nhiệm vụ dài bốn tiếng đồng hồ với hai lần tiếp nhiên liệu. Anh có 12 mục tiêu cần chụp ảnh, và không thể được ở một mình. Đã ở trên anh là một chiếc Avenger A-6 với những quả bom có gắn laser dẫn đường trong trường hợp rơi vào pháo phòng không, trong đó chiếc Avenger biết cách dạy cho các tay súng Iraq cần im miệng. Một chiếc Prowler EA-6B cùng đi với nhiệm vụ như thế, có trang bị các HARM trong trường hợp rơi vào một địa điểm tên lửa SAM do rađa chỉ đường. Chiếc Prowler có thể sử dụng các HARM của mình để thối bay rada, và chiếc Avenger có thể sử dụng bom của mình vào các tên lửa.

Trong trường hợp Quân lực Iraq hiện ra, hai chiếc Tomcat nữa có thể giương súng lên, ở phía dưới và ở một bên người chụp ảnh, những chiếc ra a AWG-9 mạnh mẽ của họ có khả năng làm nhiễu độ đo của các phi công Iraq trước khi thoát khỏi lưới đạn.

Tất cả những thứ kim loại và công nghệ đó để bảo vệ cái đang treo dưới và đằng sau chân của Darren Cleary, một Hệ thống Pod Nhận biết Không quân Chiến thuật, hay TARPS.

Treo hơi nghiêng về bên phải của chiếc Tomcat, TARPS trông giống như một cái hộp ngầm dài 17 fít. Nó chỉ hơi phức tạp hơn một chiếc Pentax của khách du lịch.

Ở mũi của nó là một máy chụp ảnh mạnh với hai hướng: lên trước và xuống, hay thẳng xuống. Dưới nó là chiếc máy chụp toàn cảnh nhìn ra bên ngoài, ở bên cạnh, và phía dưới. Sau nó là bộ nhận biết được bọc kỹ, dành để ghi sức nóng (độ nóng) các hình ảnh và nguồn gốc của nó. Trong một vòng cuối cùng, phi công có thể nhìn trên màn hình phía trước bên trong khoang lái của mình cái anh ta đang chụp trong khi vẫn ở phía trên.

Darren Cleary nâng độ cao lên 15 nghìn fít, cùng với phần còn lại của đội hộ tống mình, và họ bắt đầu kết nối với chiếc truyền nhiên liệu KC-135 ngay ở phía nam biên giới Iraq.

Không bị làm rối bởi sự kháng cự Iraq, Cleary chụp ảnh 11 mục tiêu chính đã được ra lệnh rồi bay qua Tarmiya cho địa điểm dược quan tâm ở mức độ thứ yếu.

Khi bay qua Tarmiya, anh nhìn liếc qua màn hình và lẩm bẩm “Cái chó chết gì thế này?” Đó là thời khắc các ống kính 750 của những máy camera chính của anh đang chọn để bấm máy.

Sau lần tiếp nhiên liệu thứ hai nhiệm vụ đỗ về chiếc Ranger không có rắc rối nào. Các nhân viên mặt ‘đất gỡ những chiếc camera và mang chúng vào phòng ảnh để rửa thành phim âm bản.

Cleary đang nói vắn tắt về nhiệm vụ bất đắc dĩ của mình, Lùi ngồi xuống cái bàn nhẹ cùng với nhân viên tình báo. Khi các phim âm bản đã được đưa lên màn hình với ánh sáng trắng ở dưới, Cleary giải thích cái mà mỗi khung đã chụp và nói ở nơi nào. Viên sĩ quan tình báo ghi chép cho báo cáo của anh ta, cái có thể được gắn vào với báo cáo của Cleary, kèm với các bức ảnh.

Khi họ xem đến những bức cuối cùng, viên sĩ quan tình báo hỏi:

– Gì thế này?

– Đừng có hỏi tôi, Cleary nói. Nó đến từ cái mục tiêu ở Tarmiya đấy. Anh còn nhớ không – cái mà Riyadh đã thêm vào ở phút cuối ấy?

– Phải rồi. Thế những cái này là ở bên trong nhà máy à?

Thì cứ nhìn những cái đĩa quay nhựa khổng lồ này,

Cleary đề xuất một cách tinh quái.

Đó là câu nói hóc hiểm. Viên sĩ quan tình báo đưa nó vào báo cáo của mình, đi cùng với một lời chứng nhận không phải là ý tưởng vớ vẩn như người ta đã nghĩ. Khi cái gói đã đầy, một chiếc Viking S-3 Lockheed được chuyển lên trên boong chiếc Ranger và đưa toàn bộ cái gói về Riyadh. Darren Cleary quay trở lại với các phi vụ bay chiến đấu, không bao giờ chạm trán với những chiếc MIG nổi danh, và rời khỏi vùng Vịnh cùng chiếc USS Ranger vào cuối tháng Tư năm 1991.

Wolfgang Gemuetlich ngày càng trở nên lo lắng, qua cái buổi sáng hôm đó, vào trạng thái của người thư ký riêng của mình.

Cô ta thật lịch thiệp và trang trọng như chưa bao giờ thế và có ích hết mức ông ta có thể yêu cầu – và ngài Gemuetlich đòi hỏi rất nhiều. Không phải người có sự nhạy cảm cao, thoạt tiên ông chưa nhìn thấy điều gì bất thường, nhưng chuyến đến thăm văn phòng riêng của cô ta để lấy một bức thư, ông ta quan sát có cái gì đó không bình thường ở cô.

Dĩ nhiên không có gì phải lo lắng, và rõ ràng không nhẹ dạ – ông ta có thể không bao giờ lượng thứ cho điều đó. Đó là một trạng thái tâm lý cô ta có với mình cô ta. Ở lần đến thứ ba ông ta quan sát cô cận hơn, như, đầu cúi gập trên quyển sổ, cô ghi ra lời đọc của ông ta.

Đúng là bộ đồng phục làm việc màu tối vẫn đúng chỗ, dài quá đầu gối. Tóc vẫn được cặp lại ở đằng sau thành một búi sau đầu Lần đến thứ tư ông ta nhận ra với một sự kinh hoàng rằng Edith Hardenberg đang có một bộ mặt thoa phấn. Không nhiều lắm, nhưng nhận ra được. Ông ta kiểm tra nhanh để chắc rằng không có son trên môi cô.

Có thể, ông ta lý luận, ông đã tự đánh lừa mình. Đó là tháng Giêng, trời lạnh bên ngoài có thể làm da cô trắng bệch ra; không nghi ngờ gì nữa phấn là để đỡ làm nhợt nhạt. Nhưng vẫn còn cái gì đó khác nữa.

Đôi mắt. Không có kẻ mắt – Chúa ơi, hãy đừng có kẻ mắt nhé. Ông ta kiểm tra lại, nhưng rõ là không có. Ông ta đã tự huyễn hoặc mình, ông lại tự trấn an. Vào giờ ăn trưa khi ông ta trải chiếc khăn trải bàn ra và ăn những chiếc xăng uých được chuẩn bị kỹ càng bởi bà Gemuetlich, như mọi ngày, thì lời giải đáp đã đến.

Chúng ánh lên. Đôi mắt của cô Hardenberg ánh lên. Không thể là do khí hậu mùa đông được – cô đang ở trong nhà trong suất bốn giờ đồng hồ cơ mà. Ông chủ ngân hàng để chiếc xăng uých ăn dở xuống và nhận ra ông đã nhìn thấy triệu chứng đó trong một trong số các thư ký trẻ ngay trước giờ được nghỉ làm vào thứ Sáu.

Đó là hạnh phúc. Edith Hardenberg đang thực sự hạnh phúc. Điều đó thể hiện ra, ông ta giờ đây đã nhận ra, theo cách cô ta bước đi, cách cô ta nói năng, và cách cô ta nhìn. Cô đã giống như mọi buổi sáng – rằng, có dùng phấn. Thế là đủ để làm khuấy động Wolfgang Gemuetlich rất nhiều. Ông ta hy vọng cô ta đã không tiêu tiền.

Những bức ảnh chụp chớp nhoáng do trung uý chỉ huy Darren Cleary chụp đã dược đưa đến Riyadh trong buổi chiều, một phần của một đợt những hình ảnh mới mẻ đã đến được đại bản doanh CENTAF mỗi ngày.

Một số trong số những hình ảnh đó đến từ các vệ tinh KH- 11 và KH-12 ở phía trên mặt đất, cung cấp những bức ảnh kích thước lớn, tỷ lệ cao, về cả đất nước Iraq. Nếu chúng tỏ ra không có gì khác biệt so với hôm trước đó, thì có nghĩa là đã sa lầy.

Những cái khác đến từ những phi vụ chụp ảnh bất thường bay thấp hơn so với những chiếc TR-1. Một số cho thấy các hoạt động của Iraq, quân sự hoặc công nghiệp – những hoạt động chuyển quân, các máy bay chiến đấu nếu không có ở đó trước, những máy bắn tên lửa tại các địa điểm mới. Chúng đến với cơ quan Phân tích Mục tiêu.

Những bức ảnh từ chiếc Tomcat của Ranger dành cho Bộ phận Đánh giá Thiệt hại do bom. Chúng được lọc chọn qua Barn, tập hợp những lều xanh ở bên lề một căn cứ quân sự; rồi, chúng được dán nhãn và chỉ định, rồi lên đường đến Hố Đen, nơi chúng đổ bộ xuống phòng BDA.

Đại tá Beatty bắt tay vào việc lúc bảy giờ sáng. Ông làm việc hai giờ đồng hồ nhìn vào các điểm nóng là địa điểm tên lửa (một phần đã bị phá huỷ, hai khẩu đội rõ ràng đã câm họng) và một trung tâm thông tin (bằng rub), cộng với một ma trận những lá chắn máy bay được bảo vệ mà các MIG để trong nhà của Iraq, hay những chiếc Mirage, và Sukhois được phân tán.

Khi ông xem đến khoảng một chục bức ảnh về nhà máy ở Tarmiya, ông nhăn trán, đứng lên, và đi lại quanh một chiếc bàn của một trung sĩ bay người Anh của Không lực Hoàng gia.

– Charlie, cái gì thế này?

– Tarmiya, thưa ngài. Ngài còn nhớ cái nhà máy đã bị chiếc Eagle bắn ngày hôm qua không – cái chưa hề có trong danh sách ấy?

– Ôi, phải rồi, cái nhà máy chưa bao giờ là mục tiêu ấy à?

– Chính nó đấy. Một chiếc Tomcat từ tàu Ranger đã chụp được nó ngay sau mười giờ sáng nay đấy.

Đại tá Beatty đập tay vào những bức ảnh.

– Thế cái quỷ quái gì đang diễn ra ở dưới này thế

– Không biết, thưa ngài. Chính vì thế tôi phải chuyển sang cho ngài. Không ai có thể làm rõ được.

– Tốt, cái anh chàng Eagle này chắc hẳn đã tình cờ vớ đúng đấy.

Viên đại tá người Mỹ và viên sĩ quan người Anh nhìn chằm chằm vào các bức ảnh do chiếc Tomcat chụp về từ Tarmiya. Chúng rất rõ, đủ độ phân giải. Một số từ khung camera trước và dưới ở trước mũi pod TARPS cho thấy nhà máy đổ nát khi chiếc Tomcat tiếp cận từ 15 nghìn fít; những bức khác từ camera toàn cảnh ở khoảng giữa của khu. Những người ở Barn đã rút lại chỉ lấy những cái đẹp nhất và rõ nhất.

– Nhà máy này to cỡ nào? viên đại tá hỏi.

– Khoảng chừng mườm km dài và rộng sáu km, thưa ngài.

Cái mái ngói khổng lồ đã bị lật ra, và chỉ một mảnh bị lộ nằm lên một khoảng vuông của sàn nhà của cái nhà máy Iraq .

Trong ba phần tư còn lại đã được nhìn rõ, toàn bộ bố trí của nhà máy có thể thấy rõ theo cách nhìn từ trên cao. Có những phân xưởng chia ra, và trong mỗi cái có một cái đĩa màu đen lớn nằm rất lớn trên sàn.

– Là kim loại à?

– Đúng vậy, thưa ngài, dựa theo máy quét cảm ứng. Thép hoặc là cái gì đó.

Lại càng rối rắm hơn, và lý do cho tất cả những chú ý của những người ở BDA, là phản ứng của lraq với hành động tấn công của Don Walker. Quanh cái nhà máy bị tốc mái có không chỉ một mà là đến năm chiếc cần trục cực lớn, những cánh tay của chúng chìa vào bên trong như đang truy điệu người chết. Với tất cả những thiệt hại đang có ở Iraq: những chiếc cần trục cỡ đó là của cực hiếm.

Quanh nhà máy và bên trong, một toán thợ không thể nhìn thấy được đang làm việc để gắn những chiếc dĩa vào cần máy để chuyển đi.

– Có đếm được bao nhiêu người không, Charlie?

– Hơn hai trăm người, thưa ngài.

– Thế còn những cái đĩa đó? – đại tá Beatty tư vấn báo cáo của sĩ quan tình báo của Ranger – những cái “Đĩa khổng lồ đó”?

– Không có ý kiến gì, thưa ngài. Chưa từng nhìn thấy gì giống như thế.

– Thôi được, rõ ràng nó cực kỳ quan trọng đối với ngài Saddam Hussein. Liệu Tarmiya có thể thực sự là một vùng không có mục tiêu nào không?

– Thôi được rồi, thì cho vào danh sách vậy, thưa đại tá. Nhưng liệu ông có thể xem cái này không?

Viên trung sĩ bay cầm lên một bức ảnh khác mà anh ta lấy ra từ đống hồ sơ. Viên đại tá nhìn vào chỗ anh ta chỉ.

– Dây chuyền đôi.

– Dây chuyền đôi. Còn ở đây?

Đại tá Beatty cầm lên chiếc cốc đẹp tuyệt và nhìn lại lần nữa.

– Chuỗi khai thác mỏ… những khẩu đội A… tháp canh. Anh lấy những cái này ở đâu thế, Charlie?

– Ở đây thôi. Hãy lấy một bức ảnh lớn mà xem.

Đại tá Beatty nhìn chằm chằm vào bức ảnh mới được đặt trước mặt mình, một bức chụp từ rất cao được toàn bộ Tarmiya và vùng phụ cận. Rồi ông ta thở dài.

– Chúa tôi, chúng ta đang phải đánh giá lại toàn bộ Tarmiya đây. Thế quái nào mà chúng ta lại bỏ qua nó nhỉ?

Vấn đề là, toàn bộ khu công nghiệp gồm 381 toà nhà của Tarmiya đã bị xoá ngay từ những nhà phân tích đầu tiên như là không hề có tính chất quân sự và không phải là mục tiêu với những lý do sau này sẽ trở thành một phần của những giai thoại lưu truyền ở Hố Đen.

Có người Mỹ và người Anh, và họ đều là người của NATO. Sự đào tạo của họ trong việc đánh giá các mục tiêu Xô viết, và họ nhìn theo cách Xô viết cách làm các việc. Các đầu mối họ tìm kiếm là những chỉ số chuẩn. Nếu toà nhà hay khu nhà là quân sự và quan trọng, nó là ngoài giới hạn. Nó có thể được bảo vệ không được đi qua và được bảo vệ khỏi các tấn công.

Thế liệu những tháp canh, dây chuyền, các khẩu đội A, tên lửa, dây chôn, trại lính là thế nào đây? Chúng có phải là các dấu hiệu của những xe tải nặng ra vào; chúng có phải là những đường dây năng lượng lớn hay một trạm phát điện bên trong?

Những cái đó đều có nghĩa là một mục tiêu. Tarmiya cũng không hề có những cái đó – có vẻ như thế.

Cái mà viên trung sĩ RAF đã làm, trong một lúc, là kiểm tra lại một bức ảnh có độ mở cực cao về toàn thể khu vực. Và đã có hàng rào, các khẩu đội, trại lính, những cửa được gia cố, tên lửa, những hàng rào mạnh mẽ. Nhưng còn xa hơn thế. Người Iraq chỉ đơn giản là lấy một phần đất lớn một trăm km vuông và vây lại. Không một vùng nào có thể đối với người phương Tây và thậm chí cả người Đông Âu.

Khu công nghiệp đó, gồm 381 toà nhà mà 70 trong số đó sau này sẽ bị coi là sản xuất đồ chiến tranh, nằm ở giữa khu đất vuông đó, được phân tán rộng để tránh bom đánh phá, nhưng chỉ còn 500 acre bên ngoài 10000 được bảo vệ cẩn mật.

– Những đường dây điện à? Viên đại tá hỏi. Không có gì ở đây có thể phát điện hơn một cái bàn chải đánh răng.

– Trên đây này, thưa ngài. 45 km về phía tây. Các đường dây điện chạy theo hướng ngược lại. 50 đến một độ nóng, những đường dây này là dây điện thoại. Cái dây cáp thực sự sẽ bị chôn dưới đất và chạy từ trạm năng lượng đến trung tâm Tarmiya. Đó là một trạm phát điện 150 MW, thưa ngài.

– Mẹ nó chứ, viên đại tá thở dài. Rồi ông ta đi thẳng ra và nhìn vào đống ảnh.

– Làm tốt đấy, Charlie. Tôi sẽ mang tất cả những cái này đến cho Buster Glosson. Trong lúc đó, không phải đợi ở đây ở cái nhà máy mất mái này đâu. Nếu nó là quan trọng đối với người Iraq – chúng ta sẽ cho nó tiêu tùng luôn.

– Vâng, thưa ngài. Tôi sẽ cho nó vào trong danh sách.

– Không phải trong vòng ba ngày kể từ hôm nay. Ngày mai. Cái gì thế nhỉ?

Viên trung sĩ bay đi đến một màn hình máy tính và gõ yêu câu

– Không có gì đâu. Mọi việc ổn, tất cả các đơn vị.

– Không thể làm một đội nào à?

– Không thực tế. Bởi vì về chiến dịch săn đuổi tên lửa Scud, chúng ta đã chậm rồi. Nào, tiếp tục đi, 4300 đã xuống Diego. Chúng có năng lực đấy.

– Tốt rồi, hãy đưa chúng cho Buffs.

– Nếu ngài tha lỗi tôi đã nói, viên sĩ quan bay nhận xét, với sự lịch thiệp rất trang trọng nhấn mạnh vào những cái mặt nạ không lấy gì làm hay ho. Các Buff không phải là những tay thả bom chính xác tuyệt đối đâu.

– Xem nào. Charlie, trong 24 giờ nữa những tên Iraq đó sẽ xoá sạch dấu vết. Chúng ta không có lựa chọn nào khác. Hãy đưa nó sang cho Buffs.

– Vâng, thưa ngài.

Mike Martin cẩn trọng nằm im trong toà nhà của người Xô viết thêm vài ngày nữa. Tay giúp việc người Nga và vợ ông ta rất bực bội, không ngủ được đêm vì những loạt bom và tên lửa rơi không dứt đi cùng với tiếng gầm rú của đạn phòng không Iraq to mồm nhưng chẳng mấy hiệu quả.

Họ đã rất thận trọng với cửa sổ với tất cả các tay lái bay người Mỹ hay Anh, nhưng cũng sẽ không còn gì ăn, và dạ dày Nga là một luận lý thúc đẩy. Giải pháp là gửi Mahmoud người làm vườn đi chợ trở lại.

Martin đạp xe vòng vòng quanh thành phố trong vòng ba ngày, khi anh nhìn thấy vạch phấn. Nó nằm trên bức tường phía sau của một trong những ngôi nhà của khu Khayat cổ ở Karadit-Mariam, và có nghĩa là Jericho đã gửi hàng đến hòm thư chết tương ứng.

Mặc dù có bom rơi, sự sống hàng ngày của người dân vẫn diễn ra và bắt đầu thích ứng dược. Không một lời nào thốt ra, trốn dưới những tảng đá và rồi chỉ một thành viên gia đình không thể phản bội nói với người của AMAM, sự nhận ra đã ám ảnh tầng lớp lao động rằng “Con của Chó” và “Con của Naji” có vẻ như đã có vẻ đánh trúng dược cái muốn đánh và để phần còn lại được yên.

Sau 5 ngày Cung điện Tổng thống trở thành một đống bùng nhùng. Bộ Quốc phòng không còn tồn tại, cũng chẳng còn trao đối điện thoại hay những trạm phát điện chính. Thậm chí còn kinh hơn, tất cả 9 cây cầu giờ đây đã trang hoàng cho đáy dòng Tigris, nhưng một loạt những nhà doanh nghiệp đã dựng ngay dịch vụ phà qua sông, rộng đủ để chớ cả xe tải và xe hơi, một số còn mang được chục hành khách và xe đạp của họ, với chỉ vài mảnh ghép lại.

Phần lớn các toà nhà chính vẫn còn chưa bị động đến. Khách sạn Rashid ở Karch vẫn đầy dân báo chí nước ngoài, thậm chí dù cho Rais chắc hẳn đã xuống trú chân ở dưới đó. Còn tồi tệ hơn thế, đại bản doanh của AMAM, một khu những toà nhà liên kết với nhau với vẻ ngoài tồi tàn và bên trong tối tân trong một khu phố chắc chắn gần Qasr-el-Abyad ở Risafa, vẫn còn yên lành. Bên dưới hai ngôi nhà trong số đó là Nhà tập, không bao giờ được nêu tên chỉ trừ khi thầm thì, là Omar Khatib Đồ tể đang khai thác người bị bắt.

Qua sông đến Mansour, toà nhà văn phòng lớn đơn độc tạo thành đại bản doanh của Mukhabarat, cả nước ngoài và Phản gián, vẫn chưa bị tìm ra.

Mike Martin xem xét vấn đề của phấn đánh dấu khi anh đạp xe về toà biệt thự Xô viết. Anh biết những mệnh lệnh với mình đều là chính thức – không có cách tiếp cận nào. Anh liệu đã từng là một nhà ngoại giao người Chile tên là Benz Moncada thì anh có thể nghe theo lời chỉ dẫn đó, và luôn đúng. Nhưng Moncada đã không được huấn luyện để nằm bất động, nếu là cần thiết trong một số ngày, trong một trạm quan sát đơn lẻ và nhìn ngó cảnh vật xung quanh cho đến khi những con chim đến làm tổ trên mũ anh ta.

Đêm hôm đó, đi bộ, Martin lại đi qua sông đến Rifasa khi các máy bay chiến đấu đã bắt đầu và đi đến chợ rau quả ở Kasra. Có những khuôn mặt hai bên đường đây đó, đang ngả về phía trước như những ngôi nhà bình thường có thể thoát khỏi một tên lửa tự hành Tomahawk và anh đã chỉ là một trong sốchúng. Quan trọng hơn, sự đánh bạc của anh coi các đội tuần tra của AMAM chẳng ra gì: chúng không có khiếu đánh hơi đối với những phố rộng với người Mỹ ở trên đầu.

Anh tìm thấy điểm quan sát của mình trên mái của một nhà kho hoa quả, từ lề của nó anh có thể nhìn ngó con phố, bức tường của chợ rau quả. Và gạch và cái cán cờ đánh dấu chỗ hòm thư. Trong tám tiếng đồng hồ, từ tám giờ tối đến bốn giờ sáng hôm sau, anh chỉ nằm và nhìn.

Nếu hòm thư đã lộ, AMAM không thể sử dụng dưới 20 người. Lúc nào đó sẽ có gì đó như một tiếng giày trên đá, một tiếng ho, một cử động nào đó, một ánh diêm, một điếu thuốc cháy, giọng ra lệnh bằng cổ họng đê buộc tất cả trật tự; nhất định phải có cái gì đó. Anh chỉ đơn giản là không tin người của Khatib hay Rahmani có thể bất động và im lặng trong suốt tám tiếng đồng hồ.

Ngay trước bốn giờ sáng, trận ném bom kết thúc. Không có ánh sáng nào trong chợ phía dưới. Anh kiểm tra lại lần nữa xem có máy camera nào trên một cái cửa sổ cao nào không, nhưng trong khu đó không hề có cái cửa sổ ở trên cao nào. Lúc bốn giờ 10 phút anh trườn khỏi mái nhà, đi ngang qua đường, trong cái dish-dash màu ghi sẫm di chuyển trong bóng tối, tìm thấy viên gạch, lấy đi bức thông điệp: và đi.

Anh vượt tường khu nhà của Bí thư thứ nhất Kulikov ngay trước bình minh và đã nằm gọn trong túi ngũ của mình trước khi bất kỳ ai có thể tỉnh giấc.

Thông điệp từ Jericho rất ngắn gọn: Anh ta không nghe ngóng dược gì từ chín ngày nay. Anh ta đã không nhìn thấy phấn đánh dấu. Kể từ lần gửi thông điệp cuối cùng đến giờ không có liên lạc nào hết. Không hề có tiền công chuyển vào trong tài khoản ngân hàng của anh ta. Liệu thông điệp của anh ta có sao không; anh ta biết điều đó bởi vì anh ta đã kiểm tra. Có gì sai trái chăng?

Martin không chuyển thông điệp này đến Riyadh. Anh biết anh không nên làm trái mệnh lệnh, nhưng anh tin là anh, chứ không phải Paxman, là người đang ở chốt và anh có quyền có quyết định nào đó cho bản thân mình. Anh đã liều thân đêm nay để cho một cái đã tính toán trước; anh đã sử dụng những kỹ năng của mình chống lại người mà anh biết là thấp hơn trong một trò chơi nguy hiểm. Liệu còn có cái gì đó che giấu con đường dưới sự kiểm soát, anh có thể tiêu khi anh ta đến, và không ai có thể nhìn thấy anh ta.

Có thể là Paxman đã đúng và rằng Jericho đã hỏng. Cũng có khả năng Jericho chỉ đơn giản đã gửi tin đi vì đúng là anh ta đã nghe Saddam Hussein nói vậy. Điểm rắc rối là hai triệu đôla mà CIA từ chối trả. Martin tự viết câu trả lời. Anh nói là đã có một số vấn đề bởi sự bắt đầu cuộc không kích nhưng một chút kiên nhẫn nữa cũng chẳng có hại gì. Anh nói Jericho rằng thông điệp trước của anh ta đã được lấy và đã được chuyển đi, nhưng rằng anh ta, Jencho, cũng phải hiểu một triệu đôla là một số tiền rất lớn và rằng thông tin còn cần được kiểm tra lại nữa. Việc đó có thể phải mất chút thời gian. Jericho nên bình tĩnh trong khoảng thời gian rối tinh này và chờ đợi khi có dấu phấn đánh dấu sau báo hiệu cho anh ta mọi việc lại đã đâu vào đấy

Trong ngày Martin để lại bức thông điệp vào sau viên gạch trên tường gần chỗ của thành cổ Aadhamiya, và trong bụi anh viết phấn lên bề mặt đỏ quạch của cái cửa gara ôtô ở Yarmuk.

24 giờ sau, dấu phấn lại xuất hiện. Mỗi đêm Martin đều mở máy hướng về Riyadh nhưng không gì đến cả. Anh biết các mệnh lệnh bảo mình trốn khỏi Baghdad và rằng những người quản lý anh có khả năng đang chờ anh vượt biên giới. Anh quyết định đợi thêm một thời gian nữa.

Diego Garcia không phải một trong những địa điểm du lịch được ưa thích nhất trên thế giới. Nó chỉ là một hòn đảo nhỏ. còn nhỏ hơn một đám san hô, ở tận cùng quần đảo Chagos ở phía nam Ấn Độ Dương. Đã từng là lãnh thổ thuộc Anh, đã nhiều năm nay nó được chuyển sang cho Mỹ thuê.

Mặc dù sự trơ trọi của mình, trong chiến tranh vùng Vịnh nó đã đóng vai trò chủ nhà cho đội ném bom số 4300 cực nhanh của USAF, là những pháo đài bay B-52. B-52 không nghi ngờ gì nữa là ông anh già cả nhất trong cuộc chiến, đã phục vụ từ hơn 30 năm nay. Với nhiều cái trong đó đã từng là xương sống của Chỉ huy Bay Chiến dịch, đóng trụ sở ở Omaha, Nebraska, đấu sĩ bò tót bay đã vòng quanh vương quốc Xô viết ngày và đêm mang theo những khí cụ chiến tranh.

B-52 có thể là già nua, nhưng vẫn là loại máy bay ném bom gây khiếp sợ, và trong chiến tranh vùng Vịnh phiên bản G đã nâng cấp được sử dụng để tạo nên hiệu ứng phá huỷ trong những đội thọc sâu của Iraq có tên là Vệ binh Cộng hoà trong các sa mạc ở nam Kuwait. Nếu điều quan trọng của Quân đội Iraq là những boong ke và với những cánh quân nổi lên tại vùng đất của Liên quân để phản công, thì nó là một phần vì quan trọng của nó được rải ra và tinh thần bị bẻ gãy bởi những chiếc B-52 bay lượn vòng quanh.

Chỉ có 80 chiếc máy bay ném bom loại này trong cuộc chiến, nhưng trọng tải cực lớn của nó và số lượng bom chở được rất nhiều đã đổ xuống 26.000 tấn bom theo lệnh, 40% số bom được ném xuống trong toàn cuộc chiến.

Chúng rất lớn trên mặt đất, sải cánh của chúng, đến tám động cơ Pratt và Whitney J-57 trong bốn cụm, mỗi cụm mang hai chiếc, đổ xuống mặt đất. Khi cất cánh với trọng lượng tối đa. các cánh nâng lên trước, như thể trượt lên trên cái đồi lớn như một con mòng biển. Chỉ trong khi bay chúng mới dựng thẳng lên theo đúng chiều của mình.

Một trong các nguyên nhân chúng tạo ra nỗi kinh hoàng lớn đến vậy cho Vệ binh Cộng hoà trong sa mạc là vì chúng bay ngoài tầm kiểm soát về hình ảnh cũng như âm thanh, cao đến nỗi bom của chúng rơi xuống không hề được báo trước và là điều đáng sợ nhất. Nhưng nếu chúng là những máy bay rải thảm cực tốt, thì độ chính xác trong thả bom lại không phải là điểm mạnh, như viên trung sĩ bay đã chỉ ra.

Vào buổi bình minh ngày 22 tháng Giêng, ba chiếc Buff trượt lên khỏi Diego Garcia và hướng về Arập Xêut. Mỗi chiếc đều chở theo trọng tải tối đa, 51 bom mỗi quả 750 pound để được thả xuống từ độ cao 35.000 fít. 27 quả bom được chứa ở bên trong, phần còn lại được ở dưới cánh.

Ba máy bay ném bom này tạo nên một đội bay cho các chiến dịch Buff, và đội bay của chúng trông chờ một ngày đi câu, đi bơi, và chơi bời trong vùng đất nhiệt đới. Không nghi ngờ gì, họ đi một chuyến đến cái nhà máy xa xôi mà họ chưa từng nhìn thấy và cũng sẽ không bao giờ nhìn thấy được.

Pháo đài bay B-52 được gọi là Buff bởi vì nó được vẽ bằng một nét màu nâu sẫm. Từ đó không phải là một phái sinh của hai âm tiết của số của nó – B-52. Nó được coi là tên cưỡng dâm béo xấu xa to lớn. Cho nên các Buff đang bay về phía bắc, đi tìm Tarmiya, mang theo hình ảnh của cái nhà máy đã bị định vị, và thả xuống 153 quả bom. Rồi chúng trở về nhà ở quần đảo Chagos.

Vào buổi sáng ngày 23, vào giờ London và Washington bắt đầu đòi hỏi có thêm hình ảnh về những chiếc đĩa bí ẩn đó, một nhiệm vụ BDA hơn nữa được định ra, nhưng lúc này máy điện thoại đã được chở đến bởi một chiếc Phantom được bay bởi Đội Vệ binh Không quân Quốc gia bên ngoài căn cứ Sheikh Isa ở Bahrain, về địa điểm được biết là bánh Pizza của Shakey.

Trong một buổi nghỉ đáng chú ý theo truyền thống, những chiếc Buff đã thực sự đạt đến được mục tiêu. Khi nhà máy với những cái đĩa lớn đã trở thành một hố sâu hoắm, Washington và London đã buộc phải thoả mãn với hơn chục bức ảnh có được từ trung uý chỉ huy Darren Cleary.

Các nhà phân tích giỏi nhất của Hố Đen đã xem các bức ảnh, nhún vai vì sự không biết gì của mình, và gửi chúng lên thượng cấp tại hai thủ đô lớn.

Các ảnh sao ngay lập tức đến được JARIC, trung tâm phân tích ảnh của Anh, và Ở Washington tại ENPIC. Những người từng đến đó, toà nhà gạch vuông vắn tại một góc của thủ đô Washington, có thể không thích ở lại cái ở trong. Chỉ một đầu mối trung tâm Phân tích ảnh Quốc gia để lộ từ khu nhà có lắp đặt điều hoà nhiệt độ bên trong, giữ nhiệt độ được kiểm soát với một cái pin cực lớn của những siêu máy tính mạnh nhất của Mỹ. Phần còn lại, những cửa sổ chống bụi và mưa, cánh cửa nặng nề, và bụi bay từ phố bên ngoài có thể gợi ý đó là một nhà kho chẳng lấy gì làm sang trọng.

Nhưng ở đây có những hình ảnh do các vệ tinh đưa về; có những nhà phân tích làm việc để nói cho những người ở Văn phòng Tình báo Quốc gia và Lầu Năm Góc và CIA chính xác những “con chim” đắt đỏ đã bị trông thấy. Họ rất giỏi, các chuyên gia này, luôn có được những công nghệ mới nhất, rất trẻ, thông minh, và đầy trí tuệ. Nhưng họ không bao giờ được nhìn thấy những cái đĩa như ở Tarmiya. Cho nên họ đóng hồ sơ những bức ảnh lại và nói như thế.

Các chuyên gia ở Lầu Năm Góc tại Washington và ở Bộ Quốc phòng ở London, những người chỉ biết về vũ khí thực sự từ chỗ của mình, kiểm tra các bức ảnh, lắc đầu, và đặt chúng xuống.

Trong trường hợp họ có điều gì đó để làm việc với các vũ khí huỷ diệt hàng loạt, chúng được đưa đến cho các nhà khoa học ở Sandia, Los Alamos, và Lawrence Livermore ở Mỹ và ở Porton Down, Harwell, và

Aldermaston ở Anh. Kết quả hoàn toàn giống nhau.

Lời đề xuất tốt nhất là rằng các đĩa là một phần của những máy chuyển điện dành cho một trạm phát điện mới của Iraq. Đó là lời giải thích buộc phải đi đến, khi yêu cầu những bức ảnh nhiều hơn nữa từ Riyadh đã được đáp ứng với các tin tức rằng nhà máy Tarmiya đã thực sự không còn tồn tại nữa.

Đó là một lời giải thích rất hay, nhưng đã thất bại không làm sáng tỏ được một vấn đề: Tại sao trong bức ảnh chính quyền Iraq lại cố gắng một cách tuyệt vọng để cứu thoát chúng?

Tối ngày 24 Simon Paxman, từ một trạm điện thoại gọi cho tiến sĩ Terry Martin tại căn hộ của anh.

– Muốn đi ăn đồ Ấn tối nay nữa không? anh ta hỏi.

– Tối nay thì không được đâu, Martin nói. Tôi đang đóng gói đồ đạc.

Anh không nói là Hilary đã về, và anh cũng muốn có một tối với cô bạn mình.

– Anh sẽ đi đâu nào? Paxman hỏi.

– Mỹ, Martin nói. Một lời mời đi dạy về Abassid Caliphate.Khá là đáng nể, thật đấy. Họ có vẻ thích nghiên cứu của tôi về hệ thống của caliph thứ ba. Xin lỗi nhé.

– Chỉ có điều là có cái gì đó đã đến từ phía nam. Một câu đố nữa mà không ai có thể giải thích được. Nhưng không phải về các khía cạnh ngôn ngữ Arập đâu, mà là kỹ thuật cơ. Vẫn…

– Cái gì thế hả?

– Một bức ảnh. Tôi đang cố hiểu một bức ảnh.

Martin do dự.

– Một cọng rơm nữa trong cơn gió à ?. Anh hỏi. Thôi được rồi. cùng cửa hàng đó nhé. Tám giờ.

– Dĩ nhiên là được, Paxman nói. Chỉ là một cọng rơm thôi.

Anh không biết là cái anh sắp sửa tiếp cận được một thứ thật là quan trọng.

Bình luận